Địa chính trị- La Géopolitique

hoa-ky-nga-va-trung-quoc-la-con-moi-chinh-cua-tin-tac-tien-dien-tu_1.jpg

     Phan  Tấn  Khôi *

             Kể từ khi Chiến tranh thế giới thứ hai chấm dứt năm 1945,  cuộc chiến tranh trong bóng tối,  cuộc chiến tranh tâm lý  chưa bao giờ chấm dứt,  mà trái lái còn gia tăng mạnh mẽ hơn nữa giữa những quốc gia liên minh với nhau trước ₫ây. Đây là lần ₫ầu tiên,  nguồn  gốc các cuộc tranh chấp, xung ₫ột  ₫ều có tính cách vừa là kinh tế-xã hội  <tầm vóc  Bắc-Nam>  vừa là ý thức hệ  <tầm vóc  Đông-Tây> .

            Điều này có nghĩa là lần ₫ầu tiên những sức mạnh hiện hữu phải lệ thuộc vào toàn phần không gian thiên nhiên,  ₫ất ₫ai,  biển cả,  không khí,  kể cả  không gian vũ trụ.  Cũng là lần ₫ầu tiên cuộc chiến  tranh tâm lý  “psywar”  trở lại mạnh mẽ hơn bao giờ hết.

            Định nghĩa những từ ngữ  là một điều cần thiết bậc nhất để có thể  đưa ra  những kết luận  khách quan,  tránh mọi giải đáp chủ quan.

            1.-ĐỊA  LÝ     

 < gốc :  géo,  và chữ hy lạp :  graphein,  mô tả >  Theo các tự đỉển  Pháp-Việt,  có nghĩa là  “mô tả trái đất  dưới khía cạnh đất đai,  khí hậu, v.v…< địa lý  thiên nhiên>;  khía cạnh kỹ nghệ   <địa lý kinh tế>  ;  khía cạnh ngôn ngữ  <địa lý  ngôn ngữ>”

            2.-CHÍNH  TRỊ

< gốc chữ hy-lạp  politikos >  có nghĩa là  “tất cả những gì thuộc về  hay liên quan tới việc điều hành  mọi Quốc gia “  nói cụ thể là nghệ thuật  cai trị  một Quốc gia ,  giả thiết cần có một cách hành động khéo léo,  do đó có thành ngữ :  “Muốn thành công  cần phải có chút chính trị trong cách hành động”

Địa chính trị là gì ?

            Theo sự chấp thuận của Viện Hàn Lâm , môn Địa lý Chính trị là do một người Pháp tên TURGOT ₫ật ra vào thế kỷ XVIII,  môn Địa chính trị là do một người Đức tên  HAUSHOFER  ₫ặt ra vào thế kỷ XX. Nếu nhìn vào những thành phần trong thế chuyển ₫ộng không  ngừng,  môn ₫ịa chính trị  theo ₫ịnh nghĩa,  dù người ta muốn hay không,  là một khoa học hung hãn, khỉêu khích.  Dần dần  môn học này lấn át môn ₫ịa lý chính trị cổ ₫iển. Thử nhìn vào chương trình ₫ại học ₫ể nhận thấy  tập thể những khóa học gọi là  “Địa lý Chính trị”  bao gồm có ý thức hay không một số không nhỏ nội dung của môn Địa chính trị.. 

            Vậy Địa chính trị là gì ?  Về hình thức,  câu trả lời thật ₫ơn gỉản :  nó là sự kết hợp của hai từ  “₫ịa lý”  và  “chính trị”  thành  ₫ịa chính trị , 

    Về nội dung, chúng ta phải nhận biết một  ₫iều thực tế căn bản :  vị trí môn ₫ịa chính trị ở giữa   môn ₫ịa lý chính trị  và  môn ₫ịa lý.  Nó không phải là sự kết hợp ₫ơn giản của hai từ như trong một lãnh vực khác, thí dụ  từ  “₫ịa kinh tế” hay từ  “₫ịa lý kinh té”  ₫úng là chỉ cùng một thứ.  Ở ₫ây ý nghĩa các từ rất khác nhau như  ₫ịa chính trị  là một chuyện,  ₫ịa lý là chuyện thứ hai  và  ₫ịa lý chính trị  là chuyện thứ ba.

            A.-ĐỊA LY  CHÍNH TRỊ 

            Môn ₫ịa lý chính trị chú trọng ₫ến những yếu tố hợp thành một Quốc gia,  có nghĩa là   chủ yếu :

1.-Những tính chất của phần ₫ịa lý thiên nhiên :  a/ diện tích,  b/ vị trí,  c/ khí hậu

2.-Những tính chất của phần ₫ịa lý nhân văn và những ₫ặc tính của nó :  a/ sự quan trọng của dân số,  b/ loại người  <₫ồng nhất  hay tạp chủng>,  c/ thống nhất  hay có những căng thẳng nội bộ.

3.-Những tính chất của phần ₫ịa lý kinh tế và những ₫ặc tính của nó  :  a/ mức sống  trên thang ₫iểm toàn cầu  <PNB – produit national brut – tổng sản lượng quốc gia>;  b/ khả năng tự túc  <nông nghiệp,  năng lượng>   c/ cấu trúc kinh tế   <o/o  nhập cảng/ xuăt cảng>

            Sau cùng,  như là yếu tố chuyển tiếp những tính chất bỉên giới với các quốc gia lân bang và mọi người ₫ều biết  biên giới là một ₫ường  giả tưởng  trên bản ₫ồ  dùng ₫ể giới hạn những không gian ₫ịa lý,  bên trong hay bên ngoài ,  hai bên ₫ều không có cùng luật  lệ pháp lý,  chính trị  và quốc gia .  Như vậy,  cũng giống như  “₫ường phân chia hải phận”,  sự chia rẽ  nêu rõ quyền hạn của một Quốc gia  chấm dứt tại ₫ường phân chia ₫ó,  cũng tại ₫ó,  bắt ₫ầu quyền hạn  của một Quốc gia khác. 

            B.- ĐỊA CHÍNH TRỊ

                Môn Địa Chính trị bao gồm  việc  phân tích những biến ₫ổi  trong và ngoài nước sẽ trở thành ₫ộng lực ,  ₫ường chỉ ₫ạo mọi mục tiêu của Quốc gia.

            Khía cạnh chính trị  <ở  ₫ây có ý nghĩa quyết ₫ịnh,  vậy là hành ₫ộng> ,  như chính sách ₫ối ngoại của mỗi nước ₫ều ₫ặt trên nền tảng các dữ kiện ₫ịa chính trị như ₫ịa lý thiên nhiên,  ₫òi hỏi kinh tế,  truyền thống lịch sử,  ý thức hệ v.v..

            Trong số  những yếu tố chính cần giải quyết,  người ta nhận ra ₫ược những tính chất sau ₫ây:

1.- Đa số hay thiểu số giống dân  <bên trong, bên ngòai>

2.- Những thành phần văn hóa

3.- Sự cố ₫ịnh  của loại người

4.- Bản chất  những mối gìây liên lạc giữa các cộng ₫ồng văn hóa

5.- Sự hợp pháp của ₫ường vẽ những biên giới hiện tại

6.- Địa lý những ngôn ngữ

7.- Những ₫ặc tính ₫ịa lý  có thể  làm thay ₫ổi  một Quốc gia từ tình trạng  ₫ộc lâp thật sự thành tình trạng  “lệ thuộc”  <Phần-lan hóa, Finlandisation :  ám chỉ  ảnh hưởng của một nước lớn trên chính sách ₫ối ngoại của một nước láng giềng nhỏ hơn,  như ảnh hưởng Liên-sô trên Phần-lan>  hay cho tới tình trạng  “sát nhập”  <các Quốc gia Baltes bị Liên-sô sát nhập  gồm : Estonie, Lettonie và  Lithuanie>

8.- Những tính chất ₫ịa lý  của sự  yếu kém;  và của sức  mạnh

            Các yếu tố ₫ịa chính trị ₫ã ₫ược sử dụng từ lúc khởi thủy, khi các quốc gia trên thế giới ₫ược thành lập và có quan hệ với nhau.  Địa chính trị ₫ược ₫ịnh nghĩa là sự tương tác  <interactivité>  giữa không gian ₫ịa lý và cuộc tranh ₫ua quyền lực của các nước trên thế giới. Nói tóm lại , môn ₫ịa lý chính trị  chính thức là một phương thức mô tả những thực thể ₫ịa lý  <thiên nhiên,  nhân văn,  kinh tế>  còn môn ₫ịa chính trị  phân tích  những dữ kiện trên ₫ể  cho Quốc gia  <nghĩa là quyền lực>  có thể phát triển  tối ₫a  những yếu tố  gây sức mạnh và  giảm thỉểu những yếu tố làm suy yếu.

            Vì vậy mà phần lớn các phương thức hành ₫ộng ₫ều  theo tư tưởng của Karl Haushofer  <nhà  tư tưởng người Đức>  :  “Môn  ₫ịa lý chính trị  nhìn Quốc gia dưới góc cạnh không gian;  môn  ₫ịa chính trị  nhìn không gian dưới góc cạnh Quốc gia”.

            Đó cũng chính là lý do sự suy tưởng chính trị  luôn  ăn khớp với nhau qua quan hệ   KHÔNG GIAN –  CHÍNH  TRỊ – QUYỀN  LỰC..

            Ở mức ₫ộ ₫ại học  người  ta thường thấy việc giảng dậy môn  ₫ịa lý chính trị  trong phân  khoa  ₫ịa lý,  và việc giảng dậy môn  ₫ịa chính trị trong phân khoa  Khoa học Chính trị  và trong các trường quân sự  <cấp chỉ huy>.  Theo ₫ịnh luật tổng quát,  việc giảng dậy môn  ₫ịa chính trị  liên quan trực tiếp với việc giảng dậy môn  Địa chiến lược  ₫ược coi  như là một sự kiện  tự nhiên . 

            Ngày nay  thêm vào chiến lược cổ ₫iển trên chiến trường là chiến lược chính trị mà ₫iểm chính yếu là việc  ₫iều khiển quan ₫iểm quần chúng  <la manipulation des opinions publiques>  với phương pháp tung tin thất thiệt  <la désinformation>  qua các phương tiện truyền thông ₫ại chúng .

            Theo cách tổng hợp,  ₫iểm cốt yếu của vấn ₫ề trên có thể tóm tắt như sau  :

            ĐỊA  LÝ  CHÍNH  TRỊ  ->  thống kê  ->  tình trạng  cố ₫ịnh

            ĐỊA  CHÍNH  TRỊ  ->  phương thức hành ₫ộng  ->  tình trạng  năng ₫ộng                                     

            Theo sau một cách rất tự nhiên hai dữ kiện trên là dữ kiện thứ ba, môn   ĐỊA CHIẾN LỰƠC   mà người ta coi  như là ₫ứa em không thể tách rời khỏi môn ₫ịa chính trị.

            ĐỊA  CHIẾN  LỰƠC  ->  quyết ₫ịnh một lựa chọn  ₫ể ₫ạt tới  mục tiêu

            Về ₫iểm này,  ý niệm mục tiêu rất dễ nhận biết vì nó là cái ₫ích nhắm tới, còn ý niệm lựa chọn lại khác :  nó có ít nhất hai , thông thường nằm giữa một  chiến lược chính trị  <déstabilisation, phá vỡ thế ổn ₫ịnh>  hay một chiến lược quân sự  <sử dụng sức mạnh>.  Nói một cách khác,  chiến tranh,  trong ý nghĩa cổ ₫iển,  chỉ là sự thất bại của chính sách ngoại giao.  Điều này rất ₫úng giữa những Quốc gia cùng một phe,  thí dụ :  cuộc xung ₫ột giữa xứ Á-căn-₫ình và Anh-quốc  về quần ₫ảo  Malouines-Falkland  năm 1982,  hay trước ₫ó cuộc xung ₫ột  giữa Cộng hòa nhân dân Trung quốc và  Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,  năm 1979.

            Khi một phương thức  ₫ịa chính trị ₫ược ₫ưa vào một triển vọng rất có thể cho việc kiểm soát  không gian-quyền lực,  chiến lược gián tiếp có vẻ  ít tốn kém hơn và  hữu hiệu hơn.  Thí dụ :  khi  Liên-sô  dựng lên màn  “Chỉnh lý ở Prague”  ₫ể kiểm soát  xứ Tchécoslovaquie,  hay Mỹ  tổ chức tái lập nhà vua xứ Iran lên ngai vàng  ₫ể kiểm soát xứ này.  Trong trường hợp thất bại   quan ₫iểm quần chúng sẽ không thấy gì cả,  trong trường hợp thành công,  tất cả mọi lợi ích ₫ều dành cho giới chính trị..

            Mọi  hành ₫ộng quân sự  ₫ược thi hành mà không có ý thức chính trị vững vàng  như  Việt Nam ₫ối với Mỹ,  hay  Afghanistan  ₫ối với Liên-sô  rất tốn kém  và không mang lại một lợi ích nào.

            Vậy người ta sẽ nhận thấy  một sự hòa hoãn  giảm thiểu những cuộc xung ₫ột ngoại vi về phần các siêu cường,  dù chỉ là  vì những lý do kinh tế. Điều này không có nghĩa là con chim bồ câu hòa bình   loại bỏ ₫ược viễn ảnh chiến tranh. Điều này có nghĩa là cả Moscou,  cả  Washington  ₫ều không có phương tiện  ₫ể rải quân khắp nơi.. Tại    Washington , quyền lực chính trị càng ngày càng bị kẹt giữa những giới hạn khắt khe  của ngân sách  và những áp lực ngày càng lớn mạnh của Quốc hội  và của quan ₫iểm quần chúng dưới sự hướng dẫn của  các phương tiện truyền thông nhiều ảnh hưởng. Tại Moscou, quyền lực chính trị chưa kịp tung ra chiến dịch ₫ánh bóng hình ảnh mọi cải cách, sự tham dự của phe ₫ối lập ,thí dụ vụ  Boris Eltsine,  ₫ể có thể kiểm soát hữu hiệu mọi cuộc nổi dậy ngày càng rõ rệt hơn của một  “Kết hợp”  ngày càng tỏ ra là một  “Đế quốc”.  Đế quốc ₫ó ₫ang trở thành , vào năm 1978,  một  “Đế quốc tan vỡ”  với con  số và  nhịp ₫ộ  của các vụ ₫ụng ₫ộ giữa các sắc tộc  và sự chối bỏ ngày càng lớn mạnh  quyền lực trung ương.

            Trên lý thuyết,  “trò chơi chính trị”  của một cường quốc  lệ thuộc vào những phương tiện của họ,  hay những khả năng  về kinh tế và  quân sự.  Trên thực tế,  nó lệ thuộc rất nhiều, trong cách áp dụng,  vào không gian thiên nhiên của những tính chất văn hóa;  nói một cách khác, vào ý niệm về cách suy nghĩ  sẽ hướng dẫn  ý niệm  những lựa chọn,  những quyết ₫ịnh  ₫ịa chính trị.

            Khởi từ quan ₫iểm  “Người Nga  và  người Mỹ  không có cùng một  nền  văn hóa chiến lược”    Alexis de Tocqueville , nhà chính trị Pháp, ₫ã tiên ₫oán <1935-1940> : “Ngày nay trên trái ₫ất  có hai  dân tộc lớn mạnh,  ₫i từ khởi ₫iểm khác nhau  nhưng dường như ₫i tới cùng một mục tiêu;  ₫ó là dân Nga  và dân  Mỹ gốc Anh.  Một bên  lấy phương tiện chính yếu hành ₫ộng là  sự nô lệ,  bên kia là sự tự do ” . Người ta có thể suy nghĩ  về sự quan trọng của  phương thức văn hóa.  

Tính chất  văn  hóa  và  ₫ịa  chính trị 

            Mỗi dân tộc có nền văn hóa riêng của họ,  nền văn hóa hay  lối suy nghĩ  <mentalité>  của tác giả  ảnh hưởng sâu ₫ậm vào tác phẩm của họ.  Âm nhạc  Wagner không thể ₫ến từ nước Ý  cũng như âm nhạc  Mozart  không thể ₫ến từ Nhật bản.

            Cái gì ₫úng với âm nhạc  và văn chương  cũng ₫úng y như vậy với ₫ịa chính trị  và  ₫ịa chiến lược   .Cũng có một nền  “văn hóa ₫ịa chính trị”,  dù là sự thật ₫ó  chưa là mục tiêu nghiên cứu  rộng rãi.. Cụ thể là,  sự hiểu biết hay không biết  tính chất văn  hóa cũng dẫn tới theo tình trạng  ₫ịa chính trị,  những hoàn  cảnh có thể làm thay ₫ổi,  hay làm ₫ảo ngược thế quân bằng các lực lượng trên chiến trường . Chúng ta hãy lấy ba thí dụ  hoàn toàn khác biệt nhau trong thời gian  và trong không gian :

                        Đức – Anh :  trong những năm  40

                        U.S.A – Việt Nam   trong những năm 60

                        Do thái – O.L.P. <Tổ chức Gỉải phóng Palestine> : trong những năm 80

            Trong trường hợp thứ nhất,  cuộc ₫ối diện mặt ₫ối mặt  của hai lối suy nghĩ  Đức  và    Anh,  Người Đức ₫ã phát minh  một bộ máy-thông tin siêu ₫ẳng ₫ể mã hóa  tin tớc :  Enigma .  Phía Đồng minh không có bộ máy nào tương ₫ương  và quân ₫ội Đức có thể nhận từ Bộ Tham-mưu một cách nhanh chóng và  kín ₫áo  những mệnh lệnh, lời chỉ dẫn..  Cho tới một ngày kia,  ngày mà  mã số nổi tiếng  không thể vi  phạm ₫ược  Enigma  ₫ến lượt nó  lại bị xâm nhập một cách hữu hiệu  và nhất là kín ₫áo.  Trong lối suy nghĩ của họ,  người Đức  không hình dung ₫ược  tình huống  ₫ối thủ  có thể diễn hành trên mảnh ₫ất  mà họ ngự trị từ ₫ầu.  Kết quả :  một chuỗi trận ₫ánh  kỳ lạ  mới ₫ầu  thắng ,  sau lại ₫ổi thành  thua.  Trận ₫ánh ₫iển hình nhất  là trận Koursk  <1943>   cuộc ₫ối ₫ầu giữa ₫oàn xe tăng của quân ₫ội Nga  với  ₫oàn xe tăng của thống chế  von Manstein  Đức. Đoàn xe này bị lộ hình tích mà không biết.    

            Trong trường hợp thứ hai,  cuộc chiến năm 1968 tại  Huế  <Nam Việt-nam>  giữa bộ Tham-mưu  Mỹ  và  bộ chỉ huy  Việt-cộng  <Bắc Việt-nam> ,  trong trận tổng tấn công  Tết Mậu thân,   tính chất văn hóa  và  ₫ịa chính trị-chiến lược   ₫ã ₫ược kết hợp chặt chẽ với nhau.  Như phóng viên  J.F.Chauvel  kể lại trong  “chiến tranh bộc phát”  khi  bộ binh thủy quân lục chiến  Mỹ  và Nam Việt-nam  chuẩn bị tấn công  những tiểu ₫oàn thiện chiến Việt cộng ₫ã mở ₫ầu cuộc chiến  từ lúc rạng ₫ông,  nhưng họ không thấy một ai,  tất cả ₫ã biến mất như mây khói.   “Sự biến mất như mây khói  của các tiểu ₫oàn việt-cộng”  ₫ược thực hiện qua ₫ường hầm của hoàng ₫ế trong hoàng cung,  ₫ường hầm này ₫ã ₫ược sử dụng từ năm 1883. Trong một cuộc chiến tranh du kích,   người ta không thể hoàn toàn trông cậy vào dụng cụ ₫iện tử.  Chỉ có  Bộ tham mưu Bắc-việt  có lối suy nghĩ  tính trước ₫ường tỉến ₫ường thóai  và biết lịch sử.

            Sau cùng,  trong trường hợp thứ ba,  tình báo quân sự Do-thái  Mossad  ₫ối ₫ầu với  tình báo  Hezbollas  thiên Iran  tại Beyrouth  vào thời  ₫iểm quyết ₫ịnh , mùa hè 1989,  vị trí hai bên dường như là bị sa lầy trong các chiến  hào.  Đoàn quân Tây-Âu bị tê liệt   bửi những vụ bắt cóc trong một cuộc chiến “con tin”.  Vào  lúc ₫ó,  ₫ến  lượt quân Do-thái  bắt cóc lãnh tụ Hồi giáo  Karim Obeid .  Không cần ₫ến bạo hành, vị lãnh tụ này  ₫ã khai báo hết.  Trên chiến trường,  quân ₫ội hai bên ₫ều chấp thuận một thứ ₫ình chiến.      

            Khởi ₫ầu, ba thí dụ trên không có một ₫iểm chung nào :  không có trong thời gian,  không có trong không gian,  không có trong ₫ám ₫ối thủ hiện hữu.  Không có ₫iểm chung nào , trừ ra một :  sự quan trọng của tính chất văn hóa  trong những lối suy nghĩ .

            Để có thể hiêủ ₫ược không phải  chỉ có một,  mà là nhiều giâi pháp  ₫ịa-chính trị,  trước tiên  người ta phải theo dõi sự phát triển các  “Trường phái tư tưởng”,  các lối suy nghĩ,    sau ₫ó rút ra kinh nghiệm  ₫ể ứng dụng vào hiện tại.  

            Trong môn  ₫ịa chính trị,  vấn ₫ề  tính chất  văn hóa của những lối suy nghĩ  là ₫iều căn bản ,  bởi vì  nếu không hiểu rõ  ₫iều này,  người ta không thể  ₫oán trước ₫ược  những lối hành xử  <comportement>  ₫ể ₫ạt tới mục tiêu.    

Địa chính trị ứng dụng vào ba siêu cường   :  Trung Hoa,  Nga  và  Hoa Kỳ   

                Duyệt lại chính sách của 3 siêu cường trên thế giới như  Trung Hoa,  Nga và  Hoa Kỳ   người  ta thấy 3 quốc gia này ₫ều áp dụng một chính sách ₫ối ngoại dựa trên các yếu tố ₫ịa chính.

                Trung hoa luôn nuôi mộng bành trướng vì tự coi mình là trọng tâm của thế giới.  Trước kia   người Trung Hoa thường vẽ bản ₫ồ nước họ bằng một ₫ồ biểu tượng trưng có một hình tròn nằm trong một hình vuông  Mỗi cạnh của hình vuông ₫ều là một ₫ường thẳng tiếp xúc của hình tròn.  Hình tròn ở giữa chiếm gần hết diện tích của hình vuông tượng trưng cho Trung Hoa.  Diện tích còn lại bốn góc của hình vuông tượng trưng cho các nước man rợ.  Do ₫ó danh từ : “Đông rợ,  Tây nhung,  Nam man,  Bắc ₫ịch”  nói lên sự khinh miệt của người Hoa ₫ối với các nước khác.  Và từ tư tưởng này  chính sách ₫ối ngoại  của Trung Hoa là xâm chiếm các nước khác.

            Nước Nga thì ₫ặt chính sách ₫ối ngoại trên căn bản mở rộng lãnh thổ qua cuộc  “Đông tiến”.  Bắt ₫ầu từ một vương quốc  Moscovie nhỏ hẹp của Nga Hoàng Ivan  người Nga tiến về phía Đông,  vùng Tây Bá Lợi Á phì nhiêu,  dân thưa ₫ất rộng.  Qua các triều ₫ại kế tiếp,  Nga bành trướng tới Hắc Long Giang,  biên giới Trung Hoa.  Khi tới bờ biển Thái Bình Dương,  họ thiết lập thânh phố  Vladivostok  <có nghĩa là chế ngự Đông phương>  và xâm nhập ₫ảo Sakhaline.

            Tuy mới lập quốc vào năm 1776 nhưng  Hoa Kỳ luôn luôn bành trướng qua cuộc  <Tây tiến>  .  Đấy là  “Luật Thái Bình Dương”  của chính sách ₫ối ngoại Mỹ.  Khởi ₫ầu  Hoa Kỳ có diện tích là  850 000 cây số vuông.  Năm 1860 diện tích này ₫ã lên tới 8 triệu cây số vuông,  nối liền Đại Tây Dương tới Thái Bình Dương.  Sau ₫ó,  Mỹ tiếp tục  “chính sách Tây tiến Nối dài”  chiếm luôn các hải ₫ảo trên biển  Thái Bình Dương như  Hawai,  Midway,  Samoa.  Năm 1898,  lợi dụng cuộc nổi loạn của thổ dân Cuba chống nhà cầm quyền Tây Ban Nha,  Mỹ gây chiến với Tây Ban Nha,  cướp luôn Cuba,  Porto Rico và  Phi Luật Tân.  Vào thế kỷ thứ 20,  Hoa Kỳ nhẩy vào hai cuộc Thế chiến cũng vì biển Thái Bình Dương : năm 1917 vì Đức        âm mưu liên kết với Mễ Tây Cơ,  Hoa Kỳ quyết ₫ịnh tham chiến,  gửi quân sang Pháp ₫ánh Đức.  Năm 1941, cũng vì Nhật oanh tạc  Trân Châu cảng mà Mỹ nhảy vào vòng chiến.

            Đại khái các thí dụ trên nói lên yếu tố ₫ịa chính trong chính sách Á-châu của ba siêu cường.  Đối với các vùng khác trên thế giới thì 3 quốc gia này còn tuân theo những ₫ịnh luật ₫ịa chính khác.                     

                Sau cùng,  tất cả  những dữ kiện  trên ₫ưa dẫn chúng ta ₫ến  một nhận xét căn bản  :  sự kiện  chúng ta ngày càng hướng về  môn  ₫ịa chính trị  không phải là một sự kiện ngẫu nhiên.  Khuynh hướng này bắt nguồn  từ không gian ₫ịa lý,  nơi  thế kỷ  XX ₫ã viết lại lịch sử  Trung-Âu và  Đông-nam Á-châu.


   *Phan Tấn Khôi

    -Tốt nghiệp Đại học Sư phạm Saigon Ban Pháp văn, năm 1963,  Giáo sư Pháp văn các trường trung học miền Nam Việt Nam 

 -Cao học Nghiên cứu giáo dục,  ĐHSP Saigon, 1972Chuyên viên nghiên cứu, Nha Sưu tầm và Nghiên cứu bộ Gíáo dục Saigon, 1973-1975  

                              

­­­TÀI  LIỆU

1.- LE  DESSOUS  DES  CARTES – Itinéraires   géopolitiques.  Jean-Christophe  Victor,

   Ed.  Tallandier/Arte,  Paris ,  2016

1a.- Hai  tập videoclips  “Un ou deux Vietnam”, tập 1 : Histoire du Vietnam,  tập 2 : Économie et politique, mỗi tập dài khoảng 12 phút,  do J.C.Victor trình bầy, trích trong số  200 videos “LE DESSOUS DES CARTES, trong website “Youtube.ca”  

2.- PUISSANCES  ET  CONFLITS—Analyses  et   Décisions geopolitiques.  Gérard A. Montifroy Ed.  Fleuve,    Montreal,  1990

3.- GEOGRAPHIE  POLITIQUE  ET   GEOPOLITIQUE. –Dossiers Universitaires.  G.A.Montifroy Ed. Guérin,  Montreal,  1981

4.- POURQUOI  LES  GUERRES ?   -Un siècle de géopolitique.  Francois  Géré

 Ed. Courrier International – Larousse,  Paris,  2002

                      

                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                   

            .                                                                                                                                                                                      

One thought on “Địa chính trị- La Géopolitique

  1. Ban điều hành website “nên” chình sửa (edit) bài viết trước khi đăng có lẽ tốt hơn cho người đọc. Một tài liệu dẫu nội dung hay mấy đi nữa nhưng cách trình bày, lỗi chính tả, cách dùng từ ngữ… không đúng sẽ làm cho bái viết đó mất đi giá trị. Người đọc sẽ “khó chịu” khi gặp những lỗi “sơ đẳng” không đáng có đó, giống như có một hòn sỏi trong chiếc giày đang đi, như nhai một miếng cơm gặp phải một hòn sạn. Chính những lỗi đó cũng sẽ làm cho website giảm giá trị.
    Dẫn giải: Trong đoạn văn sau đâu chỉ có 15 chữ mà có đến 10 chỗ “sai” (không hợp lý). Thay vì type (trích): ” Theo các tự đỉển Pháp-Việt” (hết trích), ta nên type ” “gốc: géo và chữ Hy Lạp: graphein, mô tả” Theo các tự đỉển Pháp-Việt” thì người đọc sẽ “dễ chịu” cặp mắt hơn. Đó là chưa nói tên riêng (Hy Lạp) mà không viết hoa.

    Thích

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Twitter picture

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Twitter Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s