Phe chống đảng Tây Sơn ở Bắc với tập “Lữ Trung Ngâm”

Sao ảnh Lữ trung Ngâm  tại http://lib.nomfoundation.org/

Sao ảnh Lữ trung Ngâm tại http://lib.nomfoundation.org/

Hoàng Xuân Hãn

Trong sử nước ta, cách mệnh Tây Sơn có đặc điểm nầy: từ một loạn địa phương mà lần lần kéo sụp ba triều đại. Không những lúc ban đầu là nguyên nhân làm yếu chính quyền chúa Nguyễn, biến thành cái mồi nhử quân Trịnh vào Phú Xuân; mà gián tiếp làm yếu binh lực Trịnh bởi khuếch trương địa bàn chiếm đóng. Nhờ đó, chỉ một cuộc hành quân mà NGUYỄN HUỆ đã bứt hết chế độ đế vương ở Bắc. Những chính biến nối tiếp sau, tuy có làm nảy ra hai mầm: Vua Chiêu Thống và chúa Yến-đô, nhưng đó là hơi tàn không thể nhóm lên được.

Tuy vậy, chế độ vua chúa đã ăn sâu vào trong trí những sĩ phu và quân nhân. Trước lúc mất, nó còn quằn quại, chống chọi được một kỳ. Các sử sách, ký tải đương thời hoặc đầu đời Nguyễn có ghi lại những biến cố ấy. Hoặc chép vào chính sử như Sử kí tục biên (SKTB), lịch triều tạp ký (LTTK); hoặc chép vào dã sử như Lê quý kỷ sự (LQKS), Lê triều dã sử (LTDS); hoặc chép thành tiểu sử những nhân vật quan trọng như trong Lê mạt tiết nghĩa lục (LMTNL), Nghệ An ký (NAK) và Nhất thống chí các tỉnh, hoặc là kể rất tường tận với những chi tiết vụn vặt tả tâm lý, dẫn lời, tự sự, hầu như tiểu thuyết hóa, như trong Hoàng Lê nhất thống chí (HLNTC) của văn phái họ Ngô ở xã Tả Thanh Oai.

Những tác phẩm ấy cũng không phải không tương quan. Đọc cẩn thận sẽ thấy tác giả này đã trích ký tải khác, hoặc ít ra hai tác phẩm cùng dùng một nguồn trao tin. Ví dụ, về đoạn ta xét đây, Hoàng Lê nhất thống chí (HLNTC) với Lịch triều tạp kỷ (LTTK) có nhiều đoạn văn y như nhau; Lê triều dã sử (LTDS) rút phần lớn ở NAK ra. Phê bình, tóm tắt, thì sử liệu về khoảng nầy còn ba nguồn khá chắc và khá tự chủ: 10 nhóm họ Ngô tác giả HLNTC (Ngô Thì Chí: bảy hồi đầu; Ngô Thì Du: bảy hồi sau – theo Ngô gia thế phả – Hồi cuối là hồi thứ 15 (1) theo bản viết của họ Ngô, có lẽ tác giả là Ngô Thì Thiến, mà nhóm Trần Văn Giáp mách rằng đã dự soạn HLNTC – Xem Lược truyện các tác gia Việt Nam) 20 Bùi Dương Lịch tác giả NAK và LTDS, và 30 Nguyễn Thu hoặc Bảo – tác giả Lê Quý kỷ sự (LQKS).

Đối với các tài liệu ấy, ta phải so sánh, cân nhắc may gì mới tìm được những sử kiện hoàn toàn tin được. Còn những điểm khác, nếu không tìm thấy lý do gì đích xác để bác nó thì mình cũng phải tạm tin, vì kích bác là tỏ thái độ chủ quan.

Ngoài các tác phẩm trên, tôi đã từng xét một tập văn mà tác giả cũng là một kẻ đương thời đã dựa vào một phần trong tấn tuồng chống đảng Tây Sơn: ấy là tập Lữ trung ngâm soạn bởi Lê Huy Dao (có tên là Huy Vĩ). Đặc điểm là văn viết, phần quan trọng viết bằng nôm, lối ngâm nghĩa là song thất lục bát. Lại xen một số thư, hịch, văn tế lẫn nôm và Hán. Nội dung khá sơ sài nhưng liên quan đến việc hai vị vua Lê và chúa Trịnh cuối cùng chống với đảng Tây Sơn. Riêng với chúa Yến đô Trịnh Bồng, có chép những tiểu tiết mà không đâu có.

Muốn giới thiệu tập văn ấy, tôi nhân tiện xét lại các sách đã kê trên, để nhắc lại đoạn sử nầy một cách chính xác hơn trước, về mặt biến cố và nhất là về mặt thời điểm.

LÊ HUY DAO VÀ TẬP LỮ TRUNG NGÂM

Mở đầu tập, tác giả tự giới thiệu:

Cố Lê vi thần tiến triều nhập thị Dao trì bá Lê Huy Dao soạn
Nghĩa là bầy tôi mọn đời Lê cũ được ban danh dự tiến triều, chức nhập thị, tước Dao trì bá đã soạn tập ấy. Đời Lê phải đậu đại khoa mới được giữ chức lớn ở triều đình; nhưng những người chỉ đậu Hương cống cũng có cách dự, nhờ huy hiệu tiến triều chúa ban cho, hoặc vì có tiếng hay giỏi, hoặc chỉ vì được tiến cử. Nhập thị trỏ chung những viên chức không phải hoạn quan được làm việc trực tiếp với chúa. Tước bá chỉ là một tước nhỏ mà đời Trịnh thường ban cho rất nhiều người cộng tác gần, hay cho các con cháu đại thần. Thật ta, các chức tước nầy, Huy Dao mới được ban trong khi chạy giặc với chúa Yến đô.

Đầu tập, lại có chú thích (xem Hán văn sau phụ trương bài tựa).
Ông người huyện Thanh Trì, làng Nhân Mục. Nguyên tên là Huy Vĩ.
Nhân Mục tức là làng Mọc ở kế phía tây Thăng Long; cũng là quán của Đặng trần Côn.

Sau đây là lời tựa tập Lữ trung ngâm do cháu họ Đỗ Linh Thiện, tiến sĩ, đã soạn và hoàng giáp Phạm Quý Thích nhuận chính

Tựa Lữ Trung Ngâm:

Trời đã phú cái tài lỗi lạc, cái tiết rắn rỏi, mà lại xui gặp vận chẳng may để đến nỗi cả thiên hạ bị mất; khiến nên tài ấy, tiết ấy không thi thố được. Tại sao một mình ông bị như vậy ? Phải chăng trời muốn lấy cái tài lỗi lạc để làm rõ cái tiết rắn rỏi kia chăng ?

Ông cậu họ tôi, Lê Dao Trì, đã nổi tiếng sớm. Trẻ đậu hương. Sau thi hội mãi không đậu. Bèm tìm đọc binh thư, tập võ nghệ. Nhưng vì có tật ở chân, không được đi thi võ. Sau mãi mới được bổ chức tri châu Bố chánh.

Đến năm biến Bính Ngọ (1786), chúa Yến đô phụ quốc chính, bèn cất ông làm phó tri Lễ phiên. Chưa được vài tháng, chúa chạy lên Bắc (xứ Kinh bắc, chạy vì Nguyễn Hữu Chỉnh đem quân tới đuổi). Ông bèn hộ tùng.

Đến lúc quân Tây Sơn lại tới, ông lại hộ vua Chiêu Thống chạy lên Bắc (xứ Kinh bắc. Ý chừng ông đă rời chúa sau khi thua trận Đông Hồ – sẽ xem sau). Vua lấy lại được nước, rồi chẳng bao lâu chạy vào Nội địa.

Ông không theo kịp, bèn trở lại theo chúa Yến đô ở trong gian hiểm. Các hịch, dụ, đều từ tay ông thảo. Chúa bèn ban cho tiến triều và tước bá.

Sau khi chúa mất, ông trốn ra vùng bể Nam để tránh mệnh Tây Sơn đòi dùng. Rồi sau dời tới ở Phong Châu, tại Sơn Tây. Gặp gia biến liền liền, mà chí ông không nhụt. Thế mà chung quy, không thành tựu gì.

Nay (1803), ông dời về ở nhà tại Kinh (Thăng Long). Bấy giờ Gia Long đã lên ngôi ở Phú Xuân, nhưng đây là lời người Bắc không phục). Ông ốm nặng. Bèn lấy tập LỮ TRUNG NGÂM mà ông đã soạn, đưa cho tôi xem; đinh ninh dặn điểm duyệt và đề tựa.

Tôi cầm về đọc. Thấy trong tập có tạp dụng quốc âm; hoặc để kể tội đánh giặc mà làm; hoặc để tả lòng cảm cựu mà làm; hoặc để khóc viếng người thân mà làm; hoặc để thù họa với người khác mà làm. Nhưng thơ nói chuyện với các tiên thì lại chiếm đến bốn năm phần mười.

Tính khảng khái trung phẫn tràn dào ra lời, khiến người đọc khảng khái rồi nghỉ, thê thảm rồi xót, mà không rõ cớ vì đâu. (Có chữ nét son phê bình: mỗi chữ là một giọt lệ). Ai mà không trọ đất khách. Trọ đất khách ai lại không làm thơ. Nhưng sao mà sự trọ đất khách, sự ngâm trên đất khách của ông lại như thế này ? Phải chăng trời sẵn đãi cho ông về tài, mà bạc với ông về ngộ, để làn rõ tiết tháo của ông ? Hoặc có kẻ trả lời rằng đúng như vậy.

Còn như nói chuyện với tiên, không chừng ấy là huyền ảo chăng ? Xin trả lời: thiên LY TAO có đoạn hỏi trời; Trời còn hỏi được, thì Tiên sao lại một mình không hỏi được ?

Đấy là lời tựa.

Năm Quý Hợi (1803) tháng giêng.

Cháu biểu tùng điệt là tiến sĩ khoa Đinh Mùi đời Lê (1787) hàn lâm viện kiểm thảo, hiệu Nhân khê, Đỗ Hạo dưỡng phủ Thiện (Đỗ Linh Thiện, theo Đăng khoa lục) kính soạn.

Thị trung học sĩ, đốc học phủ Phụng Thiên, Thích an hầu, tiến sĩ khoa Kỷ Hợi (1779) đời Lê, trước làm nhập thị thiểm sai tri công phiên, lập trai thủ Phạm (quý Thích) nhuận chính.

Kẻ đề tựa là Đỗ Linh Thiện, cũng người làng Mọc, đậu tiến sĩ khoa thi cuối đời Lê, khi mới mười tám tuổi. Bấy giờ 34 tuổi. Tuy năm là niên hiệu Gia Long thứ hai, nhưng cố ý đã không đề như vậy, để tỏ lòng trung với Lê. Tuy đã phải chịu chức đốc học ở Thăng Long, nhưng Phạm Quý Thích cũng vào nhóm tư Lê như Lê Huy Dao và Đỗ Linh Thiện. Bản viết cũ tôi đã được đọc vẫn kiêng các tên thường huý đời Lê.

Bình phẩm văn thơ cậu mình, theo ý muốn cậu mình đang ốm nặng, Đỗ Linh Thiện đã quá lời khen. Theo ý tôi thì văn nôm cũng như văn chữ phần lớn trong Lữ trung ngâm không lấy gì hào-nháng lắm. Nhưng tập ngâm ấy quý vì trước hết nó là một chứng trực tiếp của một người đang cuộc, mà chứng bằng văn nôm. Sau lại, tuy các hịch, các dụ đánh Nguyễn Hữu Chỉnh hay là đánh Tây Sơn, không có hiệu quả gì, nhưng nó chứng sự sĩ phu ở Bắc vẫn trung thành với vua chúa cũ. Riêng về Trịnh Bồng thì các ký tải đều không biết đến hành động cuối cùng. Trái lại Huy Dao đã cho biết một cách chính xác khoảng đời ấy đến khi mất.

Nhưng tiếc rằng về phần lịch sử thì kể chuyện rất sơ sài, không những không cho chi tiết gì, mà cho đến những sự kiện chủ yếu cũng thường chỉ dùng lời văn trau dồi ám chỉ mà thôi. Tuy vậy trong lời chú, thỉnh thoảng có ghi một vài thời điểm quan trọng giúp ta so sánh với các ký tải khác để xác định về thứ tự thời gian. Ví dụ ngày Quang Trung mất. Ở hai nơi Huy Dao đã dẫn rằng: Năm Nhâm Tý (1792) tháng mạnh thu (bảy) Nguyễn Huệ mất, khác với hai chính sử Đại Nam liệt truyện của ta và Đại Thanh thật lục của Trung Quốc, cả hai sách đều chép vào tháng chín như nhiều sách khác. Thế mà sự thật chắc chắn là Quang Trung mất ngày 29 tháng bảy, đúng tháng 7 như sách Đại Nam thật lục chép và phù hợp với lời thư của các giáo sĩ Pháp Guérard và Labousse gửi về Paris. Trong bài Ngày giờ Quang Trung mất (báo Dư luận, số 28, Hà Nội, 1946 hoặc sách La Sơn Phu tử, trang 156) , sau khi chứng minh sự lầm ngày quốc tế Quang Trung, tôi đã đoán rằng triều đình cố giấu hung tín trong hai tháng để tâu dối với vua Thanh. Thuyết ấy được nhận đúng nhờ lời thư của giáo sĩ Longer gửi cho Baladin ngày mồng 10 tháng 2 năm 1793: cái chết của tiếm vương Quang Trung được giữa bí mật gần hai tháng trời…(xem lời dịch của Đặng Phương Nghi, Sử địa số 13, 1969, trang 152).

Trong khi so sánh các ký tải của ta, tôi cũng đã dùng những chứng được thấy trong các thư giáo sĩ. Còn về ký tải của ta thì tôi nay ở xa nguồn, chưa thể bổ túc những điều đã lượm được trước đây hai mươi năm. Vậy những điều sẽ trình bày chắc còn tu bổ hoặc cải thiện hơn.

Trở lại phần Hán văn trong Lữ trung ngâm, các thơ trao đổi với các “vị tiên” mà trong lữ thứ Huy Dao hay cầu, nó chiếm gần hết tập. Trái với phần liên quan đến sử, trong đoạn nầy Huy Dao lại chép rõ đêm nào cầu lên những tiên nào, nào Lý tiên (Lý Thái Bạch), nào Lã tiên (Lã Động Tân), nào Hàn tiên (Hàn Tương), nào Hải thượng đạo ông (?) cho đến Phủ Huyền chính là con trai mình, từng đã theo cha tị ẩn, bị chết năm ba mươi tuổi; từng hầu chuyện với tiên và được tặng hiệu Phủ Huyền ! Trong khi tiên giáng, hoặc tiên ban thơ, ông họa; hoặc ông xin thơ tả cảnh tả tình thay ông. Lại xin thơ về thời sự. Ta phải nhận rằng các thơ của “tiên” hoặc của ông, lời nhẹ nhàng hay hơn thơ ông khi còn theo chúa. Ông không nói rõ cách ông cầu tiên, cho nên không biết ai cầm “bút” cành đào, hoặc con cơ để viết hộ “tiên”. Con trai ông chăng ? Bạn văn ông chăng ? Dẫu sao, những thơ nầy không vì dính đến sự huyền ảo, hay hoang đường, mà không giá trị về văn và về tâm lý chính trị. Các nho sĩ điển hình như Đỗ Linh Thiện và Phạm Quý Thích, cũng hơi ngờ nhưng không nỡ bác. Cho nên trong tựa đã khéo đưa chuyện Thiên vấn trong Sở Từ của Khúc Nguyên (thông thường phiên là Khuất Nguyên (BT)) ra mà bình luận ẫm ờ.

Về thân thế Lê Huy Dao, theo Lữ trung ngâm mà đoán thì khi Nguyễn Hữu chỉnh tới Thăng Long lần thứ hai (tháng chạp năm Bính Ngọ, đầu 1787) ông theo chúa Yến đô chạy về Quế Ổ, huyện Quế Dương, xứ Kinh bắc. Thảo hịch đánh Chỉnh ở đó. Sau khi doanh đồn Quế Ổ bị vỡ (tháng giêng năm Đinh Mùi 1787), ông theo chúa chạy đi Hàm Giang ở Hải Dương, Đinh Tích Nhưỡng đưa ra đóng ở Đồ Sơn. Ông vẫn giữ chức nội thị làm việc từ hàn. Tháng hai lại cùng chúa trốn Nhưỡng đi Bác Trạch, huyện Chân Định (nay Trực Định) gần cửa Lân và cửa Ba Lát. Cuối tháng ba, thuỷ quân Đinh Tích Nhưỡng bị đánh vỡ ở đó. Chúa được rước về Đông Hồ thuộc huyện Đông Quan (gần Thái Bình), Bùi Khuông, con nhà thế gia vùng ấy tổ chức dân quân giữ vững trận thế trong bốn tháng mới tan. Chúa chạy ra Yên Quảng rồi trá hình để ẩn lánh tại các chùa vùng Lạng Sơn. Chắc rằng Huy Dao không chạy theo chúa nữa và có lẽ ẩn lánh ở vùng Đông Quan. Nhưng cũng có thể rằng ông không tới Đông Hồ với chúa mà đã chạy theo Đinh Tích Nhưỡng, bởi vì trong Lữ trung ngâm không hề nói động đến việc Đông Hồ, và sau đó một năm ông lại giúp từ hàn cho Nhưỡng.

Trước đó, vào đầu tháng chạp năm Đinh Mùi (đầu năm 1788) Vũ Văn Nhậm ra Thăng Long đánh Chỉnh. Vua Chiêu Thống cùng Chỉnh chạy lên Mục Sơn thuộc Kinh bắc. Chỉnh bị bắt rồi bị giết, vua chạy trốn. Huy Dao được thư của Bùi Bật Trực, khâm sai tán lý đạo Sơn Nam có lẽ bảo giúp việc cần vương. Ông thảo bài hịch dụ bốn phương cần vương đánh Tây gửi nhờ Bật Trực chuyển lên vua. Vua ban cho ông huy hiệu tiến triều. Tuy vậy, hình như ông không hề gặp Chiêu Thống trong khoảng nầy.

Cuối năm sau, Mậu Thân, khi quân Thanh đã đóng ở Thăng Long (đầu 1789) ông làm hộ Đinh Tích Nhưỡng bức thư gửi cho tướng Thanh xin cấp bằng cho giữ Sơn Nam để chặn ở Vị Hoàng. Rồi Chiêu Thống nhận sắc phong (22 tháng chạp) lo chuyện lập triều đình, thi ân oán. Yến đô vương từ khi ẩn vùng Lạng Sơn bị lộ, được các phiên thần ủng hộ, nhưng bị dân chúng chống đuổi, phải chạy về xuôi và cuối cùng lánh ở vùng huyện Kim Bảng, phía nam Thăng long. Chúa về chầu, được tha thứ nhưng giáng xuống tước Huệ địch công, nghĩa là mất chức quyền chúa. Không rõ bấy giờ Huy Dao có về không. Chỉ biết rằng, sau ngày tết năm sau, Kỷ Dậu (1789) quân Thanh bị diệt, Chiêu Thống chạy lên Bắc, Trịnh Bồng chạy về Tây. Dực vũ công Lê Duy Chỉ, em Chiêu Thống chạy về Tuyên Quang, rồi thấy Quang Trung được vua Thanh sắc phong, cả hai cánh, Bồng và Duy Chỉ, tự lo chống Tây Sơn ở Bắc. Còn Huy Dao thì trở lại lánh nạn gần bể vùng Thái Bình, tại làng Thụ Triền thuộc huyện Thanh Lan (nay đổi Thanh Quan). Sau khi bắt liên lạc với Trịnh Bồng, lại được gọi về Sơn Tây giúp việc từ hàn như trước.

Tháng tư năm sau, Canh Tuất (1790), Huy Dao thảo bức thư lấy lời Bồng gửi cho Duy Chỉ ở Bảo Lạc (ở biên thuỳ Hà Giang ngày nay) đề nghị “phàm cơ nghi đánh dẹp cùng nhau hiệp đồng thương nghị”. Bấy giờ Bồng lại tự coi mình là chúa, ban cho ông chức nhập thị. Duy Chỉ trả lời chấp thuận; lấy danh nghĩa nhà Lê mưu phục quốc. Huy Dao thảo các văn tế Trời Đất, tế Bách thần, tế các vua trước và tế các chúa trước.

Vào tháng mười một, ông thay lời Hoàng đệ Duy Chỉ viết các hịch bằng văn nôm: dụ các người trung nghĩa (ở Bắc), dụ phiên thần các xứ, dụ hai xứ Thanh Nghệ. Bấy giờ sự kháng địch coi chừng có tổ chức. Ông theo lệnh truyền mật chỉ cho các người cần vương chung quanh Kinh đô. Ông ghi rõ rằng:

“Về văn ban, quan tham tụng cũ Tứ Xuyên hầu (Phan Duy Phiên hoặc Trọng Phiên, quê Đông Ngạc cạnh Hồ Tây) được nhận hai mươi hốt bạc; các quan đốc đồng Nguyễn Duy Khiêm, Lê Công Thạc, Lê Đăng Cử đều nhận được mật chiếu. Về vũ ban, Quản vũ hầu (2) ở đạo Bắc, Can vũ hầu ở đạo Đông, Vạn vũ hầu (con Hoàng Phùng Cơ) ở đạo Tây đều nhận được mật chỉ. Diễm trung hầu, Hoa đình hầu, Vĩnh trung hầu thì được vi thần (tiếng nói khiêm trỏ mình, nghĩa là tôi mọn) trực tiếp trao mật chỉ làm nội ứng (ở Thăng Long).

Từ tháng mười năm ấy (Canh Tuất 1790), Trịnh Bồng náu ở huyện An Sơn, phía Tây Thăng Long để lo sự đánh úp thành nầy. Nhưng sau khi giao quyền cho Huy Dao và các bầy tôi khác tổ chức, lại đi vùng thượng du, rồi đầu năm sau (Tân Hợi 1791 – Bản sử Địa in nhầm là Tân Dậu – BT- chừng tháng giêng) mất tại Cao Lũng. Tin ấy vừa đưa về thì cuôc âm mưu tập kích Thăng Long bị lộ vì Tín vũ hầu làm việc không kín. Nhiều đồ đảng bị hại.

Thất vọng đủ mọi đàng, Huy Dao lại đưa vợ con trốn đi vùng Thái Bình, bắt đầu ngụ tại làng Thuỳ Dương thuộc huyện Thuỵ Anh. Ông làm lễ chịu tang ở đó. Bài văn tế bằng Hán văn và bài văn tế khi hết tang nay còn. Rồi cũng trong năm Tân Hợi ấy (1791), Lê Duy Chỉ bị Hoàng Văn Đồng phản nên bị quân Tây Sơn bắt giết ở Tuyên Quang. Con đầu Trịnh Bồng ngầm mưu báo phục sau khi cha mất, cũng bị tên phản bội tố giác bèn mất. Huy Dao có làm những bài văn, bằng Hán văn; nay còn.

Ở Thuỳ Dương huyện Thụy Anh, hình như ông cũng sợ lộ, nên mùa đông năm ấy, lại chạy sang ở xã Sơn Đường cùng huyện. Cả hai làng ấy đều tọa lạc trên ven bể. Ngoài khơi có nhóm đảo Hòn Đậu, phương bắc có núi Tháp Sơn (Đồ Sơn) và núi Cửu Long. Cảnh trí rất đẹp, vì cảnh, vì tình, trong khoảng nầy ông rất nhiều thi tứ. Cho nên đã cầu tiên luôn luôn để đề vịnh với tiên trong suốt mấy năm. Với óc chính trị của ông, ông không khỏi phỏng vấn các tiên về chính trị ! Đêm mồng 9 tháng sáu năm sau, Nhâm Tý (1792) Lã tiên (Lã Động Tân) giáng, họa các thơ mà năm hôm trước tiên Hải thượng đạo ông đã ban và ông đã họa. Trong thơ của Lã tiên lần nầy có hai vế:

Nhật quang khả tẩy trung thần cổ
Triêu lộ nan thu bão chúa kim
(ánh mặt trời có thể rửa giận của kẻ trung thần khi trước;
móc buổi sáng khó thâu bão chúa ngày nay).

Vế dưới nghĩa gì? Đối với Huy Dao thì sau khi Quang Trung mất, câu thơ ấy là một câu sấm. Sự Quang Trung mất là biến cố độc nhất làm cho ông sung sướng trong khoảng nầy. Ông có để lại bài thơ thất ngôn bằng hán văn Mừng kẻ thù là Quang Trung Nguyễn Huệ chết, với lời dẫn rằng:

Năm Nhâm Tý (1792) tháng mạnh thu (bảy), Nguyễn Huệ chết. Bấy giờ tôi ở trọ tại làng Sơn Đường, huyện Thuỵ Ạnh. Thình lình nghe nguỵ khâm truyền cho dân sở tại để tang và cấm ca xướng. Tôi thình lình múa nhảy và làm thơ mừng.

Thơ ấy, tôi sẽ dẫn sau. Có sự lạ là hình như triều đình không giấu tang đối với dân trong nước, mà chỉ giấu người Thanh. Thế thì sao mà giáo sĩ Pháp Longer lại biết chuyện giấu.

Cũng trong mùa thu ấy, Huy Dao lại trở về xã Thuỳ Dương. Đầu năm sau Quý Sửu (1793), sau khi làm lễ trừ phục (hết tang) Yến đô vương, ông mời con thứ hai chúa về đó mà nuôi, đổi họ tên rồi cùng đi học với các trẻ con khác. Đến mùa xuân năm sau, Giáp Dần (1794), con chúa cũng mất. Ông làm lễ táng ở làng ngự cu, đọc văn tế, nay còn. Các dòng vua Lê, chúa Trịnh đến bấy giờ là hết. Có lẽ còn con chúa Đoan Trịnh Tông, nhưng không biết ra sao.

Bấy giờ, thị trung Ngô Thì Nhậm đi sứ cáo tang Quang Trung đã về, và hình như không được trọng dụng như đời vua trước, chỉ chuyên về việc tổng tài, nghĩa là soạn sử. Thì Nhậm theo gương Trần Văn Kỷ dỗ mình hồi trước, viết thư mời các danh sĩ còn ở ẩn, như Trần Danh Án, Vũ Trinh. Năm Ất Mão (1795), có hàn lâm người Tào xá họ Lê, trước đậu giải nguyên, vâng ý Thì Nhậm ướm tình Huy Dao. Thấy chỗ ẩn đã lộ, ông bèn đem cả gia đình chạy xuống phía nam, ngụ ở xã Kiên Lao huyện Giao Thuỷ.

Vận rủi vẫn kéo dài. Đêm 26 tháng hai năm sau (Bính Thìn 1796), con trai ông, đã ba mươi tuổi, từng chạy theo ông, không bệnh mà mất. Ông đau xót vô cùng. Theo lời ông chép lại, con ông rất thông minh, học rộng, nhớ nhiều; văn chưong rất thanh kỳ. Thường hầu thơ với các tiên và đã được ban cho hiệu Huyền phủ, nghĩa là có tiên cốt. Ông nhắc lại rằng đêm 27 tháng năm năm Nhâm Tý (1792), nghĩa là bốn năm trước khi mất, con ông đã hỏi tiên về tiền trình mình. Tiên đã trả lời bằng một bài thơ, trong có hai vế: Nhãn tiền sự nghiệp tu vô vấn. Thân hậu công danh tổng thị không; nghĩa rất rõ; sự nghiệp trước mắt nên đừng hỏi, công danh sau nầy hoàn toàn không. . Thấy trả lời như vậy, ai mà chẳng sửng sốt. Lại hỏi thêm thì tiên cho thêm hai vế, dịch như sau: Ông hỏi tiền trình thôi hãy hưỡm, Khiến người xa ngóng chuyển thành không. Đối với cha con ông rất tin về việc cầu tiên và về tiền định, như hầu hết người đương thời, thì những câu đoán vận mệnh kia đã làm buồn bã lo âu năm này sang năm khác trong bốn năm liền. Ông táng con ở Kiên Lao và đề hai câu đối, nay còn. Câu thứ hai đề:

Nhược bằng tiên bá tứ nhi thi, mang mang Nhược thuỷ Bồng sơn, thử nhật tiêu dao nhi hữu cảnh. Chỉ trướng trần gian di ngã thích, tịch tịch tha hương khách địa, đương niên tư vọng hận vô đài.

Nghĩa: Nếu theo Tiên bác tặng thơ con, mịt mờ. Nhược Thuỷ Bồng sơn nay đã tiêu dao chừng sẵn cảnh. Chỉ khổ trần gian ta chịu sót, thui thủi tha hương khách địa, hằng năm ngóng tưởng giận không bờ.

Khi hết tang con, ông bốc mộ con đem về làng Nhân Mục táng (có lẽ năm Kỷ Mùi 1799). Nhưng lại bị viên tả thị lang bộ hình, Liên hương hầu tiến cử để dạy con viên điện-tiền đại tư khẩu (có lẽ là Vũ Văn Dụng, xem Đại Nam liệt truyện sơ tập, quyển 30, chuyện Nguyễn Quang Toản). Bấy giờ, nhân ở làng, tiện đường chạy đi Sơn Tây, trốn ở thôn Bạch Hạc (Việt Trì). Ở vùng nầy, xem chừng được yên ổn, vả lại gần những bạn văn. Phong cảnh cổ tích có nhiều nơi đáng đề vịnh. Tập Lữ trung ngâm còn để một số thơ đề hai cổ miếu, thơ tặng tiến sĩ Đỗ Linh Thiện (người sau đề tựa tập nầy), hoạ thơ tiến sĩ Nguyễn Thì Ban, thơ lưỡng giả nguyên Phan Huy Dung.

Hai năm sau, vợ ông bị bệnh “hàn thấp”, xem chừng nên nặng. Đêm mồng hai tháng ba năm Tân Dậu (1801), ông lập đàn cầu tiên xin bài thuốc.. Theo lời kể lại, sau khi tiên giáng, ông hỏi hiệu thì tiên viết hai chữ Lê Huyền và đề mấy câu thơ ý nói hôm nầy mới về hầu mẹ để tỏ tâm trường. Như vậy, ông yên trí con mình đã thành tiên. Tiên lại cho bài thuốc (còn chép lại) và ngỏ ý bệnh khó chữa. Từ đó ông lại cầu tiên luôn, hoặc để nói chuyện với con, hoặc xin thơ của Lý tiên, hoặc hỏi bệnh tình vợ.

Nhưng cũng không vì vậy mà ông không nghĩ đến chính trị. Vả bấy giờ quân của thượng công Nguyễn Phúc Chủng (Gia Long) đã kéo ra chiếm Quy Nhơn và lấn lần ra vùng Quảng Ngãi. Trong đêm rằm tháng ba, ông hỏi Lý tiên rằng hiện nay Nguyễn công có thể đem đại quân tới không ? “Tiên” trả lời ẫm ơ bằng bốn chữ: thử diệt nhất hội (bây giờ cũng là một cơ hội) và cho một bài thơ, kết bằng: Đan tâm khả ái kiên như phát, Phản lão hoàn đồng diệc nhất cơ (Lòng son khá mến bền như tóc, Đổi già ra trẻ cũng là nhịp). Ông không từ chối, trong thơ ông họa lại đã kết bằng câu: Hoàng đồng tha nhật phù thanh dụ, Bang hữu toàn bằng tạo hóa cơ (Trẻ lại ngày nào như đã bảo, Toàn nhờ máy tạo hóa giúp cho).

Tháng tư, bệnh tình vợ khá bớt, thể sắc trở lại như cũ. Về việc nước, thì các biến cố rất quan trọng dồn dập tới. Tháng năm (Tân Dậu 1801) Nguyễn công thu phục Phú Xuân. Quang toản chạy ra Thăng Long, đổi niên hiệu Cảnh Thịnh ra Bảo Hưng, mở một triều đình mới ở cung điện vua Lê. Không thấy ông ghi lại tình ý đối với sự ấy. Có lẽ ông bắt đầu mừng, nhưng khi không thấy Nguyễn công đuổi theo, ông đã hoang mang. Rồi đến tháng mười, vợ ông thốt nhiên thở dài vài tiếng mà mất. Ông còn để lại một câu đối và một bài trường thiên khóc vợ khá lâm ly. Nhưng lời kết tỏ vẻ ông phấn khởi vì thời cuộc, khác hẳn hồi con mất.

Tháng mười một lai hỏi tiên về quốc sự, rồi cùng quan bình chương kinh người Kim Lũ (chắc là Nguyễn Huy Túc, trước đã đưa gia quyến Chiêu Thống tự Cao Bằng chạy sang Trung Quốc) mưu khởi chống Tây Sơn. Nhưng ốm, ông làm bài khấn cầu Trời phù hộ; nay còn. Quang Toản đưa quân vào Quảng Bình bị thua to. Ông bèn tự mình bịa ra lời của Nguyễn công làm bài hịch Dụ Bắc thành trung nghĩa hào kiệt gửi cho các người quen mọi nơi, tỏ ý đang đem quân ra Bắc diệt giặc phù Lê, và bảo những người trung nghĩa với Lê cất quân đánh giăc. Bài hịch giả mạo nầy làm bằng nôm. Nay còn.

Đó là hành động chính trị cuối cùng của ông. Năm sau, mồng hai tháng năm năm Nhâm Tuất (1802), Nguyễn công lên ngôi hoàng đế ở Phú Xuân, sai sứ sang Thanh cầu phong, rồi đưa quân ra đánh Bảo Hưng. Bấy giờ ông mới tỉnh mộng phục hưng nhà Lê. Tháng chín năm ấy, lại được tin Chiêu Thống đã mất ở Yên Kinh. Ông nhà nho đành làm lễ tang phục ngảnh về bắc mà khóc và đọc một bài văn tế. Ấy ngày 29 tháng chín. Bài văn tế viết bằng Hán văn, nay còn.

Xong rồi, ông lại lìa Bạch Hạc, đi đến huyện Phù Khang (Phù Ninh ở phía tây Việt Trì), trọ ở xã Hạ Hoàng, thôn Vĩnh Xá. Ở trong đình làng trên núi, để giữ tang. Rôi lo bề ở lại lâu dài, mở trường dạy học để tránh khỏi phụng sự triều mới. Nhưng vì bệnh, nên năm sau Quý Hợi (1803), ông phải về Bắc thành dưỡng bệnh. Ông gặp lại những văn hữu hoặc đồng chí cũ. Ông mới đưa tập Lữ trung ngâm cho tiến sĩ Đỗ Linh Thiện xem. Như ta đã biết, ông nầy đề tựa vào tháng mười một, thì cũng tháng ấy Lê Huy Dao mất. Không biết ông thọ bao nhiêu. Nhưng biết rằng năm 1796 con trai ông đã ba mươi tuổi. Vậy con sinh năm 1767. Ông cưới vợ trước đó một năm. Từ đó mà suy thì ông sinh vào khoảng hai mươi năm trước đây, nghĩa là vào khoảng năm 1747, và ông thọ chừng 55 tuổi.

LỮ TRUNG NGÂM

Cố Lê vi thần Tiến triều Nhập thị Dao trì bá.
Lê Huy Dao soạn
(ng. ch. Ông người huyện Thanh Trì, làng Nhân Mục. Nguyên tên là Lê Huy Vi).

1. (ĐỀ TỪ).

1. Mạch ca thân hữu cảm
Thử phú tối kham liên
Dĩ hĩ lăng vi cốc
4. ai tai hải biến điền
(dịch:)
Ca Mạch ngâm rất thảm
Thơ Thử ngẫm càng đau
Ôi thôi ! Cồn hóa vực
Xót nhỉ ! Biển thành dâu

Thích nghĩa:
1. Mạch ca: bài ca của Cơ-tử di-thần nhà Thương làm khi qua kinh đô cũ nhà Thương chỉ thấy lúa mạch mọc trên nền thành cũ mà buồn.

2. Thử phú: thơ của một đại phu nhà Chu làm khi đi qua cung miếu nhà Chu hồi thịnh, mà chỉ thấy lúa kê mọc rậm rì.

2. TỪ NGUYỄN HUỆ ĐUỔI TRỊNH KHẢI ĐẾN NGUYỄN HỮU CHỈNH ĐUỔI TRỊNH BỒNG.

5. Lê hoàng từ có Nam-thiên
Dấu vương nền đế dõi truyền vân nhưng
Trải sáng nghiệp trung hưng sau trước
Kể năm đà được ngoại ba trăm
Đương cơn chim nhạn êm đầm
10. Bỗng duềnh Đông hải tăm kình rắp go
Dòm quốc đô vừa khi binh biến
Chiếc cánh bằng khéo quyến lông hồng
Tưng bừng lửa hổ tứ tung
Đã miền Ô Lý lại vùng Hoàng Châu.

Thích nghĩa:
6. Vân nhưng: cháu chắt lâu đời sau.

7. Sáng nghiệp: lập ra triều vua; trỏ Lê Lợi. Trung hưng trỏ Trịnh Kiểm, Trịnh Tùng diệt Mạc lập lại Lê. Nên để ý đến vần được ở vế sau ở vào chữ thứ tư.

9. Nhạn êm đầm: văn tử trỏ sự không có giặc giã. Nhạn ở ao đầm kêu, tượng trưng sự loạn.

10. Đông hải: ng.ch. Nguyễn Hữu Chỉnh quê ở làng Đông Hải.
Rắp go: nguyên viết hai chữ Hán: Lập (đứng), cô (côi). Nếu lấy nghĩa chữ Hán (cô lập) thì không thông ý. Chắc đó là nôm. Chữ lập thường đọc rắp. Còn chữ cô thì ý và âm ra sao ? Hoặc là bảo đã chép lầm ? Lấy ý cả hai vế 9 và 10 mà đoán, thì thấy đây tác giả muốn nói: thời đang yên mà mầm loạn đã gây ra từ Chỉnh. Tác giả lại dùng lối văn chơi chữ mà dùng điển tăm kình (sóng gợn bởi cá kình, trỏ giặc dữ) lẫn với nhạn đầm, bể Đông . Giá như viết “tăm kình nhấp nhô” thì nghĩa cũng thông. Hoặc rắp nhô ? nhưng theo tự dạng thì không thể có sự viết lầm như thế. Tôi đành tạm đọc: rắp go, tiếng go nay còn có nghĩa là co, kéo lại, rút, gấp lại; và lấy nghĩa: mặt nước đang bằng bỗng go lại.

11. Binh biến: trỏ loạn kiêu binh giết Hoàng Đình Bảo, chủ tướng của Chỉnh. Cho nên Chỉnh sợ chạy vào hàng Tây Sơn.

12. Cánh bằng…lông hồng: trỏ Chỉnh đi rủ quân Tây Sơn đánh ra. Bằng lĩnh hầu là tước của Chỉnh. Quân Tây Sơn cầm cờ đỏ có tháp lông gà nhuộm đỏ, gọi là cờ hồng mao. Đây tác giả dùng điển và chơi chữ. Cánh hồng lại trỏ kẻ có đại chí đi xa lập công.

13. Hỏa hổ: ng. ch.: Hồi ấy Tây Sơn hay dùng hoả hổ, tức là thuốc cháy bắn bằng hỏa tiễn.

14. Ô Lý…Hoàng châu: trỏ quân Tây Sơn lấy vùng Thuận Quảng rồi ra lấy đất vua Lê

***
15. Giả tôn phù chỉn toan te nghé
Dưới Vương cung chẳng nể ty hào
Cân công đức biết là bao
Phụ nghì như CHỈNH nỡ nào cho cam
Đau đớn đức ĐOAN NAM tuổi trẻ.
20. Mình muôn vàng xem nhẹ mảnh lông
Trải tần tặc đảng tán không
Thánh hoàng tưởng lại tiền công thêm ngừng
Khâm sách vâng đại quân hữu mệnh
24. Yến đô vương phụ chính như xưa

Thích nghĩa:
15. Chỉnh: chỉ những
Te nghé: dòm rình để trộm. Trỏ sự giả nói phù Lê diệt Trịnh mà cướp nước.
18. Phụ nghì: bội nghĩa làm tôi.
19. Đoan nam: Chúa Trịnh Khải hay Tông.

20. Nhẹ mảnh lông: ng. ch.: Hồi ấy Vương làm quốc suý mà bị chết. Mệnh người bị chết yểu, mỏng manh như lông. Trỏ sự Trịnh Tông thua trận ở bến Tây Long, rồi chạy đi Sơn Tây, bị kẻ phản bắt, bèn tự vẫn.

21. Trải tuần: qua vài mươi ngày.
Tán không: trỏ quân Tây Sơn bỏ Thăng Long mà hoàn toàn rút lui.

22. Ngừng: buồn, rầu nét mặt. Trỏ sự vua Chiêu Thống nghĩ đến công các chúa Trịnh trước mà buồn (ý riêng tác giả).

23. Khâm sách: tuyên chỉ của vua để phong.
Đại quân hữu mệnh: có mệnh vua lớn.

24. Yến đô vương: Trịnh Bồng ép vua phong làm phụ quốc chính.
* *
*
25. Hay đâu lòng giặc khôn ngừa
Phù kia diệt nọ quen mờ người ta
Này gươm A lại toan đảo bính
Dấu Vũ thành dám sánh Chu vương
Cong khi cảnh báo song mang.
30. Biên hàn vỡ mật miếu đường bó tay
Thế đã lay nặng lòng Suý phủ
Chiếc xe loan bắc thú lênh đênh
Qua làng Trúc ổ an doanh
Vi thần hổ dự nhung hành một tên
35. Mảy dám quên Tông chu đại nghị
Chỉn căm loài giả nghĩa thương ân
Vâng làm một hịch vân vân
38. Ngõ bình loạn tặc vả răn gian hùng.

Thích nghĩa:
25. Khôn ngừa: khó ngăn
26. Phù kia diệt nọ: Chỉnh kéo cờ: vâng mệnh vua đem quân phò vua (diệt Trịnh). Nhưng tác giả kiêng không nói rõ.
27. Gươm A…đảo bính: cầm ngược gươm Thái A (Hán thư), trao cho một bầy tây; nghĩa là trao quyền. Đây trỏ sự Chiêu Thống sắp trao quyền cho Chỉnh.
28. Vũ thành: Nguyên là tên một thiên trong Chu thư, ý là vũ công đã thành. Hữu Chỉnh lấy danh ấy đặt tên cho hiệu quân mình (nhưng hình như sau khi đến Thăng Long rồi mới lấy hiệu ấy, còn trước thì chỉ dùng chữ đột và chữ thành mà đặt tám hiệu quân gọi chung là tứ đột và tứ thành (xem HLNTC).
29. Cong: âm cổ tiếng trong
Song mang: bối rối lật đật.
30. Biên hàn: quân giữ biên thuỳ.
32. Bắc thú: tiếng trỏ vua chúa (đây trỏ suý phủ nghĩa là chúa Yến đô) chạy lên phía bắc.
33. Trúc Ổ: xã thuộc huyện Quế Dưong, trên bờ bắc sông Đuống phía nam núi Lãm Sơn. Chúa đóng doanh ở đó (nay thuộc huyện Quế Võ tỉnh Bắc Ninh – BT)
34. Vi thần: tiếng nói khiêm tác giả dùng tự trỏ.
Nhung hành: tham mưu quân sự trong khi vua chúa thân chinh.
35. Tông chu đại nghị: nghĩa lớn bầy tôi đối với thiên tử, ý nói không dám chống vua Lê.
36. Thương ân: làm tổn hại lòng biết ơn, ý nói chỉ thù Chỉnh mà thôi.
37. Lê Huy Dao thảo bài hịch kể tội Chỉnh để khuyên đánh Chỉnh.

3. THẢO BẰNG QUẬN NGUYỄN HỮU CHỈNH HỊCH
(Hịch đánh quận bằng Nguyễn hữu Chỉnh)
(Nguyên văn:)

39. Hán tiết kìa khi bắc tuận, lũ thuộc tâm đều thấy qun quân; Đường linh nọ thủa tây hành, đoàn chấp khống há lãng xem xa giá.
41. Tiết cứng hổ chi trời đất;
Lòng ngay chung cả xưa nay.
43. Ta: Trộm dự bản chi;
Chút là đích phái.
45. Lọn thần tiết, đôi mươi năm nhẫn trước; ủng bách thoắt cùng suy đới; Trời về, người ứng, há toan mưu.
Tóm quyền cương ba bốn tháng lao bao; phân mang chưa kịp tu nhương; ngoài rối, trong ngăn, ai thụ trách.
47. Song kế loạn cũng vì bước nước;
Vả dục bình chưa chuyển máy trời.
49. Cờ Khâm sai khôn tỏ thực hư, gang tấc chống uy còn chút ngại;
Xe xuất hạnh phải theo quyền biến, dần dà chờ thế để sau toan.
51. Lệ vu đón rước nào ai;
Cơ đích theo cầm ít kẻ.
53. Trùng trập lâu đài mấy lớp, trông nền đường cấu chạnh bồi hồi;
Dọc ngang triều chợ đòi chòm, tưởng hội y thường thêm bát ngát.
55. Thành quách sơn hà nguyên chẳng khác;
Nhân dân xã tắc cũng là chung.
57. Hoàng triều nghìn tuổi âu vàng, chữ “Thật lại..”còn in dấu cũ.
Báu khuyết ba ngày ngọn lửa, lời “Tại đồn” đã lạnh nguyền xưa.
59. Gẫm đà cung man mác thể nầy,
Vì Bằng quận lăng loàn nên nỗi.
61. Trở Quốc suý để đắt mưu Mãng Tháo; nghĩa chúa tôi vỗ sạch dường không
Cặp Thiên vương toan mượn tiếng Hoàn văn; nước cha mẹ phá tan như rửa.
63. Tính mặt còn nhiều danh tá,
Bó tay sao chịu bạn thần ?
65. Dù Tông Chu là đại nghĩa tua gìn, bui Trung hưng thật lục còn đây; mậu đức long công chi nỡ phụ !
Bằng tự Hạ ví miếu cung chưa xứng, thì Liệt vị Thánh vương về trước, thâm nhân hậu trách khá nên quên.
67. Chúa âu thần nhục, quản nài chi;
Quốc trọng thần khinh, cân nhắc đấy.
69. Cu góp lữ thành mấy lũ, lấy sóc phương làm chốn thu binh;
Rủ rê trung nghĩa một đoàn, trông Nhị thuỷ trỏ ngày phản bái.
71. Biên có giặc, phải xin thanh tội;
Vua là trời, há dám xưng qua.
73. Tại thiên liệt miếu dấu hãy còn thiêng, nhờ tương hữu dựng công kham bát;
Hữu đạo hi triều đời dõi nối, dốc khuông phù đặt thế tôn an.
75. Trước sau dãi mấy nhiêu lời;
Trên dưới tua cùng một sức.
77. Dù nghĩ đỉnh chung đến lộc nặng, tấm trung thành phó đã quỷ thần.
Đành hay thư khoán chép công dày, lời minh thệ trỏ cùng non nước.

Nguyên chú: (dịch): Tháng mạnh xuân (giêng) năm Đinh Mùi (1797) Nguyễn Hữu Chỉnh thác danh tôn Lê, xui giặc hai xứ Thanh Nghệ nổi, lại phạm kinh khuyết, đốt Vương cung. Yến đô vương dời đi Kinh bắc. Ngày ấy vi thần hộ tùng, vâng soạn hịch nầy, luân chuyền cho các đạo kinh bắc, Hải Dương, để đánh loạn thần.

39. Hán tiết…: cờ nhà Hán chạy lên phưong bắc. Trỏ sự Yến đô chạy lên Kinh bắc, mà dùng điển Lưu Tú bị Vương Mãng tiếm ngôi Hán, bèn đem quân lên Hà Bắc, sau khôi phục nhà Hán mà lên ngôi (Hán Quang đế).

40. Đường linh…: nhạc ngựa nhà Đường đi về Tây, ngụ chuyện Đường Minh Hoàng vì loạn An Lộc Sơn rồi loạn Sử Tư Minh, phải chạy sang đất Thục. Nhiều trung thần nghĩa sĩ giúp.
Chấp khống: cầm cương ngựa đê hộ vệ.

43. Bản chi: trỏ chi họ Trịnh nối dòng làm chúa.
44. Đích phái: Bồng là con chúa Uy, Trịnh Giang thuộc dòng trưởng.
45. Ủng bức…suy đới: ủng hộ và ép lên ngôi chúa. Trỏ sự Bồng vốn tôn vua, không hề xin lập ngôi chúa lại, vì tướng Đinh Tích Nhưỡng ép nên mới nhận, vì lẽ trời thuận cho và dân ứng về. Đây là thuyết của phe chúa.

46. Phân mang…tu nhương: đang bối rối chưa kịp sửa chính ở trong, dẹp loạn ở ngoài. Tỏ ý rằng mình chịu cáng đáng công việc chính trị.

47. Kế loạn: loạn nối nhau.
48. Dục bình: muốn yên. Hai vế nầy để đổ lỗi cho vận nước, lòng trời.

49. Cờ khâm sai: trỏ cờ quân Nguyễn Hữu Chỉnh trương ra khi kéo quân tới Thăng Long, lấy nghĩa là vua Lê sai đến. Ý muốn nói vì vậy mà không chống lại.

50. Xe xuất hạnh: trỏ sự chúa Yến đô bỏ Kinh mà đi; ý nói ấy là để chờ xem sự vua gọi Chỉnh có thật không.

51. Lệ vu: ăm cơm hẩm, nằm bãi cỏ.
52. Cơ đích: dây cương và hàm thiết ngựa.

53. Đường cấu: trỏ sự nối nghiệp cha.
54. Triều thị: trỏ cung điện và phố xá ở kinh.

57. Âu vàng: trỏ ý một nước vững chắc.
Thật lại: hai chữ nghĩa đen là thật nhờ (chúa Trịnh), thường dùng trong các chiếu chỉ đời Lê, ví dụ trên các bài bia Tiến sĩ ở Thăng Long.

58. Báu khuyết: trỏ cung chúa Trịnh bị đốt.
Tại tồn: ngụ lời vua Lê (?) thề với họ Trịnh rằng còn mất với nhau: “Lê tồn, Trịnh tại, Trịnh bại, Lê vong”, nghĩa là: nếu ngôi vua Lê còn thì ngôi chúa Trịnh còn; nếu ngôi chúa Trịnh bỏ thì ngôi vua Lê cũng mất.

59. Đà cung: trỏ cung chúa. Đây trỏ Yến đô vương phải chạy lang thang.

61. Trở Quốc suý: kháng với chúa.
Mãng tháo: Vương Mãn tiếm ngôi Hán. Tào Tháo mưu cướp ngôi Hán. Cả hai có tiếng mưu mô giả trá.

62. Cặp thiên ương: ủng hộ vua thiên tử khỏi chư hầu hiếp.
Hoàn Văn: Tề Hoàn công và Tấn Văn công là hai trong Ngũ bá đời Xuân Thu được tiếng đã phò thiên tử nghĩa là vua nhà Chu.
Rửa: chữ nôm gồm bộ Thuỷ và bộ Lữ. Rửa nghĩa là sạch trơn.

63. Tính mặt: trỏ từng người mà đếm. Tác giả gò tiếng ấy để đối một cách xuất sắc với bó tay.
Danh tá: người giúp việc có tiếng.

64. Bạn thần: bầy tôi phản chúa.
65. Tông Chu đại nghĩa: nghĩa lớn đời thịnh Chu, nghĩa là nghĩa bầy tôi đối với Thiên tử. Đây muốn nói đạo thờ nhà Lê.

Tua: nên, tức là chữ Tu.
Bui: nghĩa chữ duy, nhưng mà.
Trung hưng thật lục: tên sách: chép công họ Trịnh phục ngôi vua cho Lê.
Mậu đức long công: đức to của họ Trịnh và công lớn của các chúa.

66. Bằng tự Hạ…xứng: nếu thân mọn nầy không đáng giữ việc thờ của các chúa trước.
Thâm ân hậu trạch: những điều mà chúa đã làm cho thần dân vui sướng (ân trạch dồi dào).

69. Cu-góp: lấy những phần tử rời rạc mà họp lại (Tế Trường lưu nhị nữ có: cu góp ba làng bốn xã).
Lữ thành: tôi không rõ nghĩa. Hoặc là một hạng dân binh chăng.
Sóc phương: trỏ miền Kinh bắc
Thu binh: bắt lính, mộ lính.
Lữ thành: Văn từ trỏ số quân ít, khoảng đất nhỏ, người ít. Điển: Nhất thành nhất lữ (Tả truyện: chuyện vua Thiếu Khang đời Hạ, nước bị giặc chiếm, chỉ còn đất một thành (mười dặm), quân một lữ (5 trăm) mà rồi bền chí cũng khôi phục được nước.

(Đính chính của tác giả Hoàng Xuân Hãn)

70. Phản bái: rước cờ quân trở về (bờ sông Nhị)
71. Thanh tội: kể tội cho ai đều biết.
72. Xưng qua: giơ cái đòng; trỏ sự lấy khí giới mà chống lại.
73. Tương hữu: giúp rập ngầm.
Kham bát: đánh dẹp.
Tại thiên liệt miếu: các chúa trước nay ở trên Trời.
74. Hữu đạo hi triều: triều đình rạng rỡ cư xử đúng đạo đức.
Khuông phù: phò tá vua Lê.
Tôn an: tôn trọng hòa bình.
78. Thư khoán: chép công vào sách, ghi lời hứa vào sách.

CHI TIẾT THỜI SỰ

Cuối đời Cảnh Hưng, hai họ chia trị đất ta đều bị khủng hoảng. Ở Đàng Ngoài, Hoàng Đình Bảo nghe lời Tỉnh vương Sâm lập Trịnh Cán mà gạt Trịnh Tông. Ở Đàng Trong, Trương Phúc Loan, mười bảy năm trước đó đã đổi di chiếu của Võ vương Nguyễn Phúc Khoát mà lập Nguyễn Phúc Thuần và gạt Phúc Luân (cha của vua Gia Long); rồi nhân chúa trẻ mà chuyên quyền. Vì đó, Nguyễn Nhạc nổi loạn ở Tây Sơn (1771) chiếm vùng Quy Nhân. Cũng nhân vậy Trịnh Sâm sai Hoàng Ngũ Phúc vào chiếm Phú Xuân (1774) rồi nhận Nguyễn Nhạc làm tiền phong để hòng đánh vào Đồng Nai. Hoàng Ngũ Phúc chết; bộ đội của y được trao cho con nuôi là Hoàng Đình Bảo, sau thành phụ chánh của Trịnh Cán đã nói trên. Hoàng Đình Bảo có một gia khách theo quân: cống Chỉnh, tức là Nguyễn Hữu Chỉnh. Chỉnh được phái vào Quy Nhân dụ Nhạc (1775) và được Nhạc khen tài ứng đối. Sau Hoàng Ngũ Phúc mất (1776), Hoàng Đình Bảo về triều phụ chánh (1782), để Chỉnh coi thuỷ quân ở Nghệ An.

Kiêu binh nổi loạn, giết Đình Bảo và lập Trịnh Tông (25-10 Nhâm Dần: 29-11-1782). Hữu Chỉnh được tin, bỏ xứ Nghệ An vượt bể trốn vào Quy Nhân, xin theo Nhạc. Chẳng bao lâu, thành một danh tướng của Tây Sơn, không tránh khỏi sự ghen kỵ của gia tướng của Nhạc. Trịnh Tông sai người vào dỗ Chỉnh về. Lần đầu, ấy là chồng em gái Hữu Chỉnh. Sau khi hỏi được rõ tình hình ở Bắc, Chỉnh sai giết người thuyết khách để Nhạc thêm tin. Sau, vào cuối xuân năm Bính Ngọ (1786), sứ của trấn thủ Thuận Hóa Phạm Ngô Cầu, là Nguyễn Phu Như, lại vào dỗ Hữu Chỉnh. Chỉnh lại hỏi dò biết tình hình bạc nhược của quân Trịnh đóng ở Phú Xuân. Nhạc bèn sai Huệ cùng các tướng Lữ, Vũ Văn Nhậm, Nguyễn Hữu Chỉnh đem quân đánh Phú Xuân.

Những sự kiện và thời điểm quan trọng trong việc hành quân này sẽ kê ra sau:

Xuất quân từ Quy Nhân (24-4 : 21-5-1786 theo HLNTC hoặc 28-4 : 25-5 theo LTTK).

Đánh lấy đồn An Nông, giết Hoàng Nghĩa Hồ (ĐNLT, SKTB; còn LTTK chép tên là Quyền, tước Quyền trung hầu như ở SKTB). Về ngày thì NAK chép rằng ngày 18-5 (14-6) Nhạc sai Huệ đem thuyền đi đánh Thuận Hóa. LTTK lại nói ngày ấy, Phạm Ngô Cầu nghe Tây Sơn đã vượt Hải Vân; và ngày 24-5 (: 20-6) tiến đánh An Nông.

Đánh lấy Phú Xuân, bắt trấn tướng Phạm Ngô Cầu, giết phó tướng Hoàng Đình Thể và hầu hết quân nhân. Về ngày, NAK chép 20-5 (:16-6) nghĩa là hai ngày sau khi lấy đồn An Nông, thì Phú Xuân mất; và ngày 24; biên thư (thư từ Phú Xuân gửi về) về tới Kinh. Có lẽ thư ấy báo việc quân Tây Sơn đánh An Nông, và vì thế mà LTTK đã chép ngày đánh An Nông là ngày thư tới Kinh.

Để Nguyễn Lữ giữ Phú Xuân, Huệ đưa quân ra lấy Dinh Cát và Động Hải. Trấn tướng Vĩ phái hầu bỏ Động Hải. Các bản HLNTC đều chép việc ấy vào ngày 14-5 (10-6-1786) nghĩa là bốn ngày trước khi An Nông mất. Có lẽ HLNTC lầm.

Nguyễn Huệ định đóng quân ở La Hà ở bờ nam sông Gianh. Nhưng sau theo lời khuyên của Hữu Chỉnh đem quân ra Bắc với danh nghĩa phù Lê diệt Trịnh. Dọc đường cho du quân đổ bộ ở Nghệ An và Thanh Hóa. Trấn tướng Nghệ An Bùi Thế Toại đốt đồn mà chạy. Trấn tướng Thanh Hóa Tạ Danh Thùy cũng chạy. Các việc nầy đều vào cuối tháng 5.

Nguyễn Hữu Chỉnh lấy đồn Vị Hoàng và kho thóc lớn, vào ngày (6-6 : 1-7-1786) theo HLNTC. Tướng giữ họ Lê trốn (LTTK). Đại tướng Trịnh Tự Quyền rút quân về trấn Sơn Nam.

Nguyễn Huệ tiến họp với Hữu Chỉnh, phá thuỷ quân của Đinh Tích Nhưỡng ở Cửa Luộc (LQKS), hoặc cửa cang Nông (LSTB), hoặc ở sông Rỗ (ĐNLT). Đinh Tích Nhưỡng chạy về Hải Dương.

Ngày 24-6 (: 21-7-1786), theo NAK, trấn Sơn Nam mất. Trấn tướng Đỗ Thế Dẫn chạy. Đại tướng rút về đóng ở Kim Động (HLNTC và LSTB).

Ngày 25-6 chúa Đoan nam Trịnh Tông đem thân quân dàn ở bến Tây Long và sai Hoàng Phùng Cơ án ngự ở hồ Vạn Xuân (NAK, LQKS, HLNTC).

Ngày 26-6, quân Tây Sơn phá thuỷ quân Trịnh ở Thuý Ái; đổ bộ, bại quân Hoàng Phùng Cơ ở Vạn Xuân. Quân Trịnh Tông ở Tây Long trốn hết. Chúa chạy đi Sơn Tây. Nguyễn Huệ vào Thăng Long ngày ấy (NAK, HLNTC) là ngày 23-7-1786.

Ngày 27-6, chúa Đoan nam tự tử (LTTK, HLNTC). Nguyễn Huệ yết vua Cảnh Hưng ở điện Vạn Thọ. LSTB chép vào tháng 7, chắc lầm, vì không lễ Huệ đợi ba ngày rồi mới gặp vua.

Ngày 7-7 (: 31-7-1786) Huệ làm lễ triều kiến ở điện Kính Thiên và ngày hôm sau vua Lê phong Huệ tước Oai quốc công (ĐNLT, HLNTC, LTTK). Sách NAK chép ngày phong Huệ là ngày mồng 4-7, có lẽ sai.

Ngày 11-7 (: 4-8-1786), Huệ cưới công chúa Ngọc Hân.
Ngày 14-7 thư báo thắng ở Thăng Long về đến Quy Nhơn. Ngày ấy, Nguyễn Nhạc đưa khinh binh trẩy Thăng Long (HLNTC).

Ngày 15-7 (: 8-8-1786) vua Cảnh Hưng làm đại lễ Thống nhất (LQKS, HLNTC).

Ngày 17-7 vua Lê mất (: 20-8, HLNTC, NAK, LTTK). Lễ thành phục ngày 21-7 (NAK). Đưa tang xuống thuyền ngày 25-7.

Ngày 5-8 (: 28-8-1786) Nguyễn Nhạc tới Thăng Long để kiềm chế Huệ. Hôm sau, vua Chiêu Thống đến yết Nhạc. Ngày Dương lịch, trên là tính theo phép Lịch Đại thống mà Triều Lê dùng, khác với lịch Thì hiến của nhà Thanh (Lịch Lê năm Bính Ngọ 1786 nhuận tháng 9, lịch Thanh nhuận tháng 7).

Đêm 8-8 (: 31/8/1786; -) Nhạc, Huệ ngầm bỏ Hữu Chỉnh lại Thăng Long mà rút quân về Nam (NAK). Theo HLNTC, quân Tây Sơn rút lui vào đêm 17-8, nghĩa là 12 ngày sau khi Nhạc đến. Sách ấy lại kể chuyện rằng mười ngày trước khi rút quân, Huệ đã mưu bỏ trống cầm canh sau canh hai, để đến đêm bỏ đồn đi, sự đêm khuya không trống canh sẽ không khiến dân Thăng Long lấy làm lạ. ĐNLT chép hai nơi rằng Nhạc ở lại Thăng Long “tuần nhật” rồi về. Tuần nhật trỏ ít ra cũng mươi ngày. Xem đó thì thuyết HLNTC (Nhạc tới ngày 5-8, đi ngày 17-8) rất có thể đúng sự thật. Nhưng trong một thư ông Le Roy viết từ Kẻ Vinh ngày 6/10/1786 thì Nhạc chỉ lưu lại Kẻ Chợ có 2, 3 ngày (xem Sử địa số 9,10; bài của Đặng Phương Nghi, trang 230). Tuy trong những loại thư nầy có chép những điều sai, nhưng với hai nguồn hoàn toàn độc lập kia, tôi nhận thuyết Bùi Dương Lịch là đúng.

Ngày 9-8, Nguyễn Hữu Chỉnh cũng dùng thuyền trốn theo quân Tây Sơn.

Trong tháng 8 nầy, Dương Trọng Tế dùng dân quân Dương Xá vùng (Gia Lâm), đánh bại chi đội Tây Sơn, giết được thái bảo Hóa (LQKS).

Cuộc Bắc chinh của Huệ, rồi sự rút quân thình lình, đã gây trên đất Bắc một cục diện kỳ quái về chính trị. Những chính quyền cổ điển đã hoàn toàn xóa bỏ. Những nhân vật có tác phong văn hay võ hầu hết bị sa thải, hoặc tự đào ẩn. Trên khắp địa bàn ở bắc Hoành Sơn hình như vô chủ. Tuy tiếng là Nhất thống, mà ở địa phương, mạnh ai nấy chiếm. Cũng may mà óc tự lập bá chủ chưa nảy nở, vì ở Thăng Long còn có vua Lê.

Ở trung ương, vua Chiêu Thống, tuy không bị ai lấn quyền như các vua Lê trước, nhưng hoàn toàn không kinh nghiệm, không phụ tá có bản lệnh, không binh lực lão luyện. Những người sốt sắng trung thành thì toàn những thiếu niên con cháu thế gia hay là những tôn nhân vô tài.

Bên họ Trịnh, bấy giờ Tây Sơn đã lui; cũng có kẻ lăm le nối vì chúa. Không kể con cháu chúa Đoan nam (Tông) còn nhỏ, và các con những chúa cũ đã già, thì có hai người có đồ đảng tôn suy: quân Côn Trịnh Quế (sau lấy là Bồng) là con đầu chúa Uy Trịnh Giang, và quận Thuỵ Trịnh Lệ là con thứ chúa Minh Trịnh Doanh và em ruột chúa Tính Trịnh Sum. Nguyên Giang thuộc dòng trướng họ Trịnh. Vì Giang để tụi hoạn quan làm ác chính, cho nên triều thần, năm Canh Thân 1740 truất Giang mà lập em chúa, tức là Doanh. Bấy giờ Quế, con Giang mới mười tuổi. Từ đó ngôi chúa lọt sang dòng thứ. Đến năm Bính Ngọ 1786, Quế băm tám tuổi. Tính vốn nhu hòa, chịu an phận, không hề dám mưu giành lại ngôi chúa cho dòng trưởng. Khi chạy loạn Tây Sơn, Quế tránh ẩn nhà dân ở Quảng Trị, tại huyện Chương Mỹ (LLHT) phía tây nam Thăng Long.

Chú Quế là Doanh truyền ngôi cho con trưởng là Sum. Nhưng con thứ là Lệ muốn bắt chước gương cha, mưu sự giành ngôi. Hai lần Lệ muốn cướp ngôi anh nhưng thất bại. Sau khi anh mất, lại muốn tranh ngôi với cháu là Tông. Sự không thành, Lệ lánh ở miền Kinh bắc, dựa vào thế viên trấn thủ cũ Thái Nguyên là hầu Thì Trung Trương Tuấn người Như Kinh huyện Gia Lâm, cũng là anh con cô của Lệ.

Về hàng vũ tướng có danh vọng, thì có quận Thạc Hoàng Phùng Cơ cầm bộ binh ở vùng Sơn Tây, Hưng Hóa; và hầu Liễn trung Đinh Tích Nhưỡng thống suất thuỷ quân vùng Hải Dương.

Ngoài ra, còn các cựu thần, hoặc môn đệ cựu thần, mối nhóm mộ dân quân địa phương đóng giữ vùng mình, rải rác trên đất bắc. Trong đó, đáng kể có tiến sĩ Dương Trọng Tế giữ Gia Lâm, trấn thủ cũ Kinh bắc Nguyễn Trọng Mại giữ Quế Dương, Phạm Tôn Lân cháu đại tướng Tôn Sĩ giữ vùng Chân Định. Một nhóm tôn thất nhà Lê giữ vùng Thanh Hóa. Phiên tướng Hoàng Văn Đồng giữ vùng Tuyên Quang. Còn ở Nghệ An, Huệ có để quân lại đóng một vài đồn, nhất là để đại tướng Chiêu viễn Vũ Văn Dũng đóng ở Hà Hoa, ở phía bắc Hoành Sơn. Tuy vậy dân Nghệ An chống Tây Sơn và nhiều hào kiệt địa phương đã và đang mộ quân đánh đồ đảng Tây Sơn, trong đó họ còn tưởng có Nguyễn Hữu Chỉnh.Thật ra, sau ngày 8 tháng 8, Hữu Chỉnh chạy theo Tây Sơn về đến Nghệ. Huệ tuy ghét, nhưng cũng không hại và cho Chỉnh hai chục lạng vàng và một trăm quân bảo ở lại kiểm soát hành động người Bắc.

Nói tóm lại, trong tháng tám năm Bính Ngọ, xứ Bắc hà như một bàn cờ đã bày quân, nhưng không có người điều khiển. Chẳng mấy chốc nữa, những động cơ công danh phú quý hoặc tình cảm sẽ xui đẩy mỗi con cờ đi một nước; rồi những cuộc xô xát gây nên một tuồng rối tơi bời. Kết quả là đưa hùng binh của Đại thanh vào nước, buộc Quang Trung, một vị tướng kỳ tài, kéo quân ra, gây một trận phi thường oanh liệt…

Liền sau khi Tây Sơn rút, Chiêu Thống tự thấy thành một vua tự chủ nhưng không triều đình, không bộ đội. Liền truyền hịch kêu gọi hào kiệt đem quân về ủng hộ Hoàng đô. Đầu tiên, hạng tư đệ đại gia tới, như Lê Quýnh, Vũ Trinh. Hai em vua, Duy Chỉ và Duy Lưu và các hoàng thân đã gây được chừng vài nghìn quân bảo vệ.

Vào khoảng đầu tháng chín (22-9 đến 22-10-1786) Dương Trọng Tế từ Gia Lâm sang. Cùng lúc ấy, Trương Tuấn mộ quân các huyện thuộc phủ Thuận Thành (Kinh bắc) đưa Trịnh Lệ về Kinh với định ý chiếm lấy ngôi chúa. Trọng Tế vốn đã phát giác việc Lệ ngày xưa đã mưu cướp ngôi anh; nay sợ Lệ, nên đem quân hùa theo Tuấn đưa Lệ về chiếm phủ Chúa. Ấy vào ngày mồng 10-9 (1-10-1786, HLNTC).

Đang khi Tuấn và Trọng Tế ép vua phong vương cho Lệ, nhưng kém sức, làm không nổi, thì Trịnh Quế từ huyện Chương Đức được những đảng bộ vùng Sơn Tây cũng đưa về Thăng Long. Lệ sai quân mình đón đánh phía tây thành. Nhưng Trọng Tế thấy Quế có thế hơn, lại bỏ Lệ theo Quế. Quân Lệ và Trương Tuấn tan; hai người đều bỏ chạy về Kinh bắc. Ấy vào ngày 14-9 (5-10-1786, HLNTC; theo lịch Thanh thì tháng 8)

Trịnh Quế lấy lời khiêm tốn chỉ xin vua cho giữ chân thờ cúng miếu họ Trịnh rồi về ở Phủ Chúa. Bấy giờ Đinh Tích Nhưỡng đưa 300 chiếc thuyền từ Hải Dương về đóng ở sông Bát Tràng, liền bị cánh Trịnh Quế quyến rụ. Thấy vua Lê chỉ phong cho Quế tước quốc công, Tích Nhưỡng không bằng lòng, bèn ép nài vua phải lập lại ngôi chúa và phong cho Quế tước Yến-đô vương. Ấy vào ngày 19-9 năm Bính Ngọ (10-10-1786, HLNTC) NAK chép ngày 20 (3)

Hạ tuần tháng 9, Hoàng Phùng Cơ mới đưa đại quân từ vùng Sơn Tây Hưng Hóa về đến Thăng Long và có vẻ bênh vua, nhưng chung quy lại bị đảng chúa quyến dụ. Chúa bèn lập triều đình và thân chính, lấy Hoàng Phùng Cơ cầm đầu ban võ, Đinh Tích Nhưỡng thứ hai. Rồi lại gọi Dương Trọng Tế trở về coi việc tài chính. Sự ấy rất làm vua Chiêu Thống tức tối, nhất là sau đó Trọng Tế với Bùi Thì Nhuận vây Hoàng thành định hại những kẻ chống chúa. Nếu không có Phùng Cơ cương quyết ngăn cản thì có lẽ Chiêu Thống cũng bị vạ lây.

Vì vậy từ tháng Chín nhuận (Theo lịch Lê, còn theo lịch Thanh thì tháng nhuận là tháng 7, vậy bấy giờ là tháng 9 thường, giống với Tây lịch từ 22-10 đến 20-11), Chiêu Thống đã mưu tìm hào kiệt giúp mình. Về phần Nguyễn Hữu Chỉnh, sau khi bị Tây Sơn bỏ rơi ở Nghệ, rất bị nhân dân oán ghét vì đã “cõng rắn cắn gà nhà”. Chỉ còn kế thừa chuyện Trịnh Bồng lấn vua, mà lấy danh phù Lê mới mong người ta tha thứ và ủng hộ. Cho nên một mặt thì ngầm thông với Đinh Tích Nhưỡng là bạn cũ khi còn Hoàng Đình Bảo, rồi phái người xin Chiêu Thống ban dụ mộ quân đưa về kinh để hộ vệ. Tuy rằng Tích Nhưỡng kình thị Chỉnh, không muốn giúp, và Chiêu Thống muốn giúp nhưng sợ phe chúa, Hữu Chỉnh vẫn giả vờ nhận chiếu cần vương. Cho nên chóng nhóm được đạo quân mạnh và nhiều phụ tá giỏi: Hoàng Viết Tuyển, Nguyễn Hữu Khang, Nguyễn Kim Khuê, Nguyễn Như Thái, Nguyễn Đình Viện.

Tháng mười năm ấy (21/11 – 20/12/1786 SKTB) quân hữu Chỉnh kéo cờ Khâm sai tiến ra phương Bắc bại trấn thủ Bùi Thế Toại ở Hoa Lâm. Cũng lúc ấy, Nhạc sai tỳ tướng ra đóng ở Nghệ An. NAK chép việc đưa quân về hộ vệ vào tháng 11. Có lẽ vào tháng nầy (21/12 – 18/1/1787), quân Chỉnh đã vào địa phận Thanh Hóa, đánh bại quân Trịnh sai vào ngăn cản, giết tướng Lê Trung Nghĩa, bắt Phan Huy Ích ở Đan Giáp, huyện Ngọc Sơn (LQKS).

Triều đình chúa tan rã: Đinh Tích Nhưỡng rút về Hải Dương, Hoàng Phùng Cơ rút về Sơn Tây; mỗi người lo phòng thủ địa phương mình. Còn lại Bùi Thì Nhuận tạm coi việc binh, Dương Trọng Tế được sai đưa ngăn quân Chỉnh.

Trong tháng 11, Hữu Chỉnh qua Thanh Hóa trấn doanh với Nguyễn Cảnh Thước làm tướng tiên phong. Hoàng Viết Tuyển đã đi đường bể trước, còn Nguyễn Như Thái đi chậm lại sau để mộ thêm quân (LQKS). Tướng giữ Thanh Hoá Nguyễn Trọng Hoãn theo Chỉnh. Các Hoàng thân quận Điển, quận Miễn cũng họp quân với Chỉnh mà ra Kinh.

Cuối tháng 11 (khoảng 15-1-1786), Hữu Chỉnh phá đồn ở sông Thanh Quyết, giết tướng suất Tề. Em chúa, quận Kỳ, thống suất đạo quân cuối cùng của chúa bỏ Châu Cầu chạy về cáo cấp. Dương Trọng Tế được sai đem viện binh xuống chống cũng bỏ chạy về Gia Lâm khi mới ra khỏi Thăng Long (LQKS). Bùi Thì Nhuận coi việc phủ cũng bỏ trốn (HLNTC). Chúa Yến đô cùng vài chục tuỳ thân chạy sang Dương Xá (Gia Lâm). Dương Trọng Tế cho quân hộ vệ đi về hướng bắc, qua sông để đến trú lại làng Quế Ổ, huyện Quế Dương, trọ tại nhà trấn thủ cũ Kinh bắc Nguyễn Trọng Mãi (LQKS), hay Trọng Toại (HLNTC).

Đầu tháng chạp (19-1-1787), Hữu Chỉnh tới Thăng Long. Mồng hai bày quân ở bờ sông. Vua ra duyệt (NAK).

Ngày mồng 8-12 (26-1-1787 HLNTC), vua sai đốt phủ chúa Trịnh để đoạn tuyệt ý phục hưng ngôi chúa (Bản dịch của Ngô Tất Tô chép ngày 8-10, chắc sai. Đây tôi theo bản cũ bằng Hán văn). Nếu lời HLNTC chép đúng thì Chiêu Thống sai đốt phủ liền ngày sau khi chúa Yến đô trốn đi, nghĩa là Chúa trốn ngày 7-12. Nếu vậy ngày Hữu Chỉnh dàn quân ở bờ sông Tây Long không thể là ngày 2-12 như bùi Dương Lịch đã chép trong NAK. Một mặt tôi nhận thấy rằng NAK chép nhiều thời điểm có lý, vả sách ấy là một bản in; một mặt khác, vua có thể nảy ý đốt phủ Chúa khi quân Hữu Chỉnh tới Thăng Long. Vì vậy tôi đã nhận ngày dàn quân là ngày mồng 2 và ngày đốt phủ chúa là ngày mồng 8.

Liền sau đó vua phong Hữu Chỉnh tước Bằng quốc công và giao cầm quyền, lập lại triều đình và sửa soạn trừ đảng chúa. Về phe Yến đô, cũng đang chiêu dụ hào kiệt để đánh Chỉnh. Vì vậy Huy Dao đã thảo bài hịch dẫn trên. Ta hãy trở lại tập Lữ trung ngâm.

4. YẾN ĐÔ VƯƠNG CHỐNG QUÂN NGUYỄN HỮU CHỈNH

79. Mảnh hịch lông mới truyền đạo Bắc
Các chi đà tăng tắc tiến lên
81. Đông thì Tích Nhưỡng, Ninh-biên
Ngọn cờ chú Thạc treo miền ngàn Tây
83. Ấy ai hay cơ trời chửa chuyển
Trận Lãm Sơn được biến ra thua
85. Nghìn tao gió giục buồm đưa
Sông Hàm trở lái, non Đồ đóng quân
87. Bát xã dân hồ tương hiệu thuận
Miền Kinh-môn bảy quận một lòng
89. Vi thần chưng thủa hộ tùng
Khi bồi nhung tướng, khi cung tao đàn.

Thích nghĩa:
79. Hịch lông: hịch truyền rất chóng; có dùng lông gà tháp vào bảng hịch, giơ cao làm hiệu cho ai cũng phải tránh trên đường trạm chạy.
Đạo Bắc: xứ Kinh bắc.

80. Tăng tắc: đều một nhịp, cũng nói tăm tắp.
81. Ng. ch. Tích Nhưỡng là Nhưỡng quận công. Ở Hàm Giang.
Ninh-biên: là Liên-trung hầu ở Chân-châu. Thật ra tước của Tích Nhưỡng là Liễn quận công. Còn Liên trung hầu, thì chắc đó là kiểm Liên đã từng nổi loạn ở Hải Đông (Yên Quảng) với Ba Bá quấy rối vùng bể đời Trịnh Tông. Sau theo Tích Nhưỡng phò Yến đô.

82. Chú Thạc: quận Thạc Hoàng Phùng Cơ rút quân về Sơn Tây. Huy Dao thường dùng tiếng chú để trỏ những nhân vật vào hàng bầy tôi quan trọng. Ng. ch. Thạc vũ hầu.

83. Chưa chuyển: chưa đổi vận xấu ra vận tốt.
84. Lãm Sơn: Tên núi ở phía Bắc làng Quế Ổ. Cũng là tên làng. Quân Chỉnh tới đánh chúa Yến đô ở đây. Chúa thua phải chạy tới Hàm Giang, rồi ra đóng doanh ở Đồ Sơn.

85. Tao: Thuyền, tiếng gọi chung trong khi đếm, cũng như chiếc thuyền.

86. Sông Hàm: khúc sông kề trấn Hải Dương. Hàm Giang là tên làng quán Đinh Tích Nhưỡng.
Non đồ: Đồ Sơn, núi có tháp đời Lý, chạy ra bể Hải Dương.

87. Bát xã: tám xã bọc Đồ Sơn.
Hồ tương: rượu, ý nói dân đem lễ đến chào và theo chúa.

88. Phủ Kinh môn gồm bảy huyện, thuộc trấn Hải Dương.
89, 90.Huy Dao theo hầu chúa, bàn việc binh và giúp làm thi văn.

Thích nghĩa:
97. Thâu thành: hiến lòng thành mà xử.
98. Cần vương: hết sức giúp rập vua trong cơn hoạn nạn. N.c. “Thái Bình là một tên phủ”. Nay là tỉnh. Ý vế nầy muốn nói không những vùng Thái Bình (Bác Trạch thuộc vùng nầy) cần vương mà thôi. Hình như Huy Dao muốn nói lóng việc gì ? Hoặc y không theo chúa tới Bác Trạch chăng ?

99. Đông ngu: người xưa tưởng rằng mặt trời mọc lại một chỗ nhất định trên bể, và đặt tên chốn ấy là Đông ngu (góc đông). Đây vừng Đông ngu nghĩa là mặt trời và trỏ vua Lê.
Vợi: cạn, tiêu mòn. Ý vế nầy là lòng vua giận chúa chưa hết.

100. Bóng ngã cành: có lẽ phải đọc bỗng…N.c: “đánh nhau ở sông Bác Trạch, lại bị thua”. Ý vế nầy là trách Nguyễn Hữu Chỉnh hoặc trách Đinh Tích Nhưỡng ? Nên để ý đến chữ vần đứng thứ tư trong vế thất, tương tự như trong vế 6 chữ vần ở thứ năm trong vế bát.

101. Truân lôi: gian nan
102. Nghĩa vế nầy: chúa trở lại xứ Đông lẻ loi, tránh nạn ở chốn xa xôi. Nên để ý đến lối văn khá cầu kỳ, không rõ ràng, cố ý không nói rõ, của tác giả

CHI TIẾT THỜI SỰ

Vụ Bác Trạch: Ngoài mặt, chúa Yên đô tán dương Đinh Tích Nhưỡng, nhưng trong lòng không yên. May bấy giờ trong các huyện Đông Quan, Chân Định ở ven bể phía nam Đồ Sơn, có nhiều nhóm chống Tây Sơn và Chỉnh, muốn mời chúa xuống vùng ấy. Trong đó có Lân dương hầu họ Phạm người làng Bác Trạch, huyện Chân Định (nay Trực Định). HLNTC viết chữ Dương…là bể, còn các sách khác như LQKS và LTN đều viết chữ Dương nghĩa là khí dương. HLNTC lại cho biết rõ tên hầu là TÔN LÂN, cha tên TÔN SĨ, một đại tương đầu đời chúa Trịnh Doanh đã được phong tước đại vương sau khi mất. Tôn Lân bấy giờ đứng đầu các hào mục vùng Sơn Nam hạ (HLNTC). Y gửi khải mời chúa về đóng tại nhà mình.

LQKS chép: “Lân dương hầu người Sơn Nam tới Đồ Sơn đón. Chúa bèn phát thuỷ sư tiến đóng tại Bác Trạch thuộc Sơn Nam. Người miền biển theo nhiều”. Ta không chắc gì về sự Tôn Lân thân hành tới đón ở Đồ Sơn. HLNTC chỉ chép rằng “khi chúa đến huyện Chân Định có Phạm Tôn Lân lên thuyền yết kiến” mà thôi. Còn Lê Huy Dao, người chứng kiến việc nầy, cũng chỉ ghi:

“Bỗng đạo Nam có khải phụng nghinh…
Qua cửa Lân, ngang sang Bác Trạch
Chú Lân-dương rước xách vào doanh”.

Theo những chứng trên, tôi tin rằng Tôn Lân đã sai người ra Đồ Sơn mời và đón chúa xuống Bác Trạch để tránh sự có thể bất trắc của Đinh Tích Nhưỡng. Về việc nầy, sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục, bắt đầu soạn vào năm 1856 và dùng những tài liệu cũ, đã chép tên Phạm Đình Thiện là người đón Yến đô vương. Đó chỉ là một tên khác của Tôn Lân. Sách ĐNNTC (tỉnh Nam Định) lại chép: Phạm Trần Thiện, con Viêm quận công Phạm Đình Sĩ. Đích xác cũng là Tôn Lân.

Dẫu sao, vào khoảng tháng hai, tháng ba năm ấy (Đinh Mùi 1787), chúa được yên thân. Tích Nhưỡng cũng liều rượt theo chúa, xin gặp mặt để phân trần. Theo HLNTC, chúa hỏi ý Tôn Lân, thì y khuyên Chúa nên tiếp, để dùng thanh thế thuỷ quân còn mạnh như quận Nhưỡng (Hồi 10). Nhờ vậy, hai nhóm hợp tác, truyền hịch khắp ba phủ thuộc Sơn Nam hạ: Thái Bình, Kiến Xương và Thiên Trường; hẹn nhau dấy quân đánh Chỉnh. “Trong khoảng mười ngày, kẻ theo về có tới vài vạn. Hẹn ngày cùng tiến: thuyền chèo đầy sông…Con em các cố gia như Đoàn Nguyễn Tuấn, Phạm Giáp, Nhữ Công Liêu, Đào Như Toản cũng đều mộ hương binh tới hội” (HLNTC 10).

Tham vọng của đảng nhân là kéo về đánh Thăng Long. Nhưng một chướng ngại rất lớn là thuỷ quân của phe Chỉnh đóng ở trấn Sơn Nam, do trấn thủ Hoàng Viết Tuyển điều quản; mà Viết Tuyển là một tay kiệt-hiệt. Theo HLNTC, có du khách từ Kinh sư đến yết chúa, mách các chuyện, có nói rằng Chỉnh kiêu lộng, lòng người li-bạn, Vua cũng ghét sợ; y khuyên chúa gấp tiến binh về đánh. Thuyết khách ấy là ai, và ai đã phái về ? Theo ý tôi, có thể đó là người của đồng bình chương Trương Đăng Quỹ. Đăng Quỹ là một trong rất ít đại thần cũ còn trung thành tích cực với vua Lê. Y lại có quê ở xã Thanh Nê cạnh Bác Trạch là nơi chúa trú. Đăng Quỹ bấy giờ đứng bức hai, ba ở triều nhưng chắc ghét sợ Chỉnh. Một mặt khác, đối với sĩ phu chống Chỉnh, thì quan triều là vào phe Chỉnh; cho nên Đăng Quỹ không dám về quê nhà đón chúa. HLNTC chép rằng: “Đăng Quỹ phụng mệnh đón chúa. Đi đến phủ Tiên Hưng vì đường bị ngăn, không qua lọt nên trở về”. Sau nầy, khi Vũ Văn Nhậm ra đánh Chỉnh, Đăng Quỹ cùng sẽ chạy cùng vua lên vùng Kinh bắc và sau nhà y ở Thanh Nê là một căn cứ của Chiêu Thống trong thời kỳ chống quân Tây Sơn của Văn Nhậm rồi của Phan Văn Lân.

Yến đô vương mới bắt liên lạc với gia thần cũ, Bùi Thì Nhuận, hiện làm đề trấn, cầm quân Kim ngô, tức là quân cảnh sát ở Thăng Long. Thì Nhuận vốn xưa làm trấn thủ Thái Nguyên. Sau lúc quân Tấy Sơn dời bỏ Thăng Long, ý theo phái chúa, đã từng theo lời xui của Trọng Tế, đem quân uy hiếp cung vua để bắt đảng chống Yến đô. Rồi mấy tháng sau, khi quân Hữu Chỉnh sắp kéo đến Thăng Long, những tướng lớn như Phùng Cơ, Tích Nhưỡng đều bỏ chức, thì Yến đô cho Thì Nhuận coi việc quân. Xem đó, ta không khỏi ngạc nhiên thấy Thì Nhuận được an toàn giữ chức cốt yếu cho trị an ở Kinh, bảo vệ hai địch nhân cũ là Chiêu Thống với Hữu Chỉnh. Tôi nghĩ rằng đó là vì bụng Chỉnh muốn chiêu dụ người Bắc hà mà dùng Thì Nhuận cũng như đã cố mời dùng quan Ngự sử Nguyễn Đình Giản như HLNTC đã kể chuyện tường tận trong hồi bảy. Biết đâu rằng Trương Đăng Quỹ đã không che chở Thì Nhuận để kéo bè.

HLNTC chép: “Nhuận bèn mưu với các người thân, đổi hết các lính canh tuần tại các cửa ô. Con Chỉnh là Bái đình hầu rình biết tinh ý, lập tức sai quân bắt Nhuận”. SKTB ghi rằng “chúa sai người bảo Bùi Thì Nhuận làm nội ứng. Sự lộ. Chỉnh tâu vua xin giết Nhuận và vài mươi người đồng đảng. LQKS chỉ nói qua rằng “Nhuận mưu đánh Chỉnh. Sự lộ. Bèn chết”.

Sự nầy xảy ra vào tháng ba (năm Đinh Mùi 1787) đúng như SKTB chép. Liền sau đó, Chỉnh sai trấn thủ Sơn Nam Hoàng Viết Tuyển đem quân xuống Bác Trạch đánh Yến Đô vương. Vì Đinh Tích Nhưỡng chỉ huy bất lực, cho nên toàn thuỷ quân phe Trịnh đã tan trong một trận mà thôi. Cả hai nguồn tin còn lại, LQKS và HLNTC, đều có ghi nhiều tiểu tiết về trận nầy. Tuy đại cương tương tự, nhưng chi tiết khác nhau: địa điểm hơi khác nhau mà về thời điểm thì không sách nào trỏ chính xác.

Nguyễn Bảo, tác giả LQKS chép rằng:
“Thuỷ quân Nhưỡng khi mới tới Bác Trạch, lòng dân hăng hái, thế quân dấy trở lại. Nhưng Nhưỡng kềm chế quân không chịu tiến, đi đòi lương thực về ngồi ăn, không chịu mưu sự đánh giặc. Các hào kiệt mỗi người giữ đạo quân mình, tự lập, cho mình là hơn. Quân không thống nhiếp.

“Viết Tuyển từ trấn Sơn Nam (Hiến, tức là Hưng Yên) đem một trăm thuyền bể qua đánh. Y sai Nguyễn Trọng Khang làm tiên phong, đem mười chiếc tiến thẳng tới cửa sông Bác Trạch (con sông nhỏ chảy từ hạ lưu Nhị Hà gần bể ra cửa Lân và qua phía nam làng Bác Trạch). Tích Nhưỡng sai Ba Bá đem tiền bộ nghinh địch thuyền bể của Khang. Nhân có gió, Nhưỡng bảo quân Liên và Bá (hai tướng nguyên chiếm vùng Yên Quảng. Bản chữ Hán của Toyo Bunko viết Bồng và Bá, nhưng chắc đó là chữ Liên là sen mà lầm ra Bồng vì tự dạng và hội ý hợp) lượn qua lại mà bắn trả. Tuyển tự dẫn quân thuỷ theo sông cả (nhánh Bắc hạ lưu Hồng Hà chảy ra cửa Ba Lát) đi vành rồi theo hạ lưu sông Bác Trạch mà đánh phía sau quân Nhưỡng. Liên tự dẫn bản bộ chắn ngang sông đón đánh. Hai trận (mặt trước và mặt sau) gò nhau khá lâu chưa rõ ai thắng.

“Nhưỡng ở khoảng giữa, trông xa thấy vậy, bèn hăng lên, nói rằng: (Ta là đối thủ với Chỉnh; còn bọn Tuyển sao đủ phải nói đến ! Ta nên đem thuyền nhẹ tự đi bắt Tuyển).

“Nhưỡng bèn bảo các đàn bà con gái trong thuyền phải lên bờ sông. Quân trong các thuyền khác từ xa thấy vậy, đều sợ hãi. Chúng nói với nhau rằng Trung quân đã trốn rồi ! Rồi các quân đều tự tan, tranh nhau lên bờ. Tuyển thừa thế đánh riết. Nhưỡng không thể kềm giữ quân lại; bèn cùng chúa Trịnh chạy mỗi người một đàng…”.

Theo thoại trên, trận thuỷ chiến nầy xảy ra trên sông Lân môt chi nhánh nhỏ của hạ lưu Hồng Hà rất gần bể và cạnh hành doanh của chúa đóng ở Bác Trạch. Những chi tiết đặc sắc, chính xác hữu lý khiến ta tin được. Còn như sách HLNTC thì chép rõ ràng về tiểu tiết nhưng lại không hề nói đến sự quân Chỉnh đánh vành sau trận quân Nhưỡng. Và tuy không nói rõ, nhưng tác giả hình như đặt trận thuỷ chiến nầy trên mặt sông Hồng. Lời HLNTC như sau:

“…Thuỷ quân Viết Tuyển đến sông Ngô Đồng (làng Ngô Đồng thuộc huyện Giao Thuỷ, cạnh nam ngạn sông Hồng bên cửa sông nhỏ, tên là sông Ngô Đồng chảy ra cửa Hà Lãn. Hai chỗ phân lưu của hai sông Ngô Đồng và Bác Trạch chỉ cách nhau chừng năm cây số), mà bộ binh chưa qua đò ở cửa sông Đại Hoàng (khúc sông Hồng Hà ở gần phía bắc Nam Định). Lính canh về báo tin. Nhưỡng đem 200 chiếc tàu bể rất lớn dàn ngang sông, thành hàng chữ nhất. Súng đặt đầu thuyền, trông từ xa thấy như đặt trên thành. Quân Tuyển đến giao chiến; nhưng vì thuyền nhỏ, không địch nổi, bị súng Bảo Long bắn chìm trên sông. Tuyển sợ, muốn lui giữ Hoàng Giang (tức sông Đại Hoàng) để cùng bộ binh bảo vệ nhau.

“Gặp lúc bấy giờ gió Đông nam thổi. Nhưỡng sai tàu bể áp vào hai bờ, buộc thuyền, lên bộ; rồi ra hiệu cho quân chạy lên bờ, theo chiều gió mà bắn xuống thuyền của Tuyển. Nhưng các tướng của y là ô hợp, đi, đứng, tiến, lùi chưa quen hiệu lịnh; lại do dự dật dờ, không ý chiến đấu. Lúc chúng lên bờ, bộ ngũ mất hết thứ tự. Tuyển trên sông thấy thế, hô lên lên rằng: Quân Nhưỡng đã thua rồi ! Rồi quân Nhưỡng sợ hãi, tan tác, tranh đường mà chạy, dày xéo lẫn nhau, không thể kìm hãm được. Các thuyền, tàu đều bỏ lại bên sông; hết thảy đều bị quân Tuyển bắt.

“Quân Lân (Phạm Tôn Lân) ở phía sau, từ xa trông thấy bại binh tan nát, đều bảo nhau rằng Nhưỡng đã bị giặc giết rồi. Chúng đều sợ hãi, tay chân run cầm cập. Lân không thể kìm giữ chúng. Đồng thời chúng đều tan…”

Thật ra, hai thoại ấy có thể coi như là bổ túc nhau và đều chứng thật sự hoàn toàn tiêu tán những binh lực chính quy chống chế độ Hữu Chỉnh. Đinh Tích Nhưỡng chạy tháo thân về ở ẩn ở Hải Dương. Kiểm Liên và Ba Bá cỡi thuyền con rút về Yên Quảng, gắng gây lại một đội thuỷ quân, nhưng sau nầy sẽ bị Nguyễn Trọng Khang tới đánh bại (tháng 10) theo LQKS. Còn Phạm Tôn Lân, thì hộ Chúa đi thuyền thẳng sang phủ Thái Bình, rồi lên huyện Thanh Quan, ở cạnh về phía Bắc.

Vụ Đông Hồ. Bấy giờ ở vùng nầy, các thổ hào nhiều kẻ hưởng ứng lời kêu gọi cần vương, phần để chống với phe đảng Tây Sơn, phần để bảo an địa hạt. Đương thời đã tôn gọi những kẻ cầm đầu ấy là Thái Bình thập bát tướng (LQKS), trong đó người có danh nhất là Bùi Khuông. HLNTC chép tên Trần Mạnh Khuông; SKTB cũng chép như thế, nhưng sách nầy thường theo sát sách kia, cho nên không làm ta tin thêm rằng HLNTC đã chép đúng. LQKS chép tên Bùi Khuông, lại cho biết rõ ràng y là cháu quan tiến triều Bùi Thuyên, người huyện Đông Quan. Tôi tin rằng thoại LQKS là đúng. LQKS thêm rằng: “Khuông ít học nhưng có tài lược. Lúc nhỏ từng giết người rồi bỏ trốn. Đến khi loạn, lại trở về làng gọi dân các tổng xã đoàn kết dân đinh bốn tổng trong vùng Đông Hồ. Đắp luỹ dài dọc sông để tự thủ, rồi dấy quân; lấy tiếng là để đánh Chỉnh, cùng với Nhưỡng làm thanh viện cho nhau. Cả phủ Thái Bình tôn Khuông làm đầu. Ngoài Khuông ra, các kẻ khác đều tầm thường”. Kỳ thật sách ấy còn ghi tên một vài tướng khác trong nhóm ấy: hầu Đắc vũ, cai cơ Biêu và em Khuông là tiền Nhị.

Cơ sở trung ương đóng ở làng Bái Hạ (HLNTC, SKTB). Vùng nầy ở gần bờ bể khoảng giữa hai cửa Trà Lý và Gia Hộ (Diêm Hộ) là một khoảnh đất mới bồi, rất ủng nước, nhiều khe ngòi, chung quanh có sông lớn bọc.

Cuối tháng ba (Đinh Mùi 1787), sau trận Bác Trạch, Phạm Tôn Lân đưa Yến đô chạy sang vùng nầy, được Khuông đón về đóng ở Bái Hạ. Chúa cho Lân làm quân-phủ trưởng lại, Khuông làm hành doanh sứ (HLNTC). Sách nầy có chép lời Khuông giới thiệu đất mình, rằng: “Trước mặt có sông lớn ngăn, (sông Trà Lý ?); ra vào làng chỉ có một đường; lại có khe nhỏ quanh co thông với sông lớn, có thể vận lương. Năm trước binh loạn, đất nầy là chỗ sung yếu ở Đông nam, tôi đã kinh lý một lần, hào luỹ đã chắc…”.

Quả vậy, lúc mới trở lại Thăng Long, khi vừa mới giết Trọng Tế nhưng chưa đánh Quế Ổ, Chỉnh từng đã cho quân lần đầu đánh Đông Hồ (LQKS). Sách ấy chép rằng: “Chỉnh sai con là thủ hiệu Bái đình hầu (Hữu Du) đuổi giặc, đánh luỹ Đông Hồ. Đắc vũ hết sức chống giữ, bắn chết Khánh đức hầu thuộc đạo Vũ-thành. Bái đình hầu bị thương ở cổ, phải lui. Đại đội quân của thống suất Thái lĩnh hầu (Nguyễn Như Thái) tiếp đến. Đắc vũ một mình không có viện, đạn dược hết. Ba mặt quân Thái đánh gấp. Luỹ Đông Hồ bèn bị phá. “Trận nầy có thể coi là lớn; sao HLNTC không nói đến ? Đắc vũ là ai? Phải chăng cũng là Bùi Khuông ? Hoặc giả lại có luỹ Đông Hồ khác ở vùng Kinh bắc chăng ? Dẫu sao, theo chỗ chép trong LQKS thì trận ấy có lẽ xẩy ra vào cuối tháng chạp năm trước.

Vào đầu tháng tư, khởi sự chiến dịch Đông Hồ lần thứ hai và sẽ kéo dài trong bốn tháng. LQKS là sách đã kể lại khá tường tận các trận nầy. NAK cho biết thêm ít điểm làm tăng giá trị xác thực của LQKS. Sách nầy chép rằng:

…”Đã thắng ở Bác Trạch, Tuyển mưu bình định miền duyên hải xứ Sơn Nam. Bèn dẫn thuỷ quân vào cửa bể Gia Hộ (Diêm Hộ thuộc huyện Đông Quan). Chỉnh lại riêng sai hầu Tư trung (Nguyễn Đình Viện), hầu Tải vũ (?) đem quân đi đường bộ đánh dẹp đất các phủ Tiên Hưng, và Thái Bình rồi cùng thuỷ quân của Tuyển vây Đông Hồ.

“Khuông và Viện trước coi cơ Đăng trung, tên Biêu, đem dân đinh bốn tổng Đông Hồ đóng chặt cửa luỹ để tự thủ. Bọn Tuyển đánh hơn một tháng không thắng…Khuông thường sai quân đang đêm lẻn ra ngoài, tập kích quân Tuyển, từng thắng lợi chút ít. Chỉnh bèn phát quân Thăng Long xuống; sai Thái làm tướng giúp đánh…”

Thế là hầu hết các hùng binh đại tướng của Chỉnh đều dồn về Đông Hồ. Thế mà sau ba tháng vây chặt để triệt lương, mà dân chúng cũng không chịu hàng. Vua Chiêu Thống lại phái em ruột mình đem thâm quân và đốc chiến. Việc nầy xảy ra vào tháng bảy. Lời LQKS chép nối rằng:

“Quan quân đánh Đông Hồ đã vài tháng mà không hạ nổi. Quân mệt, của hết. Quân khí rất sút. Thỉnh thoảng Khuông cho quân cảm tử ra đánh quấy. Xét thấy quan quân lão nhược, nhiều tên bị chết, có lắm kẻ bàn nên hãy để mặc Khuông ở đó, rồi sau sẽ tính. Nhưng Tự hoàng (tiếng xưng hô Chiêu Thống) và Chỉnh bàn với nhau rằng: “Dẹp trừ nạn lớn, bọn tiếm ngạnh đã bình. Một mình Khuông cố giữ cô luỹ, dám tự cho mình là kiệt hiệt. Nhân tình các trấn đều nhìn ngóng vào y để xem ai hơn ai kém. Nếu không phá được Đông Hồ thì lấy gì để chế phục thiện hạ”…Bèn sai em vua là Lê Duy Lứu (chữ gồm bộ Thị và chữ Do, đó là cổ dạng chữ Lứu gồm bộ Thị và chữ Lưu là ở lại. Lứu nghĩa là cầu chữa bệnh. Các bản dịch HLNTC đã lầm ra chữ Tụ là ống tay áo gồm bộ Y dễ lẫn với bộ Thị) đem cấm vệ thân binh đi thu mộ nghĩa quân rồi thân đem đi coi việc đánh dẹp…”

HLNTC có nói đến các quân của Viết Tuyển và của Như Thái trong việc đánh Đông Hồ, nhưng không hề nói đến quân của Đình Viện và nhất là đến quân của vị hoàng-đệ nầy. Thế mà sự Duy Lứu được phái đi đốc chiến và rất chắc chắn vì nó liên quan đến đời tư của Bùi Dương Lịch, cho nên được y chép lại khá chính xác trong NAK. Nguyên là, khi Chỉnh mở vụ cử hiền lương phương chính vào tháng giêng (HLNTC), Dương Lịch được sung chức cung phụng ở viện nội hàn (thư ký riêng của vua), mỗi ngày vào giảng sách cho vua nghe. “Khi xong ra, thì hoàng nhị độ Điền quận công đòi về nhà mình để giảng kinh nghĩa. Bấy giờ viên xuất nạp là hương cống người huyện Chân Định. Trương Đình Thụ (con trai đầu quan bình chương Trương Đình Quỹ) thấy Lịch được yêu, thì ghen ghét, đem lời mách với vua rằng hoàng nhị đệ có ý kết nạp bầy tôi. Nhưng vua lại đem lời Đặng Thụ mách lại cho em. Bấy giờ bốn phương đã yên. Chỉ còn Đông Quan chưa phá được. Các tướng hay trương đại thế giặc để đòi công to; cho nên vây đã lâu ngày (mà không phá). Tháng bảy, vua sai hoàng nhị đệ Điền quận công qua đốc chiến; cho Lịch tùy hành nhung vụ. Điền quận cầm đầu các đạo quân đánh, bèn dẹp yên. Khi thắng về, vua cho Lịch hai trăm (phương) lúa và hai mươi (quan) tiền…”(NAK quyển 2, trang 83b).

LQKS cho biết thêm một vài tiểu tiết: “Duy Lứu thân chinh đốc chiến; đóng quân ở Thọ Cao (một làng ở huyện Thanh Quan ở phía tây cách Đông Hồ chừng mười lăm cây số). Bấy giờ các quân đạo Vũ Thành (của các tướng phe Chỉnh) đều cậy có công nên biếng đánh giặc. Khi tiến đánh lại không lập được công trạng. Đến khi nghe Lứu đã đem quân đến, lại sợ rằng thành công sẽ không bởi nhờ mình. Chúng bèn mới họp quân lại tiến đánh. Quân Thái tự Đông bình, quân Tuyển tự Gia hộ, ba mặt đánh dồn lại…Khuông dẫn quân đêm ngày ra sức đánh. Thành côi, viện tuyệt, thế rất quẫn bách. Bọn Tuyển lại mộ được thổ nhân làm hướng đạo, gấp rút chia đường, cùng tiến tới, trèo thành thẳng lên. Em Khuông, tên là tiền Nhị (tiền là tiếng gọi tắt chức vụ hoặc huy hàm; hoặc y giữ nhiệm vụ tướng tiền phong ?) hết sức chống, rồi bị bắt. Lũy bèn bị phá tan. Khuông qua con sông (có lẽ sông Hóa ở phía nam huyện Vĩnh Bảo) trốn sang Hải Dương. Dân chúng còn lại bỏ chạy tan tành. Bọn Tuyển thả binh đốt cướp, không trừ lại một ngọn cỏ”.

LQKS không hề nói đến hành vi của Phạm Tôn Lân và chúa Yến đô trong trận nầy. HLNTC tả cuộc phá vây của tướng Đông Hồ một cách linh hoạt hơn, nhưng cũng hơi khác với LQKS. Lời rằng: Tuyển và Thái từ phía trước phía sau đánh ập lại. Trong đồn, giữ chỗ hiểm mà cầm cự. Hơn mười ngày, không phá nổi, Tuyển bèn dựng rào vây để tuyệt đường vận lương địch. Quân nhà chúa hết miếng ăn, đến nỗi phải đào củ chuối và rễ cây để ăn. Thế rất khốn quẫn. Lân và Khuông lật đật gọi các thủ hạ lại bảo rằng: “Đối với sự sẽ làm ma đói ở Bái Hạ, thì sao chẳng quyết tử chiến một trận để giết vài trăm giặc cho khoái đã ? Chúng bay ai có thể cùng ta thả hết tâm lực, để ta khỏi phụ chúa và chúng bay cũng khỏi phụ ta ? Nếu bị chết thì không phải làm ma mất trung mất nghĩa. Nếu khỏi chết thì huân nghiệp về sau không thể lường được !”. Chúng đều cảm khích. Có hơn trăm người xin theo.

“Sau khi các người định tâm rồi, tất cả đều cỡi thuyền nan theo đường khe đi ra. Nhân khi Tuyển và Thái bất ý, chúng vứt lửa đốt doanh địch. Hai người nầy thảng thốt không thể cự chiến. Lân và Khuông bèn phá vây, đem chúa ra lọt, cướp thuyền nhắm cửa bể mà đi về phía đông. Tuyển dẫn quân đuổi không kịp. Thái thả binh vào Bái Hạ, tha hồ giết-gióc. Trai gái già trẻ, không sót một người. Từ khi việc binh dấy lên, không đâu không bị binh đao; mà cái thảm trạng bị chém giết thì chưa đâu như chỗ nầy”. (HLNTC hồi 10).

Muốn biết dư luận đang thời đối với việc kháng địch oanh liệt của Bùi Khuông và đám dân quân Đông Hồ, ta hãy nghe lời tóm tắt và phê bình của Nguyễn Bảo tác giả LQKS:

“Sau khi loạn (Tây Sơn), dân chúng bốn tổng Đông Hồ suy tôn Bùi Khuông làm trưởng. Dọc bờ sông bao bốn mặt, đắp luỹ dài. Các xã thôn tán mát ở trong. Chia nhau các cửa sông mà giữ một người một nơi. Khuông và Biêu đều chọn người tinh anh mạnh khỏe được vài trăm, để làm thân binh. Qua lại đốc thúc đánh. Mỗi trận thì tuỳ phương tiếp ứng. Nhiều lần đẩy lùi đại đội địch. Chúng không dám phạm đến. Bấy giờ, bọn Tuyển thừa thắng đến cướp đất. Đi tới đâu như gió cuốn. Chỉ có Khuông một mình cầm chống từ đầu tháng tư đến cuối tháng tám…Khuông lấy vài nghìn dân nông thôn chống lại vài vạn quân của bọn Tuyển, mà giữ được ngoài trăm ngày mới thua. Có thể gọi Khuông là một chàng mạnh đó !”.

Quả thật vậy, chống Nguyễn Hữu Chỉnh có biết bao người. Nào đại tướng quận Thạc Hoàng Phùng Cơ, nào thuỷ soái quận Liễn Đinh Tích Nhưỡng, nào đa mưu như tiến sĩ Dương Trọng Tế, nào dũng cảm như tạo sĩ Nguyễn Đình Mãi, cho đến đề lĩnh Bùi Thế Nhuận cầm quân cảnh vệ giữa Kinh đô. Thế mà mới đụng với quân Chỉnh một trận đã tan, hoặc mới mống mưu đã bị giết. Chỉ có Khuông, một tên áo vải, tựa vào lòng dũng cảm của nông dân, biết dung hòa nghĩa cần vương với sự an toàn cho thôn ấp, mới chống nổi với đại quân, gồm những kẻ tuy gốc cũng nông dân, nhưng đã biến thành người của triều đình chỉ chực lập công lĩnh thưởng

Sau thắng trận Đông Hồ, Hữu Chỉnh được thăng tước nhất tự công: Bằng công. Ba đại tướng người Nghệ An tay chân của Chỉnh đều được phong quận công: Viết Tuyển thành quận Quang, Như Thái thành quận Thái, Viết Khang (hoặc Trọng Khang) thành quận Chính. Bấy giờ vào đầu tháng chín năm Đinh Mùi (1787).

Những kẻ bại trận ở Sơn Nam hạ đều chạy lên phương bắc. Đinh Tích Nhưỡng trở về vùng quê quán Hàm Giang. Kiểm Liên và Ba Trá trốn về Đồ Sơn rồi quay về sào huyệt cũ ở Yên Quảng, rồi vào tháng 10, bị thuỷ quân Nguyễn Viết Quang đánh lấy hết thuyền mành, phải chạy vào Thanh Hoá theo tướng Tây Sơn Vũ Văn Nhậm (LQKS). Theo HLNTC thì “Chúa chạy về Hải Dương, rồi với bọn Lân cùng vượt bể đi Yên Quảng, giả xưng là khách buôn, phân tán trọ ở nhà dân châu Vạn Ninh (Mông Cáy). Chưa được bao lâu, vì việc nhà Lân từ giã về. Theo chúa chỉ còn Mạnh Khuông (tức là Bùi Khuông) mà thôi. Hơn tháng, Khuông mắc bệnh mà chết…”

Sau nầy ta sẽ theo dõi đời tị nạn của chúa Yến Đô. Về Phạm Tôn Lân, thì sau theo Chiêu Thống, làm đề lĩnh khi vua được tái lập, rồi tòng vong sang Thanh và cuối cùng được trở về nước năm 1805 (Đại Nam nhất thống chí viết tắt là ĐNNTC). Riêng về Bùi Khuông, thì chắc rằng HLNTC đã chép lầm, vì LQKS kể chuyện rõ rằng một tháng sau (tháng 10), khi Vũ Văn Nhậm kéo quân Tây Sơn ra đến Thanh Hoa, Bùi Khuông về hàng với Viết Tuyển. Lời rằng: “Từ lúc thua trận Đông Hồ, Khuông trốn nấp ở huyện Tứ Kỳ (thuộc Hải Dương, gần Đông Quan). Đến lúc này, tới Sơn Nam hàng với Tuyển. Tuyển bảo đi Thăng Long gặp Chỉnh. Thấy Khuông, Chỉnh rất mừng, lấy lễ tiếp khách mà đãi, hậu thưởng Khuông và khiến gọi bộ khúc cũ để theo quan quân hiệu dụng”. Sự nầy cho ta thấy rằng Khuông thật là một anh hùng tuy đã đối địch kịch liệt với bọn Tuyển, Chỉnh nhưng rất được các người nầy phục trọng, và Chỉnh là một kẻ biết dùng người.

Vụ Thanh Nghệ – Vào tháng 9 năm Đinh Mùi, thế Hữu Chỉnh và triều đình vua Lê hầu như đã khá định. Nhưng cái mối lo to nhất vẫn sờ sờ: binh lực Tây Sơn đã tăng cường ở Nghệ An sau khi sứ bộ Trần Công Xán không những thất bại mà lại còn bị dìm xuống bể.

Những sự kiện lớn trong giao thiệp giữa hai triều Nam Bắc trong năm Đinh Mùi (1787) nầy, các ký tải đều chép như sau: Hữu Chỉnh mật thư với tướng Tây Sơn tên Duệ đóng ở Nghệ An, sự lộ, Duệ trốn về Quy Nhân; Huệ đòi đất Nghệ An và muốn gọi Hữu Chỉnh về Phú Xuân; Chiêu Thống sai Trần Công Xán vào biện bạch lẽ muốn giữ Nghệ An; Huệ sai Vũ Văn Nhậm ra chiếm Nghệ An rồi ra Thăng Long bắt Hữu Chỉnh. Nhưng ngoài việc quân Văn Nhậm kéo ra Bắc, những việc trên không được đặt vào thời điểm nào cho chính xác. Sau đây tôi sẽ cố gắng xác định một vài điểm.

Về phái bộ Trần Công Xán, HLNTC có chép rõ tháng khi về và ngày bị đánh đắm thuyền. Phái đoàn được thả giam rồi đem ra cửa bể Tư Dung. “Tháng ba mùa xuân năm Đinh Mùi, thuyền từ cửa biển Tư Dung trương buồm ra đi, không mấy ngày đã đến cửa bể Đan Nhai thuộc Nghệ An…Nguyệt (tướng Tây Sơn bạn-tống sứ) cùng các sứ thần ghé thuyền vào bờ rồi cùng lên bộ…Sau đó, cả bọn lại lên thuyền ra bể. Vừa ra đến ngoài khơi, Nguyệt bèn sai bọn lái thuyền đục thuyền cho nước vào, làm đắm cả các sứ thần xuống bể. Hôm ấy đúng ngày 11 tháng 4 mùa hè năm Đinh Mùi (27-5-1787)” (HLNTC, hồi 12). Trong bức thư của giáo sĩ Doussin viết ngày mồng 6 tháng 6 – 1787 (21 tháng 4 lịch Lê) có nói “Mới đây có một sứ thần ngoài Bắc vào Nam Hà; người ta không rõ lý do của sứ mạng” (S.Đ. số 9/10 trang 233). Câu nầy khiến ta tin những thời điểm mà HLNTC đã cho biết, nếu LQKS không cho một thoại khác về năm mất của phái đoàn (xem sau). Nhưng ở điểm nầy, HLNTC có phần đúng lý.

Từ đó suy ra thì cuối tháng ba, sứ bộ ra về. Ta lại biết rằng phái bộ vào biện bác với Nguyễn Huệ sự đất Nghệ An vốn không hứa cho Huệ. Huệ giận, đã sai giam các sứ thần, và sai bọn Trần Chánh Kỷ dỗ để dùng Trần Công Xán (HLNTC). Sứ bộ ở lại Phú Xuân bao nhiêu ngày ? Không đâu chép. Lấy lý phỏng đoán thì có lẽ chừng nửa tháng đến một tháng, nghĩa là sứ bộ đã tới Phú Xuân chừng đầu tháng ba. Ta lại biết rằng hành trình từ Thăng Long đến Phú Xuân mất từ 21 ngày đến 31 ngày tuỳ theo lối đi thường hay đi việc quân (Giao Châu chí). Trong một bức thư của giáo sĩ La Bartette viết ngày 23-7-1788 có nói đến chuyện Nguyễn Huệ từ Thăng Long đến Phú Xuân “Đường đi thường mất 20 ngày…”(S.Đ số 9/10 trang 234). Suy từ những số ấy ra, ta thấy rằng sứ bộ ra đi vào khoảng thượng tuần tháng hai năm Đinh Mùi, thời điểm khá phù hợp với sách LQKS chép vào tháng giêng, bởi vì đây có thể chỉ là lúc bàn định mà thôi. Sách SKTB biên vào tháng 3, e là chậm quá.

Lý do sự giết sứ, theo HLNTC, là vì không muốn cho về kể rõ chuyện anh em Nhạc Huệ đang đánh nhau bấy giờ. Sự ấy hợp lý và hợp tính Huệ chú trọng về bí mật quân sự. Vậy những thời điểm liên quan đến sự anh em Tây Sơn đánh nhau năm Đinh Mùi nầy là quan trọng cho sự hiểu rõ các sự kiện khác. Các sử sách tôi được xem không đâu chép rõ ràng, trừ bức thư của giám mục Veren viết ngày 30-6-1788 (S.Đ. số 9/10 trang 237) đã cho biết rằng cuộc chiến tranh bắt đầu từ tháng giêng âm lịch và chấm dứt vào tháng năm. Ấy cũng khẳng định những thời điểm chép trong HLNTC và LQKS về sứ bộ.

Một, sự kiện khác cũng phải đặt đúng trong thời gian, ấy là sự tướng Tây Sơn là Nguyễn Duệ, trấn thủ Nghệ An, đã bỏ doanh đồn để trốn về Quy Nhân, sau khi đã thầm mưu với Hữu Chỉnh để chống Huệ. Không đâu chép rõ thời điểm nầy. HLNTC chép chuyện theo lối bản mạt (nghĩa là phép đầu đuôi: mỗi chuyện được chép suốt từ đầu đến cuối mà không xen chuyện khác vào tuy theo thời gian đáng phải xen) đã kể rằng: vì Vũ Văn Nhậm ra Nghệ An bắt Duệ, nên Duệ đã trốn trước, rồi Văn Nhậm viết thư trách và dọa Chỉnh làm cho Bắc hà nhốn nháo; vì lẽ ấy Chỉnh bàn với vua sai sứ bộ vào Phú Xuân. Theo thoại ấy thì sự Duệ trốn là nguyên nhân, xẩy ra trước, và sự sai sứ là kết quả xẩy ra sau. Sách LQKS chép theo lối cương mục (tóm tắt trước rồi trương bài sau) và theo lối trường biên (theo thời gian chung cho mọi việc, cho nên chép nhân và quả rời nhau). Nhưng khốn nỗi, sách ấy chỉ thỉnh thoảng mới ghi tháng: ví dụ vào năm Đinh Mùi 1787 nầy, chỉ ghi tháng 2 và tháng 10 mà thôi. Sách ấy chép chuyện sai sứ trước tháng 2, và chuyện Duệ trốn sau tháng 2 và sau cả chuyện thi Cát-sĩ mà ta biết chắc là vào tháng 3; còn việc Văn Nhậm ra đóng quân ở Nghệ An (Phù Thạch) thì chép vào tháng 10. Lại theo sách ấy, duyên cớ sự sai sứ là Huệ đã sai người ra đòi đất. Không phải rằng thứ tự thời gian chép trong LQKS là đáng tin cả, nhưng phải chú ý đến chỗ nầy, sách ấy chép chuyện Chiêu Thống sai em đốc chiến Đông Hồ xen vào khoảng giữa sự thi cát sĩ và sự sai sứ, tuy rằng ta biết chắc (xem đoạn trên) rằng sự ấy xảy ra vào tháng 7. Cứ theo thoại cuối nầy thì chuyện Duệ trốn xảy ra sau tháng bảy và trước tháng mười nghĩa là sáu, bảy tháng sau thời điểm hiểu theo thoại trên. Ta phải nhận bên nào gần sự thực ? Ấy mà tôi cố ý đã không kể những thoại kiểu theo các sách ĐNTL (chính biên quyển 2 kỷ I) hoặc ĐNTL (quyển 30) làm kẻ đọc hiểu rằng sự xung đột võ trang giữa anh em Tây Sơn hoàn toàn xảy ra trước năm Đinh Mùi.

Ta hãy tạm gác việc Duệ trốn, để trở lại chính sách của Hữu Chỉnh đối với biên thuỳ miền nam, tức là đối với Tây Sơn. Nói tóm tắt thì Chỉnh muốn tranh thủ đất Thanh Nghệ, nhưng sợ binh lực Huệ và e dè vì vợ con mình và của các tướng quan trọng còn ở trong vùng Tây Sơn.

Khi Hữu Chỉnh đem quân Tây Sơn ra Thăng Long, dân chúng Nghệ An không phản ứng vì bất ngờ. Nhưng đến khi Nhạc Huệ trở về, thì nhiều tổ chức vũ trang lẻ tẻ chặn đường phản kháng. LQKS còn ghi những vụ: đánh Nguyễn Như Thái ở Yên Lưu (Quỳnh Lưu), Bích Vũ (ĐNNTC chép tên Nguyễn Tri Tiến) người xã Hoàng Trường (Đông Thành) chẹn đánh Nhạc ở cầu Tiên Lý, bị giết; dân tổng Nộn Liễu (Nam Đường) đánh úp Nhạc ở núi Đại Huệ (Hưng Nguyên), bị giết tám chín phần mười; Tiến vũ (ĐNNTC chép tên là Nguyễn Đình Tài) người huyện Thạch Hà rình đâm Nhạc trên đường núi Kỳ Hoa.

Khi rút quân về Đàng trong, Huệ để Nguyễn Duệ (hoặc Văn Duệ) ở doanh Nghệ An (có lẽ Vĩnh), Chiêu viễn tức là Vũ Văn Dũng ở Hà Hoa (nam Hà Tĩnh bây giờ) và tả quân Vũ Văn Nhậm ở Động Hải. Nhưng sau đó rút Chiêu Viễn về đóng ở Thổ Ngõa ở phía bắc sông Gianh và rút Duệ về đóng ở Hà Hoa. Có lẽ bấy giờ mưu của Huệ là để Chỉnh cô lập ở phía bắc sông Lam, dễ làm mồi cho dân chúng Nghệ An trừ khử. Vì vậy Chỉnh ban đầu không dám ra khỏi làng mình, là Đông Hải ở huyện Chân Phúc (Nghi Lộc ngày nay). Các sự kiện trên phần lớn rút từ HLNTC và tên đồn Thổ Ngõa thấy chép ở LQKS. Chính quyền Lê Trịnh hình như thiếu mặt ở Thanh Hoa và Nghệ An. Đến tháng 10 (Bính Ngọ 1786), khi thế Chỉnh khá mạnh ở Nghệ An chúa Trịnh đặt những kẻ địa phương làm trấn thủ: Bùi Thế Toại trấn thủ Nghệ An, Lê Trung Nghĩa (quận Mãn) trấn thủ Thanh Hoa. Nhưng khi Chỉnh kéo quân ra Bắc (tháng II), Thế Toại trốn và Trung Nghĩa tử trận.

Thấy Hữu Chỉnh thế lực phồng lên, Huệ phản ứng liền. Bùi Dương Lịch trong NAK kể chuyện rằng: “Khi binh Nghệ An vào hộ vệ, Tây Sơn sai tướng Nguyễn Duệ ra chiếm Nghệ An (Vĩnh doanh), và tướng Nguyễn Đỉnh theo Chỉnh cùng đi Thanh Hoa. Tướng sĩ của Chỉnh tức giận khôn xiết, hăng lên muốn đọ sức thề sống chết đánh quân Tây Sơn. Ban đầu, quân Chỉnh còn mượn dùng quân sắc Tây Sơn ; bấy giờ lại đổi theo chế độ cũ để tỏ quyết tâm. Vì vợ con mình còn ở Thuận Hóa, vả vì việc mình làm chưa được nửa phần, Chỉnh lo xẩy sự bất trắc, bèn uỷ khúc hòa giải cả hai bên”. Khi ra đi, Chỉnh để Nguyễn Như Thái ở lại trấn Nghệ An. Thấy Duệ ra, Chỉnh cũng thầm gọi Như Thái theo ra, chỉ để lại người đại diện là Nguyễn Viện để cọng tác với Duệ (NAK quyển 2 trang 82b và 84b). Dương Lịch kết: “Bởi vậy Nguyễn Đỉnh lưu lại Thanh Hoa. Chỉnh được yên để đi tới Kinh hộ vệ vua. Nhưng mà hai xứ lại vào tay Tây Sơn”.

Vì phải sửa soạn chiến tranh với Nhạc, Huệ lại gọi Nguyễn Đỉnh từ Thanh Hoa về Phú Xuân (NAK, quyển 2 trang 84b). Sự nầy có lẽ xảy ra vào đầu năm Đinh Mùi 1787. Theo LQKS thì lúc ấy có một người làng Nhân Mục, huyện Thanh Trì, mang tước Chử trung tới Thăng Long trình tờ chiếu của Nhạc cất y làm trấn thủ Thanh Hoa, và “xin mệnh vua Lê; Tự hoàng bất đắc dĩ phải bằng lòng”. Liền trước mục nầy, sách ấy chép việc sai sứ vào Phú Xuân, mà giải thích rằng “vì Huệ sai người tới Kinh đòi đất”; rồi chép nối rằng: “vì Huệ sai người tới đòi đất, và thấy xứ Nghệ An trống không, cho nên sai Nguyễn Như Thái trở về trấn thủ”. Có lẽ bấy giờ Duệ đã trở vào doanh Hà Hoa. Tôi nghi rằng người được sai ra đòi đất chính là Chử trung kia. Nếu không phải y thì sao y cần gì phải ra Thăng Long mới được làm trấn thủ Thanh Hoa, tờ chiếu của Nhạc cũng đủ. Có lẽ nhân ra nhậm chức, chúa Tây Sơn lại giao thêm cho y đặc vụ báo cho Hữu Chỉnh biết ý Tây Sơn định cầm giữ hai xứ Thanh Nghệ, chứ không trả lại cho Chiêu Thống. Quê bên cạnh Kim Thành, Chử trung năm trước đã theo Nhạc đi vào Nam; bấy giờ được lĩnh trấn Thanh Hoa, có lẽ lưỡng lự muốn theo cả hai chính quyền, cho nên đã “xin mệnh” vua Lê. Nhưng nếu theo sát lời sách LQKS, thì sự Huệ đòi đất có lẽ xẩy ra sau khi Chử trung tới Thăng Long. Dẫu sao, Hữu Chỉnh cũng không tin Chử trung. Đầu tháng 2 năm ấy (Đinh Mùi 1787) Chỉnh bảo người giả xưng là Huệ sai tới doanh trấn bắt Chử trung mà giết đi. LQKS nói: “Bởi Nguyễn Nhạc mà Chử trung làm trấn thủ Thanh Hoa, chứ không phải bởi ý triều đình. Đến lúc Huệ sai người đòi đất, bờ cõi nam chấn động. Chỉnh sợ Chử cùng giặc họp thế lực; bèn sai người giả xưng rằng Huệ sai tới quân sở rồi giết đi…! Rồi cho Nguyễn Trọng Duật làm trấn thủ Thanh Hoa để thu quân xứ ấy. Duật đóng doanh ở làng Dương Xá, trữ lương, luyện quân để phòng bị”.

Trọng Duật, người xã Nộn Liễu, huyện Nam Đường. Theo LQKS thì y vốn là một viên nho sinh trúng thức, tính hào mại, có mưu lược. Khi Chỉnh khởi binh, đem y đi làm mưu chủ. Về quân mưu quốc kế, y bài vẽ phần nửa. HLNTC cũng chép sự Nguyễn (Trọng Duật) được sai đi trấn Thanh Hoa. Không hiểu vì sao, NAK lại gọi viên trấn thủ nầy là Lê Hằng, vốn làm huấn đạo.

Trong đoạn chép vụ đánh quận Thạc, HLNTC lại chép tên Lê Duật. Hoặc đó là Lê Hằng mà các sách gọi là Nguyễn Duật.

Tuy nói rằng vua Lê bổ Như Thái trấn thủ Nghệ An, Nguyễn Trọng Duật trấn thủ Thanh Hoa, nhưng kỳ thật quân Tây Sơn vẫn đóng một ít nơi ở các xứ ấy: ở Nghệ thì chắc chắn có, còn ở Thanh thì không lẽ Chử trung ra trấn không có quân theo.

Vì vậy Chiêu Thống và Hữu Chỉnh mới sai sứ bộ vào Phú Xuân phân giải về việc các đất ấy. Về việc đi sứ nầy, các sách đều chép khá rõ, nhất là HLNTC. Sách nầy kể lại tỷ mỉ những lời vua tôi bàn với nhau, những lời sứ thần bàn luận dọc đường, những lời đối đáp với tướng Vũ Văn Nhậm giữa đường, những lời biện giải với Nguyễn Huệ, những lời chối dỗ Trần Văn Kỷ. Đây chỉ tóm tắt như sau:

Phỏng chừng thượng tuần tháng 2, Hoàng thân quận Nghiễn Lê Duy Yêu (theo LQKS và NAK, còn HLNTC chép tên An), đồng bình chương Trần Công Xán LQKS chép tên Thước và cấp sự trung Ngô Nho lên đường vào nam. Khi đi đến đầu đất Quỳnh Lưu (Nghệ An), tướng Tây Sơn “chỉ cho ba viên sứ thần và 18 người tuỳ hành qua mà thôi” (HLNTC hồi 9). HLNTC lại nói rằng phái bộ gặp Vũ Văn Nhậm ở doanh trấn Nghệ An (Vĩnh hay là Hà Hoa ?), nhưng sự nầy tôi nghi không chắc. Tới Phú Xuân, Công Xán trao thư Chiêu Thống cho Huệ (xem HLNTC hồi 9). Sau đây là lời sách LQKS: “Huệ xem trong thư có nói rằng: (Đất Nghệ An là đất căn bản của nhà Lê. Các tinh binh cường tướng quê ở đó được dùng để chế phục Bắc hà. Nếu bỏ đất nầy, thì lấy gì làm nước nữa ! Vậy không dám nhận lời yêu cầu). Huệ cả giận bèn giữ bọn quận Nghiễn lại không cho về, mà sai bọn Duệ tiến quân ra đóng ở Nghệ An (Vĩnh) và chiếm lấy đất. Trấn thủ Nguyễn Như Thái lại trở về Thăng Long…”

HLNTC chép rằng sau khi nghe Công Xán biện lẽ rằng Nghệ An là đất cũ của triều Lê, vậy Lê có tranh giành đâu, rằng vua Chiêu Thống và Chỉnh không hề là địch nhân của Huệ, vì Huệ đã bằng lòng sự Chiêu Thống nối vua Lê, và Huệ đã để Chỉnh lại Nghệ An, chứ Chỉnh không hề bỏ Huệ. Công Xán lại ngỏ ý rằng nếu Huệ đem binh ra để chiếm đất thì vua Lê sẽ chống lại. Huệ giận, bèn sai giam các sứ thần. Ngô Văn Sở xin giết bọn Xán. Nhưng Huệ vẫn trọng Xán, sai trung thư lĩnh Trần Văn Kỷ dụ theo dùng, nhưng Xán khảng khái cố từ. Vẫn theo HLNTC, tháng ba năm ấy, Huệ sai đô đốc Vũ Văn Nguyệt lấy thuyền bể tiễn bọn Xán về, nhưng dặn đến bể Nghệ An thì đục thuyền để bọn Xán chết, không thể mách lại tình hình chiến tranh giữa anh em Tây Sơn. HLNTC lại chép chính xác rằng “Hôm ấy đúng ngày 11 tháng 4 mùa hè năm Đinh Mùi (1787). Thế mà LQKS là sách thường đáng tin lại chép khác hẳn rằng: Sau, khi Huệ ra cướp đất Bắc, Huệ sai bọn Nghiễn (Lê Duy Yêu) đi đường thuỷ để về theo. Đến Nghệ An, mật bảo đục thuyền để dìm nước. Hơn 80 người bọn Yêu đều chết đuối”. Ta sẽ thấy một cách chắc chắn rằng năm sau là năm Mậu Thân 1788, Huệ đi ra Bắc vào tháng ba và tới Thăng Long vào cuối tháng tư. Hoặc rằng HLNTC chép ngày tháng đúng nhưng lầm một năm ? Nhưng những chi tiết trong sách ấy như sự Huệ tiễn tặng một trăm nén bạc gọi là quà của Ngọc Hân và sự Huệ hẹn sẽ gặp lại ở Thăng Long để xử trí việc Nghệ An, tỏ rằng tác giả sách ấy đặt việc trở về của sứ thần vào năm vua Lê còn ngự trị. Phải có gia phả họ Trần Công Xán ở làng Yên Vĩ huyện Đông An hoặc họ Ngô Nho ở làng Tri Chỉ huyện Phú Xuyên, thì may gì có thể cất mối hồ nghi nầy.

Dẫu sao thì về phương diện chính trị ngoại giao, thì phái bộ ấy đã hoàn toàn thất bại. Không những thế, theo LQKS thì vì đó mà Huệ sai bọn Duệ “tiến quân ra đóng Nghệ An (Vĩnh doanh) mà chiếm lấy. “Nguyễn Như Thái lại trở về Thăng Long”. Muốn đề phòng sự bất trắc vì Chỉnh, Huệ đã sai một bầy tôi chúa Nguyễn cũ, tên Lê Văn Đức (tức là Huỳnh Đức sẽ giải sau), đã hàng mình, ra đóng ở Diễn Châu để kiểm soát phần bắc Nghệ An (HLNTC, hồi 9). Một tướng thứ ba của Huệ, tên là Nguyễn Linh, đóng đồn Sa Nam tại huyện Nam Đường (nay là Nam Đàn) để kiểm soát miền tây xứ Nghệ

Các việc nầy có thể đã xẩy vào khoảng tháng tư tháng năm năm ấy (1787). Thuyết nầy phù hợp với sự Như Thái, vào chặng nầy, đem bộ đội kinh thành xuống Đông Quan hợp với quân Hoàng Viết Tuyển để đánh Bùi Khuông (xem đoạn trên) và cũng phù hợp với sự Duệ bỏ Nghệ An trốn về Quy Nhân sau vụ sứ Trần Công Xán như LQKS và NAK đều chép, trái ngược với HLNTC.

Vụ Nguyễn Duệ bỏ trốn về Quy Nhân. – Theo thoại LQKS và NAK, tôi đã nhận rằng Duệ dời quân từ miền nam Nghệ An (doanh Cầu ở Hà Hoa) ra miền Trung (doanh Vĩnh) vào khoảng tháng tư, tháng năm. Bấy giờ Vũ Văn Dũng có lẽ không còn đóng ở Bố Chánh ngoại nữa, và có phần đã phải gọi vào đánh Quy Nhân. Vậy án ngự biên thùy bắc, chỉ còn Vũ Văn Nhậm chắc vẫn đóng ở Động Hải. Một sự lạ là trong cuộc bất hòa kịch liệt với anh, Huệ không nghị kỵ con rể Nhạc là Văn Nhậm, và Văn Nhậm cũng không có hành động gì ít ra cũng để hòa giải đôi bên. Sự thật là Huệ đã rút hết quân của Nhạc về để đem vây Quy phủ (Quy Nhân), vì cuộc chiến tranh kéo dài từ tháng giêng đến tháng năm, và quân Huệ bị tử thương rất nhiều. Trong thư của giáo sĩ Doussain viết ngày 6-6-1787 (Xem Sử địa số 9-10, trang 232), có nói: “Nhạc hay tin ấy (tin Huệ tự xưng là Đức Chúa), không bằng lòng và cảnh cáo người em. Nhưng ông nầy không những không vâng lời lại còn mộ một đạo quân 60.000 người đến giao chiến với Nhạc tại Quy phủ. Ông ấy ở đó từ ngày lễ Tro thánh. Họ đã đánh nhau hai lần. Người ta đồn rằng Đức Chúa đã mất đến nửa số quân; điều chứng tỏ việc ông đang gặp khó khăn là việc ông bắt mọi người phải ra trận…” (Đặng Phương Nghi dịch).

Lễ Tro (chứ không phải là lễ Tro thánh), tức là ngày thứ tư bắt đầu mùa chay, nhằm 46 ngày trước lễ Phục sinh (chủ nhật sau ngày vọng đầu tiên sau ngày Lập xuân) năm 1787, thì thấy rằng Binh vương (Huệ đã tự xưng là Tổng quốc chính Bình vương. Trong sách La Sơn Phu tử, tôi đã đọc lầm ra Chính Bình vương. Trần Trọng Kim đã mách tôi sự nầy. Nhân đây xin cải chính) vào Quy Nhân ngày 21 tháng hai Dương lịch, tức là ngày mồng 4 tháng giêng năm Đinh Mùi, thời điểm phù hợp với lời giám mục Veren trong thư, viết ngày 30-6-1788 nói “chiến tranh từ tháng giêng âm lịch và chấm dứt vào tháng năm. Một phần lớn dân Huế tử trận. Sau đó hai anh em chia tay nhau…” (SĐ số 9-10, trang 237).

Bình vương chiếm lấy đất Quảng Nam, rồi rút về Phú Xuân. Và theo dư luận đang thời thì “dự định ra Kẻ Chợ (Thăng Long) để xưng Chúa ở đó”. Việc ấy có thể có lắm vì ông rất quan tâm đến nó. Ông có ba đại thần ở ngoài Bắc (ngoài đèo Ngang) một người ở chợ Vĩnh và hai người ở Bố Chánh” (thư của Doussain, dẫn trên). Người ở Vĩnh là Nguyễn Duệ. Một trong hai người ở Bố Chánh chắc là Vũ Văn Nhậm ở Động Hải. Còn người kia, như tôi đã giải trên, không còn là tướng Chiêu viễn Vũ Văn Dũng, mà rất có thể là tướng tiên phong của Tả quân là Quỳnh ngọc hầu có lẽ mang tên là Đặng Giản (xem sau).

Thấy Duệ ra đóng ở Vĩnh, Hữu Chỉnh rút Như Thái, nhưng vẫn để người lại giao hảo với Duệ. Người ấy là ai ? Như trên đã nói, HLNTC cho rằng Duệ trốn trước khi đi sứ Phú Xuân, cho nên chỉ nói đến người của Chỉnh để lại lúc ra Bắc, nghĩa là vào tháng 11 năm trước: HLNTC chép là Lê Duật (hồi 9). Lời chép rằng: “Rồi Chỉnh nhận được mệnh vua triệu, cất quân ra Bắc, vả lưu người đảng mình, là Lê Duật, theo làm việc với Duệ. Ngày ra đi, hai ba lần đinh ninh dặn phải lấy ý tốt đối đãi để mong làm thân. Duệ cũng đem ý tốt tiễn Chỉnh. Sau khi Chỉnh được trao chính quyền, thường thường gửi thư qua lại, biếu tặng rất hậu. Lại sai người ngầm gọi Duật ra Kinh, thăm hỏi tình hình nước Tây Sơn và dò đoán bản ý của Duệ. Mới hay rằng vua Tây Sơn và Thượng công (Huệ), anh em đã gây việc binh đao. Sau đó, lại được thư của Duệ hẹn sẽ góp sức đánh quân Nam; Chỉnh rất mừng, cho rằng đất Nghệ An có thể liệu chiếm được. Bèn sắm sửa mười nén vàng, mười tấm đoạn, sai Duật đem về yết Duệ, và đem lợi hại, họa phúc mà đe dọa dỗ dành; lại bảo Duệ sai người chiếm giữ đất Nghệ An để ngăn cách Chiêu viễn (Vũ Văn Dũng đóng ở Ngoại Bố Chánh), xây lại những lũy cũ ở Hoành Sơn, rồi lấy sông Gianh làm ranh như việc đời trước. Lúc ấy, thám tử của Vũ Văn Nhậm ở Nghệ An khám phá việc ấy, gấp rút về báo…”

Cần nhắc lại rằng, HLNTC nối chuyện tóm tắt như sau: Văn Nhậm xin ra Nghệ bắt Duệ rồi ra Bắc đánh Chỉnh, nhưng đang bận đánh Nhạc, Huệ chỉ sai Nhậm ra bắt Duệ rồi viết thư mắng Chỉnh để xem Chỉnh phản ứng ra sao. Nhậm ra Nghệ An, thấy Duệ đã trốn mất rồi, viết thư trách Chỉnh. Chỉnh trả lời nhũn nhặn, rồi sai sứ vào Phú Xuân để phân giải. Ta nhận thấy rằng chuyện Lê Duật nếu có thì xảy ra trong vài tháng đầu chính quyền về Chỉnh. Trong giai đoạn nầy, ta khó nhận sự Văn Nhậm đã trở ra Nghệ An, vì còn có Văn Dũng cũng là một đại tướng còn đóng gần Nghệ An hơn. Chỉ có sự bắt Duệ, thì tướng nầy cũng đủ. Sự quan trọng, như tôi đã trình bầy, là ta khó nhận sự Duệ trốn trước khi sứ bộ đi vào Nam. LQKS và NAK chứng rõ điều ấy. Cho đến sự Chỉnh để Lê Duật ở lại Nghệ An cọng sự với Duệ cũng không chắc. Ta đã thấy rằng Duật là một quân sư can-trọng cho Chỉnh lúc ban đầu (LQKS, xem trên), không lẽ lúc mới xuất quân, Chỉnh để lại sau. Bùi Dương Lịch cho biết tên người lưu lại Nghệ An là Nguyễn Đình Viện. Dương Lịch ghi: “Tháng 11 (năm Bính Ngọ 1786) sĩ dân Nghệ An theo Chỉnh vào hộ vệ vua…lưu Nguyễn Như Thái, người Thượng xá làm án trấn và Nguyễn Đình Viện người Mỹ Dụ nguyên làm hiến sát phó sứ Tuyên Quang làm tham nghị việc trấn” (NAK quyển 2, trang 81b). Đoạn sau chép nối: “Bấy giờ anh em Tây Sơn thế lực ngang nhau, dần thành hiềm khích nhau. Vua Chiêu Thống bèn muốn thu phục các đất Nghệ An, Thanh Hoa. Vì vợ con bị Huệ giữ lại, Chỉnh chuyên bàn hòa, bèn sai Duy Ốc, Công Xán và Ngô Nho đi vào xin lại đất hai xứ ấy. Huệ giữ lại, không trả lời. Rồi Huệ tự cầm quân đánh thành Tây Sơn, gọi Nguyễn Đỉnh từ Thanh Hoa về; đêm ngày huyết chiến, tử thương vô kể. Nhạc đóng thành cự thủ. Huệ binh lực kiệt, bèn giảng giải rồi về. Duệ nghĩ mình là tướng cũ của Nhạc cô lập ở Nghệ An, sợ bị Huệ làm hại, bèn kết bè với Đình Viện, sai Viện ngầm thông với Chỉnh, hẹn rằng sau khi việc xong thì sẽ trả lại cho ta đất Nghệ An, và sẽ lâu dài giữ tình lân hiếu. Đình Viện trẩy kinh tâu việc ấy. Vua rất khen, muốn sai tướng cùng Viện về. Chỉnh do dự không quyết, lại sai Đình Viện về Nghệ An trước để liệu ý. Đình Viện về đến Nghệ An, thầm mộ nghĩa sĩ. Chỉnh không ứng binh. Duệ sợ chuyện lộ, bèn đi theo đất Lào về với Tây Sơn (Nhạc), dặn Đình Viện giữ Nghệ An. Duệ có một tỳ tướng tên là Nguyễn Linh còn đóng ở Sa Nam (Nam Đường) không chịu theo Duệ, bèn phản công Đình Viện. Đình Viện thế cô, không viện, cùng hai con đều chết trận”. (NAK quyển 2 trang 84b).

Chép như thế khá rõ ràng: chuyện sứ và chuyện Huệ Nhạc giảng hòa đều trước việc Duệ trốn. Sự giảng hòa kia vào tháng 5 (thư G. M. Veren, xem trên). Vậy Duệ trốn vào sau tháng ấy, đúng như lời chép của Nguyễn Bảo tác giả LQKS. Sách nầy chép vào sau việc em Chiêu Thống đi đốc chiến Đông Hồ, một việc chắc chắn xảy ra vào tháng bảy. Lời chép như sau: “Sai hoàng đế Lê Duy Lứu qua Đông Hồ đốc chiến. Đạo Thanh Hoa bắt được Trịnh Lệ (đã muốn ép Chiêu Thống phong vương). Thuộc tướng ở Sơn Nam là Duyên-phượng hầu bắt được Trịnh Đào (em Yến đô vương từng đã cầm đạo quân cuối cùng ngăn Chỉnh ở Sơn Nam)…Chỉnh sai giết rồi mới tâu…Tướng Tây Sơn, trấn thủ Duệ bỏ Nghệ An, trốn đi Quy Nhân: nguyên Duệ tiến đóng ở Nghệ An được vài tháng; nghe anh em Nhạc và Huệ đem binh đánh nhau, lòng rất bất bình; bèn đem quân bản bộ từ Nghệ An theo đường núi chạy về Quy Nhân”.

Thoại Bùi Dương Lịch đáng tin vì thành tích của Nguyễn Đình Viện đã được biểu dương trong đền Tiết Nghĩa mà vua Tự Đức sai dựng ở Hà Nội để thờ những người có danh vọng nhất đã bị hại trong giai đoạn Tây Sơn. Trong tập Lê mạt tiết nghĩa lục, theo sự điều tra cẩn thận của bộ Lễ chép rằng:

“Đình Viện đậu hương cống đời Lê cũ, giữ chức phó sứ ở ty Thanh hình hiến sát xứ Tuyên Quang. Cuối đời Lê, đang ở lỵ sở, nghe tin nguỵ binh Tây Sơn đến, y dâng sớ xin về, mộ hương binh đánh giặc. Vua Lê sắc cho tuỳ nghi tính liệu việc Nghệ An. Năm Bính Ngọ (1786), y về đến trấn Nghệ An, cắt các con đi chiêu vũ hào kiệt, mộ hương binh, chia nhau giữ các đường hiểm yếu. Cùng binh ngụy đánh, địch không nổi, bèn về quê sắm sửa chiến cụ và trữ lương mộ lính. Năm Đinh Mùi (1787), giặc vây nhà. Đình Viện đem các con, rể và hưong binh cự chiến trong ba ngày đêm. Thế khuất, lực cùng, y cùng các con là hương cống Ngọc Liễn, và Ngọc Triệu, Ngọc Chấn, rể là Thiều Tôn Hiệp đều chết. Giặc chặt các đầu đem đi. Hương binh hơn ba trăm người đều bị giết. Bấy giờ vợ Ngọc Triệu là Hồ Thị Viện tuổi mới hăm mốt, vợ Ngọc Liễn là Vũ Thị Luyện tuổi mới mười bảy đều chưa có con; đều đem thân đi theo lính nguỵ nài xin thủ cấp, đem về hợp táng; rồi ở giữ tiết cho đến ngoài bảy mươi mới bị bệnh mà mất”.

Những lời trên cũng được chép lại trong mục Nhân vật trong ĐNNTC tỉnh Nghệ An. Trong lời khai của bộ Lễ cũng có dẫn sách Lê sử bổ biên, lời chép giống hệt như trong lời NAK. Ta chỉ tiếc rằng hành trạng trên không ghi một thời điểm nào.

Về việc Duệ trốn đi, HLNTC cho biết một điều thêm là có một tướng khác của Tây Sơn cùng trốn với Duệ. Chép rằng: “Mùa đông năm ngoái, Thượng công (Huệ) nghe Chỉnh cầm quân vào bảo vệ vua, sợ có việc biến khác. Liền sai Nguyễn Văn Đức cầm quân ra chiếm đóng Diễn Châu, cùng lĩnh ấn trấn thủ với Duệ, để cùng nhau đùm bọc như môi với răng. Rồi, nghe tin ở cõi nam có việc đánh nhau, Duệ và Đức cùng viết thư cho Chỉnh, mưu với nhau họp quân đưa về Nam, thừa hấn làm loạn, hẹn sau khi thắng trận sẽ trả lại đất ở phía bắc Hoành Sơn. Chỉnh cũng loanh quanh chần chừ chưa quyết. Đến lúc Nhậm biết rõ chuyện, hai người cùng bỏ xứ Hoan (Nghệ An), Diễn mà dẫn quân theo đường núi mà trốn. Duệ về với vua Tây Sơn. Đức vốn là một đại thần triều ta, trước bị người Tây Sơn bắt, phải miễn cưỡng theo làm việc, chứ cũng không vui lòng để nó dùng. Đến bây giờ nhắm phương tây nam, theo đường núi mà gieo mình đi thẳng về nước Xiêm La”.

Lê Văn Đức nầy là ai ? Lại một lần nữa HLNTC chép lầm họ, vì quả có một nhân vật tên ĐỨC đã bỏ Tây Sơn mà trốn sang Xiêm. Ấy là danh tướng của chúa Nguyễn, tên chép ở sử là Nguyễn Huỳnh Đức, trước đó đã bị Nguyễn Huệ bắt được và ép theo rồi Huệ để lại Nghệ An cùng Nguyễn Văn Duệ. Lúc Duệ trốn, Huỳnh Đức cũng trốn theo, nhưng nửa đường bỏ Duệ, trốn sang Xiêm theo chúa mình cũ, vì biết rằng Nguyễn Chủng đang nương nhờ vua Xiêm ở Vọng Các. Cả Đại nam Thực lục Chính biên và Đại nam Liệt truyện đều chép rất dài về sự nghiệp của Nguyễn Huỳnh Đức (ĐNTL chính biên, quyển 4, trang 3a đến 6a và ĐNLT chính biên sơ tập quyển 7 trang 10b đến 17b), tương tự gần nhau, tuy rằng có điểm chính xác khác nhau. Sau đây sẽ dịch lời văn phần ĐNLT liên quan đến vụ trốn cùng Duệ:

“Nguyễn Huỳnh Đức (Hoàng Đức, tôi phiên âm theo tiếng miền Nam kiêng tên chúa Nguyễn Hoàng), người Kiến Hưng thuộc Trấn-định (ĐNTL, còn ĐNLT chép Định-tường là tên mới có từ năm 1808). Nguyên họ là Hoàng. Được ban quốc tính, cho nên gọi là họ Nguyễn Hoàng. Ông tên Châu, làm quan cai đội, coi đội binh thủy Thuộc binh Tam thuyền. Bố tên Lương, cũng làm quan cai đội, coi Thuộc binh Nhất thuyền. Đức có trạng mạo khôi vĩ, khỏe hơn hết mọi người. Người ta tôn là hổ tướng. Ban đầu lệ thuộc Đỗ Thanh Nhân. Sau Thanh Nhân có tội bị giết. Chỉ một mình Đức được tha và dùng. Năm Nhâm Dần (1782), giặc Tây vào cướp, vua chạy đến Lữ-phụ (gò Lữ), Đức cùng bọn Trần Xuân Trạch, Nguyễn Kim Phẩm hộ tùng. Đến khi quân ta lại tập kích, phá được giặc và đuổi đến Trấn-định, thì Đức làm tiên phong, Tôn thất Cốc làm trung quân, tiến đóng ở sông Tứ Kỳ (Ngã tư). Giặc Huệ bày thế trận bối thủy (quay lưng vào sông để khiến quân phải liều chết mà chống) mà đánh kịch liệt. Quân ta phải lui. Ngựa vua sa lầy, Đức xốc vua lên bờ, kéo ngựa lên. Ngựa không tiến, Đức đấm ngựa. Ngựa chạy mau, giặc đuổi không kịp. Lại một đêm, Đức hộ tùng vua trên sông. Phu thuyền báo rằng trước mặt có rất nhiều buồm giặc. Vua muốn lội lên bờ để tránh. Đức cho rằng sông nhiều cá sấu, xin cứ (chèo thuyền) đi thong thả để xem thật hư. Nhìn xét thì ấy là đàn cò trắng đậu ngủ trên cây. Vua ở trong thuyền mệt lắm, gối lên vế Đức mà nằm. Suốt đêm, Đức khua muỗi, con mắt không nhắm…

“Năm Quý Mão (1783), trong chiến dịch Đồng Tuyên, Đức và 500 thủ hạ đều bị giặc bắt. Huệ yêu cái dũng của Đức, bèn thu dùng. Đức muốn trốn về, nhưng chưa có phương tiện. Lòng thường bừng bừng tức tối. Một đêm, ngủ trong doanh của Huệ, trong cơn chiêm bao, Đức la lớn mắng Huệ. Tướng giặc giận, muốn giết đi, Huệ bảo: nó nói mơ thì có tội gì (ĐNTL), không bắt tội, lại lấy nhiều châu ngọc cho, để hòng kéo kết. Nhưng cuối cùng Đức vẫn không bằng lòng.

“Năm Bính Ngọ, (1786), Đức theo Huệ ra đánh An Nam (ĐNTL; tức là Thăng Long; ĐNLT chép Bắc thành, không hợp thời). Khi về, được lưu lại Nghệ An. Trấn thủ Nghệ An, Nguyễn Văn Duệ, vốn là tướng của Nhạc, không thích để Huệ dùng, Đức lừa xui Duệ theo đường núi mà ngầm về Quy Nhân để hội với Nhạc. Duệ tin lời. Lập tức cùng quân mình, hơn 5000, theo đường núi mà đi về nam; sai Đức đem bộ hạ (500 người, theo ĐNTL. Theo sách nầy, quân Duệ cướp xứ Nghệ trước lúc rút) đi tiên phong.

“Đi được hơn mười ngày, Đức sai người (trở lại) cảm ơn Duệ, và nói: (Kẻ sĩ mỗi người có chủ mình. Đức mà không quên chủ cũ mình, cũng như Tướng quân không quên chúa Tây Sơn mà thôi. Vả chăng, chúa cũ là chúa thật. Mệnh trời đã quy (xem bài hịch đánh quận Bằng có trời về người ứng). Nếu Tướng quân muốn quay lưng phía tối, ngảnh về phía sáng, thì có thể đi cùng tôi, mưu dựng công bất hủ. Bằng không thì từ đây Đức xin từ giã).

“Duệ giận Đức đã lừa mình, muốn đặt kế giếtđi. Liền lập tức sai lệnh gấp tới dối rằng: (Lời ông chính hợp ý tôi. Mong ông đợi một chút, chúng ta sẽ (ĐNTL thêm: họp bàn rồi) cùng đi). Đức biết đó là mẹo lừa (ĐNTL nguyên chép dài hơn; thêm rằng: Đức được trả lời, cười mà bảo rằng “Trở lưng hay quay về là chỉ một mình Trấn thủ làm, hà tất phải gặp nhau để bàn”) Đức lại sợ nếu chậm đi thì Duệ sẽ chụp bắt mình. Bèn lập tức nhân đêm, rẽ đi đường khác, bởi lối Lạc Hòn mà qua nước Vạn Tượng, đây trỏ phần đất chứ không phải kinh đô Vientiane. Đường khó khăn quanh co. Quân sĩ hết lương; chỉ hái lá cây mà ăn (Nối đây cả hai sách đều chép một chuyện nghe ra hoang đường, cho nên ĐNTL chép lối phụ chú, còn ĐNLT thì tỏ ý tin hơn). Thình lình thấy một cây lớn.Trên cây thấy chim đậu ngủ hàng vạn. Rình bắt lấy, thì thấy đó là lá cây hóa ra: hai cánh đã thành, nhưng thân và đầu còn dính cành cây. Ăn thấy ngọt ngon. Ai cũng cho rằng Trời báo ứng kẻ trung nghĩa (Hoặc có cây gì quả có nhú hai cánh, trông từ xa tưởng là chim ?). Những bộ lạc dân Man nghe tiếng Đức, cấp cho lương thực. Bèn đi được đến nước Xiêm.

“Lúc đến nơi, vua đã trở về gia Định. Vua Xiêm muốn giữ lại. Đức lấy chết mà thề (không chịu), rồi kể bày tình trạng mình trải gian nguy đi tìm chúa. Khí tức hầm hầm đến nỗi nhổ ra môt cục máu. Vua Xiêm thấy chí ông không thể ép, bèn lấy lễ trọng đãi…”

Nhưng vua Xiêm vẫn cầm giữ Huỳnh Đức lại. Ý chừng muốn dùng, vì các tướng của chúa Nguyễn trong thời kỳ tạm lưu ở Vọng Các đã giúp nhiều cho vua Xiêm trong các chiến sự: đánh lui quân Miến Điện (tháng 2 năm Bính Ngọ 1786 xem ĐNTC như trên, trang 19a, dẹp tụi cướp bể người Đồ Bà, tức là Mã Lai, tháng 3 năm ấy). Vả bấy giờ vua Xiêm cũng bất bình với chúa Nguyễn, vì chúa Nguyễn đã ngầm bỏ Vọng Các mà về nước. Đến mùa thu năm sau (Mậu Thân 1788), chúa Nguyễn mới được tin Huỳnh Đức phải ở Xiêm; bèn sai người mang gạo sang cấp cho và bảo xin vua Xiêm cho chiến thuyền chở lính về nước. Vua Xiêm cấp cho 50 chiếc thuyền, và lưu huỳnh, diêm tiêu, súng”. Tháng giêng năm sau, Kỷ Dậu, 1789, Huỳnh Đức về đến Gia Định (ĐNTL). Về sau, Đức thành một đại tướng rồi một đại thần triều Gia Long. Năm Gia Long thứ 15 (1816), Đức từ không nhận chức Tổng trấn Gia Định rồi mất năm Gia Long thứ 18 (1819).

Xem chuyện trên, ta thấy rằng Lê Văn Đức trong HLNTC chính là Huỳnh Đức hoặc Nguyễn Huỳnh Đức nầy. Tuy chép sai họ, nhưng đây cũng là một thắng điểm của HLNTC. Giá như ta còn có thể tìm gia phả của họ Nguyễn Đình Viện ở Mỹ Dụ (huyện Hưng Nguyên tỉnh Nghệ An) hoặc của họ Nguyễn Huỳnh ở Mỹ Tho và nếu gia phả cho biết ngày kị của Đình Viện hoặc thời điểm của sự Huỳnh Đức bỏ Nghệ An, thì ta giải quyết chắc chắn cái nghi vấn ta đang xét. Nhưng cái chi tiết kể trong hai quốc sử, rằng “Lúc đến nơi (Vọng Các) vua đã trở về Gia Định rồi” cũng đủ cho ta khẳng định rằng thoại LQKS về chuyện Duệ trốn đúng và thoại HLNTC sai về phương diện biến chuyển thời gian.

Số là vua Xiêm bấy giờ là một tiếm vương, mới lên ngôi. Y vốn là tướng Chkkri (Chất Tri) mà vua Xiêm, năm 1781, sai sang đánh Chân Lạp mà quân chúa Nguyễn bảo trợ. Vì vua Xiêm bắt giam vợ con mình, Chkkri xin hòa với tướng Nguyễn để trở về Vọng Các, rồi chiếm được ngôi vua. Năm 1783, quân Tây Sơn đại phá quân Nguyễn ở Gia Định và lùng bắt chúa Nguyễn mọi nơi. Cùng đường Nguyễn Chủng phải chạy ra đảo Phú Quốc, rồi một mặt cho giám mục D’Adran đem hoàng tử Cảnh sang Pháp đình xin viện, một mặt tự thân đi xin viện ở Xiêm (tháng 2 năm Giáp Thìn 1784, ĐNTL). Tháng 6, chúa Nguyễn theo đại quân Xiêm (2 vạn và 300 thuyền) về chiếm lại vùng Hậu Giang. Nhạc được tin, tháng chạp, sai Huệ đem thủy quân vào tiêu diệt hoàn toàn quân Xiêm ở Xoài Mút. Chúa Nguyễn lại chạy ra biển tây nam. Tháng 3 năm sau Ất Tỵ. 1785, được thuỷ quân Xiêm đưa sang Xiêm tị nạn. Rồi ở luôn tại Vọng Các từ tháng tư năm ấy đến tháng bảy năm Đinh Mùi 1787 mới trốn về Gia Định. Chúa Nguyễn ở trên đất Xiêm thế là hơn hai năm. Làm gì mà tin chúa cũ mình tị nạn ở Xiêm không lọt vào tai Huỳnh Đức. Đường Lạc Hòn đi Vĩnh là đường thông lộ xưa nay giữa nước Xiêm và nước ta. Vậy chuyện Đức xui Duệ đi đường thượng lộ về Quy Nhân để có cơ hội trốn sang Xiêm rất có lý, nhưng chuyện Duệ sợ mưu mình với Chỉnh bị bại lộ chắc cũng có, tuy ĐNTL không hề nói đến. Đường thượng lộ nầy chắc là đường theo thung lũng sông Ngàn Sâu qua đèo Mụ Già đến Na Phao rồi một ngả đi sang phía tây đến Savanakhet, Lạc Hòn, một ngả đi về phía nam. Không biết Duệ với 5000 quân có đi lọt hết đến Quy Nhân không và đi lối nào. Còn Huỳnh Đức thì chắc đã theo đường nói trên, có lẽ phải vài tháng mới đến Vọng Các, và đến đó sau khi chúa Nguyễn đã rời, nghĩa là sau tháng bảy. Xem vậy thì Duệ và Đức bỏ Nghệ An sớm nhất cũng vào tháng năm tháng sáu năm Đinh Mùi 1787, và có thể vào sau tháng bảy, như LQKS chép vào sau vụ em vua Chiêu Thống đi coi đánh Đông Hồ. Sự Duệ trốn không thể xảy ra trước vụ sai Trần Công Xán đi Phú Xuân (tháng giêng, hai) như HLNTC kể. Đó là một trong nhiều nhược điểm của sách nầy. Nhưng ta chớ quên rằng sách nầy không phải là một chính sử, nghĩa là tác giả đoạn nầy (Ngô Thời Du) không phải là một sử quan có quyền và thế để điều tra kỹ càng. Những chuyện y chép là những chuyện nghe thấy tự mình hay qua một vài kỉ tải mà thôi.

VŨ VĂN NHẬM RA ĐÁNH BẮC HÀ

103. Nỗi Vương gia đã là thể ấy
Trong Hoàng Thành lại dấy phong trần
105. Khuông vương ví thật Hoàn Văn
Bắc nhung chỉ có đám gần Đông đô
107. Giật tôn Chu kìa ai mượn tiếng
Để chín lần gối biếng chẳng yên
109. Gió nam đưa ngọn cờ chiên
Thuý hoa sớm đã ngự miền Bắc kinh
111. Gẫm quốc tình khá sa nước mắt
Lại nhà thầy BẬT TRỰC có thơ
113. Vi thần lòng rối đường tơ
Họa vần vả gửi đệ tờ dụ văn

Thích nghĩa:
105. Khuông vương: Giúp vua.
– Hoàn Văn: Tề Hoàn Công và Tấn Văn Công là hai trong Ngũ bá đời Xuân Thu được tiếng là có tài phò vua thiên tử : nhà Chu.

106. Bắc-nhung: dân ở ngoài bắc biên Trung Quốc đã uy hiếp và thống trị Trung Quốc nhiều lần. Hai vế nầy ý là: nếu Nguyễn Hữu Chỉnh giỏi thật như Hoàn Công và Văn Công, thì quân ngoại xâm (trỏ Tây Sơn) đâu có thể kéo ra Thăng Long.
– Đông đô: Vừa trỏ kinh đô Đông Chu là Lạc Ấp vừa trỏ Thăng Long.

107. Tôn Chu: tôn Thên tử; ám chỉ Chỉnh đã dùng tiếng phù Lê.
108. Chín lần: dịch Hán ngữ Cửu trùng, trỏ vua; Ý vế nầy: Khiến vua vất vả và ít nghỉ, (gối biếng) không yên.

109. Chiên: chữ Hán nghĩa là thứ da làm bằng lông cừu. Ta gọi con vật ấy bằng chiên. Có chữ đồng âm với chữ trên với nghĩa là hôi. Có lẽ ở đây viết chữ nầy mới đúng. Nhưng ý tác giả là chơi chữ.

110. Thuý hoa: Cờ của vua trang sức bằng lông sả (chả) màu biếc. Văn từ trỏ vua, cũng như cờ chiên trỏ Tây Sơn (màu đỏ).
Bắc kinh: tức là xứ Kinh bắc (đổi ra Bắc Ninh từ 1831). Ý: quân Tây Sơn kéo đến Thăng Long, vua Chiêu Thống chạy lên Kinh bắc. Dưới vế nầy, có nguyên chú: “Bấy giờ Nguyễn Hữu Chỉnh thác danh tôn Lê, quan ngự sử mời Vĩnh Trị (Nguyễn Đình Giản) họ Nguyễn can vua rằng: Vương Mãng bèn chết, chân nguỵ ai hay. Tào Tháo còn sống, gian hùm liền thấy: “quan họ Lê người Hương la (Duy Đản) hặc rằng “hiệu quân Thiết đột là trộm tên đời Thái Tổ (Lê), tên quân Vũ thành là tự sánh với Chu Vương.

112. Nhà thầy: tiếng xưng hô một kẻ ngang hoặc hơi kém mình.
Bật Trực: họ Bùi người cùng họ với Bùi Dương Lịch; lúc quân Nhậm tới đất Bắc, y đang làn thái thường tự khanh, được vua sai làm Sơn nam thâm tán quân vụ, đi dỗ Hoàng Viết Tuyển đánh Nhậm (NAK quyển 2 trang 85b). Nguyên chú: ” Bấy giờ Bùi Bật Trực làm khâm sai tán lý ở đạo Nam”. Hai nguồn phù hợp. Theo NAK, Bật Trực đã liên quan đến can đến việc bỏ Trịnh Tông, việc giết Hoàng Đình Bảo (1782). Có lẽ Bật Trực là bạn quen Lê Huy Dao. Cho nên mới gửi cho bạn bài thơ này tỏ tâm sự chứ có ý gì về chính sự. Lời thơ dịch như sau:

“Sau khi loạn, từng đem trẻ về ở núi;
Không dám hẹn với áo mũ ở Tràng An.
Núi sông từ xưa có nhiều người ẩn giấu vụng thầm.
Tạo hóa như nay thật không cho ta nhàn.
Trên mình áo ướt; ít điều quên được.
Trước mắt kẻ thù trông ghê, giận khó nguôi.
Đây sạch bụi, vắng tăm, cùng ai gặp ?
Trăng sáng, gió trong, ở giữa trời đất.

114. Trái lại, thơ họa của Huy Dao chứa nhiều tư tưởng chính trị và tỏ lòng ông rất lo giúp vua. Ý như sau:

“Hoa và Di từ xưa đã ngăn sông núi;
Mà bây giờ nó chiếm cứ, thì trộm nghĩ không thể yên.
Trên biên giới gồ ghề phương bắc, Vua đang chạy bơ vơ
Cửa Đoan Môn vắng vẻ, rồng đá trơ trọi.
Thăm hỏi Chu, thì thế giặc xem chừng khó toan dẹp.
Khuông phù Hạ thì tôi dám đâu khuây.
Ví như trên sông Trường Giang nầy mà gặp gió gặp nước,
Thì phải giương mảnh buồm đi dẹp loạn cho yên “.

NGUYÊN CHÚ: (Tháng giêng năm Mậu Thân (1/88), giặc Tây Sơn (lầm; bấy giờ Huệ sai Văn Nhậm cầm quân) trở lại cướp. Trọng binh đóng ở Nghệ An. Vua chạy qua sông, lên phương bắc. Vi thần vì vậy soạn bài hịch sau này, vâng gửi cho quan tán lý (Bùi Bành Trực) Nam Đạo, để chuyển đệ tới hành tại Kinh bắc. Được ban tiến triều).

HỊCH DỤ BỐN PHƯƠNG CẦN VƯƠNG ĐÁNH TÂY SƠN

115. Ngã xung nhân nhược viết (Ta trẻ dại nói rằng)
116. Đầu ba giường là đấng quân thần, ghẽ cao thấp, cũng cảm đàn ong kiến;
Chân thiên hạ ấy loài di dịch, đảo dưới trên, chi dong thói muông dê.
118. Lòng hằng dầu sẵn lẽ Trời;
Nghĩa cả phải lo thù nước.
120. Nhà nước ta: LAM SƠN dấy tích,
Hoàng tổ ra uy.
122. Trải bình NGÔ dựng nghiệp bá vương, gồm mười ba đạo mở mang, bốn bề dẹp yên, khôn lượng đức;
Từ diệt MẠC nảy quyền suý phủ, lẻ đôi trăm năm rũ cắp, muôn phương chẳng oán, ấy là ân.
124. Dưới trời đâu cũng tông Chu
Ngoài cõi cớ chi hoạt Hạ ?
126. Áng phong đích mũi hung máu thấp, gươm Tào, một dải nước không trôi;
Chốn kim thang khói ngất biếc tuôn, lửa Hạng, chín từng mây cũng thảm.
128. Tại cức, con đà man mác;
Sào lâm, cái én ủ ê,
130. Vậy hứa hôn, đành Tiên chí muốn chi, chỉn lệ tàn dân, nên cắt ái.
Mà thông sứ, há miễu cung được chớ, cũng toan yên nước, phải liên hòa.
132. Đảo điên nài thói ấy vốn thường
Trọc loạn kể phen nầy là mấy ?
134. Lần cửa không cung êm khoá, giả tôn phù cho đắt chước chỉnh cư;
Chiếc xe viễn tái khua tìm, trá nghinh lập để mua lòng thuỷ phụ.
136. Đường cố đạo hồng mao đỏ rực;
Miền Thần kinh lân giới tanh om !
138. An-nhương dù chẳng Di Ngô Mây, lễ nhạc y quan dời thói cũ;
Tảo-diệt ví không Phiêu-ky, sơn hà thành quách khác nền xưa.
140. Hồ sô phúc Tấn khá làm gương;
Nhung dịch loạn Đường còn để dấu.
142. Vả HOAN ÁI thôi lương lại tính, quấy đã tàn, trong ấy hai châu;
Bằng Kinh đô biến hạ làm Di, hại ắt kịp ngoài nầy các trấn.
144. Bước nước chênh vênh thể ấy;
Lòng người lo liệu làm sao ?
146. Trẻ thơ nên nỗi trở hồng, đường bởi nhất nhân hữu tội,
Tan tác gặp cơn phân loạn, khá thương vạn tính hà cô.
148. Lìa thành tỵ địch, cũng là quyền;
Họp nước phục thù, đà sẵn thế.
150. Ngoài phiên khổn hịch lông sao ruổi, lấy Sóc-phương làm chốn thu binh;
Dưới hành doanh cờ nghĩa gió lay, trở Nhị thuỷ định ngày phản bái.
152. Tổ đức, tông công, đành rạnh đó;
Trung thần, nghĩa sĩ lạc loài đâu ?
154. Kẻ đỉnh chung từng nặng quân ân, thuỷ lôi ấy kinh luân đại hội;
Miền điền tỉnh cũng nhừ Đế-lực, cần bộc là thi báo hằng tình.
156. Ví hay cọng tế gian nan;
Thể ắt dữ đồng hưu khánh.

NGUYÊN CHÚ: Năm Mậu Thân, tháng mạnh xuân, vi thần khâm soạn.

Thích nghĩa:
115. Câu chữ Hán nầy để bắt chước những lời cáo đời Ân chép trong Kinh Thư.
116. Ba giường: vua tôi, cha con, vợ chồng.
– Ghẽ: chia. Ý là chia ra bậc vua cao, bậc tôi thấp, dẫu loài ong kiến cũng biết.

117. Di Dịch: dân ở ngoài miền gốc Trung Quốc đời Hạ Ân: Di ở phía đông. Địch ở phía Bắc. Tiếng trỏ chung những dân ngoài xứ mình mà mình tự hào tưởng chỉ mình văn minh.
– Chân thiên hạ: phần kém thấp nhất trong thiên hạ.

118. Lòng hằng: lòng theo đạo ai cũng phải theo.
122. Kể công Lê Lợi (Hoàng tổ) bình Ngô, chia nước làm 13 đạo mà cai trị, công đức khó lường hết.

123. Vế nầy ngầm bênh chúa Trịnh.
– Rũ cắp: dịch hán văn thuỳ y củng thủ, trỏ ý đã trao quyền cho chúa, vua được thong dong không phải hành động gì, chỉ ngồi bỏ thòng vạt áo, chắp
124. Tông chu: thờ vua chính. Đời Chu các hầu bá chủ các địa phương, nhưng vẫn tôn kính vua Chu là thiên tử.

125. Hoạt Hạ: quấy nước thiên tử. Tác giả dùng chữ trong kinh Thư: Di Địch hoạt Hạ, nghĩa là dân Di, dân Địch (xem 117) quấy Trung Hoa.

126. Áng phong đích: chiến trường đầy ngọn giáo mũi tên.
– Mũi hung máu thấp: mũi giáo mũi tên đỏ vì ướt máu.
– Gươm Tào: gươm của tướng hung tàn như Tào Tháo.

127. Chốn kim thang: nơi kinh đô, thành vững như sắt (kim), hào khó qua như đầy nước sôi (thang).
– Lửa Hạng…: Ý tác giả muốn nói quân Tây Sơn đã đốt cung điện ở Thăng Long như Hạng Vũ đốt cung điện Tần ở Hàm Dương. Nhưng hình như Vũ Văn Nhậm không đốt phá gì. Có lẽ Huy Dao đã nghĩ đến việc đốt phủ Trịnh chăng; trong bài hịch đánh quận Bằng đã đổ việc ấy cho Chỉnh.

128. Tại cức: ở chỗ gai gốc.
– Con đà: điển lấy sự ở trước cửa cung tại Lạc Dương (kinh đô đời Hán) có tượng lạc đà bằng đồng. Nước Tấn sắp có loạn, Sách Tĩnh biết trước, một hôm trỏ tượng ấy mà bảo: sẽ thấy mầy trong đám gai bụi.
– Man mác: bơ vơ. Thật ra thì ý của Sách Tĩnh là Kinh đô sẽ bị bỏ hoang gai gốc mọc đầy. Đây Huy Dao lại muốn nói vua chạy vạy ở trong rừng bụi.

129. Sào lâm: làm tổ trong rừng. Ý nói vua không ở cung điện mà phải ẩn nấp ở đồng rừng, ví như én không làm tổ dưới mái nhà mà phải làm tổ trong rừng.

130. Hứa hôn: gả vợ. Trỏ sự Cảnh Hưng (tiên chí) gả Ngọc Hân cho Nguyễn Huệ, thì không phải hòng được lợi gì cho mình đâu; mà chỉ sợ giặc làm hại dân, nên đành phải cắt lòng thương con (cắt ái).

131. Miễu cung: thân mọn nầy; tiếng nói khiêm trỏ mình. Ý phân trần sự sai sứ bộ vào Phú Xuân.
132. Nài: kể chi, đó là tự nhiên, đành vậy.
133. Trọc loạn: quấy loạn.

134. Lần cửa không cung êm khoá: mấy lớp cửa cung vắng người, không có triều thần vào ra. Trỏ lúc Hữu Chỉnh cầm quyền.
Chỉnh cư: ngồi địa vị cao mà hợp nghĩa. Chắc tác giả cố ý dùng chữ Chỉnh.

135. Viễn tái: vùng biên cảnh xa Kinh đô. Trỏ sự Văn Nhậm lập Sùng nhượng công tạm làm giám quốc, để mua chuộc dân Bắc mới phụ thuộc mình.
Thuỷ phụ: mới phụ thuộc; trỏ dân Bắc hà đối với Tây Sơn .

136. Cố đạo: đường lúc trước vua quan đi.
Hồng mao: bản nôm viết chữ Hồng là chim hồng.Thật ra thì cờ hiệu quân Tây Sơn dùng lông chim nhuộm đỏ. Nhưng tác giả chơi chữ để đối hồng mao với lân giới cho cân.

137. Lân giới: vảy và vỏ, tiếng chung trỏ cá tôm, tượng trưng loài ti tiện.
138. An nhương: trị nước dẹp ngoài.
-Di Ngô: tên của Quản Trọng một danh nhân có tài kinh luân đời Xuân Thu giúp Tề Hoàn Công nên bá.

139. Tảo diệt: quét dứt sạch.
– Phiêu kỵ: trỏ Hoắc Khứ Bệnh, danh tướng đời Hán đi đánh Hung nô sáu lần, được vua Quang vũ tôn là phiêu kỵ tướng quân.

140. Hồ sô phúc Tấn: trỏ Lưu Uyên một thanh niên ưu tuấn gốc Hồ (sô là con chim quý còn non) được vua Tấn yêu dùng, sau nhân loạn, xưng Hán vương, rồi con đánh đổ triều Tấn.

141. Nhung Kiệt: tên hai dân tộc dị chủng ở Trung Quốc. Nhung ở phương tây, Kiệt là một bộ lạc Hung nô ở đất Tấn. Đây trỏ An Lộc Sơn, Sử Tư Minh vốn người Hồ, nổi loạn đời Đường Huyền Tông.

142. Hoan Ái: Nghệ An và Thanh Hóa, hai xứ bị Tây Sơn trưng lính và thâu lương rất nhiều.
143. Biến Hạ làm Di: đổi sinh hoạt văn minh ra sinh hoạt dã man.

146. Trở hồng: trong nước thì bất hòa (nội hồng), ngoài nước thì bị kình thị (nhất nhân) có tội.
147. Phân loạn: rối loạn.
– Vạn tính hà cô: dân trăm họ nào có tội gì.

148. Tỵ dịch: tránh giặc.
– Quyền: tạm. Để ý đến lối đối âm: quyền đối với thế, nhưng nghĩa không phải oai quyền.

149. Sẵn thế: ý muốn nói rằng cái thế thuận cho sự phục thù là quân Tây Sơn trơ trọi, bị cả nước căm hờn.
150. Nghĩa vế nầy: đã phát hịch cấp tốc (hịch lông sao ruổi; xem chú thích 79) cho các trấn gần biên thuỳ như Lạng Sơn, Thái Nguyên, Cao Bằng (phiên khổn); định trưng quân ở các xứ phương bắc (sóc phương).

151. Đính: hẹn.
– Phản bái: rước cờ quân trở về Kinh, tiến về bờ sông Nhị. Hai vế nầy gần giống hai vế 69 và 70 trong bài hịch đánh quận Bằng.
152. Đành rạch: rành rành, rõ ràng, sờ sờ.

153. Thuỷ lôi: kinh Dịch có câu: Vân lôi đồn, quân tử dĩ kinh luân. Nghĩa là Mây tụ sấm rền: quân tử gặp hội để kinh luân, Vế nầy chắc lấy ý và diễn ở đó. Nhưng bản nôm viết thuỷ chứ không phải vận. Hoặc đó cũng là một thành ngữ khác. Ý là: những kẻ đã ăn lộc nước, thì nay nước bị nạn như mắc cơn giông tố, chính là hội để thi thố tài bát loạn.

154. Cân bộc: văn từ trỏ ý biếu người một vật rất sơ nhưng lòng thành. Ý vế nầy là: những kẻ cày ruộng ở quê, cũng đã được nhà vua che chở, thì nay nên trả ơn (thi báo) bằng cái lễ tuy đơn sơ, nhưng nó tỏ lòng thành luôn luôn (hằng tình).

155. Cọng tế gian nan: cùng nhau vượt thắng mọi sự nguy hiểm khó khăn.
157. Dữ đồng hưu khánh: cùng nhau hưởng vui mừng.

CHI TIẾT THỜI SỰ

Nguyễn Hữu Chỉnh âm mưu chiếm lại Nghệ An, nhưng đã bị thất bại, vì người đồng loã, Nguyễn Duệ, đã bỏ việc trốn đi và kẻ nhậm sự Nguyễn Đình Viện lại bị tướng Tây Sơn, Nguyễn Linh, trừ khử. Hữu Chỉnh chắc cũng biết rằng cuộc xung đột với Nguyễn Huệ sắp đến ngày. Nhưng Chỉnh tính điềm đạm, vẫn không tỏ vẻ lo, không xếp đặt gì cấp tốc để phản ứng sự thất bại kia. Thật ra, từ đầu năm, Hữu Chỉnh cũng đã phòng bị ít nhiều: lấy chuông, tượng ở các chùa đúc tiền để mua lương, mộ người Khách trú làm lính để lập hiệu Thiết kiện, và nhất là sai các kiện tướng dẹp yên các đối thủ trên đất bắc rồi chia quân sai giữ các trọng trấn trên đường nam lai (LQKS). Lê Duật giữ Thanh Hóa, Hoàng Viết Tuyển trấn Sơn Nam, Nguyễn Như Thái án trấn Nghệ An. Ý chừng Bằng công tự phụ mình mưu trí có thể đối địch với dũng khí của Bình vương, đúng như lời y nói với người thân rằng: “Bắc Bình vương là hùng kiệt Nam Hà; ta cũng không thua. Y giảo hơn ta, ta khôn hơn y…”(HLNTC, hồi 10).

Ở Nam Hà, cuộc huyết chiến nồi da nấu thịt tạm ngừng; Huệ nhất quyết trừ khử Chỉnh, vì tức ghét Chỉnh đến tột độ. Theo HLNTC kể lại, Huệ bảo các tướng rằng: “Nguyễn Chỉnh trước là một đồ chết, đã nhờ ta, vẽ mày mắt trở lại cho, nay nó chao liệng ở Bắc Hà, giúp vua Lê và sai khiến cả một nước. Thế mà nó không lo báo ơn ta, lại còn quay lại nhỏ bọt miếng. Nó mưu tranh đất Nghệ An, đặt trọng trấn để bắt chước Trịnh vương, khi trước xâm lấn miền Nam. Thằng giặc này phải giết đi…”

Tháng 9 năm ấy (Mậu Thân 1788), Huệ gọi Hữu Chỉnh về Phú Xuân. Chỉnh trả lời rằng “Bốn trấn chưa yên” cho nên không về được. Tôi chỉ thấy SKTB chép sự nầy vào tháng 9; xét về thời điểm, thấy hợp với những sự xảy ra sau. Việc Huệ muốn hoặc dọa gọi Chỉnh chắc có, và có thể có nhiều lần. Vì vậy mỗi ký tải chép vào một lúc khác.

Hụê ra lệnh cho Vũ Văn Nhậm đang đóng quân ở Động Hải, sửa soạn ra Nghệ An bắt quân rồi tiến đánh Bắc Hà. Trong bài Nhật ký của giáo hội Da tô địa phận Bắc kỳ (Sử địa số 9/10 trang 95) có kể lại rằng trong hai bức thư của giáo sĩ LE BRETON ở xứ Tràng Nứa (cạnh Xã Đoài ở Nghệ An) viết ngày 20 và 23 tháng 11 dương lịch (tức 10 và 13 tháng 10) báo rằng:

“1) Chừng một tháng nay, tướng Vach Quynh đã trở lại xứ Nghệ mộ rất nhiều lính và bắt dân chúng cung cấp một số lượng gạo khá lớn. Với những hành động tối dã man, tên ác quỷ đó thường hay xẻo tai, lột da mặt từ trán cho tới miệng, đánh nhừ tử cho đến chết những xã trưởng hay những người đại diện cho các làng xã không tuân lệnh hắn ngay.

2) Từ hai ba ngày nay, một vị khác, cao cấp hơn, trước gọi là Chương Nha, sau đổi thành Đô đốc, rồi sau cũng gọi là Tiết chế…cũng tới xứ nầy với những 20 hay 25 con voi và bốn, năm ngàn lính Nam Kỳ; chắc là tính tiến lên về phía Kinh thành của quốc vương nầy…”(4)

Tiết chế nói trên thì chắc chắn là Vũ Văn Nhậm. Vậy theo lời trên, Văn Nhậm tới Nghệ An vào khoảng từ 17 đến 21 tháng 11 năm 1787, tức là khoảng 8 đến 12 tháng mười hợp với (TQKS) chép rằng: “Tháng 10, tướng giặc Tây Sơn là tiết độ Vũ Văn Nhậm tiến cứ Nghệ An. Nguyễn Huệ từ Quy Nhân giải binh về, sai Văn Nhậm tiết độ các doanh thuỷ bộ, đem quân tiến đóng ở Nghệ An, trưng binh, đòi lương để lo việc Bắc hà. Nhậm dẫn quân bản bộ đóng ở Phù Thạch, truyền hịch đòi bắt hết quân ở Nghệ An. Quân thế rất thịnh”.

Những lời trên rất ăn khớp với thư của Le Breton. Còn tướng Vach Quynh là ai ? Cũng theo LQKS, nhiều chiến công của Văn Nhậm là nhờ tướng tiên phong Quỳnh ngọc hầu mà cũng có khi chỉ xưng là Quỳnh. Chắc rằng tướng “Vach Quynh” kia đã được sai đầu tiên ra Nghệ, chính là Quỳnh ngọc. Nhưng tôi chưa hiểu âm vach có bởi vì đâu ? Sách Tây Sơn lược thuật (bài dịch của Tạ Quang Phát. S.Đ số 9/10 trang 155) là một ký tải tuy sai lầm nhiều điểm nhưng cũng ghi một vài sự kiện độc đáo tỏ rằng không phải là một nguỵ thư chép lại hay sửa sang một vài bản khác. Theo sách ấy thì “Huệ giận lắm, truyền lệnh ném bọn Nho và Công Xán xuống biển, lại khiến tiết chế Nhậm đốc suất bộ quân, thái uý Điều đốc suất thuỷ quân, đô đốc Đặng Giản làm tiên phong, nhắm kinh Thăng Long tiến phát. “Trong đoạn sau về trận đánh nhau với Như Thái (xem sau). LQKS chép tên tướng Tây Sơn là Quỳnh ngọc còn TSTL thì chép tên Đặng Giản. Vậy có phần chắc rằng Quỳnh ngọc tức là Đặng Giản. Tuy rằng về sau, theo TSTL thì Giản trấn Thanh Hoa mà theo LQKS thì Quỳnh ngọc đóng ở Sơn Nam, nhưng vì hai điều nầy có thể đều có. TSTL lại cho hay rằng Đặng Giản là dòng dõi Đặng Nghĩa Huân người Lương Xá thuộc Thanh Hoa.

Còn hai tiếng trở lại trong bức thư của Le Breton tỏ rằng Vach Quynh đã có lần đến xứ Nghệ, đóng đó và dân đã phải chú ý đến. Trái lại Văn Nhậm đã đi qua xứ Nghệ hai lần với Huệ trong lúc ra về trong vụ đánh Trịnh Khải mà thôi. Có lẽ Văn Nhậm đã sai y ra bắt Duệ, chứ không phải tự mình đi như trong các sách đã lược ghi. Vả hồi tháng 9 năm Đinh Mùi nầy, Huệ đã đặt tướng giữ Nghệ rồi. Chứng là trong bức thư thứ hai mà Huệ sai viết mời Nguyễn Thiếp (LSPT 102), có nói: “sai viên lưu thủ Danh phương hầu Nguyễn Văn Phương và viên binh bộ thị lang Giác lý hầu Lê Tài mang thư và đem lễ vật để chực đón”.

Đến như chính sách tàn khốc để trưng lương bắt lính ở Nghệ An tả trong thư của Le Breton, thì không phải là ngoa. Ta có thể tìm duyên cớ sự ấy. Dân Nghệ An có tiếng từ xưa có tác phong kiên trì trung thực, rất trung thành với sở tín. Mà sĩ phong vốn là trung quân ái quốc, nghĩa là tin Lê là chính nghĩa và Tây Sơn là nguỵ. Địa phương vẫn phản kháng, danh gia tử đệ vẫn ngầm chống. Các tướng lệnh và tinh binh của Lê bấy giờ phần hết là người Nghệ An đã theo Hữu Chỉnh ra phù Lê. Vả một xứ nghèo như Nghệ An, mà từ hai năm rồi đã ba bốn lần đại quân hoặc qua hoặc khởi, nghĩa là bắt người đòi lương. Trong tờ khải Nguyễn Thiếp trình Quang Trung một năm sau, có tả tình cảm xứ Nghệ như sau (LSPT 141).

“Nghệ An đất xấu dân nghèo. Về trước chỉ chịu suất binh, chứ không phải nộp tiền gạo. Nay thì binh lương đều phải xuất. Số lính ngày một tăng bội. Kẻ cày cấy ít, mà kẻ chực ăn nhiều; nuôi riêng lại càng tốn hơn công thuế. Gặp năm mất mùa dịch tật, kẻ thì chết đói, người thì xiêu bạt. Còn lại chỉ mười phần có năm sáu mà thôi…”

Vì tinh thần, vì thực tiễn, dân Nghệ An chống lại sự đòi hỏi của binh đội Tây Sơn. Mà Vũ Văn Nhậm có trọng trách mộ rất nhiều quân ở Nghệ. Cũng theo lá thư của Le Breton thì: Tuy nhiên thượng cấp của ông ta có lẽ chỉ có ý định gửi ông ta ra Bắc để mộ lính, thu gạo và ở đó dò xét hành vi và mọi sự đòi hỏi của Cống Chỉnh và Chiêu Thống…Mục đích của viên tuyển quân Bắc hà là để thay thế các lính cũ của bạo quân Phú Xuân…vì đội ngũ đã bỏ rơi y để theo Nhạc…khiến y phải thu thập trên lãnh thổ nhỏ bé những thành phần thuộc giai cấp hạ lưu, những tay anh chị lưu manh, nông dân, và cấp cho họ khí giới…Sư đoàn do Tiết chế và Vach Quynh chỉ huy được phân tán và đặt vào các cơ đội dân quân tuyển tại các xứ Thanh Nghệ và Bố Chính. Sư đoàn ấy có nhiệm vụ giám sát, bắt buộc những người dân quân phải chiến đấu chống lại anh em họ. Họ tàn sát ngay tại chỗ những ai có khoảng 30 hay một trăm lính Bắc hà…” (S.Đ. 9/10 tr. 196).

Về thuế, Bùi Dương Lịch trong sách Yên Hội thôn chí (LSPT 141, chú thích 3) cho biết rằng dân Thanh Nghệ được tha thuế thân từ năm Bảo Thái Giáp Thìn 1724, Tây Sơn lập lại thuế thân. Thuế ruộng ở Thanh Nghệ cũng tha từ năm đầu Cảnh Hưng Canh Thân 1740; Tây Sơn cũng lập lại: thuế ruộng chừng 22 bát một mẫu, thuế thân thì một quan hai tiền mỗi suất chính đinh.

Nói tóm lại chừng vào đầu trung tuần tháng 9 Đinh Mùi 1787, tướng tiên phong của Vũ Văn Nhậm, Quỳnh ngọc hầu Đặng Giản, trở ra Nghệ An bắt quân, đòi lương. Khoảng mồng 10 tháng 10, Vũ Văn Nhậm cũng ra đóng đại quân ở Phù Thạch, trên bờ nam sông Lam, chỉnh đốn quân sĩ và nghe ngóng tin Hữu Chỉnh. Dân Nghệ An rất bị cưỡng bách nộp thuế tòng quân. Vì vậy trong hịch Dụ bốn phương cần vương Lê Huy Dao đã viết:

“Vả Hoan Ái thôi lương lại lính; quấy đã tàn trong ấy hai châu”.
Theo LQKS, “Khi Nhậm mới tới Nghệ An, có kẻ bàn rằng Nhậm đóng quân chơ vơ, mới tới, chưa thể mạnh, nên kíp đem quân tới đó cùng nó góp chiến. Được, thua đấy, mất là ở một trận ấy, chớ chờ để cho nó góp quân, trữ lương, nuôi thành thế lớn. Nguyễn Như Thái cũng hăng lên,xin đi đánh. Chỉnh lo nghĩ sợ Nhậm. Vả lại, vợ con đều bị giữ nơi giặc, nên không muốn đánh nó. Y còn uốn nắn lời để cầu hoà giải. Trong lòng do dự, hoang mang không kể…” Chắc vì lẽ ấy mà Chỉnh mới có câu trả lời thư hiệu triệu của Huệ rằng: “bốn trấn chưa yên, cho nên không về được” mà SKTB đã dẫn.

Còn Văn Nhậm thì quả quyết hành quân bắt Chỉnh.
” Trong một khoảng thời gian ngắn, Tiết chế đã thành lập một đạo quân có lẽ hơn ba vạn người. Quả nhiên, ông thẳng trỏ Kinh đô, và tới xứ Thanh vào trung tuần tháng chạp dương lịch”. Đó vẫn là lời của giáo sĩ Le Breton. Còn giám mục La Bartette ở Dinh Cát (Quảng Trị) lại ước đạo quân ấy chừng bốn vạn. Xem vậy, Tây Sơn bắt tới chừng hai vạn quân ở Nghệ An. Trung tuần tháng chạp năm 1787 hợp vào khoảng từ mồng 2 đến mồng 10 tháng 11 năm Đinh Mùi. Vậy đầu tháng 11, quân Nhậm ra đến Thanh Hoa ở địa phận huyện Ngọc Sơn, vừa đúng một năm sau khi quân Chỉnh qua đó.

Trấn lỵ Thanh Hoa ở làng Dương Xá (Kẻ Dàng) ở bờ nam sông Mã ở gần phía tây bắc thị xã Thanh Hóa đời sau. Trấn thủ, như ta đã biết là một mưu chủ và bạn thân của Chỉnh. LQKS và các sách khác chép tên Nguyễn Trọng Duật (hoặc Như Duật) tước Nam lĩnh hầu, người làng Nỗn Liễu, xứ Nghệ An. HLNTC chép Lê Duật, riêng Bùi Dương Lịch chép tên là Lê Hằng. Đầu hè, Chỉnh đã sai Duật về Thanh mộ quân trữ lương để phòng thủ. Nhưng, theo NAK, Hằng (tức Duật) vốn là một thư sinh, không quen tướng lược. Nghe Nhậm tới thì rút quân lên phía Bắc. HLNTC hồi 10 chép: “Bố trí xong rồi, Huệ giục Nhậm tiến binh. Ấy vào tháng 11 mùa đông năm Đinh Mùi. Khi Nhậm qua làng Thổ Sơn (thuộc huyện Ngọc Sơn, cách trấn chừng hai ngày đường), trấn thủ Thanh Hoa, Lê Duật, thu quân, rút về giữ Trinh Giang, phi ngựa cáo cấp, trong một ngày chín bận…”Trinh Giang là con sông nhỏ chảy từ sông Mã ra cửa Lạch Trường chắn ngang đường ra bắc. Ở phía nam sông Đò Lèn sâu rộng hơn. KQKS chép tên chỗ Duật rút quân là Lãng Phong; rằng: “Sau khi Nhậm thu góp được quân ở Nghệ An, bèn lấy Quỳnh ngọc hầu làm tiền bộ tiến thẳng ra Thanh Hoa. Trấn thủ là Nguyễn Như Duật dẫn quân lui đóng ở Lãng Phong”. Lãng Phong có lẽ trỏ khóm núi ở phía đông sông Mã và phía tây làng Đại Lý (Đò Lèn) và ở phía bắc Trinh Giang. “Duật dựa vào ba mặt núi mà bày trận, dàn súng trụ bác (có lẽ súng kê lên chân giá) mà bắn. Địch không tiến được, bèn chia quân mà trèo núi xuyên rừng vào mặt sau trận, áp đánh. Duật đem quân xông qua trận để chạy. Vừa ra khỏi Lãng Phong thì quân tan gần hết”. Đó là lời LQKS chép, và thêm rằng Duật đơn thân chạy thoát, sau không biết đi đâu.

HLNTC chép trận nầy hơi khác; rằng: “Duật đóng quân ở Trinh Giang. Nhậm sai người báo rằng: “Ngày mai đại quân sẽ qua sông. Nếu mày có thể đánh thì bày trận mà đợi. Bằng không thì sớm lại hàng”. Bấy giờ quân Nhậm ở phía nam sông. “Trước đó sai Văn Sở đem quân vẹn chân núi đi về phía tây, ngầm qua sông Tất Mã (sông Mã) để đánh phía sau Duật. Duật không biết; tối ấy rút quân rồi đang đêm chạy. Ngày hôm sau đến làng Cao Lũng thì đã thấy quân Sở ở đó. Quân Duật kinh hãi tan bốn bề. Duật bị quân địch giết. Khí giới, quân Nguyễn Huệ đều bị giặc lấy hết”. Xét bản đồ Thanh Hóa, thì nếu quân Nhậm đóng phía nam sông Mã, tức là sông Tất Mã, thì ký thuật HLNTC có thể hợp sự thật. Làng Cao Lũng ở trên đàng quan lộ từ trấn Thanh Hoa đi ra Bắc giữa khoảng Đò Lèn và đền Sòng.

Trận Lãng Phong này xảy ra ngày nào ? Theo Nhật ký Giáo hội đã dẫn, thì “Những trận đụng đầu tiên giữa hai bên xảy ra sau ngày lễ Giáng sinh”. Vậy ta có thể nhận rằng Duật đã bị tấn công vào ngày 26 tháng 12 năm 1787, tức là ngày 18 tháng 11 năm Đinh Mùi.

Trong lúc quân Nhậm tiến chiếm đất Thanh, ở Thăng Long, Bằng công vẫn tỏ vẻ điềm tĩnh. Tháng 10, mở khoa thi Hội, tháng 11, vẫn họp thi đình, lấy ba hoàng giáp: Bùi Dương Lịch, Nguyễn Đăng Sở và Trần Danh Án; và 11 tiến sĩ trong đó có Nguyễn Khuê, bạn thân với Hữu Chỉnh. Nhưng sau khi trấn Thanh Hoa mất, nhân dân và triều đình ở Thăng Long nao núng. Vua Lê sai các quan hội đồng ở nhà Chỉnh để bàn kế công thủ. Theo HLNTC, Chỉnh vẫn ra vẻ chắc mình, nói rằng đã có kế định. Nhưng ngự sở Nguyễn Đình Giản, người Thanh Hoa (làng Vĩnh Trị, huyện Hoằng Hóa) yêu cầu Chỉnh phải trình bày kế hoạch để mọi người bàn. Ninh Tốn, người Sơn Nam (Côi Trì huyện Yên Mô), Nguyễn Bá Lan người Kinh bắc (Cổ Linh, huyện Gia Lâm) đều phụ họa. Chỉnh vẫn thoái thác chưa đáp nên đánh nên hoà. Quan Bình chương Phan Duy Phiên thúc giục Chỉnh phải chọn tướng ra quân. Bấy giờ Chỉnh mới chọn Nguyễn Như Thái làm thống lĩnh, Ninh Tốn làm tham tán quân vụ đưa quân xuống miền nam để hòng ứng với Duật để ngăn quân Nhậm. Việc nầy đã xảy ra khoảng đầu trung tuần tháng 11.

Một mặt khác, Chỉnh khiến trấn thủ Sơn Nam kiêm tướng thuyền binh, Hoàng Viết Tuyển đưa thuyền vào các cửa biển Thanh Hoa đánh phía sau quân Nhậm. Nhưng Viết Tuyển không tuân. Việc này chắc có vì còn nhiều chứng. LQKS chép:

“Từ khi chạy vào Quy Nhân đến khi khởi binh ở Nghệ An, Chỉnh đã cùng Tuyển nương tựa vào nhau. May rủi buồn vui, không có sự gì không cùng nhau chia xẻ. Đến khi Chỉnh định được Thăng Long và Tuyển nhiều lần đánh tan địch mạnh, thì mỗi người giữ lấy quân mình mà tự lập, thoả chí và mãn ý mình. Chỉnh tự kiêu rằng mình khôn ngoan; mà Tuyển tự cậy có chiến công, cho nên so đo địa vị với Chỉnh, thấy trong lòng không mãn nguyện.

“Lúc binh Nhậm đến Thanh Hoa, Tuyển đóng đồn ở Sơn Nam, có thuyền bè hơn trăm chiếc và tinh binh vào các cửa bể Thanh Hoa để quấy sau lưng giặc. Tuyển không bằng lòng, mà còn sai người đòi Chỉnh trao cho mười tám đạo sắc phong tước quận công để trống tên thì mới chịu tiến đánh. Chỉnh nổi giận, nói: “Ta có chết thì chết mà thôi, há lại chịu để cái tước quận công thành rẻ như bèo thế ru !”. Cuối cùng Tuyển không nghe lời, lui quân xuống đóng ở Hải Liêu”.

Một lẽ khác làm Tuyển không muốn đánh Nhậm là gia đình Tuyển cũng như gia đình Chỉnh, đều ở trong vùng bị chiếm. Có lẽ Huệ hoặc Nhậm đã lợi dụng sự ấy để dụ các tướng Chỉnh về hàng. Bùi Dương Lịch trong NAK chứng sự ấy, rằng: “Vua sai Như Thái lĩnh bộ binh, Viết Tuyển lĩnh thuỷ binh đi ngăn giặc. Hai người ấy vốn không thích nhau. Cha Tuyển lại bị Tây Sơn bắt. Viết Tuyển lại muốn ngầm hàng giặc, bèn đem quân ra đóng ỳ ở Hải Liêu, không chịu tiến. Vua sai viên thái bộc tự khanh người xã An Toàn, huyện La Sơn, Bùi Bật Trực làm sơn nam tham tán quân vu, qua dỗ Tuyển. Nhưng Tuyển cũng không nghe mệnh”. Bùi Dương Lịch đồng hương với Bùi Bật Trực (chắc bà con đồng họ), cũng như Ngô Thời Du trong HLNTC, không nói đến sự bất hòa giữa Tuyển và Chỉnh. Thời Du còn không biết đến cả sự Văn Tuyển không tuân mệnh vua sai ra quân. Nhưng một đoạn dài trong Nhật ký giáo hội đã dẫn trên cho biết nhiều điều về Tuyển, chứng rất phù hợp với LQKS: sự nầy làm tăng giá trị hai nguồn tin ấy. Vì chứng ấy quan trọng, nên tôi sẽ dẫn lại lời dịch của Đặng Phương Nghi (5):

“…Trong tình trạng nguy cấp như thế, mà sự bất hoà lại thình lình bộc phát giữa Cống Chỉnh và Đốc Chiên (tức Viết Tuyển) trấn thủ xứ Nam. Sự lủng củng nầy bắt đầu từ sự ghen ghét của Đốc Chiên trước uy danh lừng lẫy của Cống Chỉnh. Đốc Chiên ghép cho Cống Chỉnh tội ban phát những đặc ân phi pháp cho những kẻ tay chân và chỉ nghĩ tiến cử họ, trong khi đó chính mình và bộ hạ mình mới là những kẻ tận tuỵ với việc nước, thế mà lại không được đếm xỉa tới. Vì tham vọng và đố kỵ, Đốc Chiên cho rằng thời cơ thuận tiện để báo thù Cống Chỉnh đã tới, đã định nắm lấy cơ hội ấy. Nhưng ông không nghĩ rằng hành động phản bội của mình, gây tổn hại không những cho địch thủ mình, cho cả nhà Vua nói riêng, và cho nước nói chung; nó còn gây tổn hại cho cả mình nữa.

” Ngày 30 tháng 12 (mồng 4 tháng chạp năm Đinh Mùi), một viên sĩ quan theo Công giáo và chỉ huy một sư đoàn trọng yếu của hạm đội hoàng gia, dưới quyền Đốc Chiên, có viết cho tôi (tức giám mục Veren tên La Bartette) một lá thư trong đó cho tôi hay rằng Đốc Chiên không những không đem quân cản địch, mà ngược lại, còn dự định vượt tuyến vào hàng Tây Sơn (với Huệ ở Phú Xuân). Trước kia, ông ta cùng Cống Chỉnh hợp tác với Tây Sơn; nhờ vậy đã được Tây Sơn cấp cho một thẻ thông hành và một số quân hộ vệ (?).Vì Đốc Chiên đã nhiều lần tỏ ra dũng cảm và am tường chiến thuật của địch, nên lính Bắc hà tin cậy và sẵn sàng tuân lệnh ông ta hơn các tướng khác. Tin tức phản bội đó làm thay đổi tức thì cục diện chiến tranh, vì nó tăng lòng can đảm của quân Tây Sơn gieo kinh hoàng trong đội ngũ lính Bắc hà. Tuy bị bạn bỏ rơi một cách hèn như vậy, Cống Chỉnh vẫn không nổi giận, mà tảng lờ viết liên tiếp mấy bức thư cho Đốc Chiên, nhân danh Vua và tổ quốc yêu cầu từ bỏ ý định tai hại của ông ta, gác mối hận sang một bên (vì lợi ích chung). Nhưng tính kiêu căng và lòng ngoan cố, chung cho những kẻ phản bội, làm ông ta gác bỏ ngoài tai mọi điều khuyên răn…”.

Nói tóm lại, khi nghe Duật đã bị bại vong ở Thanh, Chỉnh cử hai đại tướng của ông là Như Thái và Viết Tuyển đem đại binh ra cản lại: Như Thái cầm bộ binh chẹn ở đèo Ba Dội, và Viết Tuyển cầm thuỷ binh chắn các sông mà thuỷ binh Tây Sơn có thể ngược để lên Thăng Long, hoặc đổ bộ sau lưng địch. Kể ra, nếu các tướng thi hành chóng chiến lược ấy, thì chưa chắc quân Nhậm đã lọt vào Sơn Nam. Nhưng như ta đã thấy, Viết Tuyển không tuân mệnh, lại rút quân ra xa đường tiến của bộ binh địch và hòng đem quân vào Phú Xuân theo Bình vương. Cũng may, hình như Nhậm không có thuỷ binh; cho nên, đậu thuyền ở vùng đông nam, Viết Tuyển được yên ổn không bắt buộc phải đối phó với quân Tây Sơn. Có lẽ vì thái độ Viết Tuyển, Chiêu Thống phải sai Hàm xuyên hầu Đinh Nhã Hành làm kỳ đạo tướng quân đem mười hiệu quan quân xuống Sơn nam hạ đóng ở Võng Độ để ngăn giặc. LQKS cho biết sự ấy, nhưng chép tên tướng là Đinh Văn Hành (nhiều lần) và cho hay rằng Hành là em đường đệ Đinh Tích Nhưỡng, nhưng bỏ Tích Nhưỡng và chúa Yến đô để cùng em là Dẫn về theo vua, rồi được quản binh hiệu Thị trung. Kỳ đạo trỏ đạo quân bất ngờ dùng để tập kích.

Ở mặt trận chính, trước lúc cử Như Thái làm thống lĩnh, Chỉnh đã “kiểm điểm những tướng thuộc bản bộ giỏi đánh trận như Tải Vũ, Triệu Vũ rồi sai hầu Tư Trung (Nguyễn Trọng Hoãn) cầm đầu để làm tiền bộ. Rồi phát hết những quân tinh nhuệ thuộc bản bộ, lại điều động các đạo quan binh, được hơn hai vạn quân. Sai Thái cầm đầu dẫn đi đóng ở đò Gián Khẩu, trên đường quan lộ từ Vân Sàng (Ninh Bình ngày nay) đi Thăng Long “(LQKS). Vân Sàng cách Thăng Long chừng bốn, năm ngày đường.

Theo HLNTC, khi quân Thái đến Châu Cầu (Phủ Lý ngày nay), thì được tin Duật thua trận chết. Vậy Thái xuất quân chừng vào ngày giáp trận ở Lãng Phong, nghĩa là ngày 18 tháng 11. Sách ấy chép trận đánh của hai quân ở vùng Gián Khẩu với một vài chi tiết, nhưng so với LQKS thì không đáng tin bằng. Đại lược, HLNTC (hồi 10) chép rằng: Khi Thái tới Châu Cầu, được tin Duật thua trận chết, gọi gấp Ninh Tốn (tham tán quân vụ) cùng bàn. Tốn đề nghị cấp tiến chiếm lấy đào núi Tam Điệp (đèo Ba Dội). “Thái đồng ý; lập tức chỉnh quân, đang đêm gấp rút tiến. Rạng ngày qua sông Gián Khẩu thì nghe tin quân Nhậm đã vượt qua núi Tam Điệp và Lân đã đem quân tuyển phong đi trước đóng đồn ở Đa Mai cách đồn Thái chỉ hơn vài dặm mà thôi. Thái vỗ ngực kêu to, rồi quay trở lại bên kia sông bày trận thế để đợi. Giặc tới, chia đường ra đánh. Quân Thái chơ vơ, không có viện. Hết sức đánh từ sáng đến trưa; tên đạn đều hết. Quân ở trước cầm ngược giáo mà hàng giặc. Thái liệu chừng không làm gì được, cùng với thuộc hạ vài nghìn, phi ngựa chạy lùi về bắc. Binh giặc đuổi, bắn giết hết sạch. Ninh Tốn chạy trốn vào nhà dân được khỏi chết”.

Theo lời trên, trận đại chiến xẩy ra ở Gián Khẩu, và hình như Thái bị chết. Tuy rằng sách ấy không nói rõ ràng rằng Thái bị giết, nhưng chỉ nói một mình Ninh Tốn khỏi chết, thì hàm ý Thái bị giết. Nhưng theo LSKS, trận đánh ở Điềm Xá và Thái trốn thoát; sau này lại đem quân đánh Tây Sơn rồi bị bắt. Một nguồn tin khác cho hay rằng sau đó lâu, Thái bị chém ở Thăng Long. Vả chăng HLNTC không hề nói đến tướng tiên phong của Nhậm là Quỳnh ngọc, mà lại nói đến Ngô Văn Sở trong trận Lãng Phong đánh Duật, đến Phan Văn Lân trong trận này. Nhưng có phần chắc rằng hai tướng ấy được Huệ phái ra sau khi Nhậm đã chiếm Thăng Long (xem sau).

Sau đây là lời LQKS kể sự Như Thái bại trận ở vùng này, lời xét ra đáng tin hơn cả:

“Thái đến Gián Khẩu, nghe quân giặc đã ra đến quá đồn Cổ Du. Bèn khiến biệt tướng giữ đường cái qua đò Gián Khẩu; tự dẫn đại đội binh mã theo đường phía trên núi kéo ra đò Nghệ, muốn đi vòng sau lưng giặc mà đánh. Tướng giặc là Quỳnh ngọc hầu không đi theo đường chính mà lại dẫn quân đi thẳng tới đò Nghệ. Hai quân gặp nhau ở Điềm xá. Tư Trung Hầu (Nguyễn Ngọc Hoãn) cầm đầu tiền bộ tiến lên quyết đánh. Tiền đội giặc khá núng. Bọn Tư dẫn thủ hạ khinh binh đuổi theo. Các tướng đều bỏ rời rạc trận thế. Giành nhau đuổi giặc, khiến đội ngũ mình không thành hình nữa. Đại đội Quỳnh ập tới, thế mạnh như nước đổ xuống. Bọn Tư liền chết cuống. Tải Vũ, Triệu Vũ thân bị hơn mười lát gươm chém, và tinh binh đều mất hết. Một mình Tư Trung trốn được khỏi chết. Giặc thừa thế xông tới giết. Quân Thái vỡ to. Thái chạy trốn về Gián Khẩu; rồi ban đêm đem tàn quân trốn đi”.

Xét bản đồ địa phương, thấy địa hình rất gắn với chiến sự kể trên. Ta nhận thấy rằng quân Nhậm đi đường bộ qua đèo Ba Dội (cách đèo Đồng Giao mà ngày nay đường sắt và xa lộ qua, chừng bốn cây số về phía đông) theo đường cái nhắm trấn Vân Sàng (tức Thanh Hoa ngoại trấn, cũng là tỉnh lỵ Ninh Bình ngày sau). Tiền quân do Đặng Giản quản chiếm đồn Cổ Du (sau là trạm Ninh Du ở làng Nhân Lý, cách phía nam Vân Sàng chừng nửa buổi đường (mười hai cây số). Bấy giờ, Như Thái từ Thăng Long xuống cũng vừa tới đò Gián Khẩu, trên đường cái quan, cách Vân Sàng về phía bắc cũng chừng nửa buổi đường. Dọc mé tây quan lộ có nhiều núi đá lô nhô. Xen giữa đá có nhiều lối xuyên sơn. Cả hai tướng đối địch đều có ý theo đường núi ấy mà đánh vào lưng địch. Cho nên hai quân đã đụng nhau bên bến đò Nghệ thuộc làng Điềm Xá trên sông Hoàng Long, cách đò Gián Khẩu chừng sáu cây số. Có lẽ tướng tiên phong của Thái là Nguyễn Trọng Hoãn (Tư trung) trúng kế giả thua của địch cho nên bị phục binh đánh tan. Thái chạy về Gián Khẩu. Những sự kiện kể trong HLNTC có thể chắp vào đây, và ta có thể hiểu như sau: trong khi tiền bộ Tây Sơn đi vòng về phía tây, cánh khác vẫn tiến theo chính lộ. Khi Thái chạy về Gián Khẩu, cánh ấy đã tiến tới Đa Mai, ngày nay là La Mai, chỉ cách đò Gián Khẩu chừng ba cây số ở phía nam. Thái muốn cầm cự với số quân còn lại ở bờ bắc đò Gián Khẩu, nhưng quân tan rã. Thái và Ninh Tốn đều chạy thoát. SKTB chép rằng, Thái chạy về huyện Sơn Minh, tức là Sơn Lãng về sau, thuộc phủ Ứng Hòa ở phía tây nam thành Thăng Long. LQKS cho biết rõ hơn: ” Thái chạy về làng Cổ Đế, rồi chiêu tập dân binh dọc núi các huyện Hoài An và Chương Đức. Cuối năm, Thái dẫn dư chúng và quân mới mộ tiến đến chợ Vân Đình ở Ứng Thiện (Ứng Hoà ngày sau). Văn Nhậm sai tướng đón đánh. Quân Thái ô hợp, mới nghe giặc tới đã tan. Một mình Thái đánh, bị bắt giải về Thăng Long. Nhậm giết đi”. Điểm cuối này sai. Nhậm chỉ giam Thái ở Thăng Long. Theo bài Nhật ký của Giáo hội đã dẫn, thì năm sau, sau khi Bình vương ra Thăng Long giết Vũ Văn Nhậm, cũng giết luôn cả Thái. Lời Đặng Phương Nghi đã dịch như sau (S.Đ. 9/10 trang 205):

” Ngày 10 tháng 5 (năm 1788, mồng 5 tháng 4 Mậu Thân), một ngày trước lễ Thánh linh giáng lâm, một vị quan Bắc hà tên là Lê Thái và (là ?) anh (hay em) rể Cống Chỉnh bị quân của Tiết Chế bắt từ trước và bị giam giữ tại Hoàng thành, cũng bị Bắc vương ra lệnh xử trảm…” Có phần chắc rằng Lê Thái này là Nguyễn Như Thái. Nguyễn Như Thái là dòng dõi Nguyễn Xí, một công thần giúp Lê Lợi đuổi quân Minh, sau lại trừ Nghi Dân, lập Thánh tông giữ chức hữu tướng quốc, được ban họ Lê (quốc tính: họ vua). Có lẽ vì vậy mà Như Thái được gọi là Lê Thái chăng ? SKTB lại chép Triệu Như Thái ở hai chỗ. Thái cũng là em rể Chỉnh.

Đó là việc năm tháng sau. Còn bấy giờ Thái vừa thua ở trận Điềm Xá và Gián Khẩu, mà sử thường gọi là trận Trường Yên, tức là tên cũ phủ Yên Khánh. Trận ấy xảy ra vào ngày nào. Ta đã thấy trận Trinh Giang hoặc Lãng Phong ở Thanh Hoa xảy ra vào ngày 18 tháng 11, và sẽ thấy rằng sau trận Trường Yên có trận Thanh Quyết vào ngày 30 tháng ấy. Từ Lãng Phong, đến Gián Khẩu, tuy có núi nhưng không có quân địch, vậy quân Tây Sơn tiến chỉ mất ba bốn ngày là nhiều. Ta có thể ước rằng trận Trường Yên xảy ra vào khoảng giữa hạ tuần tháng 11 năm Đinh Mùi, là ngày đầu năm 1788.

Tin bại trận về đến Thăng Long. Triều đình, nhân dân đều nao núng. HLNTC hồi 10 ghi lại nhiều chi tiết:

“Vũ Văn Nhậm thắng trận rồi liền dẫn quân tiến lên. Tin báo đến. Chỉnh đang ăn cơm, hốt hoảng vứt đũa, đứng dậy, vào nhà trong, kíp gọi Hữu Du tới, bảo rằng: “Chiến tướng ta chỉ có bốn người. Duật, Thái không may đã chết (chắc tin lầm ấy đã toan báo bấy giờ. Tuyển ở Sơn Nam, Thước ở Kinh bắc, gọi thì không kịp. Thế rất gấp. Ta không thể không tự cầm quân. Con nên soạn sửa đầy đủ binh và khí giới, sẽ đi cùng ta. Cha con một lòng thì ngõ hầu nên việc”…

HLNTC chép tường tận lời đáp của Du, lời vợ lẽ Chỉnh xin đi theo chồng, lời Chỉnh gạt đi, lời Chiêu Thống dụ Chỉnh khi trao tiết việt ở điện Cần Chánh, lời Chỉnh tự trấn áp, nói huênh hoang để làm yên lòng vua và mình. Tuy tiểu thuyết hóa một phần, nhưng sự kiện và tâm lý chắc đúng. Ví dụ theo lời vợ lẽ Chỉnh thì “Trăm quan triều đình đều đưa vợ con đi trốn. Trong các công thự đài tĩnh đều trống không”.

LQKS cũng chép: “Sau khi Thái bị thua, trong ngoài chấn động. Chỉnh hoảng hốt xin với Tự hoàng tự cầm quân đánh giặc. Bèn phát hết quân đóng ở Thăng Long. Các hoàng thân và các biệt tướng đều đặt lệ thuộc Chỉnh. Quân số có hơn ba vạn”.

SKTB và NAK đứng lập trường sử quan đều chép: vua sai Chỉnh “Tổng thống thiên hạ binh mã, trao tiết việt, sai ra quân đánh giặc. HLNTC thêm rằng: “Chỉnh lạy từ giã vua. Vua tiễn ra đến cửa Đoan Môn; sắc cho hoàng thân và trăm quan tiễn ra đến Giao (tức là đàn Nam Giao ở mé nam Thăng Long)”. Các kí tải ấy tuy chép nhiều chi tiết, nhưng không hề cho biết thời điểm rõ ràng. Trái lại, giám mục Veren trong Nhật ký giáo hội cho hay rằng Chỉnh lên đường vào ngày 4 hoặc 5 tháng giêng 1788, tức vào ngày 27 hoặc 28 tháng 11 năm Đinh Mùi. Bài ấy mà ta sẽ trỏ tắt bằng NKGH, lại cho biết thêm một chuyện về sự xuất quân nầy: “Cống Chỉnh phải bắt buộc đích thân chỉ huy đội ngũ còn lại, và cấp tốc rời thủ đô để chặn đường và tấn công địch. Trong khi đó, một hoàng thân (cậu hay chú bác vua Lê Chiêu Thống) trước đã được cử đi dẹp giặc và đã gây hoang mang trong dân cư Kinh đô vì đã đào tẩu về một cách quá vội vã. Cống Chỉnh tức giận, muốn trừng trị nghiêm khắc người nầy để làm gương và cảnh cáo các quan và binh lính dưới quyền ông. Vì vậy ông tâu rằng ông chỉ nhận trách nhiệm điều khiển cuộc chinh phạt quyết định sự thành bại của đất nước, nếu thỏa điều kiện phải bêu đầu ông hoàng kia để tỏ hành vi hèn nhát của y…Sau đó, vào ngày mồng 4 (hoặc 5 gì đó) tháng giêng, Cống Chỉnh lên đường.

“Theo nhiều lời đồn thì ông bị ám ảnh bởi điều gở mà ông đã nhận thấy sau khi xem xét các tinh tú (vì ông ta am hiểu cặn kẽ chiêm tinh thuật)…”(S.Đ. số 9/10 trang 199).

Điều kiện Chỉnh đã đặt ra trước lúc xuất quân không trái với thuyết tự mình xin cầm quân, chứ không vì vua ép khiến. Một nhân vật như Chỉnh, tuy xảo, nhưng không phải là hèn. Những sự tin số mệnh tiền định, làm cho những điều cát hung chi phối thì có thật. Điều ấy chung cho hầu hết các người xưa nay, nhất là những kẻ ra trận, Về việc nầy, NKGH khẳng định lời chép của HLNTC như sau:

“Quân Chỉnh đến Hoàng Mai (kề phía nam Thăng Long, cách chừng bốn cây số), sai Hữu Du (con) lĩnh quân cơ Ngũ súng, đi trước, Du đến sông Thanh Quyết, đắp luỹ đất dọc bờ bắc sông; chia quân đóng đồn cố thủ…Chỉnh đi đến làng Bình Vọng tạm nghỉ (trên quan lộ, cách Thăng Long chừng 7 cây số). Thình lình thấy gió nồm hây hây. Một đám mây đen, từ tây nam giăng ngang trời bay lại. Chỉnh ngồi trong kiệu (bản tôi dùng viết kiều trung, chắc nguyên là kiệu trung), mở sách bói được quẻ nói rằng: quốc hữu đại địch, nguyên nhung bại tích (nước có địch mạnh, tướng cầm quân hỏng việc). Ý Chỉnh buồn rầu. Trong khi trầm tư, xảy có một con ong đổ điên vo vo bay tới, đuôi đốt vào bên cổ Chỉnh. Bất ngờ, Chỉnh kinh sợ, ngã xuống. Càng nghĩ thấy các điềm đều xấu, bồi hồi không muốn tiến quân. Vừa lúc ấy, được tin mặt trận Thanh Quyết đã bị vỡ và con Chỉnh đã bị thua to”.

Thanh Quyết là một làng phía bắc đò Gián Khẩu, cạnh quan lộ đi Thăng Long và ở phía nam đò Đoan Vĩ. Khúc sông Đáy chảy từ Đoan Vĩ đến Gián Khẩu gọi là sông Thanh Quyết, chảy dọc phía đông làng. Quân Tây Sơn qua đò Gián Khẩu, đánh Nguyễn Như Thái, rồi định thẳng lên để qua đò Đoan Vĩ, cách Thăng Long chừng 80 cây số, nghĩa là ba bốn ngày đường đi cát hành. Vì vậy tàn quân của Thái còn chống được bên hữu ngạn (bờ đông) sông Thanh Quyết. Ngày 26, Chỉnh sai con là Hữu Du tiến gấp xuống đó tiếp viện. Hai nguồn tin sớm nhất đều có cho biết một ít tiểu tiết. LQKS và HLNTC, ghi những chuyện khác nhau nhiều. HLLNTC sau khi chép sự Hữu Du tới sông Thanh Quyết, đắp luỹ đất dọc bờ bắc sông, chia quân đóng đồn cố thủ, thì chép nối rằng:

“Bấy giờ khí trời rét giá. Quân sĩ đêm đóng ngoài trời; tụ ba tụ năm, đốt lửa ngồi chung quanh sưởi. Lính tuần địch nhờ ánh lửa, từ xa trông thấy, trở về báo. Văn Nhậm sai chia quân cưỡi bè thẳng qua đò đổ bộ ở bến, ngầm xuyên rào chĩa súng bắn, nhằm chỗ lửa làm đích. Không phát nào không trúng. Quân trong luỹ kinh loạn, Du thu quân rút lui về giữ Châu Cầu (Phủ Lý ngày sau); quân mười phần còn hai, ba, không dám nghinh chiến, cũng không dám chạy về. Khi lui khi dừng để đợi hậu quân (tới viện)…”

Ta nên nhớ rằng theo HLNTC, Hữu Chỉnh đóng ở Bình Vọng, còn cách Châu Cầu về phía Bắc chừng bốn mươi cây số; nhưng lời chép ấy không chắc như ta sẽ thấy chứng ở sau.

Trái lại LQKS ám nhận rằng Chỉnh cầm quân gần mặt trận hơn.Vả những chi tiết ghi trong sách ấy cũng hợp lý hơn và được chứng thứ ba, Bùi Dương Lịch khẳng định một phần. Lời chép trong LQKS như sau:

“…Quân số có hơn ba vạn, đem đóng ở đò Thanh Quyết. Nấp sau sông, hạ hơn mười trại.Và sai con mình là Bái đình hầu đem thuyền quân hơn 50 chiếc, chở hết đại bác, hoả khí, tiền, lương, chiến cụ khác đưa hết thảy thuận dòng sông xuống đóng ở cửa sông Thanh Quyết (chỗ giáp lưu với sông Gián Khẩu).

“Bái đình hầu cầm thuỷ quân tiến đến bờ bắc sông Thanh Quyết, cùng giặc đối nhau, cách một con sông. Bái đình không cho mũi thuyền quay về giặc và không nghiêm trận để phòng giữ; lại cho ghé thuyền tự vào bờ đậu, và hoàn toàn không thiết bị. Tướng giặc là Quỳnh ngọc rình thấy thế. Đêm sai người bơi qua sông, lấy thừng dài ngầm buộc vào bánh lái thuyền mà kéo qua bờ nam. Quân trong thuyền tỉnh dậy, kinh hãi, không hiểu lý do ra sao; bèn tan rã, tranh nhau bỏ thuyền, nhảy xuống nước bơi vào bờ.

“Vì vậy, thuỷ quân mất sạch. Hơn 50 chiến thuyền đều bị giặc chiếm. Chỉnh bàn với các tướng rằng: “Thuỷ quân ta không đề phòng. Chiến thuyền, quân tư đều cung cho giặc. Ngày mai, quân ta lấy gì mà đánh. Chẳng bằng lui quân về Châu Cầu để giữ ở đó”. Trong đêm, Chỉnh truyền lệnh gióng trống thu quân. Bấy giờ toàn quân đều kinh sợ. Ai nấy tự tan, tranh xéo nhau chạy trốn, bỏ hết qua giáp đầy khắp đàng sá. Chỉnh và con là Bái đình hầu đem thân-quân mấy trăm người chạy về Thăng Long. Rạng ngày, giặc mới biết, bèn sắp sửa quân, qua sông mà tiến”.

Sự kiện độc đáo quân Tây Sơn ngầm kéo thuyền của Chỉnh về bờ nam được khẳng nhận trong NAK. Sách nầy lại cho biết ngày xảy ra việc ấy. Bùi Dương Lịch chép: “Như Thái đến Trường Yên, đánh bị thua. Quân Tây Sơn đến Sơn Nam. Vua bảo Chỉnh tự cầm quân chống lại ở Sanh Quyết (có lẽ là tên cũ làng Thanh Quyết). Ngày 30 tháng 11, nhân đêm tối, quân Tây Sơn lặn qua sông, ngầm lấy dây buộc vào thuyền quan quân kéo sang bờ nam. Quan quân kinh loạn, bèn tan” (NAK quyển 2 trang 85 b).

NKGH tuy không cho biết gì đến trận Thanh Quyết, nhưng có chép phỏng chừng ngày Chỉnh chạy về Thăng Long. Rằng: “Vả lại Chỉnh cũng biết rằng mình không được lòng quân sĩ. Quả nhiên, khi ông ra đến mặt trận, ông nhận thấy rằng quân đội của ông chỉ chực đào ngũ, hay chưa đánh đã muốn hàng Tây Sơn. Trong tình trạng hiểm nghèo đó, vì ông sợ rơi vào tay Tiết chế (Nhậm), ông đành rút lui một cách kín đáo trong đêm mồng 6 sang mồng 7 tháng giêng (1788, đêm 29 sáng 30 tháng 11 năm Đinh Mùi) để trở về hoàng thành…”.

Nếu đem so sánh các nguồn tin, thì trong trận Thanh Quyết, có hai đặc điểm được mách: quân Tây Sơn lấy bè qua sông rồi bắn vào các chỗ có đốt lửa (HLNTC) và lội qua sông buộc dây vào bánh lái thuyền quan quân mà kéo về bờ nam (LQKS). Như trên đã nói, NAK khẳng định tin kéo thuyền. Còn TSLT (S.Đ. 9/10 trang 157, Tạ Quang Phát dịch) hình như tung hợp cả hai điều. Lời rằng:

“Triều đình được tin báo. Đầu tiên, trên khúc sông gần khe Vân Sàng, bày chiến thuyền và súng để chuẩn bị. Đặng Giản (Quỳnh Ngọc) giả vờ không dám tiến lên, chỉ ven theo bờ sông (nguyên lời dịch là bờ biển, ấy lầm) ngày đêm giương cờ gióng trống. Quan triều đình thấy thế, khinh dễ. Đặng Giản mới ra lệnh cho chặt cây ở rừng ven sông, ném xuống sông cho ngăn dòng nước. Lại lén sai những người lội giỏi, nhân đêm bơi theo những bè gỗ ấy mà qua sông; rình cho quân triều đình ngủ say mới kéo hết các thuyền về phía nam (nguyên dịch phía bắc. Có lẽ đó là chữ bắc (đọc Bối nghĩa ra trở lui về phía mình). Trong đồn Tây Sơn lại nổ súng bắn vào quân triều đình. Quân triều đình tan vỡ mà chạy trốn”.

Tôi nhận thấy rằng có thể dung hoà các nguồn và hiểu sự biến chuyển trận nầy như sau:

Sau trận Lãng Phong ở Thanh Hoa, ngày 18 tháng 11, Văn Nhậm đem bộ binh tiến theo quan lộ, qua đèo Ba Dội, tiến về đò Gián (Gián Khẩu). Nguyễn Như Thái đem quân triều giữ bờ bắc đò nầy. Thái và tướng tiên phong Quỳnh ngọc đều có ý đi vành về phía tây để qua sông ấy tại đò Nghệ (Điềm Xá) để tập hậu. Vì thế mới có cuộc đại chiến ở Điềm Xá vào khoảng 23, 24 tháng 11. Thái bị thua nặng, chạy về Gián Khẩu, giữ bờ bắc. Nhưng quân Nhậm tiến theo chính lộ cũng đã tới gần đò. Nhậm tấn công, quân Thái chết hoặc chạy. Thái chạy về vùng phủ Ứng Thiên. Nhưng hình như quân Nhậm không qua sông Đáy dễ dàng vì không có thuỷ binh, và quân Chỉnh cũng đã gấp đến cứu viện. Hữu Du cầm tiền quân cứu viện tới đây đắp luỹ dọc hữu ngạn sông Đáy trên địa phận những làng Thanh Quyết và Đoan Vĩ. Địa bàn ở chỗ nầy thật là một yếu điểm tiền tuyến cho sự phòng thủ phía nam Thăng Long và đường chính lộ cũng là độc đạo, phải qua đò Đoan Vĩ là nơi bên trái thì núi đá sát sông dựng thành bức tường thành, phía phải thì nếu có qua được sông Thanh Quyết cũng mắc đồng sâu, không đường sá. Vậy trong cuối tháng 11, quân Tây Sơn bị nghẽn trên khoảng năm cây số từ đò Gián Khẩu đến đò Đoan Vĩ.

Trong trường hợp ấy, Hữu Chỉnh thân hành đốc chiến, rời Thăng Long vào ngày 27, 28 tháng 11; có lẽ đóng đại bản doanh ở Châu Cầu, cách Thanh Quyết nửa ngày đường (20 cây số) và hai con sông. Chỉnh sai con đem 50 chiến thuyền chở súng đạn xuôi sông Đáy. Biết quân Tây Sơn không có thuyền, nên sai Du lượn trước mặt quân Tây Sơn ở Thanh Quyết mà không đến cửa sông Gián Khẩu để hòng đánh tập hậu. Quá nửa đêm tối 29 tháng 11, đêm không trăng, quân Nhậm hoặc cưỡi bè, hoặc bơi lẫn với những cây gỗ đã được thả sông để qua hữu ngạn buộc thừng vào bánh lái thuyền địch rồi kéo về bờ mình. Quỳnh ngọc lại sai quân bắn vào các đồn quân Du, nhắm những chỗ đốt lửa mà bắn. Hai chiến thuật ấy làm quân Du khủng hoảng mà tan rã. Du chạy về Châu Cầu rồi cùng Chỉnh chạy về Thăng Long trong ngày 30 tháng 11. Tướng sĩ đều tan, lánh trốn hết.

Ngô Thì Du kể chuyện rằng sau khi rời kinh thành đi đến Bình Vọng, Chỉnh thấy toàn những điềm gở, lại bói được quẻ xấu nên do dự. Đúng lúc ấy, quân Du thua chạy về đó, bảo: “(Quân ta thua rồi, quân giặc đuổi sắp đến nơi)”. Chỉnh thần sắc rã rời, tiến lùi đều khó. Tướng sĩ dưới chỉ huy cũng đều hết vía, tranh nhau bảo: “(Thổ giặc rất mạnh, chưa thể đánh được. Kinh thành quân ít, khó lòng giữ nổi. Chi bằng rút về giữ Kinh bắc, lấy Nhĩ Hà làm ranh mà cố giữ. Rồi sau sẽ tính cách đánh lấy. Như thế là tiện)”.

“Chỉnh nghe theo. Một chốc, Du đến nơi. Chỉnh liền ra lệnh cho quân về Kinh. Tối đến, vừa vào thành, Chỉnh gọi viên tham tri chính sự Nguyễn Khuê, bảo y vào tâu xin vua ngày mai sẽ đi sang Kinh bắc (Bắc Ninh). Chỉnh bèn về thẳng nhà mình là Lãng Phủ (ở phía cửa nam thành), gói ghém hành lý; bảo người trước hết đưa vợ con gia thuộc qua sông. Vệ sĩ thuộc cơ Kim ngô (cảnh sát) biết chuyện, cấp tốc chạy vào điện tâu rằng: “Gia quyến Bằng công đã đi rồi”.

“Vua lật đật đi tới nhà Chỉnh. Chỉnh đang chạy chăng-văng ngoài sân trên thềm dặn dò những người sắp đi. Vua cầm lấy tay Chỉnh mà hỏi: “Sự thế như vầy rồi sẽ làm sao ?”.

“Thấy vua, Chỉnh xấu hổ, hoảng sợ, lật đật lạy tạ rằng: “Bệ hạ đã giao nước cho tôi. Tôi không xứng với chức, đã làm hỏng việc nước. Tôi chẳng dám từ. Hai phía Tây và Nam Kinh đô thì không thể còn mong tựa. Mà thành chưa đắp, hào chưa đào. Chỉ trơ có cửa ô mà thôi. Giặc thừa thắng, đuổi dài, không có phên giậu gì ngăn lại. Đánh thì không thắng, giữ thì không chắc. Sẽ nhờ gì mà tự toàn ? Nay bệ hạ nên dời lên phía Bắc để tính việc dấy binh sau nầy. Giặc từ xa tới mệt nhọc. Lại có sông lớn cản trở, chắc không dám đuổi theo. Trong khoảng mười lăm ngày, ta được khá ung dung mà mưu tính đường xa thì há lại không có cơ hội khôi phục tốt chăng ? Bệ hạ hãy về cung tâu cùng Thái hậu, xin đưa ngài đi trước. Tôi sẽ thân đưa lính, voi đợi ở bến sông”.

“Chỉnh nói xong, lại ngoảnh nhìn bên trái bên phải rồi đi. Vua lập tức dời bước chạy về. Qua trên đàng cái, thấy dân chúng dắt díu nhau chạy. Những bọn phi pháp nhân loạn cướp bóc. Tiếng hô hoán nghe khắp. Có một người chặn vua lại, mò nắm thắt lưng, không thấy gì bèn bỏ đi. Vua cấp tốc chạy về phía cửa Chu tước, rồi vào cửa Thiên môn ở nhà Tả khúc. Nghe Hoàng thái hậu và các phi tần đang tìm vua mà không thấy, luôn luôn kêu hỏi: ” Nhà Vua ở đâu ?” Vua gấp trả lời: ” Ở đây, ở đây !”. Vua lập tức triệu quân thị hộ, thì chỉ được 17, 18 người. Còn dư đều đã chạy trốn, không tới. Quân ấy gấp lấy đòn tre khiêng Hoàng Thái hậu và Nguyên tử (con đầu vua chưa lập làm thái tử) mà đi. Tôn thất và bà phi tần và vua đều đi bộ. Đồ ngự dụng chỉ khiêng đi được bốn hòm. Còn dư bỏ lại trong điện. Những nội thị có kẻ mang riêng những y trang bảo bối cũng đều bỏ vứt dọc đường. Đến sông, tranh nhau lên thuyền. Không kể ai quý, ai tiện, ai khoẻ thì qua đò trước. Dày xéo nhau trên bãi cát; có kẻ ngã bị dẫm chết. Thuyền đại trạo (lớn) không kịp tới. Có thuyền chở nặng quá bị chìm, tiếng kêu khóc dậy cả trời đất…” (HLNTC, Hồi 10).

Chuyện kể trên có tính cách độc đáo là linh hoạt hình như được một người hoặc đã chứng kiến kể lại, hoặc kể lại những lời đồn đại lúc bấy giờ. Nhưng sau nầy ta sẽ thấy rằng sự Vua từ doanh Hữu Chỉnh trở về cung có phần không thật.

Một chuyện đồn trong đại chúng đã được ghi bởi giám mục Veren (NKGH): người ta kể rằng khi Chỉnh về tới Thăng Long vừa thấy vua thì liền kêu lên rằng: “Blời ơi là Blời ơi ! Nhà Lê đã mất rồi !”; rồi ông cầm lấy tay nhà vua (so với chuyện vua cầm tay Chỉnh trong HLNTC). Cả hai vừa khóc vừa xuống một chiếc thuyền chở họ đi ẩn tại xứ Bắc…” (Đặng Phương Nghi đã dẫn – Blời = Trời).

Nguyễn Bảo trong LQKS cũng ghi chuyện Chỉnh cầm tay vua mà khóc như sau:

“Chỉnh về đến Thăng Long, cùng Tự hoàng bàn chuyện đi tránh giặc. Tự hoàng muốn đi Sơn Tây (có dự bị ở đó trước, sẽ thấy sau). Chỉnh sợ con Thạc vũ công (Hoàng Phùng Gia đã theo Vũ Văn Nhậm) nhân dịp báo thù. Và Chỉnh tin cậy vào trấn thủ Kinh bắc, Thước trung hầu (Nguyễn Cảnh Thước) là một tay chân tâm phúc của mình, để khi hoãn cấp, có thể mượn nhờ sức y. Chỉnh bèn xin Tự hoàng đi Kinh bắc. Tự hoàng bèn sai hoàng đệ, Lê Duy Lứu, dẫn binh, đưa Hoàng thái hậu và cung quyến đi trước.

“Tự hoàng cưỡi voi, thân đến nhà Chỉnh ở. Chỉnh quỳ đón, cầm tay Tự hoàng mà khóc. Tự hoàng cũng khóc. Tùng thần không ai cầm nổi nước mắt. Rồi Tự hoàng cùng Chỉnh đều ra đi. Đến khi qua sông Nhị, triều thần tùng giá nhiều kẻ đi không kịp, đều tự chạy tan tác. Chỉ còn vài chục viên nội thị, thân thần và tướng hiệu thuộc đạo Vũ-thành, và vài nghìn người tùng binh theo lên Bắc”.

Ta nên để ý đến sự phù hợp hai nguồn tin cuối. Trái lại, những chi tiết tỉ mỉ ở HLNTC không hoàn toàn phù hợp với LQKS. Ví dụ: theo LQKS, vua Chiêu Thống cưỡi voi tới nhà Chỉnh rồi cùng Chỉnh đi ra bờ sông. Còn HLNTC lại nói vua đi bộ trở về cung, có lẽ một mình, vì có kẻ chặn vua lại để chực cướp. Tuy LQKS chép vắn tắt, vì theo phép chép sử, nhưng những điều được chép phần nhiều đáng tin. Trong việc nầy ta còn có một nguồn tin đặc biệt của một người đã dự vào biến cố và đã mục kích những sự được ghi. Người chứng ấy là Bùi Dương Lịch.

Bùi Dương Lịch, người xã Yên Tuyền, huyện La Sơn, con của một viên tri phủ. Năm 17 tuổi đã đậu hương cống (1774), rồi ra Thăng Long du học, thường làm môn khách của những viên chức đồng quận làm việc ở Kinh. Trong các biến cố bỏ Trịnh Cán lập Trịnh Tông, Dương Lịch cũng có phụ hoạ phần nào. Nhưng phải đợi đến khi Chỉnh cầm quyền thì mới được bổ chức viên ngoại, làm nội hàn cung phụng sứ, trực tiếp luôn với vua để giúp việc từ hàn, và được vua yêu mến. Tháng 10 năm ấy (Đinh Mùi 1787), tuy Vũ Văn Nhậm đã đóng binh ở xứ nhà, nhưng Chỉnh vẫn mở khoa thi hội. Dương Lịch đậu hội nguyên. Bấy giờ mới 30 tuổi. Trong sách NAK, Dương Lịch kể chuyện thi như sau: ” Tháng ấy (tháng 10), thi hội ở bãi cát Trung Sa. Vua ngự ở cung Tây Long (bờ sông Nhị gần phố Tràng Tiền) phát đầu đề về văn sách xong, thì tình cờ viết bảy chữ Trúng hạng nhất danh Bùi Dương Lịch trên tờ giấy. Đến khi bộ Lễ đưa bảng cho vua xem thì quả nhiên Lịch đã đậu (6). Tháng 11, thi đình, Dương Lịch đậu đình nguyên, Hoàng giáp. Khi vào lạy, vua đem tờ giấy có ngự bút cho xem và cho 30 quan tiền để thết cau trầu các khách tới mừng. Gặp lúc bấy giờ mẹ Lịch, trước ngày rằm (tháng 10) đã từ Nghệ An tới Kinh lánh nạn, cùng Lịch tới Quảng văn đình xem bảng…” (NAK quyển 2 trang 84a).

Về từ việc bại trận ở Thanh Quyết đến việc vua bỏ Kinh đô, Dương Lịch chép (trang 85b):

“Ngày 30 tháng 11, quân Tây Sơn lặn qua sông, ngầm lấy dây buộc vào thuyền quan quân kéo sang bờ nam. Quan quân kinh loạn bèn tan. Vua nghe tin, bàn nên chạy về phía tây, rồi theo đường thượng du về Thanh Hoa. Vua bèn sai Lịch làm chỉ thư giao trạm báo cho trấn thủ Sơn Tây là ông hoàng nhi thân Duy Thiều đem binh nghênh giá. Bấy giờ, mẹ Lịch ở trong thành. Lịch chỉ sai người thưa kín rằng cứ ở yên, chứ không dám về nhà thân cáo.

” Nửa đêm (30 tháng 11), Chỉnh từ Sinh Quyết về (chứ không phải từ Bình Vọng về như HLNTC chép). Vua sai gọi, đốc xúc ba bốn lần, Chỉnh không vào, mà chỉ sai tham tri chính sự Nguyễn Khuê tâu xin Vua đi Kinh bắc. Lại nói rằng: “Trấn thủ Kinh bắc, Nguyễn Cảnh Thước, có thể trông cậy được”. Vua nghe lời. Bấy giờ đã canh năm. Vua bèn sai hoàng nhị đệ hộ vệ hoàng Thái hậu, hoàng tần, hoàng nguyên tử đi qua sông trước, trái với lời HLNTC chép rằng vua từ doanh Chỉnh trở về cung, lên tiếng trả lời gọi của Thái hậu, vân vân…)

” Tờ mờ sáng, vua ngự tại điện Vạn Thọ. Lính thị vệ dần dần có đứa trốn đi. Triệu các quan chánh thần, thì đều đã bỏ trốn đâu hết, không còn ai túc trực nữa. Các bầy tôi nội thị cũng đều đã về nhà mình kiểm thúc hành lý. Chỉ có hoàng nhị thân Duy Đạt coi vệ Hổ-bôn, ngoại thích Hân trung bá, viên tiến triều mới người làng Hương Cần, huyện Kỳ Hoa (Nghệ An) là Nguyễn Giai và Lịch, đứng hầu sắp xếp bưng hòm khăn áo để soạn sửa ra đi. Vua đi đến tẩm miếu tiên đế (Cảnh Hưng còn tang), khóc lạy. Lính thị vệ thình lình tan hết. Mọi người đưa mắt nhìn hỏi nhau, không biết tính làm ra sao.

” Lịch trước hết tâu rằng: ” Nay tuy Chỉnh đã bị thua mà lui binh, nhưng thủ hạ còn nhiều. Nhân tâm còn biết sợ Chỉnh. Xin tuyên bố lệnh đi tới nhà Chỉnh, bảo Chỉnh tuỳ giá, thì sau nhân tâm mới ràng buộc được”. Vua cho là phải; bèn nói lớn rằng: ” Nhà Vua đi doanh Bằng công”.

” Nhờ thế người ta mới dần dần nhóm lại. Các bầy tôi nội thị lục tục đều vào. Vua cưỡi voi đi từ từ, kẻ hộ tùng có vài trăm người. Khi ra khỏi cửa viện, các lính cũ đều tan chạy về nhà, rồi cùng nhau kết cờ trắng để đón giặc.

” Chỉnh nghe vua đến, khóc lạy đón vua vào nhà; mời vua ngồi ghế tréo đặt giữa nhà. Các kẻ hộ tùng mặc áo nhung, cầm gươm ngồi hầu. Vua dụ Chỉnh đi theo vua. Chỉnh xin cho con, tên Hoằng (tức là Hữu Du, xem sau) cùng đi (mà thôi). Hoằng không chịu. Chỉnh chần chừ loanh quanh ngó vào nhà trong. Gần đến giờ ngọ. Bị áp lực, Chỉnh bèn chịu đi, và Hoằng cũng bất đắc dĩ đi theo.

” Vua đến bến sông, chỗ đình Kiên Nghĩa. Hơn mấy khắc sau, Chỉnh mới tới. Bấy giờ quan thuyền ở bến Thạch Hãn (Kè đá). Bèn lấy thuyền buôn mà qua sông. Ngày mồng một tháng chạp chạy sang Kinh bắc…”

Ta có thể tin hoàn toàn vào chuyện thuật trên, vì thuật giả cùng đi với Chiêu Thống, và một lần nữa nhận thấy rằng LQKS lượm tin chắc chắn hơn HLNTC nhiều. Nhưng đọc NAK, ta nhận thấy rằng Bùi Dương Lịch ám chỉ một uẩn khúc gì của Chỉnh. Sao Chỉnh lúc thua về, không vào trình vua, sao Chỉnh không muốn đi liền cùng vua ? Thái độ Chỉnh loanh quanh cứ nhìn vào nhà trong tỏ rằng Chỉnh hoang mang loạn thần mà thôi ? Ta phải biết rằng, theo lời NAK, thì Lịch không ưa Chỉnh. Trong đoạn chép quyền thế mạnh của Chỉnh (NAK quyển 2 trang 83a). Lịch có nói: ” Bấy giờ, người quê Nghệ An, chỉ có Lịch và hương cống Lê Ban người làng Chung Cự, huyện Nam Đường là không a phụ Chỉnh…” Con Chỉnh tên Hoằng thấy trên, chắc còn có tên Hữu Du mà các sách khác đều chép, vì theo NAK Hoằng sẽ bị chết trong trận cuối chống quân Nhậm, như Hữu Du là tên được chép trong các sách khác…

( Trong các tài liệu đã xuất bản chưa thấy phần tiếp theo (BT)

(Nguồn tư liệu: Tập san Sử Đia Sài Gòn. – Số 21, 22/1971, số 25/1973).

——-
Chú thích:
(1) Ngô Tất Tố đã dịch theo một bản khác, gồm 19 hồi nhưng nội dung cũng như bản Ngô gia văn phái (Xuất bản Mai Lĩnh, Hà Nội, 1945).

(2) Nên để ý đến cách mệnh danh các quan võ đời cuối Lê đầu Nguyễn. Thường đều ban tước vì vào thời loạn thì ai chẳng có chút “quân công”. Phần lớn tiếng đứng đầu đặc hiệu tước là tên húy của người mang tước và vào trường hợp ấy thì chữ thứ hai thường là Vũ Trung… hay một tĩnh tự khác tượng trưng đức tính tốt. Ngoài ra thì lấy tin một núi, sông, bể, hồ gần quê quán người mang tước mà đặt danh hiệu cho tước, như Bằng lĩnh hầu cho Nguyễn Hữu Chỉnh, Hồng lĩnh hầu cho Nguyễn Khản, Tứ xuyên hầu cho Phan Duy Phiên.

(3) Trong các sử đều thấy chép tên Quế là Bồng. Các vua chúa đời Lê thường có nhiều tên. Đời Nguyễn cũng theo lệ ấy. Trong thư của giáo sĩ Le Roy viết ngày 6-10-1786 cói nói sự lập ông quận Quế lên ngôi chúa (S.Đ. Số 9/10, trang 230). Có lẽ Quế là tên thường của Yến đô.

(4) Lời dịch của Đặng Phương Nghi, tôi chỉ sửa một vài chữ; sau này cũng vậy.

(5) Tôi có sửa chưa ít chữ và thêm chú thích cho rõ nghĩa.

(6) Đây là một chứng sự đời xưa. Vua thường không can thiệp trực tiếp vào sự chấm quyển và chọn trúng cử.

Nguồn : thư viện tỉnh Bình Định

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Twitter picture

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Twitter Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s