
Đền thờ Dương Đình Nghệ ở Dương Xá
Khổng Đức Thiêm
- CỘI NGUỒN VÀ ĐỊA BÀN KHỞI SINH DÒNG HỌ DƯƠNG VIỆT NAM
Tục truyền, từ ngàn năm trước công nguyên, tổ tiên ta đã làm chủ đất Châu Kinh, Châu Dương dựng nên nước Xích Quỷ. Đây là một lãnh thổ lớn rộng, phía bắc vươn tận hồ Động Đình (nay thuộc Hồ Nam, Trung Quốc), phía nam tới tận Hồ Tôn (nay là phía bắc Trung Bộ, Việt Nam), phía tây giáp Ba Thục (thay thuộc Tứ Xuyên, Trung Quốc), phía đông trông ra biển lớn. Để khẳng định vai trò chủ thể của địa bàn do mình đứng đầu, Lộc Tục đã tự xưng vương hiệu là Kinh Dương – thủ lĩnh lớn của chủng Âu Việt phân bố rộng khắp Châu Kinh và chủng Lạc Việt chiếm phần lớn Châu Dương.
Tuy nhiên, chỉ khoảng gần trăm năm sau đó, dưới thời Sùng Lãm kế nghiệp, nhà nước Xích Quỷ tan rã thành nhiều mảng, được ghi nhận bằng hình ảnh Âu Cơ mang người Âu Việt theo mẹ, Lạc Long đưa người Lạc Việt theo cha, tạo ra nòi giống Bách Việt cùng trong một bọc sinh ra với nghĩa đồng bào. Người con trưởng của Lạc Long nối dõi cha ông, dựng nên cõi Văn Lang trên phần đất nhỏ tách ra từ Xích Quỷ.
Theo Việt sử lược, “đến đời Trang Vương nhà Chu (696 – 682 tr.CN) ở bộ Gia Ninh có người lạ, dùng ảo thuật áp phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng vương, đóng đô ở Văn Lang, hiệu là nước Văn Lang, phong tục thuần hậu, chất phác, chính sự dùng lối kết nút. Truyền được 18 đời, đều gọi là Hùng vương. Việt Câu Tiễn (505 – 465 tr.CN) đã sai sứ tới dụ, Hùng vương chống cự lại”[1].
Sử sách Trung Quốc gọi Văn Lang là Giao Chỉ. Sách Thủy kinh chú của Lịch Đạo Nguyên viết hồi thế kỷ VI ghi rõ, “Giao Châu ngoại vực ký nói: đất Giao Chỉ ngày xưa, lúc chưa có quận huyện, ruộng đất có ruộng lạc điền, theo nước thủy triều lên xuống, dân trồng trọt ở các đám ruộng ấy để hưởng hoa lợi, vì vậy dân ấy có tên là Lạc dân, đặt ra Lạc vương, Lạc hầu để trông coi các quận huyện. Ở huyện phần nhiều là chức Lạc tướng. Lạc tướng có ấn đồng thao xanh”[2].
Trong thực tế, Văn Lang khi đó mới chỉ là một liên minh bộ lạc, người đứng đầu là một đại thủ lĩnh, được gọi là Kun (Lang Kun), khi phiên sang tiếng Hán thành Quân (Lạc Long quân), Hùng (Hùng vương). Như vậy, Hùng phải được hiểu là đại tù trưởng, đại thổ tù. Các chức vụ khác như Lạc vương, Lạc hầu, Lạc tướng là các tù trưởng, thổ tù trông coi từng lĩnh vực còn quận, huyện của Văn Lang được gọi là bộ. Mỗi bộ bao gồm một số quê, kẻ, cổ, lũng, làng.
Văn Lang bao gồm 15 bộ (Việt sử lược chép là bộ lạc) của nước Văn Lang nhưng 15 bộ ấy lại không bao trùm phạm vi của đất Bách Việt như trên. Hiện nay có tất cả ba danh sách khác nhau về 15 bộ của nước Văn Lang. Theo thứ tự thời gian xuất hiện trước sau của các danh sách ấy thì có sớm nhất là danh sách của Việt sử lược rồi đến danh sách của Lĩnh Nam chích quái và cuối cùng là danh sách của Dư địa chí của Nguyễn Trãi. Danh sách của Đại Việt sử ký toàn thư thì trùng với danh sách của Dư địa chí. Ba danh sách ấy có xuất nhập ít nhiều. Danh sách của Việt sử lược là: Giao Chỉ, Việt Thường Thị, Vũ Ninh, Quân Ninh, Gia Ninh, Ninh Hải, Lục Hải, Thang Tuyền, Tân Xương, Bình Văn, Văn Lang, Cửu Chân, Nhật Nam, Hoài Hoan, Cửu Đức. Danh sách của Lĩnh Nam chích quái thì bỏ các tên Quân Ninh, Gia Ninh, Lục Hải, Tân Xương, Bình Văn, Văn Lang, Cửu Đức mà chép Thang Tuyền thành Dương Tuyền và thêm các tên Chu Diên, Ninh Sơn, Phúc Lộc, Quế Dương, Chân Định, Quế Lâm, Tượng Quận. Đến danh sách của Dư địa chí thì bỏ các tên Quân Ninh, Gia Ninh, Tân Vương, Nhật Nam trong danh sách Việt sử lược và thay bằng những tên Chu Diên, Phúc Lộc, Vũ Định, Tân Hưng và chép Thang Tuyền thành Dương Tuyền[3].
Mỗi bộ hoặc bộ lạc kể trên rộng bằng một vài tỉnh ngày nay, lại chia thành các quê – mỗi quê có phạm vi như một vài huyện sau này. Bóng dáng các tù trưởng, thổ tù thời Văn Lang (Lạc vương, Lạc hầu, Lạc tướng) còn lưu giữ đậm đà trong tâm khảm người Mường rằng họ là những con thứ, cháu thứ của Hùng vương thứ 18, được chia phong cho các họ Đinh, Quách, Bạch, Hà, Xa, Cao. Khi 6 họ này được làm Quan Lang, họ đã đem người nhà, trai gái đi mở mang ruộng vườn, chiêu dân lập ấp. Càng ngày con cháu sinh ra một nhiều mới lập ra các Quê, Bủng, Lũng, Làng. Khi ấy họ Nhà Lang cha truyền con nối đều xưng là Quan Lang, con gái gọi là Mỵ Nương – trên đối với vua là tình cha con, dưới đối với quê làng là nghĩa thầy tớ mến yêu đầy thân thiết. Nhà vua đã ban dạy cho các Quan Lang phép làm tên nỏ độc để săn trừ ác thú, phép đánh bả và đan chài lưới bắt cá, làm xe lấy nước cấy ruộng.
Đến năm 473 tr.CN, Việt Câu Tiễn diệt nước Ngô, bá chủ vùng đất suốt từ miền duyên hải Sơn Đông đến Quảng Đông. Đây là thời kỳ dân phương Nam khổ vì bị người phương Bắc quấy nhiễu không được như xưa[4]. Năm 221 tr.CN nhà Tần thành lập lại càng đẩy mạnh tham vọng lược định đất Dương Việt.
Trong bối cảnh ấy, Thục Phán – thủ lĩnh các bộ lạc của người Âu Việt trên đất Châu Kinh xưa lùi dần xuống đất Châu Dương, tiến vào Văn Lang. Năm 208 tr.CN, bằng một cuộc tiếm quyền, đánh đuổi mà lên thay[5], Thục Phán sáp nhập các bộ lạc của người Lạc Việt trên đất Văn Lang với các bộ lạc của người Âu Việt của mình, chính thức lập nên một đại liên minh mới mang tên Âu Lạc rồi xưng vương là An Dương vương với ý nghĩa yên định được đất Dương của Lạc Việt. Về sự kiện này, Thủy kinh chú cho biết thêm, sau con vua Thục đem ba vạn quân đến đánh các Lạc vương và Lạc hầu, chinh phục được các Lạc tướng. Con vua Thục vì vậy xưng là An Dương vương. Sau Nam Việt vương là Úy Đà đem quân đánh An Dương vương[6].
Triệu Đà chia Âu Lạc thành 2 quận: Giao Chỉ (gồm 10 huyện) và Cửu Châu (gồm 12 huyện). Sang thời Tây Hán, trong khuôn khổ bộ thứ sử Giao Chỉ, quận Cửu Chân được chia tách thành 2 quận: Cửu Chân (7 huyện) và Nhật Nam (5 huyện). Đến cuối thời Ngô sang thời Tấn thì Giao Châu có 6 quận, 41 huyện là: Giao Chỉ (14 huyện), Tân Xương (6 huyện), Vũ Bình (7 huyện), Cửu Chân (7 huyện), Cửu Đức (8 huyện), Nhật Nam (5 huyện). Vào thời Nam – Bắc triều, nhà Lương chia nhỏ quận, huyện để lập ra các châu. Theo đó, quận Giao Chỉ được chia tách thành 2 châu: Giao và Hoàng, đổi quận Cửu Chân thành Châu Ái, chia quận Nhật Nam thành 3 châu: Đức, Lợi, Minh. Đến cuối thế kỷ VI, miền Giao Châu có 7 châu: Châu Giao, Châu Hưng (sau đổi là Phong), Châu Hoàng (sau đổi là Ngọc), Châu Ái, Châu Đức (sau đổi là Hoan), Châu Lợi (sau đổi là Trí) và Châu Minh. Đến thời Tùy, lại đổi châu thành quận huyện như cũ, khi đó có 7 quận: Giao Chỉ (9 huyện), Cửu Chân (7 huyện), Nhật Nam (8 huyện), Tỷ Cảnh (4 huyện), Hải Âm (4 huyện), Lâm Ấp (4 huyện), 3 quận Tỷ Cảnh, Hải Âm, Lâm Ấp được lập trên đất Lâm Ấp mà nhà Tùy mới chiếm.
Các châu ở thời Đường chính là sự kế thừa tên gọi, cách thức tổ chức của các châu được lập ra vào thời Lương. Như vậy, việc chia tách các quận, huyện và thiết lập các châu mới cùng với bộ máy thống trị, nhất là bộ máy 3 cấp: châu – quận – huyện của các triều đại đô hộ từ Triệu đến Tùy là điều kiện để nhà Đường thiết lập An Nam Đô hộ phủ. Nó vừa là cơ sở về tổ chức bộ máy thống trị, vừa là cơ sở về địa giới hành chính, cũng là cơ sở về mặt lịch sử để nhà Đường dựa vào đó củng cố và phát triển, tiến tới xác lập một bộ máy thống trị mới là Phủ Đô hộ ở An Nam.
Đơn vị hành chính của An Nam đô hộ phủ gồm 3 cấp chủ yếu: cấp phủ ở trị sở Phủ Đô hộ, cấp châu và cấp huyện ở địa phương. Dưới huyện, còn có hương, xã.
Về cấp châu: Nguyên Hòa quận huyện đồ chí, quyển 38 chép: “An Nam, đời Khai Nguyên có 25.694 hộ, đến đời Nguyên Hòa có 27.135 hộ. Khi lập An Nam Đô hộ phủ, quản 13 châu: Giao châu, Ái châu, Hoan châu, Phong châu, Lục châu, Diễn châu, Trường châu, Vũ An châu, Đường Lâm châu, Vũ Định châu, Quận châu, Lượng châu, Cống châu”. Theo Tân Đường thư, quyển 43 thượng, Địa lý thất, thượng thì An Nam Đô hộ phủ có 12 châu.
Đối với các bộ tộc ở miền thượng du xa xôi, nhà Đường không đặt châu quận để thống trị trực tiếp được thì đặt những phủ, châu ki mi (cơ mi, nghĩa là ràng buộc lỏng lẻo. Sử ký, truyện Tư mã Tương như, quyển 117 cho biết theo Sách ấn thì xét ki là dây buộc ngựa vậy, mi là dây xỏ mũi trâu vậy, còn Hán quan nghĩa thì nói: ngựa gọi là ki, trâu gọi là mi, tức là chế ngự tứ di như ràng buộc trâu ngựa), để cho các thủ lĩnh, tù trưởng cai trị bộ tộc của họ và chịu quyền quản lãnh của đô đốc ở biên giới. Mục đích của nhà Đường khi lập các châu ki mi là để mua chuộc lòng tin của các thổ quan địa phương, cho họ nhận nhiệm vụ giám quản bộ tộc, khu vực của mình, từ đó kiểm soát miền thượng du và tăng cường việc bóc lột (chưởng dư đồ, chinh phú cống). Mặt khác, nó còn giúp cho việc điều động quân đội, trấn thủ biên phòng chống lại sự xâm phạm của thế lực bên ngoài như Nam Chiếu và Hoàn Vương.
Các châu ki mi bắt đầu được lập ra từ năm Vĩnh Thái thứ 2 (năm 766). Đến năm Trinh Nguyên thứ 7, đời Đường Đức Tông (năm 791), lập thêm Phong Châu Đô đốc phủ và Hoan Châu Đô đốc phủ để quản lý các châu ki mi. Số lượng các châu ki mi vẫn chưa thống kê cụ thể được. Nguyên Hòa quận huyện đồ chí, quyển 38 chép là 32. Một học giả Trung Quốc là Tống Kiến Oánh trong bài viết đăng trên Học báo Tây An số kỳ 2, tháng 4 năm 2010 cho rằng An Nam Đô hộ phủ quản lý 41 châu ki mi, còn Phong Châu Đô đốc phủ thì quản lý 18 châu ki mi man thoán. Các châu này đều nằm ở thượng du miền bắc và đông bắc Việt Nam hiện nay như châu Quy Hóa, châu Cam Đường, châu Lâm Tây ở tỉnh Yên Bái, Lào Cai và thượng du sông Đà, châu Bình Nguyên ở thượng du sông Lô, châu Vũ Định, châu Đô Kim ở tỉnh Tuyên Quang, châu Tư Lăng, Lộc Châu ở Lạng Sơn. Đây vốn là đất sinh tụ của hậu duệ người Tây Âu và Nam Việt, nhà Đường gọi là Man Lão. Phong Châu từ năm 791 được thăng làm Đô đốc phủ, kiêm quản 18 châu ki mi, 18 châu ki mi này không thấy Tân Đường thư liệt kê, chỉ cho biết đó là nơi người Thoán Man cư trú. Họ là cư dân thuộc chủng tộc Thái ở vùng Tây Bắc Việt Nam ngày nay. Còn Hoan Châu Đô đốc phủ thì kiêm quản các châu ki mi nằm ở phía bắc dãy Trường Sơn giáp Lào ngày nay (bấy giờ còn thuộc Chân Lạp).
Về cấp huyện, Lịch triều hiến chương loại chí và Cương mục, theo Địa lý chí trong Tân Đường thư cho biết 12 châu của An Nam Đô hộ phủ thống hạt 59 huyện. Nhưng chỉ có Cương mục là chép đủ tên của 59 huyện, Lịch triều hiến chương loại chí ghi chép tên của 58 huyện. Còn riêng Nguyên Hòa quận huyện đồ chí thì thống kê An Nam Đô hộ phủ có 39 huyện, có lẽ là do nhầm lẫn.
Về cấp cơ sở (hương và xã): Ngụy Việt ngoại ký chép: “Thứ sử nhà Đường là Khưu Hòa mới đặt hương và xã ở trong và ngoài các châu, huyện. Chia huyện ra từng hương lớn, hương nhỏ (đại hương, tiểu hương) và xã lớn, xã nhỏ (đại xã, tiểu xã). Xã nhỏ từ 10 đến 30 hộ, xã lớn từ 40 đến 60 hộ, hương nhỏ từ 70 đến 150 hộ, hương lớn từ 150 đến 540 hộ”2.
Về số lượng các hương, xã Nguyên Hòa quận huyện đồ chí cho biết vào niên hiệu Khai Nguyên, An Nam có 55 hương, đến niên hiệu Nguyên Hòa có 56 hương. Sang đời Trinh Nguyên (785 – 805), Đô hộ là Triệu Xương xóa bỏ tên hương lớn, hương nhỏ mà gọi chung là hương. Đến đời Hàm Thông (860 – 874), Cao Biền chia đặt cả thảy là 159 hương thuộc (ở đồng bằng, không kể miền núi)[7].
Tuy ngày nay quê chỉ còn lại ít nhiều trong tên gọi thôn làng của người Mường là lủng, kẻ và cổ đứng trước tên gọi thôn làng của người Việt, nhưng bằng cách nào đó, quê vẫn hiện hữu để chỉ nơi tụ cư hoặc cách thức sống, giao tiếp của người nông dân chân lấm tay bùn (nhà quê, kẻ quê, quê mùa, quê kệch, chọc quê, chân quê, gái quê, rượu quê, hương quê, sông quê, làng quê, đồng quê, đất lề quê thói, giầu kẻ quê không bằng ngồi lê kẻ chợ). Thân thương và thiêng liêng biết bao khi quê đi liền với hương, thành cụm từ quê hương mà mỗi khi nói đến vẫn lay động đến tận tâm can người Việt.
Để lập ra các khối liên minh bộ lạc – nhà nước sơ khai Xích Quỷ, Văn Lang, Âu Lạc – ngoài Lộc Tục Kinh Dương, Sùng Lãm Lạc Long, các Lang Cun Hùng hoặc Thục Phán An Dương còn có nhiều họ mạc khác như các Ngọc phả, Thần phả ghi nhận. Tuy mãi tới lúc đô thành Cổ Loa xuất hiện, sử sách mới ghi tên người khổng lồ Lý Ông Trọng (Thụy Hương, Từ Liêm, Hà Nội), Dịch Hu Tống (Quân trưởng Tây Âu), Cao Lỗ (Ngòi Sảo, Gia Bình, Bắc Ninh), Lữ Gia (Lôi Dương, Thọ Xuân, Thanh Hóa) để cho thấy từ lúc Văn Lang xuất hiện, người Việt ngoài tên gọi đã có họ. Chính vì vậy, ta không lấy làm ngạc nhiên khi hàng chục thủ lĩnh của các dòng họ khác nhau đã đứng dưới cờ khởi nghĩa do Hai Bà Trưng xướng xuất như Chu Bá, Dương Giã Tiên, Dương Học, Đàm Ngọc Nga, Đào Kỳ, Đinh Phật Nguyệt, Lê Chân, Lê Hoa, Nguyễn Thánh Thiên, Quách A Nàng, Trần Phương Châu, Trần Thiếu Lan, Triệu Tam Trinh, Vũ Thục Nương, Vương Ngọc Quang… mà đến nay, ngoài Việt Nam trên đất Quảng Tây, Quảng Đông, Hồ Nam (Trung Quốc) vẫn còn nhiều đền miếu bái vọng.
Trong các dòng họ kể trên, họ Lý xuất hiện nhiều nhất trong các trang sử hoặc sử liệu. Sau Lý Ông Trọng xuất hiện từ năm 221 tr.CN, nhiều người họ Lý được coi là những người thợ thủ công tài khéo như Lý Văn Sơn trên bảo vật bằng đồng tìm thấy ở Quảng Đông – Trung Quốc (Nguyên Sơ ngũ niên thất nguyệt trung Tây Vu Lý Văn Sơn trị xạ trước hữu – Người Tây Vu là Lý Văn Sơn điều hành việc đúc đồng vào dịp trung tuần tháng 7 năm thứ 5 đời Nguyên Sơ, tức năm 143), như người họ Lý làm ra chiếc vò sành mà Clément Huet tìm thấy ở Thanh Hóa (Kiến Hòa tam niên nhuận nguyệt trập nhật Lý Thị tác – Người họ Lý sản xuất vào ngày 20 tháng nhuận năm thứ 3 đời Kiến Hòa, tức năm 149).
Đặc biệt, trong làn sóng quật khởi của cả dân tộc vùng lên để giành lại chủ quyền, ngoài hàng ngàn hoặc hàng vạn nghĩa binh họ Lý, tên tuổi các thủ lĩnh Lý Trường Nhân – Lý Thúc Hiến (468), Lý Bí (541), Lý Tự Tiên (687), Lý Mạnh Thu (782) vẫn còn sống mãi với non sông đất nước.
Trong nhiều thần tích, thần phả ghi chép về thời kỳ dựng cõi Văn Lang, tên tuổi của các bậc tiên liệt như Dương Minh Tiết, Dương Minh Thắng, Dương Cảnh Công; trong cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng như Dương Học, viên dũng tướng họ Dương (Đô Dương); trong cuộc khởi nghĩa Lý Bí như Dương Khoang Khoáng, Dương Tinh Thiều đã để lại nhiều dấu ấn đậm nét. Tuy nhiên, phải tới đầu thế kỷ thứ IX, sử sách mới giành cho dòng họ nhiều trang sử vàng rực rỡ về bậc viễn tổ Dương Thanh và hơn một thế kỷ sau đó, trong dòng họ lại được đón nhận thêm bậc khởi tổ Dương Đình Nghệ – quán tại Kẻ Giàng, nơi xưa kia là lỵ sở của huyện Tư Phố và trị sở của Cửu Chân (nay là Dương Xá, xã Thiệu Dương, thành phố Thanh Hóa), quê tại Long Vĩ, hương Diên Uẩn, châu Cổ Pháp – nay thuộc thị xã Từ Sơn (Bắc Ninh).
Từ thời đại Dương Thanh – Dương Đình Nghệ tới nay, hơn một thiên niên kỷ đã trôi qua. Bao tên tuổi, bao lớp người trong dòng họ vẫn tiếp nối không ngừng truyền thống xả thân vì nền độc lập và sự giầu đẹp của đất nước. Thông qua những tên tuổi và địa bàn cư trú của các bậc tài danh đó, một hiện thực hiển nhiên xuất lộ: khu vực đôi bờ sông Cầu chảy qua địa bàn Ninh – Thái, tức hai trấn Kinh Bắc và Thái Nguyên chính là nơi sinh tụ đầu tiên của dòng họ Dương Việt Nam, nơi mà sách An Nam chí lược của Lê Tắc thời Trần, sách An Nam chí nguyên của Cao Hùng Trưng thời Minh gọi là Dương Xá Châu, Dương Huyện, nơi có Đại Sơn long đầu khởi (chỉ vùng núi cao Thái Nguyên, sinh quán của bậc viễn tổ Dương Thanh), Cù vĩ ẩn Châu Minh (chỉ vùng Đuôi Rồng – Long Vĩ, sinh quán của bậc khởi tổ Dương Đình Nghệ, người vừa mở đầu cho sự thịnh vượng của đất nước), Thập bát tử định thành/ Miên thu hiện long hình. Thỏ kê thử nguyệt nội/ Định kiến nhuật xuất thanh (nhưng nghiệp lớn chỉ thành khi người họ Lý xuất hiện, khi hình rồng lộ rõ trên thân cây gạo; đến ngày mão trong tháng tý năm dậu sẽ được thấy nhà vua anh minh). Lời tiên đoán kể trên là của Trưởng lão Đinh La Quý đọc vào năm 936, khi Dương Đình Nghệ vừa bước vào vị trí Tiết độ sứ trên đất An Nam Đô hộ phủ[8].
Khảo sát các bộ địa bạ được làm vào các năm Gia Long thứ 4 (1908), Minh Mệnh thứ 21 (1840), hầu hết các huyện nằm trong khu vực được giả định là địa bàn cư trú chính của họ Dương Việt Nam thuộc Ninh – Thái, đều xuất hiện các chỉ số cao lên tới 30 – 50% các chủ sở hữu mang họ Dương, tương đương hoặc gần bằng các chủ sở hữu họ Nguyễn. Tại xã Trường Dương (Phú Bình – Thái Nguyên) chẳng hạn – cả địa phương có 45 chủ sở hữu, lần lượt họ Dương có 21 hộ (46,7%), họ Nguyễn 19 hộ (42,2%), họ Cao 3 hộ (6,7%), họ Phạm 2 hộ (4,4%)[9]. Bắc Ninh là nơi được Pierre Gourou khảo sát và công bố trong công trình Người nông dân châu thổ Bắc Kỳ, cho biết:
“Theo sự kiểm kê năm 1931, tỉnh Bắc Ninh có tất cả 450.000 dân, tức là vào khoảng một phần mười lăm dân số châu thổ Bắc Kỳ, đó là một tỷ lệ tương đối đáng kể của cư dân châu thổ mà sự điều tra đã tiến hành. Số 450.000 dân này được phân bổ vào76.300 hộ theo tính toán của chúng tôi.
Chúng tôi đã tìm ra 93 dòng họ trong toàn tỉnh Bắc Ninh. Họ Nguyễn chiếm 54% số hộ. Có tới 65.200 hộ mang 12 họ (kể cả họ Nguyễn) tức là 85% các họ ở tỉnh Bắc Ninh. 82 họ khác chỉ có liên quan đến 11.100 hộ, tức mỗi họ có 136 hộ. Từ cuộc điều tra thống kê đó, ta thấy rằng tên các họ rất ít thay đổi và phần lớn các hộ đều lấy mười hai họ kia, và trước hết là họ Nguyễn.
Tính theo tổng, thì dù mối tương quan giữa các hộ mang họ Nguyễn với tổng số các hộ khác có biến đổi như thế nào, thì tỉ lệ trung bình trong toàn tỉnh Bắc Ninh là 54%”[10].
Mặc dù họ Dương ở Bắc Ninh chỉ đứng vào hàng thứ 11 nhưng khảo sát gần đây vào năm 2009 vẫn cho thấy ngoài 13 làng họ Dương chiếm số đông là Xuân Thủy (Quế Võ), Xuân Quan, Trương Xá, Đông Côi, Lạc Thổ (Thuận Thành), Vân Khám (Tiên Du), Dương Lôi, Đồng Kỵ, Trịnh Nguyễn, Song Tháp (thị xã Từ Sơn), Yên Ninh (Yên Phong), Xuân Viên, Ném Tiền (thành phố Bắc Ninh) cùng dăm bảy chục làng khác có họ Dương xen kẽ[11].
Nên nhớ, so với năm 1931, hiện tại Bắc Ninh không còn huyện Văn Giang và nhiều xã thuộc Thuận Thành, Tiên Du, Từ Sơn cùng với cả huyện Gia Lâm đã sáp nhập vào Hà Nội.
Cùng với việc dịch chuyển các đơn vị địa lý hành chính, trong khoảng hơn 10 thế kỷ qua, dòng họ Dương cũng có những biến động theo dòng chảy của lịch sử dân tộc. Từ cái lõi Dương Xá Châu, trong danh sách xã thôn đã thấy xuất hiện Dương Xá tại các tổng Minh Long – Đường An, tổng Hòa Đan – Cẩm Giàng (Hải Dương), tổng Kỳ Cầu – Thanh Liêm, tổng Đặng Xá – Hưng Nhân (Sơn Nam), tổng Lôi Dương – Đông Sơn, tổng Thọ Hạc và Đại Bối – Đông Sơn (Thanh Hóa), tổng Phù Long – Hưng Nguyên, tổng Hạ Nhất – Thạch Hà (Nghệ An).
Dần dần theo bước chân Nam tiến của cha ông, họ Dương có mặt ở hầu hết các địa phương ở Trung Trung Bộ, Nam Trung Bộ và Nam Bộ. Ngoài cư dân bản địa học theo người Việt như lấy chữ đầu tên làng nơi cư trú như làng Dương Hòa thì người đàn ông lấy họ Dương, làng Trà Tiên lấy họ Trà, làng Thuận Yên lấy họ Thuận thì còn có việc triều đình còn ban họ cho các bộ tộc thiểu số. Theo Quốc triều chinh biên toát yếu (Q.III), vào tháng 5 năm Minh Mệnh thứ 18 (1837), “chuẩn cho người xứ Tây Ninh phải đặt họ bằng chữ Lý, Đào, Dương, Hạnh, Ngưu, Tượng, Mã…”[12], ban cho dân huyện Long Khánh các họ Dương, Đào, Lâm, Lý, Mai còn đối với người Chăm thì buộc phải ăn mặc như người Việt, đổi họ thành Lưu, Hàn, Đăng, Nguyên, Trương, Châu, Phú, Dương. Bên cạnh việc làm kể trên, vùng đất Nam Bộ còn được bổ sung tới 45 dòng họ của người Hoa và Minh Hương – trong đó có họ Dương.
Như vậy là, trên địa hạt từ Trung Trung Bộ vào đến Nam Bộ trong suốt thời kỳ Nam tiến, bên cạnh dòng họ Dương thuần Việt đã có thêm rất nhiều dòng họ Dương mới. Ngày nay, tất cả những gia tộc họ Dương ấy đã hòa chung vào đại gia tộc họ Dương Việt Nam. Đó là một hiện thực khách quan.
Có nhiều ý kiến cho rằng, nhiều dòng họ ngày xưa thường tụ cư trong một khu vực, tạo ra các xá riêng biệt. Thống kê ban đầu đối với các tỉnh ở phía Bắc cho thấy có khoảng trên 100 làng có tên gọi như trên – trong đó Hoàng Xá có tới 36 làng, Lê Xá 26 làng, Vũ Xá 19 làng, Dương Xá có 10 làng, tương đương Đào Xá, Phạm Xá, Lưu Xá. Trên đất Kinh Bắc, chỉ có một làng Dương Xá (cấp xã cũ) thuộc tổng Dương Quang, huyện Siêu Loại (nay thuộc xã cùng tên, Gia Lâm – Hà Nội) còn lại một thôn mang tên Dương Xá (Kẻ Giàng) thuộc xã Vân Phong, tổng Phù Lương – Võ Giàng hoặc mang tên làng Giang (xã Đông Dương, tổng Lãm Sơn Nam – Quế Dương, nay thuộc thành phố Bắc Ninh), thôn Giàng (xã Vân Lung, tổng Hả Hộ – Lục Ngạn, nay thuộc xã Tân Quang, Lục Ngạn – Bắc Giang), thôn Giàng (còn gọi là thôn Dương Bình, xã Thắng Yên, tổng Thuốc Sơn – Hữu Lũng, nay thuộc xã Yên Sơn, Hữu Lũng – Lạng Sơn). Do có tên nôm tương tự như tên gọi của Dương Xá – nay thuộc Thiệu Dương, thành phố Thanh Hóa đều là làng Giàng (Dàng, Ràng) – một loại cây thuộc loài Dương Xỉ khá phổ biến ở các làng vùng đồng bằng và trung du bán sơn địa nên có giả thiết cho rằng thoạt kỳ thủy dòng họ lấy cây Giàng làm vật tổ – làm họ, sau đó mới chuyển thành họ Dương theo cách gọi thông dụng từ hồi đầu công nguyên. Đây là một giả thiết có cơ sở nhưng vẫn cần tìm hiểu, phân tích thêm.
- NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA DÒNG HỌ ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP KHÔI PHỤC CHỦ QUYỀN, QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC, XÂY ĐẮP NỀN VĂN MINH ĐẠI VIỆT
- Đẩy nhanh sự sụp đổ ách thống trị của nhà Đường, đưa dân tộc trở lại kỷ nguyên độc lập
Với nhà Đường, cùng với sự phát triển cực thịnh chế độ phong kiến là sự tấn tới về hình thức đô hộ, biểu hiện rõ nhất là việc hình thành 9 Đô hộ phủ (An Đông, Đông Di, An Bắc, Thiền Vu, An Tây, Bắc Đình, Côn Lăng, Mông Từ và An Nam).
Thực ra, việc thiết lập bộ máy đô hộ tại các thuộc quốc đã có từ thời Tây Hán khi Tây Vực Đô hộ phủ trên vùng đất Tân Cương ngày nay hình thành vào năm 60 tr.CN, tuy chỉ tồn tại 16 năm, được dựng đi dựng lại 2 lần vào thời Đông Hán. Trải qua nhiều biến thể khác nhau, đến nhà Đường trở thành An Tây Đô hộ phủ.
Năm 679, sau khi có thêm một số Đô hộ phủ (An Bắc, Thiều Vu, An Đông), nhà Đường chuyển Giao Châu đại Đô đốc phủ thành An Nam Đô hộ phủ. Sau 80 năm trực tiếp do triều đình trung ương quản lý nó được chuyển giao cho Tiết độ sứ đạo Lĩnh Nam. Mãi tới năm 866, nó mới có riêng Tiết độ sứ cai quản.
Sở dĩ phải chuyển giao sang chế độ trực trị bởi nhà Đường cho rằng cấu trúc quan xa nha gần đã tạo ra không ít biến cố tại An Nam. Năm 791, thủ lĩnh người Việt là Đỗ Anh Hàn đã đem dân Di Lão đánh đuổi quan quân mạnh mẽ đến mức viên Đô hộ Cao Chính Bình ưu phiền mà chết, bộ máy thống trị rơi vào tình cảnh suy vi. Năm 802, An Nam Đô hộ phủ còn gánh chịu những đòn tấn công mạnh mẽ của Lâm Ấp vào các vùng Hoan, Ái; tiếp theo đó là cuộc tấn công của lực lượng người Việt vào La Thành dưới sự chỉ huy của Vương Quý Nguyên, Kinh lược sứ Bùi Thái bị đuổi về nước.
Năm 806, Trương Chu được sang thay liền cho đắp lại La Thành, tích lũy tới 40 gian chứa khí giới, đóng thêm 400 chiến thuyền. Chuẩn bị suốt ba năm Trương Chu mới giành lại được Hoan Ái.
Nhận thấy kẻ thù nhiều phần suy yếu, bộ máy đô hộ ngày một rệu rã, nhất là dưới bàn tay của viên Đô hộ Lý Tượng Cổ vì tham bạo mà mất lòng dân chúng, mùa thu, tháng 8 năm Kỷ Hợi (819)[13], viễn tổ Dương (Trạm), Thanh – người Giao Châu, đời đời làm Tù trưởng đất Dương Châu, được nhà Đường đưa giữ chức Thứ sử Hoan Châu mới thu hồi được từ tay Lâm Ấp – đã phát động cuộc khởi nghĩa với quy mô lớn, nhanh chóng thu phục được La Thành, loại khỏi vòng chiến Lý Tượng Cổ cùng hơn 1000 gia thuộc, bộ khúc. Cuộc khởi nghĩa năm Kỷ Hợi mặc dù bị thất bại nhưng đã khiến cho bộ máy thống trị của An Nam Đô hộ phủ ngập sâu vào thế suy vi.
Theo Cựu Đường thư, tham gia vào bộ Chỉ huy cuộc khởi nghĩa, ngoài Dương Trạm Thanh còn có Đỗ Sĩ Giao và hai con trai là Dương Chí Trinh, Dương Chí Liệt. Theo Phạm Lê Huy. Khảo cứu lại khởi nghĩa Dương Thanh (819 – 820). NCLS số 440/2012 cho biết, mộ chí của Lý Tượng Cổ do Vương Trọng Chu soạn năm 821 chép: “Đất Việt có An Nam Đô hộ kiêm Ngự sử Trung thừa Lũng Tây Lý Công, húy là Tượng Cổ, xuân thu 53 tuổi. Ngày 19 tháng 8 mùa thu năm Nguyên Hòa 14 [7-10-819] gặp phải loạn của bộ tướng là Dương Trạm Thanh ở quân quận, Công và vợ là Vi Thị Kịp, 3 con trai và 2 con gái trong khoảnh khắc đều bị hại, chìm dưới bến sông sâu. Sau khi hết việc binh, di cốt đều bị hủy hoại hết”.
Ngày 17 tháng 10, mùa đông năm Nguyên Hòa 14 [3-12-819] triều đình nhận được bản tấu của Kinh lược sứ từ Quảng Châu gửi về đã lệnh cho Thứ sử Đường Châu là Quế Trọng Võ làm Đô hộ, chiếu dụ xá tội cho thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa và cho làm Thứ sử Quỳnh Châu. Khi Quế Trọng Võ đến biên giới bị nghĩa quân ngăn lại bèn lập mưu mua chuộc, trong mấy tháng lôi kéo được 700 người, thu lại thành, chém được Dương Trạm Thanh và Dương Chí Trinh vào ngày 21 tháng 3, mùa xuân năm Nguyên Hòa 15 [10-5-820]. Dương Chí Liệt và Đỗ Sĩ Giao chạy về giữ đất Tạc Khê thuộc Trường Châu, thế cùng lực tận phải ra hàng.
Đại Việt sử ký toàn thư cho rằng, khoảng năm Khai Nguyên nhà Đường, Dương Thanh làm Thứ sử Hoan Châu, Tượng Cổ vẫn e dè, gọi cho làm Nha tướng, đến đây sai đi đánh người Man ở Hoàng Động. Thanh nhân thấy lòng người oán giận Tượng Cổ, ban đêm quay về đánh úp lấy châu, giết Tượng Cổ (Thanh người Giao Châu, Tượng Cổ là người tôn thất nhà Đường). Đường Đế chiếu cho Quế Trọng đánh Thanh không được. Thanh vào trong người Man Lão để làm loạn, cướp phá phủ thành. Đô hộ Lý Nguyên Gia đánh không được, dụ không đến. Do đấy người Man Hoàng Đông dẫn Hoàn Vương vào cướp.
Ngay sau cuộc quân loạn của Dương Trạm Thanh (819-820), Thứ sử Phong Châu là Vương Thăng Triều cũng nổi dậy để đòi chấm dứt việc lao dịch, trục xuất viên Đô hộ Hàn Ước (828), binh lính người Việt đốt thành lầu, cướp vũ khí, đuổi Đô hộ Vũ Hồi về Quảng Châu (843). Lợi dụng chính quyền nhà Đường lâm vào thế suy vi, Nam Chiếu đã đem quân chiếm châu ki mi Kim Long của An Nam (832), cướp phá Tống Bình (862 – 863). Nhân cơ hội này thủ lĩnh người Việt là Dương Tự Tấn đã đem lực lượng phối hợp càng khiến cho quan quân An Nam Đô hộ phủ hoảng loạn.
Dương Tự Tấn (hoặc Tiến) được Việt sử lược mô tả là một tướng của người Man đem lực lượng của mình cùng Nam Chiếu tiến đánh phủ thành, lập công lớn trong việc tiêu diệt Ngu hầu Nam Kinh Nguyên Duy Đức cùng 15 vạn quan quân ở phủ đô hộ. Theo An Nam chí lược của Lê Tắc, trong trận này chỉ có Mạc phủ là Phàn Xước mang ấn của viên Đô hộ Sái (Thái) Tập qua sông thoát chết. Sau khi tiêu diệt chủ lực của An Nam Đô hộ phủ, Nam Chiếu cử Dương Tự Tấn ở lại chiếm cứ An Nam. Đại Việt sử ký toàn thư chép khá kỹ việc này: “Quý Mùi (863). Mùa xuân, tháng giêng, ngày Canh Ngọ, người Nam Chiếu lấy được phủ thành, người tả hữu của Tập đều chết, Tập đi chân cố sức đánh, người trúng mười cái tên, muốn xuống thuyền của giám quân, thì thuyền đã đi xa bờ rồi, bèn nhảy xuống nước chết cả nhà 70 người. Liêu thuộc là Phàn Xước đem ấn tín binh phù của Tập sang đò qua sông trước được thoát. Tướng sĩ các châu Kinh Nam, Giang Tây, Ngọc, Nhạc, Tương hơn 400 người chạy đến phía Đông thành giáp bờ sông, bọn ngu hậu Kinh Nam Nguyên Duy Đức bảo quân rằng: “Chúng ta không có thuyền xuống nước tất chết, chẳng bằng lại trở về thành, đánh nhau với người Man, một người ta đổi lấy hai người Man cũng có lợi”. Mới quay về thành, vào cửa Đông La (tức là cửa Đông của La Thành An Nam). Người Man không phòng bị, bọn Duy Đức thúc quân đánh giết được hơn 2000 người Man. Đến đêm tướng Man là Dương Tự Tấn mới từ trong thành nhỏ đem quân ra cứu, bọn Duy Đức đều chết cả. Nam Chiếu hai lần đánh Giao Châu, vừa giết vừa bắt gần 15 vạn người. Lưu lại 2 vạn quân sai Tự Tấn giữ thành Giao Châu ta. Người Di Lão các khe động không cứ xa gần đều hàng chục cả. Vua Nam Chiếu cho thuộc hạ là Đoàn Tù Thiên làm Tiết độ sứ phủ Giao Châu ta”.
Như vậy là đã rõ, đây là lần thứ nhất người họ Dương kết hợp với Nam Chiếu chấm dứt chế độ Tiết độ sứ gián tiếp, tự mình cai quản được 3 năm. Mãi tới tháng 8 năm Hàn Thông 6 (8-865), Kiêu vệ Tướng quân Cao Biền mới đánh thắng quân Nam Chiếu ở Gia Bình (Bắc Ninh), sau đó vào tháng 4-866 chiếm lại được La Thành. Tháng 11-866, An Nam Đô hộ phủ đổi thành Tĩnh hải quân Tiết trấn. Bắt đầu từ đây Cao Biền trở thành viên Tiết độ sứ trực tiếp và thực quyền đầu tiên ở xứ Đô hộ An Nam. Ngay lập tức, Cao Biền cho đổi gọi La Thành bằng tên Tống Bình, gia cố về quy mô và tính năng phòng thủ, lập sổ hộ tịch và hộ khẩu, đưa lưu dân và binh sĩ nhà Đường vào khai khẩn, củng cố đường xá, tiến đánh và bắt tới 17 ngàn người ở vùng đất do Dương Tự Tấn trước đây cai quản, định cương giới với Nam Chiếu, đồn trú biên ải, tung tin trấn yểm long mạch ở khắp nơi, nhất là vùng đất vây quanh Tống Bình.
Đề phòng đủ mặt như vậy nhưng Tống Bình vẫn phải chống đỡ với các cuộc quân loạn vào tháng 3-880 và quân Nam Chiếu đánh phá, đến mức phải dàn hòa, hứa gả công chúa để Nam Chiếu rút quân về.
Chớp nhanh thời cơ bộ máy cai trị của nhà Đường sụp đổ, Tiết độ sứ Độc Cô Tổn bị giáng làm Thứ sử Lệ Châu, bị đày đi làm Ty bộ Quỳnh Châu ở đảo Hải Nam, năm 905 Khúc Thừa Dụ – một hào trưởng có thế lực ở đất Hồng Châu (Hải Dương), được Dương Đình Nghệ giúp sức, đã nhanh chóng tập hợp lực lượng nổi lên đánh chiếm Tống Bình, tự xưng là Tiết độ sứ. Ngày 11 tháng giêng năm Bính Dần (7-2-906) nhà Đường buộc phải phong cho ông là Đồng bình Chương sự Tiết độ sứ An Nam, trở thành viên Tiết độ sứ cuối cùng của An Nam Đô hộ phủ và viên Tiết độ sứ người Việt đầu tiên.
Việc Khúc Thừa Dụ vào năm 905 nổi dậy giành quyền tự chủ đã mở ra một thời đại mới, bước khởi đầu của các triều đại độc lập, chấm dứt vĩnh viễn thời kỳ Bắc thuộc. Kể từ đây, dù cho những người đứng đầu đất nước chưa thành lập vương triều, vẫn nhận chức Tiết độ sứ nhưng Việt Nam đã chuyển sang một thời đại mới – độc lập, tự chủ dưới chế độ phong kiến. Sự kế tục qua 3 đời từ Khúc Thừa Dụ, Khúc Hạo đến Khúc Thừa Mỹ với 18 năm (905 – 923) xây dựng hệ thống hành chính và luật lệ mới đã đánh dấu chấm hết cho thời kỳ mất nước.
Mặc dù có mấy năm bị rơi vào vòng kiểm soát của nhà Nam Hán do sách lược đối ngoại của Khúc Thừa Mỹ thiếu vẻ mềm dẻo, nhưng trong khoảng thời gian đó khởi tổ Dương Đình Nghệ bằng tầm nhìn thấu đáo, vừa ngấm ngầm chuẩn bị lực lượng để khôi phục lại nền tự chủ vừa tìm cách đánh lạc hướng, ru ngủ kẻ thù. Về sự kiện này, sách Tư trị thông giám, Q.277 viết:
“Dương Đình Nghệ người Ái Châu, nuôi ba ngàn giả tử, mưu đồ khôi phục Giao Châu. Viên tướng cai quản Giao Châu người Hán là Lý Tiến đã biết nhưng ăn hối lộ của Nghệ nên làm như không nghe thấy. Năm này Đình Nghệ dấy quân bao vây Giao Châu, vua Hán sai Thừa chỉ Trình Bảo sang cứu, chưa đến nơi thành đã nguy ngập. Tiến bỏ trốn về bị vua Hán giết chết. Bảo vây Giao Châu, Đình Nghệ ra đánh, Bảo phải thua và tử trận”.
Như vậy là, trong suốt 7 năm (923-930), kể từ khi Khúc Thừa Mỹ bị đưa sang Nam Hán, Dương Đình Nghệ đã tập hợp được một lực lượng gồm hàng ngàn người thân tín cùng chí hướng dưới danh nghĩa con em trong tộc họ tụ về từ khắp vùng Giao Châu, Ái Châu. Họ có thể là đồng liêu như Đinh Công Trứ – phụ thân của Đinh Bộ Lĩnh, Ngô Quyền – sau là con rể, Dương Tam Kha – con chú, con bác của ông. Trong quá trình làm bộ tướng, ông đã nhận thấy họ Khúc chưa xây dựng được lực lượng quân sự cho riêng mình, không có tổ chức thu hút dân chúng mà chỉ bó hẹp trong dòng họ. Do vậy, việc đầu tiên mà ông phải làm là phải có đội quân tâm đầu ý hợp, tài năng, biết dấu mình trong vỏ bọc hợp pháp khiến cho mọi nhòm ngõ của kẻ thù mất dần hiệu lực. Lật đổ được sự thống trị của Nam Hán, nhận thấy điều kiện xưng vương chưa tới, Dương Đình Nghệ chỉ tự xưng là Tiết độ sứ, quản lĩnh công việc Giao Châu. Xét cho cùng, khởi tổ mới là người tạo dựng một cách chắc chắn nền độc lập của đất nước, như Ngô Thì Sĩ đã viết trong Việt sử tiêu án: “Trước làm tướng cho họ Khúc, đến khi Lý Khắc Chính bắt được Thừa Mỹ, lập cách báo thù cho họ Khúc bèn lập ra trường đánh vật chiêu tập các hào kiệt, lấy đại nghĩa khuyến khích họ, đồng mưu với nhau đánh đuổi tướng Hán là Lý Khắc Chính”.
Giành lại chủ quyền, Dương Đình Nghệ tự mình quản lãnh Giao Châu, đóng ở Đại La, đưa Ngô Quyền vào làm Thứ sử Ái Châu, Đinh Công Trứ giữ chức Thứ sử Hoan Châu. Tháng 4-937, khởi tổ bị Nha tướng Kiều Công Tiễn sát hại.
Những tiếp biến lịch sử của hơn nửa thế kỷ tiếp theo cho tới tận đầu thế kỷ XI, sự nghiệp khôi phục nền tự chủ cho đất nước từ thuở cha con họ Khúc đến khởi tổ Dương Đình Nghệ vẫn được bảo toàn bởi chiến thắng trên sông Bạch Đằng do giả tử Ngô Quyền lập nên trước quân Nam Hán (938), bởi Đinh Bộ Lĩnh – con trai của giả tử Đinh Công Trứ và cuối cùng là chiến thắng quân xâm lược Tống tại mặt trận Bình Lỗ và trên sông Bạch Đằng (980-981) do Lê Hoàn lãnh đạo. Bên trong những chiến công ấy, vai trò của giả tử Dương Tam Kha – người được Ngô Quyền ủy thác vào năm 944 trông nom bầy con thơ dại, tự nhận là Bình Vương trong khoảng 6 năm là không thể phủ nhận, bên cạnh đó là vị trí của Dương Thị Như Ngọc – chị gái của Dương Tam Kha, hoàng hậu của nhà Ngô. Dưới 2 triều Đinh – Lê, ngoài các đóng góp của Dương Huy, Dương Thà, Dương Thiệp, Dương Cát Lợi, Dương Tiến Lộc và công lao không nhỏ của Thái hậu lưỡng triều Dương Vân Nga. Đặng Xuân Bảng trong Việt sử cương mục toát yếu đã có lý khi tổng kết chặng đường xuyên suốt thế kỷ X diễn tiến qua công lao từ họ Khúc đến họ Đinh rằng: “Nhà Đường đến đời Chiêu Tuyên, quần hùng đua nhau nổi lên mà Khúc Thừa Hựu[14] nổi lên ở An Nam, đều là do trời. An Nam dựng nước, bắt đầu từ Khúc Thừa Hựu, mạnh lên thời Dương Diên Nghệ[15], Ngô Quyền. Đinh Tiên Hoàng được dựa vào công liệt còn lại của các vị ấy. Là bởi họ Khúc ba đời kế nối, hùng cứ một phương, lòng người yên ổn đã lâu, mà Dương Diên Nghệ đuổi Lý Tiến, chém Trần Bảo, Ngô Vương Quyền giết Hoàng Tháo, đuổi Lưu Cung, Nam Hán hai lần sang, hai lần thất bại, tuy chưa xưng đế, chưa nhận phong vương, nhưng thế nước đã dần dần vững mạnh không thể lấy được. Đinh Tiên Hoàng tiếp sau Ngô Vương Quyền, 12 sứ quân một trận dẹp yên, uy danh vạn thắng nổi khắp thiên hạ. Cho dù [nhà Tống] đem quân sang đánh, chưa chắc đã thôn tính được, lỡ ra sa lầy thì tổn thương không ít. Đó là lý do Tống Thái Tổ làm ngơ không hỏi đến vậy. Nếu không thế, An Nam thời Hán, Đường là đất nội địa, Tống Thái Tổ dẹp yên các nước, thế như chẻ tre, đánh xong Nam Hán là đến An Nam, sao lại đành chịu bỏ, để [An Nam] thành nước khác? Cho nên, xét việc xưng đế chế và nhận phong vương của Bắc triều, phải lấy Đinh Tiên Hoàng làm đầu, nhưng xét việc nối quốc thống, tiếp tục cơ nghiệp của Hồng Bàng thì phải lấy Khúc Thừa Hựu làm trước”[16].
- Tham gia quản lý bộ máy nhà nước, xây đắp và bảo vệ giang sơn Đại Việt thời Lý – Trần – Hồ
Hương Diên Uẩn thuộc châu Cổ Pháp còn có một tên khác là đất Long Vĩ – Đuôi Rồng. Đây là một quê lớn – đại hương có Điềm Giang, Thiếp Giang, Cổ Châu Giang và Tiêu Tương Giang bao bọc. Ở vào thế kỷ X-XI, dân cư còn thưa thớt, rừng Ô mễ còn gọi là cây mun ken dầy khắp ngả, bốn dòng họ Dương, Lý, Phí, Đào chia vùng cư ngụ. Sau khi họ Dương tiên khởi – dậy trước trong việc toan lo giành lại giang sơn cho dân nước còn đang ngổn ngang, dang dở thì Trưởng lão Đinh La Quý đã kịp ươm mầm cho họ Lý gánh vác sứ mệnh mà lịch sử sẽ trao cho vào mấy đời sau trên cây gạo trước cửa chùa Minh Châu. Với huyền tích cây gạo ở Dương Lôi bị sét đánh làm lộ ra lời tiên tri và lời dăn bảo của Quốc sư Vạn Hạnh với Lý Công Uẩn: “Mới rồi tôi trông thấy lời sấm kỳ dị, biết rằng họ Lý cường thịnh, tất dấy lên cơ nghiệp. Nay xem trong thiên hạ người họ Lý rất nhiều nhưng không ai bằng ông là người khoan từ nhân thứ, lại được lòng dân chúng mà binh quyền nắm trong tay, người đứng đầu muôn dân chẳng là ông thì còn ai đương nổi. Tôi đã hơn 70 tuổi rồi, mong được thư thả hãy chết để xem đức hóa của ông như thế nào, thực là sự may muôn năm mới gặp một lần”[17] đã minh chứng cho sự kỳ công xếp đặt đại sự quốc gia của mấy thế hệ Thiền sư yêu nước lúc bấy giờ.
Với sự hỗ trợ lớn lao của Đào Cam Mộc và những dòng họ ở hương Diên Uẩn, ngay sau khi lên ngôi, Lý Thái Tổ đã đem con gái trưởng là Công chúa An Quốc gả và phong cho Đào Cam Mộc là Nghĩa tín hầu, Đào Thạc Phụ làm Thái Bảo, Phí Xa Lỗi làm Tả kim ngô và Dương Bình – chưa rõ chức vụ.
Ngay sau khi nhà Lý ra đời, họ Dương có những phản ứng trái ngược nhau.
Trước hết đó là sự chống đối của những người ở vùng biên ải. Sử cũ ghi lại rằng vào năm Giáp Dần (1014), Dương Trường Huệ và Đoàn Kính Chí đem 20 vạn người đánh phá vùng Kim Hoa – Cao Bằng, vua phải cho Dực Thánh Vương đem quân đi đánh dẹp[18].
Có một thực tế nữa là, hồi đầu triều Lý, vai trò của họ Dương có vẻ khá mờ nhạt. Sử sách chỉ cho biết có một vị đại thần là Dương Bình, ngoài việc hỗ trợ Lý Công Uẩn lên ngôi còn cùng Quách Thịnh, Lý Huyền Sư, Lý Nhân Nghĩa, Lê Phụng Hiểu giúp Phật Mã dẹp yên loạn Tam vương (Đông Chinh, Dực Thánh, Vũ Đức) vào lúc Thái Tổ vừa băng hà (1028). Kể từ sự kiện này trở đi, gần một thế kỷ tiếp theo, không thấy nhân vật nào của họ Dương xuất hiện.
Tuy nhiên, sự trỗi dậy của Dương Trường Huệ – Đoàn Kính Chí đã khiến cho Càn Đức Lý Nhân Tông phải áp dụng trở lại chính sách ki mi – ràng buộc đã khá thành công từ thời cha ông đối với họ Giáp (sau đổi sang họ Thân), họ Lê, họ Hà bằng cách gả công chúa cho Dương Cảnh Thông rồi phong cho vị phò mã này làm Thứ sử châu Phú Lương kiêm Thứ sử Quan sát sứ các châu Quảng Nguyên, Tư Lang (nay thuộc Cao Bằng), cho Dương Văn Đĩnh làm Thừa vụ lang Hiệu thư. Tiếp theo đó, Dương Tự Hưng được giao làm Thủ lãnh châu Quảng Nguyên, Dương Tuệ làm Thủ lãnh châu Tư Nông (nay thuộc Thái Nguyên), Dương Anh Nhĩ làm Thái phó. Nhờ chính sách mềm dẻo đó, năm 1117 và năm 1124 Phò mã lang Dương Cảnh Thông, Dương Tự Hưng đã về triều dâng con hươu trắng, năm 1124 nhà sư Dương Tu dâng đôi ngọc bích trắng, năm 1127 Dương Tuệ dâng 2 khối vàng trường thọ.
Trong sự nghiệp bảo vệ biên giới phía nam, chống Chân Lạp lấn chiếm, sử sách ghi nhận nhiều chiến công của các võ tướng họ Dương. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, năm Mậu Thân, niên hiệu Thuận Thiên 1 (1128) “người Chân Lạp vào cướp châu Đỗ Gia, châu Nghệ An, có hơn 700 chiếc thuyền. Xuống chiếu cho viên phủ Thanh Hóa là Nguyễn Hà Viêm và viên coi châu Nghệ An là Dương Ổ đem quân đánh phá được”[19].
Cũng theo Đại Việt sử ký toàn thư, sau khi bắt được hươu trắng dâng lên Lý Thần Tông, nhận Lộc tước Đại liêu ban, năm 1132, Thái úy Dương Anh Nhĩ được lệnh đem tướng sĩ ở phủ Thanh Hóa và châu Nghệ An đi đánh Chân Lạp, Chiêm Thành thắng lớn[20]. Năm 1135, Ngự khố thư gia Dương Chưởng được cử vào giữ phủ Thanh Hóa rồi sau đó thăng làm Viên ngoại lang.
Có một sự kiện hết sức quan trọng đã xảy ra trong thời gian này là việc họ Dương Long Vĩ thay thế họ Lý Long vĩ nắm giữ quyền lực tối cao của vương triều Lý.
Việt sử lược, Đại Việt sử ký toàn thư và nhiều bộ sử khác đều ghi nhận sự kiện trọng đại này.
Việt sử lược viết: “Năm Đinh Dậu, hiệu Hội tường Đại Khánh 8 (1117), mùa đông, tháng 11, lập con Sùng hiền hầu là Dương Hoán làm Thái tử… Thần tông húy Dương Hoán, cháu vua Thánh Tông, con Sùng hiền hầu, mẹ là Đỗ Thị. Năm lên ba tuổi, vua Nhân Tông nuôi ở trong cung, lập làm Thái tử. Tháng chạp năm đầu hiệu Thiên phù Khánh thọ (1127) vua lên ngôi ở trước linh cữu”[21].
Đại Việt sử ký toàn thư cho biết rõ hơn: “Đinh Dậu, năm thứ 8 (1117), mùa đông, tháng 10, vua ngự đến hành cung Khải Thụy xem gặt. Đêm hôm ấy mặt trăng có hai quầng. Tìm con trai họ tôn thất để nuôi ở trong cung. Xuống chiếu rằng: – Trẫm trị muôn dân mà đến già vẫn không có con nối, ngôi báu của thiên hạ truyền cho ai được. Nên nuôi con trai của các Sùng Hiền, Thành Khánh, Thành Quảng, Thiền Chiêu, Thành Hưng, chọn người nào giỏi thì lập thành Thái tử! Bấy giờ con Sùng Hiền hầu là Dương Hoán mới lên 2 tuổi mà thông minh lanh lợi, vua rất yêu, bèn lập làm Hoàng Thái tử… Thần Tông Hoàng đế, vua húy là Dương Hoán, cháu gọi Thánh Tông bằng ông, cháu gọi Nhân Tông bằng bác, con Sùng Hiền hầu, phu nhân Đỗ Thị sinh ra. Khi mới 2 tuổi, được nuôi ở trong cung, lập làm Hoàng Thái tử. Nhân Tông băng, lên ngôi báu ở ngôi 11 năm, thọ 23 tuổi, băng ở điện Vĩnh Quang. Vua năm mới lên ngôi là trẻ người non dạ, đến khi lớn lên tư chất thông tuệ, độ lượng rộng rãi, sửa sang chính trị, sử dụng hiền tài, thủy chung đều chính, nhiệm nhặt khúc nôi, không gì sai lệch. Tuy thân mang ác tật, nhưng rồi chữa khỏi, cũng là trời để ý đến. Song quá yêu thích điềm lành vật lạ, sùng thượng đạo phật, chẳng đáng quý gì”[22].
Con trai trưởng của Thần Tông là Thiên Tộ, năm 1138 lên ngôi lấy hiệu là Anh Tông, được Đại Việt sử ký toàn thư đánh giá như sau: “Trong việc bỏ con nọ lập con kia, vua không mê hoặc lời nói của đàn bà, ký thác được người phụ chính hiền tài, có thể gọi là không thẹn với việc gánh vác. Song không phân biệt được kẻ gian tà, không sáng suốt trong việc hình phạt, cho nên trời xuống tai biến để răn, giặc cướp nổi lên, giềng mối rối loạn, không thể nói xiết”[23].
Cao Tông, theo Việt sử lược, húy là Long Cán (Đại Việt sử ký toàn thư ghi húy là Long Trát) con thứ 6 vua Anh Tông, lên ngôi đang tuổi non nớt nên chính sự đều giao cho Thái phó Tô Hiến Thành. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, vua chơi bời không điều độ, hình chính không rõ ràng, giặc cướp như ong, đói kém liền năm, cơ nghiệp nhà Lý từ đấy suy kém[24].
Huệ Tông, con trai trưởng của Cao Tông, ở ngôi 14 năm, gặp buổi loạn lạc, giặc cướp tứ tung, mình bị bệnh nặng, không sớm biết cầu con trai nối dõi, phải truyền ngôi cho con gái thứ là Phật Kim, sau đổi Thiên Hinh, lấy hiệu là Chiêu Hoàng. Được 2 năm nhà Lý mất[25].
Theo Đại Việt sử ký toàn thư và Thiền uyển tập anh, Dương Hoán vốn được Từ Đạo Hạnh (Từ Lộ) đầu thai mà thành. Đại Việt sử ký toàn thư kể: “Trước là phu nhân của Sùng Hiền hầu là Đỗ Thị có mang, trở dạ mãi không đẻ. Hầu nhớ lại lời Đạo Hạnh dặn khi trước, sai người phi báo. Đạo Hạnh lập tức thay áo tắm rửa, vào trong hang núi trút xác mà đi. Phu nhân bèn sinh con trai, tức là Dương Hoán”. Thiền Uyển tập anh thì nói rõ hơn, sau khi trả chủ cho cha, khiến sư Đại Điên phát bệnh mà chết, Từ Đạo Hạnh đi khắp nơi trong chốn Tùng Lâm, tìn được Kiều Trí Huyền, Sùng Phạm để làm cho pháp lực dồi dào, duyên thiền thuần thục. Bây giờ vua Lý Nhân Tông tuổi đã cao mà không có con nối dõi. Tháng 2 năm Hội Tường Đại Khánh thứ 3 (1112) ở phủ Thanh Hóa có người tâu: “Vùng bờ biển Sa Đinh có một đứa trẻ con linh dị, mới lên ba tuổi mà nói năng biện giải như người lớn, xưng là con đích của vua, tự đặt hiệu là Giác Hoàng. Phàm mọi việc làm của hoàng thượng, không điều gì đứa bé ấy không biết”. Vua sai trung sứ vào tận nơi xem xét, thấy đúng như lời tâu, bèn cho đón về chùa Báo Thiên ở kinh đô. Thấy đứa trẻ thông minh dị thường vua có lòng yêu mến, định lập làm hoàng thái tử. Các quan hết sức can ngăn vua không nên làm như vậy. Các quan lại nói nếu đứa bé ấy quả thực linh dị, tất nên thác sinh vào nội cung rồi sau mới lập làm thái tử được. Vua nghe theo, bèn cho mở hội lớn bẩy ngày đêm để làm phép thác thai. Được tin, Từ Đạo Hạnh dùng pháp thuật cản phá, vua sai bắt về lầu Hưng Thánh để định tội may nhờ có Sùng Hiền hầu cứu giúp. Từ Đạo Hạnh nhờ đó thoát nạn, hứa sẽ đầu thai để đáp ơn tạ đức. Ngay sau khi thoát nạn, Từ Đạo Hạnh bèn đi ngay đến phủ đệ của Sùng Hiền hầu, vào thẳng nơi phu nhân đang tắm mà nhìn. Phu nhân tức giận nói lại với chồng, nhưng Sủng Hiền hầu đã biết trước nên không căn vặn gì. Từ đó phu nhân cảm thấy mình có thai. Sư dặn Sùng Hiền hầu: “Khi nào phu nhân sắp sinh thì báo cho bần tăng biết trước”. Đến lúc phu nhân sắp sinh, Sùng Hiền hầu cho người đến báo. Sư bèn tắm rửa, thay quần áo sạch sẽ rồi bảo đệ tử: – Nghiệp duyên của ta chưa hết, còn phải thác sinh để tạm giữ ngôi vua. Ngày sau thọ chung sẽ được làm thiên tử ở ngôi trời thứ ba mươi ba. Nếu thấy chân thân của ta hư nát thì lúc ấy ta mới thật nhập Niết Bàn, không còn phải trụ trong vòng sinh diệt nữa! Các đệ tử nghe nói không cầm được nước mắt. Sư bèn đọc bài kệ rồi trang nghiêm mà hóa.
Trong Lý tộc, Dương tộc đồng gia phả được cho là của Dương Hữu Tự Do biên soạn, Lương y Dương Văn Tất biên dịch, thì Sùng Hiền hầu Quận công là con của Thừa tướng Quốc công Dương Công Tiến (Đình Tiến), người Cổ Pháp, sinh được ba người con là Dương Thị Phương Hoài, Dương Công Khanh, Dương Tam Đảo (Tam Ổ) – trong đó Dương Công Khanh sinh ngày 8-3 năm Canh Tý (4-4-1060), là phụ thân của Dương Hoán (sinh ngày 5 tháng 11 năm Bính Thân, tức 3-11-1116), Dương Tự Minh và Dương Thị Huệ.
Kéo dài 225 năm, trong đó họ Lý nắm giữ thực quyền tới 128 năm, họ Dương tiếp nối 97 năm còn lại. Trong khoảng hơn hai thế kỷ đó, điểm lại ta thấy:
Trước hết, Lý Công Uẩn – vị vua khai sáng nhà Lý đã được các vị Quốc sư rèn đúc một cách rất công phu để gánh vác việc lớn, cộng với tư chất sẵn có của một quân vương; Thái Tông là vị vua nhân triết thông tuệ, có đại lược văn võ; Thánh Tông thực lòng thương dân, sửa sang việc văn, phòng bị việc võ; Nhân Tông sáng suốt thần võ khiến cho nước lớn thì sợ, nước nhỏ thì mến.
So với các quân vương họ Lý, những người nối nghiệp của họ Dương hầu như thiếu hẳn cốt cách, tư chất của một bậc vương giả khi nắm giữ ngai vàng đã khiến cho Thần Tông hoang mang đuối sức trong việc kén lựa các bậc hiền tài; Anh Tông đến lúc trưởng thành mới thấm được chút ít nỗi khổ đau của dân, truy tìm được cách giữ dân nước nhưng lại lầm lẫn trong việc chọn người kế nghiệp; Cao Tông lên ngôi trong vị thế con thứ, dù được Tô Hiến Thành hết sức trung thành giúp rập nhưng nghiệp lớn đã bắt đầu lung lay vì thói đắm đuối chơi bời, ham mê thanh sắc; Huệ Tông thì lúc tỉnh lúc mê, phải nương vào cửa phật, giao lại quyền bính cho con gái Chiêu Hoàng bé bỏng.
Rõ ràng đảm nhận trọng trách của một vương triều là một gánh nặng với họ Dương khi đó. Vì vậy, tới tận giữa thế kỷ XII, vua tôi vẫn phải dùng đến kế sách ki mi – ràng buộc, gả công chúa cho Dương Tự Minh để có người giữ gìn ở nơi biên ải, trấn áp những sự phản kháng của một số thủ lĩnh họ Dương liên kết với Thân Lợi (Dương Mục – thủ lĩnh châu Vạn Nhai), Đàm Hữu Lượng (Dương Ư). Năm 1150, Dương Côn – còn gọi là Lý Dương Côn, người từng bị thất bại trong việc Lý Nhân Tông chọn làm Thái tử vào năm 1118 (khi đó chừng 3 tuổi – khoảng tuổi của Dương Hoán) và trong việc lựa chọn vào ngai vàng khi Thần Tông qua đời năm 1138 (khi đó Thiên Tộ mới 3 tuổi còn Dương Côn khoảng 22 – 23 tuổi), đã phải vượt biển đến Pusan của Cao Ly. Đến khi nhà Lý mất ngôi, lại có chuyến vượt biển thứ hai của Lý Long Tường.
Dương Côn là con của Thành Quảng hầu, được Nhân Tông lập làm Thái tử thứ ba, sau Dương Hoán, được phong làm Kiến Hải vương Đại đô đốc. Năm 1138, Thần Tông qua đời, triều đình muốn đưa Dương Côn lên nối ngôi nhưng Cảm thánh Hoàng hậu đã đút lót vàng bạc cho các quan, tư thông với Đỗ Anh Vũ để đưa con trai là Thái tử Thiên Tộ lên ngối nghiệp rồi cùng với người tình tự tung tự tác, tàn sát dã man những người không ăn cánh. Trước tình hình ấy, năm 1150 Điện tiền Đô chỉ huy sứ là Vũ Đái cùng các công thần hợp lại bắt Anh vũ. Lê Thái hậu vì tình riêng đã tìm cách đút lót vàng cho Vũ Đái để nhất thời cứu mạng cho Anh Vũ. Khi vụ án lên tới vua, Anh Vũ bị đầy đi cầy ruộng. Lê Thái hậu lại âm mưu cho mở nhiều hội hè lớn và mỗi lần nhân có hội lớn thì cho tội nhân được ân giảm. Nhờ mấy lần giảm án, cuối cùng Anh Vũ lại làm Thái úy phụ chính như cũ, càng được yêu dùng hơn, do đấy chuyên làm oai, làm phúc, sinh sát mà lòng báo thù không lúc nào nguôi, khiến cho khắp nơi xẩy ra bắt bớ, máu đổ đầu rơi, Điện tiền Đô chỉ huy sứ Vũ Đái 20 người cũng bị chém bêu đầu ở các bến sông… Đây chính là nguyên nhân khiến cho Dương Côn khi ấy đang đóng thủy quân ở Đồ Sơn vượt biển tỵ nạn. Tại Hàn Quốc, con trai Dương Côn là Lý Nghĩa Mẫn (Lee Unimin) từng đảm trách những chức vụ quan trọng của Cao Ly. Thời vua Nghị Tông (Ui-Jiong 1146-1170) Lý Nghĩa Mẫn được phong chức Biệt trưởng. Vua Minh Tông (Mycong 1170-1179) thăng cho ông là Thượng tướng quân (1174), là Tây Bắc Bộ binh Mã sứ (1178) và chức Tể tướng trong suốt 14 năm (1183-1196). Tới năm 1196, tướng Thôi Chung Hiếu (Cho Chung Heon) làm chính biến đã giết cha con Tể tướng Lý Nghĩa Mẫn. Sở dĩ dòng họ của Dương Côn còn tồn tại tới nay là nhờ người anh trai của Tể tướng Lý Nghĩa Mẫn và gia đình được thoát nạn.
Lý Long Tường là con thứ 7 của Lý Long Xưởng (1155-1219), gọi Long Hãn Lý Cao Tông bằng chú ruột, sinh vào khoảng 1194 (Giáp Dần, năm Thiên tư Gia Thụy 9). Trong bài Hai dòng họ Lý Việt Nam đã vượt biển đến Đại Hàn từ thế kỷ 12 và 13 của Trần Vinh (http://tinhamburg.blogspot.com/2010/04/hai-giong-ho-ly-viet-nam-vuot-bien-en.html) dẫn Trần tộc vạn thế Ngọc phả của dòng dõi Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc để tại từ đường thuộc thị xã Lãnh Thủy, huyện Chiêu Dương, tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc mà bác sĩ Trần Đại Sĩ đã đọc, thì thấy viết: “Hoàng tử thứ 7 Long Tường do Hiền phi Lê Mỹ Nga sinh vào niên hiệu Chính long Bảo ứng 12 (1174, Giáp Ngọ)”[26] là không chính xác vì như vậy thì vào tuổi 20, Lý Long Xưởng đã sinh tới 7 người con – trừ phi có 7 bà vợ cùng đẻ. Thêm nữa, cũng trong bài viết này cho biết, vào năm 1253, quân Mông Cổ xâm lăng Cao Ly, Lý Long Tường khi đó đã 80 tuổi vẫn xung trận cũng là hiếm thấy. [Cũng theo tài liệu trên, khi Trần Cảnh vừa tiếm ngôi đã phong ông làm Thái sư Thượng trụ quốc, Khai phủ Nghị đồng tam tư, Thượng thư Tả bộc xạ, lĩnh Đại đô đốc, tước Kiến Bình vương. Niên hiệu kiến trung thứ 2 đời Trần Thái Tông tháng tám ngày rằm (30-9-1226) vương cùng gia tộc thuộc hơn 6 ngàn người bôn xuất (có lẽ là 5,600 người thì đúng hơn). Trước khi ra đi, Lý Long Tường đã bí mật về cố hương tạ biệt lăng miếu, tới Thái miếu thu gom các bài vị, các đồ tế khí, rồi trở lại Đồ Sơn đem hết tông tộc xuống thuyền. Sáu tháng sau, đoàn thuyền gặp bão, phải vào trú tại Đài Loan. Con trai của ông là Lý Đăng Hiền cùng với vợ con được ở lại đảo này còn đoàn thuyền tiếp tục vượt biển, đổ bộ lên cửa Phú Lương Giang, quận Khang Linh (Ong Jin-Gun), tỉnh Hoàng Hải (Hwang hac), thuộc Bắc Cao Ly. Vị trí đổ bộ này tên là Nak-nac-wac (Bến của khách phương xa mang theo đồ thờ cúng), được vua Cao Tông (Kojong) cùng quần thần tiếp kiến bằng bút đàm, ban đồ tiếp tế và cho lập cư ở Ung Tân phủ Nam Trấn Sơn (Chin Sang). Vương cùng thân tộc gắng sức mưu sinh, không quên luyện rèn võ lược.
Năm 1253, quân Nguyên Mông xâm lăng Cao Ly. Chiến thuyền và bộ binh Mông Cổ chiếm được nhiều nơi, đe dọa cả kinh đô. Nhiều tướng Cao Ly tử trận. Trước tình hình ấy, Kiến Bình vương Lý Long Tường yết kiến Thái úy Vi Hiển Khoan để hiến kế sách rồi cưỡi ngựa đôn đốc binh sĩ. Sau 5 tháng kháng chiến kiên cường, quân Nguyên Mông phải rút lui. Trong lễ mừng chiến thắng, nhà vua phong cho vương làm Hoa Sơn Tướng công theo tên núi nơi ông cư ngụ, cho dựng bia trên núi ghi khắc công lao, lại ban tặng 3 chữ Thụ Hàng Môn (cửa giặc đầu hàng).
Ngày nay, lăng mộ Lý Long Tường và con cháu 3 đời sau vẫn còn trên đồi Julbang, xã Đỗ Môn (Tô mơ ky) cách núi Hoa Sơn 10km về phía tây. Trên Quảng Đại Sơn vẫn còn Vọng Quốc Đàn là nơi ông thường lên nhìn về cố quốc. Mỏm đá nơi ông đặt chân đầu tiên mang tên Việt Thanh Nham (tảng đá xanh in dấu vết người Việt). Đến nay, họ Lý Hoa Sơn đã truyền tới đời thứ 28, đa số cư ngụ ở Triều Tiên không thống kê được hết. Riêng tại Hàn Quốc dòng Lý Hoa Sơn chỉ khoảng 200 gia đình, hầu hết đều có trình độ học vấn cao, nắm giữ nhiều chức vụ trọng yếu. Cựu Tổng thống Hàn Quốc Lý Thừa Vãn là hậu duệ đời thứ 25 của Lý Long Tường.
Hiện giờ, Tết Nguyên đán hàng năm, hậu duệ Lý Long Tường từ nhiều nơi vẫn tìm về Hoa Sơn làm lễ tế tổ tiên. Năm 1995, có hơn 100 con cháu Kiến Bình vương từ Hàn Quốc về Đình Bảng (thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh) dự hội mở vào ngày 15 tháng 3 Âm lịch.
Những thông tin trên đây đã được hiệu chỉnh lại sau khi lấy căn cứ từ Lý tộc Dương tộc gia phả do Dương Hữu Tự Do soạn từ năm Canh Dần (1590) qua đó đính chính những cứ liệu sai về Dương Côn khi có tác giả chủ trương ông là con trai của Lý Càn Đức (Pyon Hong Ke, Phan Huy Lê) vì ai cũng biết nhà vua này không có con. Về Lý Long Tường, ngoài những hiệu chỉnh cần thiết, cần khẳng định lại, ông không phải là Hoàng tử thứ 7 của Anh Tông (Thiên Tộ Lý Anh Tông, sinh năm 1136, mất năm 1175, có hai hoàng tử là Long Xưởng sinh năm 1155 và Long Hãn Lý Cao Tông sinh năm 1173).
Thông qua cuộc hôn nhân non nớt giữa Lý Chiêu Hoàng – Trần Cảnh, họ Trần Tức Mặc giành được ngôi báu, lập nên nhà Trần (1226-1400).
Ngược dòng thời gian, có vẻ như khi còn ở An Sinh (huyện Đông Triều, phủ Kinh Môn – Hải Dương, nay thuộc thị xã Đông Triều – Quảng Ninh) dòng họ chuyên nghề đánh cá này còn mang họ Dương. Phả họ Trần Vũ Lao và phả họ Trần Tức Mặc dòng dõi Hoài Đức vương Trần Bà Liệt và bài thơ của Đỗ Hựu có nhan đề Thập tứ dạ quan khai ấn hội (Tối 14 đi thăm hội khai ấn) làm hồi đầu thế kỷ XV có đề cập tới sự kiện khi họ này chuyển về Tức Mặc thì chia đôi: dòng chuyển xuống Hưng Nhân (phủ Tiên Hưng – Sơn Nam, nay là Hưng Hà – Thái Bình) vẫn giữ họ Dương, dòng ở lại Tức Mặc (Khang Kiện, Thiên Trường – Sơn Nam, nay thuộc thành phố Nam Định) đổi sang họ Trần.
Trải qua gần hai thế kỷ dưới triều đại mới, họ Dương chỉ được ghi nhận trong chính sử câu chuyện Dương An Dưỡng đi sứ sang nhà Nguyên vào năm 1266 vào sự kiện chuyển giao ngai vàng từ họ Trần sang họ Dương vào ngày rằm tháng 6 năm Kỷ Dậu (10-7-1369) – khiến cho lịch sử toan lặp lại câu chuyện xảy ra từ hơn 130 năm trước đó khi họ Lý chuyển giao quyền lực sang tay họ Dương, nếu như Dương Nhật Lễ không phải là kẻ ăn chơi đàng điếm.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Dương Nhật Lễ vốn là con của Dương Khương (có lẽ thuộc dòng họ Dương ở Dương Xá – Hưng Nhân chăng?) và Vương Mẫu – hát hay lại có nhan sắc, thường đóng vai Tây Vương Mẫu trong tích Vương mẫu hiến bàn đào. Khi mẹ ông có thai thì bị Cung Túc vương Trần Nguyên Dục – anh của Trần Dụ Tông cướp làm vợ nên trở thành người mang họ Trần.
Trần Dụ Tông không có con kế tự, không chọn người trong hoàng tộc lập làm thế tử nên đến khi sắp mất mới để di chiếu lập Nhật Lễ – được coi là con của anh trai nối ngôi. Khi nhà vua băng hà, triều đình định lập Cung Định vương Trần Phủ (Hồ Nguyên Trừng trong Nam Ông mộng lục ghi Cung Định Vương húy Thúc Minh, tính thuần hậu, hiếu hữu, cung kiệm, sáng suốt, học khắp kinh sử, không thích hào hoa) nhưng Thái hậu Hiến Từ (mẹ Trần Nguyên Dục, Trần Dụ Tông) kiên quyết lập Nhật Lễ vì cho rằng đây là con trai dòng đích trưởng. Sau khi lên ngôi, Nhật Lễ đặt niên hiệu là Đại Định truy tặng Trần Nguyên Dục là Hoàng Thái bá, bổ dụng các anh khác mẹ của Trần Dụ Tông là Trần Nguyên Trác làm Thái tể, Trần Phủ làm Thái sư, Trần Kính làm Hữu tướng quốc. Từ khi lên ngôi, Nhật Lễ thường bỏ bễ công việc, cho đón Dương Khương về triều để giữ chức Lệnh thư gia, muốn đổi lại họ Dương. Thấy Thái hậu Hiền Từ tỏ ý hối hận, Nhật Lễ ngầm sai đánh thuốc độc. Bất bình trước thói vô đạo đó, cha con Thái tể và các con của Công chúa Thiên Ninh đem theo tôn thất tìm giết Nhật Lễ nhưng không thành. Họ bị Nhật Lễ trả thù, sát hại nhiều người.
Lúc này, Thái sư Trần Phủ – người có con gái gả cho Nhật Lễ làm Hoàng hậu từ trấn Đà Giang cùng với các em của Trần Kính, Trần Nguyên Đán, Công chúa Thiên Ninh hội ở Thanh Hóa dấy quân. Các tướng sĩ được Nhật Lễ sai đi đánh dẹp đều chạy vào với Trần Phủ. Tháng 11 năm Canh Tuất (12-1930), Trần Phủ cùng Công chúa Diên Ninh đem quân về tới Kinh sư. Ngày 13 tháng 11 (23-12-1370), Nhật Lễ bị phế làm Hôn Đức công. Ngày 15 tháng 11 (25-12-1370) Cung Định vương Trần Phủ lên ngôi, đổi niên hiệu, tự xưng là Nghĩa Hoàng. Khi bị giam ở phường Giang Khẩu (nay là phố Hàng Buồm – Hà Nội), Nhật Lễ còn đang tâm giết chết Trần Ngô Lang – người đã xin giảm tội cho mình. Vì vậy, Nhật Lễ và con trai là Dương Liêu bị Trần Nghệ Tông trị tội chết.
Sự kiện Dương Nhật Lễ đánh dấu bước suy vi, bạc nhược của nhà Trần. Chính vì lẽ đó mà tháng 5-1371, dụ binh Chiêm Thành thể theo lời cầu cứu của Vương Mẫu – mẹ của Nhật Lễ đã tiến đến tận phường Phục Cổ ở Kinh thành, Trần Nghệ Tông chỉ còn biết đem quần thần chạy sang Đông Ngàn để mặc giặc vào đốt phá cung điện, cướp lấy con gái, ngọc lụa mang về. Rồi để lấy lòng Hồ Quý Ly, Du Tông lại đem em gái là Công chúa Huy Ninh, còn đang tang chồng gả cho viên Khu mật viện Đại sứ này. Tháng 12-1372, Nghệ Tông nhường ngôi cho em là Trần Kính – tức Duệ Tông. Kể từ đấy vị thế của họ Hồ càng nâng cao mà người Chiêm thì vẫn không ngừng vào cướp phá, đến nỗi Duệ Tông phải thân chinh đánh dẹp, chết ở trận tiền (2-1377). Thượng hoàng Nghệ Tông lại xuống chiếu lập con trai trưởng của Duệ Tông là Kiến Đức vương Nghiễn nối nghiệp – tiếp tục đối đầu với nạn cướp phá của Chiêm Thành và sự bành trướng thế lực của Hồ Quý Ly. Ngày 6-12 năm Mậu Thìn (26-12-1388), sau gần 12 năm múa may, uy quyền về hết tay người dưới, nhà vua bị giáng làm Linh Đức vương rồi buộc phải thắt cổ chết. Triều đình đưa con út của Thượng hoàng là Chiêu Định vương Trần Ngung thay thế – tức Trần Thuận Tông.
Dưới thời Thuận Tông, có hai chiến công đáng kể. Khoảng tháng 1-1390 Hoàng Phụng Thế đánh dẹp được cuộc nổi dậy của Phạm Sư Ôn; Trần Khát Chân cả phá quân Chiêm Thành – trong đó Đại đội phó Thương đô quân Long hiệp là Phạm Nhữ Lặc và Đầu ngũ là Dương Ngang giết được tướng giặc Nguyên Diệu, lấy đầu Chế Bồng Nga (Phạm Nhữ Lặc sau được làm Giám cấm Vệ đô, Dương Ngang được thưởng 50 mẫu ruộng).
Ngày rằm tháng 12 năm Giáp Tuất (29-12-1394), Thượng hoàng Nghệ Tông băng hà. Do đã hứa là không cướp ngôi nên đến ngày rằm tháng 3 năm Mậu Dần (23-4-1398), Hồ Quý Ly ép Thuận Tông nhường ngôi cho Hoàng thái tử Trần Án khi đó mới 3 tuổi để toàn quyền định đoạt mọi công việc của triều chính. Từ tháng 7-1399, Hồ Quý Ly tự xưng là Quốc tổ Chương hoàng đế, mặc áo màu bồ hoàng, ở cung Nhân Thọ, theo lệ thiên tử, ra vào dùng lọng vàng. Con là Hán Thương xưng là Nhiếp Thái phó ở bên hữu điện Hoàng Nguyên, Nguyên Trừng thì làm Tư đồ. Các giấy tờ thì đề là Phụng Nhiếp chính Quốc tổ Chương hoàng nhưng chưa dám xưng “trẫm”.
Ngày 28 tháng 2 Canh Thìn (15-3-1400), Quý Ly cướp ngôi, lập nên nhà Hồ, lấy quốc hiệu là Đại Ngu.
Ngay từ năm 1380, lợi dụng sự suy kiệt của nhà Trần, nhà Minh ra sức tạo sức ép để tìm cớ xâm lăng Đại Việt. Tháng 10-1384, nước Minh bắt đầu đánh Vân Nam, sai bọn Dương Bàn, Hứa Nguyên mang tờ tư của Hộ bộ sang Đại Việt để cấp cho quân đóng giữ Lâm An. Tháng 4-1385, lại sai sứ sang cầu 20 tăng nhân. Đầu năm 1386, bọn Lâm Bột được sai sang cầu giống các cây cau, vải, mít, nhãn vì nghe nói hoa quả phương Nam ngon, sai Lý Anh sang nói mượn đường đi đánh Chiêm Thành, đưa 50 thớt voi từ Nghệ An đủ cả cỏ ăn đem đến Vân Nam…
Vốn sẵn không ưa Đào Sư Tích, Nguyễn Ứng Long (tức Nguyễn Phi Khanh) nhưng vì cần người ứng đối giỏi nên Hồ Quý Ly xin với Thuận Tông cử hai người sang sứ nhà Minh. Về sự kiện này, Minh thực lục (Q. 244, tr.5b) cho biết:
“Ngày 10 tháng Hai năm Hồng Vũ thứ 29 (11-3-1396), Trần Nhật Côn (Thuận Tông) nước An Nam sai bọn bầy tôi là Thông phụng Đại phu Đào Toàn Kim (Sư Tích), Thiếu trung Đại phu Nguyễn Ứng Long (Phi Khanh) dâng biểu cống sản vật địa phương. Ban cho tiền giấy có sai biệt”.
Đoạn văn trên cho ta biết thêm, Đào Sư Tích còn có tên gọi khác là Toàn Kim, điều này là đúng vì phụ thân ông cũng được biết là ngoài tên Toàn Mân còn có các tên Toàn Bân, Toàn Môn, Tuyền Phú, Kim Bản. Đi sứ với ông đợt này còn có phụ thân của Nguyễn Trãi, điều mà chính sử nước ta từ trước tới nay chưa hề ghi chép.
Đào Sư Tích (1350-1396) vốn dòng dõi họ Dương ở Long Vĩ thuộc châu Cổ Pháp. Sau sự kiện năm Nhâm Thìn (1232) Trần Thủ Độ sát hại tôn thất nhà Lý ở Thái Đường, hầu hết gia đình các con của Lý Long Xưởng (Long Cao, Long Chính, Long Tính, Long Tình) bị sát hại, chỉ có gia đình Long Tích, Long Tự chạy lên vùng Yên Dũng – Bắc Giang và Long Tường vượt biển là thoát nạn. Con cháu Long Tích định cư tại làng Song Khê, tổng Phúc Tằng, huyện Yên Dũng mai danh ẩn tích, đổi sang họ Đào. Năm Giáp Thìn (1364), Đào Toàn Mân thi đỗ Hương cống, sau đó đậu Đệ nhị giáp Tiến sĩ, chuyển cư về Cổ Lễ – Tây Chân (nay thuộc thị trấn Cổ Lễ, Trực Ninh – Nam Định). Từ đây, con trai ông là Đào Sư Tích đi thi, đậu Trạng nguyên khoa thi Giáp Dần (1374). Năm Tân Dậu (1381), Đào Sư Tích được bổ làm Nhập nội Hành khiển Hữu ty lang trung, Đào Toàn Mân làm Tri thẩm Hình viện sự, Lễ bộ Thượng thư. Một thời gian sau, khi phụ thân qua đời, Đào Sư Tích nhận thấy triều đình ngày càng đổ nát nên cáo quan. Chính trong khoảng thời gian đó, Trạng nguyên mới biết họ Đào của mình cùng gốc với họ Dương của khởi tổ Dương Đình Nghệ, nhân đó mà làm bài thơ Lão ngữ chư tử dặn dò kỹ lưỡng cháu con phải biết lo phần mộ hoặc tổ tiên ở Kẻ Giàng – Dương Xá và Tùng Khê nơi mình đang ở. Rồi khi bị Hồ Quý Ly triệu đi sứ sang nhà Minh, ông lại kịp cho dòng họ chuyển sang họ Phạm, họ Nguyễn đề phòng bị trả thù sát hại. Sau này thời thế yên bình họ hàng mới trở lại họ xưa. Đến nay, Cổ Lễ có hai nhà thờ họ Dương (Dương Cả, Dương Nhì) là vì thế.
Theo Ngọc phả lưu truyền (Lương y Dương Văn Tất sưu tầm, dịch thuật) thì Mẫu thân của Đào Sư Tích quê ở làng Lý Hải (huyện Bình Tuyền, phủ Phú Bình – Thái Nguyên, nay thuộc xã Phú Xuân, Bình Xuyên – Vĩnh Phúc), có thể trong thời gian từ quan, ông cho con cháu về quê ngoại và trước khi đi sứ đã kịp đổi họ Đào ở đây sang họ Nguyễn. Đại Nam nhất thống chí. Sơn Tây tỉnh đã minh chứng điều này khi ghi chép về Nguyễn Sư Phổ là “người xã Lý Hải huyện Yên Lãng, đỗ Tiến sĩ năm Đoan Khánh (1508), làm đến Hàn lâm viện Kiểm thảo, ông vâng mệnh đi sứ, khi trở về, gặp lúc Mạc Đăng Dung bắt ép vua Chiêu Tông dời đến Bảo Châu, ông không theo, bị họ Mạc bắt. Tương truyền Sư Phổ nguyên họ Đào, dòng dõi của Trạng nguyên Đào Sư Tích”.
Ngoài ra, còn nhiều chi họ Đào có thể cũng đổi sang họ Nguyễn vào thời này khi đến cư ngụ ở Cổ Am (Vĩnh Lại – Hải Dương, nay thuộc Vĩnh Bảo – Hải Phòng) Tân Phong (tổng Thái Phú – Vũ Tiên, nay thuộc Vũ Thư – Thái Bình) Thọ Mai (tổng An Xá, huyện Duyên Hà – nay là thị trấn Duyên Hà, Hưng Hà – Thái Bình), Hồng Sơn (tổng Phù Lưu, nay thuộc xã Thanh Sơn, Kim Bảng – Hà Nam), Thượng Xá (tổng Đặng Xá – Nghi Lộc, Nghệ An). Tấm bia Tự sự nghiệp bi dựng tại Từ vũ thôn Chu Xá (Đạo Khê, Yên Mỹ – Hưng Yên) ghi rõ, Nguyễn Đức Nhuận vốn từ họ Dương mà chuyển sang họ Nguyễn, không rõ có phải vào thời kỳ này không. Riêng một chi giữ nguyên họ Đào chuyển cư vào Văn Lâm – Tam Cốc thuộc Thanh Hóa Ngoại – nay là Ninh Bình.
- Giành lại chủ quyền, thích ứng với các biến cải dưới thời Lê – Mạc, Lê Trung hưng và Nguyễn
Mượn chiêu bài Phù Trần diệt Hồ, mùa xuân năm 1406 nhà Minh cho tên Việt gian Nguyễn Khang đổi tên là Trần Thiêm Bình đi theo hàng vạn quân Minh do Hoàng Trung tràn vào Đại Ngu. Bị đẩy lui, nhà Minh lại cho Chu Năng đeo ấn Chinh Di tướng quân hùng hổ lên đường nhưng phải bỏ dơ cuộc chiến vì viên Tổng binh này bị ốm chết giữa đường. Liền sau đó, nhà Minh phát động cuộc xâm lăng mới vào ngày 19-11-1406 với 80 vạn quân do Trương Phụ – Trần Húc và Mộc Thạnh – Lý Bân theo 2 ngả tiến vào Thăng Long. Trong khi quân đội triều đình của cha con họ Hồ thua chạy khắp nơi thì quân xâm lược vấp phải sức kháng cự mãnh liệt của các đội dân binh và quân khởi nghĩa tại khắp các địa bàn. Các thủ lĩnh Dương Khắc Chung, Dương Thế Chân thì đứng trong hàng ngũ của tôn thất họ Trần từ năm 1409; thủ lĩnh Dương Cao Thiêm cầm đầu cuộc khởi nghĩa tại châu Vạn Nhai – Lạng Sơn năm 1411; thủ lĩnh Dương Tiến Giang nổi dậy ở Thái Nguyên năm 1415. Gây cho kẻ thù nhiều thiệt hại nặng nề là cuộc khởi nghĩa do Dương Cung phát động vào năm 1420. Đại Việt sử ký toàn thư ghi: “Người làng Chàng Kinh huyện Thủy Đường là Lê Ngã, đổi họ tên làm Dương Cung, tự xưng là Thiên thượng Hoàng đế, đặt niên hiệu là Vĩnh Thiên. Ngã vốn là gia nô của Trần Thiên Lại, tướng mạo đẹp, thường đi chơi bốn phương, ai cũng cung nuôi. Lại trá xưng là lính hầu của Mã Kỳ, hống hách các châu huyện, làm kế nuôi mình. Thấy Công Chứng, Phạm Ngọc, Phạm Thiện đua nhau dấy quân, Ngã bảo với người quen biết rằng: “Các anh có thích phú quý không? Ai thích thì theo ta đi”. Ngã bèn đến huyện Đan Ba ở Lạng Sơn, trá xưng là cháu bốn đời của Trần Duệ Tôn từ nước Lão Qua về. Phụ đạo ở Đan Ba là Bế Thuần gả con gái cho và lập làm vua. Trong khoang mấy tuần một tháng, có quân hơn vài vại người, đến Yên Bang giữ trại Hồng Doanh. Khi Công Chứng và Phạm Ngọc đã thất bại, dư đảng theo về với Ngã, thành ra có quân đến vài vạn người. Ngã tiếm xưng tôn hiệu, đặt niên hiệu, đặt quan, đúc tiền, đốt thành Xương Giang, cướp trại Bình Than. Có người biết rõ là Ngã cũng không dám nói. Thiên Lại đến xem, ra ngoài nói rằng: “Nó là gia nô của ta, lạy nó làm gì”. Bèn rời thuyền trốn đi. Ngã đuổi theo không kịp. Thiên Lại gửi hịch cho huyện bên cạnh, tự xưng là Hưng vận Quốc thượng hầu, đem quân đánh nhau với Ngã, bị Ngã giết chết. Lý Bân đem đại quân thủy bộ đến đánh. Ngã và Thuấn đều trốn đi đêm, không biết đi đâu”[27].
Không bắt được Dương Cung, Lý Bân tìm cách cho người đóng thế. Đại Việt sử ký toàn thư cho biết: “Lý Bân và nội quan là Lý Lượng bắt Phạm Luận là sinh viên ở huyện Giáp Sơn mạo là Dương Cung để tắc trách đối với chiếu mệnh lùng bắt, bắt đến cả gia thuộc của Luận là bọn Phạm Đỗ, đưa về Yên Kinh. Tri huyện là Đặc Khiêm làm chứng là không phải tên Cung, bọn Bân không nghe. Khiêm lấy bao vàng dâng đại cáo tâu thẳng về Yên Kinh. Bân sai người chặn đường bắt về. Hoàng Phúc khuyên Khiêm rằng: “Mọi người đều nhận là đúng, chỉ riêng anh bảo không phải là làm sao?”. Khiêm nói: “Ai có thể ra ngoài mà không qua cửa ngõ?”. Bân cho giải cả Khiêm và Luận về Yên Kinh, giao xuống cho pháp tư xét hỏi. Khiêm suýt nữa bị tội, vì anh của Khiêm đánh trống đăng văn khiếu oan được hỏi tội. Rồi sau thăng đầu đến chức Hữu bố chính sử nước ta. Gia thuộc của Luận rốt cuộc bị chết ở trong ngục”[28].
Dưới ách thống trị của nhà Minh, nhiều gia đình hào phú, thổ quan thuộc họ Nguyễn, Lương, Đỗ bị đưa sang Yên Kinh phục dịch việc xây dựng đền đài, cung điện – trong đó có cả gia đình Dương Cự Giác. Tuy nhiên, không ít người thuộc dòng họ Dương Long Vĩ như Dương Thái Nhất, Dương Công Đình, Dương Công Táo, Dương Huyền Trung đã có mặt trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Năm 1427, khi Lê Lợi chưa quét sạch giặc Minh, Án sát Dương Thì Lợi được mời tham gia tổ chức kỳ thi Hội đầu tiên, Dương Thái Nhất được giao việc sửa chữa đền thờ Hưng Đạo vương. Sau đại thắng bình Ngô, Dương Công Đình trở thành Nội giám, Dương Công Tảo được cấp thực ấp rộng 500 mẫu để lập làng Thụ Triền (nay thuộc xã Cảnh Hưng, Tiên Du – Bắc Ninh). Năm 1435, Dương Huyền Trung được cử làm Hộ bộ Chủ sự Linh đài lang, chuyên trông coi việc biên soạn lịch cho nhà nước.
Đất nước thanh bình chưa được bao lâu, nội bộ nơi cung cấm bắt đầu bộc phát sự tranh giành ảnh hưởng, địa vị, điển hình như vụ án tháng 4-1440 giáng Hoàng hậu Dương Thị Bí – mẹ của Lê Nghi Dân xuống làm “thứ phụ”. Nguyên là, ngày 21 tháng Giêng năm Canh Thân (14-2-1440), Lê Thái Tông lập con trưởng là Lê Nghi Dân làm Hoàng thái tử nhưng vào tháng Giêng năm sau lấy cớ mẹ của Nghi Dân “cậy mình, tỏ vẻ kiêu căng, vua đã nín nhịn dung thứ giáng xuống làm Chiêu Nghi muốn cho đổi lỗi nhưng Dương Thị Bí càng để lòng tức giận, không kiêng nể gì” nên xuống chiếu cho làm đàn bà thường (thứ phụ), ban bố cho thiên hạ biết là chưa định ngôi Hoàng thái tử vì người đàn bà mà lắm dụng tâm thì con chưa chắc là người khá[29].
Có lẽ bất mãn vì việc trên, Thổ tù Dương Thắng Kim ở sách Thám Giá (Tuyên Quang) trong nhiều năm liền kiên quyết không nộp phú dịch cho triều đình. Tháng 12-1448, Kim đã liên kết với Nông Thế Ôn ở châu Bảo Lạc, Nguyễn Châu Quốc ở Mường An đồng tâm hiệp lực chống đối, khiến nhà vua phải cử Tổng quản Lê Luân đem quân đi đánh dẹp.
Ngoài vụ án đã kể, nhiều năm sau đó, một số quan lại họ Dương có vẻ không nhận được nhiều cảm tình của triều đình như Dương Đình Tú làm việc cẩu thả, Dương Quốc Minh, Dương Minh Phong bị coi dính vào tội hối lộ, Đãi chế Dương Như Châu do học nghiệp không tấn tới phải ra làm Hồng lô Tự thừa.
Mặc cho những trắc trở, cản ngăn, nhiều quan lại họ Dương vẫn đem tài năng và công sức phục vụ dân nước như năm 1448, Dương Chấp Trung được cử làm Khởi xá Cư nhân, sau làm Chuyển vận sứ huyện Thủy Đường. Tuy nhiên, phải đến thời Lê Thánh Tông, quan trường của họ Dương mới thực sự khởi sắc như Dương Đức Nhan được làm tới Hình bộ Hữu thị lang Dương Xuyên hầu; Dương Tông Hải đi sứ, khi trở về được làm Đô cấp Sự trung, Thượng bảo Tự khanh chăm lo dạy binh pháp, luyện rèn sức khỏe cho binh mã; Dương Bang Bản sau khi đi sứ được làm Đô cấp Sự trung Lại khoa rồi thăng Lễ bộ Thượng thư, Thiếu bảo Đông các Học sĩ kiêm Quốc tử giám Tế tửu, biên soạn thành công bộ Đại Việt tổng khảo luận nên được ban quốc tính là Lê Tung; Dương Trực Nguyên trở thành một vì sao trong Nhị thập bát tú của Hội Tao đàn do Lê Thánh Tông đứng đầu; trải qua nhiều chức vụ quan trọng của triều đình (Phủ doãn phủ Phụng Thiên, Tả thị lang Binh bộ, Tả thị lang Lễ bộ, Đô ngự sử Ngự sử đài), là người đề xuất việc đắp đê trên sông Tô Lịch đoạn từ Trát Kiều đến Cống Xuyên và Khai cừ từ An Phúc xuống Thượng Phúc; Tham nghị Dương Tĩnh được giao chăm lo việc nông tang.
Nắm giữ quyền bính gần trong một thế kỷ, nhà Lê sơ lại quay ngược tình thế như thời Lý – Trần với vết nứt gãy cực kỳ nguy hiểm. Nếu nhà Lý mới qua 4 đời vua thì chuyển cho con cháu họ Dương điều hành tiếp, êm ái và có vẻ liền mạch; nhà Trần trải 8 đời vua, đã để Dương Nhật Lễ trồi lên rồi phẳng lặng thêm vài đời đầy rối ren, cuối cùng mất vào tay nhà Hồ để đất nước chìm đắm suốt 20 năm dưới ách đô hộ của nhà Minh thì nhà Lê sơ, trăm năm cai trị trong lúng túng và quẩn quanh rồi qua tay họ Mạc, gây nên tình trạng Nam triều – Bắc triều nồi da nấu thịt, huynh đệ tương tàn. Đến khi Trung hưng trở lại thì vua Lê chỉ còn hình bóng, thực quyền nằm hết trong tay chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, mất hẳn dân tình ở Đàng Trong bởi các chúa Nguyễn. Sự vòng vo và trớ trêu của lịch sử đã khiến cho không ít quan chức họ Dương ở vào thế khó xử và phân tâm. Vì thế mà, ngay từ năm 1522, trong khi Lê Chiêu Tông còn tại vị dù trên danh nghĩa, Dương Kim Cao, Dương Khải phải chấp nhận việc đưa Hoàng đệ Xuân lên ngôi; năm 1540, Dương Duy Nhất – vừa đỗ Tiến sĩ được 2 năm đã phải theo Mạc Đăng Dung lên Nam Quan thụ mệnh.
Lại có những trường hợp chạy qua chạy lại, cuối cùng là mất phương hướng. Đó là Dương Chấp Nhất, một hoạn quan triều Mạc Đăng Dung, năm 1532 làm tới chức Tổng trấn, tước Trung Hậu hầu, Đại tướng quân, cai quản trấn Thanh Hóa để khống chế quân của Thái sư Hưng Quốc công Nguyễn Kim. Khi Nguyễn Kim đánh chiếm các nơi ở Thanh Hóa, Trịnh Kiếm đem đại binh đánh Mạc, Dương Chấp Nhất đầu hàng ngay, trở thành tướng của Trịnh Kiểm. Năm 1545, Nguyễn Kim cùng vua Lê Thánh Tông đi đánh nhà Mạc vùng Thanh Hóa và Sơn Nam Hạ, đến huyện Yên Mô (Ninh Bình) đóng quân, Nguyễn Kim đã bị Dương Chấp Nhất đầu độc. Sau khi giết Nguyễn Kim, ngay trong đêm, Chấp Nhất bỏ trốn, tìm cách về, được Mạc Phúc Hải tiếp nhận.
Năm 1592, nhà Mạc bị đánh bại nhưng ba anh em Dương Quốc Minh, Dương Hồng Lương, Dương Hồng Lượng vẫn lập căn cứ, mộ quân chống lại nhà Lê ở Cầu Vồng – Yên Thế. Tháng 8 năm Đinh Dậu (1597) “tướng thổ trước huyện Đông Ngàn là Thuần Quận công Trần Đức Huệ và con là Trần Đức Trạch tự xưng là Sầm Quận công mưu làm phản, cùng với tướng thổ trước huyện Yên Thế là cha con Thế Quận công Dương Văn Cán đều đem con em trốn đi theo đảng ngụy. Tiết chế Trịnh Tùng chia quân sai con là Chưởng cẩm y vệ Hùng Lương hầu Trịnh Đào đi đánh, chém được đồ đảng. Bọn Đức Trạch, Văn Cán đem con em chạy xa”[30].
Hàng chục thủ lĩnh khác ở trấn Hải Dương theo gương họ Dương Kinh Bắc cũng nổi lên chống lại nhà Lê Trung hưng như “Thúy Quận công (không rõ tên) người huyện Thủy Đường, Lễ Quận công (không rõ tên) người huyện Nghi Dương, đều đem quân làm phản, bắt người cướp của ở các huyện xứ Hải Dương, đánh úp giết chết tướng tuần phủ là Huê Kiểu hầu (không rõ tên) và huyện quan bản huyện. Lại có anh em Quỳnh Quận công và Thụy Quận công ngụy (đều không rõ tên) ở huyện Tân Minh tụ họp đồ đảng, đi đến đâu là hiếp cướp nhân dân, cùng liên kết với bọn Thủy Quận công, Lễ Quận công, có đến vài nghìn quân. Nhân dân các huyện xứ Hải Dương sợ tàn ngược, đều phải tuân theo”[31].
Lại có viên quan đổi từ họ Dương sang họ Ngô không rõ nguyên cớ như Đĩnh Quận công Dương Công Mỹ, từng giữ chức Chánh Vương phủ, Phó Vương phủ Lưỡng triều, Chưởng Thái giám, Tổng quản Kinh Bắc – Thái Nguyên kiêm Tri thị nội Thư tả vệ môn, 2 lần đi sứ phương Bắc; có phụ thân là Dương Phúc Tâm từng làm đến Thái bảo An Hòa hầu, mẹ họ Ngô hiệu là Từ Chính. Tấm bia dựng ở lăng của ông tại thôn Thái Thọ – còn gọi là làng Cả (nay thuộc xã Thái Sơn, Hiệp Hòa – Bắc Giang) tạo tác vào năm Trịnh Đức3 (1655) và tấm bia Thụ đức quang từ bi khắc năm Thịnh Đức 4 (1656) đặt tại nhà thờ Ngô Tướng công ở làng Như Nguyệt (nay thuộc xã Tam Giang, Yên Phong – Bắc Ninh) chỉ rõ Ngô Tướng công vốn họ Dương, có Tiên tổ khảo được phong Thái bảo Vĩnh Phúc hầu, được ca ngợi là người văn võ toàn tài, khiêm tốn, đức độ. Cùng thời điểm này, chi Dương Bá ở Đại Bái (Gia Bình – Bắc Ninh) đổi sang họ Nguyễn Bá.
Trái ngược với trường hợp trên, con cháu Hoàng giáp Ngô Văn Phòng quê ở Phù Vệ (Đường Hào – Hải Dương, nay thuộc Kim Thư, Hưng Yên) lại đổi sang họ Nguyễn rồi sang họ Dương Ngô.
Con trai Ngô Văn Phòng là Mậu Đôn, đỗ Tiến sĩ đời Lê Cung hoàng, làm quan cho nhà Lê một thời gian rồi đổi sang họ Nguyễn, phục vụ nhà Mạc, làm đến Binh bộ Thượng thư. Một người con của ông là Nguyễn Thân Bế chuyển cư về Hoa Đường (Đường An – Hải Dương) là cha của Nguyễn Dụng – Hoàng giáp khoa thi Nhâm Thìn (1592) thời Mạc Mậu Hợp, được cử đi sứ, khi trở về theo nhà Lê. Một người con khác của Mậu Đôn là Mậu Du, đậu Tiến sĩ khoa thi Ất Mùi (1565) thời Mạc Mậu Hợp, làm đến Giám sát Ngự sử trở về họ Ngô. Mậu Du có hai con trai. Con trai cả là Ngô Văn Chính, đỗ Tiến sĩ khoa Kỷ Sửu (1647) thời Lê Thần Tông, làm đến Phụng Thiên Phủ doãn. Con trai thứ là Ngô Phúc Lộc, đỗ tứ trường, vợ là Quận chúa Dương Thị Lệ Chi, được các con là Phúc Lan, Phúc Trạch, đổi thành họ Dương Ngô. Sau Phúc Lan sinh Dương Ngô Uyên. Con cả của Dương Ngô Uyên là Dương Đăng Bảo – tức Hoàng Đình Bảo, Hoàng Tố Lý sau này; còn Phúc Trạch sinh được 6 con trai, trong đó có Dương Quốc Cơ.
Như vậy, cuộc tranh giành quyền lực và cuộc chiến tranh Nam triều – Bắc triều đã làm đảo lộn xã hội Đại Việt tới non một nửa thế kỷ nhưng dư âm của nó vẫn vần vũ trong từng dòng họ, xóm làng đến hàng trăm năm sau.
Trong cuộc tranh giành quyền lực Nam triều – Bắc triều còn có không ít sĩ tử chọn cách từ bỏ quê hương, từ quan dạy học như Hương cống Dương Tốn không nhận quan tước của nhà Mạc, đưa gia quyến từ Hải Dương vào lập nghiệp ở Quỳnh Lưu (Nghệ An), Dương Liên sang Trung Quốc thi đậu đến Trạng nguyên; Dương Cương Thiện – con trưởng Trạng nguyên Dương Phúc Tư từ quan lên Vĩnh Mỗ (Sơn Tây, nay thuộc Vĩnh Phúc) dạy học.
Tuy nhiên, vẫn còn nhiều người trong dòng tộc chọn con đường làm quan cho cả Nam triều – Bắc triều để được cống hiến hoặc làm vẻ vang cho làng xóm.
Dưới triều Mạc, Tiến sĩ Dương Xân đảm nhiệm chức vụ Thừa chánh sứ đạo Hưng Hóa rồi tiến dần lên Hữu thị lang Hình bộ tước Hầu Diên bá; con trai ông là Dương Văn Hành là Đại phu Thanh hình Hiến ty kiêm Nho sinh học sĩ Hoằng tín Đại phu.
Ngoài ra còn có Dương Hạng (con Dương Trực Nguyên), Dương Đôn Cương (cháu Dương Tĩnh), Dương Trí Trì, Dương Duy Nhất, Dương Ức đều là những bậc khoa bảng, danh thần, có nhiều công sức giúp các đời vua nhà Mạc, củng cố chính quyền, thực hành các chính sách đối nội tiến bộ, khuyến khích phát triển nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp, nhất là ngoại thương, tôn trọng chữ Nôm, phát triển nghệ thuật, mở mang việc giáo dục, đưa việc thi cử vào nề nếp, định kỳ mở các khoa thi hội, thi đình, kén chọn được nhiều hiền tài giúp nước, giúp dân. Tuấn Quận công Dương Văn An có công biên soạn Ô Châu cận lục gồm 8 quyển, ghi rõ núi sông, thành trì, phong tục, danh nhân vùng Thuận Hóa từ khi mới khai khẩn đến giai đoạn Nam tiến. Trạng nguyên Dương Phúc Tư năm 1547, thời Mạc Phúc Nguyên, làm đến Bình bộ Thượng thư, Tham chính, Đông các Hiệu thư, Thiếu bảo. Ông lấy hiệu là Nốt Trai tiên sinh, sau về ông dạy học ở Cổ Sái (Cổ Liễn, Sơn Tây), đào tạo được nhiều môn sinh, con cháu đỗ đạt cao, trong đó có cả Trạng nguyên, Tiến sĩ.
Đối với triều Lê Trung hưng, họ Dương góp nhiều tài tướng, văn thần. Tháng 6-1656, tướng Đàng Trong là Dương Trí đem quân đánh vào cửa biển Nam Giới, tiến vào sông Lam. Tướng Đàng Ngoài là Dương Hồ đóng giữ Hương Bộc và Đại Nại, nhờ “khí trung nghĩa phát ra hăng hái, cưỡi voi lên trước, chỉ huy các quân tiến thẳng lên “đuổi chạy được Dương Trí, thu nhiều vũ khí và voi ngựa. Triều đình đã tưởng thưởng Dương Hồ từ Đốc thị lên Công bộ Tả thị lang Thọ Lâm bá, lại cho mở phủ Dương Uy.
Tháng 6-1659, sau khi hoàn thành nhiệm vụ đi sứ, Dương Trí Trạch đã dâng sớ xin nhà vua kiệm ước trong việc làm trường thi để dân tình đỡ hao tổn tài lực, tâu xin trong phép trị nước dùng cả văn võ, “đường lối trí trị là thưởng phạt cho đúng. Võ tướng thì chống ngăn quân giặc để bảo vệ nhà nước, biết ước thúc nghiêm minh, theo mệnh ra sức, để nên công việc, thì tùy theo công lao mà ban thưởng; hoặc người nào dùng dằng nhát sợ, hành quân trái luật, thì lấy quân luật trị tội. Đó là phép thường dùng để khuyên răn, rất là nghiêm ngặt. Văn thần thì nên giúp vua thương dân, để tô điểm thái bình, nếu biết giữ thanh liêm, chăm việc, ngay thẳng, để xứng chức vụ, thì tùy theo chính tích mà khen thưởng, hoặc người nào thừa hành công việc, cũng là xét hỏi kiện tụng, nếu không đổi lỗi trước mà cứ uốn phép hối lộ, để chậm quá kỳ, xét xử không đúng, câu kết bè đảng, vì ân nghĩa riêng mà nhận lời thỉnh thác, làm nhiều nhũng tệ, đến nỗi nát chính hại dân, tội nhẹ thì xử giáng bãi, tội nặng thì xử theo quân luật, để bỏ hết thói tệ, cho nghiêm phép nước”[32].
Tháng 10-1659, Nguyễn Phúc Tần từ châu Thuận Hóa lại sai Thận Nghĩa, Chiêu Vũ đem quân lấn vào Nghệ An, khí thế rất mạnh, khiến cho các tướng Đàng Ngoài thì kẻ chết trận (Mẫn Văn Liên, Trần Công Bách, Đinh Đức Nhuận), người bị giáng chức – trong đó có Dương Quỳnh.
Tháng 12-1664, triều đình xét công đi sứ, cho Dương Hạo làm Tả thị lang Công bộ, thăng tước Bá. Tháng 10-1667, Mạc Kính Vũ chiếm cứ Cao Bằng, Tiết chế Trịnh Căn đem quân tiến đánh. Dương Hạo cùng Nguyễn Năng Thiệu, Lê Sĩ Triệt, Hồ Sĩ Dương, Nguyễn Văn Thực, Trương Luận Đạo được cử làm Đốc thị mang quân phối hợp.
Bước sang thế kỷ XVIII, những người thuộc họ Dương có những thăng trầm khác nhau.
Về đường quan hoạn, Dương Công Chú được Trinh Doanh đưa vào phủ chúa dạy dỗ cho Thiếu bảo Trịnh Sâm, được tặng Thái bảo, gia công tước Công; Dương Khuông – em trai của Dương Thị Ngọc Hoan được phong làm Quản binh tước Hầu. Trong khi đó, Dương Sĩ Long, Dương Văn Tăng khởi nghĩa ở Thái Nguyên bị đàn áp khốc liệt, Dương Trọng Khiêm – còn gọi là Trọng Tế bị giáng chức, về sau có nhiều hành động sai trái với vua Lê; Dương Sử mắc tội trong việc tổ chức thi cử; Dương Đình Tuấn thì kiên trì chống lại anh em Tây Sơn; phò mã Dương Bành bị giết hại vì đầu hàng.
Trong đội quân Tây Sơn tiến ra Bắc, Dương Văn Rẽ, Dương Thất Nguyên, Dương Công Tào và Dương Hữu Vịnh có nhiều đóng góp, lập nhiều chiến công.
Năm 1802, nhà Tây Sơn mất, nhà Nguyễn ra đời. Theo tộc phả họ Đào – Phạm – Dương – Nguyễn (Đông Trang – Ninh Bình), khởi tổ của nhà Nguyễn là Nguyễn Kim vốn được sinh ra từ một nhánh họ Nguyễn chuyển từ họ Đào thời Trạng nguyên Sư Tích chuẩn bị đi sứ nhà Minh (1396). Đây là một tồn nghi của lịch sử cần nhiều minh chứng thì việc đúng sai mới sáng tỏ nhưng dù sao cũng là một gợi ý đợi chờ lời giải đáp một cách khoa học và thuyết phục của giới sử học.
Từ trước khi nhà Nguyễn được thành lập, sử sách đã ghi nhận công lao đóng góp của Dương Công Trừng từ năm 1765 đến năm 1785 ở vùng đất mới Sa Đéc, Trà Vinh, Gia Định, từng bị quân Tây Sơn bắt giam rồi trốn sang được Xiêm La, mang quân trở về chiến đấu tại Long Xuyên; của Thị thư viên Dương Văn Chiêu (1794).
Sau vài năm sắp xếp lại cơ đồ, Gia Long cho Dương Công Tòng làm Tham biện Kinh Bắc, Dương Vịnh làm Trợ giáo Sơn Nam Thượng. Bắt đầu từ năm 1806, Gia Long phải đối đầu với cuộc khởi nghĩa lớn do Dương Đình Cúc – Dương Đình Tự cầm đầu, lúc đầu có căn cứ ở Thần Sa – Thái Nguyên, ra vào rơi rừng rậm, hoành hành ngang dọc khiến quân triều đình nhiều năm không dò được tung tích. Năm 1810, “Trấn thủ Thái Nguyên là Nguyễn Đình Tuyển đuổi bắt rất gấp, [Dương Đình] Cúc lập mưu hoãn binh, bèn sai anh là [Dương Đình] Tự đến cửa quân đầu hàng. Đình Tuyển tin lời đóng quân ở La Miệt muốn chiêu dụ [Dương Đình] Cúc. Ngay đêm hôm đó [Dương Đình] Tự trốn đi, bị quân đi tuần đâm chết. Đình Tuyển bèn lùa quân đi tìm thì [Dương Đình] Cúc đã trốn xa”[33]. Đến năm 1820, Dương Đình Cúc tôn Lê Duy Khang làm Minh chủ, tự xưng là Quận công, có trong tay lực lượng lên đến 800 người. Đầu năm 1821, triều đình sai Ngô Văn Vĩnh, Lê Văn Sách cùng Trấn thủ Thái Nguyên Phan Văn Hài đem binh voi tiến đánh, chém được 30 đầu và bắt được 40 người. Dương Đình Cúc chạy đến Đức Lân (Phú Bình – Thái Nguyên) thì bị bắt.
Trong những lần đánh dẹp này Cai hợp Dương Văn Quế bị trúng đạn của nghĩa quân, chết ở Đường Lang (Võ Nhai – Thái Nguyên).
Dưới thời Minh Mệnh nhiều người họ Dương được bổ chức quan như Dương Đức Trung làm Đốc học Kinh Bắc, Dương Quỳnh làm Giáo thụ Bình Thuận, Dương Văn Trí làm Vệ úy, Dương Công Trang làm Tham biện Quảng Yên, Dương Phúc Vinh làm Ngự sử đạo Hải An rồi Án sát sứ Bình Định. Lại có trường hợp như Dương Văn Phong giữ chức Cai đội trong dịp đánh Nông Văn Vân ở Cao Bằng, bị nghĩa quân bắt được; Dương Văn Thái nổi dậy ở Tiên Minh (Tiên Lãng – Hải Phòng). Đặc biệt có Dương Xuân Chiêm người Lạc Thổ – Siêu Loại (nay thuộc Thuận Thành – Bắc Ninh) cuộc đời làm quan vô cùng lận đận, trải qua Tri huyện An Lão (1824), Binh bộ Chủ sự rồi Tri phủ Lâm Thao (1829), bị cách chức vì sang sửa phủ thành không đúng quy cách; được phục hồi làm Giáo thụ Kiến Xương, coi quản Thủy Nguyên được hơn một năm thì bị miễn chức (1836). Đối với Tri phủ Đa Phúc Dương Thế Thịnh cũng bị thăng giáng liên tục; Tham hiệp Cao Bằng Dương Tam vì bao che nên bị lưu đày; Quản cơ Dương Văn Đạc bất lực trong việc dẹp giặc biển bị giáng làm lính thường. Các thổ ty Dương Đình Cẩm ở Chợ Chu (Thái Nguyên), Thủ lĩnh Dương Ba An ở Quảng Yên cũng lúc yên lúc động.
Trong khoảng thời gian Thiệu Trị tại vị, tình hình có vẻ yên ắng hơn, ngoại trừ cuộc nổi dậy của Đầu mục Dương Đình Loan đem người đánh phá huyện nha Phú Lương (Thái Nguyên) năm 1841. Những người họ Dương ra lĩnh chức hầu hết đều thuộc ngạch võ quan như Phó lãnh binh Quảng Nam Dương Đình Lâm, Cai đội An Giang Dương Phúc Tứ, Phó quản cơ Dương Văn Hưu, Phó vệ Dương Thai, Hiệp quản Dương Trung. Năm 1842, Tổng mục Dương Văn Sách – người huyện Duyên Hà, tỉnh Hưng Yên (nay thuộc Thái Bình) dâng triều đình bộ sách cổ Cố Lê chiếu lệnh.
Sau mấy năm có vẻ thanh bình, sóng gió đã nổi lên khắp thời Tự Đức trị vì. Nông dân nổi dậy khắp cả các vùng. Ở phía Bắc, nhiều toán tàn dư của phong trào Thái Bình thiên quốc trở thành các nhóm thổ phỉ, hải phỉ ngông cuồng và càn rỡ, đi đến đâu là cướp phá, tàn hại dân thường. Đầu tháng 9-1858, quân Pháp nổ súng tấn công vào Đà Nẵng mở đầu cuộc xâm lược Đại Nam, gậm nhấm Nam Kỳ, thâu tóm Bắc Kỳ giầu có. Chính vì những lẽ trên, trong sử nhà Nguyễn lại hiện lên hình ảnh Đầu mục Hải Dương là Dương Đình Phối (1855), Cai đội Dương Văn Thuật, Hậu quân Dương Văn Tiến giương ngọn cờ Phù Lê diệt Nguyên (1858) phải ra chốn pháp trường; Thủ lĩnh vùng Thái Nguyên Dương Đình Tín – người tự xưng là Trung quân Phó đô đốc dẫn 24 đầu mục, 290 nghĩa quân quy hàng (1875). Cũng chính hoàn cảnh ấy đã đưa đẩy nhiều người họ Dương tiến thân bằng con đường võ lược như Ngự sử Dương Công Bảng, Ngọc sử Dương Quán, Án sát Dương Gia Huấn, Suất đội Thủy sư Dương Cù, Hiệp quản Dương Phúc Tư, Quản vệ Dương Văn Thiện, Quản vệ Dương Viết Chiến, Bang biện Dương Uyển, Suất đoàn Dương Văn Quế, Lãnh binh Dương Thành hoặc nhiều người đã ngã xuống như Dương Đình Khuông, Dương Đức Đạo, Dương Đức Khuê trong lúc giao tranh. Tại các vùng binh lửa, Phó lãnh binh Dương Trọng Hóa lập nhiều công tích ở Thanh Ba, Tri huyện Dương Danh Lương ở Gia Viễn, Dương Vịnh ở Bình Định, Dương Đức Thông ở Lạng Sơn. Đặc biệt Phó tổng Dương Đình Vĩnh ở Úc Sơn (Phú Bình – Thái Nguyên), Cai tổng Dương Văn Phối ở Đông Anh còn được hậu thưởng vì cùng dân làng dũng cảm chống lại thổ phỉ từ nước Thanh tràn sang. Dân làng Úc Sơn được triều đình ban tặng biển ngạch mang lời khen tặng Úc Sơn nghĩa dân.
Khi Pháp đánh chiếm Đà Nắng, trong đội quân của Phạm Văn Nghị vào Trung Kỳ trợ chiến có mặt Dương Văn Khôi. Pháp tấn công gậm nhấm Lục tỉnh Nam Kỳ, xuất hiện các tấm gương dũng cảm Dương Văn Hạnh, Dương Văn Mưu.
Nổi bật trong thời kỳ này là một số bậc danh nho như:
– Dương Doãn Am, quê Quỳnh Lưu – Nghệ An, thi đậu Cử nhân thời Thiệu Trị, năm 1860 trong khi đang giữ chức Án sát Thanh Hóa thì đổi sang Ninh Bình, lập nhiều công đánh dẹp ở Nho Quan, được thăng Bố chánh Thanh Hóa (1861), Hộ lý Võ khố, Tán lý Quân vụ Hải An (1864). Sau một thời gian bị ngưng chức, năm 1870 ông lại được bổ Thị giảng Tán lý Quân vụ theo Hoàng Tá Viêm giữ yên vùng Ninh Thái, chiêu mộ dân khai hoang mở đồn điền Tân Hóa; năm 1878 được thăng Quang lộc tự Thiếu khanh, Tán lý đạo Sơn Hưng Tuyên.
– Dương Danh Thành, quê Tiên Du – Bắc Ninh, đỗ Hương tiến năm 1837, thi Hội trúng cách, nhưng can viết trang sai, lầm can công lệnh, giao bộ Lại luận tội, lâu rồi được tha về, càng ra sức đọc sách giảng tìm về môn học các sách kinh, học trò theo học ngày một đông. Phiên sứ Nguyễn Đăng Giai rất trọng, cho con theo học. Tự Đức năm thứ 18 (1865), xuống chiếu cho trong kinh và các tỉnh tiến cử người có tài đức, Tổng đốc Ninh Thái Nguyễn Tri Phương xin tiến cử, Dương Danh Thành được bổ Sung phụng lĩnh Huấn đạo An Lạc, rồi qua thăng Trước tác lĩnh Đốc học Bắc Ninh. Khi Bắc Ninh bị quân Pháp chiếm, ông được cử làm Tuần phủ mấy tháng.
Dương Danh Thành là người hòa nhã giản dị và cẩn thận, chưa từng nói điều lầm lỗi của ai, vì tính hạnh chất phác, được học giới đương thời kính trọng. Ông làm ra tập Nhân luân giám những điều bàn nói, sau khi làm quan đều theo được cả.
– Dương Quang, quê Ứng Hòa – Hà Nội, từng đỗ ba khoa tú tài, được cáo phong Gia nghị Đại phu, gia tặng Trung phụng Đại phu, Tả phó Đô ngự sử Đô sát viện.
– Dương Chí Trạch, quê Thường Tín – Hà Nội, đỗ Hương giải năm 1843, được bổ Huấn đạo Thanh Trì, Giáo thụ phủ Thái Bình. Năm 1873 bổ Đốc học Nam Định, nổi tiếng là người hiếu đễ, điềm đạm, có nhiều học trò.
– Dương Bá Cung, quê Thường Tín – Hà Nội, tham gia sưu tập, khảo chích thơ văn Nguyễn Trãi soạn thành Ức Trai di tập.
– Dương Khuê, con trai cả Dương Quang, thi đậu Tiến sĩ năm 1868, được bổ Tri phủ Bình Giang rồi thăng Bố chính, do dâng sớ đề nghị triều đình phải quyết liệt đánh Pháp nên bị giáng làm Chánh sứ sơn phòng Hà Nội trông nom khẩn hoang. Mấy năm sau ông được thăng Án sát rồi Đốc học Nam Định. Về sau ông làm tới Tổng đốc Nam Định – Ninh Bình, về hưu nhận hàm Binh bộ Thượng thư.
– Dương Duy Thanh, quê Khoái Châu – Hưng Yên, từng đỗ Cử nhân, giữ chức vụ Đốc học Hà Nội, tác giả bài văn bia tại đền Hai Bà Trưng ở đền Đồng Nhân.
Khi quân Pháp lăm le đánh chiếm Hà Nội lần thứ 2, đầu năm 1884, Tri huyện Dương Hữu Quang đã tập hợp được lực lượng tại Thọ Xương, Từ Liêm, Ứng Hòa, Thanh Oai lập ra Tín nghĩa hội thu hút hàng trăm người, gây cho địch nhiều thiệt hại. Vào lúc phong trào Cần Vương bùng nổ (7-1885), Tiến sĩ Dương Thúc Hạp, Giải nguyên Dương Quế Phổ gia nhập vào cuộc khởi nghĩa do Nguyễn Xuân Ôn phát động tại Nghệ An; Cử nhân Dương Khải – quê ở Trương Xá – Siêu Loại đã cùng Nguyễn Cao, Ngô Quang Huy thành lập đội quân Tam tỉnh nghĩa đoàn hoạt động ở Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương; Dương Phúc Giữa cùng các em là Dương Phúc Tân, Dương Phúc Đình, Dương Phúc Dũng phối hợp với Dương Văn Điển, Dương Văn Bính, Dương Văn Ké, Dương Văn Phô tham gia vào cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy. Tại Yên Thế, Dương Văn Thuật, Dương Văn Sử, Dương Đình Tảo, Dương Đình Bân, Dương Phùng Xuân, Dương Đình Báu, Dương Đình Hùng, Dương Đình Long, Dương Đình Hậu đã có mặt ngay từ đầu chiến đấu bên cạnh Lương Văn Nắm, sau đó là Thân Bá Phức, Hoàng Hoa Thám trong Quân thứ Song Yên. Năm 1905, Dương Bá Trạc lặn lội cùng Phan Chu Trinh đến Phồn Xương gặp gỡ người thủ lĩnh của phong trào Yên Thế.
Những năm đầu thế kỷ 20, nhiều người họ Dương nhiệt tình yêu nước, hăng hái hoạt động chính trị, chống đối cường hào ác bá ở nông thôn chống sưu thuế như Dương Công San, Dương Công Hoan, Dương Đình Thưởng, Dương Đình Thạc rồi Dương Văn Quanh, xuất dương sang Vân Nam (Trung Quốc) gia nhập Việt Nam Quang phục hội. Tiếp đó cha con Dương Trọng Phổ, Dương Bá Trạc hoạt động phong trào Đông kinh Nghĩa thục. Năm 1906, Dương Đức Tuyên, Dương Đức Nhuận vì tham gia phong trào của Trần Cao Vân, Thái Phiên nên bị lưu đày ra Côn Đảo.
Trong cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên năm 1917, Dương Văn Giá (Đội Giá) đã nêu cao tấm gương nồng nàn yêu nước, bất khuất, kiên trung.
Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin soi rọi, nhiều thanh niên họ Dương đã gia nhập Việt Nam Cách mạng Thanh niên, Đông Dương Cộng sản Đảng với các tên tuổi như Dương Tấn Tài, Dương Quang Đông, Dương Khuy, Dương Văn Lan, Dương Vụ Bản, Dương Đình Thúy và Dương Ngọc Liễn. Tại Bắc Ninh, Dương Quang Chiểu từ năm 1929 đã tổ chức thành công chi bộ cộng sản đầu tiên trong thành, Dương Hạc Đính tức Hoàng Lạc, là một trong những thành viên của chi bộ cộng sản đầu tiên tại Bắc Kỳ; Dương Văn Diên là thành viên chủ chốt của tổ chức Việt Nam Quốc dân Đảng. Qua con đường du học tại Pháp, Dương Bạch Mai móc nối để được vào Đại học Đông Phương tại Liên Xô.
Lại có những gia đình họ Dương được lựa chọn làm nơi làm việc, nuôi dưỡng cán bộ cách mạng về ăn ở hoạt động như nhà của Cử nhân Dương Tuấn duy (Hà Lỗ – Đông Anh), được đồng chí Nguyễn Văn Cừ lựa chọn trong những năm 1929-1931; gia đình ông Dương Văn Trang (Tích Sơn – Vĩnh Yên), cơ sở của Xứ ủy Bắc Kỳ; gia đình ông Dương Văn Hòe (Ý Yên – Nam Định), gia đình ông Dương Hữu Chế (Đường Lâm – Sơn Tây), gia đình các ông Dương Khiếm và Dương Đình Cán (Hà Tĩnh), gia đình ông Dương Văn Vân (Bắc Sơn – Lạng Sơn)… đều trở thành nơi hội họp, hoạt động của các chiến sĩ cách mạng. Nhiều đảng viên họ Dương đã trở thành cán bộ lãnh đạo phong trào địa phương như Dương Nhật Đại, Dương Xuân Thiếp, Dương Mạc Thạch.
Có một sự kiện hết sức đặc biệt diễn ra vào đầu năm 1917 tại Hoàng cung. Theo Đại Nam thực lục, chính biên, Đệ nhất kỷ của Quốc sử quán triều Nguyễn (Cao Tự Thanh dịch, Nxb VHVN, 2012, tr.123-124) đây là thời điểm triều đình: “Suy sùng hai họ ngoại Nguyễn Hữu, Dương Quang, gia tặng Thái sư Cần Chánh điện Đại học sĩ Bảo quốc huân thần Vinh Lại quận công Nguyễn Hữu Độ đã quá cố (cha của Khôn nguyên Xương minh Thái hoàng thái hậu hiện nay) là Vĩnh Quốc công, chính thất Trần thị là Cực phẩm Vĩnh quốc Phu nhân, sửa sang từ đường, đổi tên là đền Vĩnh Quốc công, trở lên bốn đời đều chuẩn truy tặng, ban cho tên thụy (Hiển tổ nguyên ban tặng Tư Trị đại phu, Thượng thư bộ Lễ Huy Quang hầu Nguyễn Hữu Huy tước vẫn như cũ, ban tên thụy là Huy Thuận. Tằng tổ nguyên tặng là Vệ úy Cấm binh Luận Đức hầu thụy Cương túc Nguyễn Hữu Luận gia tặng là Gia Nghị đại phu Hàn lâm viện Chưởng viện học sĩ, chính thất Tống thị vẫn tặng như cũ, đổi là Lệnh nhân, ban tên thụy là Gia Huy. Cao tổ nguyên tặng là Minh Nghĩa Đô úy Quản cơ Nghị Bình hầu Nguyễn Hữu Nghị gia tặng là Trung Thuận đại phu Hàn lâm viện Thị độc học sĩ, ban tên Thụy Hải là Nghĩa Dũng, chính thất tống thị vẫn tặng Cung nhân như cũ, ban tên thụy là Điềm Nhã. Tiên tổ Nguyễn Hữu (không rõ tên húy) gia tặng là Trung Thuận đại phu Hồng lô tự khanh, ban tên thụy là Cơ Phúc, chính thất là cung nhân, ban tên thụy là Phương Ý.
Tặng Dương Quang Hướng (cha của Khôn nghi Xương đức Thái hoàng thái hậu hiện nay) là Tráng vũ tướng quân Đô thống phủ Đô thống Chưởng phủ sự Phúc Lộc quận công, dựng đền thờ ở phía đông chỗ ở cũ của vua (tức cung An Định ở phía bắc xã Dương Xuân), phong chính thất Nguyễn Thị Mỹ là Nhất phẩm phu nhân, trở lên bốn dời đều chuẩn truy tặng, ban cho tên thụy (Hiển tổ Dương Quang Tứ tặng Nghiêm Vũ tướng quân, Thống chế Cấm binh Tập Dực hầu thụy Đôn Trực, chính thất Tôn Nữ thị là Đoan nhân, ban tên thụy là Trinh Thuận. Tặng tổ Dương Quang Ý tặng Phấn Dũng tướng quân, Vệ úy Cấm binh Diên Trạch bá, ban thụy Đoan Bình, chính thất Trần thị là Lệnh nhân, ban tên thụy là Gia Uyển. Cao tổ Dương Quang Tộ tặng Minh Nghĩa Đô úy, Vệ úy tinh binh Phát Tường tử, ban thụy Mẫn Đạt, chính thất Nguyễn thị là Cung nhân, Tiên tổ Dương Quang Chính tặng Tín Nghĩa Đô úy Hiệp quản các quân, ban tên thụy là Cẩn Hậu, chính thất Nguyễn thị là Cung nhân)”.
Tháng 12 năm Khải Định 8 (1-1924) triều đình lại tổ chức gia tặng nguyên Phú lộc Quận công Dương Quang Hướng là Phú Quốc công, gia phong Nhất phẩm Phu nhân Nguyễn Thị Mỹ là Cực phẩm Phú quốc Phu nhân. Việc chiểu lệ gia tặng 4 đời là suy ân với ngoại thích vậy.
- Bồi đắp nguyên khí quốc gia, nuôi dưỡng tình yêu quê hương, xóm mạc
4.1. Khoa cử ở Việt Nam bắt đầu từ đầu thời Lý (1010-1225). Tuy nhiên, khi đó khoa cử mới sơ khởi, chưa trở thành chế độ, phải từ thời Trần (1225-1399), Hồ (1400-1407) và nhất là từ thời Lê sơ (1428-1527) trở đi, thì nó mới phát triển mạnh và đã trở thành chế độ của nhà nước. Trong lịch sử khoa cử Việt Nam thời phong kiến 91075-1919), với 187 khoa thi văn được tổ chức và 2.894 Tiến sĩ đỗ đạt thì đã có tới 86 dòng họ khoa bảng được ghi trong bảng vàng và trong đó có dòng họ Dương với 50 Tiến sĩ cộng thêm 7 Tiến sĩ trong 4 khoa thi võ, nâng tổng số Tiến sĩ của họ Dương lên con số 57.
Những người đỗ đại khoa họ Dương cũng như những người đỗ đại khoa thuộc các dòng họ khác, đều được gọi chung là Tiến sĩ (đối với những khoa thi văn), là Tạo sĩ (đối với những khoa thi võ thời Lê – Trịnh) hoặc Tiến sĩ võ (đối với những khoa thi võ thời Nguyễn). Sau khi đỗ Tiến sĩ, họ thường ra làm quan giúp việc triều đình, tiếng tăm được lưu truyền trong sử sách, tên tuổi của họ đã làm rạng danh cho quê hương, đất nước, gia đình và dòng họ. Trong số các Tiến sĩ đỗ đạt, nhiều người đã nêu cao truyền thống hiếu học của dòng họ, đời truyền đời làm nổi danh cho dòng họ của mình và vì thế có họ được tôn vinh là Dòng họ khoa bảng mà họ Dương cũng là một trong những dòng họ có tỷ lệ người đỗ đạt cao và được tôn vinh.
Thống kê trong 844 năm của lịch sử khoa cử Việt Nam, kể từ khoa thi đầu tiên vào năm Thái Ninh thứ 4 (1075) đến khoa thi cuối cùng vào năm Khải Định thứ 4 (1919), các vương triều từ Lý cho đến Nguyễn đã tổ chức được tất cả 187 kỳ thi Tiến sĩ và tương đương về văn, lấy đỗ được 2.894 vị Tiến sĩ. Riêng các triều Lê Trung hưng và Nguyễn đã tổ chức thêm 26 khoa thi võ (từ khoa thi đầu tiên năm 1724 đến khoa thi cuối cùng năm 1880) lấy đỗ 319 vị Võ Tiến sĩ, trong đó có 7 vị người họ Dương.
Tất cả 2.894 Tiến sĩ văn và 319 Tiến sĩ võ lấy đỗ từ 187 khoa thi văn và 26 khoa thi võ của cả nước từ thời Lý đến thời Nguyễn trên đây được phân bố rải rác trong các dòng họ của Việt Nam, nhưng chỉ có 86 dòng họ được ghi danh trên bảng vàng. Tính trung bình mỗi họ có 33,65 Tiến sĩ. Tuy nhiên, trong thực tế có dòng họ chỉ có từ 1-2 Tiến sĩ, nhưng ngược lại cũng có nhiều dòng họ hiển danh đã có tới vài chục Tiến sĩ. Số dòng họ có từ 50 Tiến sĩ trở lên là khoảng 12 dòng họ, như họ Bùi, Dương, Đặng, Đỗ, Hoàng, Lê, Ngô, Nguyễn, Phạm, Phan, Trần và Vũ. Như vậy, họ Dương cũng là một dòng họ có số lượng người đỗ Tiến sĩ vào loại cao và như thế họ Dương đã xác lập được vị thế của mình trong lịch sử khoa bảng dân tộc.
Riêng họ Dương, tính từ người khai bảng đầu tiên là Dương Chính, đỗ Đệ nhị giáp khoa thi Thái học sinh năm Mậu Thìn, niên hiệu Trinh Khánh thứ 3 đời Lý Huệ Tông đến người chốt bảng cuối cùng là Dương Thiệu Tường, đỗ Phó Bảng khoa thi Kỷ Mùi, năm Thành Thái 4 (1919), tổng cộng có 50 Tiến sĩ trên tổng số 2.894 vị Tiến sĩ của cả nước. Đó là chưa kể họ Dương có thêm 7 vị Tiến sĩ võ đỗ trong các khoa thi võ do triều đình Lê Trung hưng và Nguyễn tổ chức, đã nâng số lượng Tiến sĩ của họ Dương lên con số 57 (kể cả văn lẫn võ). Con số này thực sự ấn tượng.
Dưới đây là danh sách những người họ Dương thi đỗ Tiến sĩ trong các khoa thi văn và võ:
- Số lượng các khoa thi và Tiến sĩ (1075-1919)
Triều đại | Số khoa thi | Số tiến sĩ | ||
Thi văn | Thi võ | Tiến sĩ văn | Tiến sĩ võ | |
Lý (1009-1225) | 6 | 0 | 11 | 0 |
Trần (1226-1399) | 12 | 0 | 51 | 0 |
Hồ (1400-1407) | 4 | 0 | 13 | 0 |
Lê sơ (1428-1527) | 31 | 0 | 1.005 | 0 |
Mạc (1527-1592) | 23 | 0 | 484 | 0 |
Lê Trung hưng (1533-1788) | 72 | 19 | 774 | 199 |
Tây Sơn (1788-1802) | 0 | 0 | 0 | 0 |
Nguyễn (1802-1945) | 39 | 7 | 556 | 120 |
Tổng cộng | 187 | 26 | 2.894 | 319 |
Nguồn: Ngô Đức Thọ, Nguyễn Thúy Nga, Nguyễn Hữu Mùi, trong Các nhà khoa bảng Việt Nam 1075-1919, Nxb Văn học, 2006; Nguyễn Thúy Nga, Võ cử và các võ Tiến sĩ ở nước ta, Nxb Thế giới, Hà Nội, 2003.
- Danh sách các vị Tiến sĩ họ Dương trong các khoa thi Văn
Số TT | Triều đại | Họ tên | Quê quán | Vị thứ | Năm đỗ |
1 | Lý | Dương Chính | Hà Nội | Đệ nhị giáp khoa thi Thái học sinh | Chưa rõ |
2 | Lê sơ | Dương Chấp Trung | Hà Tĩnh | Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) | 1448 |
3 | Dương Tông Hải | Hải Phòng | Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) | 1453 | |
4 | Dương Tử Do | Bắc Ninh | Không rõ | 1458 | |
5 | Dương Văn Đán | Hà Nội | Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) | 1463 | |
6 | Dương Đức Nhan | Hải Phòng | Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân | 1463 | |
7 | Dương Như Châu | Bắc Ninh | Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) | 1466 | |
8 | Dương Binh | Hà Nội | Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân | 1478 | |
9 | Dương Tịnh | Vĩnh Phúc | Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân | 1478 | |
10 | Dương Bang Bản | Hà Nam | Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) | 1484 | |
11 | Dương Trực Nguyên | Hà Nội | Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) | 1490 | |
12 | Dương Phấn Phi | Phú Thọ | Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) | 1499 | |
13 | Dương Đức Kỳ | Hà Nam | Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân | 1499 | |
14 | Dương Đức Giản | Hà Nội | Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) | 1505 | |
15 | Dương Khải | Bắc Ninh | Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân | 1511 | |
16 | Mạc | Dương Hạng | Hà Nội | Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) | 1532 |
17 | Dương Mậu | Bắc Ninh | Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân | 1535 | |
18 | Dương Xấn | Nam Định | Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân | 1535 | |
19 | Dương Duy Nhất | Hà Nội | Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân | 1538 | |
20 | Dương Úc | Thái Nguyên | Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân | 1541 | |
21 | Dương Bạt Tụy | Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân | 1544 | ||
22 | Dương Phúc Tư | Hưng Yên | Đệ nhất giáp Tiến sĩ cặp đệ Đệ nhất danh (Trạng nguyên) | 1547 | |
23 | Dương Trí Tri | Hà Tĩnh | Đệ nhất giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) | 1547 | |
24 | Dương Đôn Cương | Vĩnh Phúc | Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) | 1547 | |
25 | Dương Văn An | Quảng Bình | Đệ tam giáp Tiến sĩ xuất thân | 1547 | |
26 | Dương Thận Huy | Bắc Giang | Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân | 1550 | |
27 | Dương Luân | Hải Dương | Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân | 1589 | |
28 | Dương Tông | Hà Nội | Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân | 1589 | |
29 | Lê Trung hưng | Dương Trí Dụng | Hà Tĩnh | Đệ Nhất giáp Chế khoa xuất thân | |
30 | Dương Trí Trạch | Hà Tĩnh | Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân | 1619 | |
31 | Dương Cảo | Hà Nội | Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) | 1628 | |
32 | Dương Thuần | Hưng Yên | Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân | 1628 | |
33 | Dương Hoàng | Hưng Yên | Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân | 1637 | |
34 | Dương Hạo | Hưng Yên | Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân | 1640 | |
35 | Dương Công Độ | Hà Nội | Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân | 1683 | |
36 | Dương Lệ | Hưng Yên | Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân | 1712 | |
37 | Dương Bật Trạc | Nam Định | Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân | 1715 | |
38 | Dương Quán | Hưng Yên | Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân | 1718 | |
39 | Dương Công Chú | Hưng Yên | Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân | 1731 | |
40 | Dương Trọng Khiêm | Hưng Yên | Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân | 1754 | |
41 | Dương Sử | Hưng Yên | Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân | 1754 | |
42 | Dương Nguyễn Huống | Hà Nội | Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân | 1772 | |
43 | Nguyễn | Dương Đặng Dụng | Hà Nội | Phó Bảng | 1828 |
44 | Dương Công Binh | Hà Nội | Phó Bảng | 1838 | |
45 | Dương Phúc Vịnh | Thừa Thiên Huế | Phó Bảng | 1841 | |
46 | Dương Danh Lập | Bắc Ninh | Phó Bảng | 1865 | |
47 | Dương Khuê | Hà Nội | Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân | 1868 | |
48 | Dương Thúc Hạp | Nghệ An | Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân | 1884 | |
49 | Dương Hiển Tiến | Quảng Nam | Phó Bảng | 1898 | |
50 | Dương Thiệu Tường | Hà Nội | Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân | 1919 |
Nguồn: Ngô Đức Thọ, Nguyễn Thúy Nga, Nguyễn Hữu Mùi, trong Các nhà khoa bảng Việt Nam 1075-1919, Nxb Văn học, 2006.
- Số lượng Tiến sĩ họ Dương
Số TT | Triều đại | Họ tên | Quê quán | Vị thứ | Năm đỗ |
1 | Lê Trung hưng | Dương Đình Hài | Bắc Giang | Đồng Tạo sĩ ưu trúng hạng | 1769 |
2 | Dương Vị | Hà Tĩnh | Đồng Tạo sĩ ưu trúng hạng | 1785 | |
3 | Dương Dận | Hà Tĩnh | Đồng Tạo sĩ ưu trúng hạng | 1785 | |
4 | Dương Thiều | Hà Tĩnh | Đồng Tạo sĩ ưu trúng hạng | 1785 | |
5 | Nguyễn | Dương Cần | Võ cử | 1845 | |
6 | Dương Đình Du | Võ cử | 1845 | ||
7 | Dương Viết Thiệu | Thừa Thiên | Đệ tam giáp đồng Võ sĩ xuất thân | 1868 |
Nguồn: Ngô Đức Thọ, Nguyễn Thúy Nga, Nguyễn Hữu Mùi, trong Các nhà khoa bảng Việt Nam 1075-1919, Nxb Văn học, 2006; Nguyễn Thúy Nga, Võ cử và các võ Tiến sĩ ở nước ta, Nxb Thế giới, Hà Nội, 2003.
Theo Gia phả dòng họ Đào – Dương – Phạm tại thị trấn Cổ Lễ (Trực Ninh – Nam Định) có thể bổ sung như sau:
- Lý Long Tích (Long Ích), cải sang là Đào Dương Bật, Tiến sĩ khoa Đinh Mùi (1247).
- Đào Toàn Mân, Hoàng Giáp khoa Nhâm Thìn (1352)
- Đào Sư Tích, Trạng nguyên khoa Giáp Dần (1374)
- Nguyễn Bảo Khuê, Hoàng giáp khoa Đinh Mùi (1487)
- Đào Thúc Viện, Tiến sĩ khoa Nhâm Tuất (1502)
- Nguyễn Duy Tường, Tiến sĩ khoa Mậu Thìn (1508)
- Nguyễn Sư Phổ, Tiến sĩ khoa Mậu Thìn (1508)
- Nguyễn Công Truyền, Tiến sĩ khoa Mậu Thìn (1508)
- Nguyễn Công Phục, Tiến sĩ khoa Tân Mùi (1511)
- Nguyễn Hoành Xước, Tiến sĩ khoa Mậu Tuất (1538)
- Nguyễn Thế Thủ, Tiến sĩ khoa Bính Tuất (1568)
- Nguyễn Quang Luân, Tiến sĩ khoa Quý Mùi (1703)
Theo Gia phả họ Dương Quỳnh Đôi (Quỳnh Lưu – Nghệ An) còn có Dương Cát Phủ đậu Giải nguyên khoa thi Nhâm Ngọ (1522), đỗ Thám hoa khoa Bính Ngọ (1546). Ngoài ra còn có Dương Vị, Dương Dận, Dương Thiều quê Long Phúc (Thạch Hà, Hà Tĩnh) đỗ Tạo sĩ khoa Ất Ty (1785). Gia phả họ Dương Phong Phú (Thạch Hà – Hà Tĩnh) còn cho biết thêm Dương Phúc Triệu được ban Tạo sĩ khoa Kỷ Tỵ (1749) Bắc Ninh dư địa chí ghi Dương Đình Giai (Yên Dũng – Bắc Giang) đỗ Tạo sĩ khoa Kỷ Tị (1769).
Ngoài ra Gia phả họ Dương Lạc Đạo (Văn Lâm – Hưng Yên) chép rằng dưới thời Minh Thần Tông (1573-1620) Dương Liên giành học vị Trạng nguyên ở Trung Quốc.
Các bảng thống kê trên cho thấy những Tiến sĩ đỗ đạt của họ Dương thường không tập trung nhiều trong một khoa thi, một triều đại mà trải dài qua nhiều thời kỳ. Thống kê lại toàn bộ số người đỗ từ thời Lý đến thời Nguyễn trong tất cả các khoa thi sẽ thấy rõ điều đó.
Không chỉ có con số ấn tượng về tỷ lệ người đỗ mà trong số những người đỗ đạt của họ Dương hầu hết họ đều là nhiều người đỗ ở vị trí rất cao. Ít nhất cho đến nay, chúng ta biết được trong tổng số 57 vị Tiến sĩ họ Dương thì đã có 50 vị là Tiến sĩ văn khoa, gồm: 1 vị đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ nhất giáp Chế khoa xuất thân, 12 vị đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (hoàng giáp), 29 vị đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, 5 vị đỗ Phó bảng, 1 vị đỗ Đệ nhị giáp khoa thi Thái học sinh và 1 vị đỗ Tiến sĩ nhưng không rõ vị thứ. Số còn lại là 7 Tiến sĩ võ gồm 4 Tiến sĩ võ đỗ Đồng Tạo sĩ ưu trúng hạng, 1 Tiến sĩ võ đỗ Đệ tam giáp Đồng võ sĩ xuất thân và 2 người đỗ Võ cử.
Người đỗ ở vị trí cao nhất và cùng là vị Trạng nguyên duy nhất của họ Dương chính là Dương Phúc Tư (1505 – ?), người xã Lạc Đạo, huyện Gia Lâm (nay là xã Lạc Đạo, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên). Năm 43 tuổi, ông đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ nhất danh (Trạng nguyên) khoa thi Đinh Mùi, niên hiệu Vĩnh Định thứ 1 (1547) đời Mạc Phúc Nguyên. Ban đầu, ông làm quan cho nhà Mạc đến chức Tham chính. Về sau, ông quay sang quy thuận nhà Lê Trung hưng, được giữ chức cũ nhưng sau lại bị truất. Có thể vì thế mà trong các bộ chính sử nước ta không thấy nhắc đến quá trình làm quan của Dương Phúc Tư. Ông là người khai khoa cho một gia tộc khoa bảng có đến 9 vị Tiến sĩ tiếp nối nhau. Sau ông, lần lượt các con – cháu ông là Dương Thuần, Dương Hoàng, Dương Hạo, Dương Lệ, Dương Quán, Dương Công Chú, Dương Trọng Khiêm và Dương Sử thi nhau giật giải vàng. Có thể nói đây là một trường hợp rất hiếm hoi và khá thú vị trong lịch sử khoa bảng nước nhà.
Ngoài ra, vẫn còn một trường hợp Đình nguyên Hoàng giáp Dương Như Châu (1448 – ?) người xã Lạc Thổ, huyện Siêu Loại (nay là thôn Lạc Thổ, xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh). Từ nhỏ, ông đã nổi tiếng là thần đồng. Vừa mới 19 tuổi, ông đã thi đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Bính Tuất (1466) đời vua Lê Thánh Tông. Theo văn bia Tiến sĩ ghi lại, khoa thi này không có Đệ nhất giáp, Dương Như Châu là người đỗ đầu – tức Đình nguyên Hoàng giáp. Theo sách Đại Việt sử ký toàn thư, tại khoa thi này lấy đỗ Dương Như Châu cùng những người khác tất cả 8 Tiến sĩ, 19 Đồng Tiến sĩ và đích thân vua Lê Thánh Tông là người ra đầu bài văn sách hỏi về việc các đế vương trị thiên hạ. Từ đó bắt đầu định lệ 3 năm một khoa thi và nhà vua còn cho tổ chức lễ xướng danh, ban ân mệnh cho Dương Như Châu cùng các Tiến sĩ đồng khoa. Dương Như Châu còn được bộ Lễ đem bảng vàng treo ở ngoài cửa Đông Hoa. Sau khi đỗ Tiến sĩ, ông ra làm quan, đến chức Tri chế khảo.
Dương Bang Bản (1452 – ?) người xã An Cừ, huyện Thanh Liêm (nay là thôn An Lạc, xã Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam). Năm 33 tuổi, ông đỗ Đệ nhị giáo Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Giáp Thìn, niên hiệu Hồng Đức thứ 15 (1484) đời vua Lê Thánh Tông. Ông làm quan trải qua 5 đời vua: Lê Thánh Tông (1460-1497), Lê Hiến Tông (1497-1504), Lê Túc Tông (1504), Lê Uy Mục (1505-1509) và Lê Tương Dực (1510-1516). Năm 1493, ông được vua Lê Thánh Tông cử cùng Nguyễn Hoằng Thạc đi sứ sang nước Minh để mừng vua Minh lập Hoàng thái tử. Dưới đời vua Lê Hiến Tông, ông giữ chức Lại khoa Đô cấp sự trung. Tháng 12, năm Cảnh Thống thứ 2 (1499), ông được cử tham gia đón tiếp sứ giả nhà Minh. Năm Đoan Khánh thứ 1 (1505), ông được vua Lê Uy Mục bổ chức Thừa tuyên sứ xứ Thanh Hoa. Tháng 12 năm 1509, ông cùng Tham chính Nguyễn Thì Ung đem thuộc hạ theo Nguyễn Văn Lang tôn phò Giản Tu công Lê Oanh dấy binh khởi nghĩa chống lại Lê Uy Mục. Sau khi lên ngôi, Lê Oanh, tức vua Lê Tương Dực (1510-1516), sai ông cùng Lê Quảng Độ dâng biểu trần tình với nhà Minh. Riêng ông, do có công lớn nên được trọng dụng và được thăng chức Lại bộ Thượng thư, tước Đôn Thư bá (1510). Năm Hồng Thuận thứ 4 (1512), ông được gia phong chức Thiếu bảo Lễ bộ Thượng thư, Đông các học sĩ kiêm Quốc Tử giám Tế tửu Tri kinh diên sự tước Đôn Thư bá. Năm Hồng Thuận thứ 5 (1513), dụng bia Tiến sĩ khoa Hồng Thuận thứ 3 (1511), ông được giao soạn bài ký. Đến nay, Văn bia Tiến sĩ khoa Hồng Thuận thứ 3 (1511) cùng bài ký của ông vẫn còn trong Văn Miếu Quốc Tử giám. Mùa hạ, năm Hồng Thuận thứ 6 (1514), triều đình tổ chức thi Đình, ông được cử tham gia coi thi. Cũng trong năm này, vua Lê Tương Dực giao cho ông soạn bài Tổng luận của bộ Quốc sử Đại Việt thông giám thông khảo. Bài Tổng luận được trân trọng đặt đầu bộ sách, trở thành một tác phẩm sử học nổi tiếng.
Với những đóng góp to lớn của Dương Bang Bản đối với triều đình nhà Lê trên nhiều lĩnh vực, ông đã được triều đình ban quốc tính (họ Lê) và đổi tên là Tung. Hiện không biết chính xác ông được ban quốc tính và đổi tên từ khi nào, nhưng tên Lê Tung của ông đã được ghi ở dưới bài Tổng luận trong bộ quốc sử Đại Việt thông giám thông khảo, chắc chắn vào niên hiệu Hồng Thuận thứ 6 (1514) đời vua Lê Tương Dực khi ông vâng mệnh vua đảm trách công việc này.
Dương Trực Nguyên (1468-1509), người xã Thượng Phúc, huyện Thượng Phúc (nay là thôn Thượng Phúc, xã Nguyễn Trãi, huyện Thường Tín, Hà Nội). Năm 23 tuổi, ông thi đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Canh Tuất niên hiệu Hồng Đức thứ 21 (1490) đời vua Lê Thánh Tông. Năm Hồng Đức thứ 23 (1492), ông được bổ làm Hiến sát sứ ty Hiến sát sứ Thừa tuyên Hải Dương. Sau do trái ý vua mà bị giáng đổi làm Hàn lâm viện Hiệu lý. Về sau, ông được thăng Đông các Hiệu thư (1497). Bấy giờ, trời có đại hạn, Trực Nguyên dâng sớ, xin vua sửa đức để cứu vãn thiên tai. Đầu đời Cảnh Thống, ông giữ chức Lại khoa Đô cấp sự trung (1498), rồi thăng lên chức Phủ doãn Phụng Thiên (1499), Đô đình úy (1500), Hữu thị lang bộ Công (1501), Hữu thị lang bộ Hình, Tả thị lang bộ Binh (1502), Tả thị lang bộ Lễ (1502). Chỉ trong 5 năm, Dương Trực Nguyên đã lần lượt giữ những trọng trách tại 5 bộ (Lại, Lễ, Binh, Hình, Công) của triều đình và đặc biệt ông là người họ Dương duy nhất được giữ một chức vụ rất quan trọng là Phủ doãn phủ Phụng Thiên – một chức quan đứng đầu kinh thành Thăng Long khi đó. Đây là một vinh dự vô cùng lớn của dòng họ Dương, vì người giữ chức quan đứng đầu kinh thành Thăng Long phải là người thông tuệ, am hiểu và đã kinh qua nhiều chức vụ ở những cương vị khác nhau. Vào thời Lê sơ, người giữ cương vị này phẩm trật phải ở hàng Chánh ngũ phẩm.
Đến cuối năm Đoan Khánh 3 (1507) ông còn được cử làm chánh sứ sang nước Minh, khi trở về lại được thăng lên chức Ngự sử đài đô ngự sử (1509). Cuối năm Đoan Khánh thứ 5 (1509), quân của Giản Tu công Lê Oanh (tức Lê Tương Dực sau này) từ Thanh Hóa đánh ra, Uy Mục sai ông làm Tán lý cho Phó tướng Lê Vũ đem quân đi đánh. Nhưng chẳng may, ông bị tử trận tại Châu Cầu (Phủ Lý, Hà Nam). Sau khi mất triều đình đã lệnh cho dân sở tại thờ ông làm phúc thần.
Trong cuộc đời làm quan, Dương Trực Nguyên nổi tiếng là vị quan thanh liêm, cương nghị. Ông từng được vua Lê Hiến Tông ưu đãi tiền quý bổng liêm khiết. Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết, trong thời gian làm Phủ Doãn Thừa tuyên “Trực Nguyên đàn hặc, trấn áp bọn cường hào, những kẻ có quyền thế cũng phải chùn tay. Lê Quảng Độ bảo đảm rằng Trực Nguyên có phép cai trị, là người cương nghị, có thể thăng làm Đình úy”.
Thống kê trong tổng số 57 vị Tiến sĩ họ Dương đỗ ở các triều đại khác nhau nêu trên cho biết: có nhiều vị Tiến sĩ thuộc cùng một thế hệ hoặc thuộc những thế hệ khác nhau, nhưng lại cùng thuộc một gia đình, một dòng họ. Tổng cộng có 8 trường hợp cụ thể sau đây:
Ông cháu tằng tổ Dương Bính và Dương Cảo: Dương Bính là tằng tổ của Dương Cảo. Hai ông cháu vốn là người xã Hà Lỗ, thôn Đông Ngàn (nay là thôn Hà Lỗ, xã Liên Hà, huyện Đông Anh, Hà Nội). Dương Bính đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Mậu Tuất niên hiệu Hồng Đức thứ 9 (1478) đời Lê Thánh Tông và làm quan đến chức Thừa chính sứ. Cháu tằng tổ của ông là Dương Cảo, đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Mậu Thìn niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 10 (1628) đời Lê Thần Tông, làm quan đến chức Quốc Tử Giám Tế tửu.
Ông cháu Dương Tịnh và Dương Đôn Cương: Dương Tịnh còn có tên khác là Dương Tĩnh, là ông nội của Dương Đôn Cương. Hai ông cháu vốn là người xã Vĩnh Mỗ, huyện Yên Lạc (nay là thôn Đông Lỗ, xã Trung Nguyên, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc). Dương Tịnh đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Mậu Tuất niên hiệu Hồng Đức thứ 9 (1478) đời Lê Thánh Tông (cùng khoa thi với Dương Bính) và làm quan đến chức Công bộ Tả thị lang. Cháu nội Dương Tịnh là Dương Đôn Cương, đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng Giáp) khoa Đinh Mùi niên hiệu Vĩnh Định thứ nhất (1547) đời Mạc Phúc Nguyên khi ông mới 23 tuổi. Dương Đôn Cương làm quan đến chức Hữu thị lang bộ Hình và được phong tước Đạm Giang bá.
Cha con Dương Trực Nguyên và Dương Hạng vốn là người xã Thượng Phúc, huyện Thượng Phúc (nay là thôn Thượng Phúc, xã Nguyễn Trãi, huyện Thường Tín, Hà Nội). Dương Trực Nguyên đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Canh Tuất niên hiệu Hồng Đức thứ 21 (1490) đời Lê Thánh Tông khi ông mới 23 tuổi. Nối tiếp truyền thống của cha, Dương Hạng đỗ Đệ nhị giáo Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Nhâm Thìn niên hiệu Đại Chính thứ 3 (1532) đời Mạc Đăng Doanh khi 26 tuổi. Dương Hạng làm quan đến chức Thị lang, tước Vị Thủy bá.
Ông cháu Dương Đức Giản và Dương Tông là người xã Linh Quang, huyện Bình Tuyền (nay là xã Cao Minh, huyện Mê Linh, Hà Nội). Dương Đức Giản đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Ất Sửu, niên hiệu Đoan Khánh thứ 1 (1505) đời Lê Uy Mục. Còn Dương Tông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Kỷ Sửu niên hiệu Hưng Trị thứ 2 (1589) đời Mạc Mậu Hợp năm 46 tuổi. Về sau Dương Tông quy thuận triều Lê, làm quan đến chức Thị lang.
Ông cháu Dương Trí Dụng và Dương Trí Trạch đều được ban tước Công và tước Bá, vốn là người xã Bạt Trạc, huyện Thiên Lộc (nay là xã Yên Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh). Dương Trí Dụng là ông nội Dương Trí Trạch. Năm 30 tuổi, Dương Trí Dụng đỗ Đệ nhất giáp Chế khoa xuất thân khoa Ất Sửu niên hiệu Chính Trị thứ 8 (1565) đời Lê Anh Tông. Ông là một trong 7 vị Tiến sĩ họ Dương được phong tước Bá (Lâm Hoa bá). Sau khi mất, ông còn được tặng tước Lâm quận Công, là bậc cao trong hàng tước. Không thấy sử sách ghi chép gì về con ông, nhưng có nhắc đến người cháu nội là Dương Trí Trạch. Dương Trí Trạch (1586-1662) đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Kỷ Mùi niên hiệu Hoàng Định thứ 20 (1619) đời Lê Kính Tông. Do có thực lực và có nhiều đóng góp cho triều đình nên Dương Trí Trạch cũng được ban tước Bạt quận Công.
Ông cháu Đào Sư Thích và Dương Bật Trạc. Dương Bật Trạc là người xã Cổ Lễ, huyện Nam Chân (nay là xã Cổ Lễ, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định). Ông sống thời Lê Trung hưng, là cháu xa đời của Đào Sư Thích, là Trạng nguyên khoa Giáp Dần niên hiệu Long Khánh thứ 2 (1347) đời Trần Duệ Tông nhà Trần. Nguyên Dương Bật Trạc họ Đào nhưng đến đời ông, họ Đào lại chuyển thành họ Dương (gốc họ Dương). Ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Ất Mùi, niên hiệu Vĩnh Thịnh 11 (1715) đời Lê Dụ Tông và làm quan đến chức Hiến sát sứ.
Ông cháu Dương Khuê và Dương Thiệu Tường, đều sống ở xã Vân Đình, huyện Sơn Lăng, tỉnh Hà Đông (nay là xã Vân Đình, huyện Ứng Hòa, Hà Nội). Dương Triệu Tường là cháu họ của Dương Khuê. Hai vị đều là Tiến sĩ của nhà Nguyễn. Dương Khuê đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Mậu Thìn niên hiệu Tự Đức thứ 21 (1868). Còn Dương Thiệu Tường đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Kỷ Mùi niên hiệu Khải định thứ 4 (1919).
Đặc biệt nhất là trường hợp của gia tộc họ Dương ở xã Lạc Đạo, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên. Tộc họ này có tổng cộng 9 vị Tiến sĩ đỗ dưới các triều Mạc và Lê Trung hưng. Người khai hoa đầu tiên của tộc họ là Trạng nguyên Dương Phúc Tư tại khoa thi Đinh Mùi, niên hiệu Vĩnh Định thứ 1 (1547) đời Mạc Phúc Nguyên. Sau đó, lần lượt đến các cháu ông là Dương Thuần đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân năm 1628, và Dương đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân năm 1637. Tiếp theo, đến lượt con trai Dương Thuần là Dương Hạo được đề tên trên bảng vàng, đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân năm 1637. Cả ba vị (Dương Thuần, Dương Hoàng, Dương Hạo) đều đỗ Tiến sĩ dưới thời vua Lê Thần Tông. Người tiếp theo đỗ Tiến sĩ trong gia tộc là Dương Lệ đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân năm 1712, đời vua Lê Dụ Tông. Sáu năm sau, một người cháu xa đời của Dương Phúc Tư, cháu tằng tôn Dương Thuần, Dương Hạo là Dương Quán cũng đỗ Đệ tam giáp Tiến sĩ xuất thân năm 1718, đời vua Lê Dụ Tông. Một người con nữa của gia tộc Tiến sĩ này là Dương Công Chủ đã tiếp nối truyền thống cha ông đi trước đã đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân năm 1731. Thế hệ Tiến sĩ Nho học cuối cùng của gia tộc hiển danh chính là thế hệ của hai anh em ruột Dương Trọng Khiêm (anh) và Dương Sử (em). Hai anh em Dương Trọng Khiêm – Dương Sử cùng đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Giáp Tuất niên hiệu Cảnh Hưng thứ 15 (1754) đời vua Lê Hiền Tông.
Ngoài các thế hệ gia tộc Tiến sĩ về văn thì trong số 7 Tiến sĩ về võ cũng có thêm một gia đình nữa tiếp nối được truyền thống dòng họ. Đó là trường hợp:
Ba anh em Tiến sĩ võ Dương Dận, Dương Thiều và Dương Vị, là người xã Long Phúc, huyện Thạch Hà (nay thuộc tỉnh Hà Tĩnh). Dương Dận cùng với Dương Thiều là hai anh em ruột. Còn Dương Vị là em họ của Dương Dận và Dương Thiều. Điều đặc biệt của ba anh em họ Dương này là cùng ra ứng thí tại một khoa là khoa Ất Tỵ, niên hiệu Cảnh Hưng (1785) đời vua Lê Hiển Tông và cả ba cùng đỗ Đồng Tạo sĩ ưu trung hạng.
Hầu hết các trường hợp này đều đỗ đạt trong thời gian từ thế kỷ XV – XVIII. Đây là khoảng thời gian thịnh trị nhất của nền khoa cử Nho học của Đại Việt. Các kỳ thi Nho học đều được các triều vua tổ chức định kỳ bất chấp tình hình chiến sự bất ổn xảy ra. Các triều Lê sơ, Mạc và Lê Trung hưng trong giai đoạn này đã tổ chức được tất cả 128 khoa thi và lấy đỗ 2.263 Tiến sĩ (chưa kể 2 khoa thi võ và 4 Tạo sĩ). Trong số đó, có các thế hệ Tiến sĩ của các gia tộc dòng họ Dương nêu trên.
Năm mươi bảy vị Tiến sĩ họ Dương là năm mươi bảy tấm gương sáng trong lịch sử khoa bảng Việt Nam và cũng là năm mươi bảy tấm gương sáng của dòng họ Dương – một dòng họ khoa bảng có nhiều đóng góp to lớn cho lịch sử dân tộc, xứng đáng là dòng họ được lịch sử tôn vinh.
4.2. Bày tỏ thành ý, xin được góp phần đem chút của cải của gia tộc cùng dựng xây xóm mạc mỗi khi dân làng phải cộng sức chung lo hưng công tạo lập hoặc trùng tu đình chùa, đền miếu, bắc cầu, lắp cống, làm chợ… xưa nay đã thành một tập quán đẹp tạo nên nét truyền thống cố kết chặt chẽ trong cộng đồng. Để tạo thành quy lệ, bắt đầu từ thời Lê và hình như cũng bắt đầu từ việc làm của một gia đình họ Dương hồi đầu thời Trần mà tục mua Thần, mua Phật ra đời. Lúc đầu lĩnh vực này dành cho các cặp vợ chồng không có con cái hoặc không có người nối dõi gửi lại dân làng chút tiền bạc, ruộng vườn để hàng năm vào dịp mình qua đời hoặc xuân thu nhị kỳ được kỳ lão, quan viên đốt cho nén nhang, bày cho lễ vật để đỡ tủi lòng. Dần dà, khi có việc chung, dân làng thiếu thế, cần chi phí cho một vụ kiện tụng cũng dùng Thần, Phật chứng giám hảo tâm, hảo ý của mọi thành viên. Sự mua bán đó chính là sự thừa nhận của cộng đồng. Mà khi đã có sự chứng giám của làng xóm, lòng người trở nên thanh thản, gắn bó với bờ ao gốc rạ, nơi chôn rau cắt rốn, nơi có mồ mả cha ông đang yên giấc… thắm thiết, mặn nồng hơn rất nhiều.
Diên Khánh tự bi ký (Văn bia chùa Diên Khánh) không ghi tên người soạn nhưng có nhắc tới việc ông Ngộ Đạo, bà Ngộ Thiên làm bài ký trên bia chùa. Bia được tạo tác năm Hồng Đức thứ 10 (1497) dựng tại đình thôn Môn Ải (khi đó gọi là Cửa Ải), xã Lãng Ngâm (khi đó gọi là xã Hạ Bạn Ngâm – lộ Bắc Giang, nay thuộc huyện Gia Bình – Bắc Ninh). Bài ký trên bia kể rằng vào năm Canh Thân, niên hiệu Thiệu Long thứ 3 (1260), ông bà Dương Kiện – Nguyễn Thị Suyễn, tự đặt hiệu là ông Ngộ Đạo, bà Ngộ Thiện thường than trách tội chẳng gì lớn hơn là không có con nối dõi, không người phụng dưỡng giúp đỡ. Vả lại những điều bất thường với người già có thể xảy ra rất nhanh chóng, lúc ấy ở địa ngục sẽ vất vả, khổ sở. Suy nghĩ như vậy nên ông bà bèn xuất tiền của để tạc ba pho tượng cúng chùa, công đức các khoảnh ruộng trên đồng Tứ Lục và khu vườn Đa Giá, đón sư về trụ trì. Việc làm của ông bà đã mở đầu cho một tục đẹp, ai ai cũng cảm nhận được ý nghĩa tốt lành vì thế mà vào các năm Mậu Dần (1338), Kỷ Mão (1339), Tân Tỵ (1341), Mậu Tý (1348), Ất Sửu (1375), Canh Ngọ (1390), Nhâm Thân (1392), Mậu Thìn (1448), Quý Tỵ (1473), Đinh Tỵ (1497) đã có nhiều cặp vợ chồng ở Lãng Ngâm gửi giỗ hoặc cúng tiền bạc, ruộng vườn vào chốn chùa chiền. Hình như khi đó chưa có tục này ở chốn đình chung và chưa tìm thấy ở nơi khác tiến hành việc mua Thần, mua Phật tương tự.
Có một điều cũng cần lưu tâm là, vào thế kỷ XV, họ Dương là một môi trường đào luyện người thông thạo đạo lý và tài hoa vì thế mà trên các tấm bia như Thái sư Cương Quốc công bi ký (Nghi Lộc – Nghệ An 1467), Quận Thượng chúa Lê thị mộ chí (Duy Tiên – Hà Nam, 1471), Nga Mi tự bi (Hoàng Mai – Thanh Đàm, nay thuộc Hoàng Mai – Hà Nội, một bia tạo năm 1463, một bia tạo năm 1497) đều do Dương Bích, Dương Tiến viết chữ. Tấm bia Trùng tu thánh tự bi (Hòa Vang – Quảng Nam, nay thuộc thành phố Đà Nẵng) cho biết lập nên làng Lỗ Giản là 5 dòng họ (Dương, Hồ, Lê, Nguyễn, Phạm).
Trong hai tấm bia tìm được thuộc thế kỷ XVI, cũng thấy người họ Dương góp công của như Dương Đường, Dương Hoạt, Dương Thị Hi thì một tấm chỉ ghi Tam bảo (Đông Sơn – Thanh Hóa, 1509) một tấm ghi Tu tạo thạch kiều nhị xứ (Gia Lâm – Bắc Giang, 1587) dựng trước cửa chùa Giao Tất (nay thuộc Hà Nội).
Thế kỷ XVII nở rộ việc ghi chép tên tuổi những người có thiện tâm với xóm làng nhưng thường thấy đóng góp của những người họ Dương vào các việc trùng tu chùa Phúc Nương (Dương Văn Luyện, Dương Nhân Lực người Yên Thường – Đông Ngàn, 1607), văn miếu (Dương Bá Cung, Đại Phùng – Đan Phượng, 1656), đình (Dương Giám, Đồng Khê, Nam Sách, 1617), chùa Phổ Linh (Dương Văn Cơ, Tây Hồ – Quảng Đức, 1622), đình (Dương Văn Vận, Dương Tất Thành, Dương Đình Thúc, Dương Tất Đình, Dương Thế Khoa, Trích Sài – Quảng Đức, 1623), chợ Phượng Hoàng (Dương Thị Chính, Dương Thị Tháy, Duy Tính – Hậu Lộc, 1627), chùa Long Đẩu (Dương Thị Ngọc Kinh, Đa Phúc – Quốc Oai, 1631), chùa Thiền viện (Dương Thị Thu, Nhân Hiền – Thượng Phúc, 1635), chùa Bà Già (Dương Đức Oanh, Phú Thượng – Quảng Đức, 1636), chùa Trấn Quốc (Dương Tuấn Đức, Dương Tuấn Giám, An Hòa – Quảng Đức, 1637), chùa Tam bảo (Dương Thị Liễu, Xuân Hy – Kim Hoa, 1643), chuông chùa Diên Phúc (Dương Bá Hợp, Khúc Xuyên – Yên Phong, 1648), chùa Sùng Phúc (Dương Đồng, Phú Thị – Gia Lâm, 1651), chùa Láng (Dương Trí Trạch, Yên Lãng – Hoàn Long, 1656), chùa Chúc Thánh (Dương Văn Tự, Dương Thị Ngụ, Lương Đài – Bạch Hạc, 1665), văn chỉ (Dương Thị Cẩn, mẹ của hai Tiến sĩ Nguyễn Khuê, Nguyễn Sĩ, Vân Điềm – Đông Ngàn, 1670), cầu Tô Giang (Dương Thị Canh, Dương Tiến Kỳ, Yên Quyết – Hoài Đức, 1679), đình Trung Mầu (Dương Hữu Luân, Dương Hữu tín, Dũng – Vi – Tiên Du, 1960), cây thiên đài (Dương Tiến Tài, Đức Mại – Bảo Lộc, 1692).
Bắt đầu từ năm 1693 mới thấy xuất hiện bia hậu thần ở đình Khê Khẩu (Dương Mậu Nhân, Dương Tài Tương, Dương Hữu Tài, Dương Ngọc Dung, Yên Sơn – Phượng Nhãn, 1693).
Tuy nhiên ở khoảng đầu thế kỷ XVIII, bia hậu thần, hậu phật hầu như vắng bóng, không thấy tiêu đề trên trán bia như bia giao ước trông coi từ đường (Dương Thịnh, Quang Biểu – Yên Việt, 1702), trên cây thiên đài (Dương Thị Huyền, Dương Thị Bắc, Dương Thị Vịnh, Dương Công Khanh, Dương Thị Hợp, Dương Thị Phiên, Quất Nông – Tư Nông, 1703) hoặc mang các tên như Ngũ lão bi ký (Dương Thị Bích, Vân Cốc – Yên Việt, 1702) Thịnh Đức hoằng công (Dương Tâm Viên, Hòe Nhai – Thọ Xương, 1703), Mỹ Cầu xã đình bi (Dương Văn Doãn, Mỹ Cầu – Yên Dũng, 1706), Tân tạo Nham Hinh tự thiên đài thạch cung (Dương Thị Nay, Hoàng Vân – Hiệp Hòa, 1708), Thiên đài thạch trụ bi (Dương Thị Tăng, Gia Cát – Hiệp Hòa, 1716), Huệ ái chi bi (Dương Tiến Lộc, Mỹ Cầu – Yên Dũng, 1716). Tạo dư huệ bi (Dương Đình Liêu, Phụng Pháp – Yên Dũng, 1718), Tạo cấu tác thạch nhất hưng công quán thượng gian tam bảo (Dương Văn Tuyên, Lương Phong – Hiệp Hòa, 1718), Lưu truyền bi ký (cho biết họ Dương là dòng họ lớn ở Hạ Lôi – Yên Lãng. Dương Tiến Sảng, cha mẹ mất sớm, để lại 5 anh em mà vẫn làm tới Tư lễ Hữu thái giám tước Bàn Thái hầu, 1719), Hội Phúc tự phật pháp tăng hưng công thạch trụ bi (Dương Thị Thiện, Dương Công Toàn, Dương Thị Cửu, Ngọc Cụ – Yên Thế, 1723), Thiên đài chu bảo (Dương Duy Minh, Dương Quang Thạch, Đào Quán – Bảo Lộc, 1725), Liên Xương xá đình bi (Dương Thị Lệnh, Phi Mô – Bảo Lộc, 1732), Phụng Pháp xã đình bia (Dương Hữu Ân, Dương Công Tạo, Mỹ Cầu – Yên Dũng, 1732), Lập nhạc phụ miếu bi (Dương Văn Minh, Dương Thị Ngọc Yên, Nội Hoàng – Yên Dũng, 1734), Kim Động di kiến từ vũ bi ký (Dương Bá Cung, Thanh Cú – Kim Động, 1740), Cảm Ân tự bi ký (Dương Dư, Ngô Xá – Thọ Xuân, 1745), Tân kiến Đại tư đồ Hùng đài công sinh từ bi ký (Dương Hữu Đức, Dương Bá Nho, Hoàng Đình Bảo, Phụng Pháp – Yên Dũng, 1762), Trung nghĩa lý bi (Dương Huy Ánh, Dương Huy Nghi, Phú Thị – Gia Lâm, 1764).
Từ năm Cảnh Hưng thứ 30, bia Hậu thần, Hậu phật xuất hiện trở lại tại điếm chùa Vân Cốc (Dương Thụ Ngữ, Dương Hữu Dụng, Dương Thu Thắng, Dương Hữu Tín, Dương Tông Toàn, Hoàng Mai – Yên Dũng, 1770), đình Vân Cốc (Dương Hành, 1772), đình Cẩm Xuyên (Dương Thị Hương, Cẩm Bào – Hiệp Hòa, 1772), chùa Pháp Lôi (Dương Thị Khánh, Ngọc Thành – Hiệp Hòa, 1772), chùa Hương Câu (Dương Đình Tính, Dương Đình Cầu, Mai Đình – Hiệp Hòa, 1787), đình Chấp Pháp (Dương Đăng Đạt, Lương Phong – Hiệp Hòa, 1788), đình Cẩm Đới (Dương Viết Quý, Dương Thị Huân, Chu Điện – Phượng Nhãn, 1797).
Sang thế kỷ XIX, hình thức bia Hậu thần, Hậu phật là thành phần chủ yếu phản ánh loại hình đóng góp, hương hỏa với xóm mạc này. Cũng có khi được gọi là Ký kỵ bi ký, Ký kỵ lập hậu, Bản đình bi ký hoặc vô đề như ở Huyền Thiên – Thọ Xương (Dương Hữu Doãn, 1829), Hoàng Mai – Yên Dũng (Dương Trung Cảnh, 1844), Đa Mai – Yên Dũng (Dương Danh Uyển, 1851), Thổ Hà – Yên Việt (Dương Thi, 1855), Gia Cát – Hiệp Hòa (Dương Tất Đạt, 1860), Vân Cầu – Yên Thế (Dương Đình Ấm, Dương Quang Phúc, Dương Thị Mán, 1864), Hoàng Mai – Yên Dũng (Dương Văn Cường, Dương Đức Xướng, Dương Văn Đồ, Dương Văn Cáo, Dương Văn Tiệp, Dương Văn Thạch, 1865).
Ở thế kỷ XX, tên gọi văn bia và thể loại đóng góp có vẻ bị xáo trộn. Ngoài hình thức vô đề, ký kỵ còn được gọi là Tân tạo hậu phật bi ký, Tạo tác chi bi, Lập nghĩa điền bi. Ngoài Vân Cốc (Dương Phán, 1904; Dương Ngô Thiệp, Dương Ngô Thổn, Dương Ngô Thông, 1938; Dương Thị Diệu Lạc, 1938), Bắc Lũng – Lục Ngạn (Dương Công Hòa, 1915), Hương Câu (Dương Văn Biệt, 1931) là sự đóng góp to lớn của họ tộc vào việc xây lầu chuông tại chùa Phúc Hưng – chốn khởi tổ Dương Đình Nghệ yên nghỉ như những điều đã được khắc ghi trong Phúc Hưng tự chung lâu bi ký dưới đây:
“Bài ký ghi chép về việc xây dựng lầu chuông Phúc Hưng
Chùa Phúc Hưng thuộc xã Dương Xá, tổng Đại Bối, huyện Đông Sơn, phủ Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hoá, tương truyền từ nền cũ nhà Dương Chính công dựng nên. Chùa dựng lên hai dãy, dãy bên trong ba gian, gian giữa và gian bên trái thờ Phật, gian phải thờ ngài và con gái Hoàng hậu triều Ngô họ Dương, cùng phụ thờ con trai là Bình Vương.
Chùa không biết dựng từ đời nào, qua bao nhiêu lần tu sửa đều không thấy truyền ghi, chỉ biết rằng triều nhà Lê niên hiệu Vĩnh Trị (1676-1679), đời Lê Hy Tông có trùng tu ghi chép trong bia tại chùa. Năm tháng đã lâu chùa bị hư hỏng, nên năm Kỷ Dậu (1849) niên hiệu Tự Đức thứ 2 nhân dân trong xã tu sửa lại như cũ, đến năm Bính Thìn (1856) niên hiệu Tự Đức thứ 9 xã dân kê khai công trạng của Dương Chính công trước đây đề đạt triều đình được phong thần bậc Tuấn lương. Liền năm đó dựng một ngôi miếu ở trước chùa. Mùa hạ năm sau miếu được hoàn thành làm nơi phụng thờ ông cùng con gái là Hoàng hậu triều Ngô, và phụ thờ Bình Vương. Từ đó đến nay quy mô của chùa, miếu tất cả đã được hoàn thành, chỉnh tề.
Chùa trước kia có một quả chuông nhưng chưa có lầu treo, những năm trước đây chưa có điều kiện để tu tập xây dựng. Cuối mùa thu năm trước nhân dân trong xã chọn được gỗ tốt, mời thợ giỏi về xây dựng. Tháng 10 bắt đầu khởi tạo cùng năm tháng 6 chùa miếu được dựng xong, cùng với lầu nhà nằm sát đê sông Mã, mặt ngoảnh ra hướng tây nam, đấy là nối theo lốt cũ, tường gạch, lợp ngói. Cho nên trong thôn tất có nơi kiên cố, mưu tính sự lâu bền mãi mãi vậy.
Có người vội đến học viện nhờ ta Đốc học Thanh Hóa Phan Văn Nhã bài văn ghi chép để lưu truyền công việc mãi mãi. Học sinh của (ta) có người xin hỏi rằng: – Phật tức là dị đoan, Tiên sinh hà cớ gì lại ghi chép lại việc đó! Ta cười trả lời rằng: – Dị đoan cố nhiên là điều không rõ ràng, đạo Phật thịnh ở thời Lý – Trần nhưng gần đây đã suy rồi. Vậy dị đoan đã suy thì cái dị đoan đó là tà lệch. Thuyết cho là dị đoan kia lại gây bạo hành gấp trăm lần. Vị Tăng tu nào có thể chấn hưng sự suy vi đó để mở đường giác, tính duyên trần thì có khác chi dã làm cho mối dị đoan kia không bị thiên lệch?!. Con người luôn dựa vào pháp lực để đoạn tuyệt cái bạo hành của tà thuyết kia, huống chi đã có ngôi lầu, ngôi chùa này? Để ngôi chùa này tồn tại ắt phải có những dấu vết từ xưa.
Xét ông họ Dương tên tự là Đình Nghệ, người xã Dương Xá, quận Ái Châu, trước là danh tướng phụng sự Khúc Hạo. Trước nguy cơ nước ta bị quân Nam Hán xâm lược, ông đã chiêu tập anh hùng hào kiệt trong châu, nuôi 3000 con nuôi, mưu đồ khôi phục. Niên hiệu Trường Hưng thời Hậu Đường, ông phát binh vây hãm Thứ sử Lý Tiến phá thành, nhà Hán lại sai Thừa chỉ Trần Bảo đem quân sang cứu, Lý Tiến bỏ trốn về nước, Trần Bảo bị thua và chết trận. Từ đó Dương Đình Nghệ tự xưng là Tiết độ sứ coi việc trong châu. Tháng 3 năm Đinh Dậu (937) ông bị Nha tướng của mình là Kiều Công Tiễn giết hại để thay chức, con rể của ông là Ngô Quyền khởi binh trị tội Kiều Công Tiễn và đánh bại quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng. Ngô Quyền xưng Vương và lập bà họ Dương làm Hoàng hậu, ban tên thụy cho Đình Nghệ là Chính công.
Con của ông là Dương Tam Kha sau được nhà Ngô ban ơn phong cho thực ấp hết đời ở Chương Dương. Như vậy, đó là nhờ vào phúc trạch báo đền của ngài mà từ trước tới nay chưa có. Ôi chùa ấy là nhà, người đời sau có thể nhớ về ông mà cầu xin đức Phật. Như thế thì có thể nhìn thấy ông như lúc sống, sự hiển vinh trước đây ở đời.
Hai mươi năm thì mất, gửi thân ở thiền môn, trải qua bao năm lại được hiển thần, trong cái Sắc Không, Hạo Khí trường tồn cũng như ông trời tạo dựng. Lớn lao thay! Dương Chính công, vị anh hùng của đất nước ta xưa, tinh anh linh ứng vẫn chưa hết, khó mà theo kịp. Nay vì lấy sự tái thế để trừ cái hại của mối dị đoan kia. Ôi! ngôi lầu này đã được dựng mà chốn thờ Phật xưa có một tân miếu cao ngật đứng vững ở vườn muôn thưở như được mới. Xã dân có sắm trai bàn cầu phúc nhờ vào sự sùng báo lớn lao của ngài mà càng khó chịu với (Công) Tiễn vậy. Ta sở dĩ ghi chép lại những điều nghe thấy mà không thể thoái thác, bèn cầm bút chép thành bài ký.
Lầu cao 22 thước, rộng 16 thước, tầng trên cao 5 thước, tầng dưới cao 12 thước, tổng số tiền chi phí hết 1.000 quan, còn chiếc chuông thân cao 4 thước, miệng rộng 2 thước 2 tấc, nó được đúc từ năm Quý Dậu niên hiệu Gia Long thứ 12 (1813) đến nay đã tròn một giáp, trên chuông có ghi bài mình rằng:
Ngôi nhà họ Dương là dấu tích của ngôi chùa cổ vậy
Ông họ Dương đã ở chùa thờ Phật đến nay lại có miếu thờ thần vậy!
Tiếng chuông vang khắp mà lầu đẹp đổi mới vậy!
Một ấp sắm biện trai bàn lòng thành vậy!
Danh danh tiếng cơ nghiệp ngày càng vang xa vậy!
Chuông lớn mãi còn để thức tỉnh luân hồi mở cõi từ tâm vậy!
Bản xã hưng công: Phó tổng Lê Văn Thành, Hội chủ Lê Xuân Phức, Dương Khắc Nại, Nguyễn Văn Cư, Dương Trọng Thực, Dương Đình Hòa, Dương Công, Chánh Lý trưởng Dương Đình Viên, Dương Văn Văn, Trịnh Văn Quý, Phó Lý Dương Phú, Lê Văn Đỉnh, Lê Văn Hoan, Dương Đình Thư.
Hương lão chức sắc Trùm trưởng, nhân dân trên dưới tám giáp đồng tâm kính ghi công việc hoàn tất:
Giáp lão giáp Thượng: Lê Đăng Cấn, Dương Văn Đào, Lê Văn Hữu, Dương Đình Nhượng, Giáp chùm Dương Văn Văn, Dương Đình Hào, Dương Đình Trang, Dương Đình Lễ, Dương Đình Có thể, Phạm Văn Bằng, Dương Đình Bá, Nguyễn Văn Tiềm.
Giáp lão giáp Hạ: Dương Văn Nghĩa, Nguyễn Văn Cư, Nguyễn Quốc Năm, Nguyễn Văn Kiêm, Dương Văn Thủy… Nguyễn Văn Cấm, Nguyễn Văn Dùng, Giáp chùm Nguyễn Văn Trần, Dương Văn Kiếm, Đào Thế Thái, Nguyễn Văn Quang.
Giáo lão giáp Thượng: Đào Ngọc Tộ, Dương Đình Nhàn, Trịnh Văn Phong, Trịnh Văn Lục, Giáp chùm Nguyễn Viết Mục, Đào Thế Sử, Nguyễn Viết Khang, Nguyễn Viết Xuân, Trịnh Văn Quý, Trịnh Văn Bằng, Nguyễn Viết Tường, Dương Đình Vọng.
Giáp lão giáp Trung: Dương Đình Dao, Dương Đình Hiến, Dương Đình Hòa, Dương Đình Long, Dương Quang Vinh, Nguyễn Phú Quý. Giáp chùm Dương Văn Mặc, Dương Đình Soạn. Dương Đình Viên, Dương Đình Hà, Dương Văn Bào, Dương Đình Tiệm.
Giáp lão giáp (Kim) Thượng: Lê Xuân Cửu, Dương Văn Hiến… Giáp chùm Dương Đình Hai, Nguyễn Phú Cư, Dương Đình Thông, Ngô công Sổ, Dương Trọng Ký, Lê Xuân Sĩ, Lê Xuân Thu, Lê Xuân Thứ, Dương Văn Lỗi.
Giáp lão giáp (Kim) Hạ: Dương Đình Khải, Dương Đình Sự, Lê Văn Nẫm, Dương Đình Hậu. Dương Đình Đình, Lê Văn Lượng, Dương Đình Uông. Giáp chùm Lê Văn Hà Trịnh Bá Trinh, Nguyễn Văn Tiệm, Lê Văn Đỉnh, Dương Bách Văn.
Giáp lão giáp Lỗi Thượng: Dương Khắc Tấu, Dương Khắc Đình, Dương Khắc Lộ, Đỗ Kiêm, Dương Công Cự, Dương Công Tiếp, Lê Văn Tiệm, Nguyễn Văn Bạc. Giáp chùm Dương Khắc Hòa, Dương Khắc Tiệm, Dương Khắc Mông, Dương Công Kiệm.
Giáp lão giáp Lỗi Đông: Lê Xuân Phức, Dương Trọng Thực, Dương Bá Tuấn, Dương Văn Tuân, Lê Văn Hào. Giáp chùm Dương Văn Tân, Dương Trọng Châu, Dương Phú Nhiêu, Lê Xuân Tể, Dương Văn An, Dương Phú Hạo.
Mùa thu năm Nhâm Tuất niên hiệu Tự Đức thứ 15 (1862)”[34].
Đến đây, xin tạm khép lại những trang sử của họ Dương trong lòng dân tộc.
Hà Nội, 20/12/2018
Chú thích:
[1] Việt sử lược (bản dịch Trần Quốc Vượng). Nxb Thuận Hóa, 2005, tr.18.
[2] Lịch Đạo Nguyên. Thủy kinh chú. Nxb Thuận Hóa, 2005, tr.427.
[3] Đào Duy Anh. Đất nước Việt Nam qua các đời, Nhã Nam – Hồng Đức xb, 2016.
[4] Lĩnh Nam trích quái.
[5] Việt sử lược, Sđd, tr.18.
[6] Lịch Đạo Nguyên. Thủy kinh chú, Sđd, tr.427.
[7] Lưu An Vĩ. Bộ máy An Nam Đô hộ phủ của Trung Quốc thời đường (679 – 905), tr.58-62.
[8] Thiền uyển tập anh. Nxb Văn học, 1993, tr.179-181. Theo sách này, trước khi thi tịch, Trưởng lão Đinh La Quý gọi đệ tử là Thiền Ông dặn rằng:
“Trước đây Cao Biền đắp thành ở sông Tô Lịch, biết đất Cổ Pháp ta có khí tượng vương giả bèn đào sông Điềm Giang, đầm Phù Chẩn để cắt yểm long mạch, tất cả mười chín nơi. Ta đã khuyên Khúc Lãm đắp lại như cũ. Ta lại trồng một cây gạo ở chùa Minh Châu để trấn chỗ đất bị cắt long mạch, đời sau tất có bậc đế vương xuất hiện để vun trồng chính pháp của ta. Sau khi ta mất, ngươi nên cho đắp đất, dựng nhiều bảo tháp, dùng pháp thuật mà yểm tàng, không để cho người ngoài biết”.
Chùa Minh Châu thuộc Dương Lôi, hương Diên Uẩn, châu Cổ Pháp (nay trong phường Tân Hồng, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh), đã mất. Cây gạo trồng ở chùa, mãi 1030 năm sau, tức năm 1966 mới bị bão đổ.
[9] Lê Thị Thu Hương. Xã Trường Dương huyện Phú Bình tỉnh Thái Nguyên qua địa bạ Minh Mệnh 21 (1840).
[10] Pierre Gourou. Sđd. Nxb Trẻ, 2015, tr.139. Trừ họ Nguyễn, còn lại mười một họ khác là: Trần, Lê, Phạm, Vũ, Ngô, Đỗ, Hoàng, Đào, Đặng, Dương, Đinh.
[11] Nguyễn Quang Khải. Làng xã Bắc Ninh, 2 tập, Nxb Thanh niên, 2011.
[12] Quốc sử quán triều Nguyễn. Sđd, Nxb Thuận Hóa, 2013, tr.205.
[13] Đại Việt sử ký toàn thư ghi: mùa đông, tháng 10 năm Kỷ Hợi (819), có lẽ dựa vào Tư trị thông giám.
[14] Tức Khúc Thừa Dụ.
[15] Tức Dương Đình Nghệ.
[16] Đặng Xuân Bảng. Sđd, Nxb Khoa học xã hội, 2000, tr.56.
[17] Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, tr.155.
[18] Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, tr.163.
[19] Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, tr.222. Theo Lý tộc, Dương tộc gia phả do Dương Hữu Tự Do biên soạn, Dương Văn Đảm dịch, thì Dương Ổ còn có tên là Dương Tam Ổ, còn theo Lý tộc, Dương tộc đồng gia phả cũng do Dương Hữu Tự Do biên soạn, lương y Dương Văn Tất biên dịch thì nhân vật này có tên là Dương Tam Đảo.
[20] Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, tr.227. Dương Anh Nhĩ mất tháng 11-1135.
[21] Việt sử lược, Sđd, tr.115, 139.
[22] Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, tr.210, 219.
[23] Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, tr.232.
[24] Việt sử lược, Sđd, tr.154; Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, tr.248.
[25] Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, tr.258.
[26] Thực ra, năm đó đã chuyển sang niên hiệu Thiên Cảm Chí bảo năm đầu (Việt sử lược, Sđd, tr.153).
[27] Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, tr.480. Chàng Kinh, nay là Tràng Kênh, Thủy Nguyên – Hải Phòng.
[28] Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, tr.482. Minh thực lục (Q.241, tr.1b) cho biết mãi đến ngày 19 tháng 9 năm Vĩnh Lạc 19 (6-10-1421), Lý Bân mới sai Đô chỉ huy Vương Trung tìm bắt được Dương Cung. Người cậu là Đồ Cô khi bị bắt ở huyện Giáp Sơn phủ Tân An đã chỉ đường cho tướng nhà Minh. Dương Cung bèn bị cùm, đưa sang Bắc Kinh.
[29] Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, tr.576.
[30] Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, tr.903.
[31] Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, tr.903.
[32] Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, tr.954.
[33] Đại Nam thực lục, Chính biên, Q. XLI, Nxb Giáo dục, tập 1, 2006, tr.798-799.
[34] Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Thanh Hóa. Tuyển tập văn bia phật giáo Thanh Hóa, tập 1, Nxb Thanh Hóa, 2017, tr.342-353.
Họ Dương là một tộc họ nằm trong nhóm Bách Việt và không có liên quan gì đến Kinh Dương Vương ( lộc Tục ) gì cả! Nước của họ Dương vào đời nhà Ân là ở Nam Dương phía đông bắc của Hồ Động Đình Nay là thành phố Vũ Hán. Đến giai đoạn cuối của triều đại nhà Ân thì bị nhà Ân xâm chiếm và dời kinh đô từ đất Ân xuống nơi đây cho đến thời của Trụ Vương thì bị tiêu diệt . Họ Dương sau khi bại trận mới chạy xuống phương nam phía nam Ngũ Lĩnh và lập nên nước Dương Việt gồm quân tương Quế Lâm và Nam Hải còn ở phía bắc là nước của cha của vua Hùng Vương Hùng Vương xuống xâm chiếm miền bắc rồi lập ra nước Văn Lang. Cha của vua Hùng Vương cũng là bại tướng của nhà Ân và chạy trốn xuống vùng Ngũ Lĩnh và lập nên nước Chi Trúc . Như vậy sách Lĩnh Nam chích quái ghi chép là hoàn toàn có Cơ sở hơn những cuốn sách khác.
ThíchThích