Ba Lan dưới ảnh hưởng của Liên Xô và chủ nghĩa Stalin (1948-1956)

strajk_w_stoczni_lenina_05-1988a

Sau khi Đảng Cộng sản Ba Lan trước chiến tranh bị tiêu diệt trong cuộc thanh trừng của Stalin vào năm 1938 (khoảng 5.000 người cộng sản Ba Lan bị đưa đến Nga và bị giết), một nhóm những người sống sót do Marceli Nowotko, Bolesław Mołojec và Paweł Finder lãnh đạo đã thuyết phục được Liên Xô vào năm 1941 về sự cần thiết phải thành lập lại một đảng Ba Lan. Đảng Công nhân Ba Lan (PPR) được tập hợp tại Warsaw vào tháng 1/1942. Sau cái chết hoặc bị bắt của các nhà lãnh đạo nói trên ở đó, Władysław Gomułka trở thành bí thư thứ nhất của PPR vào cuối năm 1943. Gomułka là một người cộng sản tận tụy trong truyền thống dân tộc của phong trào cánh tả Ba Lan. Ông ghét những cách làm của Liên Xô mà ông đã trải qua khi được đào tạo ở Nga và Ukraine vào những năm 1930, nhưng vẫn bị thuyết phục về sự cần thiết lịch sử của việc liên minh với Liên Xô. Ông có thể đã sống sót sau các cuộc thanh trừng vì bị bắt giam ở Ba Lan vì các hoạt động tổ chức bất hợp pháp vào năm 1938–39. Trong suốt thời kỳ Đức chiếm đóng, Gomułka vẫn ở Ba Lan và không phải là một phần của vòng tròn được tổ chức ở Liên Xô xung quanh Liên minh những người yêu nước Ba Lan của Stalin và Wanda Wasilewska, một tiểu thuyết gia và nhà báo cánh tả, một cố vấn đáng tin cậy cho Joseph Stalin và ảnh hưởng của bà là điều cần thiết cho việc thành lập Ủy ban Giải phóng Quốc gia Ba Lan vào tháng 7/1944 và sự hình thành của Cộng hòa Nhân dân Ba Lan. Trong xã hội Ba Lan năm 1945, đảng của Gomułka hơi nhỏ so với các nhóm chính trị khác.

Với việc giải phóng các lãnh thổ Ba Lan và thất bại trong Chiến dịch Tempest của Quân đội Nhà (Home Army) vào năm 1944, quyền kiểm soát hậu chiến của Ba Lan được chuyển từ lực lượng chiếm đóng của Đức sang Hồng quân, và từ Hồng quân sang cộng sản Ba Lan, người đã thành lập Ủy ban Giải phóng Quốc gia Ba Lan (Polski Komitet Wyzwolenia Narodowego, PKWN), một chính phủ sơ khai, tồn tại từ cuối tháng 7/1944 tại Lublin. Những người cộng sản Ba Lan đã trở thành nhân tố Ba Lan có ảnh hưởng lớn nhất trong nền chính trị của Ba Lan mới nổi, mặc dù ban đầu chỉ nhận được sự ủng hộ rất nhỏ của quần chúng. PKWN công nhận tính liên tục về mặt pháp lý của Hiến pháp tháng Ba của Ba Lan, trái ngược với Hiến pháp tháng Tư. Vào ngày 6/9/1944, PKWN ban hành sắc lệnh cải cách ruộng đất quan trọng, làm thay đổi cơ bản cấu trúc kinh tế và xã hội lâu đời của đất nước. Hơn một triệu gia đình nông dân được hưởng lợi từ việc hủy bỏ các điền trang lớn hơn.

Những người cộng sản, được ủng hộ bởi các quyết định của Yalta, được hưởng những lợi thế từ sự hỗ trợ của Liên Xô trong kế hoạch của Liên Xô nhằm đưa Đông Âu vững chắc dưới ảnh hưởng của Liên Xô: họ thực hiện quyền kiểm soát đối với các cơ quan quan trọng của chính phủ, chẳng hạn như các dịch vụ an ninh (an ninh nằm trong tay NKVD của Liên Xô cho đến khi các đối tác Ba Lan được phát triển). Bắt đầu từ cuối năm 1944, sau thất bại của Cuộc nổi dậy Warsaw và việc thúc đẩy chương trình dân túy của PKWN, phái đoàn của chính phủ lưu vong London ngày càng bị đa số người Ba Lan coi là một chính phủ thất bại, các tổ chức chính trị-quân sự của nó ngày càng trở thành bị cô lập, và cuộc kháng chiến chống lại các lực lượng chính trị và hành chính mới của cộng sản đã suy yếu một cách rõ ràng. Người dân đã quá mệt mỏi với những năm tháng bị áp bức và xung đột. Những ý tưởng được thể hiện trong Tuyên ngôn PKWN và việc thực hiện tiến bộ của chúng đã thu hút sự ủng hộ ngày càng rộng rãi của xã hội.

Ngoài cải cách ruộng đất, Tuyên ngôn PKWN không có sự thay đổi quyền sở hữu triệt để và quốc hữu hóa ngành công nghiệp không được đề cập đến. Ngược lại, tài sản kinh doanh phải được trả lại cho chủ sở hữu khi các quan hệ kinh tế được điều chỉnh hợp lý. Từ năm 1944 tại các vùng giải phóng, hưởng ứng các khẩu hiệu được ban hành, công nhân tự phát tiếp quản các cơ sở nhà máy hiện có, thành lập hội đồng công nhân, tiến hành tái thiết, khởi động và sản xuất. Một cuộc đấu tranh và cưỡng chế lao động đáng kể là cần thiết để PPR yêu cầu các nhà máy thực thi các quy tắc riêng của mình.

PKWN được định hình lại thành Chính phủ lâm thời của Cộng hòa Ba Lan (Rząd Tymczasowy Rzeczypospolitej Polskiej, RTRP), hoạt động từ tháng 1/1945. Chính phủ này do Edward Osóbka-Morawski, một nhà xã hội chủ nghĩa đứng đầu, nhưng những người cộng sản, hầu hết không thuộc PPR như Michał Rola-Żymierski, nắm giữ đa số các chức vụ chủ chốt. Tháng 4/1945, một hiệp ước hữu nghị và hợp tác Ba Lan-Liên Xô được ký kết, nó hạn chế nghiêm trọng khả năng tác động của phương Tây hoặc chính quyền trong tương lai hoặc hợp tác nội bộ với các lực lượng chính trị phi cộng sản ở Ba Lan. Các chính phủ liên tiếp chịu ảnh hưởng của Liên Xô thời kỳ đầu đều trực thuộc quốc hội không được bầu cử, do cộng sản kiểm soát, Hội đồng Quốc gia Nhà nước (Krajowa Rada Narodowa, KRN), được thành lập bởi Gomułka và PPR của ông ta ở Warsaw bị chiếm đóng vào tháng 1/1944. Các cơ cấu chính phủ cộng sản không được công nhận bởi chính phủ lưu vong ngày càng bị cô lập của Ba Lan, vốn đã thành lập bán quốc hội của riêng mình, Hội đồng Thống nhất Quốc gia (Rada Jedności Narodowej, RJN).

Thỏa thuận Yalta quy định một liên minh chính phủ ở Ba Lan gồm tất cả các thành phần dân chủ và chống Đức. Thủ tướng Stanisław Mikołajczyk của chính phủ lưu vong Ba Lan từ chức vào tháng 11/1944 và sau khi chấp nhận các điều khoản của Yalta đã đến Moscow, nơi ông thương lượng với Bolesław Bierut về hình dạng của một chính phủ đoàn kết dân tộc. Mikołajczyk, cùng với một số các nhà lãnh đạo Ba Lan lưu vong khác, trở về Ba Lan vào tháng 7/1945. Chính phủ thống nhất quốc gia lâm thời mới của Ba Lan (Tymczasowy Rząd Jedności Narodowej, TRJN) – với tên gọi chính phủ Ba Lan cho đến cuộc bầu cử năm 1947 – được thành lập vào ngày 28/6/1945. Osóbka-Morawski được giữ làm thủ tướng, Gomułka trở thành phó thủ tướng thứ nhất và Mikołajczyk phó thủ tướng thứ hai kiêm bộ trưởng nông nghiệp. Chính phủ lâm thời và Hội nghị Potsdam đã sớm tuyên bố rằng trước khi một chính phủ thông thường được thành lập, các cuộc bầu cử tự do phải được tổ chức và một hệ thống hiến pháp vĩnh viễn được thiết lập.

Đối thủ chính của những người cộng sản là các nhà hoạt động kỳ cựu của Nhà nước Ngầm Ba Lan, Đảng Nhân dân Ba Lan của Mikołajczyk (Polskie Stronnictwo Ludowe, PSL), và các cựu chiến binh của Lực lượng vũ trang Ba Lan ở phương Tây. Có tầm quan trọng thực tế đặc biệt là Đảng Nhân dân của Mikołajczyk (ban đầu là một tổ chức nông dân), vì nó được những người cộng sản công nhận về mặt pháp lý và do đó có thể hoạt động trong chính trường. Đảng Nhân dân muốn ngăn cản những người cộng sản độc chiếm quyền lực và cuối cùng thiết lập một chính thể nghị viện với nền kinh tế thị trường bằng cách giành chiến thắng trong các cuộc bầu cử đã hứa. Mikołajczyk hy vọng rằng một quốc gia Ba Lan độc lập, thân thiện với Liên Xô, sẽ được phép hoạt động như một cầu nối giữa phương Đông và phương Tây.

Các đảng theo khuynh hướng Xô Viết, được Hồng quân Liên Xô hậu thuẫn và lực lượng an ninh kiểm soát, nắm hầu hết quyền lực, đặc biệt tập trung trong Đảng Công nhân Ba Lan dưới thời Gomułka và Bierut. Bierut đại diện cho dòng người được bổ nhiệm vào đảng Ba Lan (trong và sau chiến tranh) từ Liên Xô và do Liên Xô áp đặt, một quá trình được đẩy nhanh vào thời điểm diễn ra Đại hội PPR tháng 12/1945. Số thành viên của đảng này đã tăng lên đáng kể từ có lẽ là vài nghìn vào đầu năm 1945 lên hơn một triệu vào năm 1948.

Để thể hiện sự thống trị của Liên Xô, mười sáu nhà lãnh đạo nổi bật của lực lượng ngầm đã bị đưa ra xét xử tại Moscow vào tháng 6/1945. Việc loại bỏ họ khỏi chính trường đã ngăn cản khả năng tiến tới một quá trình chuyển đổi dân chủ theo các thỏa thuận Yalta. Phiên tòa xét xử các bị cáo bị cáo buộc cộng tác với Đức một cách vô lý và sai trái, đã được các nhà ngoại giao Anh và Mỹ theo dõi mà không phản đối. Sự vắng mặt của các bản án tử hình được mong đợi là sự nhẹ nhõm của họ. Chính phủ lưu vong ở London, sau khi Mikołajczyk từ chức do Tomasz Arciszewski lãnh đạo, không còn được Anh và Mỹ chính thức công nhận vào ngày 5/7/1945.

Năm 1943, sau khi tiết lộ về vụ thảm sát Katyn, Stalin đình chỉ quan hệ với chính phủ Ba Lan lưu vong ở Luân Đôn. Tại Hội nghị Yalta tháng 2/1945, Liên Xô đồng ý cho phép thành lập một chính phủ liên hiệp gồm những người cộng sản, bao gồm Đảng Công nhân Ba Lan (Polska Partia Robotnicza, PPR), cũng như các phần tử thân phương Tây của Ba Lan lưu vong và ở Ba Lan, và sau đó để sắp xếp các cuộc bầu cử tự do được tổ chức. Stalin đã hứa tại Hội nghị Yalta rằng các cuộc bầu cử tự do sẽ được tổ chức ở Ba Lan. Tuy nhiên, những người cộng sản Ba Lan, do Gomułka và Bierut lãnh đạo không có ý định từ bỏ quyền lực cũng nhận thức được sự ủng hộ hạn chế mà họ được hưởng trong dân chúng.

Để tránh khó khăn này, vào năm 1946, một cuộc trưng cầu dân ý toàn quốc, được gọi là cuộc trưng cầu dân ý (Trzy razy tak), đã được tổ chức đầu tiên, trước cuộc bầu cử quốc hội. Cuộc trưng cầu bao gồm ba câu hỏi khá chung chung, nhưng mang tính chính trị về Thượng viện, các ngành công nghiệp quốc gia và biên giới phía tây. Nó nhằm mục đích kiểm tra và thúc đẩy sự phổ biến của các sáng kiến ​​cộng sản ở Ba Lan. Vì hầu hết các đảng quan trọng vào thời điểm đó là cánh tả hoặc trung tâm – và có thể dễ dàng chấp thuận cả ba lựa chọn – Đảng Nhân dân Ba Lan (PSL) của Mikołajczyk đã quyết định: không hợp nhất vào khối chính phủ, yêu cầu những người ủng hộ phản đối điều đầu tiên: việc bãi bỏ Thượng viện. Phe cộng sản không mấy ủng hộ trong câu hỏi đầu tiên. Tuy nhiên, sau một chiến dịch bằng gian lận bầu cử và đe dọa, những người cộng sản đã ủng hộ cả ba câu hỏi, dẫn đến việc quốc hữu hóa ngành công nghiệp và sự kiểm soát của nhà nước đối với hoạt động kinh tế nói chung, và một quốc hội đơn viện (Sejm). Trong những năm 1945–47, khoảng 500.000 binh sĩ Liên Xô đã đóng quân tại Ba Lan. Từ năm 1945 đến năm 1948, khoảng 150.000 người Ba Lan đã bị chính quyền Xô Viết bắt giam. Nhiều cựu thành viên Quân đội Nhà đã bị bắt và bị hành quyết.

Trong Hội nghị toàn thể Ủy ban Trung ương PPR tháng 5/1945, Gomułka phàn nàn rằng quần chúng Ba Lan coi những người cộng sản Ba Lan là cơ quan tồi tệ nhất của NKVD và Edward Ochab tuyên bố việc rút Quân đội Liên Xô khỏi Ba Lan là một ưu tiên hàng đầu. Nhưng trong khi đó, hàng chục nghìn người Ba Lan đã chết trong cuộc đấu tranh và bắt bớ thời hậu chiến và hàng chục nghìn người đã bị tòa án kết án về những tội danh bịa đặt và tùy tiện hoặc bị trục xuất về Liên Xô. Tình trạng của quân đội Liên Xô tại Ba Lan không được hợp pháp hóa cho đến cuối năm 1956, khi tuyên bố Ba Lan-Liên Xô về quy chế pháp lý của các lực lượng Liên Xô tạm thời đóng tại Ba Lan được ký kết. Nhóm Lực lượng phía Bắc của Liên Xô sẽ đóng quân vĩnh viễn tại Ba Lan.

Trong Hội nghị Potsdam tiếp theo vào tháng 7 đến tháng 8/1945, ba nước Đồng minh lớn đã phê chuẩn sự chuyển dịch lớn về phía Tây của biên giới Ba Lan và chấp thuận lãnh thổ mới của mình giữa đường Oder-Neisse và đường Curzon, dẫn đến biên giới Ba Lan bị thu hẹp và giống với thời đại của triều đại Piast trước đây. Sau khi Liên Xô sáp nhập các vùng lãnh thổ Kresy ở phía đông biên giới Curzon, khoảng 2 triệu người Ba Lan đã được di chuyển, chuyển nhượng hoặc trục xuất khỏi các khu vực này vào các lãnh thổ mới ở phía tây và phía bắc của tuyến Oder-Neisse từ Đức sang Ba Lan theo Hiệp định Potsdam. Những người khác ở lại nơi đã trở thành Liên Xô và nhiều hơn nữa đến Ba Lan sau năm 1956. Việc định cư bổ sung với những người từ các vùng trung tâm của Ba Lan đã đưa số lượng người Ba Lan ở nơi mà chính phủ gọi là Vùng lãnh thổ thu hồi lên đến 5 triệu người vào năm 1950. Phần lớn dân số Đức trước đây gồm 10 triệu người đã chạy trốn hoặc bị trục xuất sang Đức sau chiến tranh vào năm 1950. Khoảng 4,4 triệu người chạy trốn trong giai đoạn cuối của cuộc chiến và 3,5 triệu người đã bị chính quyền Ba Lan loại bỏ trong giai đoạn 1945–1949. Việc trục xuất người Đức là kết quả của các quyết định của Đồng minh được hoàn thành tại Potsdam. Với việc trục xuất người Ukraine và người Belarus từ Ba Lan sang Liên Xô và Chiến dịch Vistula năm 1947 đã giải tán những người Ukraine còn lại ở Ba Lan. Cùng với phần lớn người Do Thái Ba Lan bị Đức tiêu diệt trong Holocaust và nhiều người sống sót đã di cư đến Tây và với Israel mới thành lập, Ba Lan lần đầu tiên trở thành một quốc gia dân tộc thuần nhất về sắc tộc. Các phong trào dân cư tự phát và do chính phủ áp đặt đã trở thành một trong những biến động nhân khẩu học lớn nhất trong lịch sử châu Âu.

Không giống như các quốc gia châu Âu khác, Ba Lan tiếp tục truy tố rộng rãi cả thủ phạm Đức QX và những người cộng tác của chúng vào những năm 1950. Theo Alexander Prusin, Ba Lan nhất quán trong việc điều tra và truy tố tội ác chiến tranh giữa các quốc gia cộng sản thời hậu chiến: từ năm 1944 đến năm 1985, các tòa án Ba Lan đã xét xử hơn 20.000 bị cáo trong đó có 5.450 công dân Đức. Chính phủ mới củng cố quyền lực chính trị của mình, trong khi Đảng Công nhân Thống nhất Ba Lan (PZPR) dưới quyền của Bolesław Bierut đã giành được quyền kiểm soát vững chắc đối với đất nước, vốn sẽ vẫn là một quốc gia độc lập trong phạm vi ảnh hưởng của Liên Xô. Hiến pháp tháng Bảy được ban hành vào ngày 22/7/1952 và quốc gia này chính thức trở thành Cộng hòa Nhân dân Ba Lan (PRL). Sau cái chết của Stalin vào năm 1953, một cuộc “tan băng” chính trị đã cho phép một phe tự do hơn của những người cộng sản Ba Lan, do Władysław Gomułka lãnh đạo, lên nắm quyền.

Cũng như ở các nước Khối Đông khác, có một cuộc thanh trừng chính trị theo kiểu Liên Xô đối với các quan chức cộng sản ở Ba Lan sau năm 1948, bị cáo buộc là “chủ nghĩa dân tộc” hoặc các khuynh hướng “lệch lạc” khác. Chiến dịch nửa vời ở Ba Lan bao gồm các vụ bắt giữ và bỏ tù Marian Spychalski (Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Ba Lan) tháng 5/1950, và ngúời thay thế Michał Rola-Żymierski năm tháng sau cái chết của Stalin. Vào tháng 9/1948, Władysław Gomułka, người phản đối sự kiểm soát trực tiếp của Stalin đối với đảng PPR, đã bị buộc tội, cùng với một nhóm lãnh đạo cộng sản, những người như Gomułka đã trải qua cuộc chiến ở Ba Lan, với tư tưởng xa rời chủ nghĩa Lenin, và bị bãi nhiệm khỏi chức vụ của đảng. Gomułka, bị cáo buộc “lệch lạc chủ nghĩa dân tộc cánh hữu”, đã thực sự nhấn mạnh các truyền thống xã hội chủ nghĩa của Ba Lan và chỉ trích nặng nề đảng Dân chủ Xã hội của Vương quốc Ba Lan và Lithuania (SDKPiL) của Rosa Luxemburg vì đã coi thường nguyện vọng dân tộc của Ba Lan. Thâm hiểm hơn, Liên Xô tuyên bố Gomułka tham gia vào một âm mưu quốc tế chống Liên Xô. Theo lệnh của Bolesław Bierut, ông bị Bộ Công an (MBP) bắt vào đầu tháng 8/1951 và bị Roman Romkowski và Anatol Fejgin thẩm vấn theo yêu cầu của Liên Xô. Gomułka không bị tra tấn thể xác không giống như những người cộng sản khác bị đàn áp dưới chế độ Bierut, Jakub Berman, và các cộng sự khác của Stalin. Dưới sự thẩm vấn, ông thách thức tự tiến hành bào chữa của mình, đe dọa sẽ tiết lộ “toàn bộ sự thật” nếu bị đưa ra xét xử. Do đó, Gomułka đã bị đưa vào tù mà không có một phiên tòa trình diễn điển hình nào (ông được trả tự do vào tháng 12/1954). Bierut thay thế Gomułka làm lãnh đạo PPR (và sau đó là PZPR). Gomułka vẫn được các đồng đội Ba Lan của mình bảo vệ trong khả năng tốt nhất của họ và thành tích về sự bất chấp đôi khi của ông có ích khi vào năm 1956, có cơ hội để đảng Ba Lan tự khẳng định lại mình.

Chính phủ thân Stalin do những người cộng sản Ba Lan kiểm soát có nguồn gốc từ các phe phái và tổ chức thời chiến hoạt động ở Liên Xô dưới thời Stalin, chẳng hạn như Liên minh những người yêu nước Ba Lan. Các nhà lãnh đạo của họ vào thời điểm đó bao gồm Wanda Wasilewska và Zygmunt Berling. Giờ đây, ở Ba Lan, những người vẫn hoạt động chính trị và ủng hộ đã cai trị đất nước, được hỗ trợ bởi MBP và các “cố vấn” của Liên Xô, những người được đặt trong mọi cánh tay của chính phủ và an ninh nhà nước như một sự đảm bảo cho chính sách thân Liên Xô của nhà nước. Người quan trọng nhất trong số họ là Konstantin Rokossovsky (Konstanty Rokossowski trong tiếng Ba Lan), Bộ trưởng Quốc phòng Ba Lan từ năm 1949 đến năm 1956, Nguyên soái Liên Xô và anh hùng chiến tranh. Nghĩa vụ quân sự được đưa ra sau một thời gian gián đoạn sau chiến tranh và quân đội nhanh chóng đạt quy mô thường trực là 400.000 người.

Cảnh sát mật kiểu Xô Viết bao gồm cả Bộ An ninh (UB) đã tăng lên khoảng 32.000 đặc vụ vào năm 1953. Vào thời kỳ đỉnh cao của chế độ thân Stalin, cứ 800 công dân Ba Lan thì có một đặc vụ UB. MBP cũng phụ trách Lực lượng An ninh Nội bộ, Dân quân Dân sự (MO), biên phòng, nhân viên nhà tù và cảnh sát bán quân sự ORMO được sử dụng cho các hành động đặc biệt (với hơn 100.000 thành viên). ORMO bắt nguồn từ những nỗ lực tự vệ phổ biến, là một phản ứng tự phát trước sự bùng nổ của tội phạm trong khoảng trống quyền lực năm 1944–45. Vào tháng 2/1946, PPR đã tổ chức và chính thức hóa phong trào dân quân công dân này, tạo ra cấu trúc ORMO tự nguyện kiểm soát tội phạm. Các công tố viên và thẩm phán cũng như các cơ quan chức năng của Bộ Công an và Tổng cục Thông tin chính của Quân đội Ba Lan đã tham gia vào các hành vi được luật pháp quốc tế công nhận là tội ác chống loài người và tội ác chống lại hòa bình. Một ví dụ là vụ hành quyết Nhà tù Mokotów năm 1951 ở Warsaw của các thành viên của tổ chức Tự do và Độc lập (WiN), những người từng tham gia kháng chiến chống PX Đức. Quân đội Ba Lan thời hậu chiến, tình báo và cảnh sát được biên chế với các sĩ quan NKVD của Liên Xô đóng quân tại Ba Lan cùng với Lực lượng Phương Bắc cho đến năm 1956.

Các vụ bắt giữ hàng loạt tiếp tục diễn ra vào đầu những năm 1950. Vào tháng 10/1950, 5.000 người đã bị bắt trong một đêm trong cái gọi là “Chiến dịch K”. Năm 1952, hơn 21.000 người bị bắt. Vào nửa cuối năm 1952, theo số liệu chính thức, 49.500 tù nhân chính trị đang bị giam giữ. Cựu chỉ huy Quân đội Nội vụ Emil August Fieldorf đã phải chịu nhiều năm khủng bố tàn bạo ở Liên Xô và Ba Lan trước khi bị hành quyết vào tháng 2/1953, ngay trước khi Stalin qua đời.

Sự phản kháng đối với Liên Xô và những người theo chủ nghĩa Stalin bản địa đã phổ biến rộng rãi không chỉ trong dân chúng nói chung mà còn cả hàng ngũ PZPR, điều này đã hạn chế thiệt hại của hệ thống áp bức ở Ba Lan thấp hơn nhiều so với các nước Đông Âu. Theo Norman Davies, bạo lực chính trị sau năm 1947 không phổ biến. Nhà thờ, bị tịch thu một phần tài sản, phần lớn vẫn còn nguyên vẹn, giới trí thức bị gạt ra ngoài lề ở một mức độ đáng kể vẫn có khả năng ảnh hưởng đến những cải cách trong tương lai, giai cấp nông dân tránh tập thể hóa bán buôn và tàn dư của doanh nghiệp tư nhân vẫn tồn tại. Những thay đổi tự do hóa dần dần đã diễn ra giữa cái chết của Stalin vào năm 1953 và tháng Mười Ba Lan năm 1956.

Vào tháng 2 năm 1948, Bộ trưởng Bộ Công nghiệp Hilary Minc, một nhà kinh tế học theo chủ nghĩa Marx, đã tấn công Văn phòng Kế hoạch Trung ương Ba Lan là tàn dư “tư sản”, văn phòng này bị bãi bỏ và nền kinh tế Stalin của Ba Lan ra đời. Chính phủ do Tổng thống Bierut đứng đầu, Thủ tướng Cyrankiewicz và Minc đã bắt tay vào một chương trình sâu rộng về cải cách kinh tế và tái thiết quốc gia. Ba Lan đã phù hợp với mô hình của Liên Xô về một “nước cộng hòa nhân dân” và nền kinh tế chỉ huy kế hoạch hóa tập trung thay cho nền dân chủ và kinh tế thị trường từng phần mà chế độ này đã duy trì cho đến năm 1948. Các mối quan hệ về sở hữu công nghiệp, ngân hàng và tài sản ở nông thôn sau khi quốc hữu hoá và cải cách ruộng đất đã bị thay đổi cơ bản. Những thay đổi, được thực hiện dưới danh nghĩa chủ nghĩa quân bình, đã nhận được sự đồng tình và ủng hộ rộng rãi của xã hội.

Cơ cấu nền kinh tế Ba Lan được thiết lập vào cuối những năm 1940 và đầu những năm 1950. Kế hoạch kiểu Liên Xô bắt đầu vào năm 1950 với Kế hoạch 6 năm. Kế hoạch này tập trung vào phát triển nhanh chóng ngành công nghiệp nặng (“tăng tốc công nghiệp hóa”, sau khi Chiến tranh Triều Tiên bùng nổ do yêu cầu của quân đội Liên Xô với cái giá là nhiều khoản đầu tư hướng tới người tiêu dùng bị hủy bỏ) và (cuối cùng là vô ích) tập thể hoá nông nghiệp. Trong số các dự án chính có Nhà máy thép Lenin và “thành phố xã hội chủ nghĩa” hỗ trợ của nó là Nowa Huta (Nhà máy thép mới), cả hai đều được xây dựng từ đầu vào đầu những năm 1950 gần Kraków, trong đó Nowa Huta sớm trở thành một phần của nó. Đất đai chiếm được từ các chủ đất lớn trước chiến tranh được chia lại cho nông dân nghèo hơn, nhưng những nỗ lực sau đó nhằm lấy đất của nông dân để tập thể hóa đã vấp phải sự phẫn nộ rộng rãi.

Ở nơi được gọi là cuộc chiến thương mại, thương mại tư nhân và công nghiệp đã được quốc hữu hóa. Trong vòng vài năm, hầu hết các cửa hàng tư nhân đều biến mất. Chế độ bắt tay vào chiến dịch tập thể hóa (Các nông trường quốc doanh được thành lập), mặc dù tốc độ của sự thay đổi này chậm hơn so với các vệ tinh khác của Liên Xô. Ba Lan vẫn là quốc gia duy nhất của Khối phương Đông mà nông dân sẽ tiếp tục thống trị nông nghiệp. Một hiệp ước thương mại Liên Xô-Ba Lan, được khởi xướng vào tháng 1/1948, quy định hướng chủ đạo của hợp tác kinh tế và ngoại thương trong tương lai của Ba Lan. Năm 1948, Hoa Kỳ công bố sáng kiến ​​Kế hoạch Marshall nhằm giúp tái thiết châu Âu thời hậu chiến và do đó có thêm quyền lực chính trị ở đó. Sau khi ban đầu hoan nghênh ý tưởng về việc Ba Lan tham gia vào kế hoạch, chính phủ Ba Lan đã từ chối lời đề nghị của Mỹ dưới áp lực của Moscow. Ngoài ra, sau Cuộc nổi dậy năm 1953 ở Đông Đức, Ba Lan bị Liên Xô buộc phải từ bỏ yêu cầu bồi thường từ Đức, do đó không phải trả một khoản bồi thường đáng kể nào cho những thiệt hại chiến tranh cho nhà nước Ba Lan hoặc cho công dân Ba Lan. Ba Lan đã nhận được bồi thường dưới dạng đất đai và tài sản do người Đức ở các vùng lãnh thổ phía tây sáp nhập để lại.

Bất chấp việc thiếu viện trợ của Mỹ, các “nền kinh tế chỉ huy” ở Đông Âu, bao gồm Ba Lan, đã đạt được một số tiến bộ trong việc thu hẹp khoảng cách giàu có trong lịch sử với nền kinh tế thị trường do Tây Âu thúc đẩy. Do tích lũy tư bản, thu nhập quốc dân Ba Lan tính theo giá trị thực tăng hơn 76% và sản xuất nông nghiệp và công nghiệp tăng hơn gấp đôi từ năm 1947 đến năm 1950. Quá trình chuyển đổi kinh tế và công nghiệp hóa đi kèm và có thể thực hiện được nhờ những chuyển đổi xã hội lớn do nông dân di cư và được chuyển đổi thành tầng lớp lao động sống ở thành phố (1,8 triệu người từ năm 1946 đến năm 1955) và đất nước đã trải qua thời kỳ đô thị hóa nhanh chóng (tổng dân số của các thành phố tăng 3,1 triệu người). Dòng lao động giá rẻ và sự sẵn có của thị trường Liên Xô đã tạo điều kiện cho việc tích lũy tài nguyên, mặc dù năng suất thấp và không đủ đầu tư vào công nghệ mới. Các nền kinh tế xã hội chủ nghĩa kế hoạch hóa tập trung của Đông Âu về tốc độ tăng trưởng trong những năm sau chiến tranh tương đối tốt hơn so với phương Tây, chỉ để duy trì thiệt hại kinh tế về sau, đặc biệt là sau cuộc khủng hoảng dầu mỏ năm 1973. Tuy nhiên, sự gia tăng mức sống do các động lực công nghiệp trước đó gây ra không thể so sánh được với phương Tây.

Sự trao đổi lãnh thổ cuối cùng giữa Ba Lan và Liên Xô diễn ra vào năm 1951. Khoảng 480 km2 đất dọc biên giới đã được hoán đổi giữa Ba Lan và Liên Xô. Hiến pháp của Cộng hòa Nhân dân Ba Lan được ban hành vào tháng 7/1952 và nhà nước chính thức trở thành Cộng hòa Nhân dân Ba Lan (PRL). Trong số các quyền mà nó được đảm bảo là chăm sóc sức khỏe miễn phí toàn dân. Các doanh nghiệp nhà nước lớn cung cấp cho nhân viên một loạt các hoạt động phúc lợi và giải trí, bao gồm nhà ở, cơ sở thể thao và bệnh viện, bắt đầu giảm dần vào những năm 1970. Vào đầu những năm 1950, chế độ thân Stalin cũng đã thực hiện những thay đổi lớn đối với hệ thống giáo dục. Chương trình giáo dục phổ thông miễn phí và bắt buộc cho tất cả mọi người và việc thành lập các cơ sở giáo dục đại học miễn phí đã nhận được nhiều sự ủng hộ. Những người cộng sản đã sàng lọc ra những sự kiện và cách diễn giải nào sẽ được dạy; lịch sử và các khoa học khác phải tuân theo các quan điểm của chủ nghĩa Marx đã được sự kiểm duyệt ý thức hệ chấp thuận. Trong giai đoạn 1951–53, một số lượng lớn các giáo sư trước chiến tranh bị chế độ coi là phản động đã bị sa thải khỏi các trường đại học. Sự kiểm soát của chính phủ đối với nghệ thuật và nghệ sĩ ngày càng sâu sắc. Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa kiểu Xô Viết trở thành công thức duy nhất được nhà cầm quyền chấp nhận sau năm 1949. Hầu hết các tác phẩm văn học nghệ thuật thể hiện sự tuyên truyền của đảng hoặc phải phù hợp với quan điểm của đảng.

Các cuộc cải cách thường mang lại sự cứu trợ cho một bộ phận đáng kể dân chúng. Sau Thế chiến II, nhiều người sẵn sàng chấp nhận chế độ cộng sản để đổi lấy việc khôi phục cuộc sống tương đối bình thường, hàng trăm ngàn người đã gia nhập đảng cộng sản và tích cực ủng hộ chế độ. Tuy nhiên, sự bất bình tiềm ẩn của dân chúng vẫn hiện diện và nhiều người Ba Lan đã áp dụng thái độ “cam chịu hợp tác”. Những người khác, như tổ chức Tự do và Độc lập có nguồn gốc từ các thành phần của Quân đội Nhà và đặc biệt là Lực lượng Vũ trang Quốc gia tích cực chống lại những người cộng sản, hy vọng về một Thế chiến III sẽ giải phóng Ba Lan. Hầu hết những người cầm vũ khí chống lại chế độ cộng sản đã đầu hàng trong các đợt ân xá năm 1945 và 1947, nhưng các cuộc trấn áp tàn bạo của cảnh sát mật vẫn tiếp tục và một số đã chiến đấu tốt trong những năm 1950.

Những người cộng sản càng xa lánh nhiều người Ba Lan bằng cách đàn áp Nhà thờ Công giáo. Hiệp hội PAX được thành lập vào năm 1947 và do nhà hoạt động cực hữu trước chiến tranh Bolesław Piasecki lãnh đạo, đã cố gắng chia rẽ phong trào Công giáo và thúc đẩy một nhà thờ cộng tác, thân thiện với chế độ cộng sản. PAX không tiến xa lắm trong việc định hướng dư luận Công giáo, nhưng đã xuất bản nhiều cuốn sách và chính thức phê duyệt báo chí Công giáo hàng ngày. Năm 1953, Hồng y Stefan Wyszyński, Linh mục Ba Lan, bị quản thúc tại gia, mặc dù ông đã sẵn sàng thỏa hiệp với chính phủ. Vào đầu những năm 1950, cuộc chiến chống tôn giáo của cảnh sát mật đã dẫn đến việc bắt giữ và đàn áp hàng trăm nhân vật tôn giáo, mà đỉnh điểm là phiên tòa xét xử Giáo triều Kraków theo chủ nghĩa Stalin.

Hiến pháp năm 1952 đảm bảo trên giấy tờ tất cả các quyền dân chủ và tự do. Trên thực tế, đất nước được kiểm soát ngoài hiến pháp bởi Đảng Công nhân Thống nhất Ba Lan, đảng này sử dụng các quy tắc và thông lệ riêng của mình để giám sát tất cả các tổ chức chính phủ được quy định trong hiến pháp. Chức vụ Tổng thống Ba Lan được thay thế bằng Hội đồng Nhà nước tập thể, nhưng Bierut, bí thư thứ nhất của đảng, vẫn là nhà lãnh đạo hiệu quả của Ba Lan. Trong tương lai, sự tồn tại của một hiến pháp với các điều khoản dân chủ sẽ mang lại cho phe đối lập một công cụ pháp lý và một cách để gây áp lực lên chế độ.

Stalin qua đời vào năm 1953, sau đó là sự tan băng một phần ở Ba Lan. Nikita Khrushchev trở thành bí thư thứ nhất của Đảng Cộng sản Liên Xô. Đại hội lần thứ hai của PZPR đã thảo luận vào tháng 3/1954. Cyrankiewicz, trước đó được thay thế làm thủ tướng bởi Bierut, đã được trở lại chức vụ đó (giữ chức thủ tướng cho đến tháng 12/1970). Kế hoạch 6 năm đã được điều chỉnh để tăng cường sản xuất các mặt hàng phục vụ nhu cầu tiêu dùng phổ thông. Khrushchev, có mặt tại Đại hội, hỏi Bierut về lý do tiếp tục giam giữ Gomułka, “một người cộng sản tốt”; Bierut phủ nhận không biết cụ thể về việc Gomułka bị giam cầm.

Sau cuộc đào tẩu sang phương Tây và những tiết lộ của chính thức Józef Światło (một quan chức cấp cao Bộ Công An), Bộ Công an đã bị bãi bỏ vào tháng 12/1954. Gomułka và các cộng sự của ông được giải phóng khỏi sự giam giữ và kiểm duyệt được nới lỏng hơn một chút. Hai ấn phẩm định kỳ đáng chú ý bất chấp các lệnh cấm là Po prostu (‘Đơn giản’) và Nowa Kultura (‘Nền văn hóa mới’) (Po prostu bị đóng cửa và những người bảo vệ nó đã bình định một cách tàn bạo vào tháng 10/1957, chỉ một năm sau khi Gomułka lên nắm quyền). Từ đầu năm 1955, báo chí Ba Lan tham gia chỉ trích quá khứ gần đây của chủ nghĩa Stalin và ca ngợi các truyền thống xã hội chủ nghĩa cũ của Ba Lan (chủ nghĩa Marx dân chủ xã hội và độc lập dân tộc). Các câu lạc bộ thảo luận chính trị đã gia tăng trên khắp đất nước. Bản thân đảng dường như đang vận động theo hướng dân chủ xã hội. Các trí thức cánh tả, những người đã gia nhập đảng vì cam kết thực hiện công bằng xã hội, đã đi theo hướng dân chủ xã hội một cách dứt khoát hơn và họ sớm làm nảy sinh phong trào xét lại Ba Lan.

Vào tháng 2/1956, Khrushchev tố cáo sự sùng bái nhân cách của Stalin tại Đại hội 20 của Đảng Cộng sản Liên Xô và bắt tay vào một quá trình cải cách. Việc loại bỏ hệ tư tưởng chính thức của Liên Xô khiến những người theo chủ nghĩa Stalin ở Ba Lan rơi vào tình thế khó khăn. Trong khi tình trạng bất ổn và mong muốn cải cách và thay đổi trong cả giới trí thức và công nhân đang bắt đầu nổi lên khắp Khối phía Đông, thì cái chết của đồng minh của Stalin là Bierut vào tháng 3/1956 tại Moscow (ông ta đang tham dự đại hội đảng Liên Xô) làm trầm trọng thêm tình trạng chia rẽ hiện có ở đảng Ba Lan. Khi Đại hội 20 truyền cảm hứng cũng như dân chủ hóa một phần đời sống chính trị và kinh tế Ba Lan, Ochab đã tham gia vào các cuộc cải cách nhằm thúc đẩy phân cấp công nghiệp và cải thiện mức sống.

Số lượng nhân viên an ninh đã bị cắt giảm 22%. Bằng một lệnh ân xá rộng rãi, 35.000 người bị giam giữ trên toàn quốc đã được trả tự do, 9.000 bị tù vì lý do chính trị đã được trả tự do. Những người theo chủ nghĩa Stalin cứng rắn, chẳng hạn như Jakub Berman, Roman Romkowski và Anatol Fejgin đã bị tước bỏ quyền lực, một số bị bắt. Berman, bị cách chức vào tháng 5, theo quyết định của Gomułka không bao giờ bị truy tố. Một số thủ phạm gây ra tội ác theo chế độ Stalin đã bị truy tố và bị kết án tù. Các công tố viên đã chính thức đưa ra một kế hoạch rộng lớn hơn nhiều để buộc tội người chịu trách nhiệm và xác minh tất cả bộ máy an ninh, nhưng hành động này không được Gomułka, người được coi là trong số các nạn nhân của cuộc đàn áp Stalin, cũng như vợ ông, chấp thuận. Gomułka đã tiến hành một số cuộc thanh trừng và cải tổ nhưng không muốn làm mất ổn định hệ thống an ninh, hiện do ông ta kiểm soát, bằng các vụ truy tố chính thức trên phạm vi rộng.


Sevgei Alpha 

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s