Sự kiện ‘’Loạn Y Lê’’ của người Duy Ngô Nhĩ năm 1944 ở Tân Cương

Cộng hòa Đông Turkestan

Quân đội và chính phủ Cộng hòa Đông Turkestan đệ Nhị ở Tân Cương năm 1944

Đăng Phạm

Năm 1944, quân đội Quốc Dân Đảng Trung Hoa của Tưởng Giới Thạch có 2 mặt trận lớn trong Thế chiến 2. Một là cuộc tiến công lớn của Nhật nửa sau năm 1944, nhằm vào các tỉnh miền Nam Trung Quốc. Mặt trận này quân Quốc Dân Đảng thua thảm trên sân nhà, bị Nhật đánh tơi tả, và họ trở thành lực lượng Đồng Minh lớn nhất chưa giành được lợi thế vào năm 1944.  Mặt trận lớn thứ hai mà quân Tưởng tham chiến là mặt trận Miến Điện. Ở mặt trận này,  quân Quốc Dân Đảng gửi một lực lượng lớn quân, cùng Anh- Mỹ- Ấn Độ giải phóng Miến Điện, góp phần đẩy lùi sâu quân Nhật trên Đông Nam Á lục địa.

Tuy nhiên, ít ai biết rằng, Tưởng Giới Thạch còn có một mặt trận khác vào năm 1944 mà bản thân ông rất coi trọng: thu hồi Tân Cương.  Sự chú tâm của Tưởng với Tân Cương từng được minh chứng qua việc ông từng phớt lờ tin tình báo của Pháp và Mỹ về việc quân Nhật định tiến công miền Nam Trung Quốc. Thay vào đó, Tưởng lại cho quân đội hành quân lên Tân Cương, bỏ trống nhiều mặt trận ở phía Nam, kết quả là bị Nhật đánh thua nặng nề. Mặt trận Tân Cương này được ít người nói tới, do nhu cầu giữ sự đoàn kết trong khối Đồng Minh, và bản thân nó cũng không ảnh hưởng nhiều đến thế chiến 2. Tuy nhiên với riêng lịch sử Trung Quốc, các sự kiện ở Tân Cương năm 1944 có ý nghĩa lịch sử vô cùng lớn, quyết định các sự kiện lịch sử sau đó ở khu vực này. Ví dụ, theo quan điểm phổ biến hiện nay ở Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, ‘’loạn Y Lê’’ năm 1944 ở Tân Cương là sự kiện ‘’’tạo tiền đề lớn nhất để Quân Giải Phóng sau năm 1949 vào tiếp quản Tân Cương không đổ máu, cơ sở vững chắc để Tân Cương thống nhất lâu dài vào lãnh thổ Trung Hoa’’. Bài viết này tổng hợp những tư liệu để khái quát những nét cơ bản về sự kiện này và ảnh hưởng của nó tới lịch sử Trung Quốc cũng như khu vực Trung Á.

1/ Bối cảnh lịch sử.

*Ảnh hưởng của Nga và Liên Xô lên khu vực Tân Cương.

Ngay từ thời nhà Thanh, Đế quốc Nga đã có những động thái mở rộng ảnh hưởng của mình vào Tân Cương, tách vùng này khỏi ảnh hưởng của Trung Hoa. Năm 1871, quân Nga đã đưa quân chiếm đóng đến khu vực thung lũng Y Lê (hay Ili) màu mỡ ở phía Bắc Tân Cương. Quân Nga chiếm Y Lê 10 năm, thiết lập chính quyền quy củ nhưng chỉ được 10 năm thì tướng nhà Thanh Tả Tông Đường dẫn quân Tây Chinh, thu phục lại đất Tân Cương cho Thanh Đế. Từ đó cho đến khi nhà Thanh diệt, Tân Cương luôn nằm trong kiểm soát của Trung Quốc.

Tuy nhiên, tiếp nối sau đó là một thời kỳ quân phiệt đầy hỗn loạn của Trung Quốc. Chính quyền trung ương gần như tê liệt, khắp các địa phương quân phiệt nổi lên chiếm giữ mỗi người một cõi, xâu xé đất nước Trung Hoa. Lợi dụng tình hình hỗn loạn đó, quân đội Nga và sau đó là Liên Xô đã tái xâm nhập Tân Cương, mở rộng ảnh hưởng. Vào thời kỳ đó, Nga đã chinh phục xong vùng Trung Á, một phần trong đó họ gọi với cái tên ‘’Turkestan’’ (vùng đất các dân tộc Turk). Và để hợp thức hóa việc xâm nhập Tân Cương, người Nga gọi vùng này là ‘’Đông Turkestan’’ – cái tên đến tận ngày nay vẫn được người Tân Cương ủng hộ độc lập sử dụng.

2

Tả Tông Đường – tướng Nhà Thanh tây chinh thu phục Tân Cương cho Thanh Đế

3

Bản đồ các cuộc Tây Chinh của Tả Tông Đường ở Tân Cương. Lưu ý vùng màu xanh là vùng có quân Nga chiếm đóng.

Từ năm 1912 đến 1930, Nga và Liên Xô đã liên tục dựng lên các lãnh chúa người Hán làm tay sai cai quản Tân Cương. Bắt đầu là Dương Tăng Tân, rồi đến Kim Thụ Nhân. Tuy nhiên, thời kỳ Kim Thụ Nhân là thời kỳ dân Tân Cương chịu bóc lột nặng nề. Đặc biệt, các dân tộc thiểu số Tân Cương: Hồi, Duy Ngô Nhĩ, Kazakh, Kyrgyz,… bị bóc lột thậm tệ, thuế gấp đôi người Hán, thường xuyên bị đàn áp, hà hiếp bởi quan lại người Hán. Trước tình cảnh đó, năm 1931 các dân tộc thiểu số Tân Cương đồng loạt nổi dậy chống lại người Hán. Trong các cuộc nổi dậy đó, ở vùng Tây Nam Tân Cương một nhóm người Duy Ngô Nhĩ tuyên bố thành lập ‘’Cộng hòa Đông Turkestan đệ Nhất’’, trở thành ngọn cờ tiên phong độc lập cho người Duy Ngô Nhĩ. Tuy nhiên, cuộc nổi dậy của các dân tộc Tân Cương bị cả Liên Xô và chính quyền Quốc Dân Đảng đàn áp và đến năm 1933 ‘’Cộng hòa Đông Turkestan đệ Nhất’’ bị sụp đổ.

Sau khi dẹp được nổi loạn, Liên Xô dựng lên một lãnh chúa khác là Thịnh Thế Tài, một tướng được đánh giá là có tài của Quốc Dân Đảng, nhưng theo phe cánh tả, có cảm tình với Cộng sản (thực tế thì Thịnh Thế Tài vừa là tướng Quốc Dân Đảng vừa là Đảng viên Đảng Cộng sản Liên Xô). Từ đó, ảnh hưởng của Liên Xô tăng lên tầm cao mới. Thịnh sao chép mô hình chính quyền Xô Viết của Liên Xô, phát hành tiền giấy riêng dùng chung với đồng Rube Liên Xô, đưa kỹ sư, nhân viên Liên Xô vào Tân Cương làm việc. Thậm chí mọi việc làm của Thịnh đều phải tham vấn một viên cố vấn Liên Xô đại diện cho Stalin ở Y Lê. Cùng với đó, Liên Xô đã hết lòng bảo vệ Thịnh Thế Tài. Trong hai năm 1933-1934, các toán quân người Hồi ở Cam Túc trung thành với Quốc Dân Đảng đã 4 lần tấn công Tân Cương, định thu hồi Tân Cương cho Trung Quốc. Cả 4 lần đó Thịnh Thế Tài đều thua bỏ chạy, nhưng sau cùng đều được quân Bạch vệ Nga lẫn Hồng quân Liên Xô mang quân vào giúp. Lớn nhất vào năm 1934, 7.000 quân Liên Xô đã vào Tân Cương để chặn quân của tướng người Hồi Mã Trọng Anh đánh Thịnh Thế Tài. Hàng nghìn binh sĩ Liên Xô đã thương vong trong trận chiến năm 1934, nhưng đã bảo vệ vững chắc vị thế của Thịnh Thế Tài – nghĩa là giữ vững Tân Cương làm quốc gia vệ tinh của Liên Xô.

3

Thịnh Thế Tài – lãnh chúa người Hán tay sai của Liên Xô ở Tân Cương

4

Các lãnh đạo Cộng hòa Đông Turkestan đệ Nhất năm 1933, trước khi bị Liên Xô đàn áp

*Vấn đề nhân khẩu học Tân Cương năm 1944

Nhân khẩu vùng Tân Cương vốn chịu nhiều tác động từ lịch sử. Như dưới thời nhà Thanh, triều đình Mãn Thanh từng diệt chủng Hãn Quốc Chuẩn Cát Nhĩ tại khu vực này. Sang thời hiện đại, tác động của lịch sử lên nhân khẩu học Tân Cương vẫn tiếp tục.

Đầu tiên, đông nhất ở Tân Cương năm 1944 là người Duy Ngô Nhĩ – lúc đó khoảng 3 triệu người. Tuy nhiên, người Duy Ngô Nhĩ lại sống không đồng đều. Đại đa số họ tập trung sống trong vùng bồn địa Tarim. Còn lại ở các thành phố lớn của Tân Cương, người Duy Ngô Nhĩ hầu như vắng bóng hoặc chiếm không nhiều. Các thành phố đó, thường là thành phố thương mại của người Hán trên con đường tơ lụa xưa. Có thể kể đến như Dihua (nay là Urumqi – thủ phủ khu tự trị Tân Cương), Y Ninh (Yining), Tháp Thành (Tacheng), Hòa Điền (Hetian), Xương Cát (Changji), Thạch Hà Tử (Shihezi),… Tuy chiếm hầu hết các thành phố lớn ở Tân Cương, dân số người Hán ở đây lại khá thấp, hầu như chỉ thường trực khoảng 100.000 người. Điều này thể hiện quá trình Hán hóa yếu ở Tân Cương, và người Hán ở Tân Cương chính xác được coi là một dân tộc ‘’thiểu số’’.

5

Người Duy Ngô Nhĩ trong sa mạc năm 1910. Người ở giữa ôm chú chó là nhà thám hiểm người Hungary – Aurel Stein.

6

Bản đồ các thành phố chính của vùng Tân Cương (dùng bản đồ hiện đại)

Có một sắc dân quan trọng khác là Kazakh. Người Kazakh ở Tân Cương đông hơn người Hán, hơn 300.000 người. Tuy nhiên, vấn đề lưu tâm ở đây là phần lớn dân Kazakh ở Tân Cương là do di cư từ Liên Xô. Số là năm 1930, ở khu vực Kazakhstan bên trong Liên Xô tiến hành tập thể hóa nông nghiệp phạm nhiều sai lầm. Những sai lầm đó dẫn đến nạn đói khủng khiếp, quét sạch gần một nửa dân số Kazakhstan (ước tính từ 1 triệu đến 1,75 triệu người Kazakh chết đói, tức từ 30% đến 42% dân số Kazakh bản địa). Cùng với đó, hàng trăm nghìn người Kazakh đã phải bỏ xứ đi tìm cái ăn. Con đường thuận lợi nhất cho họ là qua Tân Cương, Trung Quốc. Vốn dĩ người Kazakh cũng là một sắc dân bản địa ở Tân Cương. Tuy nhiên, cuộc đại di cư của gần 200.000 người Kazakh vào Tân Cương năm 1930s thực sự là một sự gia tăng đột biến. Và một điều cần chú ý nữa, là khi vào Tân Cương với dân số đông, nhiều người Kazakh đã hình thành các nhóm cướp vũ trang. Các nhóm cướp này có ảnh hưởng rất lớn tới lịch sử Tân Cương thời đó (điều này có thể tìm đọc ở bài viết khác). Ở Tân Cương, người Kazakh sống định cư thường tập trung vào 2 khu vực: một là vùng thung lũng Y Lê (Y Lê hiện nay là châu tự trị dân tộc Kazakh trong phân cấp hành chính của CHND Trung Hoa), và hai là vùng đồng cỏ Altai rộng lớn ở phía Bắc (vùng này do các nhóm cướp Kazakh độc chiếm).

Một sắc dân khác là người Hồi. Người Hồi có đất riêng của họ (các tỉnh Cam Túc, Thanh Hải,…) nhưng cũng sống ở vùng rìa phía Đông Tân Cương. Nhưng trong nhiều năm người Hồi liên tục đánh vào Tân Cương, cướp phá các dân tộc khác, nên thường bị người Duy Ngô Nhĩ thù ghét dù cùng theo đạo Hồi. Người Hồi cũng nổi tiếng là trung thành với người Hán, từ trong lịch sử các đạo quân Hồi đã thường xuyên theo người Hán, Mãn chinh phạt Tân Cương. Giống như người Hán, người Hồi ở Tân Cương sống chủ yếu trong các đô thị. Thường thì nơi nào có người Hán thì sẽ có người Hồi. Hai sắc dân này nếu không dựa vào trang phục thì rất khó phân biệt.

Một số dân tộc khác như Kyrgyz ,Tajik, Uzbek,Mông Cổ…cũng là các sắc dân quan trọng của Tân Cương. Người Kyrgyz đông ngang ngửa người Hán, sống du mục tương tự người Kazakh và đôi khi đánh nhau với người Kazakh để giành đồng cỏ chăn nuôi. Người Tajik thì sống ở phía Nam Tân Cương, cheo leo trên dãy Thiên Sơn, hạn chế đối đầu các dân khác,… Người Mông Cổ sống trên các thảo nguyên rộng lớn, nhưng đôi khi bị người Kazakh cướp đất.

Cuối cùng, một thành phần dân tộc tuy không đông nhưng không được bỏ qua: Nga. Người Nga ở Tân Cương năm 1940 khoảng 3 vạn. Đây không chỉ là nhân viên, quân nhân Liên Xô đóng ở Tân Cương, mà quan trọng hơn nhiều là gia đình quân Bạch vệ thua trận trong Nội chiến Nga những năm 20s. Chính quyền Liên Xô đã chọn cách không tận diệt quân Bạch vệ, mà cho họ định cư ở Tân Cương, đổi lại họ phải ngừng chống phá Liên Xô, và còn phải phục vụ lợi ích cho Liên Xô ở đây. Các gia đình Bạch vệ này sống tập trung ở vùng thung lũng Y Lê, kiếm ăn bằng nghề đánh thuê cho các lãnh chúa người Hán. Đôi khi, những nhóm quân này cũng tham chiến cùng Hồng quân Liên Xô mỗi khi Liên Xô động binh. Đặc biệt, rất nhiều tướng quân Bạch Vệ sau này đã được Cộng hòa nhân dân Trung Hoa trọng dụng.

7

Công chúa Mông Cổ Palta thăm Tân Cương năm 1931. Người Mông Cổ từng được tự do đi qua lại giữa Mông Cổ và Tân Cương

8

Tướng Fyodor Ivanovich Leskin của quân Bạch Vệ Nga ở Tân Cương – sau này làm tư lệnh Quân Đoàn 5 quân giải phóng Nhân dân Trung Hoa.

*Thịnh Thế Tài trở cờ và Quốc Dân Đảng tiếp quản Tân Cương.

Thịnh Thế Tài trung thành với Tân Cương nhưng chỉ đến năm 1942. Khi đó, thấy Liên Xô bị Đức lấn át ở mặt trận châu Âu, Thịnh nghĩ rằng Liên Xô sắp tàn nên đã nghĩ cách trở cờ về với Quốc Dân Đảng. Thịnh Thế Tài ngoài mặt vẫn tỏ ra phục tùng Stalin, cung cấp tài sản cho Liên Xô đánh Đức, nhưng bên trong ngấm ngầm liên hệ với Quốc Dân Đảng. Đặc biệt, từ năm 1943 Thịnh tiến hành khủng bố những người Cộng sản Trung Quốc trước đó vốn tin tưởng lánh nạn ở Tân Cương. Một trong những người Cộng sản bị giết là Mao Trạch Dân, em trai Mao Trạch Đông, bị giết năm 1943.

Sang đến năm 1944, Liên Xô đã lật ngược thế cờ, đẩy lùi quân Đức. Lúc này Thịnh Thế Tài biết đã chọn sai đường. Hắn buộc phải kêu gọi quân Quốc Dân Đảng vào Tân Cương nhanh chóng trước khi Liên Xô quay lại. Đầu năm 1944, Tưởng Giới Thạch lúc này đang ở Vũ Hán bất ngờ nhận được thư của Thịnh Thế Tài thỉnh Tưởng nhanh chóng xuất quân lên ‘’tiếp quản Tân Cương’’. Tưởng Giới Thạch như vớ được vàng. Trước kia năm lần bảy lượt đánh Tân Cương để thu hồi đều bị Liên Xô đánh lùi, nay lại được ‘’mời’’ vào Tân Cương không tốn viên đạn làm Tưởng gần như quên việc quan trọng nhất lúc bấy giờ: chống Nhật. Giữa năm 1944, Tưởng cho 30 vạn quân Quốc Dân Đảng ở các tỉnh miền Nam như Tứ Xuyên, Hồ Nam, Quý Châu, Quảng Tây,… hành quân lên Tân Cương. Chính đợt điều quân này làm các tỉnh miền Nam Trung Quốc bị hao hụt lực lượng nghiêm trọng. Tuy vậy, việc tiếp quản Tân Cương diễn ra rất dễ dàng. Dân chúng Tân Cương không chống đối quân Quốc Dân Đảng. Quốc Quân tiến vào đã ngay lập tức thực hiện việc xây dựng lại bộ máy chính quyền, thay đổi hệ thống chính quyền Xô Viết cũ bằng hệ thống của họ. Nhưng những hành động này thực hiện vội vã, thiếu chuẩn bị, trong khi tình hình kinh tế – xã hội Tân Cương lúc đó chưa ổn định, tiền Rube Liên Xô lưu hành chung với tiền tệ của Quốc Dân Đảng, khiến việc quản lý của chính quyền Quốc Dân Đảng ở Tân Cương bị bối rối, hỗn loạn,… Họ chỉ thiết lập được chính quyền ở Dihua và một số thành phố lớn khác, trong khi các vùng còn lại các chính quyền Xô Viết địa phương vẫn không bị ảnh hưởng.

9

Một lớp học chính trị của Quốc Dân Đảng ở Tân Cương. Hai lá cờ trên bục là cờ của Trung Hoa Dân Quốc và cờ Tân Cương do Thịnh Thế Tài dựng nên.

Bản thân Thịnh Thế Tài, lúc này không còn được trọng dụng nữa, tìm kế chuồn. Cuối năm 1944  hắn được chính quyền Tưởng Giới Thạch điều về đại lục làm chức Bộ trưởng Nông Nghiệp. Lý do làm vậy là Tưởng Giới Thạch muốn yên lòng dân Tân Cương. Trong suốt gần 20 năm nắm quyền ở Tân Cương, Thịnh Thế Tài và gia đình của y nổi tiếng tham tàn bạo ngược, ra sức vơ vét của cải dân chúng Dihua, dựa thế Liên Xô đàn áp các dân tộc khác,… Ngày Thịnh và gia đình cuốn gói rời Dihua, người ta kể lại rằng có hơn 200 xe tải và 3000 con lạc đà được dùng để trở tài sản của Thịnh khỏi Tân Cương, để thấy sự vơ vét khủng khiếp mà gia đình y làm với người dân Tân Cương. Các nhà báo phương Tây còn ghi lại, sau khi Thịnh Thế Tài dọn đi, dân chúng Dihua đã đổ ra đường ăn mừng suốt ngày đêm không nghỉ.

*Chiến dịch tấn công của Nhật năm 1944.

Khi Tưởng Giới Thạch xuất quân lên tiếp quản Tân Cương, cũng là lúc tình báo Pháp và Mỹ cảnh báo Tưởng về khả năng quân Nhật mở một cuộc tiến công miền Nam Trung Quốc. Lúc đó họ vẫn chưa biết mục đích thực sự của quân Nhật là gì. Kể từ khi mở mặt trận ở Thái Bình Dương và Đông Nam Á, quân Nhật ở mặt trận Trung Quốc đã không tiến hành chiến dịch quân sự lớn nào. Thay vào đó, quân Nhật chiếm đóng các vùng lãnh thổ miền Bắc Trung Hoa tập trung vào khai thác các tài nguyên nội địa và hỗ trợ xây dựng chính quyền tay sai của Uông Tinh Vệ. Trong thời gian đó, quân Nhật cũng mở một số cuộc tấn công miền Nam Trung Hoa, nổi bật trong số đó là 3 lần tấn công Trường Sa trong các năm 1939, 1941 và 1942. Cả 3 lần này quân Tưởng đều đẩy lùi Nhật, khiến Tưởng Giới Thạch sinh ra chủ quan, tự mãn. Chính vì vậy, khi nghe tin Nhật có kế hoạch tấn công Nam Trung Hoa lần nữa, Tưởng đã phớt lờ, cho rằng đó chỉ là tin đồn của Nhật để gây hoang mang trong bối cảnh Nhật thua trận trên nhiều mặt trận. Do đó, Tưởng đã không tập trung tăng cường phòng ngự, mà ngược lại còn xuất 30 vạn binh từ các tỉnh miền Nam lên Tân Cương thu hồi từ Liên Xô. Thậm chí, Tưởng còn tăng cường cho mặt trận Miến Điện còn nhiều hơn tăng cường phòng thủ các tỉnh miền Nam.

Sai lầm tai hại này của Tưởng khiến ông phải trả giá đắt. Tháng 4 năm 1944, nửa triệu quân Nhật ồ ạt tấn công miền Nam Trung Hoa, trọng điểm là các tỉnh Hồ Nam, Hà Nam và Quảng Tây. Chiến dịch được đặt tên là ‘’Chiến dịch Ichi-go’’. Mục tiêu lúc này của quân Nhật được cho là chiếm được tuyến đường sắt nối liền Nam-Bắc Trung Quốc, phá hủy các căn cứ không quân của Mỹ và cắt đường tiếp vận của đồng minh cho Trung Hoa qua ngả Vân Nam. Nhật còn huy động 15.000 xe (có 5.000 xe tăng, bọc thép các loại), 6.000 khẩu pháo, hơn 2000 máy bay và 10 vạn con ngựa cho cuộc tiến công lớn này. Từ chỗ bị cho là đòn đánh khiêu khích để gây rối của Nhật, chiến dịch Ichi-go năm 1944 biến thành cuộc tiến công lớn nhất của quân Nhật trên lục địa Trung Hoa. Không ngờ trước đòn này, quân Tưởng đã hứng chịu thảm bại. Gần 1 triệu quân Trung Hoa ở các tỉnh miền Nam, dù đông nhưng trang bị kém, không có thiết giáp, pháo binh, máy bay,… và quan trọng nhất là không chuẩn bị phòng ngự, bị đánh tan tác, tiêu diệt từng cụm lớn. Chưa hết, nhân cuộc tấn công của Nhật, nông dân tỉnh Hà Nam vốn căm thù vụ phá đê Hoa Viên Khẩu của quân Tưởng năm 1937, đã tự vũ trang nổi dậy đánh quân Quốc Dân Đảng và tự vệ chống Nhật. Điều đó làm quân Quốc Dân Đảng tan vỡ từ cơ sở, khi họ thậm chí không còn có sự ủng hộ của đồng bào Trung Hoa ở các địa phương này.

10

Quân Nhật chiến đấu trên đường sắt trong chiến dịch Ichi-go năm 1944

111

Bản đồ chiến dịch tiến công Ichi-go năm 1944 của quân Nhật ở miền Nam Trung Quốc

Kết quả của chiến dịch Ichi-go là một thảm họa, không chỉ về quân sự mà còn về chính trị cho Tưởng Giới Thạch. Bị Nhật đánh thua liểng xiểng vào năm mà quân Đồng Minh đang thắng khắp nơi, thương vong từ 500.000 đến 700.000 lính, dân chúng chán nản, các căn cứ không quân và đường sắt để tiếp vận cho Trung Hoa bị Nhật phá sạch,… nhưng điều quan trọng nhất là Tưởng làm mất sự tin tưởng của quân Đồng Minh. Các tướng lĩnh Mỹ không giấu sự thất vọng với sự rệu rã thảm hại của quân Tưởng, và thậm chí nhiều tướng lính Mỹ tính đến việc hỗ trợ cho quân Cộng sản Trung Quốc mà họ cho là có lối đánh du kích chống Nhật hiệu quả hơn. Nhưng không chỉ thế, cộng hưởng với việc Tưởng phớt lờ tin tức tình báo, mang quân lên tiếp quản Tân Cương, người Mỹ nhận xét “Tưởng Giới Thạch trọng việc riêng của Trung Quốc hơn công việc chống Phát xít chung của Đồng Minh’’ dẫn đến sự nghi ngờ và giảm bớt viện trợ cho Tưởng. Từ đó đến hết Thế chiến 2 và cả Nội chiến Trung Hoa sau đó, Mỹ đã giảm và cắt hẳn viện trợ cho Trung Hoa Dân Quốc, để họ thất bại trước Quân Cộng sản của Mao Trạch Đông.

2/ Liên Xô khởi loạn Y Lê năm 1944

*Sự chuẩn bị của Liên Xô và các lãnh đạo Tân Cương

Chúng ta cần nhắc lại một chút ở đây. Vùng Y Lê đang nói tới ngày nay thuộc là Châu tự trị  Y Lê của dân tộc Kazakh, bên trong khu tự trị Tân Cương của Trung Quốc (thực chất là kết hợp 2 khu Y Lê và Altay). Vùng Y Lê là một thung lũng nằm ở trung tâm Tân Cương, đất đai màu mỡ nhất của cả vùng, dân cư đông đúc. Tuy nhiên, hai dân tộc Duy Ngô Nhĩ và Hán không nhiều ở vùng Y Lê. Người Duy Ngô Nhĩ tập trung ở vùng bồn địa Tarim, còn người Hán sống nhiều hơn ở thành phố Dihua cách đó không xa. Do vậy, Y Lê trở thành nơi sống của các bộ tộc khác, nhiều nhất chính là người Kazakh. Do lối sống du mục điển hình, người Kazakh đã chiếm cho mình các vùng đồng cỏ màu mỡ ở Tân Cương là Y Lê và Altai, đánh đuổi các tộc người khác để độc chiếm 2 khu vực này. Cùng với đó, cũng cần nhớ lại, là ở vùng thung lũng Y Lê cũng là nơi di cư của hàng vạn quân Bạch vệ Nga trong những năm 1920 – những chiến binh thiện chiến sống bằng nghề đánh thuê, sẵn sàng phục vụ chính quyền Xô Viết.

Chính vì vậy mà khi lựa chọn địa điểm để khởi loạn chống quốc Dân Đảng, Liên Xô đã chọn vùng Y Lê này với những lợi thế lớn: dân đông, giàu có, nhiều người Nga, xa người Hán, địa thế dễ dàng mở rộng tiến công ra 2 phía Nam Bắc trong khi rất khó bị tấn công từ phía Đông – nơi Quân Tưởng đang nắm giữ.

Còn lý do Liên Xô quyết định khởi loạn thì có thể dễ đoán ra. Năm 1944, sau khi Thịnh Thế Tài chạy về phe Quốc Dân Đảng, Liên Xô bị mất một tay sai để thay họ kiểm soát Tân Cương. Khi tìm kiếm một lực lượng khác để giúp họ làm việc này, Liên Xô quyết định chọn người Duy Ngô Nhĩ – dân tộc lớn nhất vùng Tân Cương – hay Đông Turkestan theo cách gọi của Nga. Đáng chú ý ở đây là người Duy Ngô Nhĩ trước đây đã bị chính Liên Xô đàn áp. Cuộc nổi dậy đầu tiên của người Duy Ngô Nhĩ thành lập nhà nước ‘’Cộng hòa Đông Turkestan đệ Nhất’’ đã bị Liên Xô đập tan. Tuy nhiên, bất chấp sự đối đầu lúc trước, người Duy Ngô Nhĩ lần này đã đồng lòng theo Liên Xô chống Quốc Dân Đảng, với hy vọng sẽ được đảm bảo một nền độc lập lâu dài.

Để tăng cường thuyết phục người dân tộc khác theo mình, Liên Xô đã không trực tiếp bắt tay với người Duy Ngô Nhĩ hay các dân tộc khác trên lãnh thổ Tân Cương lúc đó. Họ dùng cách tung các lãnh đạo người Duy Ngô Nhĩ, Kazakh, Kyrgyz,… từ các nước Trung Á thuộc Liên Xô về Tân Cương. Đây là những người đã sống từ lâu ở Liên Xô, học tập và đào tạo ở Liên Xô, trung thành với Stalin và Liên Xô nhưng vẫn giữ liên hệ nhất định với vùng Tân Cương. Có thể kể tới ở đây một số nhân vật như:

–  Ehmetjan Qasim: người dân tộc Duy Ngô Nhĩ, sinh ra ở chính vùng Y Lê. Qasim là lãnh đạo cao nhất được dựng lên trong cuộc nổi loạn ở Y Lê này. Ông đã sống liên tục ở Liên Xô kể từ năm 1936, gia nhập Đảng Cộng sản Liên Xô và được coi là người trung thành tuyệt đối với lãnh tụ Stalin của Liên Xô. Ở Liên Xô, ông đổi họ mình thành Kasimov để ‘’giống người Nga’’. Có thể coi Ehmetjan Qasim là ‘’tổng thống’’ của chính quyền Cộng hòa Đông Turkestan đệ Nhị sẽ được lập nên sau đó ở Tân Cương.

12

Ehmetjan Qasim – lãnh đạo cao nhất của chính quyền Tân Cương

–  Abdulkerim Abbas: được coi là nhân vật thứ 2 của chính quyền Tân Cương. Abbas cũng là người Duy Ngô Nhĩ như Ehmetjan Qasim nhưng giữa 2 ông có nhiều đối lập về thân thế. Trong khi Qasim sinh ra ở Tân Cương, Abbas sinh ra trong lãnh thổ Liên Xô, cụ thể là nước Kyrgyzstan. Tuy nhiên, sau đó Abdulkerim Abbas lại sinh sống thường xuyên ở Trung Quốc, và trở thành đảng viên của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Abbas cũng được biết đến là một bậc thầy chiến tranh du kích trong Đảng Cộng sản Trung Quốc, các chiến thuật của ông đã được giảng dạy khá nhiều trong quân Giải phóng nhân dân Trung Hoa. Đặc biệt, Abbas được biết tới là lãnh đạo có sự cảm thông với người Hán. Vợ ông là một người Hán – Dương Phụng Nghi (杨凤仪) – người đã tự sát khi các cuộc tàn sát dân thường người Hán nổ ra.

13

Abdulkerim Abbas và vợ thứ 2 Lữ Tố Tân. Vợ đầu tiên của Abbas là Dương Phụng Nghi cũng là người Hán – đã tự tử khi loạn Y Lê nổ ra.

 – Ishaq Beg Munonov: người dân tộc Kyrgyz. Trước đây là tướng của Thịnh Thế Tài, nhưng khi Thịnh trở mặt theo Quốc Dân Đảng thì Munonov bị bắt giam. Sau đó ông được thả ra và theo quân Liên Xô khởi loạn Y Lê. Ông được coi là người có uy tín nhất trong cộng đồng người Kyrgyz ở Tân Cương lúc đó. Sự tham gia của ông với quân Liên Xô đã giúp Liên Xô có được sự ủng hộ đáng kể của dân tộc Kyrgyz – lúc đó có dân số đông ngang người Hán.

14

Ishaq Beg Munonov – thủ lĩnh dân tộc Kyrgyz.

–  Dalelkhan Sugirbayev: người dân tộc Kazakh. Gia tộc Dalelkhan vốn là gia tộc quyền thế lãnh đạo người Kazakh ở Tân Cương. Nhưng vào thời nội chiến Nga, quân Bạch vệ đã tràn vào Tân Cương. Quân Bạch vệ đã đánh nhau với người Kazakh của gia tộc Dalelkhan, giết chết cha của Dalelkhan và cướp mất vợ của ông. Chính vì vậy Dalelkhan Sugirbayev rất căm thù quân Bạch Vệ, ông đi theo trung thành với Hồng quân Liên Xô. Riêng với cộng đồng dân tộc Kazakh, ông lãnh đạo phái người Kazakh thân Liên Xô, đối lập với phái Kazakh chống Liên Xô của Osman Batyr – người sẽ được nói tới dưới đây. Tuy vậy, Dalelkhan Sugirbayev và Osman Batyr trên thực tế lại cùng huyết thống. Chính điều này khiến vấn đề người Kazakh ở Tân Cương trở nên phức tạp.

Hiện nay, gia tộc của Dalelkhan Sugirbayev vẫn có uy quyền rất lớn ở Tân Cương. Được biết, con trai của Dalelkhan Sugirbayev sau này trở thành tỉnh trưởng tỉnh tự trị Kazakh trong nước CHND Trung Hoa. Còn cháu trai ông, Tasken Sugirbayev, hiện nay là một ca sĩ người Kazakh nổi tiếng được yêu thích ở Trung Quốc.

15

Dalelkhan Sugirbayev – thủ lĩnh dân tộc Kazakh thân Liên Xô ở khu vực Y Lê

–  Osman Batyr: đây là một nhân vật đặc biệt, do ông không phải là người được Liên Xô dựng lên. Osman Batyr vốn là thủ lĩnh từ trước đó của người Kazakh ở Tân Cương. So với thủ lĩnh Kazakh khác là Dalelkhan Sugirbayev, Osman Batyr có uy tín thậm chí còn lớn hơn. Trong khi Sugirbayev đi theo Liên Xô, Osman Batyr tập hợp những người Kazakh từ Liên Xô tị nạn do nạn đói những năm 1930, thành lập những nhóm cướp vũ trang hàng vạn người. Những nhóm này sống bằng nghề đánh thuê, nhưng cũng thường xuyên cướp bóc người dân và gây rối chính quyền thân Liên Xô ở Tân Cương. Điều này khiến cộng đồng người Kazakh bị chia rẽ, giữa một bên ủng hộ Osman Batyr chống liên Xô và một bên ủng hộ Dalelkhan Sugirbayev thân Liên Xô. Tuy nhiên, trên thực tế Dalelkhan Sugirbayev và Osman Batyr có quan hệ huyết thống, dù không rõ thực tế chính xác nó là gì. Theo các ghi chép của dân tộc Kazakh, mẹ của Dalelkhan Sugirbayev đến từ bộ lạc của Osman Batyr, gọi Osman Batyr là cháu.

16

Osman Batyr – thủ lĩnh dân tộc Kazakh nhưng chống Liên Xô ở khu vực Altay.

–  La Trường Sinh (nhiều bí danh Lã Chí, Lạc Tử,…): và dĩ nhiên cũng không thể bỏ qua người Hán. La Trường Sinh, một người quê gốc Phật Sơn, Quảng Đông đã thoát ly làm cách mạng từ sớm, trốn sang Liên Xô và sau đó về Tân Cương. Là một người Cộng sản trung thành, ông may mắn thoát chết trong các cuộc khủng bố những người Cộng sản Trung Quốc của Thịnh Thế Tài những năm 1943-1944. Ông có nhiều bí danh hoạt động như Lạc Tử, Lã Chí,… Do lòng trung thành với Liên Xô, ủng hộ các chính quyền tay sai của Liên Xô gây nhiều hành động làm hại người Hán, La Trường Sinh từng bị người Hán ở Tân Cương nói riêng và người Trung Quốc nói chung gọi là ‘’Hán gian’’, phục vụ Liên Xô để chia tách Tân Cương khỏi Trung Quốc. Bất chấp điều đó, khi Liên Xô khởi loạn Y Lê, La Trường Sinh đã phục vụ bằng cách đi khắp các thành phố vận động người Hán quy thuận Liên Xô, chống lại Quốc Dân Đảng.

17

La Trường Sinh – hay Lã Chí, Lạc Tử – thủ lĩnh người Hán trong Loạn Y Lê

Để tạo sự thống nhất trong cuộc nổi dậy lớn, ngày 12/11/1944, các lãnh đạo trên họp nhau tuyên bố thành lập ‘’Cộng hòa Đông Turkestan đệ Nhị’’ – tuyên bố kế thừa nhà nước Đông Turkestan đệ Nhất năm 1931, hiến đấu cho độc lập của Tân Cương khỏi Trung Hoa Dân Quốc dưới sự hỗ trợ của Liên Xô. Hình ảnh về sự thành lập chính phủ Cộng hòa Đông Turkestan có thể thấy ở đầu bài. Ngay sau đó, loạn Y Lê bùng nổ.

 *Cuộc nổi loạn ở thành phố Y Ninh và thảm sát dân thường người Hán.

Tháng 11/1944, quân Tưởng đang bị Nhật đánh tơi tả ở miền Nam Trung Quốc. Tưởng phải điều bớt quân từ Tân Cương về cứu viện. Quân số ở Tân Cương của Quốc Dân Đảng giảm còn khoảng 10 vạn quân, gần như co cụm ở thành phố Dihua. Ở vùng Y Lê quân Quốc Dân đảng đóng ở thành phố Yining (Y Ninh), nơi có khoảng 8.000 người Hán. Các vùng khác gần như không kiểm soát được.

Sự kiện đầu tiên của cuộc nổi loạn diễn ra vào ngày 7/11/1944 tại huyện Y Ninh. Các phiến quân người Duy Ngô Nhĩ bất ngờ nổi dậy, bắt và chặt đầu viên tướng Quốc Dân Đảng tại Y Ninh. Điện tín của Cảnh sát trưởng Tào Nhật Linh  (曹日灵)của Quốc Dân Đảng từ Y Lê báo về Dihua nói rằng ‘’quân nổi dậy đã trốn trong lãnh sự quán Liên Xô ở Y Ning, súng đạn đều của Liên Xô’’.  Không lâu sau thì cảnh sát trưởng Tào tự sát.

Chỉ huy cuộc nổi dậy đầu tiên này được cho là các tướng Bạch vệ Nga, như Fyodor Ivanovich Leskin (người sau này trở thành tư lệnh quân đoàn 5 Quân Giải phóng nhân dân Trung Hoa), Fatih Muslimov (tướng Bạch vệ gốc Uzbek), Alexander Polinov và Glimkin (không rõ họ),… Thậm chí còn có tin tức cho thấy trùm mật vụ Beria của KGB đã đến thủ đô của nước Kazakhstan để theo dõi quân Liên Xô chiến đấu ở Tân Cương.

5 ngày sau, ‘’Cộng hòa Đông Turkestan đệ nhị’’ được tuyên bố thành lập. Ngày 13/11 thì quân nổi dậy hoàn toàn chiếm được Y Ninh, sau khi quân Quốc Dân Đảng cố thủ trong đồn cảnh sát đầu hàng. Riêng tại sân bay Airambek ở Y Ninh quân Quốc Dân Đảng có súng máy và công sự vững chắc đã đẩy lùi được quân nổi dậy Duy Ngô Nhĩ. Sau đó, quân Liên Xô phải cho máy bay ném bom và cho lính dù nhảy xuống sân bay, đến tháng 1/1945 mới đánh bại được quân Quốc Dân Đảng.

Tiếp nối ngay sau sự sụp đổ của Y Ninh, là sự tàn sát trả thù nhằm vào dân thường người Hán diễn ra tràn lan. Quân nổi dậy Duy Ngô Nhĩ lẫn Nga mặc sức cướp bóc, bắn giết, hãm hiếp dân thường người Hán. Trước nổi loạn, dân số người Hán ở Tân Cương khoảng 8.000 người. Khi biến loạn xảy ra, khoảng 4.000 người Hán già trẻ bồng bế nhau lũ lượt chạy về sân bay Airambek, hy vọng máy bay Quốc Dân Đảng đến giải cứu. Nhưng sân bay bị quân Liên Xô bao vây, pháo kích suốt hai tháng. Sau nhiều lần phá vây bất thành, sân bay Airambek đã thất thủ, các tướng Quốc Dân Đảng giữ sân bay Đỗ Đức Phu (杜德孚) và Bành Tuấn Nghiệp (彭俊業)cùng hàng trăm lính Quốc Dân Đảng tự tử. Chỉ có 200 người sống sót. Số phận hàng nghìn người Hán kẹt ở sân bay Airambek không bao giờ rõ.

1

Đỗ Đức Phu – một trong 2 tướng Quốc Dân Đảng tử thủ sân bay Airambek ở Y Ninh tháng 10/1944.

2

Bành Tuấn Nghiệp – tướng Quốc Dân Đảng tử trận ở Y Ninh tháng 10/1944.

Số dân thường người Hán còn lại tuyệt vọng dìu dắt nhau chạy về phía Dihua, di tản cùng quân của tướng Trương Trì Trung (張治中). Trên đường di tản họ vẫn gặp quân nổi dậy tập kích, cướp bóc. Số người sống sót chạy về đến Dihua chỉ còn vài trăm người. Tướng Trương mô tả: “có nơi chỉ còn mấy chục phụ nữ già yếu và trẻ em. Trong số người Hán còn lại ở Y Ninh, phụ nữ già và trẻ em yếu chiếm đa số, còn lại già trẻ, gái trai đều bị giết’’. Số người chết trong các vụ thảm sát ở Y Ninh không bao giờ được thống kê chính xác, nhưng hầu hết 8.000 cư dân người Hán của Y Ninh đã đều đã biến mất sau cuộc nổi loạn. Điều may mắn còn lại, là hàng trăm trẻ em mồ côi của thành phố Y Ninh, sau đó đã được tướng Abdulkerim Abbas – một tướng người Duy Ngô Nhĩ cảm thông với người Hán, thu nhặt và mang về nuôi ở một trại tị nạn ở huyện Tân Xuân (huyện Kunes theo cách gọi của người Duy Ngô Nhĩ).

Ngày 5/1/1945, ở Y Ninh quân Cộng hòa Đông Turkestan ra tuyên bố ‘’quét sạch người Hán’’ để trả nợ máu. Quân nổi dậy Duy Ngô Nhĩ thường quan niệm người Hán và người Hồi (Hui) là ‘’kẻ thù nhân dân’’. Tuy vậy, trong khi thảm sát dã man người Hán, quân Đông Turkestan ít khi đụng đến người Hồi.

*Quân Turkestan mở rộng chiếm đóng.

Sau khi chiếm xong Y Ning, quân Đông Turkestan bắt đầu mở rộng các lãnh thổ chiếm đóng của mình. Do vùng thung lũng Y Lê trải theo hướng Bắc-Nam, việc hành quân qua phía Đông để chiếm Dihua – thành trì cuối cùng của Quốc Dân Đảng, trở thành một việc mạo hiểm. Do đó, quân Đông Turkestan quyết định chia ra đánh chiếm 2 hướng Nam Bắc, gọi là ‘’Bắc Lộ Quân’’ và ‘’Nam Lộ Quân’’. Tháng 8/1845, để chính quy hóa quân nổi dậy, họ thành lập “Quân đội quốc gia Y Lê’’ – lấy theo tên nơi thành lập quân đội. Viết tắt của nó là INA – Ili National Army (Ili là cách gọi tiếng Anh của Y Lê). Trên quân phục của mỗi binh sĩ quân đội quốc gia Y Lê đều thêu chữ tiếng Nga ‘’Восточная Туркестанская Республика’’ – tức là ‘’Cộng hòa Đông Turkestan đệ Nhị’’. Để phân biệt thời đó, người dân Tân Cương gọi quân nổi dậy là ‘’quân Y Lê’’, còn quân đội quốc dân Đảng là ‘’quân Di Hoa (Dihua)’’.

-Bắc Lộ Quân của quân INA do tướng Ishaq Beg Munonov chỉ huy, kết hợp với một lực lượng lớn người Kazakh của gia tộc Dalelkhan Sugirbayev. Hỗ trợ cho họ là khoảng 5.000 quân Liên Xô và hàng vạn quân Bạch Vệ Nga vốn sinh sống ở phía Bắc thung lũng Y Lê. Từ tháng 8 đến tháng 9 năm 1945, quân INA và quân Nga vượt qua thung lũng Y Lê, bắt đầu tỏa đi chiếm các thành phố ở miền Bắc Tân Cương. Các thành phố này có đặc điểm hầu hết là các thành phố thương mại của người Hán, nằm trên con đường tơ lụa xưa. Các thành phố quan trọng như Tháp Thành (Tacheng), Ngạch Mẫn (Emin), Dụ Dân (Yumin), Cáp Bá Hà (Habahe), Bố Nhĩ Tân (Burqin), Bác Lạc (Bole), Thạch Hà Tử (Shihezi), Khắp Lạp Mã Ỷ (Kamaray), Ngũ Gia Cừ (Wujiaqu), … trước sau đều rơi vào tay quân Y Lê. Trong các cuộc tiến công đó, quân Y Lê đã tiêu diệt 12 trung đoàn quân Quốc Dân Đảng, bắt hơn 6.000 tù binh. Các tướng cao cấp của Quốc Dân Đảng ở đây như Quách Kỳ (郭岐), Uyển Lăng Vân (宛凌云),…cũng bị bắt làm tù binh.

Cuối tháng 9 năm 1945, quân Y Lê sau bắt đầu hành quân sang phía Đông, uy hiếp thành trì Dihua của quân Quốc Dân Đảng. Quân nổi dậy đến bờ sông Manas, cách Dihua 2 ngày đi ngựa, nhưng không dám vượt sông. Lúc này ở chiến tranh Thế giới 2, quân Nhật đã đầu hàng. Quân Quốc Dân Đảng nhân việc đó tăng viện cho Dihua. Sư đoàn 46 của tướng Từ Nhữ Thành (徐汝誠), hành quân 3.000 cây số từ Chiết Giang lên Dihua tăng viện cho Dihua phòng thủ. Thậm chí tướng Quách Ký Kiệu (郭寄嶠) ở Thiểm Tây bất tuân lệnh, ngay sau khi tiếp nhận quân Nhật đầu hàng đã tự ý cho quân lên Tân Cương cứu Dihua. Ngày 13/9/1945, trong cuộc họp phân tích tình hình ở Tân Cương, các tướng Ngô Trung Thân (吴忠信), Chu Thiệu Lương (朱紹良), và Quách Ký Kiệu thông báo ngắn gọn với Tưởng Giới Thạch tình hình bi quan: ‘’Quân nổi loạn cách Dihua 2 ngày. Dihua còn 6 tiểu đoàn để phòng ngự. Quân tiếp viện ở Thanh Hải cách 8 ngày, ở Lan Châu cách 10 ngày’’ nhưng họ vẫn tin tưởng quân Quốc Dân Đảng sẽ giữ được Dihua.

Tuy nhiên, quân Y Lê gặp phải một vấn đề nội bộ. Trong các khu vực họ chiếm được, thiếu mất một khu vực rất quan trọng, có thể nói là quan trọng nhất ở Bắc Tân Cương – Altay. Altay là vùng đồng cỏ rộng lớn, tiếp giáp vùng Y Lê ở phía Bắc, là 2 vùng đồng cỏ màu mỡ nhất Tân Cương. Altay thời đó là độc chiếm của dân tộc Kazakh. Chỉ có điều, người Kazakh ở Altay không phải lực lượng trung thành với Liên Xô của Dalelkhan Sugirbayev, mà là lực lượng của Osman Batyr – người không muốn phụ thuộc Liên Xô. Thực tế là cùng với lúc Liên Xô khởi loạn ở Y Lê, Osman Batyr cũng tự mình thực hiện một chiến dịch quân sự của mình, đuổi quân Quốc Dân Đảng khỏi Altay để độc chiếm nó cho người Kazakh. Khi quân của Cộng hòa Đông Turkestan tiến lên phía Bắc, họ đụng quân của Osman Batyr ở Altay. Do cùng là người Kazakh, họ đã tránh bắn súng vào nhau, mà chọn cách đàm phán. Ban đầu Osman Batyr đồng ý hợp tác, chịu sáp nhập vào Đông Turkestan và được Liên Xô phong làm ‘’Thống đốc vùng Altay’’. Tuy nhiên sau đó Osman Batyr đã tự phá bỏ sự hợp tác, tự tuyên bố ‘’trung lập’’, nhưng thực ra là quay sang hợp tác với Quốc Dân Đảng. Osman Batyr không muốn cho Liên Xô ‘’cộng sản hóa’’ đồng bào Kazakh của ông, nên đã từ chối cho họ tiến vào vùng Altay. Điều này được Quốc Dân Đảng hoan nghênh, và họ liên hệ với Osman Batyr. Theo đó, Quốc Dân Đảng hứa hẹn nếu Osman giúp họ chống Liên Xô và Mông Cổ, sẽ ban cho ông vùng Altay vĩnh viễn để trở thành lãnh địa riêng của dân tộc Kazakh. Osman đồng ý, từ đó quay sang hợp tác với quân Tưởng Giới Thạch chống Liên Xô.

-Nam Lộ Quân của quân Đông Turkestan do tướng Abdulkerim Abbas chỉ huy, Đặc biệt, tướng Abdulkerim Abbas là một người rất phản đối việc giết hại người Hán. Khi tiến quân vào các thành phố, ông đã ra lệnh cho các dân thường người Hán di tản, cộng với những trẻ em mồ côi gom nhặt ở thành phố Y Ninh, dồn vào một trại tị nạn ở quận Tân Xuân (lúc đó gọi là quận Kunes). Lý do là vì khi bạo loạn nổ ra, vợ của tướng Abbas là Dương Phụng Nghi đã tự sát ở Y Ninh. Cái chết của vợ khiến Abbas rất đau lòng, và vì thế đã ra lệnh cho quân Y Lê không được tàn sát dân thường người Hán.

Khác với các thành phố phía Bắc, các thành phố phía Nam Tân Cương hẻo lánh hơn, và cư dân chủ yếu là người Duy Ngô Nhĩ vốn ủng hộ nổi dậy nên không cần thiết phải tiến quân chiếm giữ. Các thành phố lớn nhất như Khách Thập (Kashgar), Hòa Điền (Hetian), Thổ Lỗ Phiên (Turpan), Đồ Mộc Thư (Tumxuk), … đều do người Duy Ngô Nhĩ tự nổi dậy chiếm. Tuy nhiên, vẫn có một số thành phố có quân Quốc Dân Đảng và các đội quân bộ lạc trung thành với họ nắm giữ. Đây là các mục tiêu  cuộc Nam Tiến của quân Y Lê.

Trong các thành phố này, quan trọng nhất và khó khăn nhất là thành phố Á Khắc Tô (Aksu). Quân của Abdulkerim Abbas đã tấn công và bao vây thành phố 2 lần. Cả 2 đều bị tướng Quốc Dân Đảng là Triệu Hán Cơ (赵汉奇) đánh lùi, thương vong lớn. Trong lần bao vây thứ nhất, họ bị quân của Triệu Hán Cơ phá vây, bắt được nhiều tù binh quan trọng, trong đó có Siyiti Abbas, anh trai của Abdulkerim Abbas. Ngày 13/9/1945, quân Quốc Dân Đảng ở Aksu đã xử tử công khai Siyiti Abbas và nhiều chỉ huy khác của quân Y Lê để đe dọa người dân. Trận chiến bế tắc đến mức quân Liên Xô phải cử cố vấn Nasyrov và mang thêm quân người Kyrgyz của tướng Elihan Tore từ Bắc Lộ Quân xuống chi viện vẫn không thắng được. Cuối cùng đến tháng 10/1945 quân Y Lê phải rút khỏi Aksu, biến nó trở thành thành phố duy nhất mà quân Quốc Dân Đảng phòng thủ thành công trước quân nổi dậy Đông Turkestan.

Ở các thành phố khác, quân Y Lê đa phần chiếm được dễ dàng. Quân của Abbas vượt được qua dãy Thiên Sơn, tiến vào vùng bồn địa Tarim của người Duy Ngô Nhĩ và được chào đón. Các thánh phố Bái Thành (Baicheng), Ôn Túc (Wensu),… cũng thất thủ. Mặt trận phía Nam Tân Cương coi như đánh bại quân Quốc Dân Đảng.

3

Triệu Hán Cơ – tướng Quốc Dân Đảng chỉ huy phòng thủ thành phố Aksu (Á Khắc Tô) trước quân nổi dậy Y Lê.

Tuy nhiên, vấn đề lại phát sinh khi tiến sâu hơn xuống phía Nam. Lý do là càng tiến sâu về phía Nam, nghĩa là càng tiến gần dãy núi Côn Luân, họ càng gần với vùng cư trú của dân tộc Tajik, Kyrgyz,… Người Tajik ở dãy Côn Luân vốn khép kín, tránh mặt các dân tộc khác. Tuy nhiên, khi tiến quân qua vùng của người Tajik, quân Y Lê người Duy Ngô Nhĩ không hiểu vì đâu đã có nhiều hành động phá hoại mùa màng, lều trại, gia súc,… của người Tajik. Chính điều này đã gây ra sự phẫn nộ của người Tajik, Kyrgyz và họ đã quyết đứng dậy chống lại quân Y Lê. Vào tháng 9 năm 1945, khi mà mặt trận phía Nam của quân Y Lê tưởng chừng đã dẹp xong Quốc Dân Đảng, thì họ bất ngờ bị người Tajik nổi dậy tấn công. Quân Quốc Dân Đảng nhân cơ hội đã phối hợp cùng người Tajik nổi lên chống lại quân Y Lê và các cố vấn Liên Xô của họ. Tháng 9 năm 1945, người Tajik cùng quân Quốc Dân Đảng tấn công quân Y Lê tại thành phố Yarkand và gần dãy núi Sarikol, giết nhiều quân Y Lê và cố vấn Liên Xô. Điều này làm Liên Xô và chính quyền Cộng hòa Đông Turkestan rất lo ngại, phải ngay lập tức ra lệnh cho quân Y Lê tránh xa vùng của người Tajik ở Nam Tân Cương. Và từ đó, các vùng này trở thành ổ kháng cự của quân Quốc Dân Đảng, thường xuyên quấy phá lãnh thổ Cộng hòa Đông Turkestan.

*Mặt trận biên giới Mông Cổ (từ năm 1944 đến 1949)

Để hỗ trợ cho cuộc nổi dậy ở Tân Cương, Liên Xô còn thúc ép Mông Cổ mở một mặt trận nữa ở phía Bắc. Mục tiêu chính của nó là quấy rối biên giới phía Bắc Trung Quốc để thu hút lực lượng Quốc Dân Đảng, chứ khó có ý định chiếm giữ do quân số ít ỏi của Mông Cổ lúc đó (quân đội Mông Cổ chỉ có 30.000 quân).

Để thực hiện kế hoạch này, từ năm 1944, quân Mông Cổ nhiều lần xâm nhập, quấy phá biên giới phía Bắc Trung Hoa. Mục đích của họ là muốn kéo bớt lực lượng Quốc Dân Đảng lên biên giới. Tình thế lúc đó của quân Quốc Dân Đảng thực sự khó khăn. Trấn giữ biên giới Mông Cổ lúc đó là một lực lượng hỗn tạp người Hán và Hồi do tướng Mã Hy Trân (馬希珍) người Hồi chỉ huy. Lực lượng của họ có hơn 1.000 lính, trang bị chỉ có súng trường và vài súng máy, phải canh giữ biên giới dài hàng trăm km giữa Mông Cổ và Tân Cương. Nhưng họ cũng kịp xây một vài pháo đài trên những cao điểm quan trọng, giúp sức đáng kể cho việc phòng thủ. Quan trọng nhất trong số đó là cao điểm Bắc Tháp Sơn (Beitashan) một ngọn núi tranh chấp mà Mông Cổ gọi là Núi Baitag (Baitag Bogd).

4

Tướng Mã Hy Trân (giữa) của Quốc Dân Đảng và các binh sĩ người Kazakh

Đầu năm 1945, khi quân Mông Cổ gia tăng các hoạt động quấy phá biên giới, quân Quốc Dân Đảng chỉ có thể tăng viện thêm đúng một đại đội do tướng Hàn Hữu Văn (韩有文) chỉ huy lên Bắc Tháp Sơn. Nhưng, Tưởng Giới Thạch quyết định dùng một đòn khác: đòn ngoại giao. Cụ thể, khi Hàn Hữu Văn đưa quân lên biên giới, ông cũng cho một đoàn phóng viên quốc tế đi theo. Các phóng viên phương Tây theo chân quân Tưởng lên Bắc Tháp Sơn, hàng ngày cập nhật tình hình, viết bài gửi về. Điều này khiến quân Mông Cổ không dám động binh mạnh do sợ bị tố cáo trước quốc tế. Do đó, đòn ngoại giao cực hiểm của Tưởng Giới Thạch đã giữ biên giới phía Bắc của Tân Cương với Mông Cổ yên được ít nhất là tới năm 1946.

Sang năm 1947 (tiết lộ trước là loạn Y Lê lúc này đã lắng xuống), kế hoạch quấy rối biên giới của Mông Cổ gây tác dụng ngược. Lúc này, Quốc Dân Đảng đã thuyết phục được lực lượng người Kazakh của tướng Osman Batyr phục vụ cho mình, vì vậy Osman Batyr đã đồng ý giúp quân Quốc Dân Đảng trấn thủ biên giới phía Bắc chống quân Mông Cổ. Thế là các toán quân vũ trang Kazakh của Osman Batyr được quyền tuần tra biên giới Mông Cổ, khiến Mông Cổ không dám qua xâm nhập biên giới Trung Hoa nữa. Khi tình hình loạn Y Lê dịu đi, quân Tưởng Giới Thạch có điều kiện bổ sung quân cho biên giới Mông Cổ, hàng nghìn quân cả Hán lẫn Hồi được đưa lên biên cương. Lúc này, quân số của Trung Quốc lên đến hàng vạn người, áp đảo hoàn toàn Mông Cổ, khiến Mông Cổ nơm nớp nỗi sợ bị tấn công.

Về sau, từ chỗ là người đi phá rối, quân Mông Cổ trở thành người lo sợ bị phá rối. Các toán cướp vũ trang người Kazakh của Osman Batyr, dựa vào quân số đông, liên tục tràn qua biên giới Mông Cổ, tập kích giết hại binh lính và dân thường Mông Cổ, cũng như cướp bóc tài sản, gia súc mang về. Lính biên phòng Mông Cổ bị áp đảo không thể ngăn chặn, đành phải cầu cứu Liên Xô. Lúc này, Liên Xô thấy tình hình nguy cấp, phải cho máy bay và pháo binh đến biên giới Mông Cổ giúp chống quân Kazakh và Quốc Dân Đảng. Do đó, từ năm 1947 tình hình biên giới Mông Cổ từ chỗ yên ả, trở nên căng như dây đàn. Hai bên cũng triển khai binh lính, vũ khí rải đều biên giới, sẵn sàng nổ súng bất cứ lúc nào. Các phóng viên quốc tế buộc phải di tản, chỉ còn một số phóng viên Mỹ ở lại cập nhật tình hình. Một trong số đó là Douglas Mackiernan, nhân viên tình báo CIA làm việc dưới vỏ bọc phóng viên, sau này trở thành nhân viên CIA tử nạn đầu tiên tại châu Á.

Tháng 6 năm 1947, quân Quốc Dân Đảng vài lần tập kích lính Mông Cổ xâm nhập biên giới, thu được quần áo, vũ khí, tài liệu Liên Xô. Các phóng viên Mỹ đã ghi lại những bằng chứng này, mang ra tố cáo Liên Xô và Mông Cổ trước quốc tế. Không chịu thua, cũng năm đó hãng thông tấn TASS của Liên Xô trình ra trước Liên Hợp Quốc những hình ảnh dân thường và binh lính Mông Cổ bị giết hại, thi thể bị cắt xẻo dã man. Họ tố cáo chính lính Kazakh và Quốc Dân Đảng đã xâm nhập qua biên giới để giết người Mông Cổ. Dĩ nhiên là cả 2 bên đều đúng, 2 phe đều xâm nhập lẫn nhau và giết người của nhau.

Không lâu sau đó, cuộc ‘’khẩu chiến’’ trên trường quốc tế im lặng nhường chỗ cho tiếng súng thực sự nổ ra trên chiến trường. Từ tháng 7 đến tháng 9 năm 1947, với quyết tâm ‘’giải quyết sự việc bằng súng đạn’’, quân Mông Cổ và Liên Xô mở cuộc tấn công quân sự lớn nhằm tiêu diệt phòng tuyến Bắc Tháp Sơn của Quân Quốc Dân Đảng. Suốt 2 tháng trời, quân Liên Xô cho máy bay ném bom và pháo kích dữ dội lên Bắc Tháp Sơn, giúp bộ binh Mông Cổ chiếm pháo đài. Nhưng quân Quốc Dân Đảng đã chiến đấu kiên cường. Họ xây chiến nào bằng đá vây quanh Bắc Tháp Sơn, chiến đấu dũng cảm đẩy lùi từng đợt tấn công của quân Mông Cổ. Có những trận chiến hết đạn kết thúc bằng việc ném đá hay thậm chí là giáp lá cà của binh sĩ 2 bên vào nhau. Hỗ trợ quân Quốc Dân Đảng, các nhóm quân người Kazakh của Osman Batyr nhiều lần đột nhập sau lưng căn cứ của quân Mông Cổ, thảm sát binh sĩ, y tá, cố vấn của quân Liên Xô và Mông Cổ, buộc họ phải rút lui.

Trận chiến ác liệt trên núi Bắc Tháp Sơn được cập nhật hàng ngày trên các báo lớn của thế giới như tạp chí TIMES, AP, TASS,… Đa phần đều cho thấy quân Trung Hoa kiên cường chống lại Liên Xô và Mông Cổ với vũ khí hiện đại hơn. Tuy nhiên, đến tháng 10/1947 thì quân Quốc Dân Đảng thực sự kiệt sức. Hết đạn được, họ buộc phải rút khỏi Bắc Tháp Sơn. Tuy nhiên, quân Mông Cổ cũng không dám chiếm lâu dài ngọn núi này, do sợ bị Trung Quốc phản công. Quân Mông Cổ chỉ dám bắn pháo sập pháo đài của quân Trung Quốc rồi cho quân lui về, pháo kích thường xuyên lên núi để quân Trung Quốc không trở lại. Bắc Tháp Sơn từ đó không còn ý nghĩa phòng thủ, không còn là mục tiêu tranh chấp giữa 2 bên nữa. Sau này khi Trung Hoa Dân Quốc sụp đổ, ngọn núi vẫn được giữ lại lãnh thổ Cộng hòa Nhân Dân Trung Hoa. Tóm lại, trong trận Bắc Tháp Sơn, quân Liên Xô và Mông Cổ giành thắng lợi chiến thuật, phá được pháo đài phòng ngự của Trung Quốc, nhưng thắng lợi chiến lược thuộc về quân Quốc Dân Đảng, với việc giữ ngọn núi ở lại lãnh thổ Trung Hoa.

Ngày nay, trên núi Bắc Tháp Sơn dù pháo đài đã bị phá sập nhưng vẫn còn lại những chiến nào bằng đá trải dài mà quân Quốc Dân Đảng đã đào để trấn giữ ngọn núi, nhắc nhở về những trận chiến ác liệt năm xưa để giữ gìn lãnh thổ. Do đó, dù là trận chiến của quân Quốc Dân Đảng, núi Bắc Tháp Sơn hiện nay vẫn được chính quyền và người dân Trung Quốc coi là ”địa chỉ Đỏ” về công cuộc trấn giữ biên cương của người Trung Hoa.

5

Chiến hào đá do quân Quốc Dân Đảng xây dựng còn lại trên núi Bắc Tháp Sơn ngày nay

Sau trận Bắc Tháp Sơn, không có nhiều cuộc giao tranh lớn giữa 2 bên. Tuy nhiên, một trận chiến lớn và nổi tiếng đã bất ngờ nổ ra vào tháng 7 năm 1948 – đi vào lịch sử Mông Cổ như một bản anh hùng ca lớn nhất thời hiện đại. Ngày 8/7/1948, 10 lính biên phòng Mông Cổ gần núi Baitag (chính là ngọn Bắc Tháp Sơn theo cách gọi Trung Quốc) phát hiện hơn 700 lính vũ trang Kazakh xâm nhập biên giới Mông Cổ. Không kịp gọi cứu viện, 10 lính Mông Cổ đã tự nổ súng, tấn công lính Kazakh xâm nhập. Trận chiến không cân sức đã diễn ra, nhưng điều thần kỳ là 10 lính Mông Cổ đã chặn được hàng trăm lính Kazakh và Quốc Dân Đảng xâm phạm lãnh thổ. Hàng trăm lính của Trung Quốc bị tiêu diệt, buộc phải quay về biên giới. Trong khi đó Mông Cổ có 6 người hy sinh, 3 người bị thương nặng, nhưng đã bảo vệ được biên giới của mình. Câu chuyện về 10 lính Mông Cổ đối đầu hàng trăm lính Trung Quốc đã trở thành câu chuyện anh hùng nổi tiếng nhất thời hiện đại, được giảng dạy rộng rãi cho thanh thiếu niên Mông Cổ ngày nay.

6

Tranh vẽ Mông Cổ thể hiện trận đánh núi Baitag Bogd năm 1948.

7

Khu mộ 3 lính Mông Cổ hy sinh ở Baitag Bogd – nay trở thành di sản quốc gia của Mông Cổ

Mặt trận biên giới Mông Cổ chỉ coi như chấm dứt sau khi Trung Hoa Dân Quốc sụp đổ trong nội chiến Trung Hoa. Với việc Đảng Cộng sản Trung Quốc lên nắm quyền, Mông Cổ được Liên Xô đảm bảo về độc lập, nhưng các tranh chấp về biên giới được giải quyết theo cách có lợi cho Trung Quốc hơn.

*Quân Hồi tăng viện – loạn Y Lê kết thúc.

Năm 1945, với sự kết thúc của chiến tranh thế giới thứ 2, quân Quốc Dân Đảng có điều kiện hơn để tăng viện cho Tân Cương chống lại quân Cộng hòa Đông Turkestan đệ nhị. Tuy nhiên, trong khi còn phải đối phó với quân Cộng sản Trung Quốc ở đại lục, Tưởng Giới Thạch đã nhận được yêu cầu hấp dẫn đến từ những lãnh chúa người Hồi trung thành với ông. Cụ thể, khi thấy quân nổi loạn Duy Ngô Nhĩ tiến công mạnh uy hiếp Dihua, bao vây quân Quốc Dân Đảng, các lãnh chúa người Hồi ở các tỉnh Cam Túc, Thanh Hải và Ninh Hạ nghĩ rằng người Duy Ngô Nhĩ cũng là mối đe dọa với họ. Bởi lẽ trước kia người Hồi cũng thường tiến vào Tân Cương, tấn công các chính quyền Tân Cương, giết chóc, cướp phá,… Lo ngại bị trả thù nếu quân Duy Ngô Nhĩ chiếm được Tân Cương, các lãnh chúa người Hồi đã quyết định phải giúp quân Quốc Dân Đảng giữ được Dihua và Tân Cương mới mong được yên ổn.

Thực hiện điều này, năm 1945 tướng giỏi nhất của người Hồi – Mã Bộ Phương (馬步芳) dẫn theo lực lượng kỵ binh tinh nhuệ nhất của người Hồi từ Lan Châu (Cam Túc) lên Dihua chi viện cho Quốc Dân Đảng. Tiếp sau đó, thêm 4 sư đoàn người Hồi với hơn 100.000 quân cũng từ Thanh Hải hành quân lên Tân Cương, chỉ huy bởi Mã Trình Tường (马呈祥) là cháu trai của Mã Bộ Phương. Với lực lượng đông đảo được bổ sung, cuối năm 1945 đầu năm 1946 quân Quốc Dân Đảng ở Tân Cương đã có lực lượng ngang ngửa quân Y Lê nổi dậy. Lúc này, họ không phải lo việc giữ thủ phủ Dihua nữa mà còn tính chuyện chiếm lại đất đai đã mấy vào tay quân nổi dậy.

Bị choáng ngợp bởi lực lượng tiếp viện khủng khiếp của quân Hồi, việc lực lượng Kazakh của Osman Batyr trở súng về phía Quốc Dân Đảng, thế chiến 2 kết thúc, Liên Xô và Trung Hoa Dân quốc bắt đầu đàm phán,… cộng dồn các lý do khiến các lãnh đạo Cộng hòa Đông Turkestan nhận thấy rằng họ không có cơ hội chiến thắng lúc đó thậm chí có thể bị phản công thua ngược. Để ngăn chặn điều đó, các lãnh đạo chính phủ Tân Cương đã quyết định phải đàm phán ngừng bắn với quân Quốc Dân Đảng, giữ vững các lãnh thổ đang chiếm được và chấp nhận nhường các lãnh thổ còn lại cho Quốc Dân Đảng cùng các nhượng bộ khác.

8

Mã Bộ Phương – danh tướng người Hồi ở Cam Túc – tăng viện cho Tân Cương năm 1945.

Tháng 10 năm 1945, chính phủ Cộng hòa Đông Turkestan đệ Nhị và chính phủ Trung Hoa Dân Quốc đồng ý đàm phán với nhau ở Dihua. Lúc này quân Y Lê đã rút lui, thành phố được giải vây. Chính phủ Tân Cương cử lãnh đạo cao nhất của mình là Ehmetjan Qasim đến Dihua đàm phán. Tuy nhiên, Tưởng Giới Thạch tự mãn, cho mình là giành chiến thắng trước quân ly khai nên đã không đến dự. Tưởng chỉ cử tướng Trương Trì Trung (張治中) – người đã bị quân nổi dậy đánh đuổi khỏi Y Lê trước kia – đến Dihua để đàm phán. Tưởng coi việc sử dụng một bại tướng để đi đàm phán là một cách hạ nhục đối phương.

Cuộc đàm phán lớn diễn ra hơn nửa năm, với gần 30 cuộc đàm phán nhỏ giữa 2 bên. Đến tháng 4 năm 1946, Trung Hoa Dân Quốc và Cộng hòa Đông Turkestan đã đạt hiệp định hòa bình cơ bản, với những nhượng bộ đáng kể của Cộng hòa Đông Turkestan. Cụ thể, chính phủ Cộng hòa Đông Turkestan phải chấp nhận thành lập một chính phủ liên minh với Quốc Dân Đảng, do tướng Trương Trì Trung của Quốc Dân Đảng làm chủ tịch, lãnh đạo Tân Cương Ehmetjan Qasim chỉ được làm phó chủ tịch. Các nhân vật ủng hộ chủ nghĩa ly khai và ‘’chủ nghĩa Đại Turk’’ trong chính phủ Tân Cương bị Quốc Dân Đảng ép phải loại bỏ. Lãnh đạo cao cấp khác của Tân Cương khác là Abdulkerim Abbas phải tham dự Quốc Hội của Trung Hoa Dân Quốc ở Nam Kinh với tư cách là đại biểu của ‘’Tỉnh Tân Cương’’, hàm ý Tân Cương vẫn thuộc lãnh thổ Trung Hoa Dân Quốc. Quân Y Lê phải rút khỏi các thành phố đang bao vây, phải cho người Hán đi lại giữa các thành phố, cố vấn Liên Xô phải từng bước rút về nước,…

9

Ehmetjan Qasimi và Abdulkerim Abbas (trái) trong cuộc đàm phán với Tưởng Giới Thạch (phải) tại Nam Kinh ngày 22 tháng 11 năm 1946.

Tuy vậy, trên thực tế Cộng hòa Đông Turkestan đệ Nhị vẫn xây dựng được cho mình chính quyền độc lập ở hầu hết lãnh thổ. Trong hiệp định với Quốc Dân Đảng có quy định lãnh thổ chiếm giữ của các bên không thay đổi, nghĩa là Cộng hòa Đông Turkestan đệ nhị vẫn nắm giữ hầu hết lãnh thổ Tân Cương, ngoại trừ thủ phủ Dihua và các vùng phía Đông bị Quốc Dân Đảng kiểm soát. Tại các vùng này, chính quyền Tân Cương đã xây dựng hệ thống chính quyền độc lập, không sao chép rập khuôn của Liên Xô. Các đặc quyền được dành cho người Duy Ngô Nhĩ nhiều hơn trong khi cố gắng duy trì sự bình đẳng giữa các dân tộc khác. Ở các vùng chiếm đóng đó, họ phát hành và lưu thông tiền của ‘’Ngân hàng quốc gia Đông Turkestan’’. Sự độc lập đó của chính quyền Cộng hòa Đông Turkestan đệ nhị được duy trì đến tận khi nó sụp đổ năm 1949, và cho đến nay vẫn là nhà nước cao nhất mà người Duy Ngô Nhĩ đạt được trong lịch sử đấu tranh giành độc lập của mình.

Với việc ký kết lệnh ngừng bắn với Quốc Dân Đảng năm 1946, sự kiện Loạn Y Lê nổ ra năm 1944 coi như đã tới hồi kết, mặc dù nhiều người coi nó vẫn diễn ra với những xung đột lẻ tẻ cho đến hết năm 1949. Tuy nhiên, theo quan điểm phổ biến, hiệp định Hòa bình tháng 4 năm 1946 và sự thành lập chính phủ Liên minh giữa Quốc Dân Đảng và Cộng hòa Đông Turkestan đã đặt dấu chấm hết cho thời kỳ bạo lực ở Tân Cương, mở ra thời kỳ hòa hoãn nhưng vẫn tồn tại xung đột âm ỉ giữa chính quyền Quốc Dân Đảng và Cộng hòa Đông Turkestan, giữa các dân tộc với nhau, giữa Liên Xô và Trung Quốc và nhiều xung đột khác.

3/ Kết quả của loạn Y Lê và các sự kiện sau đó.

*Thay đổi nhân khẩu học Tân Cương sau loạn Y Lê

Không có quá nhiều sự thay đổi về dân số các dân tộc ở Tân Cương sau thời kỳ bạo lực của cuộc nổi dậy Y Lê. Người Duy Ngô Nhĩ vẫn chiếm đông nhất, dân số không chịu mất mát lớn. Người Kazakh vẫn độc chiếm 2 khu đồng cỏ Altay và Y Lê, dân số tăng đều, thường trực là dân tộc lớn thứ 2 ở Tân Cương. Các dân tộc Turk khác như Kyrgyz, Tajik, Uzbek,… hay các sắc dân Hồi, Mông, Tạng về cơ bản là không đổi. Thậm chí người Hồi còn tăng đáng kể, do theo chân các đoàn quân người Hồi tăng viện đã lợi dụng để di dân vào Tân Cương. Còn người Tajik do bị tàn phá mùa màng nên năm 1947 có vài vạn người Tajik đã di cư khỏi Tân Cương để sang Liên Xô. Tuy vậy, vẫn có hai sắc dân chịu thay đổi đáng kể dưới đây.

Một là người Hán. Họ là sắc dân chịu thiệt hại nặng nề nhât trong cuộc nổi dậy, không chỉ vì chiến sự mà chủ yếu vì các hành động trả thù tàn bạo của quân Duy Ngô Nhĩ nhằm vào họ. Chỉ riêng tại thành phố Y Ninh nơi khởi phát bạo loạn, 8.000 dân thường người Hán đã bị quét sạch khỏi thành phố. Số người chết không thể thống kê được. Ở các thành phố khác các vụ tàn sát trả thù này ít hơn, một phần do các tướng quân Y Lê như tướng Abdulkerim Abbas đã ra lệnh bảo vệ người Hán ở các thành phố. Tuy vậy, nỗi sợ bị thảm sát cũng khiến hàng chục nghìn dân thường Hán bỏ chạy để trốn về các khu vực do Quốc Dân Đảng kiểm soát, hoặc xa hơn là về Đại lục Trung Hoa thông qua ngả Cam Túc, Tây Tạng, Thanh Hải,… nhiều người vẫn chết trên đường chạy loạn. Chưa kể đến việc quân Y Lê thảm sát tù bình Quốc Dân Đảng trong các nhà tù. Do tình hình loạn lạc, người ta không thống kê được mức suy giảm dân số của người Hán trong giai đoạn này. Tuy nhiên các thống kê sau đó cho thấy, 10 năm đầu dưới thời Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (1950-1960) dân cư người  Hán ở Tân Cương vẫn chỉ quanh mức năm 1944. Mãi đến sự kiện hàng trăm nghìn người Tân Cương vượt biên sang Liên Xô những năm 1960s, quá trình Hán hóa Tân Cương mới được thực hiện.

Thứ 2 là người Nga. Cần nhớ rằng hầu hết dân số Nga ở Tân Cương là tàn quân Bạch vệ trong những năm 20s. Dân số khoảng 3 đến 5 vạn người sống chủ yếu ở vùng thung lũng Y Lê. Họ chính là lực lượng nổ súng đầu tiên khởi loạn ở Y Lê. Tuy nhiên trong khi giữ vai trò tiên phong nổi dậy và hăng hái chiến đấu, vũ khí của lực lượng Bạch Vệ lại chủ yếu là súng trường từ thời Thế chiến 1. Trong khi đó, quân Quốc Dân Đảng lúc đó đã sở hữu tiểu liên và súng máy hiện đại của Thế chiến 2. Sự chênh lệch vũ khí lớn đó đã làm quân Bạch Vệ chịu thiệt hại rất nặng nề. Cho đến mùa hè năm 1946 khi mà Loạn Y Lê kết thúc, người ta miêu tả rằng ‘’người Nga trắng chết gần hết’’. Thật vậy, từ dân số 3 vạn trước loạn Y Lê, sau biến loạn lực lượng quân Bạch Vệ Nga sống sót đếm chưa tới vài nghìn người. Thậm chí đến tận năm 2020 hiện nay dân số Nga ở Tân Cương vẫn chỉ đạt mức 8.000. Các số liệu ước tính rằng mùa hè năm 1946 đã cướp đi 80% quân số Bạch Vệ Nga. Tuy nhiên, các tướng Bạch vệ Nga sống sót sau năm 1949, đều được trọng dụng và có vị trí cao trong chính quyền Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Tiêu biểu như tướng Fyodor Leskin, cựu Bạch vệ sau này trở thành Tư lệnh đầu tiên của Quân đoàn 5 Quân giải phóng Nhân dân Trung Hoa ở Tân Cương.

Trong khi cơ cấu nhân khẩu không bị xáo trộn nhiều, thì vấn đề quốc tịch ở Tân Cương lại phát sinh rắc rối nghiêm trọng. Đó là do ở các vùng chiếm đóng bởi quân Y Lê, chính quyền Cộng hòa Đông Turkestan đã khuyến khích cư dân nhập quốc tịch Liên Xô để dễ đi lại giữa 2 nước. Điều này có cơ sở  từ trước bởi vốn dĩ cư dân ở Trung Á của Liên Xô và ở Tân Cương là các sắc tộc anh em máu mủ, có truyền thống du mục và di dân từ lâu đời. Tuy nhiên, do lo ngại có thể bị Trung Quốc (bất kể Quốc Dân Đảng hay Cộng sản) sáp nhập một ngày nào đó đã khiến các cư dân Tân Cương ồ ạt nhập tịch Liên Xô. Đến hết năm 1948, 40% dân số Tân Cương đã có quốc tịch Liên Xô. Điều này dẫn đến sự di cư phức tạp của người Tân Cương sang Liên Xô những năm đầu Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tiếp quản. Đỉnh cao là ‘’sự biến Ita’’ năm 1962 mà Trung Quốc gọi là ‘’Bạo loạn phản cách mạng tháng 5/1962’’, khi hàng trăm nghìn cư dân Tân Cương đã gây bạo loạn, đập phá nhà máy, nông trường và đòi di cư sang Liên Xô. Sự kiện làm dân số Tân Cương giảm mạnh, đất đai, nhà máy bị bỏ hoang, kinh tế sụp đổ, biên cương hỗn loạn,… đã buộc chính quyền Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tăng cường đưa người Hán lên Tân Cương, vừa giữ đất vừa làm kinh tế. Đó chính là mở đầu cho sự Hán hóa Tân Cương như ngày nay.

*Bất ổn trong năm 1947

Dù đạt được hòa bình và thành lập chính phủ liên minh năm 1946, nhưng qua năm 1947 các mâu thuẫn lại nảy sinh giữa Quốc Dân Đảng và Cộng hòa Đông Turkestan.

Bắt đầu do tình hình Nội chiến Trung Hoa diễn biến bất lợi khiến Quốc Dân Đảng phải triệu tướng Trương Trì Trung – lúc đó đang làm Chủ tịch chính phủ Liên minh ở Tân Cương về đại lục để chống quân Cộng sản. Tướng Trương Trì Trung là một người có các chính sách bình đẳng để xoa dịu người Duy Ngô Nhĩ, do đó được dân Tân Cương ủng hộ. Việc tướng Trương bị điều khỏi Tân Cương gây lo ngại Quốc Dân Đảng có thể thay thế một người phân biệt người thiểu số lên nắm quyền ở đây.

Ban đầu Quốc Dân Đảng hứa hẹn sẽ đưa một người trung dung và là người Hồi giáo lên để xoa dịu dân Tân Cương. Người ban đầu được chọn chính là viên tướng nổi tiếng Bạch Sùng Hy (白崇禧) – sau này là bộ trưởng Quốc Phòng Trung Hoa Dân Quốc. Tuy nhiên, vào sát ngày nhậm chức, Bạch Sùng Hy bất ngờ được thay thế bằng một tướng dân tộc Hồi khác là Masub Sabri (Mạch Tư Võ Đức Sa Tỷ Nhĩ). Cách lãnh đạo Duy Ngô Nhĩ cực lực phản đối, phó chủ tịch Ehmetjan Qasim yêu cầu Tưởng phải thay thế Masub Sabri nhưng không được chấp thuận. Qasim tức giận, từ chức phó chủ tịch chính phủ liên minh, từ đó chính phủ liên minh ở Tân Cương sụp đổ.

Masub Sabri là một viên tướng thù ghét người Duy Ngô Nhĩ, ưu ái người Hán và Hồi. Khi nắm quyền tại Dihua ông ra lệnh giới nghiêm, không cho người dân ra đường sau 11h tối. Đặc biệt, Masub còn cưỡng bức nhiều phụ nữ Duy Ngô Nhĩ phải kết hôn với đàn ông người Hán. Điều này làm người Duy Ngô Nhĩ vô cùng phẫn nộ. Nhiều đám cưới bị người Duy Ngô Nhĩ tràn vào phá hoại, giết người thậm chí giết cả phụ nữ Duy Ngô Nhĩ chịu kết hôn với người Hán.

11

Masub Sabri – chủ tịch chính phủ Liên minh ở Tân Cương năm 1947. Thời kỳ của ông đánh dấu giai đoạn Tân Cương bất ổn với những xung đột đẫm máu giữa người Duy Ngô Nhĩ và người Hán, Hồi

Đến tháng 9/1947, sau những căm hận dồn nén, người Duy Ngô Nhĩ ở ốc đảo Thổ Lỗ Phiên (Turfan), miền Nam Tân Cương nổi dậy chống chính quyền thân Quốc Dân Đảng ở Dihua và các chính sách áp bức bất công. Để dập cuộc nổi dậy, năm 1948 Quốc Dân Đảng cho tướng người Hồi Mã Trình Tường từ Thanh Hải hành quân đến Thổ Lỗ Phiên trấn áp. Sau khi đánh bại cuộc nổi loạn của người Duy Ngô Nhĩ, quân của Mã Trình Tường được kể là đã có hành động man rợ như xẻ thịt người Duy Ngô Nhĩ ăn thịt. Điều này càng làm dân chúng Duy Ngô Nhĩ oán hận. Tận dụng cơ hội này, các cố vấn Liên Xô lại đến xúi giục một cuộc nổi dậy mới. Dân chúng Duy Ngô Nhĩ đã gây bạo loạn, tàn sát người Hán trong suốt năm 1947, khiến tình trạng đổ máu nghiêm trọng trở lại.

Tuy nhiên, lần này phong trào độc lập của người Duy Ngô Nhĩ không còn phụ thuộc vào Liên Xô như trước kia. Chủ nghĩa dân tộc Turk trong người Duy Ngô Nhĩ đã phát triển mạnh, dẫn đến nhiều người Duy Ngô Nhĩ không thích sự có mặt của cố vấn Liên Xô ở Tân Cương. Ở nhiều nơi cố vấn Liên Xô đi qua, các bức điện của tình báo Mỹ nói rằng dân chúng Tân Cương la ó phản đối Liên Xô. Họ hô khẩu hiệu rằng ‘’chúng ta đã thoát khỏi tay bọn da vàng [Trung Quốc], nay cần thoát khỏi tay bọn da trắng [Liên Xô]’’. Ở các vùng Cộng hòa Đông Turkestan chiếm đóng, việc xuất bản các ấn phẩm tuyên truyền chủ nghĩa Đại Thổ (pan-Turkic) được đẩy mạnh, điều khiến Liên Xô lo ngại có thể lan truyền làn sóng ly khai đến vùng Trung Á của Liên Xô.

Chưa đủ hỗn loạn cho năm 1947, chính quyền Quốc Dân Đảng còn đổ thêm dầu vào lửa bằng cách xúi quân người Kazakh của Osman Batyr tấn công Cộng hòa Đông Turkestan đệ Nhị. Tháng 9/1947, quân của Osman Batyr từ vùng Altay tràn xuống vùng Y Lê, tấn công chính quyền Cộng hòa Đông Turkestan đệ nhị. Quân Kazakh đã sát hại nhiều người Duy Ngô Nhĩ và người Nga ở vùng Y Lê, khiến Liên Xô phải cho binh sĩ và cố vấn đến giúp Cộng hòa Đông Turkestan chống lại quân Kazakh của Osman.

Tất cả những sự kiện trên tạo ra một năm 1947 đẫm máu và biến động trên khắp vùng Tân Cương.

*Nội chiến Trung Hoa kết thúc – Trung Hoa Dân Quốc sụp đổ.

Phần này không cần nói quá nhiều. Đơn giản là đến năm 1949 nội chiến Trung Hoa kết thúc với thắng lợi của Đảng Cộng sản Trung Quốc do Mao Trạch Đông lãnh đạo. Trung Hoa Dân Quốc sụp đổ, Tưởng Giới Thạch phải chạy ra Đài Loạn. Những vấn đề ở Tân Cương từ đó chẳng còn ý nghĩa với Quốc Dân Đảng nữa. Ở những nơi đang chiến đấu với quân Y Lê, quân Quốc Dân Đảng buông súng đầu hàng. Ở Dihua lúc đó còn 10 vạn quân Quốc Dân Đảng do Đào Trì Nhạc (陶峙岳) và một tướng Bạch vệ đào ngũ là Burhan Shahidi chỉ huy, chỉ còn chờ quân Giải phóng lên để giải giáp. Chính quyền Quốc Dân Đảng ở Tân Cương sụp đổ, nhiều nơi bàn giao lại cho Cộng hòa Đông Turkestan.

Tuy nhiên không phải tướng nào của Quốc Dân Đảng cũng buông súng. Tướng người Hồi Mã Trình Tường đào thoát ngoạn mục qua Ấn Độ và từ đó mang quân sang Đài Loan. Các tướng gốc Duy Ngô Nhĩ của quốc dân Đảng thì thoát sang Thổ Nhĩ Kỳ. Riêng Masud Sabri thì bị bắt và chết trong tù của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Đáng kể nhất là Osman Batyr, lãnh đạo người Kazakh chống Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đến năm 1951 mới bị bắt xử tử.

*Vụ tai nạn của đoàn chính phủ Cộng hòa Đông Turkestan đệ nhị – quân giải phóng tiếp quản Tân Cương

Với sự sụp đổ của Trung Hoa Dân Quốc, các lãnh đạo Cộng hòa Đông Turkestan đã có một thời gian vui mừng ngắn ngủi rằng từ đây đã có thể độc lập khỏi Trung Hoa. Niềm vui ngắn đó kết thúc khi họ biết được rằng quân Giải phóng PLA của Mao Trạch Đông đang có ý định sáp nhập Tân Cương. Để giải quyết việc này, các lãnh đạo Cộng hòa Đông Turkestan quyết định cùng nhau đến Bắc Kinh để trực tiếp đàm phán với Mao Trạch Đông về độc lập.

Nhưng Tân Cương lúc đó không có sân bay và máy bay bay thẳng đến Bắc Kinh mà phải nhờ Liên Xô sắp xếp. Ngày 22/8/1949, các lãnh đạo cao cấp của chính phủ Cộng hòa Đông Turkestan đệ Nhị như Abdulkerim Abbas, Ehmetjan Qasim, Ishaq Beg Munonov, Dalelkhan Sugirbayev, La Trường Sinh cùng nhiều người khác trong chính phủ tổng cộng khoảng 20 người, đi đến thủ đô Almalty của nước Cộng hòa Kazakhstan trong lãnh thổ Liên Xô.  Từ đó họ đi máy bay đến Novosibirsk trên đất Nga. Tại đây người Nga đã trì hoãn không rõ lý do, và đến ngày 26/8/1949 máy bay mới tiếp tục bay đến Bắc Kinh. Tuy nhiên khi bay qua vùng hồ Baikal, máy bay IL-12 đã phát nổ, giết chết toàn bộ người trên máy bay bao gồm đoàn chính phủ Tân Cương.

12

Mẩu báo của Cộng hòa Nhân Dân Trung Hoa thông báo việc lãnh đạo Tân Cương Ehmetjan Qasim thiệt mạng trong tai nạn máy bay

Điều đáng ngờ hơn nữa là thông tin về vụ tai nạn rất nhỏ giọt. Phải đến tận ngày 3/9/1949 Liên Xô mới gửi 2 bức điện riêng biệt báo về Bắc Kinh cho Mao Trạch Đông và về Y Ninh cho chính phủ Cộng hòa Đông Turkestan đệ Nhị, nói rằng đoàn chính phủ Tân Cương đã gặp tai nạn máy bay và thiệt mạng, còn lại không tiết lộ gì thêm. Thậm chí đến tháng 12, thông tin về cái chết của đoàn chính phủ Tân Cương mới được công bố rộng rãi cho người dân Trung Quốc. Vụ tai nạn từ đó chìm sâu vào bí ẩn. Mãi đến khi Liên Xô tan rã vào năm 1991, một số tướng lĩnh và sĩ quan cấp cao của KGB (trong số đó có trùm mật vụ khét tiếng thời Thế chiến 2 Pavel Sudoplatov) mới tiết lộ rằng 5 nhà lãnh đạo đã bị giết theo lệnh của Stalin, trong một thỏa thuận với Mao Trạch Đông. Theo đó, Stalin đã đánh đổi trao Tân Cương cho Trung Quốc để giữ lại Mông Cổ độc lập.

Với việc toàn bộ lãnh đạo cao cấp của chính phủ thiệt mạng, Cộng hòa Đông Turkestan phải cử một thành viên khác là Saifuddin Azizi – người đã không lên máy bay Liên Xô – đi tàu hỏa tới Bắc Kinh đàm phán. Lúc này, Saifuddin Azizi rõ ràng ở thế quá yếu, không thể thay đổi được gì. Đàm phán kết thúc nhanh chóng sau khi Saifuddin Azizi chấp nhận rằng quân PLA của Mao Trạch Đông sẽ tiếp quản Tân Cương trong thời gian sớm.

Ngày 12/10/1949, quân Giải phóng Nhân dân Trung Hoa (PLA) vượt qua Cam Túc tiến vào Tân Cương, trước hết đi qua các vùng do Quốc Dân Đảng nắm giữ. Quân Quốc Dân Đảng ở đây hầu hết bỏ vũ khí quy hàng. Vài ngày sau đó, PLA tiến vào Dihua, thủ phủ của Tân Cương và đổi tên nó thành Urumqi. Tướng Quốc Dân Đảng ở Dihua là Đào Trì Nhạc và Burhan Shahidi dẫn 10 vạn quân ra hàng. Ngay sau đó 10 vạn quân được sung ngay vào hàng ngũ PLA, 2 tướng Đào và Burhan được nhận ngay quân hàm cấp tá của PLA. Tướng Đào Trì Nhạc sau đó được bổ nhiệm làm tư lệnh quân đoàn 22 của PLA. Lý do là PLA đã chủ trương ‘’ổn định càng nhanh càng tốt tình hình Tân Cương, chấp nhận ân xá và sử dụng ngay toàn bộ tàn quân Quốc Dân Đảng, tránh tình trạng bất mãn chống đối’’. Điều này đã có tác dụng yên ổn ngay lập tức tình hình Tân Cương, khi 10 vạn quân Quốc Dân Đảng không chống cự mà được gia nhập quân PLA, bắt tay ngay vào xây dựng kinh tế Tân Cương.

13

Tướng Đào Trì Nhạc của Quốc Dân Đảng ở Dihua – sau đầu hàng và trở thành tư lệnh quân đoàn 22 của PLA.

Sau khi tiếp quản vùng Quốc Dân Đảng, quân PLA tiếp tục tiến về phía Tây tiếp quản vùng do quân Y Lê chiếm giữ. Lúc này do toàn bộ chính phủ đã thiệt mạng, quân Y Lê không còn ý chí kháng cự. Lãnh đạo tạm thời của họ là Saifuddin Azizi dẫn quân đội quốc gia Y Lê ra bờ sông Manas để đón quân Giải phóng nhân dân vượt sông. Hai bên gặp nhau tay bắt mặt mừng trên bờ sông Manas. Ngay sau đó Saifuddin Azizi được Cộng hòa nhân dân Trung Hoa bổ nhiệm là Chủ tịch tỉnh Tân Cương, sau trở thành Khu tự trị Tân Cương.

Công việc tiếp quản Tân Cương của Quân giải phóng nhân dân Trung Hoa diễn ra tương đối êm đẹp và không đổ máu. Nguyên nhân lớn do chính phủ Tân Cương đã bị thủ tiêu, triệt tiêu ý chí đấu tranh của người Tân Cương. Nhưng điều đó cũng tạo điều kiện cho vùng Tân Cương được ổn định và nhanh chóng bắt tay phục hồi kinh tế và cuộc sống ngay sau đó, tuy nhiên về sau gặp khá nhiều khó khăn.

12

Quân PLA tiến vào Dihua

13

Quân đội Quốc gia Y Lê và Quân Giải phóng nhân dân Trung Hoa gặp nhau bên sông Manas.

Đầu tiên là các nhóm cướp người Kazakh sót lại của Osman Batyr vẫn chiến đấu chống lại CHND Trung Hoa, phải đến năm 1951 mới dẹp xong. Rồi tiếp đến việc Liên Xô kích động dân chúng Tân Cương vượt biên. Nên nhớ rằng thời Cộng hòa Đông Turkestan đệ Nhị, Liên Xô đã cấp quốc tịch cho 40% dân số Tân Cương. Do đó khi Trung Quốc tiếp quản, Liên Xô đã kích động những người này di cư sang Liên Xô, gây mất ổn định Trung Quốc. Người Trung Quốc gọi sự việc này bằng câu tục ngữ ‘’Cưu chiêm thước sào’’ (“鸠占鹊巢”) – chim khách chiếm tổ tu hú – ám chỉ việc Liên Xô biến người Tân Cương thành công dân nước mình. Đến năm 1962, sự việc đẩy lên đỉnh cao với việc hàng vạn người Tân Cương gây bạo loạn, đập phá để được di cư sang Liên Xô. Từ đó hàng trăm nghìn người đã di cư sang Liên Xô, làm kinh tế, xã hội Tân Cương sụp đổ. Chính quyền Trung Quốc sau đó phải đưa người Hán lên Tân Cương giữ đất và làm kinh tế, dẫn đến tình trạng Hán hóa như ngày nay.

4) Đánh giá và ý nghĩa lịch sử của Loạn Y Lê

Loạn Y Lê được coi là kết thúc trên thực tế năm 1946, dù trên danh nghĩa nó không chấm dứt cho đến khi Trung Hoa Dân Quốc sụp đổ năm 1949.

Nhà nước Cộng hòa Đông Turkestan tồn tại như một nhà nước vệ tinh của Liên Xô trong 5 năm từ 1944 đến 1949. Lãnh thổ bao phủ hầu hết Tân Cương, hệ thống chính quyền, quân đội, giáo dục,… học theo Liên Xô. Cộng hòa Đông Turkestan cho đến nay vẫn là mô hình nhà nước cao nhất mà người Duy Ngô Nhĩ đạt được trong lịch sử. Tuy nhiên, những tính toán chính trị giữa các nước lớn đã nghiền nát nhà nước này. Từ đó đến nay, Tân Cương vẫn là một phần lãnh thổ của Trung Quốc.

Dù điễn ra trong thời gian thế chiến 2, loạn Y Lê năm 1944 ở Tân Cương không ảnh hưởng đến kết cục Thế chiến, phe phát xít Nhật vẫn bị đánh bại. Nhưng Loạn Y Lê có ảnh hưởng rất lớn tới lịch sử Trung Hoa. Ý nghĩa lớn nhất được Trung Quốc đề cập đó là việc chuẩn bị sẵn những cơ sở cách mạng cộng sản ở Tân Cương, tạo điều kiện cho quân Giải phóng tiếp quản Tân Cương không mất một giọt máu. Dĩ nhiên nó phải được cộng hưởng với vụ giết hại các lãnh đạo Tân Cương. Trong Nội chiến Trung Hoa, cuộc nổi dậy ở Tân Cương cũng góp phần đáng kể, cầm chân thường xuyên 10 vạn quân Quốc Dân Đảng ở Tân Cương, giúp đỡ đáng kể cho cách mạng Trung Quốc. Nói tóm lại, sự kiện loạn Y Lê năm 1944 ở Tân Cương đã có ý nghĩa tích cực với tiến trình thống nhất Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ngày nay.

Ngược lại, rõ ràng sự kiện loạn Y Lê ở Tân Cương là một đòn đâm sau lưng Quốc Dân Đảng. Dù không làm thay đổi kết quả thế chiến 2, nhưng nó đã khiến Quốc Dân Đảng bị chia sẻ giữa nhiều mặt trận trong năm 1944 và chịu thiệt hại nặng nề. Trong nội chiến Trung Hoa, nó cũng làm Quốc Dân Đảng phải duy trì một lực lượng đáng kể, không thể chi viện cho các mặt trận khác.

Theo quan điểm của Cộng hòa Nhân Dân Trung Hoa trước kia, sự kiện Loạn Y Lê năm 1944 được gọi là ”Cách mạng 3 huyện” – chỉ 3 huyện đầu tiên khởi phát cách mạng là Yili, Tacheng và Altay. Quan điểm của họ lúc đó coi cuộc nổi dậy ở Tân Cương là cuộc cách mạng của quần chúng nhân dân chống ”chế độ Quốc Dân Đảng phản động”. Tuy nhiên sau đó, quan điểm này đã bị chỉ trích và thay đổi. Đa số người dân Trung Hoa coi sự kiện ở Tân Cương năm 1944 là sự kích động của Liên Xô, âm mưu chia cắt Tân Cương khỏi Trung Quốc. Điều này gây ra một phần bởi các vụ thảm sát tàn bạo nhằm vào dân thường người Hán, cũng như các dân tộc Hồi, Tajik,… Nhiều người Hán bị mất người thân do bị tàn sát trong các sự kiện ở Y Ninh đã phản đối cách gọi này, buộc chính quyền phải thay đổi. Đặc biệt trong bối cảnh Trung Quốc hiện đại phải đối mặt với nguy cơ từ chủ nghĩa ly khai và khủng bố gia tăng ở Tân Cương, việc ca ngợi một cuộc cách mạng mang xu hướng ly khai và bài Hán ở Tân Cương được coi là việc cấm kỵ. Do đó, càng ngày càng có xu hướng xét lại các sự kiện ở Tân Cương năm 1944 đơn thuần là cuộc nổi loạn của chủ nghĩa ly khai, do Liên Xô chống lưng nhằm chia cắt Trung Quốc.

Nhìn toàn diện thời kỳ Liên Xô can thiệp vào Tân Cương, quan điểm của Cộng hòa Nhân Dân Trung Hoa cũng không đồng nhất. Trong khi ca ngợi những cơ sở cách mạng vô sản mà Liên Xô và các chính quyền tay sai của họ xây dựng ở Tân Cương, điều được coi là đặt cơ sở cho việc hợp nhất của Tân Cương vào Trung Quốc sau đó, thì nhiều người dân Trung Quốc vẫn coi các cuộc can thiệp quân sự của Liên Xô, nhất là trong năm 1934 là ”xâm lược”. Các liệt sĩ Liên Xô ở Tân Cương năm 1934 trước đây không được Cộng hòa Nhân Dân Trung Hoa thừa nhận là ”liệt sĩ”. Quan điểm này càng phổ biến dưới thời chia rẽ Trung-Xô trong chiến tranh Lạnh. Phải đến năm 2011, mới có những hành động nhất định, cụ thể như việc quy tập 79 hài cốt lính Liên Xô dưới chân đèo Dawan Cheng ở Tân Cương về nghĩa trang Công viên sinh thái Đông Sơn – chôn cất chung với các liệt sĩ Cộng hòa nhân dân Trung Hoa công nhận trong ‘’Cách mạng 3 huyện’’.

14

Tiền giấy in kỷ niệm cách mạng Y Lê do Cộng hòa Đông Turkestan phát hành năm 1945

15

Một ngôi mộ trong nghĩa trang Cách mạng 3 huyện ở Tân Cương – viết bằng cả chữ Hán và Duy Ngô Nhĩ


Tham khảo:

-Warlords and Muslims in Chinese Central Asia: A Political History of Republican Sinkiang 1911-1949 (Andrew D. W. Forbes).

-The Ili Rebellion: The Moslem Challenge to Chinese Authority in Xinjiang, 1944–1949 (Linda Benson).

-“Unsuccessful attempts to resolve political problems in Sinkiang; extent of Soviet aid and encouragement to rebel groups in Sinkiang; border incident at Baitag Bogd” (Ralph E. Perkins).

-Modern China’s Ethnic Frontiers (Hsiao-ting Lin).

-Community Matters in Xinjiang 1880–1949 (Ildikó Bellér-Hann)

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s