Kevin Lê
NGUỒN GỐC CHIẾN TRANH
Khái niệm: Chiến tranh trăm năm là những cuộc xung đột liên tiếp của hai nước Pháp, Anh kéo dài qua nhiều thế hệ do tranh chấp đất đai và ngai vàng nước Pháp. Cuộc chiến có 4 giai đoạn : giai đoạn 1( 1337-1360) , giai đoạn 2 ( 1369-1389), giai đoạn 3 (1415-1429), giai đoạn 4 (1429-1453).
Nguồn gốc mâu thuẫn bắt đầu từ 400 năm trước khi cuộc chiến nổ ra. Năm 911, Charles III của Pháp của nhà Caroling cho phép những người Viking định cư ở một vùng đất thuộc vương quốc của ông (vùng đất sau này được gọi là Normandy). Năm 1066, những người Norman do công tước William xứ Normandy (còn gọi là William the Conqueror – William kẻ chinh phục) chỉ huy đã chinh phục nước Anh, đánh bại những người Anglo-Saxon trong trận Hastings và xây dựng một hệ thống quyền lực Anh-Norman mới tại Anh. William lên ngôi vua, tức William I của Anh. Sự kiện này bắt đầu mối bất hòa giữa hai nước Anh và Pháp, vì William giờ đã là vua Anh nhưng trên danh nghĩa vẫn là công tước Normandy, nghĩa là vẫn phải xưng thần với vua Pháp. Người Anh tất nhiên không hài lòng vì vua của mình phải ở địa vị thấp hơn vua của một nước ngang tầm, còn người Pháp lại e sợ rằng thông qua Normandy, thế lực của người Anh sẽ xâm nhập vào Pháp.
Trong thời kỳ nội chiến và hỗn loạn ở Anh giai đoạn 1135-1154, triều đình của người Anh-Norman đã bị thay thế bởi những vương công xứ Anjou (sau khi họ lên ngôi vua nước Anh thì thường gọi là hoàng tộc Plantagenet). Ở đỉnh cao quyền lực, thế lực của họ bành trướng vào nước Pháp, những người Plantagenet kiểm soát xứ Normandy và nước Anh, cộng thêm các vùng Maine, Anjou, Touraine, Gascogne, Saintonge và Aquitaine. Do kiểm soát một lãnh địa rộng lớn như vậy nên triều đình này đôi khi còn được nhắc tới với tên gọi Đế chế Angevin. Vua nước Anh về danh nghĩa là chư hầu của vua Pháp, nhưng lại kiểm soát nhiều đất đai hơn chính vua Pháp. Tình trạng này dẫn đến mâu thuẫn kéo dài sau đó. Người Pháp đã giải quyết mâu thuẫn này bằng ba cuộc chiến có ý nghĩa quyết định: Cuộc chinh phục Normandy (1214), Chiến tranh Saintonge (1242) và Chiến tranh Saint Sardos (1324). Các cuộc chiến này khiến người Anh mất nhiều lãnh địa ở châu Âu. Họ mất hoàn toàn xứ Normandy và chỉ còn giữ lại một số tỉnh tại vùng Gascogne (tiếng Anh: Gascony). Vào đầu thế kỷ 14, nhiều quý tộc Anh vẫn mơ tưởng về một thời kỳ huy hoàng trong quá khứ, khi cha ông họ nắm giữ nhiều vùng đất trù phú ở Pháp. Họ bắt đầu vận động cho cuộc chiến giành lại những vùng đất giàu có như Normandy và cho rằng chúng xứng đáng thuộc về họ. Trong khi đó trên danh nghĩa nước Anh vẫn là một chư hầu của nước Pháp. Cho đến nửa sau thế kỷ 14, tiếng Pháp vẫn là tiếng nói chính thức trong giới quý tộc ở Anh.
Sau khi Philippe VI lên ngôi vua nước Pháp, người Anh vẫn kiểm soát xứ Gascogne, một vùng đất giàu có nhờ các sản vật quan trọng như muối ăn và rượu vang. Gascogne trở thành lãnh địa tranh chấp của cả hai phía Anh và Pháp. Tuy nhiên, năm 1331, do phải đối mặt với những vấn đề quốc nội, Edward III từ bỏ quyền thừa kế ngai vàng nước Pháp, thừa nhận Philippe là vua nước Pháp để đổi lấy việc được giữ vùng Gascogne.
Năm 1333, Edward III tấn công David II của Scotland, một đồng minh của Pháp trong liên minh Auld, cuộc Chiến tranh giành độc lập lần thứ hai của Scotland bắt đầu. Philippe VI muốn nhân cơ hội này để đánh chiếm vùng Gascogne. Tuy nhiên, cuộc chiến kết thúc nhanh hơn dự tính của người Pháp khi Edward III và Edward Balliol đánh bại David II trong trận Halidon Hill vào tháng 7 năm 1333. David II phải lưu vong sang Pháp; năm 1336 Philippe VI bắt đầu vạch kế hoạch phục hồi ngôi vị cho David II và đánh chiếm vùng Gascogne
HẢI CHIẾN SLUYS SỰ CHỐNG TRẢ QUYẾT LIỆT CỦA SỨ SỞ SƯƠNG MÙ TỪ BÊN KIA EO BIỂN
Chiến tranh giai đoạn 1( 1337-1360)
Tình hình bắt đầu trở nên căng thẳng khi các tàu chiến của Pháp tuần tiễu bên ngoài các khu dân cư ven bờ eo biển Anh. Năm 1337, Philippe VI tuyên bố các điền địa ở xứ Gascogne là thuộc sở hữu nước Pháp. Edward III đáp trả bằng tuyên bố rằng ông mới là người thừa kế hợp pháp của ngai vàng nước Pháp. Những đụng độ quân sự lẻ tẻ bắt đầu nổ ra ở vùng duyên hải của Anh và Pháp. Tháng 12 năm 1338, quân Pháp tấn công Gascogne, chiến tranh chính thức bắt đầu.
Khi cuộc chiến bắt đầu, dân số Pháp vào khoảng 17 triệu người, trong khi dân số Anh chỉ vào khoảng 4 triệu. Pháp cũng được coi là có ưu thế hơn về kỹ chiến thuật quân sự. Trong những năm đầu tiên, Edward III liên minh với các nước chư hầu nhỏ thuộc vùng nước Đức ngày nay và xứ Vlaanderen, nhưng sau hai chiến dịch không thu được gì, liên minh tan rã vào năm 1340. Chi phí phải trả cho những vương công các nước chư hầu ở Đức và duy trì lực lượng quân đội đồn trú ở nước ngoài khiến nước Anh bị phá sản, ngân khố trống rỗng và uy tín của Edward III suy giảm nghiêm trọng. Trên biển, quân Pháp chiếm ưu thế nhờ việc sử dụng các chiến thuyền và thủy thủ của xứ Genoa. Nhiều thành thị ven biển ở Anh bị tấn công và tàn phá, gây ra sự hoảng loạn ở vùng duyên hải. Chiến tranh trên biển tác động rất xấu đến nền kinh tế Anh, khiến giao thương giữa Anh với châu Âu lục địa, việc vận chuyển len và lông cừu cho xứ Vlaanderen, cũng như vận chuyển rượu vang từ Gascogne sang Anh bị gián đoạn. Tuy nhiên, năm 1340, trong trận Sluys, gần như toàn bộ hải quân Pháp bị quân Anh tiêu diệt. Trận đánh đó có ý nghĩa bước ngoặt. Kể từ đó, quân Anh kiểm soát vùng eo biển Anh và ngăn không cho quân Pháp đổ bộ xuống đảo Anh.
CHIẾN THẮNG CỦA NGƯỜI ANH TẠI SỨ SỞ LỤC LĂNG
Năm 1341, những mâu thuẫn trong việc thừa kế lãnh địa Bretagne đã dẫn đến chiến tranh giành quyền thừa kế Breton, trong đó Edward III ủng hộ John Montfort còn Philippe VI đứng sau lưng Charles Blois. Cuộc chiến trong vài năm tiếp sau đó diễn ra giằng co ở Bretagne khi thủ phủ xứ này, thành phố Vannes, đổi chủ vài lần.
Tháng 7 năm 1346, Edward III tổ chức một cuộc tấn công quy mô, vượt qua eo biển Anh và đổ bộ lên Cotentin. Quân Anh đánh chiếm Caen chỉ trong một ngày, gây bất ngờ lớn cho quân Pháp, vốn cho rằng thành phố sẽ giữ được lâu hơn. Philippe VI nhanh chóng tổ chức quân đội tiến hành đánh trả. Edward III quyết định hành quân về phía bắc thay vì đóng quân chiếm đất. Ý thức rằng quân Anh không đông bằng quân Pháp, Edward III chuẩn bị và chờ đợi Philippe VI tấn công trước. Trận Crécy, một trận đánh nổi tiếng, là một thất bại nặng nề với quân Pháp, chủ yếu do sức mạnh của đội quân cung thủ của Anh. Sau trận đánh, Edward III tiến tiếp về phía bắc và bao vây thành phố Calais trên bờ eo biển Anh rồi chiếm được thành phố này năm 1347. Đó là một chiến thắng quan trọng với quân Anh vì kể từ đó, họ có được một chỗ trú quân bền vững và an toàn ở châu Âu lục địa. Cũng trong năm đó, quân Anh giành chiến thắng trước quân Scotland trong trận Neville’s Cross, bắt sống David II và giảm thiểu mối đe dọa từ phía Scotland.
Năm 1348, nạn dịch hạch bùng nổ ở châu Âu. Năm 1350, Philippe VI băng hà, con trai ông, Jean II của Pháp (tiếng Anh là John II), kế vị. Sau đại dịch, nước Anh bắt đầu dần hồi phục về kinh tế cho phép họ tiếp tục cuộc chiến. Năm 1356, con trai của Edward III, trùng tên với ông và là hoàng tử xứ Wales, còn gọi là Black Prince (Hắc Vương tử), tấn công vùng Gascogne và giành được một thắng lợi quan trọng trong trận Poitiers với chiến lược sử dụng các cung thủ giống như ở Crécy. Vua nước Pháp Jean II bị bắt sống trong trận này. Jean II ký một hiệp định ngừng chiến với Edward III và năm sau thì Hòa ước London lần thứ hai được ký, cho phép nước Anh chiếm vùng Nouvelle-Aquitaine và Jean II được tha về.
Nước Pháp thua trận và rơi vào tình trạng hỗn loạn. Năm 1358, một cuộc nổi dậy lớn của nông dân nổ ra, trong khi binh lính thì đi cướp bóc khắp nơi. Edward III tấn công nước Pháp lần thứ ba, và là lần cuối cùng với hy vọng đoạt luôn ngôi vua nước Pháp. Nhưng dù quân Pháp đã yếu đi nhiều, Edward III vẫn không thể chiếm được những thành phố quan trọng như Paris hay Rheims, do vị thái tử, sau này là vua Charles V của Pháp, chiếm giữ. Kết quả là Hiệp ước Brétigny được ký năm 1360. Quân Anh kết thúc giai đoạn này của cuộc chiến với việc giành được một nửa xứ Bretagne, Aquitaine (vào khoảng một phần tư lãnh thổ nước Pháp), Calais, Ponthieu và khoảng một nửa các thành bang phụ thuộc của Pháp, tạo ra một ưu thế rõ rệt giữa nước Anh thống nhất và nước Pháp chia rẽ.
Chiến lợi phẩm thu được sau cuộc chiến chính là hiệp ước Bretigny- một hiệp ước giúp người Anh không những chỉ giữ lại mảnh đất Gascony mà còn nhận thêm nhiều vùng đất lân cận.
BERTRAND DU GUESCLIN GIÚP NƯỚC PHÁP DÀNH LỢI THẾ TRƯỚC ĐỐI THỦ
Tình hình chính trị
Con trai của Jean II của Pháp, Louis I xứ Anjou, được gửi đến Anh làm con tin nhưng bỏ trốn vào năm 1362. Giữ đúng tinh thần hiệp sĩ, Jean II tự mình đến Anh để làm con tin và ông qua đời trên đất Anh năm 1364. Charles V của Pháp thay cha mình trở thành vua nước Pháp.
Hiệp ước Brétigny khiến Edward III của Anh không được phép tranh giành quyền thừa kế ngai vàng nước Pháp nữa, nhưng hiệp ước đó cũng mở rộng lãnh địa của ông ra toàn vùng Aquitaine và khẳng định quyền sở hữu của nước Anh với Calais. Ở Pháp, sau khi lên ngôi, Charles V nhanh chóng tìm cách giành lại những vùng đất đó. Năm 1369, chiến tranh lại bùng nổ.
Giai đoạn 2 của cuộc chiến (1369-1389)
Trong giai đoạn này Pháp chủ động tấn công quân Anh và thu hồi phần lớn đất đai đã mất. Nước Pháp xuất hiện một danh tướng là Bertrand du Guesclin từ Breton giúp họ có được nhiều thắng lợi. Cùng thời điểm này, người anh hùng của nước Anh trong trận Poitiers là hoàng tử đen Edward đang bận tham chiến ở bán đảo Iberia, còn cha ông, Edward III, người cũng đã từng thắng lớn trong trận Crecy, thì đã quá già để trở lại cầm quân. Điều này làm quân Pháp có nhiều lợi thế. Cuộc chiến sau đó có thêm cả sự tham gia của Castile (một xứ thuộc Tây Ban Nha) theo phe Pháp và Bồ Đào Nha theo phe Anh.
Bertrand du Guesclin chỉ huy một loạt chiến dịch theo kiểu tránh giao tranh trực diện với quân Anh. Pháp chiếm lại Poitiers vào 1372 và Bergerac vào 1377. Anh đáp trả bằng một loạt chiến dịch đột kích cướp phá (Chevauchée) nhưng không cản được Du Guesclin.
Với cái chết của Black Prince năm 1376 và Edward III năm 1377, nước Anh tôn Richard xứ Bordeaux, người con trai đang tuổi thiếu niên của Black Prince, lên làm vua tức Richard II. Nước Anh lúc này cũng bị Scotland đe dọa ở phía Bắc. Trong khi đó ở Pháp, Du Guesclin cũng chết vào năm 1380. Chiến tranh Anh – Pháp một lần nữa được tạm dừng với Hòa ước Leulingham năm 1389.
Sau cuộc chiến tranh giai đoạn 2
Năm 1380, Charles V của Pháp qua đời. Charles VI của Pháp mới 12 tuổi lên ngôi và chẳng bao lâu thì bị bệnh thần kinh. Các quý tộc trong nước chia thành hai phe tranh giành ngôi nhiếp chính nước Pháp và quyền bảo trợ cho con cái nhà vua: một phe do Công tước Jean sans Peur xứ Burgundy (tiếng Anh: John the Fearless) và là chú của vua cầm đầu, một phe do Công tước Louis xứ Orléans và là em của vua cầm đầu.
Nước Anh lúc này cũng gặp nhiều kẻ thù. Ireland, Wales và Scotland đều chống lại họ. Họ cũng phải đối mặt với các cuộc đấu đá trong nội bộ triều đình và nạn cướp phá từ ngoại bang nên không thể tiếp tục các chiến dịch ở lục địa. Một người cháu nội khác của Edward III là Henry IV ở ngôi vua từ 1399–1413, và rồi con ông ta là Henry V nối ngôi. Henry V chính là người đã tiếp tục cuộc chiến Anh – Pháp vào năm 1415.
ĐỈNH CAO CỦA NGƯỜI ANH TRONG CHIẾN TRANH
Chiến tranh giai đoạn 3 (1415-1429)
Thời kỳ nước Pháp bị nhấn chìm từ năm 1415-1435 là thời kỳ nổi tiếng nhất của cuộc chiến tranh Trăm Năm. Năm 1414, phe Armagnac đưa ra lời đề nghị với Henry V về việc khôi phục lại các biên giới trong hiệp ước Brétigny (năm 1360) để đổi lại sự giúp đỡ của ông. Henry V từ chối và đòi lại các lãnh thổ từ tận thời Henry II hơn 200 năm về trước cộng thêm những món tiền lớn. Không đàm phán được, cuối cùng hai bên đã gây chiến với nhau. Năm 1415, Henry V dẫn đầu một đội quân đổ bộ và đánh chiếm Harfleur, nhưng nơi này chống cự lâu hơn ông nghĩ khiến những kế hoạch ông dự tính trước bị đổ vỡ. Thay vì tiến vào Paris như kế hoạch, ông hướng về Calais (nơi vẫn đang do Anh chiếm giữ) để trú quân. Trên đường hành quân, quân Anh vừa đi vừa đột kích các vùng của Pháp. Quân đội Pháp tập hợp được một lực lượng lớn hơn nhiều so với quân Anh và đuổi theo Henry V.
Quân Pháp cuối cùng bắt kịp quân Anh ở một địa điểm nằm giữa Tramecourt và Agincourt. Với số lượng áp đảo, họ cho rằng sẽ dễ dàng đánh bại người Anh. Thêm nữa, trong hàng ngũ quân Pháp có rất nhiều quý tộc mà cha ông của họ từng đại bại nhục nhã ở Crecy và Poitiers nên họ đang rất khao khát báo thù. Thế nhưng ở thế không còn đường lui, Henry V đã chỉ huy một trận Agincourt vang dội, đánh tan hoàn toàn quân Pháp và giết rất nhiều quý tộc Armagnac. Từ đây, quân Pháp rơi vào khủng hoảng và liên tục mất đi lãnh thổ.
Sau trận chiến, Henry V quay về nước Anh để chuẩn bị lại quân đội. Sau đó ông quay trở lại Pháp và đánh chiếm phần lớn xứ Normandy, bao gồm cả Caen vào năm 1417 và Rouen vào 1419. Lúc này thì phe Burgundy cũng đã đánh bại phe Armagnac để chiếm Paris và Henry V kết liên minh với họ. Tiếp đó, Henry V ký với vị vua bị bệnh thần kinh Charles VI Hiệp ước Troyes. Theo hiệp ước này, Henry sẽ cưới con gái của Charles là Catherine, và rồi đứa con sinh ra từ cuộc hôn nhân này sẽ cai trị cả nước Anh và Pháp. Sau đó, Henry chính thức tiến vào Paris và Hiệp ước này được phê chuẩn bởi Hội nghị ba đẳng cấp của Pháp. Đó là đỉnh cao của người Anh trong chiến tranh.
JEANNE D’ARC VÀ CHIẾN THẮNG CỦA NGƯỜI PHÁP
Chiến tranh giai đoạn 4 ( 1429-1453)
Năm 1428, người Anh vây đánh thành Orleans, một cứ điểm quan trọng của quân Pháp. Mặc dù quân Anh không thật sự đủ mạnh để công thành nhưng tinh thần của người Pháp lại đang xuống rất thấp và nhiều đơn vị quân đội chần chừ trong việc tiếp viện Orleans. Đúng vào thời điểm này thì Jeanne d’Arc (tiếng Anh: Joan of Arc) xuất hiện để làm vị cứu tinh cho người Pháp.
Xuất thân chỉ là một cô gái nông dân 17 tuổi, Jeanne nói rằng chính Chúa sẽ dẫn dắt mình giải phóng quê hương khỏi tay người Anh. Cô gái trẻ thuyết phục được thái tử Pháp đưa mình tới Orleans vào năm 1429. Với niềm tin mạnh mẽ của mình, Jeanne đã nâng cao nhuệ khí binh sĩ Pháp và đánh bật quân Anh khỏi Orleans.
Được truyền cảm hứng từ Jeanne, quân Pháp liên tiếp giành thắng lợi dọc sông Loire. Tiếp đó, một đội quân Pháp đánh bại quân Anh ở Patay do John Fastolf và John Talbot chỉ huy, mở đường cho thái tử Pháp tới Reims và chính thức được gia miện thành Charles VII. Trận Patay có thể coi như đảo ngược của trận Agincourt khi quân Pháp kịp tấn công trước khi quân Anh dàn xếp xong đội hình phòng thủ.
Thế tiến của quân Pháp bị suy giảm sau sự kiện Jeanne bị người Burgundy bắt giữ và đem bán cho người Anh rồi bị hỏa thiêu (năm 1431). Tuy nhiên vào năm 1435, phái Burgundy lại đổi phe và trao trả Paris cho vua Pháp. Họ quá bận rộn với cuộc chiến ở những vùng đất thấp (nay Hà Lan) nên không thể can dự vào nước Pháp.
Sự hòa hoãn kéo dài đã giúp Charles VII có đủ thời gian để tái tổ chức quân đội và chính phủ. Ông thay thế lực lượng dân quân bằng quân đội chính quy và xây dựng chế độ tập quyền. Một loạt những chiến dịch né tránh kiểu Du Guesclin đã giúp người Pháp liên tiếp lấy lại từng thành phố một, tiến dần đến việc giải phóng hoàn toàn nước Pháp khỏi tay người Anh.
Năm 1449, Pháp lấy lại Rouen. Năm 1450, họ tiếp tục thắng trận Formigny, và rồi tái chiếm Caen, Bordeaux và Bayonne. Năm 1453, tướng John Talbot, nhà lãnh đạo quân sự cuối cùng của Anh còn bấu víu ở nước Pháp, cố gắng lấy lại Gascogne nhưng bị Jean Bureau cùng những khẩu thần công nghiền nát trong trận Castillon. Bản thân ông tướng John Talbot này cũng tử trận ở đây. Đó được xem như trận chiến cuối cùng của cuộc chiến Trăm Năm. Người Anh không còn đủ sức đòi ngôi vua Pháp. Lãnh địa cuối cùng mà họ còn giữ được trên đất Pháp là Calais.
Mãi tới năm 1557, một thế kỷ sau đó, Pháp mới chinh phục lại Calais.
Ý NGHĨA LỊCH SỬ VĨ ĐẠI CỦA CHIẾN TRANH TRĂM NĂM
Chiến tranh Trăm Năm được xem như một thời đại cách mạng về quân sự. Vũ khí, chiến thuật, cơ cấu quân đội và ý nghĩa xã hội của chiến tranh đều thay đổi dựa trên yêu cầu của cuộc chiến, các tiến bộ khoa học kỹ thuật và kinh nghiệm chiến trường. Trước đó, kỵ binh hạng nặng được xem như đơn vị mạnh nhất trên chiến trường. Thế nhưng sau cuộc chiến tranh, quan niệm đó đã thay đổi. Kỵ binh ngày càng bị vô hiệu hóa bởi cung tên dài (sau đó là súng) và những chiến thuật phòng ngự hiệu quả của binh sĩ, như cách người Anh đã đập tan quân Pháp ở Crecy, Poitiers và Agincourt. Chiến tranh Trăm Năm kết thúc cũng là lúc nói lời cáo chung cho hình ảnh các kỵ sĩ oai hùng sống theo đúng tinh thần hiệp sĩ, từng một thời thống trị châu Âu. Trận chiến Castillon cũng đánh dấu lần đầu tiên pháo binh giữ vai trò quyết định.
Một điểm đáng lưu ý nữa là việc cả hai nước Anh Pháp đều đã xây dựng lực lượng quân đội thường trực cho mình vào cuối cuộc chiến tranh. Quân đội thường trực giúp nhà vua có nhiều quyền lực hơn để đối chọi với cả ngoại bang lẫn các mối đe dọa trong nước, và đó cũng là một bước chuyển biến đầu tiên khiến châu Âu đi từ trật tự trung cổ với các lãnh chúa phong kiến (có thể tới giúp hoặc không khi vua kêu gọi) tới thể chế tập quyền hơn của các quốc gia.
Mặc dù giành được những lợi thế về chiến thuật, thế nhưng người Anh không thể nào giành được thắng lợi cuối cùng trước người Pháp vì nước Pháp lớn hơn Anh nhiều và đông dân hơn Anh tới bốn lần. Một vấn đề nan giải đối với người Anh là càng chiếm được nhiều đất thì những yêu cầu cho việc chiếm đóng càng tăng và sức mạnh tấn công của họ càng giảm sút. Thứ mà người Pháp cần là một niềm tin, điều mà Jeanne d’Arc đã truyền được cho họ.
Về mặt xã hội, cuộc chiến cũng đã để lại nhiều sự thay đổi cho hai cả hai phía. Thứ nhất, đó là tinh thần dân tộc. Khởi đầu, nó chỉ là cuộc xung đột giữa hai dòng hoàng tộc Anh – Pháp, nhưng sau đó, nó đã biến thành cuộc xung đột giữa người Anh và người Pháp. Tinh thần dân tộc nảy sinh đã giúp nội bộ của từng quốc gia hợp nhất hơn. Thứ hai đó là vấn đề ngôn ngữ, chiến tranh Trăm Năm đã loại bỏ hoàn toàn tiếng Pháp ra khỏi nước Anh.
Về mặt kinh tế, cả hai nước đều mệt mỏi vì chiến tranh, tuy nhiên Pháp thiệt hại nặng nề hơn nhiều vì hầu như chiến tranh chỉ xảy ra trên đất Pháp. Người Anh thu được nhiều nguồn lợi từ những vùng mà họ tạm chiếm được, nhưng lúc kết thúc cuộc chiến, họ đã mất tất cả lãnh thổ ở lục địa (trừ Calais) và dường như bị bỏ rơi ở một góc châu Âu. Tuy vậy, việc khám phá ra châu Mỹ vào năm 1492 đã đem lại cho người Anh cơ hội mới để phát triển.