
Hình 1 : Sơ đồ khu vực cửa sông Cà Lồ
Lê Đắc Chỉnh
(Bài viết nhân dịp kỷ niệm ngày quốc khánh lần thứ 74 (2/9/1945-2/9/2019)
- Huyền thoại “Nam quốc sơn hà” và những dấu tích còn để lại
Nam quốc sơn hà (NQSH) là bài thơ nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam [1]. Bài thơ xuất hiện 2 lần trong 2 trận đánh Tống vang dội cách nhau gần 100 năm (981 và 1077), được xem là nguồn cổ vũ tinh thần không thể thiếu của người lính Việt khi xông lên đối mặt với quân thù. Tuy nhiên trong cả hai lần xuất hiện chỉ có các binh sĩ đang chiến đấu ở đó nghe thấy tiếng đọc bài thơ và rất nhiều năm sau cũng không ai nhìn thấy văn bản của bài thơ này. Mãi về sau NQSH mới được chép cùng với truyền thuyết Trương Hống, Trương Hát trong các sách Việt Điện U Linh (1329) [2] và Lĩnh Nam Chích Quái (1554) [3].
Như vậy NQSH không chỉ xuất hiện 2 lần mà đã để lại dấu tích 4 lần, 2 lần dưới dạng truyền miệng trong các trận đánh Tống nêu ở trên và 2 lần dưới dạng văn bản [4]. Sự xuất hiện của NQSH được phần đều cho cả 4 triều đại lớn kế tiếp nhau, đó là nhà Tiền Lê dưới thời Lê Đại Hành (981), nhà Lý dưới thời Lý Nhân Tông (1077), nhà Trần dưới thời Trần Minh Tông (1329) và nhà Hậu Lê dưới thời Lê Trung Tông (1554). Sự thật trên khảng định rằng trước khi được văn bản hóa, NQSH đã bền bỉ sống trong lòng nhân dân, được nhân dân ta lưu giữ qua nhiều thế kỷ và chủ yếu bằng hình thức truyền khẩu.
Có lẽ vì thế mà sau này các nhà sưu tầm đã tìm thấy rất nhiều dị bản của bài thơ. Theo thống kê đến nay còn thấy 35 bản sách và 8 bản thần tích và tại 372 đền miếu dọc hai bờ sông Cầu và sông Thương đều có bài thơ NQSH. Trong đó các bài thơ đều được gắn với tên một trong 2 vị anh hùng thời bấy giờ , đó là vua Lê Đại Hành và thái úy Lý Thường Kiệt. Tuy đến nay chưa tìm thấy bản chính, không biết ai là tác giả, nhưng truyền thuyết lại cho biết rất rõ nơi phát tích của bài thơ. Đó là vùng cửa sông Cà Lồ. Vậy khu vực cửa sông này có gì đặc biệt ?
- Vùng cửa sông Cà Lồ là một địa danh rất đặc biệt
Sông Cà Lồ [5] dài khoảng 90 km, là một chi lưu của sông Cầu và từng là một phân lưu của sông Hồng. Nó vốn tách ra khỏi sông Hồng ở xã Trung Hà, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc, chảy ngoằn nghèo uốn khúc và hợp lưu với sông Cầu tại ngã ba Xà (xã Tam Giang, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh).
Kể từ khi Thục Phán (tức An Dương Vương) lập nước Âu Lạc và đóng đô ở Cổ Loa (257 TCN đến 208 TCN) thì khu vực cửa sông Cà Lồ (Hình 1) đã là cửa ngõ quan trọng để từ phía Bắc tiến vào vùng đồng bằng sông Hồng.
Đến thời 1000 năm Bắc thuộc, từ Trung Hoa muốn đến Cổ Loa, Long Biên và Tống Bình (sau này là Thăng Long), các thái thú và sứ thần phương Bắc thường phải đi qua đây. Đến khi nước ta chuyển sang tự chủ và giành được độc lập thì nơi đây trở thành con hào thiên nhiên vững chắc chắn ngang đường tiến của các đạo quân từ phương Bắc.

Hình 2: Cửa sông Cà Lồ ngày nay (còn gọi là Vũ Bình Khẩu) , nhánh nhỏ là sông Cà Lồ, nhánh lớn là sông Cầu. Theo truyền thuyết thì khi gia đình Trương Hống, Trương hát bị Lý Phật Tử truy đuổi họ đã lần lượt tuẫn tiết , bắt đầu từ cửa sông Cà Lồ này.
Nếu kể từ đầu thế kỷ 20 trở về trước sông Cà Lồ được nối thông với sông Hồng, khi đó con sông này đã đem theo nhiều phù sa, đến hạ lưu thì tràn sang hai bên, bồi đắp thành các doi đất và tạo ra một vài nhánh sông nhỏ có hình như đầu các con rắn. Ngôi làng nằm trên dải đất có nhiều “con rắn” này được gọi là làng Xà. Ngày nay làng Xà tách thành 2 làng là Xà Đông (tức thôn Phương La Đông) và Xà Đoài (tức thôn Phương La Đoài).
Trên dải đất có hình các con rắn này từ lâu đã có một ngôi đền cổ. Dân trong vùng quen gọi là đền Xà, trong Đại Việt sử ký toàn thư [6] thì ghi là đền Trương tướng quân, có tài liệu lại chép là đền Thánh Tam Giang.

Hình 3: Trong ảnh là 3 pho tượng được thờ tại đình làng Tiên Tảo. Ở giữa là Trương Hống, bên phải là Trương Hát, bên trái là mẹ của hai ông.
Sự tích Thánh Tam Giang [7] là một câu truyện lịch sử ở giữa thế kỷ 6. Thời đó có 2 anh em tên là Trương Hống và Trương Hát đã “đến địa phận làng Tiên Tảo, huyện Kim Hoa, phủ Đa Phúc, lộ Bắc Giang” (nay thuộc xã Việt Long, huyện Sóc Sơn, TP. Hà Nội), “thấy đất có thế ỷ giốc, tiến thoái lưỡng tiện có thể dụng binh liền cho quân hạ trại”. Để tưởng nhớ công lao này trong việc giải phóng nước Vạn Xuân, dân làng đã xây đình và đúc tượng thờ chung cả 2 ông cùng với bà mẹ (Hình 3). Ngoài ra ở khoảng giữa làng Tiên Tảo và Ngọc Hà ngày nay còn để lại dấu tích một số bức tường cổ bằng đất của một tòa thành xưa có tên là Thành Phủ mà hai ông đã cho xây dựng (Hình 4). Qua đó cho thấy vùng cửa sông Cà Lồ chính là căn cứ kháng chiến cũ của hai vị anh hùng họ Trương. Có lẽ vì thế mà bài thơ NQSH luôn được gắn với tên của hai ông.

Hình 4 : Trong ảnh là Cổng phủ thuộc thôn Ngọc Hà, bên trong có dấu tích bức tường cổ bằng đất của một tòa thành có tên là Thành Phủ thời Trương Hống, Trương Hát
Biết rằng xưa kia các sứ thần Trung Hoa đến nước ta thường theo đường bộ, đi từ Ải Nam quan đến bờ bắc bến đò Như Nguyệt mất khoảng 4 ngày. Từ đây sứ thần sẽ vượt sông Cầu và đi tiếp hơn nửa ngày nữa, đầu tiên qua làng Xà (nay thuộc xã Tam Giang, huyện Yên Phong), tiếp đến là các làng Yên Vĩ, Yên Phụ (thuộc Yên Phong, Bắc Ninh); rồi Thụy Lôi, Vân Điềm, Hà Vĩ, Dục Tú (Đông Anh, Hà Nội); qua sông Hồng là đến Đại La (sau là Thăng Long). Lối đi cổ xưa này ngắn nhất và đã trở thành quen thuộc từ lâu với người phương bắc.
Thời đó dù đi đường nào cũng phải vượt qua sông Cầu. Con sông này bắt nguồn từ Cao Bằng, đổ ra sông Lục Đầu ở Phả Lại. Dòng sông chặn ngang tất cả các con đường bộ từ Quảng Tây tiến vào Đại La. Nếu theo đường thủy sẽ phải vào cửa Bạch Đằng, rồi từ Bạch Đằng ngược dòng sông Cầu khoảng 100 km nữa thì đến cửa sông Cà Lồ. Đoạn thượng lưu sông Cầu, từ cửa sông Cà Lồ đến Thái Nguyên, tuy qua sông được nhưng sẽ gặp dãy núi Tam Đảo nên xa hơn và khó đi hơn. Như vậy chỉ có khúc sông Như Nguyệt từ cửa sông Cà Lồ đến Phả Lại, nhất là đoạn liền với cửa sông Cà Lồ là có thể qua lại dễ dàng, có bến đò và đường bộ để về Cổ Loa và Đại La [8]. Nghĩa là từ cửa sông Cà Lồ có thể theo cả đường thủy và đường bộ để tiến xuống đánh chiếm Đại La. Do vùng cửa sông Cà Lồ có vị trí đặc biệt như vậy nên liên tiếp hai lần xâm lược nước ta (981 và 1077) quân Tống đều chọn khúc sông này để vượt qua.
- Bài thơ NQSH (năm 981) phát ra từ thành Bình Lỗ
Bình Lỗ là trận đánh Tống nổi tiếng do vua Lê Đại Hành trực tiếp chỉ huy [9]. Truyện “Hai vị thần ở Long Nhãn, Như Nguyệt” đã ghi lại như sau: “Vào năm Tân Tỵ (981)… Lê Đại Hành và tướng quân Phạm Cự Lượng kéo quân tới sông Đồ Lỗ (tức sông Cà Lồ) cự địch, hai bên đối đầu cầm cự”. Rồi một đêm nhà vua “mộng thấy một người dẫn đoàn quỉ áo trắng, từ phía nam sông Bình Giang mà tới, một người dẫn đoàn quỉ áo đỏ từ phía bắc sông Như Nguyệt mà lại, cùng xông vào đánh trại giặc”. Sau này các nhà nghiên cứu cho rằng Bình Giang chính là sông Cà Lồ hay còn gọi là sông Bình Lỗ. Phía nam sông Bình Giang tức là phía nam sông Cà Lồ, tại đây có thành Bình Lỗ mà vua Lê Đại Hành cho xây dựng [10]. Còn phía bắc sông Như Nguyệt là đoạn sông Cầu bắt đầu từ cửa sông Cà Lồ ngược lên phía bắc của con sông này.
Trong truyện cho biết Lê Đại Hành đã được 2 vị thần Trương Hống, Trương Hát hiện lên phù giúp, đã làm cho “quân Tống kinh hoàng” và “Thần nhân tàng hình trên không, lớn tiếng ngâm rằng:
Sông núi nước Nam vua Nam ở.
Thượng đế đã định như vậy trong sách trời.
Cớ sao giặc phương Bắc lại tới đây xâm lược,
Gươm sáng sẽ chém hết các ngươi tan tành như chẻ tre.
Quân Tống nghe thấy, xéo đạp lên nhau chạy tan, đại bại mà về”.
Năm đó thành Bình Lỗ được chọn là đại bản doanh của quân Đại Cồ Việt do Lê Đại Hành trực tiếp chỉ huy. Trong trận Bình Lỗ, Lê Đại Hành đã dùng kế trá hàng. Do tướng giặc là Hầu Nhân Bảo mắc phải kế trá hàng này và đã cố đuổi bắt Lê Đại Hành đang ‘thua chạy’ ở phía trước, nên đạo tiền quân Tống tiến sâu vào sông Hữu Ninh (tên cũ của đoạn hạ lưu sông Cà Lồ) mà không biết.

Hình 5: Vị trí thành Bình Lỗ và chiến trường chính đánh Tống năm 981
Đến khi phát hiện thành Bình Lỗ và chiến lũy “ngăn sông” ở trước mặt thì đã muộn, chúng vội rút lui nhưng không kịp. Thế rồi “đoàn quỉ áo đỏ từ phía bắc sông Như Nguyệt” quay lại bịt kín cửa sông Cà Lồ. Đạo tiền quân của Hầu Nhân Bảo bị vây chặt trong đoạn sông Hữu Ninh (ĐVSKTT của Ngô Sĩ Liên ghi nhầm là sông Chi Lăng [11]), nên chúng phải liều chết xông lên đánh chiếm thành Bình Lỗ nhưng bị quân Đại Cồ Việt chống trả quyết liệt. Ngày nay tại chân gò đất cao (nơi có thành Bình Lỗ) còn để lại cái tên Ngòi Ác (nơi sông Cà Lồ tách ra thành 2 nhánh tạm gọi là Hữu Ninh 1 và Hữu Ninh 2) như một minh chứng của trận chiến ác liệt năm nào (Hình 5). Kết quả là “quân giặc kinh hãi” phải “ rút về giữ sông Hữu Ninh“ [12]. Nhánh sông Hữu Ninh 2 nhỏ hơn, đã bị vùi lấp, nay còn để lại một số dấu tích, chạy dài đến 3 km từ gò đất cao đến cuối bến đò Như Nguyệt. Tại đây “Nhân Bảo bị giặc vây đánh rất hăng, quân viện đến cứu không kịp, Nhân Bảo bị giết chết ở giữa sông “ [13]. Dọc con sông nhỏ này còn lưu lại một loạt cái tên Ngòi Ác, Cầu Cửa Ma, Đầm Lâu, Bờ Xác, Đình Mừng,… như phản ánh lại những chiến công xưa.

Hình 6: Một góc thành Bình Lỗ xưa. Nơi đây đang bị đào bới sâu xuống lòng đất để lấy nguyên liệu làm gạch, phi tang vĩnh viễn mọi dấu tích.
- Bài thơ NQSH (năm 1077) phát ra từ đền Trương tướng quân (tức đền Xà)
Truyện Trương Hống, Trương Hát trong sách Việt Điện U Linh xuất hiện từ năm 1329 đã chép: “Thời vua Nhân Tông nhà Lý, binh Tống nam xâm kéo đến biên cảnh; vua sai Thái uý Lý Thường Kiệt dựa bờ sông đóng cừ để cố thủ. Một đêm kia quân sĩ nghe trong đền có tiếng ngâm to rằng:
Sông núi nhà Nam Nam đế ở
Phân minh trời định tại thiên thư.
Cớ sao nghịch lỗ sang xâm phạm?
Bọn chúng rồi đây sẽ bại hư.
Quả nhiên quân Tống chưa đánh đã tan rã”.
Sau này Đại Việt sử ký bản kỷ toàn thư (ĐVSKBKTT), quyển III, xuất bản năm 1697 [6], trong mục Nhân Tông hoàng đế, cũng dựa vào đó và ghi lại sự tích về bài thơ này nhưng cụ thể hơn: “Vua sai Lý Thường Kiệt đem quân đón đánh, đến sông Như Nguyệt đánh tan được. Quân Tống chết hơn 1 nghìn người…”. Rồi “Một đêm quân sĩ chợt nghe ở trong đền Trương tướng quân ( Hình 7, còn gọi là đền Xà hay đền Thánh Tam Giang) có tiếng đọc to rằng:
Sông núi nước Nam, Nam Đế ở.
Rõ ràng phân định tại sách trời.
Cớ sao nghịch tặc sang xâm phạm?
Cứ thử làm xem, chuốc bại nhơ?“
và “sau đó quả nhiên như thế”.

Hình 7: Đền Trương tướng quân ( còn gọi đền Xà hay đền Thánh Tam Giang) là nơi phát tích bài thơ NQSH lần thứ 2.
Khác với truyện “Hai vị thần ở Long Nhãn, Như Nguyệt”, trong truyện “Trương Hống, Trương Hát” tác giả đã tách phần truyền thuyết và bài thơ thành hai phần riêng biệt. Phần truyền thuyết chỉ gắn với nhân vật lịch sử Ngô Nam Tấn, còn phần bài thơ tuy có tên của Lý Thường Kiệt nhưng chỉ là sự chép nối tiếp sau khi truyền thuyết đã kết thúc. Nhưng ngạc nhiên nhất là truyện “Trương Hống, Trương Hát” không ghi gì về một trận đánh rất nổi tiếng có thật trong lịch sử nước ta lúc bấy giờ. Đó là trận tiêu diệt đội quân Tống hơn 3 vạn tên do Triệu Tiết chỉ huy trên cách đồng làng Mai Thượng (Hình 8, làng này nằm đối diện với đền Xà, nay thuộc huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang) [14].

Hình 8: Sơ đồ trận Như Nguyệt năm 1077
- Ai đã lưu giữ và đọc bài thơ NQSH ở đền Trương tướng quân [15]
Theo gia phả của Họ Lê Lục Chi ở thôn Phương La Đông (tức Xà Đông), xã Tam Giang, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh, trong đó ghi rõ cụ tổ xa xưa của dòng họ này là Hoàng đế Lê Trung Tông (nhà Tiền Lê) [16]. Sử liệu cho biết, năm 1005 sau vụ thảm sát ở Hoa Lư, vợ và con Trung Tông còn sống và chạy thoát về khu vực cửa sông Cà Lồ. Hoàng đệ thứ 7 là Lê Long Tung [17] khi đó đóng ở Tư Doanh (nay là Cổ Loa, Hà Nội) đã tham gia giúp đỡ họ. Đến nay tổ tiên của dòng họ này còn để lại 3 câu chữ Hán và dịch sang tiếng Việt như sau:
“Tránh cái hiểm họa Long Đĩnh, Di chuyển gia quyến đến cửa sông Cà Lồ, Náu tung tích giấu họ tên mà lập nghiệp” (Hình 9) [18].

Hình 9: Trích gia phả Họ Lê Lục Chi, hậu duệ của Hoang đế Lê Trung Tông (Tiền Lê) ở làng Xà Đông
Vậy là từ năm 1005 đã có một nhánh của hậu duệ Hoàng đế Lê Trung Tông, dấu họ đổi tên, chạy về lập nghiệp ở vùng sông nước và rừng rậm xung quanh khu vực đền Trương tướng quân. Với mục đích ban đầu là để tự bảo vệ mình và xa hơn là chờ thời cơ thuận lợi khôi phục lại sự nghiệp nhà Tiền Lê, đến năm 1077 họ đã tập hợp được một lực lượng đông đảo, bí mật hoạt động xung quanh khu vực cửa sông Cà Lồ. Sau 72 năm (1005 – 1077) đội quân này đã phát triển đến mức không thể dấu kín được nữa. Qua câu truyện về giấc mộng của Lý Thường Kiệt trên núi đền Yên Phụ [19] cho thấy người dân trong vùng đã phát hiện ra. Khi chiến sự lan đến nơi này, họ trở thành đội quân dưới cái danh của Thánh Tam giang, lấy đền Xà làm đại bản doanh. Đúng lúc đó Lý Thường Kiệt đã đến ngôi đền này để mượn quân.

Hình 10 : Đền thờ Lý Thường Kiệt mới xây dựng ở xã Tam Giang (Yên Phong, BN)
Vậy là bài thơ NQSH xuất hiện lần đầu từ thời Lê Đại Hành, được hậu duệ Hoàng đế Lê Trung Tông (Tiền Lê) lưu giữ và 96 năm sau (981 – 1077) họ lại sử dụng bài thơ để đọc ở đền Trương tướng quân. Sự thực này giải thích vì sao suốt hơn 200 năm, vương triều Lý không để lại cho sử liệu nước nhà một văn bản nào ghi về bài thơ NQSH.
- Ai đã đem bài thơ NQSH vào cho nhà Lê Trung Hưng
Đến năm 1554 truyện “Hai vị thần ở Long Nhãn, Như Nguyệt” được một quan nhỏ tại tàng thư Quốc tử giám thời nhà Trần tên là Trần Thế Pháp sưu tập và đưa vào sách Lĩnh Nam Chích Quái. Bài thơ NQSH trong truyện này được gắn với bối cảnh cụ thể của trận đánh Tống ở vùng cửa sông Cà Lồ do chính Lê Đại Hành trực tiếp chỉ huy. Qua nội dung trong truyện cho thấy tác giả muốn ca ngợi tinh thần “trung với vua cũ (lúc đó là Triệu Việt Vương) và thà chết không theo vua mới (lúc đó là Lý Phật Tử)” của hai vị anh hùng Trương Hống, Trương Hát. Cho nên mãi đến năm 1554 thời Nam –Bắc triều, khi chiến tranh Lê – Mạc bùng phát mạnh thì bài thơ NQSH cùng với truyện “Hai vị thần ở Long Nhãn, Như Nguyệt” mới xuất hiện để phù giúp nhà Lê.
Như vậy bài thơ NQSH đã phát tích 2 lần ở vùng cửa sông Cà Lồ (981 và 1077), nơi lánh nạn của hậu duệ Hoàng đế Lê Trung Tông (nhà Tiền Lê). Đến thời nhà Lê Trung Hưng bài thơ lại được phổ biến rộng rãi bằng văn bản dưới triều một ông vua có cùng họ Lê và cùng miếu hiệu là Lê Trung Tông [20].Sự kiện này xảy ra đúng vào thời điểm kỳ thi Chế (1554) ở hành cung Vạn Lại [21] ( Hình 11, nay thuộc xã Xuân Châu, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa). Qua đó có thể đoán tài liệu này đã được nhà Lê Trung Hưng sử dụng để kêu gọi các hào kiệt và nhân sĩ từ bỏ nhà Mạc (khi đó chiếm cứ phía Bắc) mà về với nhà Lê (đang chiếm cứ từ Thanh Hóa trở vào).

Hình 11: Dấu tích còn lại của kinh đô Vạn lại (Thanh Hóa)
Tuy nhiên để đem bài thơ NQSH vào cho nhà Lê Trung Hưng phải có người am hiểu bài thơ này, có quan hệ rộng rãi với giới nho sĩ vùng Thăng Long, người đó còn phải hiểu tường tận vùng cửa sông Cà Lồ và nhất là muốn hướng về nhà Lê

Hình 12: Tượng Tiến sĩ Nguyễn Quang Tán ở nhà thờ Thánh sư (Xà Đông, Tam Giang, Yên Phong, Bắc Ninh)
Vào thời điểm đó ở làng Xà có TS Nguyễn Quang Tán [22], ông làm quan đến chức giám sát ngự sử, được nhà Mạc cử đi sứ Trung Hoa 3 lần là các năm 1530, 1534 và 1540. Sau khi đi sứ lần cuối về và truyền nghề ép dầu thành công, dân làng nhận thấy sau sự kiện vua Mạc dâng biểu xin hàng quân Minh [23] ông trở nên trầm tư và thường vắng mặt ở làng Xà một thời gian khá dài. Mãi đến đầu năm 1563 ông mới trở về và đón vợ con đi hẳn. Cùng thời điểm này, nhiều thanh niên làng Xà cũng bí mật ra đi không để lại dấu tích gì. Biết rằng Họ Lê Lục Chi ở làng này ban đầu có 6 chi, mất tích 2 chi đúng vào thời điểm đó, cho nên ngày nay chỉ còn lại 4 chi là Lê Bá Anh, Lê Danh, Lê Bá Em và Lê Đắc. Từ đó có thể đoán rằng Nguyễn Quang Tán đã cùng với một số hào kiệt và nhân sĩ vùng cửa sông Cà Lồ đã đem bài thơ Nam quốc sơn hà vào cho nhà Lê Trung Hưng.
Có lẽ nhờ phổ biến rộng rãi bài thơ NQSH nên nhà Lê Trung Hưng đã thu hút được nhiều nhân tài, từng bước giành lại vị trí chính thống, đủ sức đánh bại nhà Mạc và sau này phát triển thành một triều đại dài nhất trong lịch sử Việt Nam với 256 năm (1533-1789).
- Bài thơ NQSH đã góp phần bảo vệ nền độc lập của Việt Nam
Năm 1973, sau khi chính thức ký hiệp định Paris về Việt Nam, ông Kissinger, trưởng đoàn đàm phán Mỹ đến Hà Nội và vào thăm Bảo tàng lịch sử. Đứng trước bài thơ Nam quốc sơn hà trong phòng trưng bày, vị khách đặc biệt này đã phải thừa nhận, bài thơ chính là “Điều 1 khoản 1 của Hiệp định Paris”. Nội dung của khoản 1 này là ” Hoa Kỳ và các nước khác tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam” [24].
Ngày nay trên các đảo tiền tiêu ở Biển Đông, NQSH đã được gắn trong am thờ những người lính biển [25]. Bài thơ còn là linh hồn của những đài bia và cột mốc chủ quyền trên các vùng biên cương của đất nước. Cho nên NQSH thật xứng đáng là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước ta.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Nam quốc sơn hà. Bách khoa toàn thư mở Wikipedia. Mục Lịch sử.
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nam_qu%E1%BB%91c_s%C6%A1n_h%C3%A0#L%E1%BB%8Bch_s%E1%BB%AD
[2] Truyện Trương Hống, Trương Hát. Việt Điện U Linh trang 59-61, Lý Tế Xuyên
https://quangduc.com/images/file/DbM05n_d1AgQAHU7/viet-dien-u-linh-tap-ly-te-xuyen.pdf
[3] Truyện hai vị thần ở Long Nhãn, Như Nguyệt. Lĩnh Nam Chích Quái.
https://dotchuoinon.files.wordpress.com/2010/11/linhnamchichquai_march18_2015.pdf
[4] Nguyễn Thị Oanh. Về thời điểm ra đời của bài thơ Nam quốc sơn hà, Tạp chí Hán Nôm số 1(50) năm 2002. Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
http://hannom.org.vn/web/tchn/data/0201.htm
[5] Sông Cà Lồ. Bách khoa toàn thư mở Wikipedia.
https://vi.wikipedia.org/wiki/S%C3%B4ng_C%C3%A0_L%E1%BB%93
[6] Đại Việt Sử Ký Bản Kỷ Toàn, Quyển III, Nhà Lý. Nhân Tông Hoàng đế.
[7] Thánh Tam Giang. Tướng của Triệu Việt Vương.
[8] Chiến thắng Như Nguyệt. Mùa xuân 1077.
http://www.lichsuvietnam.vn/home.php?option=com_content&task=view&id=1193&Itemid=5
[9] Trận Bình Lỗ đã diễn ra như thế nào.
https://nghiencuulichsu.com/2019/03/04/tran-binh-lo-da-dien-ra-nhu-the-nao/
[10] Đi tìm thành Bình Lỗ của nhà nước Đại Cồ Việt.
https://nghiencuulichsu.com/2018/04/03/di-tim-thanh-binh-lo-cua-nha-nuoc-dai-co-viet/
[11] Vì sao không tìm thấy thành Bình Lỗ?
https://nghiencuulichsu.com/2019/01/03/vi-sao-khong-tim-thay-thanh-binh-lo/
[12] Đại sư Khuông Việt. Nghiên cứu về Thiền uyển tập anh. 1999
http://www.daophatngaynay.com/vn/phatgiao-vn/con-nguoi-vn/7211-Khuong-Viet-Dai-su.html
[13] Lý Đào: Tục tư trị thông giám trường biên. q. XXII. Sđd1
[14] Trận Như Nguyệt. Quân nhà Lý phản công. Bách khoa toàn thư mở Wikipedia.
[15] Ai đã đọc bài thơ Nam quốc sơn hà ở đền Trương tướng quân.
https://nghiencuulichsu.com/2019/06/21/ai-da-doc-bai-tho-nam-quoc-son-ha-o-den-truong-tuong-quan/
[16] Lê Trung Tông (Tiền Lê). Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%AA_Trung_T%C3%B4ng_(Ti%E1%BB%81n_L%C3%AA)
[17] Lê Long Tung. Bách khoa toàn thư mở Wikipedia.
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%AA_Long_Tung
[18] Họ Lê Lục Chi. Gia phả họ Lê Đắc và nhà trưởng họ Lê Đắc Ảnh. Tam Giang, Yên Phong, Bắc Ninh 1990.
[19] Nguyễn Đình Hưng-VanhoaOnline. Ngày 7/2/2010: Phát hiện văn bản bài thơ “Nam quốc sơn hà”. http://tuyengiao.vn/van-hoa/tin-hoat-dong/phat-hien-van-ban-bai-tho-nam-quoc-son-ha-17392
[20] Lê Trung Tông (Hậu Lê). Bách khoa toàn thư mở Wikipedia.
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%AA_Trung_T%C3%B4ng_(H%E1%BA%ADu_L%C3%AA)
[21] Vạn Lại kinh thành bị quên lãng.
https://thanhnien.vn/van-hoa/van-lai-kinh-thanh-bi-quen-lang-1048523.html
[22] Nguyễn Quang Tán. Bách khoa toàn thư mở Wikipedia.
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n_Quang_T%C3%A1n
[23] Chiến tranh Lê Mạc. Thay đổi nhân sự. Bách khoa toàn thư mở Wikipedia.
[24] Hiệp định Paris 1973. Bách khoa toàn thư mở Wikipedia. Nội dung chính của hiệp định và lập trường các bên.
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hi%E1%BB%87p_%C4%91%E1%BB%8Bnh_Paris_1973#N%E1%BB%99i_dung_ch%C3%ADnh_c%E1%BB%A7a_hi%E1%BB%87p_%C4%91%E1%BB%8Bnh_v%C3%A0_l%E1%BA%ADp_tr%C6%B0%E1%BB%9Dng_c%C3%A1c_b%C3%AAn https://www.facebook.com/qsvnfp/photos/a.495414847267977/606679416141519/?type=1&theater
[25] Đỗ Sơn: Nam quốc sơn hà trên đảo Trường Sa.
http://www.tienphong.vn/xa-hoi/nam-quoc-son-ha-tren-dao-truong-sa-550423.tpo