Phan Tấn Khôi *
Kể từ khi Chiến tranh thế giới thứ hai chấm dứt năm 1945, cuộc chiến tranh trong bóng tối, cuộc chiến tranh tâm lý chưa bao giờ chấm dứt, mà trái lái còn gia tăng mạnh mẽ hơn nữa giữa những quốc gia liên minh với nhau trước ₫ây. Đây là lần ₫ầu tiên, nguồn gốc các cuộc tranh chấp, xung ₫ột ₫ều có tính cách vừa là kinh tế-xã hội <tầm vóc Bắc-Nam> vừa là ý thức hệ <tầm vóc Đông-Tây> .
Điều này có nghĩa là lần ₫ầu tiên những sức mạnh hiện hữu phải lệ thuộc vào toàn phần không gian thiên nhiên, ₫ất ₫ai, biển cả, không khí, kể cả không gian vũ trụ. Cũng là lần ₫ầu tiên cuộc chiến tranh tâm lý “psywar” trở lại mạnh mẽ hơn bao giờ hết.
Định nghĩa những từ ngữ là một điều cần thiết bậc nhất để có thể đưa ra những kết luận khách quan, tránh mọi giải đáp chủ quan.
1.-ĐỊA LÝ
< gốc : géo, và chữ hy lạp : graphein, mô tả > Theo các tự đỉển Pháp-Việt, có nghĩa là “mô tả trái đất dưới khía cạnh đất đai, khí hậu, v.v…< địa lý thiên nhiên>; khía cạnh kỹ nghệ <địa lý kinh tế> ; khía cạnh ngôn ngữ <địa lý ngôn ngữ>”
2.-CHÍNH TRỊ
< gốc chữ hy-lạp politikos > có nghĩa là “tất cả những gì thuộc về hay liên quan tới việc điều hành mọi Quốc gia “ nói cụ thể là nghệ thuật cai trị một Quốc gia , giả thiết cần có một cách hành động khéo léo, do đó có thành ngữ : “Muốn thành công cần phải có chút chính trị trong cách hành động”
Địa chính trị là gì ?
Theo sự chấp thuận của Viện Hàn Lâm , môn Địa lý Chính trị là do một người Pháp tên TURGOT ₫ật ra vào thế kỷ XVIII, môn Địa chính trị là do một người Đức tên HAUSHOFER ₫ặt ra vào thế kỷ XX. Nếu nhìn vào những thành phần trong thế chuyển ₫ộng không ngừng, môn ₫ịa chính trị theo ₫ịnh nghĩa, dù người ta muốn hay không, là một khoa học hung hãn, khỉêu khích. Dần dần môn học này lấn át môn ₫ịa lý chính trị cổ ₫iển. Thử nhìn vào chương trình ₫ại học ₫ể nhận thấy tập thể những khóa học gọi là “Địa lý Chính trị” bao gồm có ý thức hay không một số không nhỏ nội dung của môn Địa chính trị..
Vậy Địa chính trị là gì ? Về hình thức, câu trả lời thật ₫ơn gỉản : nó là sự kết hợp của hai từ “₫ịa lý” và “chính trị” thành ₫ịa chính trị ,
Về nội dung, chúng ta phải nhận biết một ₫iều thực tế căn bản : vị trí môn ₫ịa chính trị ở giữa môn ₫ịa lý chính trị và môn ₫ịa lý. Nó không phải là sự kết hợp ₫ơn giản của hai từ như trong một lãnh vực khác, thí dụ từ “₫ịa kinh tế” hay từ “₫ịa lý kinh té” ₫úng là chỉ cùng một thứ. Ở ₫ây ý nghĩa các từ rất khác nhau như ₫ịa chính trị là một chuyện, ₫ịa lý là chuyện thứ hai và ₫ịa lý chính trị là chuyện thứ ba.
A.-ĐỊA LY CHÍNH TRỊ
Môn ₫ịa lý chính trị chú trọng ₫ến những yếu tố hợp thành một Quốc gia, có nghĩa là chủ yếu :
1.-Những tính chất của phần ₫ịa lý thiên nhiên : a/ diện tích, b/ vị trí, c/ khí hậu
2.-Những tính chất của phần ₫ịa lý nhân văn và những ₫ặc tính của nó : a/ sự quan trọng của dân số, b/ loại người <₫ồng nhất hay tạp chủng>, c/ thống nhất hay có những căng thẳng nội bộ.
3.-Những tính chất của phần ₫ịa lý kinh tế và những ₫ặc tính của nó : a/ mức sống trên thang ₫iểm toàn cầu <PNB – produit national brut – tổng sản lượng quốc gia>; b/ khả năng tự túc <nông nghiệp, năng lượng> c/ cấu trúc kinh tế <o/o nhập cảng/ xuăt cảng>
Sau cùng, như là yếu tố chuyển tiếp những tính chất bỉên giới với các quốc gia lân bang và mọi người ₫ều biết biên giới là một ₫ường giả tưởng trên bản ₫ồ dùng ₫ể giới hạn những không gian ₫ịa lý, bên trong hay bên ngoài , hai bên ₫ều không có cùng luật lệ pháp lý, chính trị và quốc gia . Như vậy, cũng giống như “₫ường phân chia hải phận”, sự chia rẽ nêu rõ quyền hạn của một Quốc gia chấm dứt tại ₫ường phân chia ₫ó, cũng tại ₫ó, bắt ₫ầu quyền hạn của một Quốc gia khác.
B.- ĐỊA CHÍNH TRỊ
Môn Địa Chính trị bao gồm việc phân tích những biến ₫ổi trong và ngoài nước sẽ trở thành ₫ộng lực , ₫ường chỉ ₫ạo mọi mục tiêu của Quốc gia.
Khía cạnh chính trị <ở ₫ây có ý nghĩa quyết ₫ịnh, vậy là hành ₫ộng> , như chính sách ₫ối ngoại của mỗi nước ₫ều ₫ặt trên nền tảng các dữ kiện ₫ịa chính trị như ₫ịa lý thiên nhiên, ₫òi hỏi kinh tế, truyền thống lịch sử, ý thức hệ v.v..
Trong số những yếu tố chính cần giải quyết, người ta nhận ra ₫ược những tính chất sau ₫ây:
1.- Đa số hay thiểu số giống dân <bên trong, bên ngòai>
2.- Những thành phần văn hóa
3.- Sự cố ₫ịnh của loại người
4.- Bản chất những mối gìây liên lạc giữa các cộng ₫ồng văn hóa
5.- Sự hợp pháp của ₫ường vẽ những biên giới hiện tại
6.- Địa lý những ngôn ngữ
7.- Những ₫ặc tính ₫ịa lý có thể làm thay ₫ổi một Quốc gia từ tình trạng ₫ộc lâp thật sự thành tình trạng “lệ thuộc” <Phần-lan hóa, Finlandisation : ám chỉ ảnh hưởng của một nước lớn trên chính sách ₫ối ngoại của một nước láng giềng nhỏ hơn, như ảnh hưởng Liên-sô trên Phần-lan> hay cho tới tình trạng “sát nhập” <các Quốc gia Baltes bị Liên-sô sát nhập gồm : Estonie, Lettonie và Lithuanie>
8.- Những tính chất ₫ịa lý của sự yếu kém; và của sức mạnh
Các yếu tố ₫ịa chính trị ₫ã ₫ược sử dụng từ lúc khởi thủy, khi các quốc gia trên thế giới ₫ược thành lập và có quan hệ với nhau. Địa chính trị ₫ược ₫ịnh nghĩa là sự tương tác <interactivité> giữa không gian ₫ịa lý và cuộc tranh ₫ua quyền lực của các nước trên thế giới. Nói tóm lại , môn ₫ịa lý chính trị chính thức là một phương thức mô tả những thực thể ₫ịa lý <thiên nhiên, nhân văn, kinh tế> còn môn ₫ịa chính trị phân tích những dữ kiện trên ₫ể cho Quốc gia <nghĩa là quyền lực> có thể phát triển tối ₫a những yếu tố gây sức mạnh và giảm thỉểu những yếu tố làm suy yếu.
Vì vậy mà phần lớn các phương thức hành ₫ộng ₫ều theo tư tưởng của Karl Haushofer <nhà tư tưởng người Đức> : “Môn ₫ịa lý chính trị nhìn Quốc gia dưới góc cạnh không gian; môn ₫ịa chính trị nhìn không gian dưới góc cạnh Quốc gia”.
Đó cũng chính là lý do sự suy tưởng chính trị luôn ăn khớp với nhau qua quan hệ KHÔNG GIAN – CHÍNH TRỊ – QUYỀN LỰC..
Ở mức ₫ộ ₫ại học người ta thường thấy việc giảng dậy môn ₫ịa lý chính trị trong phân khoa ₫ịa lý, và việc giảng dậy môn ₫ịa chính trị trong phân khoa Khoa học Chính trị và trong các trường quân sự <cấp chỉ huy>. Theo ₫ịnh luật tổng quát, việc giảng dậy môn ₫ịa chính trị liên quan trực tiếp với việc giảng dậy môn Địa chiến lược ₫ược coi như là một sự kiện tự nhiên .
Ngày nay thêm vào chiến lược cổ ₫iển trên chiến trường là chiến lược chính trị mà ₫iểm chính yếu là việc ₫iều khiển quan ₫iểm quần chúng <la manipulation des opinions publiques> với phương pháp tung tin thất thiệt <la désinformation> qua các phương tiện truyền thông ₫ại chúng .
Theo cách tổng hợp, ₫iểm cốt yếu của vấn ₫ề trên có thể tóm tắt như sau :
ĐỊA LÝ CHÍNH TRỊ -> thống kê -> tình trạng cố ₫ịnh
ĐỊA CHÍNH TRỊ -> phương thức hành ₫ộng -> tình trạng năng ₫ộng
Theo sau một cách rất tự nhiên hai dữ kiện trên là dữ kiện thứ ba, môn ĐỊA CHIẾN LỰƠC mà người ta coi như là ₫ứa em không thể tách rời khỏi môn ₫ịa chính trị.
ĐỊA CHIẾN LỰƠC -> quyết ₫ịnh một lựa chọn ₫ể ₫ạt tới mục tiêu
Về ₫iểm này, ý niệm mục tiêu rất dễ nhận biết vì nó là cái ₫ích nhắm tới, còn ý niệm lựa chọn lại khác : nó có ít nhất hai , thông thường nằm giữa một chiến lược chính trị <déstabilisation, phá vỡ thế ổn ₫ịnh> hay một chiến lược quân sự <sử dụng sức mạnh>. Nói một cách khác, chiến tranh, trong ý nghĩa cổ ₫iển, chỉ là sự thất bại của chính sách ngoại giao. Điều này rất ₫úng giữa những Quốc gia cùng một phe, thí dụ : cuộc xung ₫ột giữa xứ Á-căn-₫ình và Anh-quốc về quần ₫ảo Malouines-Falkland năm 1982, hay trước ₫ó cuộc xung ₫ột giữa Cộng hòa nhân dân Trung quốc và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, năm 1979.
Khi một phương thức ₫ịa chính trị ₫ược ₫ưa vào một triển vọng rất có thể cho việc kiểm soát không gian-quyền lực, chiến lược gián tiếp có vẻ ít tốn kém hơn và hữu hiệu hơn. Thí dụ : khi Liên-sô dựng lên màn “Chỉnh lý ở Prague” ₫ể kiểm soát xứ Tchécoslovaquie, hay Mỹ tổ chức tái lập nhà vua xứ Iran lên ngai vàng ₫ể kiểm soát xứ này. Trong trường hợp thất bại quan ₫iểm quần chúng sẽ không thấy gì cả, trong trường hợp thành công, tất cả mọi lợi ích ₫ều dành cho giới chính trị..
Mọi hành ₫ộng quân sự ₫ược thi hành mà không có ý thức chính trị vững vàng như Việt Nam ₫ối với Mỹ, hay Afghanistan ₫ối với Liên-sô rất tốn kém và không mang lại một lợi ích nào.
Vậy người ta sẽ nhận thấy một sự hòa hoãn giảm thiểu những cuộc xung ₫ột ngoại vi về phần các siêu cường, dù chỉ là vì những lý do kinh tế. Điều này không có nghĩa là con chim bồ câu hòa bình loại bỏ ₫ược viễn ảnh chiến tranh. Điều này có nghĩa là cả Moscou, cả Washington ₫ều không có phương tiện ₫ể rải quân khắp nơi.. Tại Washington , quyền lực chính trị càng ngày càng bị kẹt giữa những giới hạn khắt khe của ngân sách và những áp lực ngày càng lớn mạnh của Quốc hội và của quan ₫iểm quần chúng dưới sự hướng dẫn của các phương tiện truyền thông nhiều ảnh hưởng. Tại Moscou, quyền lực chính trị chưa kịp tung ra chiến dịch ₫ánh bóng hình ảnh mọi cải cách, sự tham dự của phe ₫ối lập ,thí dụ vụ Boris Eltsine, ₫ể có thể kiểm soát hữu hiệu mọi cuộc nổi dậy ngày càng rõ rệt hơn của một “Kết hợp” ngày càng tỏ ra là một “Đế quốc”. Đế quốc ₫ó ₫ang trở thành , vào năm 1978, một “Đế quốc tan vỡ” với con số và nhịp ₫ộ của các vụ ₫ụng ₫ộ giữa các sắc tộc và sự chối bỏ ngày càng lớn mạnh quyền lực trung ương.
Trên lý thuyết, “trò chơi chính trị” của một cường quốc lệ thuộc vào những phương tiện của họ, hay những khả năng về kinh tế và quân sự. Trên thực tế, nó lệ thuộc rất nhiều, trong cách áp dụng, vào không gian thiên nhiên của những tính chất văn hóa; nói một cách khác, vào ý niệm về cách suy nghĩ sẽ hướng dẫn ý niệm những lựa chọn, những quyết ₫ịnh ₫ịa chính trị.
Khởi từ quan ₫iểm “Người Nga và người Mỹ không có cùng một nền văn hóa chiến lược” Alexis de Tocqueville , nhà chính trị Pháp, ₫ã tiên ₫oán <1935-1940> : “Ngày nay trên trái ₫ất có hai dân tộc lớn mạnh, ₫i từ khởi ₫iểm khác nhau nhưng dường như ₫i tới cùng một mục tiêu; ₫ó là dân Nga và dân Mỹ gốc Anh. Một bên lấy phương tiện chính yếu hành ₫ộng là sự nô lệ, bên kia là sự tự do ” . Người ta có thể suy nghĩ về sự quan trọng của phương thức văn hóa.
Tính chất văn hóa và ₫ịa chính trị
Mỗi dân tộc có nền văn hóa riêng của họ, nền văn hóa hay lối suy nghĩ <mentalité> của tác giả ảnh hưởng sâu ₫ậm vào tác phẩm của họ. Âm nhạc Wagner không thể ₫ến từ nước Ý cũng như âm nhạc Mozart không thể ₫ến từ Nhật bản.
Cái gì ₫úng với âm nhạc và văn chương cũng ₫úng y như vậy với ₫ịa chính trị và ₫ịa chiến lược .Cũng có một nền “văn hóa ₫ịa chính trị”, dù là sự thật ₫ó chưa là mục tiêu nghiên cứu rộng rãi.. Cụ thể là, sự hiểu biết hay không biết tính chất văn hóa cũng dẫn tới theo tình trạng ₫ịa chính trị, những hoàn cảnh có thể làm thay ₫ổi, hay làm ₫ảo ngược thế quân bằng các lực lượng trên chiến trường . Chúng ta hãy lấy ba thí dụ hoàn toàn khác biệt nhau trong thời gian và trong không gian :
Đức – Anh : trong những năm 40
U.S.A – Việt Nam trong những năm 60
Do thái – O.L.P. <Tổ chức Gỉải phóng Palestine> : trong những năm 80
Trong trường hợp thứ nhất, cuộc ₫ối diện mặt ₫ối mặt của hai lối suy nghĩ Đức và Anh, Người Đức ₫ã phát minh một bộ máy-thông tin siêu ₫ẳng ₫ể mã hóa tin tớc : Enigma . Phía Đồng minh không có bộ máy nào tương ₫ương và quân ₫ội Đức có thể nhận từ Bộ Tham-mưu một cách nhanh chóng và kín ₫áo những mệnh lệnh, lời chỉ dẫn.. Cho tới một ngày kia, ngày mà mã số nổi tiếng không thể vi phạm ₫ược Enigma ₫ến lượt nó lại bị xâm nhập một cách hữu hiệu và nhất là kín ₫áo. Trong lối suy nghĩ của họ, người Đức không hình dung ₫ược tình huống ₫ối thủ có thể diễn hành trên mảnh ₫ất mà họ ngự trị từ ₫ầu. Kết quả : một chuỗi trận ₫ánh kỳ lạ mới ₫ầu thắng , sau lại ₫ổi thành thua. Trận ₫ánh ₫iển hình nhất là trận Koursk <1943> cuộc ₫ối ₫ầu giữa ₫oàn xe tăng của quân ₫ội Nga với ₫oàn xe tăng của thống chế von Manstein Đức. Đoàn xe này bị lộ hình tích mà không biết.
Trong trường hợp thứ hai, cuộc chiến năm 1968 tại Huế <Nam Việt-nam> giữa bộ Tham-mưu Mỹ và bộ chỉ huy Việt-cộng <Bắc Việt-nam> , trong trận tổng tấn công Tết Mậu thân, tính chất văn hóa và ₫ịa chính trị-chiến lược ₫ã ₫ược kết hợp chặt chẽ với nhau. Như phóng viên J.F.Chauvel kể lại trong “chiến tranh bộc phát” khi bộ binh thủy quân lục chiến Mỹ và Nam Việt-nam chuẩn bị tấn công những tiểu ₫oàn thiện chiến Việt cộng ₫ã mở ₫ầu cuộc chiến từ lúc rạng ₫ông, nhưng họ không thấy một ai, tất cả ₫ã biến mất như mây khói. “Sự biến mất như mây khói của các tiểu ₫oàn việt-cộng” ₫ược thực hiện qua ₫ường hầm của hoàng ₫ế trong hoàng cung, ₫ường hầm này ₫ã ₫ược sử dụng từ năm 1883. Trong một cuộc chiến tranh du kích, người ta không thể hoàn toàn trông cậy vào dụng cụ ₫iện tử. Chỉ có Bộ tham mưu Bắc-việt có lối suy nghĩ tính trước ₫ường tỉến ₫ường thóai và biết lịch sử.
Sau cùng, trong trường hợp thứ ba, tình báo quân sự Do-thái Mossad ₫ối ₫ầu với tình báo Hezbollas thiên Iran tại Beyrouth vào thời ₫iểm quyết ₫ịnh , mùa hè 1989, vị trí hai bên dường như là bị sa lầy trong các chiến hào. Đoàn quân Tây-Âu bị tê liệt bửi những vụ bắt cóc trong một cuộc chiến “con tin”. Vào lúc ₫ó, ₫ến lượt quân Do-thái bắt cóc lãnh tụ Hồi giáo Karim Obeid . Không cần ₫ến bạo hành, vị lãnh tụ này ₫ã khai báo hết. Trên chiến trường, quân ₫ội hai bên ₫ều chấp thuận một thứ ₫ình chiến.
Khởi ₫ầu, ba thí dụ trên không có một ₫iểm chung nào : không có trong thời gian, không có trong không gian, không có trong ₫ám ₫ối thủ hiện hữu. Không có ₫iểm chung nào , trừ ra một : sự quan trọng của tính chất văn hóa trong những lối suy nghĩ .
Để có thể hiêủ ₫ược không phải chỉ có một, mà là nhiều giâi pháp ₫ịa-chính trị, trước tiên người ta phải theo dõi sự phát triển các “Trường phái tư tưởng”, các lối suy nghĩ, sau ₫ó rút ra kinh nghiệm ₫ể ứng dụng vào hiện tại.
Trong môn ₫ịa chính trị, vấn ₫ề tính chất văn hóa của những lối suy nghĩ là ₫iều căn bản , bởi vì nếu không hiểu rõ ₫iều này, người ta không thể ₫oán trước ₫ược những lối hành xử <comportement> ₫ể ₫ạt tới mục tiêu.
Địa chính trị ứng dụng vào ba siêu cường : Trung Hoa, Nga và Hoa Kỳ
Duyệt lại chính sách của 3 siêu cường trên thế giới như Trung Hoa, Nga và Hoa Kỳ người ta thấy 3 quốc gia này ₫ều áp dụng một chính sách ₫ối ngoại dựa trên các yếu tố ₫ịa chính.
Trung hoa luôn nuôi mộng bành trướng vì tự coi mình là trọng tâm của thế giới. Trước kia người Trung Hoa thường vẽ bản ₫ồ nước họ bằng một ₫ồ biểu tượng trưng có một hình tròn nằm trong một hình vuông Mỗi cạnh của hình vuông ₫ều là một ₫ường thẳng tiếp xúc của hình tròn. Hình tròn ở giữa chiếm gần hết diện tích của hình vuông tượng trưng cho Trung Hoa. Diện tích còn lại bốn góc của hình vuông tượng trưng cho các nước man rợ. Do ₫ó danh từ : “Đông rợ, Tây nhung, Nam man, Bắc ₫ịch” nói lên sự khinh miệt của người Hoa ₫ối với các nước khác. Và từ tư tưởng này chính sách ₫ối ngoại của Trung Hoa là xâm chiếm các nước khác.
Nước Nga thì ₫ặt chính sách ₫ối ngoại trên căn bản mở rộng lãnh thổ qua cuộc “Đông tiến”. Bắt ₫ầu từ một vương quốc Moscovie nhỏ hẹp của Nga Hoàng Ivan người Nga tiến về phía Đông, vùng Tây Bá Lợi Á phì nhiêu, dân thưa ₫ất rộng. Qua các triều ₫ại kế tiếp, Nga bành trướng tới Hắc Long Giang, biên giới Trung Hoa. Khi tới bờ biển Thái Bình Dương, họ thiết lập thânh phố Vladivostok <có nghĩa là chế ngự Đông phương> và xâm nhập ₫ảo Sakhaline.
Tuy mới lập quốc vào năm 1776 nhưng Hoa Kỳ luôn luôn bành trướng qua cuộc <Tây tiến> . Đấy là “Luật Thái Bình Dương” của chính sách ₫ối ngoại Mỹ. Khởi ₫ầu Hoa Kỳ có diện tích là 850 000 cây số vuông. Năm 1860 diện tích này ₫ã lên tới 8 triệu cây số vuông, nối liền Đại Tây Dương tới Thái Bình Dương. Sau ₫ó, Mỹ tiếp tục “chính sách Tây tiến Nối dài” chiếm luôn các hải ₫ảo trên biển Thái Bình Dương như Hawai, Midway, Samoa. Năm 1898, lợi dụng cuộc nổi loạn của thổ dân Cuba chống nhà cầm quyền Tây Ban Nha, Mỹ gây chiến với Tây Ban Nha, cướp luôn Cuba, Porto Rico và Phi Luật Tân. Vào thế kỷ thứ 20, Hoa Kỳ nhẩy vào hai cuộc Thế chiến cũng vì biển Thái Bình Dương : năm 1917 vì Đức âm mưu liên kết với Mễ Tây Cơ, Hoa Kỳ quyết ₫ịnh tham chiến, gửi quân sang Pháp ₫ánh Đức. Năm 1941, cũng vì Nhật oanh tạc Trân Châu cảng mà Mỹ nhảy vào vòng chiến.
Đại khái các thí dụ trên nói lên yếu tố ₫ịa chính trong chính sách Á-châu của ba siêu cường. Đối với các vùng khác trên thế giới thì 3 quốc gia này còn tuân theo những ₫ịnh luật ₫ịa chính khác.
Sau cùng, tất cả những dữ kiện trên ₫ưa dẫn chúng ta ₫ến một nhận xét căn bản : sự kiện chúng ta ngày càng hướng về môn ₫ịa chính trị không phải là một sự kiện ngẫu nhiên. Khuynh hướng này bắt nguồn từ không gian ₫ịa lý, nơi thế kỷ XX ₫ã viết lại lịch sử Trung-Âu và Đông-nam Á-châu.
*Phan Tấn Khôi
-Tốt nghiệp Đại học Sư phạm Saigon Ban Pháp văn, năm 1963, Giáo sư Pháp văn các trường trung học miền Nam Việt Nam
-Cao học Nghiên cứu giáo dục, ĐHSP Saigon, 1972Chuyên viên nghiên cứu, Nha Sưu tầm và Nghiên cứu bộ Gíáo dục Saigon, 1973-1975
TÀI LIỆU
1.- LE DESSOUS DES CARTES – Itinéraires géopolitiques. Jean-Christophe Victor,
Ed. Tallandier/Arte, Paris , 2016
1a.- Hai tập videoclips “Un ou deux Vietnam”, tập 1 : Histoire du Vietnam, tập 2 : Économie et politique, mỗi tập dài khoảng 12 phút, do J.C.Victor trình bầy, trích trong số 200 videos “LE DESSOUS DES CARTES, trong website “Youtube.ca”
2.- PUISSANCES ET CONFLITS—Analyses et Décisions geopolitiques. Gérard A. Montifroy Ed. Fleuve, Montreal, 1990
3.- GEOGRAPHIE POLITIQUE ET GEOPOLITIQUE. –Dossiers Universitaires. G.A.Montifroy Ed. Guérin, Montreal, 1981
4.- POURQUOI LES GUERRES ? -Un siècle de géopolitique. Francois Géré
Ed. Courrier International – Larousse, Paris, 2002
.
Ban điều hành website “nên” chình sửa (edit) bài viết trước khi đăng có lẽ tốt hơn cho người đọc. Một tài liệu dẫu nội dung hay mấy đi nữa nhưng cách trình bày, lỗi chính tả, cách dùng từ ngữ… không đúng sẽ làm cho bái viết đó mất đi giá trị. Người đọc sẽ “khó chịu” khi gặp những lỗi “sơ đẳng” không đáng có đó, giống như có một hòn sỏi trong chiếc giày đang đi, như nhai một miếng cơm gặp phải một hòn sạn. Chính những lỗi đó cũng sẽ làm cho website giảm giá trị.
Dẫn giải: Trong đoạn văn sau đâu chỉ có 15 chữ mà có đến 10 chỗ “sai” (không hợp lý). Thay vì type (trích): ” Theo các tự đỉển Pháp-Việt” (hết trích), ta nên type ” “gốc: géo và chữ Hy Lạp: graphein, mô tả” Theo các tự đỉển Pháp-Việt” thì người đọc sẽ “dễ chịu” cặp mắt hơn. Đó là chưa nói tên riêng (Hy Lạp) mà không viết hoa.
ThíchThích