Đăng Phạm
Tháng 4 năm 1994 ghi dấu một trong những sự kiện bi thảm nhất lịch sử: nạn diệt chủng Rwanda. Chỉ trong hơn 3 tháng, 1 triệu dân thường của đất nước chỉ có 8 triệu dân đã bị chính đồng bào mình sát hại.
Đa phần những gì chúng ta đã biết hiện nay là: cuộc diệt chủng là hậu quả của cuộc xung đột giữa hai dân tộc Hutu và Tutsi, và năm 1994 người Hutu đã tàn sát người Tutsi.
Tuy nhiên, cuộc diệt chủng này không phải một sự kiện tự bộc phát, không phải gói gọn trong sự xung đột Hutu-Tutsi, và không chỉ nằm trong biên giới Rwanda. Nó liên quan đến rất nhiều sự kiện khác, vừa là nguyên nhân vừa là kết quả của nhiều sự kiện lịch sử, chính trị lớn của cả vùng Hồ Lớn châu Phi, trong đó tiêu biểu là mối quan hệ tương hỗ với các sự kiện ở nước láng giềng anh em Burundi. Giả sử, nếu không biết đến cuộc nội chiến Uganda, nội chiến Rwanda, Mặt trận yêu nước Rwanda (RPF),… người ta sẽ khó để hiểu tại sao cuộc diệt chủng lại diễn ra và tại sao nó kết thúc. Ngược lại, nếu không đặt cạnh diệt chủng Rwanda, sẽ chẳng ai hiểu 2 cuộc chiến tranh đẫm máu ở Congo đã bùng phát thế nào.
Bài viết này cung cấp cái nhìn toàn diện về các sự kiện lịch sử dù ít hay nhiều đều liên quan đến thảm kịch ở Rwanda năm 1994, để mọi người hiểu được một cách hệ thống các sự kiện lịch sử quan trọng của khu vực Hồ Lớn châu Phi – chính là khu vực đẫm máu và nước mắt nhất của thế giới nửa sau thế kỉ 20.
Trước tiên, cần phải biết một số nhân vật chủ chốt sau đây (được sắp xếp theo quốc gia) :
*Người Rwanda
-Paul Kagame: lãnh đạo người Tutsi của Mặt trận Yêu nước Rwanda (RPF), một nhóm vũ trang của người Tutsi chống người Hutu. Chiến thắng quân sự của RUF vào tháng 7 năm 1994 là nguyên nhân trực tiếp chấm dứt cuộc tàn sát, và vì vậy Kagame được coi là người hùng của Rwanda.
Hiện nay ông là tổng thống của Rwanda sau khi đắc cử 3 lần liên tiếp từ năm 2000. Được coi là một lãnh đạo tài giỏi cả về quân sự và kinh tế, từng làm Chủ tịch Liên minh châu Phi (AU). Đặc biệt được biết là có quan hệ rất tốt với Việt Nam, đã sang thăm Việt Nam nhiều lần.
-Grégore Kayibanda: lãnh đạo người Hutu của Rwanda lãnh đạo cuộc cách mạng giành độc lập từ Bỉ, đồng thời là tổng thống đầu tiên của Rwanda độc lập. Ông là một nhân vật thiên vị người Hutu, chủ trương xóa bỏ quyền lực của người Tutsi bằng bạo lực. Chính sách của ông gây nên làn sóng bạo lực và diệt chủng đầu tiên ở Rwanda, khiến hàng trăm nghìn người Tutsi chạy khỏi đất nước, là nguồn cơn của các nhóm vũ trang Tutsi ở nước ngoài.
-Juvénal Habyarimana: tổng thống thứ 2 của Rwanda, nắm quyền từ năm 1973. Ông coi là độc tài và thiên vị người Hutu, gây nên sự chia rẽ trong đất nước đồng thời nền kinh tế suy yếu. Thời kì của ông là lúc các nhóm vũ trang Tutsi ở nước ngoài tấn công Rwanda. Habyarimana là kẻ thù của Paul Kagame và là đồng minh thân cận của nhà độc tài Congo Mobutu Sese Seko.
Ngày 6/4/1994, máy bay chở Habyarimana bị bắn rơi và ông thiệt mạng. Cái chết của ông là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến nạn diệt chủng Rwanda.
*Người Burundi:
-Michel Micombero: nhà độc tài quân sự người Tutsi của Burundi, láng giềng phía Nam của Rwanda rất tương đồng về lịch sử và xã hội. Lên nắm quyền năm 1966, Micombero cai trị đất nước một cách độc đoán, tàn bạo, thù ghét người Hutu. Chế độ của ông đã gây nên một cuộc diệt chủng không kém phần tàn khốc giết chết 300.000 người Hutu vào năm 1972 nhưng ít người biết tới.
-Meldior Ndadaye: tổng thống người Hutu của Burundi. Năm 1993, ông bị quân đội của người Tutsi ám sát chỉ 3 tháng sau khi lên nắm quyền. Cái chết của ông dẫn đến cuộc nội chiến kéo dài hàng thập kỷ của Burundi, đồng thời châm ngòi cho cuộc diệt chủng nhằm vào người Tutsi năm 1993, làm 100.000 người thiệt mạng diễn ra chỉ 1 năm trước thảm họa năm 1994 Rwanda.
-Cyprien Ntaryamira: tổng thống Burundi tiếp sau Meldior Ndadaye, cũng là người Hutu. Giống như người tiền nhiệm, ông chết chỉ sau 2 tháng cầm quyền. Ngày 6/4/1994, ông ngồi chung trên chiếc phi cơ bị bắn hạ cùng tổng thống Rwanda Juvénal Habyarimana, cả 2 người thiệt mạng, làm bùng nổ cuộc diệt chủng kinh hoàng ở Rwanda.
*Người Uganda
-Idi Amin Dada: nhà độc tài tàn bạo, tổng thống Uganda từ năm 1971 sau khi lật đổ tổng thống Milton Obote. Dưới chế độ của mình, Idi Amin sát hại nửa triệu người, gây nên sự phẫn nộ trong cả quân đội lẫn người dân Uganda. Năm 1979, Idi Amin phát động cuộc xâm lược vào Tanzania bất thành, ông bị quân đội Tanzania cùng quân kháng chiến Uganda lật đổ.
-Milton Obote: tổng thống đầu tiên của Uganda sau khi giành độc lập từ Anh. Năm 1971, Obote bị Idi Amin lật đổ nhưng đến năm 1979 đã lật đổ lại Idi Amin. Tuy nhiên, chế độ mới của ông không kém phần tồi tệ, khiến ông phải đối mặt với cuộc nổi dậy của nhiều nhóm vũ trang trong cả nước. Năm 1985, ông lại bị quân đội của mình lật đổ.
-Tito Okello: chỉ huy quân đội Uganda, lật đổ tổng thống Obote năm 1985 để lên làm tổng thống. Tuy nhiên chính quyền của ông chỉ kéo dài 1 năm trước khi bị quân nổi dậy của Yoweri Museveni đánh bại.
-Yoweri Museveni: chỉ huy quân đội Uganda, lãnh đạo quân nổi dậy trong cuộc chiến chống cả Idi Amin lẫn Milton Obote. Nắm quyền từ năm 1986 sau khi đánh bại quân đội của Tito Okello và đến nay vẫn là Tổng thống của Uganda. Yoweri Museveni trước kia là đồng minh rất quan trọng của lãnh đạo Rwanda Paul Kagame nhưng sau đó 2 xuất hiện xung đột.
*Người Tanzania:
-Julius Nyerere: tổng thống Tanzania theo đường lối Xã hội chủ nghĩa. Ông đồng thời là một nhà tư tưởng, lý luận chính trị nổi tiếng của châu Phi, khi mà các lý luận của ông ảnh hưởng rất nhiều đến các quốc gia khu vực. Nyerere được coi là Đồng minh của lãnh đạo Rwanda Paul Kagame, cũng như nhà lãnh đạo Uganda Museveni và lãnh đạo Congo Laurent Kabila.
*Người Congo:
-Mobutu Sese Seko: nhà độc tài Congo (thời của ông có tên là Zaire) cai trị đất nước suốt 32 năm từ năm 1965 đến 1997. Ông là một nhà độc tài không tàn bạo, nhưng nổi tiếng tham nhũng, khiến đất nước kiệt quệ. Mobutu là đồng minh của chính quyền người Hutu ở Rwanda và là kẻ thù của Paul Kagame. Năm 1997, ông bị quân đội của Laurent Kabila, một người Cộng sản cũ lật đổ.
-Laurent-Désiré Kabila: nhà cựu Cộng sản (nhấn mạnh là cựu), nhà cách mạng Marxist người Congo, người lật đổ Mobutu Sese Seko để lên nắm quyền năm 1997. Kabila từng là đồng minh lớn của Paul Kagame trong cuộc chiến lật đổ Mobutu Sese Seko. Tuy nhiên, sau này vì nhiều lý do ông đã trở thành địch thủ của Rwanda cũng như Uganda. Năm 2001, ông bị phiến quân thân Uganda ám sát.
-Joseph Kabila: con trai của Laurent-Désiré Kabila, trở thành tổng thống sau khi cha bị ám sát. Trái với cha, Joseph đã hàn gắn và trở nên thân thiết với Paul Kagame, giúp kết thúc cuộc chiến đẫm máu ở Congo. Joseph thường nói ”vẫn luôn coi Kagame là đồng chí của cha tôi”.
Các sự kiện lịch sử:
1/ Lịch sử thời đầu và quá trình phân quyền Hutu-Tutsi.
Chủ nhân đầu của vùng đất Rwanda không phải người Hutu hay Tutsi, mà là người Twa.
Người Twa là một trong những tộc người lâu đời nhất hành tinh. Các bằng chứng cho thấy người Twa đã sống ở Rwanda ít nhất 35.000 năm trước. Họ có đặc điểm là rất thấp lùn, nên được xếp vào chủng tộc Pygmy (người lùn), dễ dàng phân biệt với các nhóm người còn lại. Dân tộc này ít canh tác, sống bằng săn bắt và làm trò mua vui để đổi lấy lương thực. Dù dân số ít, chỉ chiếm 1% nhưng vì nguồn gốc lâu đời, người Twa vẫn được tôn trọng và được coi là một trong ba nhóm sắc tộc chính ở Rwanda và Burundi. Mặc dù vậy, người Twa hiện nay ngày càng lạc hậu, thậm chí vẫn sống bằng săn bắt hái lượm như thời nguyên thủy, luôn có nguy cơ bị gạt khỏi xã hội. Thậm chí nhiều người còn lo ngại nguy cơ tuyệt chủng người Twa do sự phá rừng ở Rwanda. Hiện nay 40% người Twa ở Rwanda sinh sống bằng nghề ăn xin.
Người Hutu, một dân tộc có nguồn gốc Congo, di cư đến Rwanda từ miền Đông Congo. Dân tộc này sống chủ yếu bằng nông nghiệp, nhưng không quá phát triển. Họ không có hoặc rất ít gia súc, vì vậy phải vay mượn gia súc của người Tutsi hoặc làm công cho người Tutsi. Dù vậy, họ có dân số rất lớn, hiện này chiếm lần lượt 84% và 85% dân số ở Rwanda và Burundi. Nhưng vì kinh tế, không mạnh nên họ không chiếm nhiều quyền lực xã hội, phải chấp nhận sự cai trị của người Tutsi giàu có hơn. Đây là nguyên nhân gây xung đột xã hội dai dẳng nhiều thế kỷ.
Người Tutsi di cư đến muộn hơn, đến từ Ethiopia. Người Tutsi có rất nhiều đặc điểm khác với các sắc tộc còn lại. Họ có vóc dáng cao lớn, kiểu mắt gần giống châu Âu, và đặc biệt là mũi hẹp và cao rất hiếm có ở châu Phi – những đặc điểm được người châu Âu tự cho là riêng có của cái gọi là ”giống người da trắng thượng đẳng” (nhưng thực chất là của người Ethiopia).

Tranh vẽ miêu tả các tộc người Hutu, Tutsi, Twa của Rwanda
Về kinh tế – xã hội, người Tutsi đã sớm vượt trội hơn người Hutu. Người Tutsi bên cạnh làm nông nghiệp, họ đã biết làm sợi may quần áo, biết chế tác đá, làm gốm, nuôi ong, nuôi gia súc…Dần dần, họ dùng tiền thâu tóm đất đai và gia súc của người Hutu, trở thành nhóm dân có quyền lực kinh tế tuyệt đối, nắm vai trò lãnh đạo dù dân số chỉ chiếm 15%. Họ cai trị bằng cách đặt ra một mwami (nhà vua) đứng cao nhất trong xã hội.
Bên cạnh nắm vai trò lãnh đạo về kinh tế, hệ quả tất yếu là người Tutsi nắm được quyền lực chính trị, mà quan trọng nhất là nắm giữ quân đội. Giới tinh hoa quân đội của Rwanda, là những thanh niên Tutsi ưu tú, được đào tạo chuyên nghiệp gọi là Intore. Tuy nhiên, sau này chế độ độc quyền quân sự cho người Tutsi bị bãi bỏ, các Intore bị ”thất nghiệp” và chuyển sang làm vũ công, với khả năng nhảy cao đến 2,4 mét, ngày nay nổi tiếng trên toàn thế giới và là nét văn hóa đặc sắc của Rwanda.
Hiện nay, phân chia sắc tộc ở Rwanda và Burundi gần như tương tự nhau (không tính nhập cư):
-Ở Rwanda: 84% Hutu, 15% Tutsi, 1% Twa
-Ở Burundi: 85% Hutu, 15% Tutsi, khoảng 0,7% Twa
Có một điều kỳ lạ, mặc dù Rwanda có tới 3 nhóm sắc tộc khác nhau, nhưng họ lại nói chung một ngôn ngữ là tiếng Kinyarwanda. Không ai giải thích được tại sao, chỉ suy đoán là nhờ việc chung sống lâu dài suốt 10 thế kỉ đã khiến các dân tộc thống nhất về ngôn ngữ. Tuy nhiên, nhược điểm của tiếng Kinyarwanda là nó lại không phát triển chữ viết. Vì vậy, gần như không có văn bản nào lưu trữ được về lịch sử Rwanda trước thế kỉ thứ 10.
Nằm sâu trong lục địa, được người châu Âu khám phá muộn, và đặc biệt là không có chữ viết, lịch sử thời đầu của Rwanda gần như không còn văn bản chính thức nào lưu lại. Nhưng dựa vào các truyền thuyết địa phương, được các nhà truyền giáo châu Âu ghi chép lại, người ta biết Vương quốc Rwanda hình thành từ thế kỷ 11. Đứng đầu bởi vị vua gọi là Mwami, phần lớn lịch sử các Mwami là người Tutsi, những người có quyền lực xã hội lớn. Vương quốc Rwanda sớm có trình độ tổ chức cao, sự thống nhất xã hội lớn. Đặc điểm tiêu biểu là dù có 3 nhóm sắc tộc hoàn toàn khác nhau, tất cả họ đều nói chung một ngôn ngữ là Kinyarwanda, có chung một tín ngưỡng truyền thống. Điều này đã giúp tạo nên một đất nước thống nhất, với quân đội kỷ luật cao. Đến thế kỷ 16, vương quốc Rwanda bắt đầu thời kỳ bành trướng, kéo dài sự thịnh vượng đến thế kỷ 19.
2/ Thời kỳ thuộc địa và quá trình chia rẽ Hutu-Tutsi
Mwami (vua) của Rwanda qua đời năm 1895. Quân đội Đức và các nhà truyền giáo Đức đã tranh thủ xâm nhập Rwanda từ Tanganyika (nay là Tanzania) từ năm 1897. Hội nghị châu Âu tại Brussels năm 1910 đã trao cho Đức quyền bảo hộ với vùng gọi là Ruanda-Urundi, nay gồm Rwanda và Burundi. Chính quyền lúc này ở Rwanda vẫn là của người thiểu số Tutsi. Người Đức cai trị Rwanda thông qua giới lãnh đạo Tutsi này. Trên các tuyên bố, người Đức sáp nhập vùng Ruanda-Urundi với vùng đất Tanganyika hợp thành Đông Phi thuộc Đức

Tem thư Đức miêu tả cuộc thám hiểm Đông Phi
Trong thế chiến thứ nhất, dù thất bại ở ngay ở quê nhà và bị Đức chiếm đóng suốt 4 năm thế chiến, nhưng ở châu Phi quân Bỉ vẫn đủ sức tấn công các thuộc địa Đức. Năm 1916, lực lượng Bỉ từ Congo đã chiếm được Rwanda-Urundi từ tay Đức trong Chiến dịch Đông Phi. Sau khi Đức thua trận, Hội quốc liên ủy quyền cho Bỉ kiểm soát vùng đất này.
Khi cai quản Rwanda, những kẻ thực dân không xóa bỏ phân quyền sắc tộc trước đó, mà còn làm nó ngặt nghèo hơn. Thực dân châu Âu duy trì ưu thế thống trị của Tutsi trong bộ máy hành chính thuộc địa. Nhưng điều quan trọng, là cách họ phân chia người Hutu và Tutsi lại không dựa trên nguồn gốc chính thống, mà lại dựa vào cách thủ công có một không hai trong lịch sử. Cụ thể, họ đo chiều cao, cỡ mũi, đưa ra 16 kiểu mắt (8 của Hutu và 8 của Tutsi). Những ai có chiều cao lớn, mũi cao, mắt của Tutsi thì được coi là Tutsi. Điều này dẫn đến sự một nghiệt ngã, là trong gia đình có cha mẹ là sự kết hợp giữa Hutu và Tutsi, có thể anh là người Tutsi trong khi em bị coi là người Hutu. Dưới sự cai trị của Đức, cơ cấu xã hội Rwanda bắt đầu bị xáo trộn.
Oan nghiệt hơn, lâu hơn sau này, những kẻ cai trị bày ra thêm trò mới, phân biệt sắc tộc nhưng lại dựa trên tài sản. Cụ thể, lấy lý do phân biệt thủ công không chính xác, người Bỉ đổi cách phân biệt bằng cách dựa vào số gia súc. Theo đó, người Tutsi không có tài sản có thể trở thành người Tutsi. Ngược lại, người Hutu có nhiều gia súc có thể được đưa lên làm người Tutsi. Hậu quả của chính sách kì quái này, là người Tutsi tăng cường thu thuế người Hutu, cốt để thu thêm tài sản, và không cho người Hutu ngóc đầu lên. Còn người Hutu, ra sức làm đủ mọi cách, dù cả cướp bóc, chỉ để có đủ số gia súc nhằm mục đích ”trở thành người Tutsi”. Từ năm 1935 trở về sau, tên “Tutsi”, “Hutu” và “Twa” được ghi rõ trên chứng minh thư.
Đo mắt và mũi để phân biệt người Hutu và Tutsi dưới thời thực dân Bỉ
Giới quý tộc Tutsi ngày càng độc đoán, ngày càng ra sức thâu tóm quyền lực, không muốn người Hutu chen vào. Họ còn đặt ra chế độ giáo dục riêng cho 2 dân tộc. Người Tutsi hưởng nhiều ưu đãi, trong khi người Hutu gần như không thể học đại học. Quý tộc người Hutu cũng bị chèn ép, không thể giành lấy quyền lực chính trị. Mầm mống xung đột bắt đầu xuất hiện
Chính sách kỳ quái của thực dân Bỉ đã để lại hậu quả tai hại là sự chia rẽ sắc tộc ngày một lớn giữa 2 dân tộc trước nay vốn sống hòa thuận. Di sản của nó, chính là các cuộc xung đột đẫm máu sau này, mà đỉnh cao là cuộc diệt chủng Rwanda năm 1994.
3/ Thời kỳ độc lập và diệt chủng lần thứ nhất ở Rwanda
Trong thập niên 1950 và đầu thập niên 1960, một làn sóng cách mạng chống thực dân lan tràn khắp Trung Phi, với các nhà lãnh đạo như Julius Nyerere tại Tanzania và Patrice Lumumba tại Congo. Tình cảm chống thực dân nổi lên khắp nơi, với một nền tảng Chủ nghĩa xã hội cho châu Phi cũng như sự bình đẳng cho tất cả người dân Châu Phi được xúc tiến.
Tổng thống Nyerere của Tanzania, như đã nói là một nhà tư tưởng ảnh hưởng lớn đến châu Phi. Năm 1958 ông đưa ra luận cương về giáo dục của mình trong quá trình viết cuốn ”Education for self-reliance” (giáo dục cho sự tự cường), trong đó phê phán hệ thống giáo dục chỉ giành cho tầng lớp ưu tú mà thực dân phương tây đã thiết lập, nhấn mạnh sự bình đẳng của các dân tộc xuất phát từ sự bình đẳng về giáo dục. Luận cương của Nyerere được nhiều người so sánh với V.Lenin trong ở Liên Xô.
Luận cương của Nyerere được nhiều nơi đón nhận. Trong đó ở Rwanda, nhiều nhà cách mạng người Hutu đã tiếp xúc với luận cương và đưa về nước. Người Hutu ngay lập tức coi đó là một bản cáo trạng về hệ thống giáo dục cho các tầng lớp ưu tú người Tutsi trong chính đất nước của họ. Từ đó, người Hutu bắt đầu nhận thấy phải có một sự thay đổi, thông qua một cuộc cách mạng loại bỏ sự thống trị của người Tutsi.
Nhưng cả người Hutu và Tutsi đều biết rằng trước tiên việc cần làm là giành độc lập từ Bỉ. Và công cuộc giành độc lập khi đó phân hóa thành 2 đường lối.
Đường lối thứ nhất, chủ trương xây dựng nền cộng hòa, là chủ trương của người Hutu. Dẫn đầu bởi nhà cách mạng Gregoire Kayibanda, người Hutu thành lập đảng phái của mình, tên là PARMEHUTU.
Ngược lại, người Tutsi chủ trương duy trì chế độ phong kiến như cũ, tức là duy trì quyền lực của Tutsi. Để đối đầu với người Hutu, họ thành lập đảng của mình tên là UNAR.

Gregoire Kayibanda – lãnh đạo phong trào giành độc lập người Hutu, tổng thống đầu tiên của Rwanda
Vào lúc đó, người ta biết rằng việc độc lập chỉ là việc sớm hay muộn, bởi thực dân Bỉ gần như đã chết, chỉ còn chờ ngày trao trả độc lập. Vậy nên xung đột trong cuộc đấu tranh giành độc lập ở Rwanda-Burundi thực chất là xung đột giữa hai đảng phái, hai chủ trương khác nhau của hai dân tộc.
Vào tháng 11 năm 1959, sau sự kiện nhà cách mạng người Hutu, Dominique Mbonyumutwa bị chính quyền Tutsi bắt giữ, một tin đồn thất thiệt về cái chết của ông lan ra. Người Hutu tức giận, đổ ra đường giết hại người Tutsi. Hơn 1000 người chết, vua Tutsi phải bỏ chạy sang Uganda. Lực lượng Bỉ sau đó phải đưa quân đến vãn hồi và cải chính Mbonyumutwa chưa chết.
Sự kiện tháng 11 năm 1959 là lời cảnh báo cuối cùng cho thực dân Bỉ, rằng họ không thể kiểm soát tình hình nữa. Vì thế chỉ vài tháng sau, Bỉ được Liên Hợp Quốc đồng ý cho tiến hành trưng cầu dân ý ở Rwanda-Burundi. Nhưng trong cuộc trưng cầu này, Rwanda và Burundi tách thành 2 quốc gia riêng biệt.
Và kết quả: ở Rwanda người dân bỏ phiếu thành lập chế độ Cộng hòa, xóa bỏ chế độ phong kiến Tutsi. Trong khi ở Burundi, người ta duy trì chế độ quân chủ chuyên chế của Tutsi như trước kia.
Từ đây, hai đất nước đi theo hai con đường khác nhau.
Sau khi chính phủ cộng hòa được thành lập ở Rwanda với nội các đa phần là người Hutu, người Tutsi ở Rwanda đã ngay lập tức lo sợ và bỏ chạy khỏi đất nước. 336.000 người Tutsi đã rời khỏi Rwanda mang theo tài sản đến các nước láng giềng Uganda, Congo, Tanzania và Burundi. Dân số lúc đó của Rwanda chỉ có 3 triệu người, trong đó có 450.000 người Tutsi. Điều đó có nghĩa là, năm 1961 hơn 2/3 dân số Tutsi của Rwanda đã chạy khỏi đất nước.
Nhưng sau khi sang nước ngoài, một số nhóm vũ trang của người Tutsi đã được thành lập. Ít lâu sau họ đã thực hiện nhiều cuộc tấn công vào lãnh thổ Rwanda, nhưng chủ yếu là từ nước láng giềng phía Nam Burundi, nơi chính quyền là của người Tutsi. Người tị nạn ở Uganda, Tanzania, Congo ít thực hiện các hoạt động quân sự. Ở Congo, người Tutsi chủ yếu đến tỉnh Nam Kivu, nơi họ tự thành lập cộng đồng gọi là Bunyamalengi. Trong khi đó người Tutsi lưu vong ở Tanzania đã được chính quyền địa phương đối xử tốt và nhiều người định cư vĩnh viễn, từ bỏ khát vọng trở về Rwanda.
Năm 1963, trong một cuộc tấn công bất ngờ, quân Tutsi từ Burundi đột ngột tấn công Rwanda, tiến sát thủ đô Kigali. Chính phủ Hutu đã chống trả thành công, đẩy được quân Tutsi về lại Burundi. Tuy nhiên, sau cuộc phản công đó là một chiến dịch trả thù nhằm vào người Tutsi vẫn ở lại Rwanda. Chỉ riêng tại thủ đô Kigali, 14.000 người Tutsi bị sát hại. Trên cả nước , ước tính khoảng 25.000 người Tutsi bị giết, con số khá lớn so với chỉ khoảng 100.000 người Tutsi còn ở lại Rwanda. Tài sản của người Tutsi bị cướp bóc. Đồng thời, Rwanda cắt đứt quan hệ với Burundi vì hỗ trợ phiến quân.
Các sự kiện từ năm 1959 đến 1963 giết chết khoảng 50.000 người Tutsi, làm hàng trăm nghìn người bỏ chạy, làm giảm 70% dân số Tutsi của Rwanda. Hiện nay nó được coi là cuộc diệt chủng đầu tiên trong các cuộc xung đột Hutu-Tutsi.
4/ Cuộc diệt chủng lần thứ nhất của Burundi năm 1972
Như đã nói ở trên, sau khi độc lập Burundi vẫn duy trì nền quân chủ chuyên chế như trước kia. Đứng đầu bởi vua Ganwa Mwambutsa IV, chính quyền đã nỗ lực cân bằng xã hội bằng cách bổ nhiệm các vị trí trong chính phủ phân bổ đều cho cả người Hutu lẫn Tutsi. Thủ tướng Burundi thời đó là Pierre Ngendandumwe, một người Hutu.
Tuy nhiên, chính phủ không kiểm soát được quân đội. Quân đội Burundi vẫn bị sắc tộc Tutsi kiểm soát như trước. Họ ra sức ngăn chặn, thậm chí ám sát các chính trị gia Hutu, những người bị nghi ngờ định chiếm quyền lực. Cùng với đó, quân đội cũng ủng hộ những người Tutsi tị nạn từ Rwanda.
Ngày 15/1/1965, thủ tướng Pierre Ngendandumwe người Hutu bị một người Tutsi tị nạn từ Rwanda ám sát. Người Hutu vô cùng tức giận, đã nổi lên chiến đấu từ đây. Bạo lực bắt đầu nổ ra lẻ tẻ trong đất nước, khiến nhiều người chết. Sau khi nhà vua bổ nhiệm thủ tướng mới là Léopold Biha một người Tutsi, một số sĩ quan người Hutu đã có kế hoạch sát hại ông. Trong một cuộc diễu binh tháng 10 năm 1965, một nhóm sĩ quan Hutu đã nổ súng, bắn bị thương thủ tướng Biha.
Trong lúc này, nổi lên nhân vật Michel Micombero, một chỉ huy quân đội người Tutsi. Michel Micombero đã chỉ huy một chiến dịch trả thù tàn bạo. 34 sĩ quan, binh lính người Hutu cùng gia đình, tổng cộng hơn 200 người bị giết hại dã man bằng xử bắn và chôn sống, kể cả những sĩ quan chưa hề tham gia đảo chính. Cuộc trả thù man rợ này càng làm sự kháng cự của người Hutu thêm dữ dội.

Michel Micombero – nhà độc tài quân sự Burundi trên tem thư năm 1967
Nhà vua Mwambutsa IV tỏ ra bất lực. Nhận thấy điều đó, Michel Micombero buộc vua phải lưu vong ra nước ngoài, đồng thời tự đưa mình lên làm thủ tướng, nhằm tự tay đàn áp người Hutu. Trong lúc ở nước ngoài, nhà vua đã ủy nhiệm cho con trai lên làm vua, trở thành vua Ntare V của Burundi. Nhưng Ntare V cũng ôn hòa giống như cha. Vì vậy vào năm 1966, Michel Micombero đã phế truất vua Ntare V, lên làm Tổng thống, chấm dứt nền quân chủ lập hiến, thiết lập chế độ độc tài quân sự.
Vào ngày 27 tháng 4 năm 1972, một cuộc nổi dậy lớn của người Hutu nổ ra. Những người nổi dậy đã sát hại người Tutsi, thậm chí còn thành lập một nhà nước ly khai.
Phản ứng với cuộc nổi loạn, Michel Micombero tuyên bố Thiết quân luật, đàn áp thành công cuộc nổi dậy của người Hutu. Sau khi cuộc nổi dậy kết thúc, một chiến dịch đẫm máu và rất quy củ nhằm vào người Hutu đã diễn ra.
Mở đầu bằng việc thanh trừng trong lực lượng vũ trang. Hơn 700 binh sĩ quân đội và 300 cảnh sát người Hutu bị những đồng đội người Tutsi bắn chết hoặc chôn sống ngay tại đơn vị. Tiếp theo, quân đội Tutsi nhắm đến các trường học. Xe tải của quân đội đến các trường trung học và đại học, dồn giáo viên và học sinh người Hutu lên xe và đến đổ vào hố tử thần chôn sống. Các báo cáo sau đó nói toàn bộ giáo viên người Hutu của đất nước đã bị giết. Chỉ riêng ở thủ đô Bujumbura, 4.000 sinh viên đã bị chất lên xe tải và đưa đến hố tử thần. Chỉ có các trường tiểu học may mắn thoát khỏi tàn sát.
Sau đó, tiếp tục đến công chức và linh mục người Hutu bị giết. Toàn bộ những tầng lớp tinh hoa của người Hutu đã bị tiêu diệt, chỉ để lại các tầng lớp thấp kém như nông dân, nô lệ và trẻ nhỏ. Kể cả những người Tutsi phản đối cũng bị giết.
Những người Hutu chống đối cho biết trong cuộc diệt chủng năm 1972, 300.000 người Hutu, trong đó 50.000 trẻ em đã bị quân đội Tutsi giết hại. Còn trong Báo cáo của Ủy ban điều tra quốc tế về Burundi (2002), từ 80.000 đến 210.000 người đã bị sát hại. Hàng trăm nghìn người Hutu phải chạy sang các nước láng giềng.
Cuộc diệt chủng năm 1972 đã làm thế giới ghê sợ. Vì nó diễn ra quá nhanh, gần như các nước không kịp phản ứng. Những gì quốc tế làm sau đó là trừng phạt chính quyền của Michel Micombero và hỗ trợ người tị nạn. Bên cạnh đó, nhiều sĩ quan quân đội người Tutsi cũng ghê sợ hành động của Michel Micombero. Năm 1976, một sĩ quan quân đội là Jean-Baptiste Bagaza đã lật đổ Micombero, chấm dứt chế độ độc tài quân sự.
Jean-Baptiste Bagaza tiến hành một vài cải cách dân chủ, nhượng bộ người Hutu, phát triển kinh tế. Đất nước Burundi tạm thời yên bình đến những năm 90.
5/ Chế độ độc tài và nội chiến ở Uganda
Uganda là láng giềng phía Bắc của Rwanda. Trước khi giành độc lập, Uganda thuộc hệ thống thuộc địa của Anh. Nhờ chính sách đầu tư vào thuộc địa của người Anh, nhất là đường sắt Uganda có phần phát triển hơn các nước là thuộc địa của Pháp, Đức, Bỉ xung quanh. Đồng thời nước này có một cộng đồng lớn người gốc Ấn Độ, những người đóng góp rất lớn cho nền kinh tế. Cho đến những năm 60, Uganda có thu nhập khá cao so với các nước láng giềng, tuy rằng sự giàu có tập trung vào cộng đồng người gốc Á và một phần nhỏ người gốc Phi.
Năm 1962, Uganda giành độc lập nhờ sự vận động của Milton Obote, người sau này trở thành tổng thống. Milton Obote ban đầu xây dựng đất nước theo hướng Xã hội chủ nghĩa. Ông chịu ảnh hưởng từ tư tưởng của Tổng thống Nyerere ở Tanzania. Ông đưa ra Hiến chương Common Man’s Charter, đề ra chương trình Move to the Left (tiến về cánh tả) nhằm đưa đất nước tiến lên Chủ nghĩa Xã hội.
Tuy nhiên, những chính sách này đột ngột kết thúc vào năm 1971. Trong lúc Obote đang thăm Singapore, tướng Idi Amin đã đảo chính, lên nắm quyền ở Uganda. Cũng từ đây, mở ra một thời kỳ dài đẫm máu và nước mắt của Uganda.
Idi Amin thiết lập một chế độ độc tài hà khắc. Về kinh tế, chính quyền trục xuất và tịch thu tài sản của người gốc Á, đẩy hơn 60.000 người Ấn Độ về nước. Chẳng bao lâu sau nền kinh tế Uganda suy sụp. Về chính trị, Idi Amin phụ thuộc vào chính quyền của Muammar Gaddafi của Libya, chống lại Israel, và ủng hộ lực lượng Palestine. Trong nước, Amin thẳng tay đàn áp những dân tộc thiểu số và người đối lập. Amin nổi tiếng có nhiều sở thích giết người quái dị, bao gồm ném người cho cá sấu sông Nile ăn thịt và đứng xem. Ông cũng bị cho là đã giết vợ của mình. Rất nhiều người khác bị giam giữ vào các nhà tù tàn bạo, mà ước tính 10.000 người đã bị giết trong các nhà tù trước khi quân đội Tanzania tiến vào năm 1979.
Trong 8 năm cầm quyền, Idi Amin sát hại ít nhất nửa triệu người Uganda, làm sụp đổ nền kinh tế. Chế độ hà khắc của y khiến không chỉ người dân mà cả quân đội Uganda cũng thù hận. Nhiều binh lính Uganda đã đào ngũ sang Tanzania, mượn danh nghĩa ủng hộ tổng thống Obote để chống Idi Amin. Họ thành lập Quân đội Giải phóng quốc gia Uganda (UNLA)
Từ trái qua: Yoweri Museveni, Idi Amin Dada và Milton Obote, 3 nhân vật chủ chốt của lịch sử Uganda hiện đại
Cuối năm 1978, để hướng áp lực trong nước ra bên ngoài, Idi Amin, với sự hỗ trợ của quân Libya, quân Giải phóng Palestine mở cuộc xâm lược Tanzania. Tuy nhiên, cuộc xâm lược này đã bị quân đội Tanzania, quân kháng chiến Uganda, quân đội Mozambique đánh bại. Sau đó, quân đội Tanzania vượt qua biên giới Uganda để lật đổ Idi Amin. Người dân Uganda ủng hộ quân đội Tanzania vào giải phóng. Quân đội của Amin sụp đổ nhanh chóng. Tháng 4 năm 1979, thủ đô Kampala được giải phóng, Idi Amin bỏ chạy. Trước khi bỏ chạy hắn còn sát hại hàng nghìn tù nhân trong các nhà tù.
Chế độ độc tài bị lật đổ, nhưng chiến tranh chưa kết thúc. Tổng thống cũ Obote quay về Uganda, nhưng không còn được ủng hộ như trước kia nữa. Năm 1980 Obote thắng trong bầu cử Tổng thống, nhưng nghi án gian lận khiến nhiều đảng phái phản đối ông.
Ở phía Bắc, những tàn quân trung thành với Idi Amin nổi dậy ở thượng nguồn Tây Sông Nile và giáp giới Sudan, với sự hỗ trợ của chính quyền Muammar Gaddafi ở Libya. Trong khi đó ở phía Nam giáp Tanzania, những quân nhân cũ trong UNLA, dưới sự chỉ huy của tướng trẻ Yoweri Museveni, tách ra thành Quân đội Kháng chiến Quốc gia (NRA) chống Obote. Trong bối cảnh đó, Obote có được sự hỗ trợ đắc lực từ Bắc Triều Tiên, nơi cung cấp vũ khí và cố vấn cho Obote.
Bên cạnh đó, cuộc chiến còn xuất hiện một lực lượng đặc biệt. Đó là lực lượng người Tutsi từ Rwanda tị nạn ở Uganda (xem lại mục 3). Trong cuộc chiến này, những người Tutsi tị nạn đã chọn đứng bên cạnh phe của Yoweri Museveni. Trong mối liên minh này, Yoweri Museveni đã gặp Paul Kagame, nơi ông hứa sẽ hỗ trợ Kagame trong cuộc chiến ở Rwanda sau này.
Cuộc chiến tranh diễn ra cường độ thấp, chủ yếu là chiến tranh du kích, nên gọi là ”Uganda Bush War” (chiến tranh cây bụi). Kéo dài 5 năm, chiến thuật du kích của các bên khiến đất nước Uganda kiệt quệ, người dân chán nản, quân đội mệt mỏi. Đến năm 1983, tham mưu trưởng quân đội Uganda David Oyite-Ojok thiệt mạng trong tai nạn máy bay, giáng một đòn chí mạng vào quân đội của Obote.
Đến tháng 7 năm 1985, các chỉ huy quân sự của UNLA, Tướng Tito Okello và Bazilio Olara-Okello đã tổ chức một cuộc đảo chính lật đổ Milton Obote khỏi vị trí tổng thống, thiết lập chính quyền quân sự. Nhận thấy sự rạn nứt trong UNLA, quân NRA của Yoweri Museveni bắt đầu tấn công mạnh. Cố vấn Bắc Triều Tiên di tản khỏi Uganda. Quân NRA chiếm được thủ đô Kampala vào tháng 1 năm 1986. UNLA tan rã nhanh chóng. Để mau chóng kết thúc đổ máu, sau khi chiếm được thủ đô Yoweri Museveni đã tuyên bố tha cho tàn quân UNLA kể cả tướng Tito Okello và kêu gọi họ đầu hàng. Chiến tranh kết thúc.
15 năm dưới chế độ độc tài và nội chiến đã tàn phá nặng nề đất nước Uganda. 1 triệu người chết, hàng triệu người tàn phế. Hàng trăm nghìn quả mìn vẫn ẩn trong lòng đất. Uganda sau năm 1986 trở thành một trong những nước nghèo nhất thế giới, với tỷ lệ nhiễm HIV cao kỷ lục, tuổi thọ trung bình người dân giảm xuống 45 tuổi.
6/ Sự thành lập RPF và nội chiến Rwanda
Sau khi giành được chính quyền, tổng thống Uganda Yoweri Museveni đã giữ lời hứa của mình, ủng hộ những người Tutsi Rwanda chuẩn bị cuộc chiến tranh ở Rwanda. Năm 1987, những người Tutsi lưu vong đã thành lập Mặt trận yêu nước Rwanda (RPF), do Fred Rwigyema và Paul Kagame đứng đầu. Họ chuẩn bị về binh lực, vũ khí, với sự hỗ trợ từ Uganda. Một đài phát thanh ủng hộ RPF được thành lập ở Uganda. Thậm chí nhiều thành viên của RPF còn có vị trí trong chính quyền Uganda, điều này gây ra nhiều sự phản đối trong người dân Uganda.
Vào thời điểm năm 1990, trên thế giới xuất hiện một thuật ngữ: thế hệ lãnh đạo mới của châu Phi. Thuật ngữ này lần đầu tiên được đưa ra bởi Bill Clinton, người sau này là tổng thống Hoa Kỳ đưa ra. Sự ra đời của thuật ngữ này, nói không quá đã thay đổi căn bản chính sách ngoại giao của nước Mỹ với châu Phi cuối thế kỷ 20. Cụ thể, lúc này chiến tranh lạnh đã đi đến hồi kết, phe Xã hội chủ nghĩa đã thoái trào. Nhiều lãnh đạo trước đây được người Mỹ ủng hộ vì lập trường chống Cộng dù họ có tồi tệ thế nào đi nữa. Đó là chế độ A-pác-thai ở Nam Phi, chính quyền thuộc địa Bồ Đào Nha ở Guine, Angola, Mozambique,…hay chế độ độc tài Mobutu Sese Seko ở Zaire. Bắt đầu từ năm 1990, chính quyền Mỹ không còn ủng hộ những chính quyền này nữa, thay vào đó muốn thay thế họ bằng các lãnh đạo mới có tài hơn, dù lập trường có thể thiên tả. Bên cạnh đó, ở những nước châu Phi trước kia theo đường lối XHCN, khi bước vào giai đoạn thoái trào, các lãnh đạo mới cũng được gọi là Thế hệ mới. Thế hệ mới mà người Mỹ đưa ra bao gồm: Yoweri Museveni của Uganda, Meles Zenawi ở Ethiopia, Isaias Afewerki của Eritrea, Jerry Rawlings của Ghana,…Trong số các nhân vật, có một người rất đặc biệt: Paul Kagame của Rwanda. Đặc biệt ở chỗ lúc đó thế giới nhiều người còn chưa biết Kagame là ai, bởi lúc đó Kagame mới chỉ là chỉ huy lực lượng RPF đang chiến đấu ở Rwanda, chưa hề giành được chính quyền. Phải mãi đến sau này, người ta mới hiểu cái lẽ của Clinton.
Ở trong nước Rwanda, năm 1973 xảy ra sự kiện Juvénal Habyarimana lật đổ tổng thống Grégoire Kayibanda, người đã cầm quyền từ khi độc lập năm 1961. Habyarimana nắm quyền, giúp kinh tế đất nước tương đối thịnh vượng trong nhiều năm. Nhưng đến năm 1990. Giá kim loại cùng với giá chè, cà phê trên thị trường thế giới đồng loạt giảm mạnh. Nền kinh tế Rwanda, vốn phụ thuộc lớn vào xuất khẩu chè, cà phê, bị khủng hoảng nặng nề. Nhiều cuộc biểu tình nổ ra. Điều này khiến cho RPF quyết định phát động cuộc chiến chống chính phủ Hutu.
Ngày 1 tháng 10 năm 1990, quân RPF phát động cuộc tấn công vào miền Bắc Rwanda. Nhưng ngay ngày hôm sau RPF đã hứng chịu tổn thất lớn khi chỉ huy Fred Rwigyema bị bắn chết. Cuộc tấn công của RPF bị chặn lại. Sau đó, các đồng minh của chính quyền Hutu là Pháp, Bỉ và Zaire đã gửi quân đến Rwanda hỗ trợ tổng thống Habyarimana. Với ưu thế có được, đến ngày 30/10 chính quyền Rwanda tuyên bố đã đánh bại RPF. Trong đó ngày 11 tháng 10, lợi dụng cuộc tấn công của RPF, chính phủ Hutu đã sát hại 383 người Tutsi ở thủ đô Kigali. Nhưng lúc này, không ai để ý đến sự kiện này, mặc dù nó là sự cảnh báo thảm họa đang cận kề người Tutsi.
Sau cuộc tấn công thất bại, RPF suy yếu nghiêm trọng. Họ bị tan rã thành nhiều toán quân nhỏ, mất tinh thần. Trong bối cảnh khó khăn, Paul Kagame từ Mỹ trở về, đã tái tổ chức lại RPF, quyết định rút quân về vùng núi Virunga cực kỳ hiểm trở để kháng chiến du kích. Chính quyền Hutu không biết về sự di chuyển này, trong khi nhiều người Tutsi cả trong và ngoài nước tìm đến RPF. Paul Kagame xây dựng một quân đội kỷ luật cao, trừng phạt những binh lính nhũng nhiễu người dân, dùng tiền để mua hàng thay vì cướp bóc,… làm uy tín của RPF tăng trong dân chúng. Quan trọng hơn, có nhiều người Hutu bất mãn với chính quyền trung ương, cũng gia nhâp với RPF.
Paul Kagame (trái) và Juvénal Habyarimana (phải) – hai chỉ huy của cuộc nội chiến Rwanda
Qua năm 1991, RPF nối lại chiến tranh du kích. Cuộc chiến giằng co suốt 3 năm đến năm 1993 mà không có tiến triển lớn nào. Trong khi đó, nền kinh tế Rwanda có vẻ không chịu nổi áp lực từ chiến tranh, phải dựa vào viện trợ từ Pháp. Vì điều này mà đến năm 1993, chính quyền Rwanda đã nhờ Liên hợp quốc đứng ra giúp đàm phán. LHQ thuyết phục thành công RPF ngồi vào đàm phán ở Arusha, Tanzania. Tuy nhiên, tiến trình đàm phán khá khó khăn, nhiều lần bị trì hoãn. Đến tháng 2 năm 1993, RPF vẫn tấn công và tiến sát đến thủ đô Kigali. Nhưng bất ngờ họ dừng lại ngay trước cửa ngõ thủ đô. Có ý kiến cho rằng RPF lo sợ quân đội Pháp đang đóng trong thành phố. Đến ngày 4/8/1993, hiệp ước Arusha cùng với lệnh ngừng bắn được kí kết. Người ta nghĩ rằng hòa bình đã đến.
Nhưng hòa bình chỉ kéo dài 8 tháng, ngày 6 tháng 4 năm 1994 máy bay của Tổng thống Habyarimana bị bắn rơi và ông thiệt mạng, mở đầu cho cuộc diệt chủng Rwanda.
Nội chiến Rwanda bắt đầu từ năm 1990, với sự nổi lên của RPF, là tiền đề và nguyên nhân quan trọng nhất dẫn đến nạn diệt chủng ở Rwanda.
7/ Burundi những năm 90 và diệt chủng lần thứ 2 (1993)
Như đã nhắc ở trên, sau khi thực hiện cuộc diệt chủng đẫm máu năm 1972 (xem mục 4), chế độ độc tài của Michel Micombero bị lật đổ năm 1976. Người thay thế ông là sĩ quan quân đội Jean-Baptiste Bagaza, có tư tưởng tiến bộ, thực hiện cải cách, hòa hợp người Hutu và Tutsi. Trong thời gian ông cầm quyền, Burundi được yên ổn, không bị kéo vào chiến tranh lạnh. Thế nhưng, Jean-Baptiste Bagaza phạm một sai lầm chết người. Ông công khai chống lại giáo hội Công giáo, tôn giáo lúc này đã là tôn giáo chính của Burundi. Thế là xung đột giữa chính quyền và giáo hội lên cao cùng với các cuộc đàn áp Giáo hội. Vì thế lực xã hội của Giáo hội quá lớn, Jean-Baptiste Bagaza phải rời chức vụ năm 1987.
Đến năm 1993, trong một cuộc bầu cử tự do, một tổng thống người Hutu, Melchior Ndadaye đã được bầu. Nhưng giống như Rwanda, giá chè và cà phê giảm mạnh những năm 90 đã phá hủy nền kinh tế Burundi. Vì điều này, chính phủ của Melchior Ndadaye chịu áp lực lớn, trong đó có từ quân đội vẫn do người Tutsi lãnh đạo.
Đến ngày 21 tháng 10 năm 1993, những kẻ cực đoan trong quân đội Tutsi đã sát hại tổng thống người Hutu. Ngay lập tức nó gây ra sự giận dữ trong dân chúng Hutu. Người Hutu bị kích động tràn đi với dao rựa chém giết người Tutsi trên khắp cả nước. Mặc dù chính phủ tuyên bố 25.000 người Tutsi bị giết, nhưng các thống kê dân số năm sau đó chỉ ra dân số Tutsi của Burundi giảm hơn 100.000 người. Một số lượng khổng lồ người tị nạn Burundi đã tràn qua lãnh thổ Zaire, và đây mới thực sự là mốc khởi đầu cho khủng hoảng tị nạn ở vùng Hồ Lớn châu Phi.
Liên hợp quốc ước tính các trại tị nạn ở Zaire nhận 150.000 đến 300.000 người tị nạn vào năm 1993. Trong các trại tị nạn, dịch tả hoành hành khiến khoảng 5% người tị nạn bị chết. Để hỗ trợ, 10.000 lính gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc đã đến Zaire trong năm 1993.
Nhưng bù lại, trong cuộc diệt chủng vào năm sau ở Rwanda, hàng trăm nghìn người Tutsi ở Rwanda đã tràn vào lãnh thổ Burundi
Năm 2002, Ủy ban điều tra quốc tế của Liên Hợp Quốc về Burundi đã gọi vụ giết người Tutsi hàng loạt năm 1993 là một cuộc diệt chủng. Đây là sự kiện diệt chủng thứ 2 ở Burundi sau năm 1972, và nó diễn ra chỉ 1 năm trước sự kiện diệt chủng năm 1994 ở Rwanda.
Ngoài ra, sự kiện năm 1993 còn châm ngòi cho cuộc nội chiến Burundi, kéo dài đến tận năm 2005 mới kí kết hiệp định hòa bình. Trong từng đó năm, nửa triệu người Burundi đã chết, đất nước bị tàn phá nặng nề và đến nay Burundi vẫn là một trong những đất nước nghèo nhất thế giới.
8/ Diệt chủng Rwanda 1994 và khủng hoảng tị nạn
Sự kiện diệt chủng Rwanda năm 1994, là sự kiện nổi tiếng nhất, được nói tới nhiều nhất, có thể dễ dàng tìm thấy tư liệu. Vì vậy trong bài viết này, xin được phép chỉ nói qua mà không đi sâu vào sự kiện.
Hiện nay xung quanh sự kiện này vẫn còn rất nhiều bí ẩn và tranh cãi chứ không phải đã được biết hoàn toàn. Đơn giản là tranh cãi: ai đã bắn hạ máy bay của Tổng thống Rwanda?.
Lẽ thường có thể dễ dàng nghĩ bắn rơi máy bay của tổng thống người Hutu phải là phiến quân người Tutsi. Đây là điều mà lãnh đạo Hutu, Zaire và Pháp tuyên bố.
Tuy nhiên, cũng có rất nhiều bằng chứng thuyết phục cho thấy rằng, đã có một kế hoạch được lên sẵn của những kẻ cực đoan người Hutu nhằm lấy cớ thực hiện một cuộc thảm sát nhằm vào người Tutsi.
Chỉ vài giờ sau khi cái chết của Tổng thống được tuyên bố, chẳng biết từ đâu 1.157 hàng rào đã nhanh chóng được dựng lên khắp thủ đô Kigali. Người ta cho rằng rất khó để có số lượng hàng rào như vậy chỉ sau một đêm, chỉ có khả năng những hàng rào đó đã được chuẩn bị từ trước.
Trên đài phát thanh, người ta phát đi các bài hát cùng với lời kêu gọi tàn sát người Tutsi. Họ kêu gọi mọi người hãy dùng vũ khí để giết ”những con gián”. Những con gián bao gồm cả người Tutsi và những người Hutu, Twa dám giúp đỡ người Tutsi. Những cuộn băng có vẻ đã được ghi âm từ vài ngày trước khi thực sự diễn ra cuộc diệt chủng.
Quan trọng hơn, trước cuộc diệt chủng này, người Hutu đã xây dựng một lực lượng dân quân khá lớn, gọi là Interhamwe. Interhamwe gồm các thanh niên Hutu cực đoan trong dân thường, được trang bị dao rựa, cuốc, dùi cui và súng trường để sẵn sàng phối hợp với binh lính người Hutu trong quân đội Rwanda hình thành đội quân giết người. Khi cuộc diệt chủng diễn ra, Interhamwe đã có trong tay danh sách những người Tutsi ở nơi sống của họ, và họ biết chắc chắn phải tìm mục tiêu ở đâu.
Trong hơn 100 ngày, đất nước Rwanda chìm trong loạn lạc đẫm máu không thể tưởng tượng được ở nơi nào trên thế giới. Trên 100% các ngôi làng của đất nước Rwanda đều có các vụ thảm sát. Người Tutsi bị những người hàng xóm Hutu của mình chém chết bằng dao, vứt xác ra đường. Trong các gia đình, người Hutu chém chết vợ, chồng, con cái người Tutsi. Thậm chí họ sẵn sàng giết bất cứ người Hutu nào có ý định ngăn cản cuộc giết chóc hoặc che dấu người Tutsi. Họ cũng sẵn sàng giết hại các linh mục, tu sĩ, thậm chí cả lính Liên Hợp Quốc bảo vệ người Tutsi.
Không có số liệu chính thức ghi lại số người bị giết. Nhưng Rwanda có chính sách thống kê dân số liên tục, và dựa vào kết quả thống kê sau diệt chủng người ta thấy 75% dân số Tutsi, khoảng 800.000 người Tutsi người đã bị giết. Khoảng 400.000 người Tutsi sống sót bỏ chạy qua các nước láng giềng. Đất nước gần như sạch bóng người Tutsi. Ngoài ra, 200.000 người Hutu ôn hòa, và đặc biệt là 30% dân số người Twa vốn đã rất ít cũng bị thảm sát do bị cáo buộc giúp đỡ người Tutsi. Họ được coi là những nạn nhân bị lãng quên của cuộc diệt chủng.
Hãm hiếp được sử dụng như công cụ ”gieo giắc cái chết đau đớn và chậm rãi cho những con gián” được những kẻ cực đoan áp dụng. Họ thả hàng nghìn tù nhân nhiễm HIV từ các nhà tù thành các ”đội quân hiếp dâm” có nhiệm vụ truyền HIV cho phụ nữ Tutsi. Những kẻ hãm hiếp còn có các hành động man rợ như cắt âm vật, buộc làm nô lệ tình dục hoặc cưỡng bức phá thai. Trong vòng 100 ngày của cuộc tàn sát đã có hơn 250.000 phụ nữ và trẻ em gái bị hãm hiếp. Tuy vậy, cũng chỉ có 2000 phụ nữ còn sống nhiễm HIV, đơn giản là họ đa phần sẽ bị giết sau khi bị hãm hiếp.
Ngoài 300.000 trẻ em bị sát hại, cuộc diệt chủng để lại cho Rwanda 95.000 trẻ mồ côi và năm 2001 con số là 264.000.
Bất chấp cuộc thảm sát người Tutsi, quân RPF của Paul Kageme vẫn tiến quân nhanh chóng. Quân đội RPF được trang bị tốt hơn, được đào tạo tốt, kỷ luật cao và được chỉ huy giỏi lãnh đạo nhanh chóng đánh bại quân đội dù đông nhưng nghèo nàn và kỷ luật kém của người Hutu. Ngay trong tháng 4 RPF đã chiếm được phần lớn thủ đô Kigali. Cuộc tiến công của RPF diễn ra đồng thời với cuộc diệt chủng. Đến ngày 4/7/1994, toàn bộ đất nước Rwanda đã được RPF giải phóng, ngoại trừ vành đai nhỏ phía Tây Nam do quân đội Pháp lập nên để bảo vệ người Hutu khỏi sự trả thù.
Ngày 4/7 được chọn làm ngày giải phóng và là ngày nghỉ lễ công cộng ở Rwanda. Xa hơn, ngày này cũng đánh dấu chấm dứt nạn diệt chủng Rwanda, một trong những cuộc diệt chủng khủng khiếp nhất lịch sử nhân loại.

Bản đồ cuộc tiến công của RPF trong sự kiện diệt chủng Rwanda 1994
Tuy nhiên, sau ngày 4/7 đến lượt người Hutu bỏ chạy.
Lo sợ bị trả thù vì hành động tàn bạo với người Tutsi trước đó, người Hutu đã ồ ạt rời bỏ nhà cửa chạy trốn sau khi RPF giành được chính quyền. Ban đầu họ chạy đến khu vực ”Turquoise” (có nghĩa là Ngọc lam), một vùng an toàn do quân đội Pháp thiết lập ở phía Tây Nam đất nước. Tuy nhiên người Pháp bị choáng ngợp bởi số lượng người Hutu tị nạn. Vùng Ngọc lam được xây dựng cho 150.000 người, nhưng con số người tị nạn đạt tới 2 triệu. Không còn cách nào khác, quân Pháp phải nhờ chính quyền Mobutu Sese Seko mở cửa cho 2 triệu người Hutu tràn vào miền Đông Congo. Nên nhớ rằng trước đó, hàng trăm nghìn người tị nạn từ Burundi đã đến đây. Sự kiện này gây ra Khủng hoảng tị nạn Hồ Lớn, với 2,5 triệu người sống trong các trại tị nạn trong lãnh thổ Zaire (nay là CHDC Congo).
Người tị nạn phải sống trong điều kiện tồi tệ ở các trại trong lãnh thổ Zaire. Dịch tả bùng phát, khiến 600 người chết mỗi tuần vào tháng 7 năm 1994. Khi con số lên đến 2000 người chết 1 tuần, Liên Hợp quốc phải tuyên bố thảm họa, và thực hiện chiến dịch cứu trợ khẩn cấp lớn nhất lịch sử, tạm thời giải quyết được khủng hoảng tị nạn năm 1994
Tuy nhiên, người ta đã không giải quyết được vấn đề tối quan trọng là nơi ở cho người Hutu tị nạn. Người Hutu không dám trở về Rwanda do lo sợ trả thù, trong khi chính quyền Zaire cũng không muốn giữ họ. Những năm sau, khi quốc tế dồn sự chú ý vào Chiến tranh Nam Tư, viện trợ cho vùng Hồ Lớn giảm đi, người tị nạn Hutu lại lâm vào cảnh khủng hoảng. Các nhóm vũ trang đã lợi dụng cảnh khốn cùng của người dân để quân sự hóa các trại tị nạn. Và đó chính xác là nguồn gốc của các cuộc xung đột sau này ở vùng Hồ Lớn châu Phi trong thế kỷ 21.
9/ Phản ứng quốc tế trong sự kiện diệt chủng Rwanda
Ngày nay người ta thống nhất rằng, sự do dự của cộng đồng quốc tế, cụ thể là Mỹ và Liên Hợp quốc trong cuộc diệt chủng ở Rwanda là nguyên nhân đẩy sự kiện lên mức thảm họa. Đúng là khi cuộc thảm sát diễn ra, dù có 2.500 quân gìn giữ hòa bình Liên Hợp quốc đóng ở Rwanda, không tính quân đội Pháp, cùng với hàng chục nghìn quân LHQ đóng ở Burundi và Zaire gần đó, nhưng rốt cuộc họ đã không có hành động nào để ngăn chặn giết chóc. Tương tự, quân đội Mỹ dù lúc đó hoàn toàn đủ khả năng để đưa quân vào châu Phi, nhưng cuối cùng Tổng thống Bill Clinton đã chọn cách im lặng, bất chấp việc đồng minh của Clinton là Paul Kagame đã thỉnh cầu Tổng thống Mỹ.
Nhưng để hiểu lý do thực sự tại sao Tổng thống Clinton từ chối can thiệp vào Rwanda, phải ngược dòng thời gian lại 1 năm, năm 1993, tại đất nước Somali vùng Đông Phi, một sự kiện xảy ra đã thay đổi gần như toàn bộ chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ với châu Phi.
Năm 1991, Somali bắt đầu rơi vào hỗn loạn do sự tranh đấu của các phe phái sau khi chế độ Xã hội chủ nghĩa của Siad Barre sụp đổ. Chiến tranh kéo dài nhiều năm khiến Somali rơi vào nạn đói nặng nề làm 300.000 người chết đến năm 1992. Tình hình khẩn cấp buộc Liên Hợp Quốc phải triển khai quân đội cùng với hàng hóa cứu trợ đến Somali. Tuy nhiên, nhiều lãnh chúa Somali, trong đó đang chiếm giữ thủ đô Mogadishu là quân của tướng Mohamed Farrah Aidid, không chấp nhận sự hiện diện của Liên Hợp Quốc và tấn công họ, giết chết nhiều nhân viên Liên Hợp Quốc. Để ngăn chặn Mohamed Farrah Aidid, đặc nhiệm Mỹ đã mở chiến dịch nổi tiếng mang tên ”Gothic Serpent” (rắn Gothic) tấn công Mogadishu để bắt Mohamed Farrah Aidid, đưa ra tòa án quốc tế xử tội.
Tuy nhiên những gì diễn ra sau đó là một thảm họa với nước Mỹ.
Chiến dịch thất bại, không bắt được Mohamed Farrah Aidid. 2 trực thăng Black Hawk bị bắn hạ, điều khiến cả thế giới nhớ đến chiến dịch với tên gọi ”Black Hack Down” (diều hâu gãy cánh) mà quên hẳn tên ban đầu ”Gothic Serpent”. 18 binh sĩ Mỹ bị chết, con số tuy nhỏ hơn rất nhiều so với 1.200 lính Somali thiệt mạng, nhưng đã là đòn trời giáng với chính phủ Hoa Kỳ. Đặc biệt, khi những hình ảnh về xác lính Mỹ bị bỏ lại và kéo lê đường phố Mogadishu được Somali phát đi, nó đã trở thành sự ô nhục với nước Mỹ. Hạ viện điên cuồng chỉ trích Tổng thống Clinton vì cái chết của 18 binh sĩ. Ngay sau đó, Tổng thống ra lệnh rút hết lính Mỹ khỏi Somali bỏ dở nhiệm vụ hộ tống Liên Hợp Quốc.
Cuộc ”gãy cánh” ở Somali là thất bại tủi nhục nhất của quân đội Mỹ sau thất bại ở Việt Nam. Quan trọng hơn, nó đã đánh dấu sự thay đổi hoàn toàn chính sách ngoại giao của Mỹ với Lục địa đen. Chính quyền Mỹ sau thất bại trở nên rất dè dặt và cẩn trọng, nói cách khác là muốn tránh xa mọi cuộc xung đột và ý định can thiệp vào châu Phi, kể cả là hoạt động nhân đạo. Từ thời điểm đó, trong chính giới và quân đội Mỹ đã hình thành một luật bất thành văn: ”Không bao giờ trở lại châu Phi”.
Đó là lý do năm 1994, dù có quân ở Zaire ngay gần đó, Tổng thống Clinton đã không có một hành động nào, và quân đội Mỹ hoàn toàn đứng ngoài cuộc. Dù vậy, với cá nhân Clinton, đó vẫn là một sự đáng tiếc. Sau này Clinton thăm Rwanda 2 lần năm 1998 và 2005, với tư cách lần lượt là tổng thống và khách của Tổng thống Rwanda Paul Kagame, đồng minh quan trọng của Clinton ở châu Phi. Cả 2 lần, Bill Clinton đều ”nhân danh người dân Mỹ, xin lỗi người dân Rwanda vì đã không nỗ lực hết sức để ngăn chặn thảm họa diệt chủng năm 1994”.
Còn với Liên Hợp quốc, họ cũng có lý do để không cạn dự vào Rwanda. Đó là sự kiện sát hại 10 lính gìn giữ hòa bình người Bỉ ngay trong đêm bắt đầu cuộc thảm sát. Vào thời điểm đêm 6/4/1994, lực lượng dân quân Rwanda đã bắt giữ 15 lính thuộc phái bộ Liên Hợp Quốc ở Kigali. 5 người Ghana được thả, nhưng 10 người Bỉ đã bị tra tấn và sát hại dã man. Họ bị lính Rwanda chặt gân chân, cắt bộ phận sinh dục nhét vào miệng đến nghẹt thở và chết.
Cái chết của các binh sĩ Bỉ đã làm chính phủ Bỉ đơn phương rút hết lính của mình khỏi Rwanda mà không qua lệnh LHQ. Ngay sau đó, tổng thư kí LHQ Kofi Annan cũng phải ra lệnh sơ tán LHQ khỏi Rwanda. Mặc dù vậy, vẫn có một số binh sĩ LHQ cố gắng giúp đỡ người Tutsi chạy chốn, và kết quả là họ cũng bị giết. Có thêm 5 lính LHQ, gồm 3 người Ghana, 1 người Uruguay và 1 người Senegal thiệt mạng cho đến khi diệt chủng kết thúc.
Chân dung 10 lính gìn giữ hòa bình người Bỉ bị sát hại trong sự kiện diệt chủng Rwanda
Đầu tháng 4 năm 2004, tưởng niệm 10 năm nạn diệt chủng Rwanda, các nhà lãnh đạo Liên hiệp quốc hứa hẹn rằng lịch sử đau thương ở Rwanda sẽ không bao giờ lặp lại một lần nữa.
Vai trò tích cực hiếm hoi của lính nước ngoài là quân đội Pháp đã mở một vùng an toàn cho người Hutu chạy trốn sau khi người Tutsi giành lại chính quyền. Tuy rằng khu vực tị nạn này nhanh chóng quá tải do có đến 2 triệu người Hutu chạy trốn. Cuối cùng, quân đội Pháp đã mở cửa biên giới Zaire cho người tị nạn chạy qua. Nếu không có quân đội Pháp, không biết sẽ có thêm bao nhiêu người Rwanda phải bỏ mạng.
10/ Mobutu Sese Seko, Laurent-Désiré Kabila và chiến tranh Congo lần thứ nhất
Lịch sử Congo suốt thời chiến tranh lạnh chỉ trải qua 2 nhà lãnh đạo quan trọng, một rất ngắn vào một rất dài.
Đầu tiên là Patrice Lumumba, một nhà cách mạng có hơi hướng Cộng sản, thân Liên Xô đã lãnh đạo cuộc đấu tranh giành độc lập từ Bỉ năm 1960. Tuy nhiên, khi lãnh đạo đất nước, quyết định quốc hữu hóa các mỏ tài nguyên, đặc biệt là Uranium để giao cho Liên Xô của ông đã vấp phải phản đối của các vùng sở hữu nhiều tài nguyên, trong đó vùng Katanga đòi ly khai. Hỗn loạn ở Congo tạo cớ người Mỹ và Bỉ can thiệp, và CIA đã qua mặt chính quyền Mỹ ám sát Lumumba năm 1961.
Congo rơi vào tình trạng vô chính phủ, các phe phái Cộng sản và chống Cộng nổi lên đánh nhau. Cả Che Guevara cũng đã đến Congo năm 1965 với ý định làm cách mạng ở nước này, nhưng cuối cùng đã bỏ dở. Đến hết năm 1965, Mobutu Sese Seko, một sĩ quan mới 30 tuổi nhưng đã mang hàm đại tá, lên nắm quyền và lập nên chế độ độc tài kéo dài 32 năm.

Thủ tướng Cộng sản Congo Lumumba bị trói trên xe quân đội trước khi bị sát hại
Mobutu là một nhà độc tài kỳ lạ của lịch sử thế giới. Ông có đặc điểm là tinh thần dân tộc cao và bài ngoại, đồng thời có tệ sùng bái cá nhân hơn cả Stalin. Mobutu Sese Seko là tên gọi tắt của phương Tây gọi ông. Còn trong nước, người dân Congo phải gọi đúng đầy đủ tên của Mobutu là: ”MOBUTU SESE SEKO KUKU NGBENDU WA ZA BANGA”. Theo tiếng dân tộc Ngbandi của Mobutu nghĩa là ”một chiến binh hùng mạnh, nhờ sức mạnh và lòng can đảm đã đạp bằng mọi trở ngại, giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác”. Đọc sai tên đầy đủ của Mobutu có thể bị bỏ tù.
Mobutu đổi cả tên đất nước, từ Congo thành Zaire, sau đó là đổi tên tất cả các con sông, loại bỏ toàn bộ các tên mà người châu Âu đặt, đổi về tên gọi truyền thống của các dân tộc Congo. Mobutu rất ghét thiên chúa giáo, cho rằng các nhà truyền giáo châu Âu là kẻ xâm lược Congo. Người ta có thể bị bỏ tù 5 năm nếu đặt tên thánh bằng tiếng Latin cho một đứa trẻ Congo.
Mobutu còn tự sáng tạo cho mình một kiểu thời trang riêng, bắt nam giới Congo mặc theo. Đặc biệt, Mobutu có một chiếc mũ da báo lúc nào cũng đội trên đầu. Theo Mobutu, điều này là do lúc trẻ ông đã đối đầu và giết chết một con báo. Do đó, hình ảnh con báo gấm chính là biểu tượng sức mạnh của ông, là biểu hiện sự tôn sùng cá nhân của Mobutu. Người ta đặt cho ông biệt danh ”thống chế báo gấm”.
Về công việc lãnh đạo đất nước, người ta nhận xét Mobutu: ”Không ác, nhưng tồi”. Quả thực, Mobutu là nhà độc tài hiếm hoi không có bàn tay nhuốm máu. Dù lập trường chống Cộng kịch liệt, ”chống Cộng suốt đời”, Mobutu rất ít khi giết những kẻ đối lập, vì đơn giản ông đã bỏ án tử hình. Các tù nhân thường sẽ bị bắt làm lao động không công cho nhà nước Zaire.
Nhưng Mobutu, có lẽ là kẻ tham nhũng ghê gớm nhất thế giới, người ta phải nói hắn là kẻ ”xé đất nước ra bán lẻ”. Hắn không tham nhũng một mình, mà còn dung túng cho một bộ máy quan chức tham nhũng không biết điểm dừng của Zaire. Mobutu thường nói với các quan chức: ”Cứ lấy đi, nhưng đừng quá nhiều”. Nền kinh tế Congo dưới thời Mobutu gần như không có gì ngoài đào kho khoáng sản khổng lồ dưới lòng đất lên bán. Nhưng, tuyệt đại đa số số tiền thu được đều chảy vào túi Mobutu và các quan chức tham nhũng, trong khi người dân ngày càng nghèo khổ. Mặc dù đa số người dân sống ở mức nghèo đói cùng cực, Zaire vẫn là nước nhập xe sang Mercedes nhiều nhất châu Phi, tất nhiên là phục vụ Mobutu Sese Seko và tay chân của hắn. Hắn còn sở hữu một loạt các biệt thự sang trọng hàng trăm triệu USD, trong khi đa phần cư dân Congo không có nhà ở.
Càng về sau, nền kinh tế Congo càng ốm yếu do tham nhũng lan tràn và lạm phát. Cùng lúc tài nguyên cạn kiệt dần, giá kim loại trên thế giới giảm vào những năm 90 (cũng chính là nguyên nhân hủy hoại nền kinh tế nước láng giềng Rwanda) khiến Zaire không còn tiền. IMF ngán ngẩm tình trạng tham nhũng vô độ ở Zaire, không dám cứu trợ. Trái ngược với đời sống xa hoa của các quan chức ở thủ đô Kinshasa, người dân Zaire sống trong cảnh nghèo đói hơn cả dưới thời thực dân Bỉ. 90% đất nước Zaire không có đường nhựa. Mạng lưới điện thoại còn sử dụng từ thời thực dân Bỉ, không được nâng cấp trong hàng chục năm. Đường sắt bị bỏ hoang, các mỏ khai khoáng đóng cửa. Thu nhập bình quân chỉ có 120 USD/năm. Nói chung, đất nước Zaire vào những năm 90 là một ”quốc gia đang hấp hối”.
Trước kia, chế độ Mobutu được Hoa Kỳ và châu Âu chống lưng vì lập trường chống cộng quyết liệt. Tuy nhiên, từ những năm 90, chính giới Hoa Kỳ đưa ra thuật ngữ ”thế hệ lãnh đạo mới của châu Phi”. Chính sách của Hoa Kỳ thay đổi, ngừng hỗ trợ các nhân vật từng ủng hộ trước đây như Mobutu hay chế độ phân biệt chủng tộc A-pác-thai ở Nam Phi. Đổi lại là ủng hộ các nhà lãnh đạo mới, tài năng hơn dù có xu hướng thiên tả như Museveni của Uganda hay Paul Kagame của Rwanda, và đặc biệt là Kabila, một người Cộng sản cũ, kẻ thù trực tiếp của Mobutu. Đồng minh cuối cùng của Mobutu là Pháp cũng bỏ rơi hắn.
Trong lúc đó Mobutu lại mắc bệnh nan y. Mặc dù vậy ông vẫn tham quyền cố vị nắm giữ chức tổng thống, nhưng thực tế không còn làm việc được. Ở nhiều vùng phía Đông xa xôi, các nhóm vũ trang đã tách khỏi chính phủ trung ương Kinshasa, chiếm giữ nhiều vùng mà Mobutu cũng không thể điều động quân đội đi đánh dẹp. Quân đội Zaire lúc đó cũng thê thảm. Binh lính không được trả tiền lương. Nhưng khi binh sĩ hỏi Mobutu, ông trả lời: ”Tại sao tôi phải trả lương cho các anh khi đã cho các anh vũ khí?”. Điều đó được nhiều người hiểu là Mobutu khuyên binh lính đi cướp bóc. Và điều đó thực sự đã xảy ra. Quân đội Congo tan rã từng mảng lớn, đào ngũ, vô kỷ luật và cướp bóc tràn lan,… Tất cả báo hiệu những giờ phút cuối cùng của chế độ.
Giữa lúc này, một nhân vật trở lại: Laurent-Désiré Kabila, một nhà cách mạng Marxist người Congo, có một cuộc đời rất đáng nể. Ông chỉ sống 60 tuổi, nhưng đã giành 30 năm cuộc đời lăn lộn ở nước ngoài tìm đường đấu tranh cho đất nước.
Ông đã tham gia chống chế độ độc tài của Mobutu Sese Seko từ năm 20 tuổi, ngay sau khi thủ tướng Lumumba bị sát hại. Ông là Phó chỉ huy của Đoàn thanh niên Balubakat, một tổ chức gần giống Đoàn Thanh niên ở Việt Nam.
Kabila hoạt động ở miền Đông Congo. Tại đây năm 1965, ông đã gặp và liên kết với những chiến sĩ Cuba trong đó có Che Guevara. Tuy nhiên Che Guevara đã bỏ liên minh, đến Bolivia nên cuộc nổi dậy ở Congo thất bại.

Tổng thống Nam Phi Nelson Mandela (giữa) làm trung gian đàm phán cho nhà lãnh đạo Zaire Mobutu (trái) và lãnh đạo quân kháng chiến Congo Kabila (phải) vào năm 1997. Có thể thấy sự mệt mỏi vì bệnh tật trên khuôn mặt của Mobutu trong những tháng cuối cuộc đời
Tổng thống Nam Phi Nelson Mandela (giữa) làm trung gian đàm phán cho nhà lãnh đạo Zaire Mobutu (trái) và lãnh đạo quân kháng chiến Congo Kabila (phải) vào năm 1997. Có thể thấy sự mệt mỏi vì bệnh tật trên khuôn mặt của Mobutu trong những tháng cuối cuộc đời
Căn cứ bị thất thủ, Laurent-Désiré Kabila phải chạy khỏi đất nước cùng khoảng 100 đồng chí sang Tanzania nhờ nhà lãnh đạo Nyerere giúp đỡ. Ông đã ở Tanzania hơn 30 năm trời, buôn lậu gỗ, vàng, phục vụ quán ăn để nuôi lực lượng kháng chiến. Cho đến năm 1997, chỉ còn 16 đồng chí của ông còn sống. Ở Congo, Mobutu Sese Seko tuyên truyền Kabila đã chết để dập tắt ý chí đấu tranh của người Congo.
Vào những năm 90, khi chế độ Mobutu suy yếu, Kabila đã tìm cách trở về. Ông được người Tanzania giới thiệu với tổng thống Uganda Museveni và Tổng thống Rwanda Kagame, những kẻ thù của Mobutu Sese Seko. Ngoài ra, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa cũng hỗ trợ Kabila rất nhiều. Nhờ đó, lực lượng của Kabila lớn mạnh nhanh chóng. Nhưng cơ hội chỉ thực sự đến với Kabila vào năm 1994, khi nạn diệt chủng Rwanda diễn ra. 2 triệu người Hutu tràn vào lãnh thổ Zaire, Kabila đã tranh thủ tình hình hỗn loạn trở về Zaire, đến tỉnh Nam Kivu, nơi có những người Tutsi tị nạn từ những năm 1960. Những người Tutsi ủng hộ Kabila vì mối quan hệ của ông với chính quyền Tutsi ở Rwanda
Những người Hutu tị nạn đến Congo nhanh chóng tái vũ trang, tấn công trở lại Rwanda cũng như tấn công những người tị nạn Tutsi đã có mặt trước đây ở Zaire. Để chấm dứt mối đe dọa, quân đội Rwanda của Kagame đã tiến vào đất Congo tiêu diệt các trại Hutu tị nạn, đồng thời liên kết, giúp đỡ cho quân du kích của Kabila. Quân Uganda cũng tiến vào Zaire từ phía Đông Bắc hỗ trợ cho Kabila. Còn ở phía Tây xa xôi, Angola, một quốc gia Xã hội chủ nghĩa khác, cũng tấn công Zaire. Một lý do để Angola tấn công Zaire, là do sự hiện diện của lực lượng ”phản động” UNITA trên lãnh thổ Zaire.
Năm 1997, mọi sự đã chín muồi. Lực lượng của Kabila bắt đầu tiến mạnh về phía Tây. Họ gần như không gặp chút kháng cự đáng kể nào từ quân đội của Mobutu. Thứ duy nhất cản họ, là tình trạng đường xá tồi tệ của Zaire. Quân của Kabila giải phóng hầu hết các vùng đất của đất nước, trong khi Mobutu bị bệnh nan y đang hấp hối trong dinh thự. Khi quân Kabila tiến sát thủ đô, Mobutu chạy đến Morocco, nơi ông chết chẳng bao lâu sau đó, ngày 7/9/1997. Kabila lấy được thủ đô Kinshasa, trở thành tổng thống, đổi tên nước thành Cộng hòa dân chủ Congo.
Chiến tranh Congo lần thứ nhất kết thúc chóng vánh với thắng lợi của Laurent-Désiré Kabila, thành lập quốc gia mới CHDC Congo. Tuy nhiên, sau khi chiến tranh kết thúc, trên lãnh thổ Congo có đến hàng chục nhóm vũ trang thuộc các quốc gia khác nhau. Tình trạng này chính là nguyên nhân dẫn đến cuộc Chiến tranh Congo lần 2 đẫm máu.
11/ Chiến tranh Congo lần 2 – đại chiến đẫm máu nhất lịch sử thế giới hiện đại.
Laurent-Désiré Kabila ”thừa hưởng” từ Mobutu khoảng nợ 80 tỷ USD, một đất nước nghèo đói nhất địa cầu, một quân đội rệu rã ô hợp, một hệ thống tham nhũng mục nát tận gốc rễ,…Muôn vàn khó khăn đổ lên nhà lãnh đạo Congo. Kabila gần như không có khả năng giải quyết các vấn đề, đặc biệt là về an ninh. Kabila tìm kiếm các mối quan hệ mới với các nước Xã hội chủ nghĩa khác như: Angola, Namibia, Zimbabwe, Trung Quốc,…Ngược lại, quan hệ với đồng minh cũ Rwanda, Uganda, Burundi xấu đi.
Tình hình trên lãnh thổ CHDC Congo năm 1997:
-Chính quyền trung ương của Kabila chỉ kiểm soát được vùng phía Tây, thủ đô Kinshasa. Ở các địa phương các nhóm quân địa phương, gọi là Mai Mai tự vũ trang, nhiều nơi công khai chống đối chính quyền.
-Phía Đông giáp Rwanda, Burundi: hàng triệu người tị nạn Hutu vẫn ở lại Congo để tấn công vào Rwanda, nơi chính quyền Tutsi kiểm soát. Kabila thất bại trong việc trục xuất họ về nước. Để ngăn chặn, quân đội Rwanda của Kagame tiến vào lãnh thổ Congo để tiêu diệt phiến quân Hutu. Kabila đòi Rwanda rút quân về, quan hệ giữa 2 đồng minh cũ căng thẳng. Đặc biệt tại Nam Kivu, rất nhiều người Tutsi nổi dậy đòi sáp nhập vào Rwanda.
-Phía Đông Bắc giáp Uganda, chính quyền Museveni cũng có quan hệ xấu đi với Congo. Họ cũng đưa quân vào miền Bắc CHDC Congo độc lập với Rwanda.
-Phía Bắc giáp Sudan: các phiến quân ủng hộ độc lập cho Nam Sudan lợi dụng tình hình hỗn loạn đã tràn vào miền Bắc Congo, với sự hỗ trợ của Uganda. Để chống lại quân ly khai Nam Sudan cũng như quan hệ thù địch với Uganda, chính phủ Sudan cho quân vào hỗ trợ chính quyền Congo của Kabila.
-Phía cực Tây giáp Angola: phiến quân UNITA vẫn tồn tại trên lãnh thổ, nhiều lần còn tấn công chính phủ Congo. Để tiêu diệt UNITA và hỗ trợ Kabila, Angola đưa quân vào miền Nam và Tây Congo.
-Hai đồng minh Xã hội chủ nghĩa của Congo là Namibia và Zimbabwe đưa quân vào hỗ trợ Kabila, với điều kiện được khai thác tài nguyên của Congo.
-Muammar Gaddafi của Libya ủng hộ Kabila, nhưng ở quá xa. Để thực hiện sự giúp đỡ, Gaddafi tài trợ cho các quốc gia chư hầu: Chad, Sudan và CH Trung Phi để hỗ trợ cho Congo. Trong số này chỉ có Trung Phi là không gửi quân, còn Chad và Sudan thì gửi lực lượng đến hỗ trợ.
Tổng cộng, có 9 quốc gia: Uganda. Rwanda, Burundi, Angola, Chad, Sudan, Zimbabwe, Namibia, CHDC Congo với hơn 20 nhóm vũ trang khác nhau tham chiến trên lãnh thổ Congo. Người ra gọi cuộc chiến này là ”Chiến tranh thế giới châu Phi”. hay ”Chiến tranh thế giới thứ 3”, chính thức bắt đầu từ tháng 8 năm 1998.

Bản đồ các lực lượng trong chiến tranh Congo lần 2
Cuộc chiến gần như không được thế giới chú ý thời điểm đó do ít trận đánh lớn. Tuy nhiên khi người ta bắt đầu để mắt tới thì người ta bàng hoàng nhận ra cuộc chiến đã kịp cướp đi sinh mạng hàng triệu dân thường. Dù thương vong lớn như vậy, không bên nào giành được thắng lợi quyết định. Chiến sự chủ yếu diễn ra ở vùng phía Bắc và phía Đông, cách xa thủ đô Kinshasa. Quân đội Uganda cùng đồng minh chiếm giữ miền Bắc, kéo dài đến tận biên giới phía Tây. Rwanda thì chiếm khu vực miền Đông và tiến sâu vào trung tâm đất nước.
Sau đó, nhiều diễn biến mới làm cuộc chiến càng phức tạp hơn. Ở vùng Ituri giáp Uganda (màu xanh lá trên hình), người dân nổi dậy chống lại Uganda từ sau lưng. Trong khi nhiều nhóm người Tutsi vốn ủng hộ quân Rwanda, cũng quay ra chống lại do mệt mỏi vì chiến tranh. Đến năm 2000, lực lượng Uganda và Rwanda đã đụng độ nhau trên lãnh thổ Congo, kết quả là Rwanda chiến thắng.
Nền kinh tế của tất cả các nước đã không mạnh càng bị chiến tranh làm yếu thêm. Không ít các cuộc đàm phán diễn ra nhưng đều bế tắc.
Bất ngờ năm 2001, tổng thống Laurent-Désiré Kabila bị một phiến quân thân Uganda giả làm cận vệ bắn chết. Từ đây một loạt các diễn biến mới diễn ra đã đưa cuộc chiến tới hồi kết.
Con trai trẻ của tổng thống Laurent-Désiré Kabila, Joseph Kabila lên nắm quyền ở Congo. Joseph theo đường lối ôn hòa, rất tôn trọng và hàn gắn mối quan hệ với Tổng thống Kagame của Rwanda. Theo đó, Joseph cam kết giải giáp các nhóm vũ trang người Hutu trên lãnh thổ Congo, đổi lại Kagame rút quân về nước.
Đối với Rwanda, mọi chuyện cũng khó khăn. Nhiều năm chiến tranh dai dẳng, đất nước Rwanda mới trải quan nạn diệt chủng gặp nhiều khó khăn về kinh tế. Ngay cả những người Tutsi ở Congo, mệt mỏi về chiến tranh, họ đã quay lại chống lực lượng của Kagame. Thêm vào đó, tháng 6 năm 2000, lực lượng Uganda và Rwanda đã quay ra bắn nhau ngay trong lãnh thổ Congo. Dù lực lượng Rwanda chiến thắng, nhưng nguy cơ có thêm kẻ thù mới khiến Kagame quyết định rút quân về.
Với Angola, năm 2002 họ tiêu diệt được thủ lĩnh quân ”Phản động” Jonas Savimbi. Từ đây cuộc xung đột với UNITA kết thúc, Angola rút quân khỏi Congo.
Zimbabwe và Namibia cũng gặp khó khăn kinh tế, phải rút quân.
Các nỗ lực hòa bình sau đó đem lại hiệu quả, Congo ký hiệp ước hòa bình riêng biệt với Rwanda và Uganda, cơ bản kết thúc chiến tranh, mặc dù nhiều nhóm vũ trang thiểu số vẫn chiến đấu trong lòng Congo nhưng không đáng kể.
Cuộc chiến tranh Congo dù không ác liệt nhưng thương vong lại rất lớn, chủ yếu do các bên phạm tội ác chiến tranh. 5,4 triệu người, chủ yếu là dân thường Congo đã chết trong xung đột, với hàng triệu người khác phải đi tị nạn. Các tội ác chiến tranh bao gồm thảm sát dân thường, tra tấn, sử dụng lính trẻ em, phá hoại mùa màng gây nạn đói đặc biệt là hãm hiếp được thực hiện bởi tất cả các bên.
Nói về cưỡng hiếp, Congo đã trở thành ”cái rốn hãm hiếp” của nhân loại. Các bên xung đột sử dụng tình dục làm công cụ để khủng bố tinh thần đối phương và cả dân thường. Nhưng quan trọng hơn, ngay cả khi cuộc chiến đã kết thúc, hãm hiếp vẫn là vấn nạn nhức nhối ở Congo. Liên hợp quốc đã quyết định: bạo lực tình dục trong chiến tranh ở Congo là tội ác chiến tranh!
Năm 2018, giải Nobel hòa bình được trao cho Bác sĩ Denis Mukwege người Congo, người đã 2 thập kỉ phẫu thuật giúp đỡ các nạn nhân của bạo lực tình dục chiến tranh ở Congo.
12/ Tình hình hiện tại ở khu vực Hồ Lớn châu Phi
-Rwanda: sau sự kiện diệt chủng Rwanda, chính phủ Paul Kagame đã có một quyết định lịch sử: hủy bỏ phân chia sắc tộc. Theo đó, không còn Hutu, Tutsi hay Twa ở Rwanda nữa. Tất cả người trong nước đều được gọi là ”dân tộc Rwanda”, với cơ sở khoa học là cùng nói tiếng Kinyarwanda. Điều này đã cơ bản xóa bỏ mối hận thù dân tộc nhiều thế kỷ qua ở Rwanda. Từ năm 2000, Paul Kagame đã được bầu làm tổng thống 3 lần liên tiếp.
Dưới sự lãnh đạo của Paul Kagame, một lãnh đạo được đánh giá là tài năng cả về kinh tế và quân sự, Rwanda ngày nay được lấy làm ví dụ cho câu chuyện thành công của một đất nước bước ra từ chiến tranh. Rwanda luôn là một trong những nước phát triển nhanh nhất châu Phi và thế giới, với mức tăng trưởng thường xuyên 8% từ năm 2000, một phần là nhờ vào sự hỗ trợ lớn cửa quốc tế. Viện trợ của Mỹ cho Rwanda lên đến 50 triệu USD/năm
Rwanda hiện là đồng minh quan trọng của Mỹ và Anh, nhưng quan hệ rất xấu với Pháp. Tổng thống Kagame rất có ảnh hưởng ở châu Phi, là chủ tịch Liên minh châu Phi (AU) năm 2018. Bên cạnh đó, Kagame cũng bị chỉ trích là vẫn tiếp tay cho các nhóm phiến quân còn lại ở Congo, nhiều người còn tố cáo Kagame phạm tội ác chiến tranh. Vài năm qua, an ninh của Rwanda đang có nguy cơ bị đe dọa do căng thẳng lên cao với Congo, và mới đây là Uganda.
Kagame cũng được biết là rất thân thiết với Việt Nam, đã thăm Việt Nam một số lần.

Tổng thống Paul Kagame và Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết năm 2008
-Burundi: ngược lại Rwanda, có vẻ vết thương diệt chủng vẫn chưa lành với Burundi. Nội chiến Burundi đến tận năm 2005 mới có hiệp định hòa bình. Cho đến hiện nay xung đột sắc tộc vẫn âm ỉ ở Burundi và luôn sẵn sàng bùng phát. Đất nước hàng ngày vẫn ghi nhận các vụ giết người giữa các sắc tộc Hutu và Tutsi.
Hiện nay Burundi là một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới. Dù tương đồng với Rwanda về nhiều mặt nhưng khoảng cách phát triển giữa hai đất nước là rất xa. Burundi đang bị nhiều nước kể cả Mỹ cấm vận vì tình trạng bạo lực và vi phạm nhân quyền. Tình hình chính trị của Burundi cũng rất không ổn định, gần như kỳ bầu cử nào cũng có bạo loạn khiến nhiều người chết.
-Uganda: giống như Rwanda, tổng thống Museveni cũng là đồng minh của Hoa Kỳ, cũng đã giúp kinh tế Uganda phát triển nhanh trong những năm qua. Uganda còn có tài nguyên giàu có hơn nhiều Rwanda.
Mặc dù vậy, tình hình an ninh, chính trị của Uganda đang gặp một số thách thức. Chế độ của Museveni đang bị nhiều người coi là độc tài, gây ra nhiều sự phản đối trong xã hội. Thậm chí vừa qua quan hệ với Rwanda đột nhiên căng thẳng, sau khi hai nước đọ súng ở biên giới và đóng của biên giới 6 tháng. Họ vừa ký thỏa thuận giảm căng thẳng ở Angola.
Uganda mỗi năm đón 100.000 người Nam Sudan tị nạn. Có thể nhiều người ngạc nhiên, nhưng trại tị nạn Bidi Bidi của Uganda đang là trại tị nạn lớn nhất thế giới hiện nay, với 300.000 người tị nạn Nam Sudan đang ở.
-CHDC Congo: quốc gia này hiện vẫn còn trong xung đột. Có 3 vùng hiện nay còn giao tranh:
+Nam Kivu: Congo cáo buộc Rwanda hỗ trợ quân Tutsi chống chính quyền Congo
+Ituri: các nhóm dân thiểu số chống chính quyền, hỗ trợ bởi Uganda
+Bắc Katanga: các nhóm vũ trang từ thời chiến tranh Congo lần 2 vẫn từ chối hạ vũ khí
Vì xung đột kéo dài, Congo là nước nghèo thứ 2 châu Phi ngay sau Burundi bất chấp diện tích rộng, dân số đông, tài nguyên giàu có. Congo cũng thường xuyên rời vào khủng hoảng chính trị, nhất là sau khi tổng thống Joseph Kabila rút lui. Ngay thời điểm hiện tại chính phủ Congo cũng đang rơi vào một cuộc khủng hoảng. CHDC Congo được xếp vào một trong những nước mong manh nhất thế giới, cũng là một trong những nơi có nạn hãm hiếp tồi tệ nhất thế giới
Hết.
Sách tham khảo:
-Ebook: Lịch sử của mỗi quốc gia trên toàn thế giới bằng tiếng Việt (Nam H Nguyen)
-Lịch sử 200 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới: Phần 1 – PGS.TS. Cao Văn Liên
-Tình báo Hoa Kỳ – chuyên gia lật đổ (NXB Công an nhân dân)
-The Great Lakes of Africa: Two Thousand Years of History (Jean-Pierre Chrétien)
-Culture and Customs of Rwanda (Julius Adekunle)
-The Rwanda Crisis: History of a Genocide (Gérard Prunier)
-Congo Diary: The Story of Che Guevara’s “Lost” Year in Africa (Che Guevara)
-Burundi: Ethnic Conflict and Genocide (Rene Lemarchand)
-Great Lakes Conflagration: Second Congo War, 1998–2003 (Tom Cooper)
-State of Blood: The Inside Story of Idi Amin (Henry Kyemba)
– The Congo: From Leopold to Kabila: A People’s History (Georges Nzongola-Ntalaja)
Đọc thêm:
-Tạp chí nghiên cứu Châu Phi và Trung Đông – Viện Nghiên cứu Châu Phi và Trung Đông
-Báo cáo của Ủy ban quốc tế về diệt chủng Burundi ngày 18 tháng 9 năm 1997 (PDF)
-Thông tin cơ bản về các nước, khu vực và quan hệ với Việt Nam – Bộ ngoại giao Việt Nam
bài viết này quá xuất sắc, không tìm đâu ra bài hay hơn nữa. vấn đề này tôi đọc trên wiki nhiều lần nhưng không hiểu bằng bây giờ
ThíchThích
Bài viết cực chi tiết, liên kết các sự kiện lịch sử Châu Phi lúc bấy giờ lại với nhau. Cảm ơn bạn rất nhiều!
ThíchThích
Bài viết tổng quan rất hay và dễ hiểu. Mình từng tìm hiểu về nạn diệt chủng Rwanda trước đây nhưng chưa tìm được bài viết nào có thể khái quát và giải thích các vấn đề dễ hiểu như bài viế này. Cảm ơn bạn rất nhiều!
ThíchThích