Tác giả Orlando Figes
Trần Quang Nghĩa dịch
Chương 9
Đất Nước Tự Do Nhất Thể Giới
i Một Nhà Nước Cấp Tiến Xa Vời
Không có gì trong kinh nghiệm của mình trước đây chuẩn bị đầy đủ cho Hoàng thân Lvov về nhiệm vụ đang nằm trước mặt ông với tư cách Thủ tướng Chính quyền Lâm thời. Không phải là ông không quen với những giờ làm việc miệt mài mà chức vụ cao cấp đòi hỏi. Công tác thời chiến ở Liên minh Zemstvo đã chuẩn bị cho ông điều đó và, mặc dù giờ đây mệt mỏi thường xuyên, ông hoàn toàn có thể đảm đương với mức độ căng thẳng gia tăng này. Từ sáng sớm cho đến nửa đêm Lvov luôn túc trực ở Điện Marinsky, tiếp các phái đoàn từ mọi miền nước Nga, gặp gỡ các nhà ngoại giao nước ngoài, chủ tọa các phiên họp nội các, dặn dò các viên chức và trả lời phỏng vấn báo chí. Nabokov gặp ông vào những ngày đầu tháng ba và ‘giật mình trước vẻ tiều tụy, chán nản và nét mệt mỏi trong đôi mắt ông’.
Cũng không ai có thể cho rằng Hoàng thân chưa chuẩn bị tốt cho gánh nặng chất chồng và mới mẻ của công việc điều hành. Chính tài năng quản trị của ông khiến ông giành được niềm kính trọng của mọi người trong công tác thời chiến và đưa ông lên đầu danh sách những nhân vật đầy triển vọng đế làm lãnh đạo đất nước. Lương tri thực tiễn và cung cách gần gũi khiến ông giỏi làm việc tập thể. Hoàng thân Urusov, nguyên Thống đốc Bessarabia mà chúng ta đã gặp ở Chương 2, giờ là nhân vật số 2 tại Bộ Nội vụ, cho rằng ông là một người quản lý gây cảm hứng, rằng ông khuyến khích họ đưa ra sáng kiến và ông khéo léo hòa giải các tranh chấp giữa họ. Mặc dù các sử gia đã nhanh chóng chê bai ông với tư cách một chính khách – Samuel Hoare năm 1930 mô tả ông là ‘một người đủ phẩm chất để làm Chủ tịch Hội đồng Hạt London hơn là làm lãnh đạo một chính quyền lung lay giữa cuộc cách mạng vĩ đại’ – nhưng thật ra ông được phần đông đánh giá là một trong những nhà lãnh đạo có năng lực nhất vào thời điểm đó. Tsereteli cho rằng ông là ‘nhà tổ chức có tài với nhiều kinh nghiệm hơn bất kỳ nhà xã hội chủ nghĩa nào’. Gorky coi ông là một trong ‘ba nhà chính trị có tài năng thực sự trong chính quyền’, cùng với Kerensky và Nekrasov.
Vậy mà Hoàng thân thấy mình lạc lõng trong thế giới mới của chính trị đảng phái. Tất cả những công việc trước đây của ông đều là vấn đề thực tiễn của zemstvo, tại đó mọi người làm việc bên nhau, không đếm xỉa tới quyền lợi của giai cấp hoặc đảng phái, tất cả đều vì ‘lợi ích quốc gia’. Thoạt đầu ông hi vọng Chính quyền Lâm thời cũng sẽ hoạt động trên tinh thần như thế. Đây phải là một chính quyền thời chiến được sự tin cậy của nhân dân và mang trọng trách cứu quốc, không phải là chính quyền của đảng phái nào hay giai cấp nào, và đó là lý do tại sao Lvov, một nhân vật thực sự của quần chúng, đã được chọn làm lãnh đạo. Nhưng cách mạng mở toang cánh cửa chống lũ cho những đảng phái chính trị, đặc biệt chính trị cánh tả, và dường như không thể nào tránh được sự xâm nhập của chúng vào hoạt động chính quyền. Chính điều này là điều Lvov chưa được chuẩn bị. Kiến thức của ông về chính trị đảng phái gần như là số không. Thậm chí sau vài tháng nhậm chức ông còn không thể phân biệt được sự khác nhau giữa SR và Bôn-se-vich. Tính khí mềm mỏng cũng khiến ông hoàn toàn bất lực trước những trò lắt léo trơ trẽn của chính trị đảng phái. Xuất thân từ môi trường xưa của hoạt động zemstvo hào hiệp, ông có khuynh hướng thiên về tìm kiếm sự thỏa hiệp hơn các lãnh đạo đảng ở thủ đô hoặc những xung đột không thể thỏa thuận được trong xứ cho phép. Khi các bộ trưởng của ông va chạm nhau về chính trị, điều rất thường xảy ra, phản ứng tự nhiên của Lvov là tìm kiếm một cách thức để hoà giải họ qua những biện pháp thực tiễn và xây dựng. Điều này tạo cho ông một hình ảnh thiếu quyết đoán; và đúng là ông dễ bị những chính trị gia mạnh mẽ khác lung lạc. Nabokov, Tổng Thư ký chính quyền, nhớ lại ‘những phiên họp khổ sở’ vô tận của Hội đồng Bộ trưởng trong đó ‘những tranh chấp và mối hiềm khích âm ỉ lẫn bốc lộ giữa một số cá nhân đối với người khác cản trở tiến độ của phiên họp. ‘Tôi không nhớ có phiên họp nào mà ngài Thủ tướng to tiếng hoặc phát biểu một cách quyết đoán và rõ ràng. . . Ông là hiện thân chính xác của tính thụ động.’ Bublikob, chính trị gia Duma, chế giễu Lvovy, với ‘ánh mắt lúc nào cũng thất thần’ và ‘nỗ lực không ngừng để hòa nhã với mọi người dưới quyền’, như ‘một biểu tượng sống của tình trạng bất lực của Chính quyền Lâm thời’.
Tuy vậy, trong suốt nhiệm kỳ bốn tháng đối mặt với tất cả những vấn đề chính trị rối rắm này, tính lạc quan của ông vẫn không hề lay chuyển. Lvov tin rằng, như ông thường thổ lộ, ‘mọi việc cuối cùng rồi sẽ tốt đẹp thôi’. Tinh lạc quan này xuất phát từ niềm tin của ông vào ‘sự khôn ngoan và lòng tốt của nhân dân Nga’. ‘Tâm hồn của nhân dân Nga’, ông tuyên bố trong một bài diễn văn vào tháng ba, ‘tự nhiên biến thành một tâm hồn yêu dân chủ phổ quát. Nó sẵn sàng để hòa nhập không chỉ với nền dân chủ của toàn thế giới, mà còn đứng đầu thế giới và dẫn dắt thế giới đi theo con đường tiến bộ phù hợp với các nguyên tắc tự do, bình đẳng và huynh đệ.’ Qua thời gian quen biết ngắn ngủi với nông dân, nhất là nông dân láng giềng của mình ở Popovka, ông đã ngây thơ vội kết luận là mọi nông dân đều tử tế như vậy. Một khi nhân dân đã được giải phóng khỏi sự áp bức của sa hoàng, ông có lần giải thích cho thư ký mình, họ sẽ học được cách sửa trị mình theo tình thần dân chủ cấp tiến phương Tây. Ông chưa hề nghĩ rằng, ít ra là trong những tuần đầu đầy hi vọng này, mối thù hận của nhân dân đối với giới giàu có và sự nóng lòng chờ đợi một cuộc cách mạng xã hội chưa thể nhận chìm đất nước trong biển máu.
Kerensky nhớ lại một buổi họp với Hội đồng Bộ trưởng, Hoàng thân Lvov đến muộn với một bó điện tín từ các tỉnh gởi về. Tất cả đều báo tin ít nhiều giống nhau: hành chính địa phương đã sụp đổ và quyền lực giờ nằm trong tay các ủy ban quần chúng khác nhau một cách tùy tiện. Các bộ trưởng ngồi lại thật lâu, suy nghĩ chưa biết phải làm gì. ‘Chúng ta đang trong chiến tranh, và phần lớn lãnh thổ đã rơi vào tay những người ta hoàn toàn không biết!’ Phát biểu ‘với sự tin cậy phí thường’, Lvov liền đúc kết cuộc thảo luận:
Chúng ta phải quên hết lề lối quản trị cũ – quay lại đó về tâm lý là hoàn toàn không thể. Nhưng nước Nga không thể không có nó. Bộ máy hành chính đã mất, nhưng nhân dân vẫn còn. . . Thưa quí vị, chúng ta phải kiên nhẫn. Chúng ta phải có lòng tin vào lương tri, tài điều hành, và lòng trung thành của các dân tộc Nga.
Và thật ra, Kerensky nhớ lại, ‘chúng tôi không có gì ngoài niềm tin vào nhân dân này.’ Tin vào nhân dân của Lvov là điển hình của thái độ giới trí thức, cũng là đặc điểm triết lý chính trị của Chính quyền Lâm thời thứ nhất (từ 2/3 đến 5/5). Không phải bộ trưởng nào cũng tràn đầy hi vọng như vậy. Miliukov và Guchkov đã lập luận ngay từ đầu là phải có một nhà nước mạnh để kềm chế bản năng vô chính phủ của nhân dân và cứu đất nước khỏi hỗn loạn. Nhưng lý luận lạnh lẽo của họ luôn bị che khuất bởi những tình cảm nồng ấm của Kerensky, Nekrasov và Lvov. Quan điểm áp đảo của chính quyền được hình thành bởi những giá trị cấp tiến của giới trí thức, vốn thoát thai từ cuộc đấu tranh giành tự do của nhân dân chống lại chuyên chế. Hai niềm tin chủ yếu đứng ở ngay trái tim của nền văn hóa chính trị dân chủ này: một sự ngờ vực bản năng đối với nhà nước như một lực lượng khống chế; và một niềm tin vào sự tự trị của địa phương. Từ điều này dẫn đến quan điểm rằng nhà nước cấp tiến từ xa là tất cả những gì cần thiết để chăn dắt nước Nga đến với thế giới văn minh của những quốc gia tự do. Các nhà lãnh đạo cấp tiến Nga nói về việc cai trị ‘với’ nhân dân hơn là ‘bên trên’ họ. Họ thấy bản thân mình là ‘vô giai cấp’ – cai trị theo lợi ích của ‘toàn thể nhân dân’ chứ không chỉ một giai cấp nào – và bằng lời hứa này họ hi vọng sẽ dựng lên một ý thức về tính hợp pháp. Họ tự trình diện mình như là những người chăm lo tạm thời cho một ‘nhà nước trung tính’, bên trên lợi ích đảng phái hoặc giai cấp, cho đến khi bầu ra một quyền lực tối cao mới, Quốc hội Lập hiến, mà chỉ có nó mới có quyền phê chuẩn hợp pháp những cải cách chính trị và xã hội. Điều này, thực ra, là đặt lòng tin của họ vào sự kiên nhẫn của nhân dân ráng đợi cách giải quyết hợp pháp cho những vấn đề của họ. Đó là đặt ‘sự bảo vệ nhà nước’ lên trên những lợi ích của giai cấp hoặc đảng phái của cách mạng. Vậy mà khi nhà nước đó lâm nguy vì hỗn loạn, như trong tháng 4, 7 và 10, thì họ lại không muốn dùng vũ lực để bảo vệ nó. Những ý định cấp tiến tử tế của họ, và sự nghi ngại mang tiếng là một nhà nước trấn áp, ngăn cản họ sử dụng những biện pháp cần thiết để bảo vệ những quyền tự do hợp hiến hằng ao ước chống lại mối đe doạ của chủ nghĩa cực đoan. Họ quyết tâm phá hủy chế độ cảnh sát trị cũ, tòa án và hệ thống hình phạt – chỉ để trói tay họ trong việc tranh đấu chống tội ác và bạo lực gia tăng. Thậm chí khi bạo lực này do đảng Bôn-se-vich kích động, họ cũng miễn cưỡng dập tắt. Những Người Tháng Hai – những người trong tâm trí họ được mang cho quyền lực bằng một ‘cuộc cách mạng không đổ máu’ – sẽ không dấy máu của ‘nhân dân’ trên tay mình. Sự yếu đuối này, đến lúc cuối cùng, sẽ kéo họ xuống. Các nhà lãnh đạo của Chính quyền Lâm thời thấy mình như đang diễn lại Cách Mạng Pháp trên đất Nga. Họ so sánh mình với các người hùng của 1789. Kerensky, là một, thích coi mình là Mirabeau (và sau đó như Napoleon). Các lãnh đạo của ‘Cách Mạng Nga Vĩ Đại’ tìm kiếm những tiền lệ cho các chính sách của mình, và những khuôn mẫu cho các định chế của họ từ lịch sử cách mạng Pháp. Nhân dân gọi những người Bôn-se-vich là Jacobin (mà họ cũng thấy như thế). Người Bôn-se-vich, ngược lại, gọi những người cấp tiến là Girondin. Và tất cả những người dân chủ cảnh báo về những ngụy cơ của ‘phản cách mạng’ và ‘chủ nghĩa Bonaparte’. * Các dân ủy tỉnh lỵ, ủy ban binh sĩ và quân ủy, ủy ban tỉnh về an ninh công cộng và Quốc hội Lập hiến – tất cả đều sao chép từ Pháp. Những từ như công dân và nữ công dân cũng lần đầu tiên được bắt chước sử dụng. Bài Marseillaise của cách mạng Pháp được thêm lời riêng của họ trở thành bài quốc ca của cách mạng. Nó được chơi trong các cuộc hội họp công cộng, biểu tình, hoà nhạc và kịch.
* Đối với người Dân chủ Xã hội, thấm nhuần trong những tác phẩm của Mác (1848-52), chủ nghĩa Bonaparte này là Napoleon III chứ không phải Napoleon I.
Chúng ta từ bỏ thế giới cũ,
Chúng ta rủ bỏ bụi của nó ra khỏi bàn chân.
Chúng ta không cần một Kim tượng,
Và chúng ta khinh bỉ Quỷ Sa Hoàng.
Các hiệu sách bán chạy sách về lịch sử Cách Mạng Pháp. Có một cơn cuồng Pháp. Pháp, suy cho cùng, là đồng minh Tây phương gần Nga nhất chống lại Đức – thành lũy cuối cùng của chuyên chế – và là thành viên sáng lập câu lạc bộ các quốc gia dân chủ Âu châu mà Nga bước vào. Danh thiếp của Lvov thậm chí còn in bằng tiếng Pháp.
Nhưng Nga không thể là một nước Pháp khác. Thời kỳ lập hiến của Cách Mạng Nga – theo truyền thống Âu châu cổ điển của 1789 và 1848 – đã được trải qua trong những năm 1905-14. Cải cách chính trị không còn lại gì để đưa ra. Chỉ một cách mạng xã hội nền tảng – một cuộc cách mạng không có tiền lệ ở châu Âu- mới có khả năng giải quyết những vấn đề về quyền lực mà chế độ cũ bị lật đổ đã nôn mữa ra. Đây là lỗi lầm cơ bản của những Người Tháng Hai: quá say sưa trước hình ảnh của chính mình như là người thừa kế 1789, họ vọng tưởng là mình có thể giải quyết những vấn đề của 1917 bằng cách nhập khẩu những hoạt động và chính sách lập hiến của phương Tây mà ở Nga không có tiền lệ thực sự cho chúng, cũng như nền tảng văn hóa cần thiết.
Như thể chứng tỏ mình là người thừa kế của Lafayette (Tướng lĩnh Pháp, 1757 – 1834, người chiến sĩ kiên cường đấu tranh cho nền dân chủ dưới thời Louis Philippe, vị vua cuối cùng của Pháp: ND), Hoàng thân Lvov chủ tọa việc thông qua một loạt những cải cách chói lòa trong những tuần đầu của Chính quyền Lâm thời. Nước Nga qua một đêm thực sự trở thành ‘đất nước tự do nhất thế giới’. Tự do hội họp, báo chí và ngôn luận được ban hành. Những hạn chế do luật định trước đây về tôn giáo, giai cấp và chủng tộc bị bãi bỏ. Lệnh ân xá toàn diện được ban bố. Phố thông đầu phiếu được đưa vào. Cảnh sát phải có trách nhiệm với chính quyền địa phương. Tòa án và hệ thống hình phạt được sửa đổi. Biện pháp nhục hình được bài bỏ. Những cơ quan dân chủ của chính quyền tự trị địa phương được thiết lập. Việc chuẩn bị tổ chức bầu cử vào Quốc hội Lập hiến được tiến hành. Luật này nối tiếp luật kia nhanh chóng đến nỗi khó lòng cho những công dân mới của nước Nga tiếp thu kịp. Một hôm vào cuối tháng ba một phái đoàn phụ nữ lục tục kéo đến văn phòng Llov để bắt đầu chiến dịch đòi quyền bầu cử cho phụ nữ. Họ chuẩn bị một trận tranh đấu cam go. Một số còn soạn trước những bài diễn văn dài và hùng hồn . Họ nghĩ rằng số phận của phân nửa người Nga phụ thuộc vào thành công của sứ mạng mình. Nhưng khi gặp mặt Lvov họ bỗng thấy mình đang đẩy một cánh cửa đã mở rộng. ‘Tại sao phụ nữ không được bầu?: ông hỏi họ với vẻ ngạc nhiên thẳng thắn. ‘Tôi không thấy có vấn đề gì cả. Chắc chắn, với đầu phiếu phổ thông không có lý do gì loại trừ phụ nữ.’
Những cải cách này giúp tạo ra một văn hóa dân chủ mới. Ở Nga chữ ‘dân chủ’ không chỉ là một nhãn hiệu chính trị. Nó còn là một nhãn hiệu xã hội. Đặc biệt, cánh Tả dùng nó để biểu thị ‘thường dân’ ngược lại với ‘tư sản’. Ngôn ngữ 1789, một khi đi vào nước Nga lập tức biên dịch thành ngôn ngữ mang tính giai cấp. Đây không cho là vấn đề thuộc ngữ nghĩa học. Nó cho thấy đối với đại đa số dân chúng các lý tưởng ‘dân chủ’ được diễn giải theo chuẩn mực cách mạng xã hội hơn là cải cách chính trị. Các nông dân và công nhân quen nhìn quyền lực dựa vào sự thống trị và áp bức xã hội hơn là việc thực thi luật pháp. Họ tìm thấy ở cách mạng chủ yếu như một cơ hội để được tự trị và lật đổ vị trí của các ông chủ trước đây hơn là cơ hội để tái cấu trúc hệ thống quyền lực dựa vào các nguyên tắc hợp pháp phổ quát. Sự báo đáp, chứ không phải là hiến pháp, là ưu tiên số một của nhân dân.
Cách mạng 1917 thực sự nên được coi như là một khủng hoảng toàn diện của quyền hành. Nó không chỉ là sự bác bỏ nhà nước mà còn tất cả mọi nhân vật có quyền hành: quan tòa, cảnh sát, viên chức, sĩ quan quân đội và hải quân, tu sĩ, thầy giáo, ông chủ, đốc công, địa chủ, già làng, các ông cha và các ông chồng có tính gia trưởng. Lúc đó người ta thường nói – và các sử gia cũng nhấn mạnh điều này – rằng chỉ có Xô-Viết mới có thực quyền. Guchkov viết cho Alexeev vào ngày 9 tháng 3:
Chính quyền Lâm thời không có quyền lực thực sự về bất kỳ loại nào và lệnh mà nó ban ra chỉ được thi hành đến mức độ được Xô-Viết Công nhân và Đại biểu Quân nhân cho phép. Đại biểu Quân nhân kiểm soát cán cân quyền lực trọng yếu nhất, chừng nào mà binh lính, đường sắt, và các dịch vụ bưu chính và điện đài còn nằm trong tay họ. Ta có thể kết luận thẳng thừng rằng Chính quyền Lâm thời chỉ tồn tại chừng nào mà Xô-Viết cho phép.
Chắc chắn là Xô-Viết có nhiều quyền hành hơn bất kỳ cơ quan nào. Nó độc quyền thực sự về các biện pháp tổ chức bạo lực, trong lúc quần chúng công nhân và binh lính xem nó là một quyền lực duy nhất hợp pháp trên đất nước. Gần như ở bất kỳ thời điểm nào giữa tháng 2 và 10 Xô-Viết có thể đã lên nắm quyền và, mặc dù như thế có thể dẫn đến nội chiến, thì với sự hậu thuẫn nó bảo đảm sẽ thắng lợi. Vậy mà Xô-Viết, đặt cơ sở ở Petrograd, chỉ kiểm soát rất giới hạn cách mạng ở các tỉnh lỵ. Quyền lực trung ương sụp đổ: các thị trấn và vùng miền tỉnh lỵ tuyên bố ‘ độc lập’ với thủ đô; làng mạc tự tuyên bố là ‘những cộng hòa tự trị’; các nhóm dân tộc và sắc tộc chiếm lấy lãnh thổ và tự tuyên bố mình là ‘các nhà nước độc lập’. Cuộc cách mạng xã hội được tìm thấy trong việc phân tán quyền lực này: các cộng đồng địa phương bảo vệ lợi ích của họ và khẳng định quyền tự trị của mình qua việc bầu cử các ủy ban đặc trách (ủy ban điều hành công, ủy ban phường xã, ủy ban cách mạng, ủy ban tổ chức quần chúng, ủy ban thôn làng và các Xô-Viết), hiếm khi ngó ngàng đến các mệnh lệnh của trung ương và thông qua các ‘luật’ riêng của họ để hợp pháp hóa việc tái cấu trúc quan hệ xã hội ở địa phương.
Chính trị 1917 do đó nên được coi như không hẳn là cuộc xung đột của quyền lực kép – sự phân chia quyền lực giữa chính quyền và Xô-Viết mà các sử gia thường quan tâm – mà đúng ra là một vấn đề sâu sắc hơn là sự sinh sôi của nhiều quyền lực địa phương.
Trong các thị trấn thực sự không có ‘quyền lực kép’ gì hết: trí thức cấp tiến và xã hội, mà ở Petrograd được phân chia thành chính quyền và Xô-Viết, thì ở đây gần như hợp tác với nhau trong các ủy ban công dân chủ trong khoảng tháng 2 đến tháng 10 hoặc lâu hơn nữa. Nước Nga, tóm lại, đang bị Balkan hóa. Đó là kiểu dạng lặp lại trong đó bất cứ khi nào quyền lực của nhà nước mất đi, Nga lại suy sụp trong tình trạng hỗn loạn vô chính phủ. Nó đã xảy ra sau sự sụp đổ của nhà nước sa hoàng, cũng như sau khi chế độ Cộng sản sụp đổ. Nếu 1917 có chứng minh được điều gì, thì đó là xã hội Nga không đủ mạnh hay đủ gắn kết để giữ vững một cuộc cách mạng. Ngoài chính nhà nước, không có gì giữ chặt nước Nga với nhau.
‘Ai bầu cho ngài?’ Đó là một câu hỏi khó nuốt mà ai đó đã la lên từ dưới đám đông khi Miliukov thông báo việc thành lập chính quyền lâm thời. Câu trả lời, tất nhiên, là không ai cả. Chính quyền Lâm thời không phải là một chính quyền dân chủ, theo nghĩa được bầu ra bởi nhân dân, mà là chính quyền được ‘quốc gia tin cậy’. Nó không có tính hợp pháp vốn chỉ đến từ thùng phiếu. Các nhà lãnh đạo của nó rất quan ngại đến sự thiếu vắng việc ủy thác này, nên nghĩ rằng mình sẽ được tôn trọng hơn khi gán cho mình là ‘lâm thời’. Họ trình diện một chính quyền với tư cách chỉ là người bảo vệ tạm thời của nhà nước cho đến khi Quốc hội Lập hiến được bầu ra, và luôn luôn nhấn mạnh tính hợp pháp của mình tối hậu vẫn phải lệ thuộc vào sự phê chuẩn hợp pháp của Quốc hội. Và vì lý do này dân chúng thắc mắc tại sao họ phải nghe lệnh chính quyền: từ ‘lâm thời’ không có quyền uy khiến người ta nể phục.
Với bối cảnh như thế khó mà không đổ lỗi cho các lãnh đạo chính quyền quá chậm chạp trong việc tiến hành triệu tập Quốc hội Lập hiến. Mọi người đều biết tính khẩn cấp của việc triệu tập này. Nhưng các lãnh đạo cấp tiến để cho lương tri của mình bị các lý tưởng cao cả che lấp. Họ dè dặt trước trách nhiệm có tầm quan trọng to tát nên quá thận trọng trong việc chuẩn bị những thủ tục quá chi li để bảo đảm quyền đi bầu được công bình nhất như có thể. Một hội đồng các đại diện từ những nhóm chính trị khác nhau được triệu tập vào cuối tháng ba. Phải mất hai tháng để nhất trí về thành phần của một Hội động Đặc biệt thứ hai gồm hơn 60 thành viên để soạn thảo luật bầu cử và rồi, việc này bị sa lầy trong những cân nhắc về tỉ lệ đại biểu, những phương thức công bằng nhất có thể để vẽ lại các biên giới bầu cử, và những cách tốt nhất để tổ chức việc bầu cử trong quân đội và trong các vùng biên giới sắc tộc.
Đến đầu mùa hè, khi hỗn loạn lan ra khắp xứ và rõ ràng một quyền hành hợp pháp cứng rắn cần thiết hơn bao giờ hết, thì tiến độ rề rà của Hội đồng Đặc biệt làm cho nhân dân sốt ruột. Một số người lập luận rằng việc này sẽ nhanh hơn nếu lập ra một ủy ban nhỏ ít người hơn để soạn thảo luật bầu cử. Nhưng F.F. Kokoshkin, một luật sư Kadet và Chủ tịch Hội đồng Đặc biệt, bảo vệ cách tiến hành thận trọng của nó trên cơ sở là luật bầu cử mới phải phù hợp với ‘nguyện vọng và lợi ích của toàn thể dân tộc’. Chắc chắn là có những vấn đề thực tiễn khiến việc tổ chức bầu cử vội vàng không nên tiến hành: hàng triệu người đang chuyển hộ và không biết việc kiểm phiếu của họ tiến hành ra sao. Và ở một mức độ nào đó sự hạn chế này là cái cớ cho sự đình hoãn. Đặc biệt, phe Kadet ưu ái sự đình hoãn bầu cử, vì họ biết chắc mình sẽ thua. Hoàng thân Lvov ủng hộ sự rề rà của Kokoshkin. Ông, trên tất cả, đã toàn tâm toàn ý cho một nghị viện hoàn hảo. ‘Quốc hội Lập hiến’, ông bảo với Hội đồng Đặc biệt, ‘phải tôn vinh cách mạng Nga vĩ đại. Nó phải đặt nền móng quan trọng cho tương lai của một nhà nước dân chủ tự do. Nó phải gánh lấy trách nhiệm cho toàn bộ tương lai nước Nga. Nó phải là tinh túy của mọi sức mạnh tâm trí và tinh thần của dân tộc.
Điều này đúng là đặt những kỳ vọng không hiện thực vào một sự kiện chỉ có tính giai đoạn trong công cuộc cứu quốc. Cho dù không hoàn hảo, một quốc hội như thế ít nhất cũng tạo ra được một tiêu điểm và một cơ sở của tính hợp pháp, cho nền dân chủ mới mẻ và yếu ớt của nước Nga. Trong lịch sử có rất ít ví dụ về một nghị viện cách mạng tồn tại lâu dài, và, thấm nhuần trong lịch sử châu Âu như họ, các nhà lãnh đạo của Chính quyền Lâm thời đáng ra phải biết rõ về điều này để đặt những kỳ vọng của mình trong những giới hạn thực tế. Nhưng họ đã để những lý tưởng xa vời che lấp lý lẽ thường tình. Có lẽ do trong hội đồng có quá nhiều luật sư mà ít chính khách. Thất bại của chính quyền trong việc xúc tiến bầu cử tạo điều kiện cho Bôn-se-vich gieo rắc những mối ngờ vực nghiêm trọng trong đầu óc dân chúng rằng chính quyền thực tình không muốn tổ chức bầu cử; rằng chính quyền đã rơi vào tay của bọn ‘phản cách mạng’. Lời tuyên truyền của họ, nhờ đó có thêm trọng lượng, sẳn sàng biện minh cho hành động cướp lấy quyền lực như họ đã toan tính, Dưới sức ép của công luận lớn dần, các nhà lãnh đạo Chính quyền Lâm thời thông báo vào giữa tháng 6 rằng cuộc bầu cử sẽ diễn ra vào ngày 17/9. Nhưng mọi người hiểu rằng với tiến độ rùa bò như vậy điều này là không thể, vì thủ tục đăng ký cử tri chưa được soạn thảo và các cơ quan địa phương chịu trách nhiệm về việc này vẫn chưa được thành lập. Đến tháng 8 vẫn không mấy tiến bộ và ngày bầu cử lại dời lại cho đến 12/11. Nhưng đến lúc đó thì người Bôn-se-vich đã chiếm lấy quyền lực.
ii Những Niềm Mong Đợi
Chúng ta đang sống qua những thời khắc điên loạn’, Sergei Semenov viết cho một người bạn già vào mùa xuân 1917. ‘Thật khó cho những người trong thời đại chúng ta thích ứng với tình thế mới. Nhưng qua cách mạng này cuộc sống chúng ta sẽ được thanh lọc và sự việc sẽ dần dần trở nên tốt hơn cho lớp trẻ.’ Nhà cải cách nông thôn đặt mọi hi vọng của mình vào sứ mạng khai sáng của cách mạng. Cuối cùng, ông ấy nghĩ như thế, thời khắc đã đến để thôn làng Nga lạc hậu sẽ nhận được những tiện ích của thế giới hiện đại. Ông chào mừng chế độ cũ sụp đổ trong tình thần mong đợi lạc quan và hoà giải với các nông dân láng giềng hay ngờ vực trong làng Andreevskoe. Giờ đã 6 năm tròn trôi qua kể từ khi ông chấm dứt cuộc tranh đấu cay đắng để tách khỏi họ và dựng lên nông trại riêng tư của mình ở vùng đất ven làng.
Trong mùa xuân hi vọng đầu tiên đó Sememov tiếp tục thêm lần nữa từ những cải cách ông đã bắt đầu từ 1905. Ông mở rộng công việc trong trong các hợp tác xã nông nghiệp; phục hồi Hiệp hội Nông dân địa phương; mở câu lạc bộ nhân dân trong thị trấn buôn bán Bukholovo; và tổ chức những buổi lên lớp cho nông dân về mọi chủ đề tiến bộ, từ triết lý cộng hòa đến những phương pháp tân tiến nuôi bò qua mùa đông. Thậm chí ông còn vẽ thiết kế hệ thống điện khí hóa cho toàn huyện Volokolamsk rồi trình lên duma cua thành phố Moscow. Con gái của Semenov, Tatiana, nhớ lại vào mùa xuân 1917:
Chúng tôi rất kinh ngạc trước sức làm việc của cha chúng tôi – gần như tăng gấp đôi – và giờ ông đang hướng về tương lai với niềm mong đợi lớn. Ông không chỉ quần quật trên đồng mà còn đi khắp làng, để mắt vào mọi lãnh vực của vấn đề nông dân. Ông đọc mọi thứ và viết không ngừng. Đêm sau khi chúng tôi đã đi ngủ hết ông vẫn còn ngồi làm việc. Sáng hôm sau ông là người thực dậy đầu tiên.
Cách mạng nâng cao uy tín của Semenov trong dân làng Andreevskoe, và hạ thấp quyền hành của Grigori Maliutin, gã bô lão gia trưởng của công xã và đối thủ đáng gờm đối với những cải cách của Semenov. Cấu trúc quyền hành trên đó Maliutin bám vào – bô lão trong làng, cảnh sát khu vực và thanh tra điền địa – đã bị dỡ bỏ gần như qua đêm. Trong làng tiếng nói của những trại chủ tiến bộ và trẻ hơn đang dần dần áp đảo, trong khi những nông dân lớn tuổi hơn, như Maliutin, không thấy điều gì tốt đẹp ở cách mạng, từ từ bị quên lãng. Những biến đổi về mặt xã hội trong ít năm trở lại đây nằm ở cội rễ của quá trình dân chủ hóa công xã. Càng ngày càng có nhiều hộ do các nông dân trẻ cầm đầu, như là kết quả của việc tách hộ. Trong những năm chiến tranh, khi đàn ông ra trận, nhiều hộ nông dân do phụ nữ cầm đầu: trong nhiều vùng có đến một phần ba, và ở Andreevskoe hơn một phần tư. Những nông dân trẻ này nhìn vào Semenov như một người hùng của cải cách. Tại các buổi họp làng ông luôn lên tiếng kích bác giáo hội và trật tự giáo trưởng. Là một nông dân có học thức nhất làng, ông cũng được mời để viết các nghị quyết khi tên thư lại làng, một tay chân của Maliutin, từ chối không chịu ‘làm việc cho cách mạng’. Nhưng điều thực sự giúp nâng cao vị thế của Semenov là việc khó khăn ông chạy được cho sáu nông dân nghèo nhất làng được giải ngũ vì là người duy nhất nuôi sống gia đình. Vào mùa thu 1916 ông đã bị kết án giam 6 tuần sau khi Maliutin tố giác ông với giới chức có thẩm quyền vì ‘tội khuyến khích đào ngũ’ Nhưng dân làng không chịu để ông đi và đã giữ ông ở lại Andreevskoe, một con tin và người hùng cách mạng, cho đến khi chế độ cũ sụp đổ. Hai tuần sau sáu nông dân cùng trở về nhà. Maliutin mất mặt, còn Semenov trở thành người lãnh đạo trong làng.
Trong mùa xuân đó Semenov dẹp nông trại ra riêng để trở về công xã đất nông dân. Phần đông những nông dân tiên phong của thời Stolypin cũng làm tương tự vào năm 1917. Nếu có đến một phần ba hộ nông dân ra ở riêng trước cách mạng, thì bốn năm sau chỉ không tới hai phần trăm tiếp tục ở lại. Chỉ một thiểu số nhỏ những hộ ở riêng hẳn kiểu khutora mới bị cưỡng chế quay về công xã. Viễn ảnh được chia phần những chiến lợi phẩm trong những vụ cướp phá các thái ấp của công xã vào mùa xuân đủ hấp dẫn họ tình nguyện trở về công xã.
Việc trở về của những hộ ra riêng phản ánh nỗ lực chung của nông dân nhắm tới tình tương trợ trong công xã làng. ‘Ngày này, trong nước Nga tự do, mọi người nên bình đẳng và đoàn kết,’ các nông dân ở Dubovo-Pobedimov ở Bugul’ma tuyên bố. ‘Thành viên của công xã nên nhận tất cả những hộ ra riêng vào gia đình của mình trên cơ sở bình đẳng và dừng mọi biện pháp áp bức chống lại họ, vì những hành động này chỉ có trong tay kẻ thù của nhân dân.’ Công xã vững mạnh thêm nhờ cách mạng. Nó sống lại từ tình trạng mê mệt và suy sụp để trở thành lực lượng tổ chức của cách mạng nông dân trong vùng. Tất cả những cơ quan chính trị chủ chốt của cách mạng ở miền quê – các ủy ban làng, hiệp hội nông thôn và các Xô-Viết – thực sự không khác công xã nông dân dưới hình thức cách mạng hơn
Công xã làng đại diện cho các lý tưởng đất đai và tự do, điều luôn luôn cố vũ cho nông dân nổi dậy. Nó ấn định một vòng vây ‘những người bên trong’ và bảo vệ những lợi ích chống lại ‘người bên ngoài’ – chủ đất, người thị trấn, con buôn, viên chức nhà nước, ngay cả những nông dân ở các công xã láng giềng – tại thời khắc đầy rùi ro.
Từ thời kỳ nông nô, công xã có chức năng như một kết nối giữa các thành viên hộ nông dân (thường trong một làng duy nhất,) và một điền trang của một địa chủ nào đó. Vào năm 1917 nó cung cấp cho những dân làng này quyền đạo lý và lịch sử đối với điền trang đó trên nguyên tắc nông dân quen thuộc: ‘Chủ là chủ của ta, đất là đất của ta.’ Trong việc chiếm đoạt điền trang của bọn địa chủ các thành viên của công xã thể hiện tình tương trợ và tính tổ chức đáng kể. Thường trước tiên hội đồng làng họp lại để thông qua nghị quyết thúc đẩy các thành viên của công xã cùng tham gia với đoàn tuần hành tiến đến các thái ấp, hoặc trong các hình thức chống đối khác của nông dân, như biểu tình và tẩy chai đóng thuế, đe doạ trục xuất khỏi làng xã. Đây là vấn đề an toàn nhờ số đông. Trái với huyền thoại Xô-Viết trong làng rất ít xảy ra xung đột giữa nông dân giàu với nông dân nghèo. Nhưng xung đột phần nhiều xảy ra giữa các công xã lân cận, có khi đưa đến đánh nhau, xem ai có quyền kiểm soát các điền trang.
Sau đó họ tiến về phía thái ấp, như một quân đội nông dân, vũ trang bằng súng ống, cây chỉa, rìu, cuốc, liềm và xuổng. Các điền chủ và tôi tớ, nếu chưa đào tẩu, sẽ bị túm hay ít nhất bắt buộc phải ký vào tờ nhượng quyền theo yêu cầu của nông dân. Trong mùa xuân yêu sách thường ôn hòa hơn như giảm tiền thuê đất; phân phối lại lao động tù binh; hoặc bắt buộc bán lúa, công cụ và gia súc cho công xã với giá cả được cho là ‘đẹp’ đối với nông dân. Sự trưng thu tập thể đất đai của địa chủ chỉ xảy ra vào mùa hè. Phần đông nông dân còn chuẩn bị đợi Chính quyền Lâm thời thông qua luật đất mới chuyển giao điền trang cho họ, như họ đã từng đợi Sa Hoàng thông qua ‘Tuyên Cáo Vàng’. Họ sợ tấn công các điền trang trước khi chưa biết rõ chế độ cũ đã sụp đổ như vào năm 1906-7, sẽ bị tàn sát tập thể sau đó. Chỉ đến tháng 5, với việc bổ nhiệm Chernov của SR làm Bộ trưởng Nông nghiệp, các nông dân mới an tâm; và từ lúc đó trở đi việc tịch thu các điền trang của giới quí tộc địa chủ trở thành một hiện tượng khắp xứ. Đầu tháng 5 cũng là khởi đầu cho vụ hè. Nếu nông dân muốn thu hoạch trên cánh đồng của địa chủ vào mùa thu, thì họ phải gieo mạ ngay bây giờ. * Vì thế các nông dân có động lực phải chiếm lấy đất đai khoảng thời gian này. Và không có gì ngạc nhiên, nhiều ông chủ bỏ đồng ruộng mà không buồn gieo trồng. Các nữ tu ở Tu viện Panovka ở Sedobsk là một trong số các nạn nhân bất thường hơn trong phong trào cướp bóc gia tăng của nông dân.
Một nghị quyết của uỷ ban điều hành xã Davyovka vào ngày 10/4 ra lệnh cho tu viện chúng tôi cho nông dân thuê 15 desyatiny đất vụ xuân của chúng tôi. Vào ngày 19/5 chúng tôi nhận được tin báo cũng từ ủy ban trên, nói rằng, vì nhu cầu của chúng tôi, chúng tôi có thể giữ lại 15 desyatini đất bỏ hoá, nhưng phải đưa thêm 30 desyatini đất giao cho các nông dân làng Pleshcheevka. Giờ (giữa tháng sáu) các nông dân ra lệnh trưng thu 600 pud (mỗi pud khoảng 16 kí) của tu viện cho dân làng với giá 1 rúp 52 kô-pech trong khi giá thu mua lúa của nông dân là 2 rúp 50 kô-péch.
Việc binh lính trở về trong dịp lễ Phục Sinh, thật ra là đào ngũ, cũng góp một phần làm mức độ hung hăng của nông dân tăng lên. Binh lính thường dẫn đầu đoàn tuần hành đến các thái ấp. Đôi khi họ xúi giục nông dân đập phá bừa bãi, phóng hỏa nhà cửa trong thái ấp để đuổi các gia chủ ra ngoài; đập phá nông cơ; mang nông sản trong nhà kho, chất lên xe ngựa; và hủy hoại mọi thứ tiêu biểu cho sự giàu có thừa mứa, như sách vở, tranh vẽ, tượng điêu khắc, đồ sứ. Không hiếm trường hợp họ tấn công cả các chủ điền trang. Ở làng Bor-Polianshchina, tỉnh Saratov, chẳng hạn, một băng nhóm nông dân do vài tên lính cầm đầu, xông vào nhà thái ấp của Hoàng thân V. V. Saburov, và bửa ông ta đến chết bằng rìu, và dao. Đó là vụ trả thù đẫm máu vì con trai ông ta với chức vụ thanh tra điền địa, vào năm 1906, đã ra lệnh treo cổ 12 nông dân nổi loạn trong làng trước mặt vợ con họ đang kêu gào. Trong ba ngày sau đó các dân làng mặc tình cướp bóc thái ấp Saburov. Dinh cơ trên thái ấp, trong đó có chứa một thư viện tư thuộc loại đẹp nhất nhì nước Nga, bị đốt ra tro.
Những nhà quí tộc điền chủ khiếp sợ gởi đơn tới tấp tới Hoàng thân Lvov van nài ông phục hồi luật pháp và trật tự. Bị cô lập trong thái ấp, không có gì để tự vệ trước biển nông dân hận thù đang bao vây bên ngoài, họ nhanh chóng lên án chính quyền ngồi yên cho cơn sóng vô chính phủ lan tràn khắp nông thôn. ‘Vùng quê đang rơi vào cảnh hỗn loạn, với trộm cướp, đốt phá gần như hàng ngày, trong khi các ông ngồi đó không làm gì trong gian phòng tiện nghi ở Petersburg,’ một điền chủ ở Tambov viết cho ông vào tháng 4.b’Uỷ ban địa phương của các ông bất lực, không biết làm gì, và thậm chí còn xúi giục cướp bóc tài sản. Cảnh sát thì ngủ trong khi nông dân cướp bóc và đốt nhà. Chính quyền cũ còn biết cách giải quyết tốt hơn đám nông dân cặn bã này mà các ông gọi là “nhân dân”‘.
Với những bức thư như thế phải giải quyết, người ta khó lòng trách Lvov đã coi nỗi thống khổ của các quí tộc như là sự trừng phạt cho ‘các hành vi thô lỗ và tàn tệ của họ trong nhiều thế kỷ nông nô’. Cách mạng là ‘đòn trả thù của các nông nô’, ông giải thích vào một ngày trong tháng 6 khi ăn trưa với một bộ trưởng. Đó là ‘hậu quả của – và tôi nói đây với tư cách một địa chủ – tội lỗi nguyên thủy của chúng ta. Chi bằng nước Nga được ban cho một giới quí tộc thực sự, như giới quí tộc Anh, có tấm lòng nhân hậu đối xử với nông dân như những con người chứ không như những con chó, thì có lẽ mọi chuyện sẽ khác.’ Đúng là hành động đáng nể của một người dám nhìn nhận toàn bộ vẻ hào nhoáng của tầng lớp mình chỉ là một lớp sơn véc-ni bóng loáng che đậy một tâm địa xấu xa, tàn nhẫn đối với người nông dân xấu số, từ đó cách mạng mới nổ ra.
.
Dù Lvov có nói ra điều gì trong nơi riêng tư, thì chính sách của ông vẫn là bảo vệ quyền tài sản của giới quí tộc. Vấn đề ruộng đất phải được giải quyết bằng biện pháp luật pháp, và điều này có nghĩa là phải duy trì hiện trạng cho đến khi một bộ luật đất đai mới được Quốc hội Lập hiến ban hành. Nhưng hiện giờ chính quyền không có cách nào ngăn cản nông dân làm luật để chiếm đất của điền chủ vào tay mình. Cảnh sát thì đã bị giải tán, còn quân đội nếu có cũng được tuyển mộ từ nông dân, cho dù họ chịu nghe lời đánh dẹp, thì số lượng cũng quá ít ỏi, không giải quyết được bao nhiêu điền trang. Các ủy ban xã tạm thời, được chính quyền thành lập vào 20/4 và có nhiệm vụ giữ gìn trật tự, chẳng bao lâu biến thành các cơ quan cách mạng, tự thông qua các ‘luật lệ’ để hợp pháp hóa hành động chiếm lấy tài sản giới quí tộc điền chủ. Còn ủy ban địa chính xã cũng lâm vào tình trạng tương tự. Họ bị nông dân địa phương chiếm quyền và chẳng mấy chốc biến thành các cơ quan cách mạng về đất đai, tự đặt ra giá thuê đất cho các điền chủ, qui hoạch lại đất và tài sản địa chủ và phân phát cho các nông dân. Để ngăn cản sự biến tướng của ủy ban địa chính, chính quyền ngưng trợ cấp tài chính cho họ; nhưng các công xã nông dân chỉ đơn giản lấy tiền thuế do họ tự đặt ra để tài trợ thay chính quyền và các ủy ban tiếp tục lớn mạnh.
Cách mạng đất đai kiểu này được các hội đồng nông dân phê chuẩn một cách giả hợp pháp. Họ họp vào mùa xuân trong hầu hết các tỉnh ở trung tâm nước Nga, cũng như Hội đồng Nông dân Toàn Nga Thứ nhất từ 4 đến 25/5. Không có gì làm tổn hại đến uy quyền của chính quyền trong vùng quê bằng hành động này. Các nhà hoạt động đảng SR, vốn thống trị ban điều hành của các hội đồng này, kêu gọi nông dân hãy kiên nhẫn chờ nghị quyết về vấn đề đất đai. Nhưng họ sớm bị những đại biểu quá khich chiếm lấy diễn đàn và lôi kéo họ phê chuẩn những hành động chiếm đất của công xã địa phương, coi như đó là cách giải quyết của thời kỳ quá độ. Hội đồng nông dân tỉnh Kazan ra nghị quyết vào ngày 13/5 chuyển tất cả ruộng đất cho ủy ban nông dân quản lý. Mười hai ngày sau hội đồng nông dân Santa theo gương, thách thức trực tiếp một lệnh do Lvov ban ra cho ủy viên tỉnh, ngăn cấm bất kỳ hành động chiếm đất nào nữa của nông dân. Người nông dân cho rằng những nghi quyết do hội đồng của họ đưa ra là hợp pháp. Họ sử dụng chúng để chiếm đất nhiều hơn nữa vào những tháng hè. Họ không biết phân biệt sự khác nhau giữa tuyên bố của hội đồng nông dân của riêng họ, vốn không hơn một tổ chức quần chúng, và sắc luật ban hành của chính quyền. ‘Giới nông dân địa phương’, Dân Ủy Nizhnyi Novgorod, phàn nàn, ‘cứ khẳng khăng cho rằng mọi luật lệ dân sự đã mất tác dụng, và bây giờ mọi quan hệ hợp pháp phải do các tổ chức nông dân qui định.’ Đây là ý nghĩa của cuộc cách mạng nông dân.
* * *
Cũng như các nông dân, niềm mong đợi của các công nhân cũng tăng vọt trong mùa xuân 1917. Hơn nửa triệu công nhân bước ra ngoài đình công giữa tháng 4 và đầu tháng 7; và thuộc nhiều ngành nghề hơn bất kỳ cuộc đình công nào từ trước đến nay. Thợ thủ công, thợ giặt ủi, thợ nhuộm, thợ cắt tóc, thợ nấu ăn, bồi bản, phu khuân vác, tài xế và người giúp việc – không chỉ ở hai thành phố thủ đô mà còn ở những thị trấn tỉnh lỵ trên khắp Đế chế – đứng bên cạnh các công nhân đình công ‘chuyên nghiệp’, như các công nhân hãng dệt và kim loại. Ngay cả gái mãi dâm cũng có mặt.
Phần đông những yêu sách của người đình công là vì kinh tế. Họ muốn đồng lương cao hơn để bù trừ cho lạm phát và mua được đẩy đủ thực phẩm hơn. Họ muốn điều kiện làm việc tốt hơn. Đặc biệt, ngày làm tám tiếng đã trở thành điều kiện thiêng liêng. Họ coi đó là biểu hiệu của mọi quyền lợi và thắng lợi của họ. Trong nhiều hãng xưởng hết một ca tám giờ là các công nhân buông dụng cụ xuống và ra về. Các ông chủ phải đành chịu không dám làm gì hơn được, kế cả việc giảm lương. Nếu nhu cầu sản xuất phải làm hơn tám tiếng, như trong các nhà máy sản xuất quân nhu, thì họ được trả thêm phụ cấp. Chỉ đến 10/3 300 chủ nhà máy Petrograd thông báo chấp nhận ngày làm tám tiếng sau khi thỏa thuận với Xô-Viết và trên cơ sở này nó được mở rộng ra hầu hết các thị trấn khác.
Trong bối cảnh của 1917, khi toàn bộ cấu trúc của nhà nước và chủ nghĩa tư bản đang được tái xác định, những yêu sách kinh tế này không tránh khỏi mang màu sắc chính trị. Vòng lẩn quẩn của đình công và lạm phát, của lương cao hơn đuổi theo giá cả tăng cao hơn, khiến người công nhân yêu sách nhà nước cần áp đặt quyền kiểm soát mạnh hơn lên thị trường. Cuộc đấu tranh của công nhân nhằm kiểm soát môi trường làm việc của họ, trên hết để ngăn cản các ông chủ giảm chất lượng sản phẩm nhằm duy trì lợi nhuận, khiến họ không ngừng yêu cầu nhà nước đảm đương việc điều hành các nhà máy.
Cũng nổi lên hiện tượng đề cao về nhân phẩm cua công nhân. Giờ họ đã ý thức về địa vị ‘công dân’ của mình, và việc mình đã ‘tạo ra cách mạng’ hay ít nhất tham gia trong đó, và họ không còn muốn bị các đốc công và chủ nhân đối xử thiếu tôn trọng. Hành động này thường là những tia lửa làm bùng nổ bạo lực: các nhân viên nhà máy xúc phạm sẽ bị tẩy chay hoặc nếu nặng hơn bị tống vào xe rùa, rồi bị đánh trùm mềm và đẩy xuống mương. Các bồi bàn ở Petrograd tuần hành với băng rôn mang yêu sách:
CHÚNG TÔI YÊU CẦU ĐỐI XỬ TÔN TRỌNG VỚI BỒI BÀN NHƯ CON NGƯỜI! ĐẢ ĐẢO TIỀN BOA: BỒI BÀN CŨNG LÀ CÔNG DÂN!
Các tôi tớ tuần hành yêu cầu được xưng hô với họ lịch sự không được ‘mầy tao’ . Phụ nữ đòi trả lương ngang với nam giới, và chấm dứt vụ khám xét người khi tan ca, làm mất phẩm giá công nhân, trả lương đầy đủ khi nghỉ thai sản và bãi bỏ sử dụng lao động trẻ em.
Không tổ chức nào phản ánh rõ tính tự khẳng định của giai cấp lao động hơn Hồng Vệ bình. Như các ủy ban nhà máy, sáng kiến thành lập tổ chức này xuất phát từ bên dưới vào năm 1917. Trong Cách Mạng Tháng Hai nhiều lữ đoàn các công nhân vũ trang nổi lên để bảo vệ nhà máy. Họ không chịu giải giới khi chính quyền đã thành lập lực lượng dân quân trong thành phố. Vì thế xảy ra hiện tượng hệ thống cảnh sát kép – với dân quân ở các khu trung lưu còn các lực lượng công nhân ở các vùng ngoại ô công nghiệp. Dần dần các binh đoàn công nhân, dù lỏng lẻo, được thống nhất dưới sự chỉ đạo của các Xô-Viết khu vực. Nhưng ngay từ đầu chính người Bôn-se-vich đã có ảnh hưởng vượt trội đối với họ; và chính Bôn-se-vich Vladimir Bonch- Bruevich là người đầu tiên sử dụng từ ‘Hồng Vệ bình’. Trong khi lãnh đạo Xô-Viết xem Hồng Vệ bình là một tiền lệ nguy hiểm đe doạ lật đổ chính quyền, thì người Bôn-se-vich, khi Lênin đã trở về, càng hậu thuẫn và trang bị các công nhân và giúp định hình Hồng Vệ bình theo hình ảnh riêng của nó quân đội công nhân, lúc nào cũng sẵn sàng, bảo vệ ‘cách mạng’ chống lại bất cứ mỗi đe doạ nào. Việc vũ trang cho công nhân – đến tháng 7 có khoảng 20,000 công nhân trong Hồng Vệ bình chỉ riêng ở Petrograd – là khía cạnh quan trọng trong tâm lý của họ. Đây là những công nhân mà Lênin nghĩ đến trong đầu khi nói rằng công nhân đứng ‘bên trái’ người Bôn-se-vich. Họ là những người trẻ (hơn phân nửa Hồng Vệ bình dưới 25 tuổi), độc thân, có học, và có tay nghề cao, phần đông đều tham gia những vụ đình công quá khích những năm 1912-14, khi người Bôn-se-vich lần đầu tiên nắm được giai cấp lao động ở Petrograd và Moscow. Hầu hết họ thuộc về hoặc có cảm tình với một trong các đảng chiếm đa số – thường là Bôn-se-vich hay Anarchist – và coi mình như là ‘đội tiền phong của giai cấp vô sản’.
.Chính quyền Lâm thời hoàn toàn không thể kiểm soát được tình trạng hiếu chiến trong giới công nhân đang dâng cao này. Nó bị hướng dẫn sai lầm bởi nguyên tắc kỹ nghệ cấp tiến của các Ủy ban Kỹ nghệ Chiến tranh, mà Bộ trưởng Thương mại và Kỹ nghệ, Konovalov, cũng như Bộ trưởng Tài chính, Tereshchenko, từng là các lãnh đạo chủ chốt của nó. Trung tâm của nguyên tắc này là khái niệm (nói thẳng là hư ảo) về một chính quyền như là người bảo vệ cho ‘một nhà nước trung tính’, đứng trên lợi ích của giai cấp hay đảng phái, mà vai trò của nó trong kỹ nghệ là làm trung gian hòa giải giữa lao động và tư bản. Điều quan trọng là duy trì sản xuất vì lợi ích của chiến dịch quân sự. Đấu tranh giai cấp phải dừng lại để đánh thắng cuộc chiến chống Đức.
Trong những tuần đầu dưới sự cai trị của Konovalov có vài dấu hiệu cho thấy tinh thần chung sức mới mẻ về hợp tác kỹ nghệ này. Như một phần của thỏa thuận về ngày làm việc tám tiếng mà Konovalov đã môi giới vào ngày 10/3, các ban hòa giải, gồm những nhà quản lý và công nhân, được thành lập trong nhiều hãng xưởng để giải quyết những tranh chấp mà không cần đình công tốn kém. Việc điều hành đường sắt được giao cho các ủy ban đường sắt địa phương trong đó các công nhân tham gia bên cạnh các kỹ thuật viên và viên chức. Chính Konovalov làm trọng tài nhiều vụ tranh chấp kỹ nghệ và dựa vào chủ nhân để tiến hành thương lượng – thường đền bù họ theo nhiều cách khác nhau – trong lợi ích của nền kinh tế chiến tranh. V. G. Groman, nhà kinh tế Men-se-vich, thậm chí bắt đầu phác họa những nét chính cho một ‘nền kinh tế kế hoạch’ trong đó các công nhân, kỹ thuật gia và chủ nhân sẽ hợp tác để điều chỉnh kinh tế dưới sự giám hộ của Xô-Viết và nhà nước.
Vậy mà sự hưu chiến này trong đấu tranh giai cấp không và không thể kéo dài thật lâu. Thế đứng cho là trung lập của chính quyền chính nó là lý do chính cho sự tiếp diễn thù địch. Bởi vì mỗi bên nghi ngờ nó ưu đãi bên kia. Một bên, các công nhân được khuyến khích vì những lợi lộc có trước đây – có báo cáo cho biết có một số công nhân nhận lương tăng gấp năm hoặc sáu lần – và điều này nảy sinh những mong đợi không hiện thực về những gì có thể đạt được bằng những hoạt động kỹ nghệ. Những kỳ vọng của họ càng tăng lên khi người Men-se-vich bước vào chính quyền vào 5/5 (với Skobelev, một Men-se-vich, Bộ trưởng Lao động). Nó có vẻ như bật đèn xanh cho đình công thêm nữa và bảo đảm họ được hậu thuẫn trong chính quyền. Các công nhân bước ra đình công với những yêu sách thường quá đáng, rồi bất mãn khi thua, và lên án chính quyền chống lưng cho chủ nhân. Quả là một thảm họa cho Men-se-vich.
.Chủ nhân, ngược lại, càng ngày càng mất kiên nhẫn với những đòi hỏi của công nhân, và sự thất bại của chính quyền nhằm kềm chế họ. Họ đổ tội khủng hoảng kỹ nghệ cho việc tăng lương công nhân, cho sự gián đoạn sản xuất liên tục gây ra bởi đình công và hội họp trong nhà máy. Họ cảnh giác trước việc Men-se-vich bước vào chính quyền, dường như là dấu hiệu cán cân sẽ lệch về phía quan điểm công nhân. Từ đầu tháng 5, họ bắt đầu đi lệch khỏi lộ trình hòa giải kỹ nghệ của Konovalov. Họ xiết lại hàng ngũ, phản kháng các yêu sách đình công của công nhân, thậm chí nếu phải ngưng sản xuất hoặc đóng cửa nhà máy. Trong khi trước đây các vụ đình công tránh được bằng thỏa thuận thì nay hai bên sân sàng đấu đá nhau, và kết quả đình công càng dữ dội và kéo dài, vì không bên nào chịu nhường bước. Vụ đình công gay gắt tại nhà máy khổng lồ Sormovo ở Nizhnyi Novgorod, gây ra hỗn loạn cho nhà máy sản xuất quốc phòng lớn nhất nước ảnh hưởng đến việc chuẩn bị tấn công vào tháng 6, là dấu hiệu thực sự đầu tiên của thời tiết mới này. Nó đặt dấu chấm hết cho những hi vọng cấp tiến về mùa xuân, và vẫy gọi một cuộc chiến kỹ nghệ mùa hè.
* * *
Là những người bảo vệ tự phong của nhà nước Nga, các lãnh đạo của Chính quyền Lâm thời đoàn kết vào một nhiệm vụ cấp bách ngay lúc này: duy trì các đường biên giới được nguyên vẹn. Theo như họ nhận định, đó là nhiệm vụ chủ yếu để giữ gìn ‘sự thống nhất của nhà nước Nga’ cho đến khi cuộc chiến kết thúc và vấn đề của Đế Chế sẽ do Quốc hội Lập hiến giải quyết. Điều này không loại trừ khả năng nhượng bộ, như một biện pháp quá độ, quyền tự trị địa phương hoặc tự do văn hóa cho các lãnh thổ không-Nga. Thật ra những người cấp tiến nghĩ rằng đây là một điều cốt lõi. Họ cho rằng sở dĩ các dân tộc không-Nga bất mãn là vì cách đối xử phân biệt và áp bức của chế độ sa hoàng, do đó giờ đây với sự bình đẳng tôn giáo và quyền dân sự họ sẽ mãn nguyện. Họ đánh đồng vấn đề quyền dân tộc với quyền cá nhân; và tin rằng trên cơ sở này Đế Chế Nga có thể giữ nguyên vẹn. Nhưng bảo vệ ‘sự thống nhất nhà nước Nga’ phải loại trừ, như người Kadet nói, sự nhượng bộ các áp lực dân tộc dẫn đến ‘sự phân chia đất nước thành các nhà nước độc lập, có chủ quyền’.
Vị trí này, giống như thời Gorbachev đổi mới, hoàn toàn không đủ để đáp ứng được áp lực đang tăng lên của chủ nghĩa dân tộc sau tháng hai năm 1917. Thực ra không phải ở đâu những người không-Nga cũng nổi lên đòi ra khỏi Đế Chế. Một số dân tộc mà đa số là nông dân gần như không hay biết mình là dân tộc khác trong nhóm sắc tộc khác nhau (như người Belorussia, Lithuania, Azeri, và có thể Ukraina). Những người khác nói chung thỏa mãn với các quyền tôn giáo và dân sự (như người Do Thái). Một số khác kết hợp những bất mãn xã hội và sắc tộc vào một cuộc cách mạng dân tộc-xã hội hướng tới nước Nga như một người dẫn đường (như người Latvia và Georgia). Armenia, vì những nhận định thuần túy dân tộc chủ nghĩa, trông cậy vào nước Nga để bảo vệ mình chống người Thổ. Nhưng ở những nơi khác – và trong vài tầng lớp của dân tộc này – sự sụp đổ của chế độ sa hoàng đúng là làm nổi dậy những phong trào quần chúng ban đầu đòi quyền tự trị khỏi nước Nga và rồi sau đó, khi việc này không được ưng thuận, tiếp tục đòi quyền độc lập.
Sự xuất hiện của các phong trào độc lập một phần là do cơ hội. Quyền lực áp bức của chế độ cũ đã sụp đổ; quyền lực của Chính quyền Lâm thời thì vô cùng hạn chế; trong khi Đức và Áo, với quân đội đã chiếm các vùng đất sát biên giới, rất sẵn sàng giúp các người dân tộc dựng lên nhà nước bé tí để họ dễ điều khiển và sử dụng để chống lại nước Nga. Những người dân tộc đó không chỉ là ‘những đặc vụ Đức’, ngay cả trong những xứ đó (như Ukraine và Lithuania) nơi sự độc lập đạt được bằng nền hoà bình riêng lẻ và với giá của một nhà nước bù nhìn. Nhiều đảng phái dân tộc gặt hái được sự hậu thuẫn qua bầu cử quần chúng. Chẳng hạn, ở Ukraine, 71 phần trăm phiếu bầu nông thôn bầu cho các người SR Ukraine và Liên minh Nông Dân Toàn Ukraine trong cuộc bầu cử Quốc hội Lập hiến vào tháng 11 1917. Các đảng xã hội có nền tảng dân tộc chủ nghĩa cũng chiếm được đa số phiếu ở Estonia, Georgia, Phần Lan và Armenia trong cuộc bầu cử 1917.
Chắc chắn là, không có gì rõ ràng – và điều này vẫn còn là một trong những câu hỏi chưa được trả lời của Cách Mạng Nga – số lượng phiếu ủng hộ đông đảo thực sự nói với chúng ta điều gì về ý thức dân tộc của giới nông dân, vốn chiếm đại đa số dân trong tất cả xã hội này. Như người ta có thể mong đợi, chủ nghĩa dân tộc có ý thức và tích cực nhất xuất phát từ thành phần tiểu tư sản, tiểu trí thức và những nông dân có học và phát đạt nhất, đặc biệt những quân nhân gốc nông dân. Sau hết, như chúng ta đã thấy, sự lớn mạnh của ý thức dân tộc nông dân phụ thuộc vào sự phát triển của các định chế nông thôn, như trường học và câu lạc bộ đọc sách, các hiệp hội nông dân và hợp tác xã, mang đến cho nông dân nền văn hóa dân tộc của thế giới đặt tâm điểm vào đô thị; và chính trong số nông dân có học này các định chế đó mới phát triển nhiều. Trong nền văn hóa chính trị truyền thống của vùng quê Ukraine và Georgia người ta có thể mong đợi quần chúng nông dân – và thậm chí các phụ nữ nông dân còn đông hơn, những người lần đầu tiên đi bỏ phiếu – sẽ đi theo sự dẫn dắt của những người ưu tú nông thôn và bỏ lá phiếu của mình cho các nhà dân tộc. Đây là một trong số các nguyên nhân chính tại sao các thành viên SR làm quá tốt trong những cuộc bầu cử vào Quốc hội Lập hiến: nhiều bô lão trong quá khứ đã gắn bó với SR và họ thường dặn dò dân làng dồn phiếu hết cho SR.
Chắc chắn, những người dân tộc thành công nhất khi họ biết cách thuyết phục nông dân rằng quyền tự trị dân tộc là bảo đảm tốt nhất cho cuộc cách mạng của họ trong làng. Chính sách quốc hữu hóa của họ đặc biệt thành công. Trong nhiều vùng cuộc đấu tranh cho ruộng đất cũng là cuộc đấu tranh của giới nông dân bản xứ chống lại giới địa chủ nước ngoài, vì thế khi các nhà dân tộc nói về nhu cầu quốc hữu hóa đất đai nó có ý nghĩa thực tế và cụ thể. Trong các tỉnh phía bắc của Ukraine, nơi các làng Ukraine và làng Nga trà trộn nhau, những người dân tộc có thể động viên các nông dân Ukraine bảo vệ truyền thống phát canh đất đai theo thừa kế chống lại mối đe dọa cải cách kiểu Nga dựa trên nguyên tắc phát canh kiểu công xã.
Chiến dịch của người dân tộc đối với quyền sử dụng ngôn ngữ dân tộc cũng có ý nghĩa đối với nông dân: những mong đợi của họ về thăng tiến xã hội phụ thuộc vào việc học viết tiếng dân tộc mình và có thể sử dụng nó trong đời sống công cộng. Phong trào của họ (ở Georgia và Ukraine) nhằm mang tiếng dân tộc vào nhà thờ, các giáo vụ được tiến hành bằng tiếng dân tộc để các giáo sĩ gần gũi hơn với giáo dân và và nhiều nông dân hơn vào làm giáo vụ. Tương tự, việc thành lập các đơn vị quân đội dân tộc, yêu cầu các đại hội quân sự cho những đại diện nhóm quân nhân không-Nga được nhóm họp, không chỉ cung cấp cho các thành bang tương lai này một quân đội dân tộc có sẵn mà còn mở cửa cho nhiều người không-Nga khác tiến lên trong cấp bậc.
Dù bản chất hay mức độ là gì, lời kêu gọi của chủ nghĩa dân tộc mạnh hơn rất nhiều so với những gì giới lãnh đạo của Chính quyền Lâm thời sẵn sàng cho phép. Chỉ trong trường hợp Ba Lan là họ hoàn toàn rút lui trước các nhà tranh đấu quyền dân tộc, tuyên bố hậu thuẫn cho nền độc lập của Ba Lan rất sớm là từ ngày 16/3, chỉ bởi vì, lúc đó Ba Lan đã bị Đức và Áo chiếm đóng, tuyên bố như thế không có gì thiệt hại mà ngược lại, có thể giành được sự hậu thuẫn của nhân dân Ba Lan chống lại Liên minh Trung Tâm. Ngay cả Brusilov, nhà yêu nước Nga vĩ đại lúc đó đang đánh nhau trên đất Nga-Ukraine-BaLan đang tranh cãi, nhìn nhận rằng ‘chúng ta không có lựa chọn nào khác ngoại trừ cho Ba Lan nền tự do của họ’. Nhưng trong hai mối xung đột chủ yếu khắc – với các nhà dân tộc Phần Lan và Ukraine – Chính quyền Lâm thời từ chối bất kỳ nhượng bộ nào; và phần nhiều vì sự cố chấp này, hai phong trào này càng lớn mạnh, nhất là khi chính quyền yếu đi thấy rõ, họ từ từ yêu sách đòi quyền tự trị chuyển sang đòi quyền độc lập.
Vấn đề Phần Lan xuất phát từ cơ sở cai trị mập mờ của nước Nga trên Phần Lan sau khi nền quân chủ của nó sụp đổ. Người Phần Lan lập luận, với lý lẽ biện minh được, là Sa Hoàng đã cai trị Phần Lan với tư cách cá nhân là Đại Công tước, nên Phần Lan được mang tên Đại Công quốc Phần Lan, vì vậy khi Sa Hoàng bị hạ bệ phần đất này sẽ trở về với nghị viện Phần Lan (Sejm). Nhưng trong Tuyên Cáo ngày 7/3 Chính quyền Lâm thời tự tuyên bố mình có quyền thừa kế hợp pháp đối với quyền cai trị Phần Lan của Sa Hoàng, và trong lúc chờ đợi Quốc hội Lập hiến ra nghị quyết về vị thế tương lai của Phần Lan, chính quyền ở Helsingfor nên tiếp tục chịu trách nhiệm với Toàn quyền Nga.
Đây là khởi đầu của một cuộc giằng co mang tính lập hiến phức tạp và lâu dài giữa người Phần Lan (không chịu nhìn nhận quyền làm chủ của Chính quyền Lâm thời) và người Nga (từ chối nhìn nhận quyền hành của Seijm). Chính quyền liên minh của Tokoi ở Helsingfor, một pha trộn giữa những nhà xã hội có đầu óc liên bang và những nhà dân tộc có đầu óc cấp tiến, theo đuổi một giải pháp thỏa hiệp, theo đó Phần Lan sẽ được hoàn toàn tự trị nội bộ đối lại Nga có quyền phủ quyết chính sách đối ngoại và quân sự. Nếu suy nghĩ bình tĩnh hơn, thì Chính quyền Lâm thời có thể đã nhận ra đây là cách giải quyết tạm thời tiện lợi. Nhưng vì đề nghị này dẫn đến việc lực lượng quân đội Phần Lan bổ sung vào chiến dịch quân sự Nga sẽ nhỏ hơn, Nga sợ rằng tiếp theo Phần Lan sẽ rút chân ra khỏi cuộc chiến, nên họ phong tỏa tiến trình thương thảo.
Sự bế tắc tiếp tục suốt mùa xuân, khi chính quyền Tokoi chịu sức ép của quần chúng đòi đơn phương tuyên bố Phần Lan độc lập, trong khi Petrograd thấy đây là lý do để thẳng tay hơn nữa chống lại tất cả những yêu sách của Phần Lan. Tình hình càng khẩn trương khi Bôn-se-vich, lợi dụng chính nghĩa của người Phần Lan hi vọng tranh thủ được một đồng minh chống lại Chính quyền Lâm thời. Họ ra sức xây dựng một cơ sở hậu thuẫn vững mạnh trong hàng ngũ các thủy thủ ở Helsingfor, nơi họ kiểm soát cơ quan Xô-Viết của riêng họ trong Hạm đội Baltic (Tsentrobalt). Bù lại, Tokoi sử dụng mối đe dọa Bôn-se-vich này với hi vọng gây áp lực thương lượng với Chính quyền Lâm thời. Nhưng chính quyền cương quyết giữ nguyên lập trường. Kerensky, với tư cách một Bộ trưởng Chiến tranh mới, vào tháng 5 cảnh báo người Phần Lan đừng thử sức kiên nhẫn của ‘nhân dân Nga quảng đại’ bằng cách ra sức ‘bòn rút những quyền lợi về lãnh thổ của quốc gia họ’.
.Mọi quan hệ với Nga đi đến khủng hoảng vào tháng 6 và 7. Một nghị quyết của Đại hội Xô-Viết Toàn Nga kêu gọi Chính quyền Lâm thời thỏa thuận một hiệp ước độc lập với Phần Lan vào cuối cuộc chiến được Sejm xem như bật đèn xanh cho họ thông qua tuyên bố độc lập của riêng mình (valtalaki) vào ngày 23 tháng 6. Nhân dân Phần Lan ăn mừng ngày valtalaki, ngỡ rằng nó đã được nghị viện Nga ủng hộ. Nhưng nhân dân Nga cũng nổi giận về hành động tuyên bố đơn phương này của Phần Lan. Một phái đoàn Xô-Viết cố gắng thuyết phục người Phần Lan rút lại valtalaki và, khi việc này thất bại, các lãnh đạo Xô-Viết hậu thuẫn quyết định của chính quyền dẹp tan phong trào Phần Lan bằng biện pháp quân sự. Trong suốt tháng 7 người Nga lục tục chuẩn bị binh lính trên đất Phần Lan, đe doạ sử dụng vũ lực nếu Sejm không rút lại valtalaki. Vào ngày 21/7 Sejm giải tán. Phần đông người xã hội chủ nghĩa Nga, mặc dù thừa nhận quyền tự quyết của Phần Lan, nhìn nhận cần phải dùng biện pháp trấn áp này và đổ lỗi cho Sejm quá vụng về. Nhưng những người khác, như Gorkỳ, cảnh báo rằng hành động này chỉ củng cố thêm quyết tâm của người Phần Lan, càng ‘làm xung đột thêm sâu sắc’ và gây phương hại đến uy tín dân chủ của Nga đối với phương Tây. Thật ra việc giải tán này làm nhiều hơn thế. Bằng cách loại trừ khả năng giải quyết bằng đàm phán, nó phá hỏng chính quyềnở Helsingfor và đẩy Phần Lan đi theo con đường sẽ kết thúc bằng nội chiến, khi cuộc đấu tranh cho độc lập đan xen với cuộc xung đột xã hội bao trùm hơn giữa các tầng lớp có tài sản cấp tiến, chần chừ không muốn đoạn giao hẳn với người Nga, và quần chúng công nhân, thủy thủ và người lao động không ruộng đất theo Bôn-se-vich càng ngày càng đông đảo, hồ hởi với emước mơ một Phần Lan Đỏ độc lập.
Ở Ukraine Cách Mạng Tháng Hai ngay lập tức cho ra đời một phong trào dân tộc tập hợp quanh Rada, tức nghị viện, được thành lập ở Kiev vào ngày 4/3. Trong khi Rada tranh đấu tối hậu cho quyền tự quyết của Ukraine, nó nhận thấy nhiệm vụ trước mắt là thỏa thuận những quyền tự do văn hóa, quyền tự trị chính trị rộng rãi hơn, và cuộc cải cách ruộng đất cực đoan bên trong liên bang Nga. Vấn đề cải cách ruộng đất đặc biệt quan trọng, bởi vì mặc dù Rada có thể tin vào sự hậu thuẫn của giới trí thức Ukraine, nó không chắc nhận được sự ủng hộ của nông dân, vốn chiếm đại đa số ở Ukraine, mặc dù phần đông binh sĩ Ukraine, đơn giản là những nông dân mặc quân phục, thực sự đoàn kết vững chắc sau lưng chính nghĩa dân tộc.
Vào giữa tháng 5, một phái đoàn Rada trình yêu sách lên Chính quyền Lâm thời. Những yêu sách này có tính ôn hòa – công nhận quyền tự trị của Ukraine, một ghế cho người Ukraine trong việc hòa giải, một dân ủy về vấn đề Ukraine, những đơn vị quân đội Ukraine riêng biệt ở hậu phương, và việc bổ nhiệm người Ukraine vào hầu hết những vị trí dân sự. Chính quyền Lâm thời đáng ra có thể dễ dàng chấp thuận mà không cần viện dẫn đến viễn cảnh của Quốc hội Lập hiến. Nhưng chính quyền và các nhà lãnh đạo Nga khước từ tư thế của Rada – lời tuyên bố của nó không được in trong tờ báo nào của Nga – và có vẻ như họ cho rằng nếu phớt lờ nó thì toàn bộ vấn đề sẽ trôi tuột đi. Hoàng thân Lvov cố chôn lấp vấn đề bằng cách thành lập một ủy ban đặc biệt, gồm những luật sư Nga, đưa ra những câu hỏi pháp lý phức tạp về tính hợp pháp cho từng yêu sách của Rada trước khi kết luận một điều ai cũng biết trước. Lại thêm một minh họa khác nữa về việc người cấp tiến Nga sử dụng tư thế pháp lý để trốn tránh chính trị.
Nhưng hậu quả của phản ứng loại đà điểu giấu mặt này chỉ làm mạnh thêm chính nghĩa dân tộc và đẩy nó đi theo hướng yêu sách cực đoan hơn cho quyền độc lập với Nga. Được Đại hội Quân sự Ukraine Thứ Hai thúc giục, Rada cho in Tuyên bố Thứ nhất vào ngày 10/6. Đó là tuyên bố về nền tự do của Ukraine căn cứ vào các hiến chương của người Cosack Hetmans thế kỷ 17, mà Ukraine nhìn nhận là những người sáng lập ‘quốc gia Ukraine’. Tuyên bố cũng kêu gọi triệu tập một Sejm, tức hội đồng dân tộc chủ quyền, và tuyên bố thành lập một Ban Tổng Bí thư, đứng đầu là V. K. Vinnichenko, nắm quyền hành pháp, thay thế quyền hành của Chính quyền Lâm thời ở Ukraine. Chỉ đến lúc này cuộc khủng hoảng Ukraine, xảy ra đồng thời với Phần Lan, mới xuất hiện hàng đầu trong chương trình nghị sự. Ngay trước khi quân đội mở cuộc tấn công mới về phía Tây, thì Nga có nguy cơ sẽ mất một lượt hai vùng đất sống còn ở phía sau Mặt trận. Lvov lập tức lên án Rada ‘giáng một đòn trí mạng lên nhà nước’, trong khi tờ Volia naroda thể hiện quan điểm chung của Xô-Viết là Tuyên bố là ‘nhát dao đâm sau lưng Cách Mạng’.
Rõ ràng một thỏa ước nào đó là cần thiết, và vào ngày 28/6 chính quyền gởi một phái đoàn ba người (Tereshchenko, Kerensky và Tsereteli) đến thương lượng với Rada. Vào 2/7 hai bên ký một hiệp ước tạm thời: Chính quyền Lâm thời nhìn nhận rộng rãi quyền tự trị dân tộc của Ukraine, và tính hợp pháp của Rada và quyền điều hành của Ban Tổng Bí thư. Kết quả này đủ để xoa dịu cơn nóng giận của Ukraine cho đến hết hè. Nhưng nó làm nổi giận những người dân tộc Nga ở Kiev. Họ bắt đầu đánh nhau với người Ukraine trên đường phố. Nhưng người Kadet cánh hữu trong nội các của Lvov nhận lãnh lý tưởng của nhóm thiểu số Nga ở Ukraine. Họ không tán thành cách giải quyết trên cơ sở là chỉ có Quốc hội Lập hiến mới có quyền hành hợp pháp để giải quyết những vấn đề như thế. Thật ra đó chỉ là một cái cớ vì họ muốn Nga duy trì những lợi ích của mình ở vùng Ukraine. Trong một dịp nói chuyện với thư ký của mình, Lvov lên án Kadet ‘xử sự như bọn khốn Black Hundreds tồi tệ nhất’ trên vấn đề đó. Vào ngày 4/7 ba thành viên Kadet từ chức khỏi nội các. Và việc này châm ngòi cho sự khởi đầu một cuộc khủng hoảng chính trị kéo dài kết thúc bằng sự sụp đổ của Chính quyền Lâm thời.
* * *
Brusilov viết cho vợ vào 1 tháng 3:
Em phải biết những gì đang xảy ra. Tất nhiên anh hài lòng. Nhưng anh cầu nguyện Chúa Trời là cuộc khủng hoảng đáng sợ này, trong cuộc chiến đáng sợ này, sẽ sớm chấm dứt, để kẻ ngoại thù của chúng ta không gặt hái được những lợi ích từ việc sụp đổ của chúng ta. Tinh huống may mắn duy nhất là nó xảy ra vào một thời điểm trong năm mà kẻ thù rất khó khăn, gần như là không thể, tiến hành một trận tấn công, bởi vì như thế sẽ là thảm họa. Giờ điều quan trọng hơn hết thảy là chúng ta đánh thắng cuộc chiến này, nếu không nước Nga sẽ bị hủy hoại.
Niềm tin không mệt mỏi vào vận số thắng lợi của nước Nga giờ đây, hơn bao giờ hết, là vấn đề hi vọng chống lại hi vọng. Như về sau ông nhận biết, duy trì một chiến dịch kéo dài giữa thời kỳ cách mạng xã hội là hoàn toàn không thực tế. Nhưng ông còn tin binh lính vẫn muốn tiếp tục chiến đấu cho đến phút cuối cùng. Không giống như hầu hết các tướng lĩnh của Sa Hoàng, ông giao số phận mình cho cách mạng với hi vọng rằng việc bảo vệ nền tự do của Nga có thể khích động lòng yêu nước của họ. Các người bảo hoàng lên án ông theo chủ nghĩa cơ hội; và các sử gia lặp lại lời cáo buộc. Nhưng Brusilov từ lâu đã tin rằng, dù có cảm tình với quân chủ, nhưng nếu không thay đổi toàn diện chính quyền, Nga không thể thắng cuộc chiến. ‘Nếu tôi phải chọn giữa Nga và Sa Hoàng,’ Brusilov từng nói vào năm 1916, ‘thế thì tôi chọn nước Nga.’
Quân đội của nước Nga tự do thật ra không hăng hái tiếp tục đánh nhau như các tướng lĩnh lạc quan đã tưởng. Điều Lệnh Số 1 cho tập thể binh sĩ một niềm hãnh diện mới được là một ‘công dân’ binh đẳng với các sĩ quan, và điều này sớm dẫn đến sự buông lỏng kỷ luật. Các ủy ban quân nhân mới thành lập, mặc dù thoạt đầu do các sĩ quan trẻ và các nhà trí thức mặc quân phục có tính thần dân chủ áp đảo, sớm trở thành những người lãnh đạo cách mạng trong hàng ngũ này. Họ họp hành về chiến lược và về việc liệu có cần tuân lệnh các sĩ quan hay không. Một số binh lính không chịu chiến đấu nhiều hơn tám tiếng một ngày, giống như các công nhân. Nhiều người không chịu chào tay sĩ quan, hoặc đòi sĩ quan phải do mình cử ra. Hù doạ sĩ quan là chuyện thường. Bản thân Brusilov còn nhận nhiều thư hăm lấy mạng nếu ông ra lệnh tiến quân. Vào tháng 5, khi Brusilov nắm Tư lệnh Tối cao và duyệt các đơn vị thuộc Mặt trận phía Bắc, nơi tinh thần nổi loạn của binh sĩ là mạnh nhất, ông thấy hàng trăm sĩ quan đã đào thoát khỏi nhiệm sở, trong khi không ít sĩ quan buộc phải tự tử. ‘Tôi nhớ một trường hợp khi một nhóm sĩ quan thoáng nghe binh sĩ bàn tán với giọng điệu đe doạ là cần phải làm thịt tất cả sĩ quan. Một sĩ quan trong số trẻ nhất sợ khiếp vía nên tối đó đã tự bắn vào mình. Cách thức họ giết sĩ quan thường rất tàn nhẫn, có khi cắt lìa chân tay và bộ phận sinh dục, hoặc lột da sống nạn nhân, khiến ta khó lòng mà đổ lỗi cho các sĩ quan.
Một đại úy trẻ viết cho cha mình vào ngày 2 tháng 3:
Giữa chúng con và binh lính có cả một vực thẳm khó vượt qua. Bất cứ thứ gì họ có thể nghĩ về chúng con với tư cách cá nhân, trong mắt họ chúng con vẫn không hơn những ông chủ. Khi chúng con nói về ‘nhân dân’ chúng con có trong đầu quốc gia như một toàn thể, nhưng họ nghĩ nhân dân chỉ là những thường dân. Theo quan niệm của họ, những gì xảy ra không phải là một cuộc cách mạng chính trị mà là xã hội, trong đó chúng con là người thua còn họ là kẻ thắng. Họ nghĩ rồi mọi việc sẽ trở nên tốt hơn đối với họ và sẽ tệ hơn đối với chúng con. Họ không tin tưởng vào chúng con khi chúng còn nói về nghĩa vụ của mình đối với binh sĩ. Họ nói chúng con là những ông chủ trong quá khứ, còn bây giờ đến lượt họ là ông chủ của chúng con. Đó là mối thù mà họ phải báo sau bao nhiêu thế kỷ làm tôi tớ.
Binh sĩ nông dân rõ ràng không chia sẻ cùng một khái niệm về ‘công dân’ như các sĩ quan. Họ không nhìn thấy cách mạng theo cùng một chuẩn mực về quyền lợi và bổn phận dân sự. Cách mạng của họ trong chiến hào là một phiên bản khác của cuộc cách mạng xã hội ở vùng quê. Các binh sĩ nông dân đương nhiên tưởng rằng, chỉ khi họ lật đổ được giới sĩ quan quí tộc, họ mới có hoà bình, bánh mì và đất đai. Như một người lính đã nói tại một buổi họp của trung đoàn y vào tháng ba để thảo luận về vụ Sa Hoàng thoái vị:
Bộ các anh không biết à? Chuyện đang xảy ra ta gọi là két miệng! Bộ các bạn không biết két miệng là gì à? Đó là khi nhân dân lấy hết quyền hành. Và nhân dân là gì nếu không có binh sĩ chúng ta, với súng ống đây? Mẹ, nó rõ như ban ngày – quyền hành là của chúng ta. Và suy cho cùng xứ sở này cũng là của chúng ta, và đất đai cũng vậy tuốt, và muốn đánh hay thôi cũng do chúng ta quyết. Thế các anh có hiểu không? Đó chính là két miệng.
Xác quyết này về ‘quyền lực binh lính’ là cốt lõi của tinh thần ‘chủ nghĩa Bôn-se-vich trên chiến hào’, đang quét qua các lực lượng vũ trang năm 1917. Brusilov mô tả việc đó như sau:
Binh lính chì muốn một điều – hoà bình, để họ có thể đi về nhà, cướp bóc các địa chủ, và sống tự do không phải đóng thuế hoặc nghe lệnh ai. Các binh lính quay về phía Bôn-se-vich vì họ tin rằng đây là cương lĩnh của đảng. Họ không có tí hiểu biết gì về chủ nghĩa Cộng sản, hoặc Quốc tế Cộng sản, hoặc sự phân chia công nhân và nông dân, thực sự nghĩa là gì, nhưng họ chỉ tưởng rằng mình sẽ ở nhà sống vô pháp và không có điền chủ. Thứ tự do vô chính phủ này họ gọi là Bôn-se-vich.’
Hàng triệu binh lính bỏ ngũ giữa tháng 3 và 10. Phần lớn những binh sĩ này ‘vắng mặt không phép’, những người đơn giản đã chán ngấy đánh nhau hoặc ngồi miết dưới chiến hào và trong doanh trại không được ăn uống. Chúng chạy đến các thị trấn gần nhất, để ăn uống và say sưa, đi nhà thổ và thường gieo khiếp đảm cho dân chúng địa phương. ‘Đường phố đông nghẹt binh lính,’ một viên chức ở Perm phàn nàn vào giữa tháng ba. ‘Chúng quấy nhiễu các phụ nữ tử tế, đi rảo với bọn gái làng chơi, và xử sự như bọn du đãng ở nơi công cộng. Chúng biết là không ai dám đụng đến chúng.’
* * *
Các mục tiêu chiến tranh của Nga chiếm lĩnh trung tâm sân khấu chính trị trong mùa xuân 1917. Thật ra trọn năm 1917 có thể coi là cuộc đấu tranh chính trị giữa những người xem cách mạng là một phương tiện để kết thúc cuộc chiến và những người xem chiến tranh như là một phương tiện để kết thúc cách mạng. Đây không chỉ là đụng độ chính trị, mà cũng là đụng độ xã hội. Tuyên truyền cánh tả vạch rõ chiến tranh gây ra vì những lợi ích của các giai cấp khác nhau. Mối ngờ vực to lớn và thậm chí hận thù của tầng lớp ‘tư sản’, ‘ để quốc’ hoặc ‘tư bản’ có thể được khuấy động lên bởi những câu chuyện về các nhà kỹ nghệ, nhà buôn, ‘kulak’ và bọn chợ đen làm giàu nhờ chiến tranh. Những người hậu thuẫn cho chiến tranh lập tức bị chụp mũ là đặt lợi ích ‘đế quốc’ lên trên lợi ích của nhân dân. ‘Chúng ta thấy rằng’, một nghị quyết của công nhân nhà máy Dinamo ở Moscow tuyên bố, ‘cuộc tận sát và hủy diệt vô nghĩa của chiến tranh không lợi ích cho ai trừ bọn tư sản ăn bám.’
Chính quyền Lâm thời đến giờ luôn tránh né vấn đề trọng yếu về chính sách chiến tranh của nó. Có quá nhiều quan điểm xung đột trong nội các. Miliukov, với sự hậu thuẫn lỏng lẻo của Guchkov, thấy không có kỷ do gì để từ bỏ tham vọng đế quốc của Nga, chứa trong các ‘mật ước’ với các Đồng minh, để được quyền kiểm soát Constantinople. Là Ngoại trưởng mới của Nga, ông làm rõ với báo chí và các sứ quán nước ngoài về điều này. Nhưng quan điểm của ông xung đột sâu sắc với chiến dịch hoà bình của Xô-Viết, được phát động vào ngày 14/3 với lời Kêu Gọi Nhân Dân Thế Giới, trong đó nó bác bỏ những mục tiêu chiến tranh của nước Nga sa hoàng và kêu gọi nhân dân tất cả dân tộc tham chiến phản đối ‘chiến tranh đế quốc’ Chiến dịch hoà bình Xô-Viết ngay lập tức được tán thành bởi một loạt các đại hội quân sự; hầu hết binh sĩ tuyên bố trung thành với Xô-Viết trên cơ sở là nó hứa hẹn hoà bình. Chiến dịch của nó cũng được ủng hộ bởi các bộ trưởng cấp tiến hơn trong Chính quyền Lâm thời.
Vào ngày 27/3 Chính quyền Lâm thời đưa ra Tuyên bố riêng của họ về Mục tiêu Chiến tranh song hành với chiến dịch hoà bình của Xô-Viết. Nhưng Miliukov nói với tờ Manchester Guardian là nó sẽ không thay đổi nghĩa vụ của Nga với các đồng minh đế chế. Điều này mở đầu cho cuộc đấu tranh chính trị gay gắt về quyền kiểm soát chính sách đối ngoại của Chính quyền Lâm thời. Trong phạm vi ngoại giao Miliukov bị lên án là phát biểu mà không được quyền của nội các. Các lãnh đạo Xô-Viết, vốn xem tuyên bố 27/3 là một thành tựu thiêng liêng, thúc giục Chính quyền Lâm thời trình này nó dưới hình thức công hàm ngoại giao cho các nước đồng minh, coi như chính sách đối ngoại thực tiễn của Nga, cho dù không được Ngoại trưởng tán thành. Sau nhiều tranh cãi, Miliukov buộc phải đồng ý kế hoạch này. Nhưng khi ông gởi tuyên bố cho các sứ quán nước ngoài ông thêm một ghi chú của riêng mình trong đó ông nhấn mạnh, trái với tuyên bố, rằng Nga còn cam kết mạnh mẽ cho ‘thắng lợi quyết định’, kể cả, ít nhất bằng lối suy diễn, những mục tiêu chiến tranh đế chế của chính quyền sa hoàng
Ghi chú của Miliukov có tác dụng như vuông vải đỏ nhử trước mặt con bò mộng Xô-Viết. Gorky, người đã giúp viết lời Kêu Gọi Xô-Viết ngày 14/3, tố cáo nó là một ‘đòn tấn công của tư sản vào dân chủ với mục đích kéo dài chiến tranh’. Chắc chắn hành động của Miliukov đã khắc sâu thông điệp của Xô-Viết – rằng chỉ có ‘bọn tư sản được hưởng lợi từ chiến tranh đế quốc – vào đầu óc của công nhân và binh lính. Vào ngày 20/4 hàng ngàn công nhân và binh sĩ vũ trang bước ra đường biểu tình trên đường phố Petrograd. Nhiều người mang biểu ngữ với khẩu hiệu cách chức ’10 bộ trưởng tư sản’, để kết thúc chiến tranh và bổ nhiệm một chính quyền cách mạng mới. Linde, người đã lãnh đạo cuộc nổi dậy tháng hai, tức tối vì ghi chú của Miliukov, xem nó như phản bội lại lời hứa nền tảng của cách mạng là kết thúc chiến tranh. Vốn là người nóng tính (Tháng Hai đã chứng tỏ điều đó), anh dẫn một tiểu đoàn trong Trung đoàn Phần Lan làm một cuộc biểu tình vũ trang đến Điện Marinsky, kỳ vọng rằng Xô-Viết sẽ ra lệnh bắt giữ chính quyền và thiết lập quyền lực của mình.
Trên đường đến cung điện binh lính của Linde được các đám binh lính nổi giận từ các trung đoàn Moscow và Pavlov nhập bọn, khiến quân số lên đến 25,000 người. Cuộc biểu dương lực lượng của Linde hoàn toàn tự phát – anh không trao đổi ý kiến với ai – nhưng anh hoàn toàn áo tưởng rằng ban Điều hành Xô-Viết (mà anh là một thành viên) sẽ hoàn toàn tán thành hành động của anh. Anh sai lầm. Ban Điều hành đã thông qua một nghị quyết lên án vụ biểu tình của Linde trên cơ sở rằng nó, Xô-Viết, không sẵn sàng để nắm lấy quyền lực mà ngược lại, còn giúp Chính quyền Lâm thời phục hồi quyền hành của họ. Chính nhóm cực Tả, nhóm Bôn-se-vich ở Vyborg và nhóm Anarchist, là những người đã kích động đám biểu tình và mớm vào đầu họ ý tưởng rừng rú là nên ‘loại trừ bọn tư sản’. Báo chí cánh hữu lập tức kết án Linde là ‘Bôn-se-vich’ và mô tả cuộc biểu tình vũ trang của anh – mặc dù nó giải tán êm thấm khi được lệnh của lãnh đạo Xô-Viết – là một mưu toan đảo chính
Tướng Kornilob, tư lệnh quân đồn trú Petrograd, muốn giải tán đám biểu tình bằng binh lính của mình. Nhưng nội các chần chừ không dám sử dụng vũ lực đối với ‘nhân dân’, và không cho phép ông. Vào ngày 21/4 nhiều cuộc biểu tình mới xảy ra. Những người chống đối thịnh nộ bảo vây xe của Miliukov và đập ầm ầm vào thành xe bằng các nắm tay. Một vài người bị giết chết khi các vụ xô xát bùng phát trên phố Nevsky Prospekt giữa người biểu tình và chống biểu tình thuộc nhóm yêu nước cánh hữu và nhóm bảo hoàng. Vấn đề chiến tranh đã chia rẽ thủ đô thành hai phe và đem nó đến bờ vực của một cuộc nội chiến
Chính vì mối đe doạ nội chiến nên cuối cùng đã cổ vũ các nhà lãnh đạo Xô-Viết tham gia chính quyền và nâng đỡ quyền hành của nó.
Họ đang hướng về ý tưởng thành lập liên minh trong một thời gian. Hai nhân tố chính đứng đằng sau việc này. Một là Tsereteli, một người Georgia Men-se-vich cao ráo, đẹp trai với gương mặt như El Greco (hóa sĩ Ý thời Phục hưng) xanh tái, đã trở về từ chốn lưu vong Siberia vào giữa tháng 3 và ngay lập tức đóng dấu quyền uy lên ban lãnh đạo của Xô-Viết. Tsereteli là, theo đánh giá của Lvov, ‘nhà chính khách duy nhất của Xô-Viết’. Trong những bài diễn văn đầy chất trí tuệ xúc tích ông luôn kêu gọi đến lợi ích của nhà nước hơn là lợi ích của đảng phái và giai cấp; và dần dần tiêm nhiễm trong giới lãnh đạo Xô-Viết một ý thức trách nhiệm lớn dần. Họ thôi không suy nghĩ và hành động như những người cách mạng và bắt đầu xem mình là ‘người của chính quyền’. Chính Tsereteli đã hình thành chính sách của Chủ nghĩa Phòng Vệ Cách Mạng, nhằm thống nhất các lãnh đạo Xô-Viết với các nhà cấp tiến về vấn đề chiến tranh nhằm tạo nên cơ sở liên minh cho họ. Nhân tố khác là ảnh hưởng của đội ngũ đảng xã hội chủ nghĩa, nhất là trong các tỉnh lỵ, vốn nghênh đón rộng rãi viễn cảnh về một liên minh với phe cấp tiến. Lúc đầu, họ chưa hề bị ngăn lại (held back by) bởi cùng nỗi ám ảnh về ý thức hệ như các lãnh đạo đảng ở thủ đô về nhu cầu thành lập một ‘chính quyền tư sản’. Họ đã đặt tính thực tiễn trước giáo điều (họ có chọn lựa nào với số ít ỏi trí thức địa phương?) và đã bắt tay với cấp tiến trong chính quyền thị xã từ những ngày đầu cách mạng. Các hàng ngũ đảng viên cũng cảm nhận rằng, nếu các lãnh đạo của họ tham gia chính quyền, họ sẽ được lợi về sức nâng lên của đòn bẩy. Nhiều công nhân nghĩ rằng, với người Men-se-vich chịu trách nhiệm về kỹ nghệ, họ sẽ sớm được trả lương cao hơn. Nhiều người lính nghĩ rằng, với người SR chịu trách nhiệm về chiến tranh, họ sẽ sớm được hòa bình.
Sự thành lập liên minh như thành lập chính quyền vào tháng ba, xuất phát từ những nỗ lực phối hợp của những lãnh đạo Xô-Viết và phe cấp tiến để vãn hồi trật tự trên đường phố Petrograd. Các lãnh đạo Xô-Viết khiếp đảm trước các cuộc biểu tình dữ dội và viễn cảnh của một cuộc nội chiến. Chính họ là người đi đầu trong việc ngăn chặn sự rối loạn, nắm quyền kiểm soát các lực lượng đồn trú và ngăn cấm biểu tình tiếp tục vào ngày 21/4. Thật sự họ đang nắm lấy các trách nhiệm của chính quyền. Ngay hôm sau họ phát đi thông báo chung cùng với các bộ trưởng lên án Ghi chú Miliukov. Hành động này giải quyết ngay lập tức cuộc khủng hoảng. Nhưng Lvov giờ quyết tâm rằng các lãnh đạo Xô-Viết nên tham gia chính quyền của mình để được lòng dân hơn. Sự hiện diện của Miliukov trong nội các là trở ngại lớn nhất – làm việc với ông sẽ khiến phe cực Tả kết tội các lãnh đạo Xô-Viết hậu thuẫn’chiến tranh đế quốc’ – và chính điều này khiến họ từ bỏ ý định liên minh vào ngày 28/4. Nhưng hai ngày sau mọi thứ thay đổi với việc từ chức của Guchkov, Bộ trưởng Chiến tranh và là đồng minh duy nhất của Miliukov trong nội các, để phản kháng việc chính quyền và Xô-Viết chống lại Miliukov. Trong khi đó, Lvov, bắt đầu bày mưu để loại bỏ Miliukov. Ông hứa với Tsereteli là mình sẽ buộc Miliukov ra khỏi nội các nếu các lãnh đạo Xô-Viết đồng ý tham gia chính quyền liên minh. Điều này, cùng với việc Lvov dọa từ chức nếu Tsereteli không bằng lòng, đủ để thuyết phục nhà lãnh đạo Men-se-vich rằng một liên minh giờ đây vừa có thể vừa cần thiết để chấm dứt khủng hoảng quyền hành, mà phe cực Tả lẫn cực Hữu có thể lợi dụng, và chính nhờ lập luận chắc nịch này mà cuối cùng thuyết phục được Ban Điều hành Xô-Viết bầu thuận vào ngày 2 tháng 5 với 44 phiếu thuận chống 19.
Ba ngày sau nội các mới được loan báo. Thuận theo học thuyết của Men-se-vich, người ta đồng ý rằng những người xã hội chỉ nên chiếm một thiểu số chức vụ trong nội các (họ chiếm 6 trong số 16), và để giữ gìn khái niệm cấp tiến của chính quyền như một định chế quốc gia, nằm bên trên lợi ích đảng hoặc giai cấp, họ nên tham gia nội các với tư cách cá nhân hơn là thành viên của Xô-Viết. Chernov nhận Nông nghiệp, Kerensky Chiến tranh, Skobelev Lao động, trong khi Tsereteli, mà phần lớn thời gian hoạt động trong Xô-Viết, được thuyết phục nhận chức vụ nhỏ Bưu Điện, để có thể mỗi chân một bên. Điều chắc chắn là Tsereteli xuất hiện như một nhân vật trung tâm của liên minh. Lvov nhờ cậy vào ông để giữ các nhà lãnh đạo xã hội kề bên, và giữ ông trong ‘tiểu nội các’ (cùng với 5 bộ trưởng: Kerensky, Tereshchenko, Nekrasov, Konovalov và Lvov) đưa ra những quyết sách có tính chiến lược.
Sự thành lập Liên minh, nhằm mục đích củng cố trung tâm dân chủ, lại có tác dụng ngược. Nó làm tăng gia tốc sự phân cực xã hội và chính trị đưa đến nội chiến bùng phát vào tháng 10. Ngược lại, hầu hết đội ngũ Kadet tỉnh lý di chuyển cũng với lãnh đạo đảng của mình Miliukov, người vừa từ chức vào ⅘, vào phe chống đối thuộc cánh hữu chống lại chính quyền liên minh. Càng ngày họ càng đi xa hình ảnh cấp tiến của chính mình như một đảng của quốc gia như một tổng thể và bắt đầu tự hình dung mình như một đảng bảo vệ cho lợi ích giai cấp tư sản, quyền tư hữu, luật pháp và trật tự và Đế Chế Nga. Bên trong khuôn khổ Xô-Viết, trái lại, có sự trôi giạt đều về phía cánh Tả khi quần chúng công nhân và nông dân càng ngày càng vỡ mộng trước thất bại của phe xã hội sử dụng vị thế của mình trong chính quyền để tăng tốc cải cách xã hội hoặc đem lại hòa bình dân chủ. Nhóm SR và Men-se-vich cánh trái, những người đã chống liên minh, đúng khi cảnh báo với đồng chí của họ rằng bằng cách tham gia chính quyền, và chia sẻ tai tiếng vì sự bất cập của nó, họ sẽ đánh mất sự hậu thuẫn của quần chúng. Vì từ lúc này trở đi các nhà xã hội là các ‘chính khách’, họ không còn hành động như những người ‘cách mạng’, và điều này buộc họ chống đối với những gì bây giờ họ gọi là ‘tình trạng vô chính phủ’ đang leo thang – nông dân chiếm đất, công nhân đình công, binh lính vô kỷ luật – vì lợi ích của nhà nước. Thay vì sử dụng sự ủy thác của nhân dân để nắm lấy quyền lực cho chính mình, như họ có thể đã làm trong khủng hoảng tháng 4, các lãnh đạo Xô-Viết chọn cách hậu thuẫn một chính quyền cấp tiến đã bị ô danh. Họ không ngừng càng ngày càng được coi như là người bảo vệ của nhà nước ‘tư sản’, và đội tiên phong cho cách mạng, cho bánh mì, ruộng đất và hoà binh giờ đặt trong tay người Bôn-se-vich.
.iv Nỗi Thất Vọng của Gorky
Gorky cho Ekaterina, 18/6/1917:
Cuộc biểu tình hôm nay là cuộc biểu tình nói lên sự bất lực của các lực lượng dân chủ trung thành. Chỉ có ‘người Bôn-se-vich’ đi tuần hành. Anh khinh bỉ và căm ghét họ càng ngày càng nhiều. Họ là những thằng Nga ngốc thực sự. Hầu hết các khẩu hiệu đều đòi ‘Đả đảo 10 Bộ trưởng Tư sản!’ Trong khi chỉ có 8 người trong số đó! Có một vài vụ hoảng loạn bùng phát- thật kinh tởm. Các bà nhảy tòm xuống kênh giữa Champs de Las và Summer Garden, lội nước nhập cả giày ống, tay kéo váy lên để lộ đôi chân trần, có chân mập, có chân khèo. Cơn điên cuồng tiếp diễn, và dường như bắt đầu làm quần chúng kiệt sức. Mặc dù anh là một người hiếu hoà, anh chào đón cuộc tấn công sắp tới với hi vọng rằng ít nhất nó mang lại tính tổ chức cho đất nước, vốn đang trở nên biếng nhác và hỗn loạn không chữa trị được.
Chủ nghĩa xã hội đối với Gorky luôn là một lý tưởng về văn hóa, theo nghĩa nó xây dựng một nền văn minh nhân bản dựa trên các nguyên tắc dân chủ và sự phát huy sức mạnh đạo lý, tinh thần và trí thức của nhân dân. ‘Đời sống chính trị mới,’ ông viết vào tháng 4, ‘đòi hỏi chúng ta một cấu trúc tâm hồn mới.’ Vậy mà cách mạng, như ông nhìn nó, đã tháo xiềng xích cho ‘một làn sóng vô chính phủ của bạo lực và hận thù quần chúng’ đe doạ phá hủy nền văn minh nước Nga. Đã không có ‘cách mạng xã hội’, như cách Gorky hiểu thuật ngữ đó, mà chỉ là một cơn bùng phát ‘động vật’ của bạo lực và tàn hủy. Thay vì báo trước một nền văn minh mới, Cách Mạng Nga đã xô đất nước đến bờ vực của một ‘thời kỳ tối tăm mới của hỗn độn rừng rú’, trong đó những bản năng thù địch và báo thù che lấp những gì tốt đẹp trong con người. Nhiệm vụ của giới trí thức dân chủ, như ông nhìn thấy nó trong 1917, là bảo vệ văn minh chống lại bạo lực hủy diệt của đám đông. Nói theo thuật ngữ mang tính Arnold (Matthew Arnold 1822 – 1888, nhà thơ và phê phán văn hóa Anh:ND) của riêng ông, đó là một cuộc đấu tranh của ‘văn hóa chống lại tình trạng vô chính phủ’.
Sự loại bỏ quyết liệt mọi thứ dính líu đến nền văn minh cũ là một yếu tố tích hợp của Cách Mạng Tháng Hai. Những biểu tượng của chế độ vương quyền bị tàn phá, tượng các sa hoàng anh hùng bị đập nát, tên đường bị thay đổi. Nông dân cướp phá các nhà thái ấp, nhà thờ và trường học. Họ đốt rụi các thư viện và đập phá những tác phẩm nghệ thuật vô giá.
Nhiều nhà xã hội lãng mạn nhìn thấy ở bạo lực đả phá biểu tượng này là một thôi thúc cách mạng tự nhiên (hay tích cực) do nhân dân bị áp bức khao khát trả thù. Trotsky, chẳng hạn, phát biểu theo những thuật ngữ lý tưởng của cách mạng:
Điều tự nhiên khi những người chưa hề quen cách mạng và tâm lý của nó, hoặc những người trước đây chỉ trải nghiệm trong lãnh vực của ý tưởng, trước những gì xảy ra phơi bày trước mắt họ một cách vật lý và vật chất, có thể chứng kiến với nỗi buồn phiền, nếu không muốn nói là ghê tởm, tính dã man và bạo lực diễn ra trên bề mặt của những sự kiện cách mạng. Vậy mà trong những vụ nổi loạn vô chính phủ này, cho dù những biểu hiện tiêu cực nhất của nó, như khi người lính, hôm qua là nô lệ, bổng thình lình thấy mình trong toa tàu hạng nhất và xé toạc tấm màn nhung để làm đệm lót chân, thì hành động phá hoại ấy cũng thể hiện sự thức tỉnh của cái tôi. Người nông dân Nga bị bức hại và chà đạp, đã từng bị tát vào mặt và bị chưởi rủa tàn tệ, bổng thấy mình, lần đầu tiên trong đời, ở trong toa tàu hạng nhất với những gối nệm nhung, trong khi trên bàn chân mình chỉ là mớ giẻ rách hôi hám, liền xé toạc vải nhung, nói rằng mình cũng có quyền sở hữu một miếng nhung len tốt.
Và nhiều nhà trí thức cánh tả cũng nhìn ở bạo lực bằng hạn mức tương tự. Một số người, trong đó có Blok, lý tưởng hóa việc đốt rụi nước Nga cũ như một cách trục tà ma của quá khứ tội lỗi, và tin tưởng rằng qua việc phá hủy thế giới cũ một thế giới mới huynh đệ hơn, và có thể Cơ đốc hơn, sẽ được tạo ra. Từ đó Blok, trong bài thơ nổi tiếng của mình ‘Mười Hai’ ( viết vào tháng giêng 1918), hình dung Christ dẫn đầu đoàn Hồng Vệ binh. Những người khác, như Voloshin, Mandelstam và Belyi, thì trung dung hơn, một mặt đón nhận bạo lực cách mạng như một sức mạnh cần thiết, mặt khác biểu lộ sự khiếp đảm trước tính tàn bạo dã man của nó.
Nhưng Gorky thì chỉ nhìn thấy bóng tối trong bạo lực. Ông khiếp đảm trước những gì ông tin là hệ lụy không tránh khỏi, sự bại hoại đạo đức của cách mạng và sự suy đồi man rợ của nhân dân. Như luôn luôn, ông không hề hoà giải và thẳng thừng lên án bạo lực trong cột báo nổi tiếng của ông ‘Những ý tưởng lỗi thời’ in trên tờ báo của mình Novaia zhizri trong những năm 1917 và 1918. Gorky cũng lên án những hành động phá hoại của cách mạng nông dân. Ông nhìn thấy trong việc cướp bóc các thái ấp, đốt phá sách vở và tác phẩm nghệ thuật, không gì khác hơn là hành vi tấn công vào nền văn minh. Vào tháng ba 1917, sau khi nghe tin đám đông chuẩn bị phá hủy bức tượng cởi ngựa của Alexander III ở Quảng trường Znamenskaya, Gorky mở ra một cuộc hội thảo gồm 50 nhân vật văn hóa hàng đầu trong căn hộ của mình, và sau đó thành lập một ủy ban 12 người cho chiến dịch bảo tồn tất cả tượng đài nghệ thuật và các tòa nhà mang tính lịch sử.
Nước Nga thế kỷ 20 dường như đang trở về thời Trung cổ man rợ. Gorky đặc biệt phẫn nộ trước luật treo cổ lan tràn trong các thành phố. Vào tháng 12 1917 ông tuyên bố đã đếm được 10,000 trường hợp xét xử sơ sài kể từ khi chế độ cũ sụp đổ. Những vụ xét xử trên đường phố trong đó đám đông hành hình tại chỗ các phạm nhân bị túm lấy – hoàn toàn phủ định những lý tưởng công lý của cách mạng. Nhân dân Nga, đã bị đánh đập hàng trăm năm, giờ đang đánh đập lại kẻ thù của mình với sự khoái trá bệnh hoạn.
Đây là cách thức nền dân chủ xử phạt kẻ tội đồ của nó. Một tên trộm bị bắt gần Chợ Alexandrovsky. Đám đông vây quanh đánh đập y. Rồi họ bỏ phiếu xem y sẽ bị xử tội chết cách nào: trấn nước hoặc xử bắn. Họ quyết định trấn nước và ném y xuống vùng nước băng giá. Nhưng y khó khăn lắm mới xoay sở bơi thoát và bò lết lên bờ; để rồi một người trong bọn đi tới y và bắn y.
Thời trung cổ trong lịch sử nước ta là một thời kỳ nổi tiếng tàn bạo, nhưng thậm chí khi một tử từ bị treo cổ mà rơi xuống đất và còn sống, y vẫn còn được tha cho sống.
Các tòa án của đám đông sẽ ảnh hưởng thế nào đến thế hệ sắp tới?
Một tên trộm, bị đập nhừ tử, bị binh lính lôi đến sông Moika để dìm chết; mình mẩy y đầy màu, mặt dập nát, một mắt đã lòi ra. Một đám trẻ con chạy theo y; sau đó một số em từ Moika trở lại, vừa đi vừa nhảy nhót, hớn hở reo hò: ‘Họ dìm chết rồi, họ dìm chết rồi!’
Trẻ em chúng ta vậy đó, những người xây dựng tương lai chúng ta vậy đó. Chúng đánh giá rẻ mạt mạng sống một con người, nhưng con người – chúng ta không được quên điều này! – là sáng tạo vô giá và đẹp đẽ nhất của thiên nhiên.
Tính bi quan của Gorky tất nhiên là quan điểm của một người chú nghĩa ghê tởm bạo lực dưới mọi hình thức. Ông xét đoán cách mạng, không theo hoàn cảnh của nó, mà theo chuẩn mực của riêng mình xem nó đạt được đến đâu trên thang giá trị văn hóa và lý tưởng đạo lý của ông. Điều này ông làm rõ trong một bài viết dũng cảm và táo bạo, chưa hề được in ra, nhân kỷ niệm một năm Cách Mạng Tháng Hai:
Cách mạng chỉ là cách mạng khi nó nâng cao như là một biểu hiện tự nhiên và mạnh mẽ của sức sáng tạo con người. Tuy nhiên, nếu cách mạng chỉ là sự phóng chiếu những bản năng của nhân dân bị dồn nén dưới ách nô lệ và áp bức, thế thì nó không phải là cách mạng mà chỉ là một cuộc nổi dậy của cái ác và thù hận, nó không có khả năng làm thay đổi cuộc sống mà chỉ đưa đến cay đắng và xấu xa. Chúng ta có thể thực lòng nói rằng một năm sau Cách Mạng Nga, nhân dân, đã được giải phóng khỏi bạo lực và áp bức của nhà nước cảnh sát trị cũ, đã trở nên tốt hơn, tử tế hơn, thông minh hơn, và lương thiện hơn chăng? Không, không ai có thể nói điều đó. Chúng ta vẫn còn sống như đã sống dưới chế độ chuyên chế, với cùng tập quán, cùng thành kiến, cùng sự ngu muội và cùng sự bẩn thỉu. Thói tham lam và lưu manh mà chế độ cũ đã nuôi dưỡng trong chúng ta vẫn còn trong chúng ta. Người ta vẫn còn trộm cắp và lường gạt nhau, như đã từng trộm cắp và lường gạt trước đây. Bộ máy hành chính mới vẫn ăn hối lộ như bộ máy cũ từng làm, và họ đối xử với nhân dân thậm chí còn thô lỗ và cộc cằn hơn. . . Nhân dân Nga, đã từng chiến thắng giành tự do, giờ trong tình hình hiện nay vẫn không thể sử dụng nó cho những điều tốt đẹp của mình, mà chỉ làm tổn hại mình và người khác, và đang có nguy cơ đánh mất mọi thứ mà họ đã chiến đấu hàng thế kỷ mới có được. Họ đã tàn phá tất cả những thành tựu vĩ đại của tổ tiên họ; từ từ tài sản quốc gia, tài sản đất đai, kỷ nghệ, giao thông, liên lạc, và thị trấn, sẽ bị phá hủy thành tro bụi.
Có nhiều điều người ta có thể khâm phục tư thế quả cảm của Gorky chống đối sự tàn phá của cách mạng. Tiếng kêu tuyệt vọng của ông là tiếng kêu đơn độc – và điều đó càng làm nó thêm cao quí và thống thiết. Đối với cánh Tả ‘những ý tưởng lỗi thời’ của ông là dị giáo – chúng ‘sai lầm về mặt chính trị’ – bởi vì quan điểm được nhìn nhận là quan điểm cho rằng bạo lực và sự phá hủy cả hai đều tự nhiên và thậm chí được biện minh bởi những mục đích rộng lớn hơn của cách mạng; và mối quan hệ của Gorky với người Bôn-se-vich cũng khiến chúng không được hoan nghênh ở cánh Phải. Những người vây quanh ông ở tổ báo Novaia zhizri không phải là một đảng phái chính trị mà chỉ là mớ tạp nhạp những người Mác-xit bất mãn không tìm được đảng nào vừa ý để theo. ‘Anh sẽ lập ra đảng của mình,’ Gorky viết cho Ekaterina vào ngày 19/3, ‘nhưng anh không biết gọi tên gì. Trong đảng này chỉ có một đảng viên – và đó là anh!’
Ông là người đầu tiên nhấn mạnh tính cách dã man của cách mạng thoát thai từ tính dã man của Thế chiến I. Những trận tàn sát hàng loạt trong chiến hào và nỗi thống khổ ở hậu phương đã phát sinh sự tàn bạo và hung hãn nơi dân chúng.
Nhưng ông thiên về cách giải thích nguồn gốc bạo lực này là do tính cách dân tộc Nga hơn là do bối cảnh trên đó nó xảy ra. ‘Môi trường trong đó bi kịch của Cách Mạng Nga đã được trình diễn và đang được trình diễn’, ông viết vào năm 1922, ‘là một môi trường của dân tộc bán hoang dã. Tôi giải thích tình tàn bạo được thể hiện trong cách mạng là do tình nhẫn tâm cao độ của nhân dân Nga.’ Ông tin rằng mọi tiến bộ và văn minh của nhân loại đều xuất phát từ phương Tây, và sự man rợ là thoát thai từ phương Đông. Về mặt xã hội, lịch sử và địa lý, Nga bị kẹt giữa châu Âu và châu Á. Truyền thống nhà nước Petrine và trí thức Nga đều chịu ảnh hưởng Tây phương; giới nông dân là châu Á; trong khi giai cấp công nhân nằm ở giữa, xuất thân từ giới nông dân nhưng có khả năng được khai sáng dưới sự dẫn dắt của giới trí thức. Cách mạng Nga, mà Gorky nhận biết vào 1917, xuất phát chủ yếu từ tầng lớp nông dân, là một lực lượng man rợ và Đông phương hóa. Ông không có ảo tưởng, như Lvov, về lòng tốt và sự khôn ngoan của thường dân Nga. Trong lá thư ông viết cho Ekaterina vào giữa tháng 3, ông nói: ‘Theo quan điểm của anh đại đa số nhân dân Nga vừa ác vừa ngu như lợn.’
‘Bản năng hoang dã’ của nông dân Nga, mà Gorky rất căm ghét, theo ông là thủ phạm gây ra bạo lực cách mạng. Ước muốn duy nhất của nông dân, Gorky thường lập luận, là trút mối hận thù lên người chủ trước đây của mình, lên bọn nhà giàu và thiểu số có đặc quyền. Như nhiều người Men-se-vich, ông đổ lỗi những hành vi bạo lực trong thành phố cho các nhóm công dân gốc nông dân, tràn vào thành phố trong chiến tranh. Cũng như mọi nhà Mác-xit ông cho rằng giai cấp công nhân là lực lượng có tiến bộ về văn hóa, không thể hành xử như nông dân hoặc bọn côn đồ. Và ông sợ rằng nền văn hóa đô thị đang bị ‘hoà tan trong quần chúng nông dân’, rằng thế giới của trường học và kỹ nghệ sẽ bị đánh mất trước các tập quán dã man của thôn làng.
Gorky đổ tội cho người Bôn-se-vich nhiều về hậu quả này. Các Luận điểm Tháng Tư của Lênin, theo ông, đã kêu gọi quá sớm cho một cuộc cách mạng mới, và trong tình trạng lạc hậu của nước Nga việc này sẽ biến nó thành một con tin cho giới nông dân. Như ông viết trong 1924:
Tôi cho rằng Luận điểm Tháng Tư đã hi sinh một tầng lớp nhỏ và anh hùng gồm những công nhân có kiến thức về chính trị, cũng như giới trí thức thực sự cách mạng, cho giới nông dân. Lực lượng tích cực duy nhất ở Nga sẽ bị ném, như một nhúm muối, vào trong vũng sình của thôn làng không hơn không kém, và nó sẽ tan biến không để lại dấu vết, mà không làm thay đổi tinh thần, cuộc sống, lịch sử của dân tộc.
Đối với Gorky dường như những lý tưởng văn hóa của giới trí thức xã hội đang bị người Bôn-se-vich hi sinh vì lợi ích của cứu cánh chính trị của họ. Người Bôn-se-vich có tội đã khuấy động thù hằn giai cấp và cổ vũ ‘quần chúng vô chính phủ’ để tàn phá trật tự cũ cả rễ lẫn cành.
Sự đụng độ dữ dội trên đường phố Nevsky Prospekt trong các vụ biểu tình ngày 20-1 tháng 4, mà nhiều người đổ lỗi cho Bôn-se-vich, chất đầy tâm trạng của Gorky với những cảm giác ghê tởm.
Vai trò của Bôn-se-vich trong những vụ biểu tình bị cấm đoán ngày 10/6 cũng làm ông căm phẫn. Ông viết cho Ekaterina ngày 14/6:
Anh đã đến tận cùng của sợi dây. Về mặt vật lý thì anh vẫn còn nắm chưa để rơi xuống. Nhưng mỗi ngày qua nỗi lo âu của anh gia tăng và anh nghĩ rằng chính trị điên rồ của Lênin sẽ đưa chúng ta đến nội chiến. Ông ta hoàn toàn cô lập nhưng các khẩu hiệu của ông ta rất phổ biến trong quần chúng công nhân ít học và một số quân nhân.
Đối với Gorky ‘cơn thịnh nộ quần chúng’ mà các khẩu hiệu hiếu chiến của người Bôn-se-vich kích động có thể dễ dàng biến thành một sức mạnh hủy diệt và hỗn loạn trong một đất nước nông nghiệp như Nga. Mất lòng tin vào các đảng dân chủ, cũng do Bôn-se-vich tiêm nhiễm, sẽ sớm phủ định hoá toàn bộ giới trí thức và các giá trị nhân bản của nó.
Thật ra không chỉ là Bôn-se-vich mà tất cả đảng phái chính trị đều bị Gorky lên án vào 1917. ‘Chính trị’, ông viết vào ngày 20/4, ‘là vườn ươm của hận thù xã hội, ngờ vực xấu xa, dối trá trắng trợn, tham vọng bệnh hoạn, và coi thường cá nhân. Hãy nêu đích danh một tật xấu trong con người, thế thì chính tật xấu ấy mọc thừa thãi trên vùng đất của những thủ đoạn chính trị.’ Tiếng kêu thống thiết của ông đặt trên niềm tin rằng vai trò của trí thức, trong đó ông bao gồm cả đảng phái chính trị, phải bảo vệ những giá trị văn hóa và đạo lý của Khai sáng chống lại bạo lực hủy diệt của đám đông. Gorky, về phương diện này, đang tiến gần hơn đến quan điểm của phe cấp tiến và các lãnh đạo Xô-Viết, vốn cũng đang quan ngại với làn sóng vô chính phủ đang dâng cao. Và như họ, trong mùa xuân và đầu mùa hè ông càng lúc càng thiên về việc xem cuộc tấn công mới ở Mặt trận như là một sức mạnh để kích động nhân dân khép mình vào kỷ luật. Vì, như Gorky đã viết vào ngày 18/6, ‘mặc dù tôi là người hiếu hoà, tôi chào đón cuộc tấn công sắp tới với hi vọng ít nhất nó sẽ mang lại tính tổ chức nào đó cho xứ sở’. Ông sẽ sai lầm biết bao.
Pingback: Bi kịch của một dân tộc: Cách Mạng Nga 1897- 1921 | Nghiên Cứu Lịch Sử