Cù Tuấn dịch bài viết của Khang Vu trên The Diplomat.
Hà Nội có ưu thế đáng kể với tư cách là một quốc gia tuyến đầu trong cuộc cạnh tranh chiến lược của Washington với Bắc Kinh.
Ngay sau khi đảm nhận cương vị tân đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam, Marc Knapper đã có một cuộc phỏng vấn chi tiết với giới truyền thông Việt Nam. Trong cuộc phỏng vấn, Knapper khẳng định ưu tiên của Hoa Kỳ là nâng tầm quan hệ Hoa Kỳ-Việt Nam từ quan hệ đối tác toàn diện lên “đối tác chiến lược” trong nhiệm kỳ của mình. Chỉ sáu tháng trước đó, vào tháng 8 năm 2021, Phó Tổng thống Kamala Harris cũng đã đề xuất nâng cấp quan hệ song phương lên quan hệ đối tác chiến lược khi bà đến thăm Hà Nội. Chính quyền Donald Trump, bất chấp luận điệu chống các liên minh, cũng cam kết nâng cao quan hệ với Việt Nam. Cựu Bộ trưởng Quốc phòng James Mattis từng gọi Hoa Kỳ và Việt Nam là “đối tác cùng chí hướng”, bất kể sự khác biệt trong hệ thống chính trị. Cựu đại sứ Hoa Kỳ Daniel Kritenbrink cho biết Washington coi Hà Nội là “một trong những đối tác quan trọng nhất trên thế giới”.
Tuy nhiên, các phản ứng của Việt Nam đối với đề xuất của Hoa Kỳ rất mờ nhạt. Trong khi hoan nghênh sự tiếp cận của Hoa Kỳ, Việt Nam không đồng ý cải thiện mối quan hệ thành quan hệ đối tác chiến lược. Harris đã thất bại trong việc thuyết phục Hà Nội thay đổi quyết định trong chuyến thăm của bà. Đại sứ Việt Nam mới được bổ nhiệm tại Hoa Kỳ Nguyễn Quốc Dũng cũng không coi “quan hệ đối tác chiến lược” là mục tiêu trong nhiệm kỳ của mình. Một số quan chức Việt Nam đã mô tả quan hệ đối tác là chiến lược, nhưng về mặt chính thức, Mỹ không phải là một trong 17 đối tác chiến lược của Việt Nam, xếp sau Australia, Nhật Bản và Ấn Độ, ba nước khác trong Đối thoại An ninh Tứ giác (Quad) .
Chắc chắn một trong những lý do khiến Việt Nam từ chối là do áp lực từ Trung Quốc. Tuy nhiên, cách giải thích như vậy cần phải xem xét đến các động lực riêng của quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ. Thực tế là việc Hoa Kỳ chứ không phải Việt Nam tiếp tục thúc đẩy nâng cấp là khó hiểu ở hai khía cạnh. Thứ nhất, Việt Nam, với tư cách là một quốc gia yếu hơn, tiếp giáp với Trung Quốc, cần Hoa Kỳ vì an ninh của mình hơn Hoa Kỳ cần Việt Nam. Nếu Việt Nam không muốn một mình đối đầu với Trung Quốc và mong muốn có thêm sự hiện diện của Hoa Kỳ ở Biển Đông, thì Việt Nam không nên chờ đợi lời đề nghị hợp tác chiến lược của Harris. Washington có thể đợi Việt Nam tiếp cận trước thay vì thực hiện động thái đầu tiên như họ đã làm.
Thứ hai, Mỹ là bên đã nhượng bộ Việt Nam về các vấn đề lớn nhằm cải thiện mối quan hệ song phương tổng thể, bao gồm việc phá bỏ nghi thức ngoại giao để đón Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) tại Nhà Trắng vào năm 2015 và giữ im lặng khi Việt Nam tiếp tục mua vũ khí của Nga, vi phạm về kỹ thuật của Đạo luật trừng phạt đối thủ của Mỹ (CAATSA). Điều đáng chú ý là Hoa Kỳ đã trừng phạt đồng minh hiệp ước của mình là Thổ Nhĩ Kỳ vì đã mua hệ thống tên lửa S-400 của Nga. Nói tóm lại, Việt Nam dường như nắm giữ con át chủ bài trong quan hệ song phương bất chấp sự mất cân bằng quyền lực rất lớn so với Hoa Kỳ. Điều này đã đi ngược lại kỳ vọng thông thường rằng đối tác tương đối mạnh hơn sẽ có nhiều đòn bẩy để thương lượng hơn là đối tác yếu hơn.
Câu trả lời cho sự khó hiểu này này nằm ở bản chất Việt Nam là một “đồng minh của sự tiện lợi”. Bản chất của bất kỳ sự cải thiện nào trong quan hệ Việt – Mỹ là nhằm kiểm tra sự trỗi dậy của Trung Quốc, điều này cho phép hai kẻ thù cùng hệ tư tưởng hợp tác thuận lợi chống lại mối đe dọa an ninh chung trước mắt. Tuy nhiên, sự hợp tác tiện lợi như vậy không được xây dựng trên sự tin cậy chính trị lẫn nhau thường được thấy ở các đồng minh châu Á khác của Hoa Kỳ, điều này phản ánh đặc điểm “tiện lợi” của quan hệ đối tác. Về các khía cạnh chính, quan hệ đối tác tiện lợi giữa Hoa Kỳ và Việt Nam tương tự như “liên minh giả” giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong những năm 1970 và 1980, trong đó Washington và Bắc Kinh cùng phối hợp để ngăn chặn Liên Xô. Hà Nội vẫn cho rằng ảnh hưởng của phương Tây đang đặt ra những thách thức đối với an ninh của chế độ. Và để làm phức tạp thêm vấn đề, trước áp lực của cộng đồng người Mỹ gốc Việt chống cộng, Hoa Kỳ lên án các hoạt động nhân quyền kém cỏi của Việt Nam và có thể xử phạt các quan chức Việt Nam theo Đạo luật Magnitsky Toàn cầu.
Tuy nhiên, chính những điểm yếu này trong quan hệ Việt – Mỹ lại tạo cho Việt Nam một lợi thế thương lượng mạnh mẽ trong quan hệ song phương. Mặc dù Việt Nam là một quốc gia chuyên quyền như Trung Quốc, nhưng Hoa Kỳ cho rằng Việt Nam là hết sức quan trọng đối với chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương của mình, đến mức các vấn đề liên quan đến nhân quyền hoặc khác biệt chính trị là không đáng để gây chệch hướng phát triển của quan hệ đối tác giữa hai nước. Điều này tạo ra mâu thuẫn trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ: họ muốn lên án Trung Quốc là một đối thủ chuyên quyền và huy động một liên minh các nền dân chủ để ngăn chặn sự trỗi dậy của quốc gia này, nhưng đồng thời không thể xa lánh Việt Nam. Do đó, Washington đang tích cực cố gắng cải thiện mối quan hệ với Hà Nội, thậm chí đến mức nhấn mạnh tầm quan trọng của Việt Nam như Mattis đã làm, để có thể bảo vệ Việt Nam không phải chịu sự lên án của Hoa Kỳ đối với các quốc gia chuyên quyền “có tư tưởng khác”. Hoa Kỳ muốn gửi một tín hiệu rằng Việt Nam không chỉ là một quốc gia chuyên chế cộng sản khác, mà là một người bạn thân thiết của Washington.
Những nỗ lực của Hoa Kỳ nhằm cải thiện mối quan hệ thành đối tác chiến lược là một trong nhiều nhượng bộ mà họ đã đưa ra với Hà Nội để giải quyết mâu thuẫn, vì Washington có thể tạo ra các miễn trừ hợp pháp cho Việt Nam khi Việt Nam không bị coi là đối thủ của Hoa Kỳ. Ví dụ, Hoa Kỳ đã không xử phạt các quan chức Việt Nam như cách họ đã xử phạt các quan chức Trung Quốc vì cáo buộc vi phạm nhân quyền theo Đạo luật Magnitsky. Hoa Kỳ cũng không tố cáo ĐCSVN giống như cách nó đã tố cáo Đảng Cộng sản Trung Quốc hay chủ nghĩa cộng sản nói chung. Phương châm chính thức của Hoa Kỳ là xây dựng “một Việt Nam mạnh mẽ, độc lập và thịnh vượng,” chứ không phải đưa Việt Nam thành một quốc gia dân chủ.
Đáng chú ý là Mỹ đã không trừng phạt Việt Nam theo CAATSA mặc dù Việt Nam nằm trong số 5 nước mua vũ khí hàng đầu của Nga từ năm 2015 đến năm 2019. Ngược lại, Washington dường như rất thoải mái với việc các đối tác quan trọng của mình sử dụng vũ khí của Nga, như trong trường hợp chuyển giao các vũ khí do Liên Xô sản xuất cho Ukraine, nếu các đối tác này sử dụng những vũ khí đó để chống lại các đối thủ của Mỹ. Mỹ muốn Việt Nam mua thêm vũ khí của mình, nhưng nếu Hà Nội có thể sử dụng thiết bị của Nga thành thạo hơn vũ khí của Mỹ do di sản dựa vào vũ khí do Liên Xô sản xuất, thì Mỹ sẽ không gây áp lực lớn để Việt Nam phải chuyển đổi.
Khi mâu thuẫn phát sinh, Hoa Kỳ có xu hướng âm thầm làm việc với Việt Nam hoặc nhắm mắt làm ngơ thay vì công khai thách thức. Vào tháng 1 năm 2021, chính quyền Trump cho rằng Việt Nam là nước thao túng tiền tệ, có nguy cơ gây ra căng thẳng. Tuy nhiên, ngay sau đó, Đại diện Thương mại Hoa Kỳ đã tuyên bố sẽ không thực hiện bất kỳ hành động trừng phạt nào như tăng thuế đối với hàng hóa nhập khẩu từ Việt Nam. Sáu tháng sau, Hoa Kỳ và Việt Nam đưa ra một tuyên bố khẳng định rằng hai nước đã giải quyết được vấn đề sau khi “tăng cường cam kết”. Vào tháng 12 năm ngoái, Việt Nam cùng với Đài Loan một lần nữa vượt quá ngưỡng của Bộ Tài chính Hoa Kỳ về khả năng thao túng tiền tệ, nhưng lần này Washington không cho Việt Nam là nước thao túng. Hoa Kỳ cũng hầu như không để ý đến thâm hụt thương mại ngày càng lớn với Việt Nam trong khi nước này công khai khó chịu với thâm hụt thương mại với Trung Quốc. Một lần nữa, những biện pháp đối xử đặc biệt này chỉ có thể thực hiện được khi Hoa Kỳ tích cực cố gắng xác định Việt Nam là một đối tác an ninh quan trọng dù cho Việt Nam có thể là quốc gia chuyên quyền.
Việt Nam dường như hiểu rõ về ưu thế thương lượng mạnh mẽ này của mình và do đó, việc Việt Nam từ chối nâng mối quan hệ lên cấp độ đối tác chiến lược là dựa trên sự tự tin về tầm quan trọng của mình trong chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương của Hoa Kỳ. Nói cách khác, sự ngần ngại này của Việt Nam không làm tổn hại đến triển vọng tích cực của quan hệ Việt – Mỹ. Như Tham tán Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ Derek Chollet đã nói trong chuyến thăm Việt Nam gần đây, các cuộc trao đổi song phương cho thấy “sức mạnh ngày càng gia tăng của mối quan hệ Hoa Kỳ-Việt Nam.” Điều này giải thích tại sao một số quan chức Việt Nam cho rằng quan hệ đối tác giữa hai nước đã mang tính chiến lược trên thực tế nhờ vào mức độ hợp tác hiện tại.
Việt Nam cần những ưu thế như vậy vì không muốn bị Trung Quốc cho là đang liên kết với Hoa Kỳ, trong khi vẫn muốn để ngỏ các lựa chọn của mình với Hoa Kỳ. Quốc gia này cũng không muốn bị Hoa Kỳ bỏ rơi. Hoa Kỳ vẫn duy trì thái độ trung lập ở Biển Đông và Việt Nam không mong đợi Washington mạo hiểm đối đầu bằng hải quân với Trung Quốc về các hòn đảo không thực sự quan trọng đối với sự tồn vong của Việt Nam hoặc các đồng minh khác như Philippines. Điều đáng chú ý là Việt Nam Cộng hòa đã không nhận được sự hỗ trợ quân sự của Hoa Kỳ khi Trung Quốc chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa do Sài Gòn kiểm soát vào năm 1974.
Nhìn chung, sự đối xử đặc biệt của Hoa Kỳ đối với Việt Nam phù hợp với truyền thống lâu đời của nước này, đó là ưu tiên lợi ích an ninh hơn ý thức hệ trong chính sách đối ngoại, vì Hoa Kỳ sẵn sàng tiếp nhận các chế độ chuyên quyền nếu họ nhận thấy các chế độ đó đang chia sẻ lợi ích an ninh của mình. Nếu quan hệ đối tác Việt – Mỹ là đủ quan trọng, thì những điểm có vẻ yếu kém trong quan hệ Việt – Mỹ lại có lợi cho Hà Nội vì Washington sẽ phải nhượng bộ những điểm đó như một phần trong một nỗ lực rộng lớn hơn để bảo vệ Hà Nội không bị Hoa Kỳ tấn công như các chế độ chuyên quyền khác. Rất có thể Hoa Kỳ và Việt Nam sẽ giải quyết những khác biệt giữa hai nước một cách lặng lẽ trong khi công khai nhấn mạnh những tiến bộ đã đạt được trong ba thập kỷ qua.
“Tại sao Việt Nam nắm giữ ưu thế trong quan hệ đối tác Việt – Mỹ”
Có thể vì Việt Nam vẫn còn là xã hội chủ nghĩa
ThíchThích
Bài bình luận này rất nông cạn, gần như không hiểu chính trị là thế nào. Việt Nam liền kề Trung Quốc đã có lịch sử kháng chiến chống Trung quốc xâm lược 2,200 năm từ thời Tần Thủy Hoàng. Có đánh thắng TQ vẫn phải hòa hoãn để xây dựng đất nước. Thời hiện đại chỉ cần đọc rõ sự kiện lịch sử từ 1940 đến nay thì rõ. Mỹ vẫn là đối tác số 1 của VN. Vị trí địa chính trị và truyền thống của Việt Nam làm cả thế giới phải kính trọng vì sự ĐỘC LẬP GIỮ VỮNG CHỦ QUYỀN DÂN TỘC của Lãnh đạo Đảng CS. Chỉ cần nghe rõ trả lời phỏng vấn của Việt Kiều cho BBC nhân 50 năm hiệp định Paris là hiểu
ThíchThích