HỒI ỨC CỦA LÍNH PHÁO BINH
Mikhail Lukinov

Mikhail Lukinov, tháng Giêng 1939
Phần 1: Ba Lan
Những ghi chép về biến cố Ba Lan và cuộc chiến Phần Lan 1939-1940 Được viết bởi người đã trải qua những biến cố trên, một sĩ quan Quân đội Xô-viết, I. Lukinov
Trong lịch sử và văn học, các sự kiện diễn ra ở Ba Lan và Phần Lan trong thời kỳ 1939 – 1940 được thuật lại rất ngắn gọn. Có thể do chúng bị che khuất bởi tầm vóc to lớn của Cuộc Chiến tranh Vệ quốc sau đó. Dù vậy, việc ký kết Hiệp ước Không xâm lược với nước Đức, sự hủy diệt và chia cắt nhất thời pan Ba Lan (pan tiếng Ba Lan nghĩa là “ngài” hay “ông chủ”; bằng cách này những người ta muốn ám chỉ rằng không phải nhân dân Ba Lan mà chính giai cấp thống trị Ba Lan mới là kẻ thù. Một số ví dụ khác: phát xít Đức, samurai Nhật Bản, bôia Romania – Oleg Sheremet) và chiến tranh Phần Lan cũng là những sự kiện không thể để chìm vào lãng quên. Tác giả của những dòng hồi ký dưới đây đã vinh dự được trực tiếp tham gia chiến dịch Ba Lan cũng như cuộc chiến chống Bạch vệ Phần Lan (cụm từ này bắt nguồn từ thời Nội chiến, khi Phần Lan sát cánh với phe Bạch vệ chống lại Hồng quân – Oleg Sheremet), và đã cố gắng thuật lại tất cả những gì ông đã từng sống, nhìn thấy và nếm trải qua.
Đó là năm 1939 đầy bất ổn. Tại Châu Âu đang có chiến tranh, bóng ma của nó đã lan dần tới biên giới nước ta. Lúc đó tôi mới 32 tuổi và, là một sĩ quan dự bị, có thể bị động viên vào quân đội bất cứ lúc nào. Nhưng vì lẽ gì đó tôi không muốn tin rằng chiến tranh sẽ nổ ra. Tôi đang làm việc, như thường lệ, với chức vụ kỹ sư tại Viện Thiết kế xí nghiệp Vật liệu xây dựng. Tôi đã được hứa thưởng một kỳ nghỉ vào cuối hè năm 1939, dự định sẽ đi nghỉ ở miền nam, trên bờ biển Hắc Hải hiền hoà. Nhưng kế hoạch của tôi bị phá nát bởi lời hiệu triệu từ dân uỷ : “Lên đường với các vật dụng cá nhân”. Thật là một cú sốc. Tôi chạy tới Trụ sở Dân uỷ Quận Bauman chỗ tôi và trước tiên là hỏi về giấy phép đi nghỉ, rồi kế tiếp là về “Lên đường với các vật dụng cá nhân”. Họ nghiêm khắc bảo tôi: “Kỳ nghỉ nào? Anh đã bị động viên. Anh không biết là chiến tranh đã bắt đầu rồi ư?!” Chiến tranh nào? Với ai? Tôi không thể hiểu nổi. Sang hôm sau tôi đã cưỡi trên chuyến tàu Maskva-Kiev với các “vật dụng cá nhân.”
Vào thời đó các chuyến tàu chạy khá chậm và được kéo bởi các đầu máy hơi nước. Các toa được gắn giường ngủ ba tầng bằng gỗ sơn xanh lá cây. Tại các ga, hành khách ùa xuống lấy nước nóng vào bình toong thiếc và tín hiệu khởi hành của đoàn tàu phát ra từ cái chuông kéo tay. Mới đây thôi mà như ở thời cổ đại vậy.
Toa tàu rất đông người, để ngủ yên tôi phải leo lên giá gỗ tầng ba, treo mình vào ống hơi nước bằng thắt lưng để khỏi ngã vì rung lắc. Nhóm sĩ quan chúng tôi được đưa từ Kiev tới Bêlaia Tserkov, thị trấn được biết tới qua trường ca “Poltava” của Pushkin. Nhưng chúng tôi không được thấy “đêm Ukraina yên tĩnh” (thơ Pushkin – LTD) nơi đây. Ngược lại, chúng tôi bị bao vây bởi sự hối hả bận rộn kinh khủng. Một sư đoàn bộ binh đang được thành lập vội vã từ những “ông cậu”, lính dự bị Ukraina. Là sĩ quan pháo binh, tôi bị chuyển về một khẩu đội pháo cấp trung đoàn của trung đoàn súng máy 306. Một pháo thủ, lại ở trong trung đoàn bộ binh! Thật khó cho tôi, nhưng đâu thể làm gì khác được? Tôi phải tháo cái phù hiệu màu đen khỏi quân phục, và thêu cái màu đỏ với hai khẩu pháo bắt chéo thế vào. Có chín sĩ quan trong khẩu đội, tất cả trong đó, trừ tôi là sĩ quan dự bị, đều là quân nhân chuyên nghiệp, và trong thời gian đầu tôi không được nhận bất cứ nhiệm vụ cụ thể nào. Tôi phục vụ đại loại như một sĩ quan phụ tá cho khẩu đội trưởng. Vào thời gian đó các sĩ quan cấp thấp trong quân đội có trình độ học vấn không cao. Thậm chí hiếm có người học hết trung học. Họ chủ yếu là những người đã phục vụ ở cấp thấp trong nhiều năm, được huấn luyện trực tiếp hay gián tiếp về tác xạ trong những trường lớp đào tạo khác nhau. Nhưng họ luôn thuộc làu quân lệnh và kỷ luật quân sự. Nói chung họ là những người dễ mến, hầu hết đeo lon thiếu úy. Khi thấy tôi có hai khối vuông trên cổ áo (trung uý) nhưng không tỏ vẻ kênh kiệu, họ liền chấp nhận tôi vào cái gia đình chung ấy. Khẩu đội trưởng cũng cùng xuất thân như họ, nhưng đã có trên vai ba khối vuông (thượng uý). Nhằm làm cho mình trông giống chỉ huy hơn, anh ta tự tạo ra một bề ngoài khác biệt với mọi người. Gương mặt anh ta dài như mặt ngựa, bị bệnh đậu mùa hủy hoại và luôn tỏ vẻ lạnh lùng. Anh ta sợ bất cứ biểu hiện nào của sự thân thiện vì anh ta cho rằng điều đấy dẫn tới vô kỷ luật. Anh ta cư xử với tôi dè dặt cảnh giác, như thể thấy trong tôi một cái gì xa lạ, một người có học thức. Chúng tôi cũng gặp chủ nhiệm pháo binh trung đoàn, chịu trách nhiệm về các khẩu đội pháo và súng cối. Ông ta đối xử với tôi có thiện chí hơn. Chúng tôi được nhận những khẩu pháo 76 mm nhưng là loại nòng ngắn, kiểu 1927, được kéo bởi hai đôi ngựa. Chúng tôi cũng được cấp ngựa cưỡi. Tôi được nhận một con ngựa cao lớn, lông xám có tên là Búp Bê. Chúng tôi bắt đầu tổ chức thành các trung đội, triển khai ngoài cánh đồng, tập bắn đạn thật, huấn luyện cho binh lính. Trung đoàn trưởng luôn giục giã chúng tôi gấp rút hoàn tất công việc huấn luyện nhưng tới khi chúng tôi nhận lệnh hành quân, công tác huấn luyện vẫn chưa xong. Mệnh lệnh tương tự như sau : “Lập đội hình hành quân ! Trung đội chỉ huy dẫn đầu! Bước!” Và chúng tôi xuất phát. Đi đâu? Tại sao? Có lẽ chỉ cấp trên mới biết. Hay thậm chí chính họ cũng không được biết? Mau chóng chúng tôi nhận ra mình đang được đưa về phía tây, hướng biên giới Ba Lan.
Trong khi đó, các diễn biến chính trị phức tạp vẫn tiếp diễn. Nước Đức tiến công Ba Lan và chiếm được một phần lãnh thổ rộng lớn. Chính phủ chúng ta đã ký Hiệp ước Không xâm phạm với Đức. Molotov, trong bài diễn văn nổi tiếng của ông ta, gọi Ba Lan là “cái quái thai của Hiệp ước Versailles”. Hiệp ước ấy đã giải phóng vùng Tây Ukraina và Tây Belorussia, trước đây bị Bạch vệ Ba Lan chiếm đóng. Quân đội Xô viết phải mau chóng tiến về đường ranh giới chia cắt có trong thỏa thuận với nước Đức. Trước đó chúng tôi đã tiến rất gần tới lãnh thổ Ba Lan; còn bây giờ, với một lệnh báo động, chúng tôi bắt đầu vượt cái đường biên giới mà nay đã là của quá khứ.
Các đơn vị bộ binh của trung đoàn chúng tôi hành quân phía trước, còn chúng tôi kéo pháo theo sau. Tôi còn nhớ hình ảnh một cột mốc biên giới có sơn sọc trắng với con đại bàng Ba Lan bị xô ngã xuống đất, một làng biên giới Ba Lan với những ngôi nhà trắng tinh theo một kiểu kiến trúc xa lạ thời Trung cổ cùng một nhà thờ Thiên Chúa giáo. Những người Ba Lan theo dõi cuộc xâm chiếm của chúng tôi một cách rầu rĩ và lo lắng. Thật sự thì họ đang nghĩ gì nhỉ?
Những con đường lầy lội và các làng xóm Ukraina nghèo khổ với mái rạ và những nông dân đi chân trần dần lộ ra sau cái làng Ba Lan giàu có và tinh khiết ấy, hiển nhiên là một sự hào nhoáng bề ngoài. Người Ukraina sống rất khốn khổ dưới ách cai trị của các pan. Chúng tôi có dịp nhận ra tất cả những cái đó, sau khi chúng tôi trú chân tại một ngôi làng Ukraina. Rồi chúng tôi tiếp tục tiến qua vùng đất Ba Lan cũ về phía Tây. Lần nghỉ đêm đầu tiên. Một căn nhà Ukraina nghèo khổ : sàn bẩn, rác rưởi, gián, trẻ con ăn bận trần truồng. Tôi bắt chuyện với một bé gái khoảng 10 tuổi, lục tìm 20 kopeck trong túi và đưa tặng cô bé như một vật lưu niệm. Em nghẹn thở bởi món quà giá trị đó và kêu lên : “Mẹ ơi, con có hai mươi kopeck đây này!” Hình như lần đầu tiên trong đời cô bé được cầm một số tiền lớn như vậy.
Chúng tôi được lệnh mau chóng chuyển tất cả binh sĩ đi bộ của trung đoàn lên xe tải và đưa họ tới đường ranh giới chia đôi Ba Lan. Ngựa kéo xe, đoàn tàu chở hàng tiếp tế và đại bác tiếp tục hành quân với tốc độ như cũ. Chúng tôi lập ra một chi đội từ các binh lính đi bộ trong các khẩu đội có trách nhiệm hành quân cùng cánh bộ binh. Tất nhiên, tôi cũng có trong số ấy. Tới đêm, trên đường cái, tôi chặn những xe tải chở bộ binh lại và chuyển lính của mình lên sau khi bị chửi rủa hết lời. Tôi lên chiếc xe cuối cùng. Chúng tôi đi trong nhiều ngày suốt dọc Miền Tây Ukraina bằng cách đấy. Trong thời gian đó, nhiều cuộc gặp gỡ và nhiều ấn tượng đã xảy đến mà tới nay, bất hạnh thay, đã tuột khỏi trí nhớ của tôi.
Tôi nhớ lại chúng tôi đã đến một thị trấn và dừng chân giữa một khu chợ. Những người bán rong đeo khay hàng chạy tới các xe tải từ mọi phía, chào mời chúng tôi. (Cần lưu ý rằng khi chúng tôi tiến vào vùng lãnh thổ cũ của Ba Lan, một tỷ giá trao đổi ngoại tệ tức khắc được lập ra: một zloty ăn một rúp.) Một người bán hàng rong bưng cái khay bánh pierogi tới chỗ xe chúng tôi. Tay bộ binh ngồi cạnh tôi liền hỏi giá. “Ba kopeck, thưa pan. Tôi không thể bán rẻ hơn, đang chiến tranh mà.” Người lính rút ra một tờ ba rúp màu xanh và nói : “Cho tôi một trăm cái.” “Sao anh mua nhiều thế ?” Tôi hỏi. “Không sao đâu, thưa đồng chí trung uý, tôi sẽ có cách dùng chúng.” Anh ta quả thật đã dùng hết tất cả số bánh đó. Anh ta ăn gần hết một trăm cái, phớt lờ những ánh mắt ghen tị và những lời đề nghị của đồng đội. Đúng là một gã kulak Ukraina.
Những người bán hàng nhanh chóng nắm bắt thị trường và sau mười lăm phút giá bánh pierogi đã là 15 kopeck. Bếp dã chiến cho chúng tôi ăn chủ yếu là cháo kiều mạch, bánh mì đen và trà. Có vài đơn vị kỹ thuật đi sau chúng tôi, họ được cấp gạo, bánh mì trắng và ca cao. Không thể làm gì hơn, chúng tôi là bộ binh, luôn tấn công đầu tiên và lãnh thực phẩm sau cùng. Một lần, vào cuối ngày, chúng tôi dừng lại nghỉ đêm tại một thị trấn. Chiếc xe tải chạy vào sân trường và chúng tôi nghỉ lại cho tới sáng trong các phòng học. Lúc đấy tôi đói như cào. Tôi lấy theo hai người lính (các sĩ quan bị cấm đi ra ngoài một mình) và đi kiếm một nhà hàng. Chúng tôi mau chóng tìm thấy một cái bar nhỏ dưới tầng hầm với cửa sổ sáng rực và dàn nhạc đang chơi. Vừa thấy ba người chúng tôi mặc quân phục, đội mũ sắt, đi ủng có gắn đinh thúc ngựa và mang vũ khí bước vào chỗ sảnh đón, một cơn chấn động nhẹ xảy ra. Dàn nhạc ngừng chơi. Vài thực khách sợ hãi đứng dậy. Có lẽ đây là lần đầu trong đời họ nhìn thấy những người Xô viết. Tôi lịch sự chào mọi người và đề nghị dàn nhạc tiếp tục chơi. Những người trong quán tò mò theo dõi chúng tôi. Chủ quán đứng sau quầy bar, một người to béo mặc bộ vest không cài khuy với điếu xì gà trên miệng. Tôi thấy mình như đang đóng trong một cuốn phim về thời trước Cách mạng. “Vodka hay rượu snap?” – ông béo hỏi tôi. “Không,” – tôi trả lời – “cho ba cà phê và ba sandwich.” Đồng hồ của tôi đã là 12 giờ, nhưng cái đồng hồ to mặt tròn trên quầy bar mới chỉ có 10 giờ. Tôi không nhận ra ngay sự khác biệt về thời gian nên ngạc nhiên bảo chủ quán rằng hiện đã 12 giờ rồi. Ông ta mỉm cười, nhấc điếu xì gà khỏi miệng và kiêu ngạo đáp lời tôi: “Chúng tôi thuộc Châu Aâu !” Tại đất nước Ba Lan Bạch vệ khốn khổ đồng hồ chỉ lấy theo giờ London. “Lúc này ông nên chỉnh lại đồng hồ theo giờ Maskva,” – Tôi đáp lại. Người chủ quán nhún vai như thể nói “Chúng tôi sẽ xem lại.” Sau khi uống xong cà phê và thanh toán tiền, chúng tôi rời “những người Châu Aâu” đấy.
Tới đây tôi xin phép lạc đề một chút để kể lại một giai thoại khác xảy ra nhiều năm sau Chiến tranh Vệ quốc, khi nước Ba Lan đã được tái thiết và Nguyên soái Xô viết Rokossovskiy, một người gốc Ba Lan, được chỉ định làm Tổng chỉ huy quân đội Ba Lan. Ông tới Ba Lan. Đầu tiên ông được cho tham quan Varsava và một vị tướng Ba Lan hỏi ông : “Thưa ngài Nguyên soái, ngài có thích Châu Âu không ?” Nguyên soái đã trả lời : “Rõ ràng ông không rành địa lý học.”
Chúng tôi hành quân nốt chặng cuối của hành trình. Một lần nữa, lại xuất hiện những ngôi làng Ukraina cùng những thị trấn nhỏ với cộng đồng người Do Thái và Ba Lan. Người Đức đã có mặt ở đây. Trước khi rút quân, chúng tiến hành cướp bóc. Nhưng chúng là một dân tộc có văn hóa nên không chĩa súng đe dọa hay đốt phá các cửa hàng. Chúng cướp bóc một cách “có văn hóa”. Chúng bước vào một cửa hiệu, chọn những thứ hàng hóa tốt nhất, ra lệnh gói nó lại (“raskep, raskep”) và mang những thứ vừa “tậu được” bỏ đi : “Bọn Nga đi sau sẽ trả tiền cho tất cả.”
Tôi bước vào một cửa hiệu để mua vài thứ đồ lặt vặt. Vải dệt được trải ra trên mặt quầy, họ đang trao đổi với mấy người lính bộ binh đã vào trước đó. Tôi vuốt lên tấm vải và chợt nhận ra có cái gì đó nằm dưới mặt quầy. Một khẩu súng bị bỏ quên dưới lớp vải, có lẽ là của mấy “ông chú” Ukraina kia. Tôi buộc phải đem khẩu súng về.
Binh lính Hồng quân. Luga, 1938
Cuối cùng chúng tôi cũng đến được đường ranh giới theo thỏa ước, vạch ra bởi sông Bug. Có thể thấy ánh loé lên của những chiếc xẻng bên kia bờ sông. Đấy là lính Đức đang củng cố vị trí phòng thủ của mình và đào các chiến hào. Tại chỗ này con sông không rộng lắm, có mấy cây cầu nằm vắt qua bờ bên kia. Có thể thấy vài bóng người đang qua cầu : một số đến phía chúng tôi, một số khác từ phía chúng tôi qua bờ bên kia. Lạ là trong những ngày đầu tiên không có ai ngăn trở điều đó. Một trong số những sĩ quan chúng tôi kể anh ta đã chứng kiến có người tiến tới các lính gác Đức và nói rằng cần qua bờ bên kia, phía chúng tôi. Tên lính gác chỉ đơn giản là đá vào mông anh ta và người đàn ông chạy qua cây cầu về phía chúng tôi. Đấy là vào ban ngày, ban đêm việc qua lại còn nhộn nhịp hơn nữa. Những tiếng la hét và tiếng súng bắt đầu vang lên.
Họ kể rằng một người lính của chúng tôi, một “ông cậu” Ukraina, trong khi đứng gác gần cây cầu đã lầm bầm những lời như sau: “Hãy để những người tốt đi về phía chúng tao, còn thì đưa bọn xấu qua đi cho khuất mắt.”
Ba, bốn ngày sau khi chúng tôi tới, những lính biên phòng đội mũ lưỡi trai màu xanh cuối cùng cũng tới, mang theo chó. Họ đóng cửa biên giới và canh phòng một cách nghiêm ngặt. Chúng tôi rút lui về phía sau khoảng vài cây số, nhưng vẫn thường bị dựng dậy bởi báo động đêm. Một đêm nọ có hai người đàn ông chạy qua phía Đức. Có một đầm nước nhỏ ở gần chỗ chúng tôi đóng quân, nơi dân chài địa phương thường ra đánh cá. Lúc này dây kẽm gai vẫn còn chăng phía trước đầm. Hai người kia tiến gần cái đầm vào ban đêm, họ cho rằng sông Bug đang ở trước mặt mình nên đã cắt rào kẽm gai và bơi qua sông. Họ bị mất phương hướng và chìm dần. Một người đánh cá nghe tiếng họ kêu cứu đã chèo thuyền tới kéo họ lên. Một trong hai người hỏi bằng tiếng Ba Lan: “đây có phải là bên phía Đức không ?” Người đánh cá trả lời: “Phải.” Anh ta kéo mạnh họ lên và đưa họ, gần chết đuối, về nhà anh ta. Vì vụ đó mà lại một lần nữa chúng tôi bị lệnh báo động dựng dậy vào ban đêm, với suy nghĩ cho rằng có hai tên do thám. Khi trời sáng, tôi trông thấy hai con người ướt sũng ấy bị dồn lên một chiếc xe để đưa về nơi quản lý họ. Hoá ra đó là những sĩ quan Ba Lan vừa trốn khỏi trại tù binh.
Vùng biên giới không lúc nào yên tĩnh. Trong đêm, có ai đó phía bờ chúng tôi dùng đèn chiếu vẽ những đường khó hiểu lên những đám mây xám thấp. Bờ bên kia đáp lại họ cũng bằng cách thức tương tự. Vậy mà chúng tôi không bắt được ai. Các sĩ quan Đức qua bên chúng tôi, mục đích để tìm kiếm và chôn cất những người của mình, nhưng thật ra là dọ thám vị trí đóng quân và lực lượng chúng tôi. Nhưng chúng tôi cũng tìm ra cách để việc ấy không thực hiện được.
Sau đó sư đoàn chúng tôi được rút về sâu trong hậu phương. Trung đoàn tôi đóng quân tại một thị trấn nhỏ bé bẩn thỉu ở Starưi Sambor. Ở đây gần như toàn là người Do Thái, họ làm nghề thủ công và buôn bán, cung cấp cho các làng Ukraina. Nhưng không có đủ phòng cho khẩu đội tôi cùng với pháo, xe chở đạn dược và ngựa, thậm chí ở ngay chính Starưi Sambor. Chúng tôi đóng tại làng Blazhow, cách Starưi Sambor 7 tới 8 km. Để định chỗ đóng quân, chỉ huy trưởng ra lệnh cho tôi vào làng và vẽ lại sơ đồ vị trí của nó. Một thượng sĩ đi cùng tôi với mục đích tìm nguồn tiếp tế. Hai chúng tôi cùng đi ngựa.
Cái làng hóa ra trải rất dài. Nó có một nhà thờ thuộc giáo hội Uniate và một lãnh địa nhỏ. Người chủ của nó, một người Ba Lan, đã chạy sang phía Đức. Tôi vẽ sơ đồ của nó và, khi trở về khẩu đội, vẽ lại sạch sẽ bằng chì màu, ghi chú tất cả, thậm chí họa lại một vài ngôi nhà chính. Các chỉ huy cấp trên rất hài lòng, tuy họ không biểu lộ trên nét mặt. Họ không muốn làm hư cấp dưới: điều đó có thể làm cho cấp dưới trở nên kiêu ngạo. Nhưng tay thượng sĩ (mà tôi đã kể ở trên), khi ngồi bên đống lửa vào ban đêm, quanh đại đội của mình, ngạc nhiên kể với mọi người rằng trung uý chỉ cần đi ngang qua làng, ghi chú đôi điều lên một mảnh giấy là về vẽ lại được cả cái bản đồ tuyệt như thế: “Các cậu ạ, tay này khi ở nhà hẳn không phải hạng tầm thường như chúng ta.”
Kế đó chúng tôi chuyển tới Blazhow. Chúng tôi chọn cái lãnh địa nằm giữa khu vực đóng quân và bố trí pháo bên trong sân của nó. Các sĩ quan đóng tại căn nhà của tay chúa đất, còn binh lính – trong những làng nông dân xung quanh. Chúng tôi nhốt ngựa trong trang trại của lãnh địa. Dinh thự của chúa đất đã bị cướp phá sạch bởùi bọn Đức và sau đó là bởi nông dân, giờ chỉ còn lại những bức tường trần trụi. Chỉ có sĩ quan lâu năm mới được nhận một bàn làm việc vớiø những ngăn kéo rỗng. Cái bàn không thể mang đi được bởi nó không lọt qua cửa hẹp của căn phòng. Lúc đầu chúng tôi phải trải rơm thay cho các đồ gỗ, chúng được dùng để thay cho cả ghế lẫn giường. Chúng tôi đặt những máy điện thoại dã chiến trên cái bàn duy nhất, nối chúng với sở chỉ huy tại Starưi Sambor.
Tình hình lúc đó không yên tĩnh. Bọn phỉ thường bắn lén chúng tôi trong đêm khuya. Có kẻ nào đó cắt đứt đường dây điện thoại, thế là cả khẩu đội bị dựng dậy bởi lệnh báo động đêm. Chúng tôi thiết lập những biện pháp phòng vệ khắp lãnh địa khi trời bắt đầu tối, ngăn ngừa những đợt đột kích có thể xảy ra. Khi bình minh lên, sự sợ hãi của chúng tôi liền tan biến.
Tuy vậy, chúng tôi nhận được cảnh báo từ sở chỉ huy trung đoàn yêu cầu phải luôn cảnh giác, đã có những trường hợp binh lính Xô viết bị giết chết trong ngõ tối, bị đâm trong tiệm cắt tóc và những vụ khác tương tự. Đóng quân trong một ngôi làng Ukraina, chúng tôi có điều kiện hiểu được những người dân Tây Ukraina sống nghèo khổ thế nào dưới chế độ của các pan Ba Lan. Chỉ người Ba Lan mới có quyền quyếtù định tại đất nước này. Chỉ có họ mới được làm việc trong bộ máy chính quyền. Một người Ukraina thậm chí không thể làm thợ trải nhựa đường, bởi đó là công việc của nhà nước. Một người Ukraina có thể trở thành người Ba Lan, nhưng anh ta phải cải theo Gia tô giáo. Mục đích chuyện này là chuyển dần người Ukraina sang Gia tô giáo. Đức tin Chính thống giáo bị thay thế bởi Giáo hội Uniate, một trung gian giữa Chính thống giáo và Gia tô giáo. Người Ukraina bị đè nặng bởi các thứ thuế. Thậm chí có cả loại thuế đánh lên mỗi ống khói, đến nỗi sau khi vượt qua biên giới, chúng tôi rất ngạc nhiên thấy các nóc nhà ở đây đều thiếu ống khói. Khói từ bếp lò thoát thẳng lên cái gác dưới mái nhà. Nạn cháy nhà thường xuyên xảy ra.
Đôi lúc người dân hỏi chúng tôi là chính quyền mới có cho phép xây ống khói không. Chúng tôi trả lời không chỉ cho phép mà còn cần thiết phải xây. Vào dịp cuối thu các nông dân thường đi chân trần tới nhà thờ. Họ chùi sạch chân bẩn lên đám cỏ phía trước, xỏ giầy và bước vào nhà thờ. Khi về, họ tháo giầy ra và đeo chúng quanh cổ. Một đôi giầy được người nông dân dùng trọn đời, tới khi chết anh ta để lại nó cho con trai mình. Có một trạm bưu điện bỏ không trong làng. Nhưng vẫn còn một điện thoại viên ở lại – một cô gái Ba Lan rất đẹp và kênh kiệu. Luôn có một đám những anh chàng cầu hôn chạy theo cô ta. Không chỉ những binh lính và hạ sĩ quan của chúng tôi mà có cả vài tay sĩ quan độc thân cũng ở trong số đó. Giữa những kẻ cầu hôn luôn có xích mích. Người ta nói rằng một số chỉ huy cao cấp cũng từng cầu hôn cô ta. Rồi tất cả những điều đó đột ngột kết thúc theo cái cách ít được trông đợi nhất.
Một đêm, trong khi đang thi hành nhiệm vụ tại chốt điện thoại dã chiến, một điện tín viên của chúng tôi nhận thấy rằng một trong các ngăn kéo bảo mật nông hơn những cái còn lại. Tại sao vậy nhỉ? Hóa ra có một ngăn kéo bí mật khác ở mặt sau bàn, quay về phía tường. Trong có những tờ tiền Ba Lan đã hết giá trị và một cuốn album ảnh. Những tấm ảnh cho thấy cô điện thoại viên xinh đẹp đang vui vẻ với tay chủ lãnh địa thế nào. Trong vài tấm ảnh có cảnh cô ta trần truồng nhảy múa quanh một cái bàn đầy chai lọ, còn trong các tấm khác là cảnh cô ta đang quấn chặt lấy những gã để ria mép hay những cảnh tương tự thế. Cuốn album được các binh lính chúng tôi chuyền tay nhau. Vài tay lính đang yêu trách cứ cô gái, và cô ta mau chóng biến mất khỏi ngôi làng. Khẩu đội trưởng tước cuốn album của đám lính và sau đấy đánh mất nó. Tôi không được xem cuốn album đó.
Một tối giao lưu với dân địa phương được tổ chức. Toàn thể dân làng Blazhow tụ tập lại trong một ngôi nhà rộng. Chính uỷ của chúng tôi đọc một bài diễn văn nói về sự chấm dứt thời của các pan Ba Lan và về trách nhiệm giải phóng của Hồng quân. Vị linh mục địa phương đáp lời, nhân danh toàn thể dân làng, cám ơn chúng tôi vì đã giải phóng họ và nhấn mạnh rằng “chúng ta cùng một chủng tộc, chúng ta cùng một đức tin.” Ban nhạc địa phương gồm một người kéo violon, một người thổi sáo bị và một tay trống bắt đầu chơi, vũ hội bắt đầu. Mọi người hỏi chúng tôi về cuộc sống ở Liên Bang Xô viết, về những tin đồn thất thiệt họ được nghe từ Ba Lan. Ông thượng sĩ cũng nhân dịp này tìm cách chơi nổi. Vào thời điểm ấy, đám sĩ quan chúng tôi ăn mặc rất giản dị, khoác áo choàng tunic hệt như binh lính, chỉ khác là có các khối vuông gắn ở phù hiệu trên cổ áo và các vạch vải đỏ thêu ở ống tay áo. Thượng sĩ của chúng tôi mặc bộ quân phục thắt cái dây lưng màu vàng luôn kêu cót két. Trên phù hiệu ở cổ áo, cạnh những hình vuông, ông ta gắn những vạch màu vàng đã bị quân đội bỏ từ lâu. Trong mắt dân làng ông ta hẳn là chỉ huy cao cấp nhất nên họ hỏi ông ta rất nhiều. Các cô gái hỏi ông rằng có phải ở nước Nga bây giờ không còn tổ chức các đám cưới, rằng chúng đã bị huỷ bỏ và mọi người được quyền sống với bất cứ ai mà họ thích. Ông thượng sĩ trả lời một cách tự đắc: “Người ta hay nói này nọ, nhưng rận chỉ thích cắn những ai luôn nhắc đến chuyện đi tắm.” Tất nhiên, câu nói đó làm mọi người xung quanh cười rộ và làm cả một số khác thẹn thùng.
Có lần tại Starưi Sambor, tôi tới một lò rèn nhỏ đặt làm cây thông nòng cho khẩu súng ngắn của mình và tình cờ gặp các em gái của ông chủ, người Do Thái. Họ đã tốt nghiệp một trường học Ba Lan tại Nôvưi Sambor và rất thích Liên Bang Xô viết. Họ mơ được tới đó để học đại học, “ở nơi mà – họ nói – việc học là miễn phí.” Khi tôi còn ở Starưi Sambor, tôi thường tới thăm hai chị em và dạy họ tiếng Nga, thứ tiếng mà theo họ là đơn giản và dễ hiểu. Nhưng có một lần, để chứng tỏ điều đó không đúng sự thật, tôi đọc phần đầu vở “Evgênhi Ônêgin” cho họ nghe, và tất nhiên là họ chẳng hiểu gì cả. Những cô gái đáng thương ấy sau này chắc bị giết hại cả. Năm 1941, khi Tây Ukraina bị bọn Đức chiếm đóng, chúng giết tất cả những người Do Thái tại đó.
Đôi khi tôi phải tới Nôvưi Sambor vì mục đích công việc. Đó là một thị trấn Ba Lan thanh nhã, có một nhà hàng và các cửa hiệu đẹp. Có lần tôi bước vào một cửa hiệu quần áo đàn ông và yêu cầu họ cho xem vài kiểu cà vạt. Người chủ hiệu, nháy mắt với người phụ nữ Ba Lan đứng sau tôi như thể muốn nói “cái tay man rợ mặc áo choàng xám này thì hiểu gì về cà vạt nhỉ”, đưa cho tôi cái hộp bên trong có món gì đó thật thô kệch và rẻ tiền. Tôi gạt cái hộp sang bên và yêu cầu cô ta đưa cho tôi thứ gì khác khá hơn. Gương mặt người chủ hiệu lộ vẻ ngạc nhiên khi tên man rợ đó chọn ra một tá cà vạt đẹp và tao nhã nhất. Sau này, cửa hiệu của ông ta đã tiếp tục phục vụ tôi trong một thời gian dài.
Mikhail Lukinov, 1939
Các đường phố ở đây đầy những người sẵn sàng bán nào đồng hồ, dao cạo, sôcôla, bít tất và các loại hàng hóa khác cho binh lính Xô viết. Một trong những tay năng nổ đó cứ bám chặt lấy tôi, đòi bán những bộ com lê thứ thiệt. Tôi tìm mọi cách xua đi, nhưng hắn vẫn không để tôi yên. Lúc ấy kiểu com lê màu xanh Boston đang thịnh hành ở Moscow. Cuối cùng tôi hỏi xem hắn có bộ Boston xanh nào không. “Có ạ, có chứ, thưa pan đồng chí.” Và đề nghị tôi đi theo hắn. Hắn dẫn tôi qua mấy cái sân thông với nhau, hết cái này đến cái khác làm tôi mất hết phương hướng, không xác định được đâu là phố chính nữa. Hắn dừng lại ở một tầng hầm, từ đấy dẫn tôi sang một cái khác rồi bảo tôi đứng chờ. Tôi nhìn quanh và thấy có vài khối nhà bê tông không có cửa sổ. Bóng đèn trên trần đang sáng lờ mờ. Đột nhiên, đằng sau cánh cửa mà người đàn ông kia vừa biến mất, tôi nghe tiếng kim loại chạm nhẹ, tựa như tiếng ai đó đang lên đạn, mở và đóng chốt cửa. Tôi mở nút bao da đựng súng và chạy ra sân. Tới đó tôi dừng lại nghe ngóng xem chuyện gì xảy ra tiếp theo. Nhưng mọi thứ vẫn yên lặng, còn tay bán bộ vest Boston thì biệt tăm. Tôi mau chóng thoát khỏi cái mê cung đó để ra phố chính an toàn hơn. Đến giờ, tôi vẫn không biết được lúc ấy tôi đã tránh khỏi một mối nguy hiểm chết người hay đơn giản là đánh mất cơ hội có được một bộ vest màu xanh Boston.
Đất nước của các pan Ba Lan đã tan rã. Đồng tiền Ba Lan đang sống nốt những ngày cuối cùng của nó. Người dân địa phương cố gắng bán mọi thứ để đổi lấy đồng rúp Xô viết và đổi đi đồng tiền Ba Lan. Các cô gái Ba Lan xinh đẹp dạo trên các con phố của Nôvưi Sambor, miệng nở những nụ cười quyến rũ, đề nghị các sĩ quan Xô viết đổi giấy bạc Ba Lan có mệnh giá lớn ra tiền Xô viết. Đấy thật là một mánh khoé ngờ nghệch, ngay cả khi người đổi tiền là những người đẹp rất quyến rũ. Có cô chỉ đơn giản khoác tay tôi và hỏi xem tôi có thể đổi một trăm zloty hay không. Tôi đáp rằng tôi không đủ giàu để tặng cô món tiền cả trăm rúp.
Giấy bạc Ba Lan được trang trí bởi chân dung của vô số đức vua và hoàng hậu Ba Lan. Có lần tôi nghe một người lính, khi đang mua thuốc lá của người bán rong bên đường, la lên: “Tao đưa mày tờ tiền Xô viết tốt đẹp mà mày tráo (hay từ gì đó đại loại thế) lại một hoàng hậu Ba Lan như thế à?!”
Tôi có mối quan hệ phức tạp với tham mưu trưởng trung đoàn, đại úy Severin. Anh ta là người kiêu căng, luôn yêu cầu mọi người phải tuân theo các quân lệ chính xác tới từng chữ một; anh ta không ưa chúng tôi, những sĩ quan dự bị. Có lần tôi nhận một cú điện thoại từ Starưi Sambor yêu cầu phải lên gặp Severin. Tôi báo cáo lại cho khẩu đội trưởng, đem một người lính đi theo, thắng ngựa và phóng đi dưới mưa trên con đường lầy lội. Khi tới nơi, chúng tôi ngoài áo thì ướt sũng còn bên trong lại đầm đìa mồ hôi. Sở chỉ huy đóng tại nơi trước kia là một trường học. Bên trong gian phòng lớn nóng bức, mấy cái đèn dầu hỏa đang bốc khói; Severin đang đi lại trong phòng, đọc điều gì đó cho người thư ký ghi chép. Nước mưa từ mũ ròng ròng chảy xuống, do đó tôi bỏ mũ ra và cầm nó nằm ngang trên tay trái gập lại. Cuối cùng đại uý cũng quay sang tôi, nghe tôi báo cáo có mặt. Đột nhiên Severin công kích: “Anh đang ở đâu vậy? Trong quán rượu hay tại chiến trường? Tại sao anh lại xử sự như thế?“ và mấy câu khác tương tự. Tôi đứng đấy mà không hiểu chuyện gì xảy ra. Người thư ký đứng sau lưng Severin, nhìn thẳng vào mặt tôi mà cười khúc khích. Đại uý tiếp tục hét lên. Mọi thứ trong người tôi sôi sục cả lên. Cuối cùng, Severin nói rõ lý do mình nổi nóng: “Tại sao anh bước vào mà lại bỏ mũ ra? Sao anh có thể báo cáo được trong tư thế đó? Anh không thấy là các cấp trên của anh đều đang đội mũ sao ? Tại sao anh báo cáo mà không đội mũ?!” Tôi không thể giữ được nữa và buột miệng: “Đấy là thói quen của một người có văn hóa, phải bỏ mũ ra khi bước vào phòng.” “Thế…ế à ?!” – đại uý gầm lên, “Vâng, thế đấy,” – tôi đáp lại. “Đằng sau quay ! Đi đều, bước !” – anh ta ra lệnh. Tôi quay lại theo đúng điều lệ quân đội, giẫm loảng xoảng đôi cựa thúc ngựa và bước ra ngoài hành lang. Tôi đứng đó, chờ một lúc lâu – không có gì xảy ra. Rồi chúng tôi thắt chặt đai yên ngựa và phóng trở về. Cuối cùng vẫn không biết được là tại sao Severin cho gọi tôi. Có thể là anh ta thích cái bản đồ màu mè tôi đã vẽ và muốn giao cho tôi tất cả công việc đồ họa của sở chỉ huy trung đoàn. Hoặc có thể là anh ta muốn chuyển hẳn tôi lên làm tại sở chỉ huy chăng. Tất nhiên làm việc ở đó thì nhẹ nhàng và an toàn hơn ở khẩu đội nhưng ở dưới một ông chủ như Severin cũng chẳng ngọt ngào gì. Câu chuyện vẫn chưa kết thúc ở đó. Severin không bao giờ quên lần gặp mặt ấy và từ sau anh ta luôn tìm cách nhắc lại với tôi khi có dịp.
Trong khi đó, tình hình Châu Âu ngày càng căng thẳng. Hiển nhiên chúng tôi đang ở trong trình trạng sẵn sàng chiến tranh. Các đợt huấn luyện khắc nghiệt bắt đầu, có cả bắn đạn thật. Tôi được lệnh phải giảng cho anh em trong toàn khẩu đội về chủ nghĩa yêu nước, về trách nhiệm bảo vệ Đất Mẹ của chúng tôi. Tôi không có trong tay tài liệu cụ thể nào nên phải lục óc ra để kể cho họ nghe về lịch sử nước Nga, bắt đầu từ thời giặc Tatar xâm lược. Họ bảo rằng tôi dạy tốt, dù trình độ các giám khảo không cao lắm. Họ bắt đầu thay vũ khí của chúng tôi bằng những thứ hiện đại hơn. Nhưng khi được nhận quần áo ấm, chuẩn bị gắn thanh trượt cho pháo, xe cộ và các rơ moóc thì chúng tôi nhận ra mình đang được chuẩn bị để chiến đấu ở Phần Lan, nơi chiến tranh đã nổ ra. Nhưng đấy chỉ là giả thiết bởi thậm chí họ chẳng thông báo điều gì cho đám sĩ quan chúng tôi.
Mọi chuyện trở nên khó khăn khi bắt đầu bước qua năm mới, năm 1940. Chúng tôi, các sĩ quan cấp dưới, quyết định tổ chức Lễ Giao thừa. Chúng tôi mua một chai rượu nhỏ, loại khai vị. Chính uỷ biết được chuyện đó và tập hợp tất cả chúng tôi lại họp chính trị buổi cuối trước Giao thừa. Trước tiên anh ta trình bày với chúng tôi về tình hình chính trị hiện tại, và rồi tuyên bố rằng Lễ Giao thừa là thói quen của bọn tư sản, không phù hợp với người Xô viết, lại càng không hợp với sĩ quan Hồng quân. Anh ta mời chúng tôi uống sữa với bánh mì đen và chỉ thả chúng tôi ra khi trời đã sáng, lúc giao thừa đã qua từ lâu.
Mùa đông tới, tuyết bắt đầu rơi và chúng tôi đã sẵn sàng để ra trận. Tôi được phân công vào trung đội thông tin, vô tuyến điện và điện thoại. Trung đội có nhiều trang thiết bị còn binh lính thì rất ương bướng ngang ngạnh. Chúng tôi đóng lại móng ngựa, tra dầu mỡ vào súng và chất các trang thiết bị lên xe ngựa.
Một lần, trong buổi điểm danh cuối ngày của trung đội, tôi tiến lại một người lính đứng trong hàng và chỉ cho xem đôi ủng của anh ta bẩn như thế nào. Anh ta cúi nhanh người xuống, cái lưỡi lê cắm trên khẩu súng anh ta đeo trên vai xé toạc trán và gò má tôi. Giá đứng gần người lính ấy thêm độ một hai xăngtimét nữa thì hẳn tôi đã bị khoét mất một con mắt rồi!
Tình trạng khó khăn và u ám không chỉ ở mình khẩu đội tôi. Xung quanh chúng tôi tất cả đều như thế. Trong làng đang bước vào mùa gặt. Cuộc “thanh trừng” bắt đầu xuất hiện trong thành phố. Bất cứ ai có lý lịch thuộc thành phần tư sản, chủ cửa hàng, thương nhân đều bị bắt và đưa đi đày. Vậy mà phần lớn cộng đồng Do Thái lại sống bằng nghề buôn bán.
Đến giữa tháng Giêng năm 1940 chúng tôi nhận lệnh hành quân tới ga xe lửa gần nhất để lên tàu. Chúng tôi lập thành đội hình hành quân. Những con đường vào thời điểm ấy phủ đầy tuyết giá. Chúng tôi khởi hành vào sáng sớm và dự định sẽ tới nhà ga vào ban đêm để bắt đầu lên tàu. Ngày mùa đông rất ngắn và trời tối rất sớm. Chúng tôi đi ngang vài thị trấn nhỏ, bên trong hình như đang tổ chức một lễ hội địa phương. Tiếng nhạc vang lên từ nhiều ngôi nhà cửa sổ sáng đèn. Một người lính của chúng tôi, đang lạnh và đói, từ trên lưng ngựa nhòm vào một cửa sổ đang mở và la lên : “Yến tiệc đi, lũ cặn bã, rồi chờ cho tới lúc chúng đến trừng phạt chúng mày.” Có lẽ đây là những lời tiên tri chính xác đến khủng khiếp.
Vận rủi bất chợt vồ lấy tôi. Hai người lính thông tin của tôi bỗng biến mất. Tôi báo cáo điều đó cho khẩu đội trưởng. Anh ta nổi giận và ra lệnh tôi phải quay lại tìm đằng sau trung đội chứ không đi phía trước nữa. Nhưng không thấy ai đi tụt hậu cả. Anh ta lại ra lệnh cho tôi phi ngược về phía sau để tự tìm họ cho bằng được. Tôi quành con ngựa đã mệt mỏi của mình lại, nhưng không cách nào kiếm được những gã tụt hậu ấy. Tôi tới hỏi một vài đơn vị thuộc ban chỉ huy nhưng họ không biết thêm được điều gì. Tôi cũng ghé vào mấy cái làng. Con ngựa của tôi đang khát nước. Tôi lấy nước ở một cái ao cho nó, đựng bằng cái áo mưa tẩm nhựa mà tôi để trong túi trên yên ngựa. Sương mù dày đặc và trời đã bắt đầu tối. Tôi đành quay ngựa lại. Con ngựa bị trượt ở một khúc quanh và tôi, phần vì mệt và phần vì ngồi không vững, văng từ trên yên cắm xuống tuyết. Con ngựa vẫn chạy tiếp. Tôi đứng dậy từ đống tuyết, khắp mình trắng xoá, bụng nghĩ rằng chuyến này mình chắc tiêu rồi. Tôi sắp lạc mất con ngựa rồi. Ồ không, con Búp Bê yêu quí chỉ phóng đi chừng 10 mét, đang đứng lại nhìn tôi. Tôi chạy đến bên nó, vuốt ve và áp má mình vào cổ nó. Lấy một phong sôcôla khỏi túi, chúng tôi cùng chia cho nhau. Búp Bê khụt khịt và lấy môi ngoạm phần của nó từ tay tôi. Tôi lại dắt nó đi dọc con đường phủ tuyết. Tối hôm ấy trời rất tối và dày đặc sương mù. Tôi chỉ có một mình mà sức lực thì đã cạn kiệt. Bỗng tôi thấy một cái trại lẻ loi, có lẽ là trại của bọn “kulak”, trên một ngọn đồi nằm cạnh dải rừng hoang. Không còn chọn lựa nào khác, tôi tiến lại cánh cổng và gõ cửa. Một lúc lâu không có ai đáp lại. Cuối cùng, có ai đó hỏi bằng tiếng Ba Lan rằng tôi cần gì. Tôi đáp mình là một sĩ quan Nga và xin họ cho nghỉ qua đêm. Các cửa sổ bật sáng, bên trong có vài cái bóng đi qua đi lại. Chắc họ đang cân nhắc xem có nên cho tôi vào hay không. Hay có thể họ định cho tôi vào để giết chết cũng nên…. Cuối cùng, một người đàn ông xách cái đèn lồng ra mở cửa cho tôi. Tôi dắt con ngựa của mình vào trong căn nhà kho ấm áp, nơi có mấy con bò đang rống lên, buộc con Búp Bê vào ngăn chuồng còn trống. Tôi xoay sở một cách khó nhọc để tháo cái yên khỏi lưng nó, thay cái dây cương bằng một dây thừng buộc vào cột, trải cho một nắm rơm, rắc chút yến mạch trong túi cho nó rồi lót rơm dưới chân nó.
Tôi bước vào căn nhà. Một ngọn đèn dầu với cái bấc cuộn xuống đang cháy lập lòe. Những người chủ nhà đang yên lặng quan sát tôi. Tôi nói rằng mình cần nghỉ ở đây cho tới sáng và hỏi xem có chút gì ăn không. Họ mang ra cái ca thiếc đựng sữa và một ít khoai tây luộc. Tôi dùng bữa ăn khiêm tốn ấy, đặt ba rúp lên bàn và ra thăm lại con ngựa của mình. Bây giờ tôi đã có thể cho nó uống nước. Uống xong, Búp Bê nằm dài xuống đám rơm. Tôi rất muốn chợp mắt, nhưng lấy gì bảo đảm là tôi sẽ thức dậy? Đã có nhiều trường hợp binh lính Xô viết bị giết một cách lặng lẽ. Không ai biết là tôi đang ở đây. Thật dễ dàng để những người đó, những người có đủ lý do để nghĩ rằng tôi là một kẻ thù hơn một người bạn, giết tôi khi đang ngủ. Con ngựa, bộ yên cương, khẩu súng ngắn, ống nhòm, giầy bốt, quần áo – tất cả những cái ấy đều rất có giá trị và rất dễ lấy. Và lấy ai để trông chừng cho tôi? Khẩu đội của tôi thì đang lên tàu và có lẽ đã khởi hành, xem tôi như một kẻ lạc đơn vị. Tôi cởi áo choàng và đôi giày ra, nhét hết đồ đạc vào túi áo quân phục của mình và nằm dài trên giường sau khi đã nhét khẩu súng ngắn và cái bao da xuống dưới bụng. Rồi lăn ra ngủ như chết trong suốt mấy tiếng đồng hồ. Trời bắt đầu sáng dần. Tôi phải đi bởi có thể bị trễ lên tàu, lúc ấy biết đi đâu với con ngựa bây giờ? Làm thế nào để đuổi cho kịp tàu với con ngựa của mình đây?
Tôi mặc áo choàng vào, gác yên con Búp Bê và lên đường. Mặt trời đang mọc. Có vài người đang dọn tuyết trên đường. Ở đấy chính là đường ray xe lửa và nhà ga! Nhưng trời ơi, tất cả đều trống trơn. Tim tôi như đông cứng lại. Phải chăng tôi đã tới trễ và tất cả khẩu đội đều đã lên đường? Tôi đi kiếm trưởng ga và người chỉ huy an ninh. Hoá ra khẩu đội của tôi vẫn chưa tới được đây và đang dừng lại nghỉ đêm ở ngôi làng kế cận. Việc chuyển quân lên tàu chỉ được tiến hành vào lúc chiều tối. Và rồi những người lính thông tin của tôi xuất hiện. Hóa ra những tên vô lại ấy thay vì hành quân với mọi người thì lại quyết định tự đi tới nhà ga bằng cách quá giang một chiếc xe tải cùng đường. Tôi có thể phạt giam họ mười ngày cấm cố chỉ có bánh mì và nước lã. Nhưng do đang chuyển quân nên chúng tôi không có thời giờ để làm việc ấy. Trò ranh ma đê tiện của chúng dã không bị trừng trị.
Chúng tôi được chất lên những “teplushkas”, các toa trần có gắn giường ngủ và cái bếp lò nhỏ bằng sắt – các chỉ huy đi chung với trung đội của mình. Khi đốt lò lên, ở trên thì nóng mà ở dưới lại lạnh. Họ đưa chúng tôi về phía bắc. Lúc này thì không còn nghi ngờ gì nữa, đúng là chúng tôi đang bị đưa đi đánh nhau ở Phần Lan. Vào thời điểm này trong năm thời tiết rất lạnh, tàu chúng tôi càng đi xa thì sương giá càng dày đặc. Chỗ tôi ở là giường tầng hai, gần một cửa kính băng giá phủ kín. Một đêm, khi đang ngủ, một nhúm tóc của tôi bị dính chặt vào lớp băng trên kính cửa. Tàu đi rất chậm nhưng điều đó không làm chúng tôi buồn chán. Chúng tôi không muốn nhanh chóng đi gặp chiến tranh. Tôi hướng dẫn anh em trong các khóa học về trang thiết bị thông tin, giảng về các chủ đề chính của tình hình chính trị hiện đại. Tại các ga chúng tôi thường được hỏi mua lại số makhorka (một loại thuốc lá Nga nặng và rẻ tiền) mà chúng tôi được phát. Tôi là người không hút thuốc nên thường phân phát hết suất makhorka của mình cho anh em binh sĩ. Nhưng có lần, tại một ga nọ, một công nhân đường sắt lớn tuổi lại gần tôi hỏi mua makhorka. Tôi đưa cái gói phần mình cho ông nhưng từ chối lấy tiền. Ông già nói với tôi một cách chân thành và tự tin “Chúa hãy ban cho anh sống sót mà trở về.” Thật lòng, sau này tôi thường nhớ lại lời cầu phước đó, bởi sau chiến tranh bạn thường trở nên mê tín. Mỗi khi thoát khỏi những tình huống hiểm nguy mà vẫn còn nguyên vẹn, tôi lại vô tình nghĩ rằng đã mua lấy mạng mình bằng một gói makhorka.
Bologoye nằm giữa chặng đường từ Maskva tới Leningrad. Chúng tôi tới đây từ sáng sớm, mọi người vẫn còn đang ngủ trên các toa. Mọi nhánh đường đều kẹt cứng các đoàn tàu chất đầy trang thiết bị quân sự. Chúng tôi tới một trạm dừng gần một đoàn tàu chở các máy bay đã tháo rời. Tôi là sĩ quan chịu trách nhiệm tới gặp người chỉ huy quân sự ở đây để báo cáo về sự có mặt của chúng tôi. Nhìn những khẩu pháo trên phù hiệu của tôi, người chỉ huy cho rằng tôi thuộc trung đoàn pháo binh vừa tới nên mỉm cười thân mật: “Vừa đến hả? Nào, bây giờ anh phải ở lại với chúng tôi một lúc đã. Chúng tôi sẽ xếp cho các anh sang tuyến tránh ngay bây giờ. Hãy đưa cho tôi xem giấy tờ nào.” Tôi đưa cho anh ta. Đọc xong số hiệu đoàn tàu, trong đó cái từ “bộ binh” khắc nghiệt được viết dưới dạng mật mã, tay chỉ huy liền cau mày. Nụ cười biến mất trên gương mặt và anh ta đổi sang một giọng khác, lạnh lùng : “Về bảo với mọi người không được ra khỏi các toa xe. Chúng tôi sẽ gửi các anh đi ngay lập tức.” Và tàu chúng tôi chuyển bánh đi Leningrad ngay lập tức. Chúng tôi cho rằng trong các khu rừng và đầm lầy Phần Lan thì bộ binh chắc hẳn phải là lực lượng được sử dụng chủ yếu và sẽ chịu những tổn thất to lớn. Do đó chúng tôi không ngạc nhiên khi bị chuyển thẳng tới tuyến đường sắt chính dẫn ra mặt trận. Nơi đấy cần có bộ binh ở tuyến đầu. Bộ binh – đấy là chúng tôi. …
Phần 2: Chiến dịch Băng giá
Và chúng tôi đã tới Leningrad – thành phố vĩ đại của Piotr Đại đế và Lenin, thành phố của cuộc cách mạng làm kinh động thế giới, thành phố của những dinh thự, bảo tàng và các công trình kiến trúc tuyệt đẹp. Vậy nhưng lúc này ta không cách nào nhận ra được tất cả những thứ ấy. Đây là một Leningrad khác, lạnh lẽo, thô lỗ, thành phố tiền tuyến, ảm đạm, u ám, dày đặc sương mù và phủ đầy tuyết. Đoàn tàu chở chúng tôi dừng tại một ga chở hàng. Súng ống, đạn dược, xe ngựa, xe goòng và tất cả những phương tiện giao thông sử dụng ngựa kéo được chuyển tới đây xuyên qua thành phố dưới màn sương dày. Các chuyến xe điện, kính bám đầy tuyết, đổ về đây đón người và đưa họ đi qua những con phố tối tăm lạnh lẽo để tới phía bắc thành phố. Chúng tôi đi qua thành phố và tập trung tại một ngôi làng ngoại ô, nơi chúng tôi được vào trú chân trong những ngôi nhà nông dân lèn chật ních người. Nhưng giờ đây, chúng tôi hài lòng với bất cứ chỗ trú thân nào trong cái giá lạnh khắc nghiệt ấy. Các sĩ quan được gọi lên để nhận chỉ thị. Chúng tôi được lệnh sáng mai bắt đầu hành quân, xuyên qua biên giới Phần Lan để tiến vào khu vực đang xảy ra chiến sự. Phải chuẩn bị sẵn sàng cho bất kỳ tình huống nào có thể xảy ra trong chiến tranh.
Trung đoàn bộ binh 306 tham gia chiến dịch Phần Lan trong thành phần của Sư đoàn bộ binh 62. Sư đoàn này được thành lập tại Belaya Tserkov và Fastov thuộc Quân khu Kiev. Sư đoàn được biên chế trong Tập đoàn quân 13 tại bán đảo Karelia theo Mật lệnh quân sự 18.01.1940. Sư đoàn nhận lệnh tập trung quanh làng Lipola vào ngày 30 tháng Giêng năm 1940. Sư đoàn đã hành quân tới mặt trận ngày 3 tháng Hai năm 1940 và tới 17 tháng Hai được chuyển tới biên chế cho Binh đoàn Bộ binh 23 từ lực lượng dự bị của Tập đoàn quân 13. Hành quân từ Lipola tới Kangaspelto từ 17 tới 20 tháng Hai 1940. Tham gia tấn công Volossula ngày 19 tháng Hai 1940, Kelya ngày 20 tháng Hai, sau đó đóng quân tại khu vực Mutaranta trong thời gian từ 21 tới 23 tháng Hai 1940. Lên xe lửa ngày 21 tháng Ba năm 1940 và di chuyển tới Quân khu Kiev từ Leningrad. Các thông tin trên lấy từ tập 1 bộ “Hãy đón chào chúng tôi, hỡi Phần Lan xinh đẹp”. St.Petersburg 1999, ISBN 5-8172-0022-8, chủ bút – Yevgeniy Balashov, NXB OOO Galea Print. (Theo Bair Irincheev).
Vào lúc tảng sáng, chúng tôi lập thành một đội hình hành quân và tiến về biên giới Phần Lan, cái biên giới hóa ra rất gần với ngoại ô Leningrad. Chúng tôi rất ngạc nhiên: một thành phố to lớn, là một trong những trung tâm quan trọng nhất nước ta, lại nằm gần như thế cạnh biên giới một nước thù địch. Vượt qua các cột mốc biên giới và khu “vành đai trắng”. Về phía biên giới của ta, các chốt canh không che bằng ván gỗ mà chăng lưới kẽm gai xen lẫn những bó cành thông và linh sam bện lại. Đó là cách nguỵ trang của lính biên phòng để chống bọn bắn tỉa của Phần Lan. Và thế là, sau khi đã vượt qua biên giới Ba Lan, chúng tôi đã vượt tiếp một dải biên giới nữa của tổ quốc. Bởi điều đó là cần thiết.
Đất nước Phần Lan. Nhà cửa bị đốt cháy khi rút lui, cầu cống nổ tung, đó đây lỗ chỗ hố đạn và hố mìn đen ngòm. Đôi chỗ có những biển báo, yêu cầu tất cả hoạt động vận chuyển chỉ được thực hiện trên đường lộ do hai bên đường đều bị cài mìn, nguỵ trang dưới lớp tuyết. Dây điện thoại dã chiến, bị bọn Phần Lan bỏ lại, lộ ra rất rõ dưới tuyết, mảnh, nhẹ, bọc trong vỏ nhựa màu. Dây thông tin của chúng ta thì nặng, làm bằng thép và bọc lớp cách điện màu đen rất dày. Ống quấn dây cũng bằng sắt, rất nặng và rất khó cuộn lại hay rải ra.
Chiến tuyến tại bán đảo Karelia ngày mùng 1 tháng Giêng năm 1940.
Sương giá thật khủng khiếp. Không tài nào cưỡi ngựa được. Chúng tôi phải đi bộ, ngựa dắt theo sau. Sương giá bám đầy trên những bộ lông ngựa. Các kỹ sư công binh phải đốt lên những đống lửa dọc hai bên đường hành quân. Bạn có thể dừng lại sưởi ấm đôi chút, mặc cho khói bốc vào mũi làm nghẹt thở. Tới cuối ngày đầu tiên chúng tôi dừng lại nghỉ đêm tại điểm trú quân của một đơn vị công binh, trông ra con đường có mấy cây cầu lắp ghép. Đó là cái kho thóc và chuồng ngựa còn lại của một trang trại, các dãy nhà chính và nhà phụ đã bị chính tay người Phần Lan đốt bỏ khi rút lui. Kho thóc và chuồng ngựa đó giờ đây chẳng khác nào cung điện đối với chúng tôi. Sự hiếu khách của đám công binh, điều hiếm khi xảy ra, thật đáng cảm động.
Ngày hôm sau chúng tôi bắt đầu tới gần mặt trận. Điều đầu tiên đập vào mắt chúng tôi là những xác chết đông cứng của binh lính và sĩ quan ta nằm rải rác, bị tuyết phủ kín. Họ nằm lại ngay nơi họ bị thần chết túm lấy, trong các tư thế khác nhau. Trước đây chúng tôi đối xử với người chết rất tôn trọng. Có áo quan, lễ tang, lễ tiễn biệt, mọi người dừng lại xung quanh để tưởng niệm, che đi những tấm gương, vặn cho đồng hồ dừng lại. Nhưng giờ đây dường như chẳng còn ai quan tâm tới những điều ấy nữa. Cứ như thể họ, những người đã đi trước, đang nói với chúng tôi rằng cái chết là điều vẫn thường xuất hiện nơi đây. Họ đã bị giết, nên cứ để họ lại, như vậy cũng là bình thường thôi. Đấy chính là chiến tranh, và mọi chuyện ở đây tất nhiên là phải khác với trong cuộc sống thời bình. Ở đây bạn phải làm quen với chuyện đó.
Chúng tôi đã tới chiến tuyến, đằng sau là tuyến phòng thủ cuối cùng của Phần Lan. Những đơn vị phía cánh phải và cánh trái vui vẻ sắp xếp chỗ ở cho chúng tôi, giao cho sư đoàn chúng tôi phụ trách một khu vực đơn lập. Sau này tôi nghe kể các sĩ quan bộ binh đã phát biểu một cách ác ý rằng cánh “hàng xóm” đã giao cho chúng tôi đảm trách khu vực khốc liệt nhất để mình được rút tới nơi dễ thở hơn.
Vâng, chúng tôi đã tới “Phòng tuyến Mannerheim”. Những dãy lô cốt bêtông, tua tủa các họng đại bác và súng máy, nằm trên những ngọn đồi được che khuất bởi những khu rừng rậm rạp. Những “cửa sổ” không đóng băng khoét trên mặt băng của các đầm lầy trũng xen giữa các lô cốt, luôn được kiểm tra thường xuyên, đổ đầy dầu và rắc tuyết lên trên. Ngã vào những “cửa sổ” đó nghĩa là cầm chắc cái chết. Thêm vào đó, những khoảng đất trống giữa các lô cốt luôn nằm trong tầm hỏa lực chéo cánh sẻ bắn ra từ các lô cốt.
Chúng tôi dừng lại. Trung đoàn 306 chúng tôi được đưa lên tuyến đầu, hai trung đoàn còn lại của sư đoàn chúng tôi được bố trí dự bị ở phía sau. Như thường lệ, chúng tôi lại là những kẻ “may mắn”. Bắt tay vào đào các công sự chiến đấu. Mặt đất bị đông cứng, chúng tôi phải cho nổ chúng lên bằng thuốc nổ TNT. Chúng tôi chặt gỗ thông để lợp mái do nơi đây có rất nhiều rừng.
Vì lý do gì đó phải gặp chính trị viên nên tôi đi hỏi tìm anh ta. Mọi người bảo anh ta đang đi lấy vodka cho khẩu đội. Tôi không tin vào tai mình nữa. Hắn, một tay chống rượu, người đã phá hỏng bữa tiệc mừng Giao thừa của chúng tôi chỉ vì sợ chúng tôi sẽ uống một cốc rượu vang. Vậy màø bây giờ chính hắn lại là người đi lấy vodka đem về. Nhưng đời là vậy đấy. Người ta phát cho chúng tôi 100 gram vodka mỗi ngày. Nó giúp chúng tôi nóng người và cảm thấy phấn chấn trong giá rét, đồng thời nó làm chúng tôi thêm can đảm khi tấn công. Khoảng hai ngày sau khi chúng tôi tới mặt trận, chủ nhiệm pháo binh trung đoàn gọi tất cả sĩ quan của các khẩu đội lên gặp mặt. Ông thông báo rằng đợt tấn công vào các vị trí của đối phương sẽ bắt đầu vào ngày hôm sau. Hôm nay sẽ có vài sĩ quan cao cấp của ban tham mưu sư đoàn dẫn một nhóm sĩ quan chúng tôi đi trinh sát. Tôi trở về khẩu đội để bố trí người thay tôi chỉ huy trung đội trong khi tôi vắng mặt. Có hai cậu lính thông tin đề nghị tôi cho phép đi cùng để “xem bọn Phần Lan thế nào”. Tôi đồng ý một cách bất đắc dĩ.
Và thế là một nhóm gồm những sĩ quan bộ binh và pháo binh, khoảng 12 tới 15 người, rời khỏi doanh trại để tiến theo hướng Bắc vào khu rừng. Chúng tôi đi theo hàng một, vượt qua lối mòn tạo bởi một rãnh tuyết sâu. Người sĩ quan cấp cao dẫn đầu, chúng tôi theo sau. Mấy tay lính thông tin hiếu kỳ của tôi đi chặn hậu. Tay phải chúng tôi là một dãy đồi, còn phía tay trái là một khoảng dốc trống trải. Buổi sáng hôm đó trời rất đẹp: sương giá, trời xanh trong, mặt trời chiếu sáng và xung quanh rất yên tĩnh. Tiếng động duy nhất là tiếng tuyết kêu cót két dưới chân. Chúng tôi tiến sâu dần vào rừng. Tôi nhìn quanh và không thể nhận ra đâu là vị trí chúng tôi, đâu là chỗ bố trí bộ binh và đâu là chỗ bố trí các đơn vị tiền tiêu nữa, dù chúng tôi vừa mới rời doanh trại được không xa. Xung quanh chỉ thấy toàn rừng thông, rãnh tuyết và một sự yên tĩnh giả tạo. Một cảm giác lo sợ và cảnh giác dần dần xuất hiện. Mấy cậu thông tin đi sau chúng tôi bắt đầu bị tụt lại. Hiển nhiên họ hiểu là chúng tôi đang được dẫn thẳng tới thăm bọn Phần Lan. Đột nhiên, khu rừng kết thúc bởi một hẻm núi dốc đứng, và chúng tôi cảm thấy phấn khởi trước sự quang đãng ấy. Một con suối nhỏ đóng băng chảy dọc theo đáy hẻm núi đó. Một cây cầu bắc ngang qua nó, bị chặn bởi một đống đá to. Ở bờ bên kia của hẻm núi, ngay trước mặt chúng tôi khoảng không hơn 100 mét, chễm chệ một ụ lô cốt bê tông, chĩa thẳng những nòng đại bác và súng máy qua lỗ châu mai vào chúng tôi. Sau lô cốt thấp thoáng mấy bóng người đang đào những rãnh chiến hào sâu trong tuyết. Tôi không thể tin vào mắt mình nữa. Chúng tôi được dẫn ra giữa khoảng đất trống, ngay trước họng súng của bọn Phần Lan. Tất cả bọn tôi sẽ bị quét sạch lập tức bởi một loạt súng máy. Vài chiếc xe trượt nằm cạnh chỗ chúng tôi, trên có một chiếc chậu tráng men xanh nhạt, trông thật tương phản với màu tuyết trắng. Tất nhiên, đấy chính là cái mốc đặt sẵn làm điểm chuẩn ngắm bắn.
Trong khi đó, ông sĩ quan chỉ huy vẫn đang lên lớp, tay khoa trong không khí: “Phải bố trí đại bác ở vị trí này để tăng rộng góc xạ kích, còn bộ binh thì phải tiến quân dọc theo đáy khe núi.” – và nói thêm mấy câu gì đó tương tự. Đầu óc tôi quýnh cả lên: “Tại sao bọn Phần Lan không nổ súng ngay? Chúng có trông rõ chúng ta không?” Hai người trong bọn tôi, phấn khởi vì sự im lặng từ phía cái lô cốt, bắt đầu tụt xuống và ném vài hòn đá về phía cây cầu. Viên sĩ quan chỉ huy đang tiếp tục bài hướng dẫn của mình, nhưng phía địch vẫn im lặng, tại sao vậy?
Và rồi, thình lình mấy phát súng vang lên sau lưng chúng tôi, phá vỡ sự yên tĩnh. Tôi quay lại: mấy cậu lính thông tin, đứng trên con đường mòn cách chỗ chúng tôi một quãng xa, đang nã súng về phía tay trái, vào cái khe núi. Tại đấy, giữa đám rừng, xuất hiện mấy bóng người trượt tuyết mặc đồ trắng đang phóng ra sau chúng tôi, cố gắng cắt đứt đường rút lui. “Bọn Phần Lan” – tôi hét lớn, và toàn nhóm chúng tôi hốt hoảng thối lui, chân lún trong lớp tuyết dày. Thế là đã rõ lý do tại sao chúng tôi không ăn đạn từ phía lô cốt: chúng muốn bắt sống chúng tôi bằng cách chặn đường rút lui. Làm thế nào mà chúng tôi có thể xoay sở được với mấy khẩu súng ngắn, chân thì lún sâu trong tuyết, trong khi có cả một toán Phần Lan trang bị đầy đủ súng máy bao vây xung quanh? Một nửa bọn tôi sẽ bị giết, nửa còn lại sẽ bị bắt làm tù binh. Quân địch cần biết thông tin về lực lượng đối phương, và chúng sẵn sàng tra tấn những người còn sống để moi lấy nó. Thật may mắn là bọn lính trượt tuyết Phần Lan lại tiến thẳng tới chỗ mấy người lính thông tin, và họ đã nổ súng vào chúng. Tất nhiên phía Phần Lan không thể ngờ rằng chỉ có mỗi hai người đi đằng sau nhóm chúng tôi (mà ngay điều đó cũng chỉ do tình cờ), chứ không phải cả một trung đội cảnh vệ. Đấy là lý do tại sao chúng không dám khép kín vòng vây.
Nhóm chúng tôi mau chóng quay trở về. Một vài người chửi rủa không cần giấu diếm, những người còn lại thì im lặng và buồn rầu, trong bụng hiểu rõ chuyến mạo hiểm này đáng lẽ đã kết thúc không hay thế nào. Một người trong nhóm cất tiếng cười nhạo những gì đã xảy ra, cố gắng che giấu nỗi sợ hãi của bản thân. Người sĩ quan chỉ huy cũng thử bắt chuyện sang một vấn đề khác, nhưng không còn ai lắng nghe ông ta, mọi người đều đang cố thoát khỏi khu rừng nguy hiểm này càng nhanh càng tốt. Cuối cùng chúng tôi cũng về tới doanh trại của mình. Nhưng điều đầu tiên chúng tôi nhìn thấy không phải những đội tiền tiêu hay những tuyến lính bộ binh mà là một xe nhà bếp cùng một tay anh nuôi đang trút tuyết vào nồi. Có ai đó trong nhóm bảo với tay anh nuôi rằng đang lẽ chúng tôi không nên đi xa đến thế, và rằng bọn Phần Lan đang ở rất gần. “Bọn Phần Lan nào? Tôi mà gặp thì sẽ lấy cái muôi này choảng chúng một trận nên thân!” Thái độ lạc quan đó còn phổ biến trong phần lớn binh sĩ, cho tới khi chúng tôi phải thực sự tắm mình trong máu. Tất nhiên, không một ai ngỏ lời cám ơn tôi vì đã đem theo mấy cậu lính đã cứu mạng cả nhóm. Những trận chiến và mối hiểm nguy thực sự vẫn còn ở phía trước.
Phần còn lại trong ngày là dành cho việc chuẩn bị cho trận đánh diễn ra vào hôm sau: tôi phải đi kiểm tra lại radio và máy điện thoại. Tới xế chiều chúng tôi gọi một lần nữa cho cấp trên để xin chỉ thị hướng dẫn. Khi về tới hầm trú ẩn vào chập tối, cởi cái áo khoác ngoài cửa và bật đèn pin lên, tôi bỗng phát hoảng. Bên trong đầy binh lính ngủ chồng chất lên nhau, cát không ngừng rơi từ nóc hầm xuống – căn hầm quá nhỏ. Tôi phải tới ngủ nhờ hầm của chính trị viên. Anh ta dùng một cái lều tròn xinh xinh cho riêng mình, bên trong trang bị cả lò sưởi. Tay chính trị viên đang “sửa soạn” cho trận đánh ngày mai bằng cách khâu một cái cổ áo trắng vào bộ quân phục của mình. Tôi lăn ra ngủ tại chỗ anh ta, không cởi quần áo mà nằm ngay trên sàn làm bằng tuyết nện kỹ trên lớp cành thông.
Buổi sáng diễn ra trận chiến đầu tiên, tôi cùng với mấy cậu lính thông tin của mình được lệnh đi theo các trung đội hỏa lực để tháp tùng một xe giàn chất radio và các thiết bị điện thoại liên lạc, khẩn trương thiết lập đường dây thông tin chỉ huy. Chúng tôi đi vào rừng, theo sau đám bộ binh. Người lính hy sinh đầu tiên của trung đoàn chúng tôi nằm đó, trên khoảng đất trống. Điều đó có nghĩa là bọn Phần Lan đã chủ động phục sẵn ở khoảng trống này từ hồi đêm để phục kích các đơn vị tấn công của chúng tôi. Một cái mũ sắt bị một viên đạn xuyên thủng và một mặt nạ phòng độc, ống thở bê bết máu, nằm lăn lóc cạnh xác người lính.
Chúng tôi di chuyển dọc theo khu rừng về phía cái lô cốt đã trinh sát ngày hôm qua. Từ phía đó vang lên những tiếng hô “Hurrah!”, tiếng nổ và tiếng súng máy. Người thương binh đầu tiên xuất hiện, mình băng trắng và đang rên rỉ. Theo cẩm nang dã chiến thì việc di chuyển thương binh phải được thực hiện trên một con đường không trùng với tuyến chuyển quân tiếp viện, nhằm không làm suy giảm ý chí chiến đấu của họ. Nhưng ai mà còn hơi sức nghĩ tới những chuyện như thế trong khi đánh nhau? Đạn cối đang bay về phía chúng tôi, nổ tung lên hàng cột đất và tuyết. Tôi đang đi bên trái của chiếc xe giàn, chân ngập trong tuyết. Đột nhiên, có một điều gì đó thúc tôi băng sang bên phải, dù đường bên đó khó đi hơn. Tôi vừa đi được mấy bước thì một quả đạn cối rít tới cắm đúng vào khoảng đất phía bên trái chiếc xe, nơi hồi nãy tôi vừa bước đi. Nó chui sâu vào tuyết nhưng không phát nổ. Nếu tôi không băng qua phía bên kia xe giàn, rất có thể tôi đã mất mạng. Nhưng ngay cả việc bước sang phía bên kia chiếc xe cũng không thể cứu mạng tôi trong trường hợp quả đạn phát nổ. May mắn thay, không phải tất cả đạn pháo của quân Phần Lan đều nổ. Về sau tôi được biết rằng có một số đạn dược được chuyển cho Phần Lan bởi chính những đồng minh phương Tây từ kho vũ khí quá hạn của họ: “Lạy Chúa, hãy nhận lấy những thứ mà chúng tôi không dùng nữa”.
Điều gì đã khiến tôi đổi chỗ đúng một phút trước khi quả đạn bay tới? Hình như đó là bản năng, thứ giúp một con thú rời bỏ chỗ trú ngay trước khi viên đạn bắn tới. Thôi đành cứ tạm nghĩ như vậy.
Lính bộ binh tấn công lô cốt ngay từ chính diện, chịu tổn thất nặng. Nhưng cũng có thể đi vòng qua và tấn công từ sau lại, bởi đằng sau không có các lỗ châu mai gắn đại bác và súng máy. Nhưng anh không thể đứng ra phê phán các vị chỉ huy. Họ không thể mắc sai lầm, chẳng khác nào chính vợ của Xêda. Cuối cùng, chúng tôi cũng tìm cách chiếm được cái lô cốt. Một chiếc xe tăng phun lửa tiến tới và phụt vài cột lửa vào mấy lỗ châu mai (có thể khẳng định đó là loại tăng T-26 có gắn súng phun lửa – Valera Potapov). Bọn Phần Lan rút chạy. Đường rút của chúng được yểm trợ bởi một xạ thủ trung liên, hắn kéo khẩu súng của mình lên nóc lô cốt và đã hy sinh một cách anh hùng trong khi bắn trả quân tấn công. Khi lính bộ binh của chúng tôi đang tiến lên truy kích, tôi chạy tới thử nhìn vào trong cái lô cốt vừa chiếm được. Và sự tò mò của tôi đã được đền đáp xứng đáng. Khi lô cốt này thất thủ thì những lô cốt lân cận, vẫn còn nằm trong tay quân Phần Lan, lập tức nã pháo vào nó. Nhiều quả đạn nổ tung, nhưng may mắn là không gây tổn thất gì cho chúng tôi. Những lớp tường bê tông dày được bọc bằng nhiều tấm giáp kim loại chống chấn động. Đó là lý do tại sao các loạt đạn xuyên thép không thể bắn thủng tường mà chỉ bật đi. Xác binh lính của chúng tôi nằm ngổn ngang phía trước lô cốt, vài cái trong số đó bị cháy nám vì lửa phun ra từ chiếc xe tăng và bị xích của nó nghiền nát. Đó là vì chiếc xe tăng đã tới lô cốt sau họ (Tại sao họ không đưa nó tới sớm hơn?) và lăn lên trên mấy xác chết. Một cảnh tượng thật kinh khủng.
Cái xác nhỏ bé của tay xạ thủ súng máy nằm lăn lóc ngay trước lối vào lô cốt, và lính của chúng tôi mỗi khi bước vào lô cốt đều căm giận đá nó một cái. Khẩu súng cũng nằm cạnh đó. Đó là một khẩu Maxim kiểu cũ. Tôi nhìn thấy trên lá chắn có dòng chữ: “Xưởng vũ khí Hoàng gia Tula. 1915.” Thật là một sự trớ trêu của số phận. Vũ khí Nga được sử dụng để chống lại chính người Nga.
Xe tăng phun lửa OT-26 đang tiến công.
Vài thứ đồ đạc bên trong lô cốt cũng bị đốt cháy bởi họng súng phun lửa. Tôi nhìn thấy một đồng tiền kim loại nằm trên bàn, có lẽ là bùa khước của một trong những lính phòng thủ lô cốt. Tôi vội vã cầm lên. Đó là một đồng tiền cổ Thụy Điển mệnh giá ba crown. Khi rời lô cốt, tôi chạy tới khoe với khẩu đội trưởng: “Nhìn này,” – tôi la lên, – “Xem tôi tìm được gì đây! Đây là đồng tiền cổ Thuỵ Điển, có lẽ từ thế kỷ XVI, rất có thể thuộc vương triều Vaaza.” Tay khẩu đội trưởng giằng lấy đồng tiền, ngắm nghía rồi thình lình vung tay ném mạnh vào một đám tuyết. “Anh không được phép sử dụng ngoại tệ,” – hắn lên lớp và ngạo mạn bỏ đi. Tôi cảm thấy bị xúc phạm ghê gớm. Đã hơn bốn mươi năm kể từ ngày ấy, rất nhiều sự kiện đã qua đi, vậy mà tôi vẫn thấy điên người mỗi lần nhớ tới tay khẩu đội trưởng ngu xuẩn nọ, và vẫn còn tiếc đồng tiền ấy, đáng ra có thể trở thành một vật bổ sung có giá trị cho bộ sưu tập tiền cổ của tôi, gắn với những kỷ niệm đáng nhớ tới vậy.
Trong suốt ngày đầu tiên, cùng với những bộ binh tấn công lô cốt còn có rất nhiều người đã cố tới để “xem bọn Phần Lan thế nào” cũng thiệt mạng. Kỹ thuật viên pháo binh của khẩu đội, người hoàn toàn không có trách nhiệm gì ngoài chiến trường, cũng chết theo kiểu ấy. Khi người ta mang anh ta, bị thương nặng, ngang qua chỗ chúng tôi, anh ta hét lên với khẩu đội trưởng rằng người anh đang bị đông cứng lại. Thực ra, băng giá dữ dội không chỉ huỷ hoại những vết thương, mà còn bởi anh sẽ phải cởi quần áo để băng bó trong giá tuyết. Người chuyên viên kỹ thuật chết vào ngày hôm sau, tại trạm quân y. Rất nhiều người trong khẩu đội tôi cũng bị trúng đạn trong khi đang cố lăn khẩu pháo tới chỗ trống để nổ súng.
Người ta kể rằng trước trận đánh đầu tiên, một chính trị viên tới nói chuyện với những binh lính sẽ đi tấn công cái lô cốt và kêu gọi họ hãy thể hiện xuất sắc chủ nghĩa anh hùng. Tới sát giờ tiến công, tay chính trị viên chuẩn bị rút lui, có mấy người lính lên tiếng: “Hãy cùng đi với chúng tôi, đồng chí chính uỷ.” Tôi có thấy xác viên chính uỷ ấy. Anh ta nằm úp mặt xuống đất cùng mấy xác chết khác và nổi bật giữa đám xác ấy bởi những nút mạ vàng đính trên thắt lưng áo khoác quân phục của mình.
Trong ngày hôm đó, sau trận đánh, chỉ còn đám bộ binh là tiếp tục truy kích quân Phần Lan, khẩu đội pháo của chúng tôi đóng lại đấy một thời gian nữa. Lần đầu tiên chúng tôi qua đêm ngay dưới bầu trời rộng lớn, giữa màn sương, ngồi quanh đống lửa bởi các hầm trú ẩn đều chứa đầy thương binh. Điều đó nghĩa là trạm quân y cũng đã quá tải. Khó mà ngủ được khi đang ngồi quanh đống lửa giữa sương giá. Bạn bị cháy bỏng trước mặt, nhưng lưng bạn lại lạnh cóng. Trong lúc ngủ gà ngủ gật bạn chúi người về trước và thế là quần áo sẽ bắt lửa. Thật là một cuộc chiến tranh đáng nguyền rủa.
Chúng tôi bắt đầu triển khai tấn công. Khi rút lui, quân Phần Lan đánh trả rất ác, đốt bỏ tất cả nhà cửa, gài mìn lại khắp mọi nơi. Trong một lần tháo chạy vội vã chúng thậm chí còn đốt bỏ cả chuồng trại còn nguyên gia súc bên trong. Chúng giết chết lũ chó không muốn rời bỏ những căn nhà đang cháy của mình. Chúng đặt mìn bên cạnh các lối mòn mà chúng sử dụng để rút lui. Khi con đường đó được sử dụng làm tuyến giao thông cho ôtô và xe tăng thì mìn phát nổ. Các đơn vị trượt tuyết trang bị nhẹ với những khẩu súng cối kéo trên những xe trượt gọn nhẹ, liên tục tấn công chúng tôi. Họ dựa vào rừng rậm và bất cứ chướng ngại vật tự nhiên nào, ví dụ như các mỏm đá granite mà ở đây rất thường gặp. Họ nã súng máy từ những vị trí được che chắn và gây thương vong rất nhiều cho các đội tiên phong của chúng tôi. Nhưng khi chúng tôi đem được pháo tới và bắt đầu nã đạn thì họ lập tức thay đổi vị trí, mò sang hai bên sườn, và tất cả mọi chuyện lặp lại từ đầu. Rồi họ bất ngờ biến mất để tiếp tục rình đánh chúng tôi cũng trên con đường đó nhưng tại một vị trí thuận lợi khác.
Quân địch rút lui, bỏ lại cho chúng tôi không chỉ mìn mà cả những tờ truyền đơn sặc sỡ, chúng tương phản rõ nét so với tuyết trắng. Nội dung của chúng rất ngây ngô, chỉ hợp với những người kém phát triển. Vài cái thì đe dọa cả thế giới sẽ cùng dồn lại tấn công chúng tôi, những tờ khác khuyên hãy bỏ vũ khí và trở về nhà với gia đình, nơi mọi người đang chờ đợi chúng tôi, đại loại như vậy. Hiển nhiên những thứ ấy được sáng tác bởi đám Bạch vệ di tản, những kẻ tin rằng binh lính chúng tôi vẫn còn ở trình độ nông thôn trước cách mạng.
Chiến trận diễn ra chủ yếu vào ban ngày. Mọi chuyện dừng lại khi đêm xuống, và đấy là lúc công việc của cánh lính thông tin bắt đầu. Dưới sự che chở của bóng tối, chúng tôi phải lăn cuộn dây điện thoại cũ kỹ đi, đưa thông tin tới vị trí đặt pháo mới bằng cách nối chúng tới các chốt quan trắc, nối tới sở chỉ huy trung đoàn và tới chỗ tư lệnh pháo binh. Mọi thứ phải sẵn sàng vào lúc rạng sáng. Suốt đêm không ngủ để làm những việc ấy, và khi trận chiến bắt đầu vào sáng hôm sau, thử hỏi làm cách nào anh có thể ngủ nếu việc liên lạc bị ngắt quãng chỗ này chỗ khác? Tất nhiên cũng có những tối anh có thể ngủ yên, ngồi bên đống lửa (thật tuyệt) hay cạnh đám tro của một ngôi nhà bị đốt cháy. Ở những chỗ đấy mặt đất bị hun nóng bởi đám lửa sẽ giữ được nhiệt độ ấm áp trong khoảng hai ngày, không lâu hơn.
Chúng tôi chỉ liên lạc chủ yếu bằng điện thoại. Liên lạc bằng vô tuyến điện không ổn định. Những máy thu vô tuyến điện của chúng tôi (loại 6PK) rất cồng kềnh, khả năng thu phát kém, khoảng cách truyền tin ngắn, thường bị ngắt quãng bởi nhiều nguyên nhân khác nhau. Thêm vào đó tất cả thông tin truyền đi phải được mã hóa, điều đó cản trở sự linh hoạt trong quá trình sử dụng chúng.
Một vấn đề nữa đang chờ chúng tôi. Các cuộn dây điện thoại của chúng tôi bắt đầu hư hụt đi nhanh chóng, đứt gẫy và thậm chí hỏng nát. Dần dần lượng dây có thể dùng còn lại rất ít. Trưởng ban thông tin trung đoàn cũng rất cần dây điện thoại nên không thể giúp gì được cho chúng tôi. Số dây còn lại ít tới nỗi trong một số khu vực bố trí pháo, do tình trạng thiếu hụt nghiêm trọng, đã phải kéo pháo từ vị trí ngụy trang ra chỗ trống để nổ súng, ngay dưới làn đạn súng máy của lính Phần Lan, và rất nhiều người đã chết một cách vô ích. Chúng tôi chỉ còn phải đặt một đường liên lạc: kéo từ vị trí chỉ huy của khẩu đội trưởng cho tới chỗ đặt pháo. Do đó, ngày càng ít công việc dành cho lính thông tin. Nhưng khẩu đội trưởng cũng nhanh chóng tìm được việc gì đó để chúng tôi luôn bận rộn. Khẩu đội pháo phải chịu rất nhiều tổn thất trong thời gian đó. Cả hai trung đội hỏa lực phải nhập làm một bởi chỉ còn hai khẩu pháo trong số bốn khẩu là còn hoạt động được. Những đơn vị khác cũng tổn thất nhiều. Lực lượng của chúng tôi tổng cộng cũng chỉ còn phân nửa so với ban đầu. Trung đội hỏa lực mới nhập lại được giao cho trung uý Kapshuk, một cậu Ukraina trẻ tuổi và là quân nhân chuyên nghiệp. Một lần tôi bị đánh thức vào ban đêm bởi cậu trực điện thoại: khẩu đội trưởng muốn gặp. Tôi nhấc máy. “Cậu đã biết Kapshuk vừa bị giết chưa?” “Chưa.” “Hãy lãnh trách nhiệm chỉ huy trung đội hỏa lực, ngay sáng mai họ phải sẵn sàng để chiến đấu. Sẽ có người thay cậu phụ trách bộ phận thông tin.” Sáng hôm sau tôi đã có mặt tại điểm đặt pháo để điều khiển việc xạ kích. Khẩu đội trưởng đang điều chỉnh đường đạn tại trạm quan trắc của anh ta thông qua điện thoại. Trong khi chỉ huy, tôi đứng trước mấy phẩu pháo, tại ngay nơi Kapshuk vừa đứng cách đấy vài tiếng đồng hồ và bị giết. Còn anh chàng Kapshuk đáng thương, ngày hôm qua vẫn còn khoẻ mạnh và vui vẻ, giờ đang nằm kia, trên mặt đất sũng máu, đang chờ để được đặt lên xe trượt và đưa về trạm quân y của tiểu đoàn, nơi người ta cho nổ tung một khoảnh đất Phần Lan băng giá bằng thuốc nổ và mai táng xác chết trong những cái hố đó. Mọi chuyện trở nên đơn giản tột cùng, và số phận thì không thể trốn tránh…
Đại bác 76.2 mm model 1927 cấp trung đoàn, đang tham gia chiến đấu.
Những người lính trong trung đội hỏa lực trở nên u ám, tuân lệnh tôi một cách máy móc, cố tránh không nhìn về phía có cái xác người chỉ huy quá cố của họ đang nằm. Cũng cần nói thêm là sự “thăng tiến” của tôi không chỉ dừng lại đây. Chúng tôi phải chịu nhiều tốn thất về binh lính và sĩ quan, nên về cuối cuộc chiến tôi đã được chỉ định làm quyền khẩu đội trưởng, sẵn sàng thay thế trong trường hợp người chỉ huy bị mất khả năng điều khiển khẩu đội. May thay, điều đó cuối cùng đã không xảy ra. Khó có gì hạ gục nổi người khẩu đội trưởng sắt thép của chúng tôi.
Trong thời gian chiến đấu tôi nhận được một lá thư của mẹ gửi từ nhà qua. Bà viết rằng có một lệnh điều động được gửi cho tôi từ trụ sở quân uỷ với lệnh phải lên đuờng “với các vật dụng cá nhân”. Mẹ tôi cầm lệnh điều động lên trụ sở dân ủy và than phiền rằng con trai mình đã bị động viên được nửa năm rồi. Người ta thu lại tờ lệnh điều động và bảo rằng đó chỉ là một lầm lẫn. Nhưng vài ngày sau họ tiến hành khám xét căn hộ của chúng tôi vào ban đêm, lôi mẹ già của tôi khỏi giường, tra hỏi bà nơi trốn của con trai. Cùng lúc có những người khác thô lỗ cúi xuống lục soát dưới gầm giường, nhòm vào nhà vệ sinh và phòng tắm. Mẹ tôi nổi giận: “Chính tôi mới phải hỏi các anh là con tôi đang ở đâu ! Các anh đã động viên nó mùa thu vừa rồi. Nó đang chiến đấu một cách trung thực ngoài chiến trường chứ không phải đang đêm đi nhòm vào gậm giường người khác.” Rồi họ nhìn thấy tấm ảnh chụp tôi đang mặc quân phục và những bức thư với con dấu quân bưu dã chiến nằm trên tủ buýp phê. Đám dạ khách bối rối rút lui, tất nhiên là quên cả xin lỗi. Cung cách hoạt động của Dân uỷ quận Bauman thành phố Maskva là thế đó.
Một sáng nọ tôi rời khẩu đội để lên vị trí tiền tiêu, nơi đóng trạm quan trắc của khẩu đội trưởng. Đường đi phải băng qua một khu rừng mà vào giờ đấy rất vắng vẻ. Dọc đường tôi chạm mặt một tay lính lạ. Tôi không biết anh ta mang cấp bậc gì, do trước đó chúng tôi có lệnh phải tháo bỏ mọi cấp hiệu khỏi quân phục. Khi đi ngang, tôi hỏi anh ta một cách thân mật: “Thế nào, tình hình chỗ ấy ra sao, yên tĩnh chứ?” Hắn tỏ vẻ khinh miệt ra mặt và đáp trả: “Sao vậy, anh sợ à?” Tôi phát cáu và cũng hỏi lại: “Tôi không biết ai sợ hơn ai: người đang đi ra mặt trận hay kẻ đang cố chạy cho xa.” Đáp lại tôi là mấy câu chửi thề tục tĩu. Kẻ lạ mặt cuối cùng cũng lộ nguyên hình.
Tôi cũng từng xung đột với khẩu đội trưởng của mình. Một lần, khi tôi đang ở chỗ đóng quân trong rừng của khẩu đội, anh ta gọi điện thoại và bảo tôi phải chuyển quân ra một chỗ trống. Phía trước chúng tôi, giữa một địa hình trống trải, có một quả đồi đang bị bộ binh ta tấn công. “Hãy kéo dây liên lạc tới ngọn đồi,” – khẩu đội trưởng nói. – “Anh hãy đích thân tới và chỉ huy pháo kích từ vị trí đó.” “Nhưng chỗ đó vẫn còn bọn Phần Lan,” – Tôi trả lời, mắt quan sát qua ống nhòm dã chiến. – “Khi chúng ta chiếm được ngọn đồi ấy, tôi sẽ tới cùng một điện thoại viên và kéo dây theo sau.” “Hãy đi ngay bây giờ”, – tay khẩu đội trưởng lạnh lùng dáp, và tay hắn đột ngột hạ xuống bao súng lục đã mở sẵn. Điều đó làm tôi nổi giận. Hắn đe dọa tôi trong khi khắp khu rừng bao quanh đều vang lên tiếng đạn réo và tiếng rít rú của đạn cối. “Đồng chí thượng uý,” – Tôi đáp – “Tôi xin nhắc lại là tôi sẽ tuân lệnh đồng chí ngay sau khi bộ binh chiếm được ngọn đồi đó. Còn về khẩu súng của anh thì tôi cũng có một khẩu tương tự. Nếu anh không thể chờ được,” – Tôi tiếp tục – “thì hãy cùng đi với tôi. Mấy khẩu súng lục của chúng ta đem lên trên đó sẽ có ích hơn đấy.” Vì lẽ nào đấy, khẩu đội trưởng không thích đề nghị của tôi, và hắn ta nín thinh. “Hãy cho phép tôi trước tiên là ra lệnh cho khẩu đội tiến ra chỗ trống, nếu không chúng ta sẽ không thể bắn yểm trợ cho quân tấn công được.” “Làm đi,” – khẩu đội trưởng trả lời, hình như hắn ta đã bình tĩnh lại và nhận ra là mình đã đi quá xa, rồi ưỡn ngực bỏ đi.
Đối phương gần như không có không quân, hay chúng không hoạt động trong khu vực mặt trận chúng tôi. Chỉ có một lần tôi thấy vị trí chúng tôi bị oanh kích bởi nhiều máy bay Phần Lan trông giống loại U-2 của chúng ta, thả xuống nhiều bó lựu đạn buộc thành túm. Chúng sơn chữ thập đen trên nền xanh ở hai bên cánh máy bay. Nhưng chúng tôi cũng chưa khi nào được thấy lúc máy bay ta hoạt động.
“Cúc cu” – bọn bắn tỉa nấp trên cây – gây cản trở chúng tôi rất nhiều. Trong khi rút lui, người Phần Lan bố trí chúng núp lại trên cây với một khẩu súng và rất nhiều đạn. Một số trong chúng mỗi khi có dịp là nổ súng rồi chạy trốn bằng ván trượt tuyết để sẵn dưới gốc cây. Những tên khác thậm chí cứ bắn cho tới khi bị hạ tại chỗ, và khi rơi xuống chúng bị giết chết một cách căm hờn. Đôi khi có tới bốn tên “cúc cu” cùng bố trí ở bốn góc rừng, ai chẳng may đi vào khu vực đó thì cầm chắc cái chết. Rất khó để hạ gục chúng, nhất là khi chúng tập trung hỏa lực của cả bốn khẩu súng vào một mục tiêu trong trường hợp như trên. Chúng luôn thay đổi vị trí mỗi khi đêm xuống, chuyển tới một khoảnh rừng khác. Quân Phần Lan lấy đi giầy ủng khỏi một số xạ thủ khi đưa chúng lên cây để họ khỏi chạy xa, thay vào đó chúng để lại một cái chăn đắp chân. Có một trường hợp ở trung đoàn tôi khi binh lính, phát hiện ra một tên “cúc cu” nấp trên cây, đã bắn vào hắn. Hắn lập tức ném khẩu súng xuống và chiếc chăn rơi khỏi chân. Hóa ra tên “cúc cu” lại là một cô gái tóc đỏ còn trẻ, đang trắng bệch ra như sắp chết. Mọi người thương hại cô ta, và khi họ đưa cô ta mấy cái bánh valenki cháy thì cô ta đã hiểu là mình sẽ không bị giết, bèn rũ ra khóc nức nở. Người ta mủi lòng và cô được an toàn đưa về hậu phương với lính canh đi theo.
Sự đề cập tới các nữ xạ thủ “cúc cu” và chuyện một lô cốt trang bị các tấm giáp kim loại để đạn pháo bắn vào bị bật ra thật đáng quan tâm và hết sức thú vị. Nó cho thấy thậm chí những người có trình độ ở thời kỳ đấy vẫn tin và tiếp tục tin vào những câu chuyện hoang đường như thế. Như trong trường hợp cái lô cốt nơi người sĩ quan này tiến công – nơi đây không chỉ có một triệu cái lô cốt như vậy, tất cả các lô cốt đó đều trang bị 1 tới 2 khẩu đại liên, được xây trong những năm 1930, rất chắc chắn, chất lượng rất tốt. Chuyện đề cập tới những chiếc xe tăng phun lửa là đáng tin vì xe tăng phun lửa được sử dụng nhiều để tấn công tại hai cứ điểm đó – Salmenkaita và Muolaa. Tại một ụ lô cốt thuộc phòng tuyến Muolaa, nơi tôi đã tới tham quan, toàn bộ nơi đồn trú đó đều bị thiêu rụi do xe tăng phun lửa. Bair Irincheev.
Nhìn chung, trong khi chiến đấu người ta cho chúng tôi ăn uống khá tốt. Có xe nhà bếp chở súp và cháo kasha tới chiến tuyến, họ múc cho bất cứ ai lại gần. Đám đầu bếp quân nhu vội vàng phân phát cho hết thức ăn và quay về theo đúng con đường mà từ đó họ đi tới dưới làn đạn súng cối. Họ không được phép quay về khi trong thùng vẫn còn thức ăn. Người ta kể rằng có một tay đầu bếp bị bắn tại chỗ chỉ vì anh ta đã trút hết cái nồi trên xe xuống tuyết để mau chóng được rời xa chiến tuyến. Tất nhiên, cũng có những ngày chúng tôi phải đun tan tuyết để pha chè, hâm nóng lớp băng đá bao quanh bánh mì trên làn khói của đống lửa, và tự nấu cháo lúa mì trong một cái gà mèn thiếc dùng chung.
Trung đoàn chúng tôi tiến công, khoét sâu thành hình mũi tên vào tuyến phòng thủ của đối phương. Những lô cốt còn chưa bị hạ vẫn hoạt động hai bên sườn, và chúng tôi thường lọt vào vùng hỏa lực bắn chéo cánh sẻ. Hai bên sườn chúng tôi được bảo vệ kém, chỉ có vài khẩu trung liên bố trí tại một số vị trí. Một đêm, khi tôi cùng các binh sĩ dưới quyền đang ngủ say trên lớp rơm trải lên tuyết, đột nhiên một khẩu súng máy khạc đạn ngay bên cạnh. Tôi bật dậy và chạy tới chỗ tay xạ thủ súng máy. Trời lúc đó tối đen. Tôi lên tiếng hỏi lý do tại sao anh ta nổ súng. Ban đầu anh ta im lặng, rồi càu nhàu: “Nếu anh không bắn, chúng sẽ mò tới đây ngay thôi.”
Trong giá rét dữ dội, các sĩ quan chúng tôi được cấp cho những áo khoác lông cừu. Nhưng ngay lập tức chúng tôi phải cởi bỏ nó. Bọn bắn tỉa Phần Lan bắn hạ ngay các sĩ quan. Không chỉ có xạ thủ bắn tỉa, mà ngay bọn lính trượt tuyết Phần Lan cũng làm vậy, chúng bận vào quân phục Xô viết, mò tới vị trí đóng quân, đâm chết các sĩ quan rồi trốn mất. Đó là lý do chúng tôi được lệnh phải cởi bỏ không chỉ áo khoác lông cừu, mà cả những cấp hiệu trên cầu vai, những “vạch” đỏ trên ống tay áo, và phải thắt thắt lưng vào dưới áo choàng. Có lần tôi được lệnh đem theo một điện thoại viên và rải một đường điện thoại tới chốt chỉ huy của một đơn vị bộ binh, bản thân tôi phải ở lại đó, sẵn sàng gọi pháo bắn tới lúc cần thiết. Trạm chỉ huy bố trí trong một công sự thấp, nền rải rơm. Mọi người đều ngồi phệt trên sàn. Được một lát thì khẩu đội trưởng gọi cho tôi qua đường điện thoại của đơn vị bộ binh. Cho dù tôi đang ăn mặc như một lính trơn, anh chàng trực điện thoại của đơn vị bộ binh vẫn quay lại phía tôi: “Thưa đồng chí trung úy, có điện thoại.” “Tại sao anh lại nghĩ tôi là trung uý?” – “Tôi biết đồng chí là trung uý bởi đồng chí ăn nói khác bọn tôi.” Quả là câu tục ngữ “Trông mặt mà bắt hình dong” thật chính xác (Nguyên văn: Chỉ cần qua mảnh áo rách anh cũng có thể nhận ra ông thầy tu – LTD).
Có trường hợp tại một đơn vị kế cận khi một tên Phần Lan, mặc quân phục Xô viết, trượt tới một bếp dã chiến. Đầu bếp nói rằng anh ta không biết mặt hắn và chỉ có thể cho hắn ăn nếu chính ủy cho phép. “Thế chính uỷ ở đâu?” – tên Phần Lan hỏi lại. Tay đầu bếp chỉ ra chính ủy, người đang khoác một cái áo choàng của lính. Gã Phần Lan lại gần người chính ủy, đâm anh ta rồi bỏ chạy.
Có nhiều trường hợp tàn nhẫn rất thương tâm, khi bọn Phần Lan dùng dao giết chết những thương binh của chúng tôi, những người còn kẹt lại ở chiến trường chưa đem đi được. Tôi cũng đã tận mắt chứng kiến cảnh rất nhiều xác lính ta nằm tại một vị trí trống trải không thể bò tới vì bị bọn xạ thủ “cúc cu” ngắm bắn. Và khi một người trong bọn họ thử đứng lên thì đạn lập tức nã vào anh ta từ những ngọn cây ven rừng. Một thương binh kể lại rằng anh ta đã phải nằm lại trên tuyết vì bị thương sau trận chiến, và rồi một tên Phần Lan trượt tuyết tới chỗ anh ta và nói bằng tiếng Nga: “Còn nằm đấy à, Ivan? Thôi được rồi, đi đi!” Thật may là hắn không giết chết anh ta, có lẽ vì đã quá nhiều những vụ như thế rồi.
Tổn thất của khẩu đội chúng tôi thật đáng kể. Tôi nhớ lại một trong các lính thông tin dưới quyền mình, một anh chàng trẻ tuổi, vừa tốt nghiệp phổ thông. Anh ta vẽ rất đẹp, thực sự có tài, luôn mơ sẽ được vào Học viện Mỹ thuật. Tôi thường trò chuyện với anh ta, xem các bức tranh của anh, khuyên bảo anh. Tôi đã thương tiếc khôn nguôi khi anh chết tại trạm quân y tiểu đoàn vì một vết thương. Tổn thất của bộ binh còn nghiêm trọng hơn nhiều. Đã có quá nhiều thảm kịch xảy ra. Người ta kể rằng có một trung uý còn trẻ bị thương vào mặt, mất cả hai mắt. Người ta không có thời gian để lấy đi khẩu súng của anh, nên anh đã tự sát ngay trong chiến hào, khi vừa nhận ra mình đã bị mù.
Một đêm tôi phải băng qua khu rừng để kiểm tra lại đường dây điện thoại. Tôi vượt qua một khoảng đất trống để tới một khu rừng kế tiếp. Địa điểm cần tới nằm rất gần đâu đây thôi. Ánh trăng rực rỡ rọi vào mặt tôi, làm chói cả mắt, phản chiếu lấp loáng lên tuyết. Lại qua một khu rừng nữa, tôi bắt gặp một người vận áo choàng trắng, sát gần và đột ngột tới nỗi tôi vung tay về phía trước và đẩy vào ngực anh ta. Tôi cảm thấy tim mình như ngừng đập vì sợ. Lập tức một tiếng chửi rủa tục tĩu chọc vào tai tôi nghe tựa như một điệu nhạc tuyệt diệu: “Quân ta, người Nga.” Đấy là một lính trinh sát của ta, thấy tôi băng qua bãi trống từ xa, bèn quyết định ẩn vào màn sương để chờ xem. Quân địch sẽ không nã súng cối vào một người, nhưng nếu là hai người thì chúng có thể bắn ngay.
Trong một lần khác, sau khi chiếm giữ vị trí chỉ huy mới, khẩu đội trưởng gọi điện cho tôi và yêu cầu tôi rời khẩu đội để tới chỗ anh ta. Anh ta đã tới đấy vào ban đêm, đi cùng cánh bộ binh. Nhưng sang ngày hôm sau tình hình đã thay đổi. Đường đi phải vượt qua một dòng sông đã đóng băng, và điểm vượt sông đó lại bị một tên bắn tỉa Phần Lan chốt giữ. Hắn ta núp trên một mỏm đá nhỏ giữa dòng sông và nã tiểu liên vào bất cứ ai cố gắng vượt qua lớp băng. Không có cách nào để lén băng qua chỗ hắn, tên bắn tỉa có một tầm xạ kích rất rộng, gần như thành một vòng tròn. Những tảng đá lớn chắn cho hắn khỏi trúng đạn. Rất nhiều binh lính và sĩ quan cần vượt qua sông đang phải nép vào cánh rừng ở hai bên bờ. Chốc chốc lại có người quyết định chạy nhanh qua bên kia dưới làn đạn, và đã thành công. Nhưng cũng có đôi người trúng đạn ngã gục trên lớp băng. Họ cố trườn sang bờ đối diện. Cái che chắn duy nhất cho những người băng qua là xác một chiếc xe tăng Xô viết bị cháy rụi nằm giữa dòng sông. Tất nhiên, nếu có trong tay một khẩu súng cối thì chúng tôi đã nhanh chóng bắt hắn câm họng. Nhưng lúc đấy không có súng cối, mà lại chẳng ai nghĩ ra điều đó cả.
Tôi cũng bắt buộc phải vượt qua sông. Tên bắn tỉa nã hai phát và dừng lại từng chặp. Tôi nấp sau một cái cây gần bờ và chờ đợi. Sau mỗi lần súng nổ, tôi lại chạy thật nhanh tới chỗ cái xe tăng. Ngay khi tôi bám được vào nó, những viên đạn lại nã loảng xoảng vào vỏ thép xe. Chờ một chút để lấy lại hơi, tôi chờ tới loạt đạn kế tiếp, và khi chúng vừa dứt thì chạy thục mạng. Quãng đường này xa hơn, và rồi thế là tôi đã an toàn nấp mình sau đám cành lá của cái cây đầu tiên nơi bờ sông bên kia. Phù … nhiều ngày sau, khi bọn Phần Lan đã bị đẩy lùi và chúng tôi kéo pháo ngang qua địa điểm đáng nguyền rủa đó, tôi tới nhòm xem cái mỏm đá nọ ra sao. Chỗ đó có một cái hố đào giữa những tảng đá lớn, phủ đầy cành thông, với một lỗ châu mai chĩa vào các lối qua lại. Những vỏ bao thuốc lá có in dòng chữ “Sport” nằm rải rác cùng rất nhiều vỏ đạn rỗng. Những vỏ đạn mà tên bắn tỉa đã dùng để bắn vào tôi chắc hẳn nằm lẫn lộn đâu đó chỗ này.
Vào thời điểm trước khi bắt đầu giao chiến, họ thông báo cho chúng tôi, các sĩ quan, rằng ba trung đoàn của mỗi sư đoàn sẽ tham chiến trong vòng mười ngày rồi được rút ra. Chúng tôi đã khát khao chờ đợi cho mười ngày đó kết thúc biết bao nhiêu. Chúng tôi chờ, ngập ngụa trong máu của chính mình, lần lượt gửi các đồng đội của mình hết về trạm quân y lại ra nghĩa địa. Nhưng, lạy trời chứng giám, chúng tôi đã không được thay ra thậm chí sau cả hơn chục ngày. Khi sư đoàn trưởng phát hiện ra tổn thất quá lớn của trung đoàn 306, ông ta quyết định rằng sẽ không huỷ diệt nốt hai trung đoàn còn lại theo cách đó nữa. Sau khi thay đổi quyết định chính thức của mình, ông ta phát biểu: “Khi nào tôi sử dụng tới kiệt hết trung đoàn 306, tôi sẽ nghĩ tới chuyện thay nó ra.” Thật ra, chúng tôi đã không được thế chỗ cho tới tận cuối cuộc chiến, và đã kiệt lực tới mức chỉ còn sót lại có “móng với sừng” mà thôi.
Điều khủng khiếp ấy, những trận chiến liên miên ấy, diễn ra trong suốt 22 ngày đêm. Chúng tôi trở thành những loại nửa người nửa thú: bị sương giá ăn cháy da cháy thịt, bẩn thỉu, lúc nhúc chấy rận, râu ria xồm xoàm, quần áo cháy sém lỗ chỗ, câu nào nói ra cũng kèm thêm mấy lời chửi rủa tục tằn. Và luôn ngập chìm trong nỗi lo sợ sẽ bị thương hay bị giết chết.
Rồi bất ngờ, nếu tôi nhớ không lầm, vào buổi chiều ngày 11 tháng Ba, một trong những cậu nhân viên vô tuyến điện dưới quyền chạy tới chỗ tôi, mang theo một tin đáng quan tâm. Anh ta tình cờ nhận được một điện tín: một hiệp định đình chiến đã được ký. Tôi chạy tới chỗ chính ủy, nhưng anh ta hét lên với tôi, bảo rằng tôi luôn tin vào mọi thứ tin đồn thất thiệt và lan truyền chúng đi. Nhưng những tin như thế không thể giữ bí mật được lâu. Dựa trên thái độ của binh lính, tôi hiểu rằng tin đó sẽ lan nhanh. Vài người đến gặp để xin tôi xác nhận tin đó, nhưng tôi đáp là không có trong tay những thông tin chính thức. Rồi tới buổi sáng ngày hôm sau. Đấy là ngày 12 tháng Ba năm 1940. Mọi người cùng chờ đợi một điều gì đó. Nhưng rồi tay khẩu đội trưởng gọi tới từ chốt quan trắc tiền tiêu: “Khẩu đội, sẵn sàng nhả đạn !” Tôi truyền lệnh đi: “Tất cả vào vị trí, sẵn sàng bắn, đem đạn tới và chùi sạch!” Quân lính thực hiện một cách miễn cưỡng. Có ai đó càu nhàu: “Cái thứ hoà bình của ông như thế đó.” Khẩu đội trưởng thông báo tọa độ mục tiêu, tôi điều chỉnh các khẩu pháo và hô: “Bắn !”, rồøi lại “Bắn !”. Quân Phần Lan bắt đầu đáp trả bằng súng cối hạng nặng. Đạn rơi sang phía bên trái, vào ngay trước mặt, rồi xuống ngã tư đường. Một con ngựa kéo xe bị trúng đạn, con vật đáng thương bụng bị xé toạc giẫy dụa trong đống ruột của chính nó: thật là một cảnh tượng kinh khủng. Nhưng khẩu đội trưởng vẫn tiếp tục ra lệnh từ vị trí quan trắc: “Bắn !” và “Bắn !”.
Tới khoảng 10 giờ sáng, có một người cưỡi ngựa xuất hiện trên con đường dẫn về hậu phương, anh ta đang la hét điều gì đó và vung vẩy một cái phong bì trên tay. Mỗi lúc một gần hơn. Chúng tôi nhận ra đó là một người đưa tin của sở chỉ huy trung đoàn, một anh lính nhỏ bé vui tính, đã tới khẩu đội chúng tôi rất nhiều lần. Anh ta đang hét: “Ngừng bắn!” Điều gì xảy ra thế này! Có vài người kêu to “Hurrah!”, có mấy người ôm hôn nhau, một số người thì khóc, và số khác chỉ đơn giản là ngã lăn ra tuyết. Tôi cầm lấy cái phong bì bằng bàn tay run lẩy bẩy. Nó không có niêm phong. Bên trong là mệnh lệnh yêu cầu khẩu đội trưởng ngưng bắn. Người điện thoại viên gọi tôi tới bên điện thoại. Khẩu đội trưởng đang hét lên với tôi: “Tại sao anh lại ngừng bắn?” Tôi cũng hét lại rằng đó là do lệnh từ sở chỉ huy, họ nói là đã hoà bình rồi. “Hòa bình cái gì? Anh mất trí rồi à !” Nhưng lúc này tiếng pháo đã yên ắng trên suốt chiều dài mặt trận. Còn nếu nghe thấy phát đạn nào nổ muộn màng, binh lính phản ứng rất giận dữ: “Bọn chúng bị làm sao vậy, chúng không biết chuyện gì đã xảy ra sao?!” Sau cơn vui mừng bột phát ban đầu là một tình trạng phản cảm diễn ra. Rũ người vì mệt, tất cả đều trở nên im lặng và cứng đờ, không biết phải làm gì tiếp theo. Một số người đã chứng kiến sau này kể lại về cảnh tin ngừng bắn được đón tiếp tại các vị trí bộ binh đóng trên tuyến đầu: những người lính lạnh cóng và kiệt sức, cả phía Phần Lan và phía quân ta, bò khỏi những hố trú ẩn của họ từ hai phía chiến tuyến, nhìn nhau một cách nghi ngờ và cùng ngạc nhiên trước những kẻ mới đây hãy còn là đối thủ của nhau. Và họ không thể hiểu nổi điều gì đã xảy ra. Chuyện gì vậy? Họ im lặng, đi đốt lửa để tự sưởi ấm. Vài người lính Phần Lan leo lên đỉnh một phiến đá lớn và hét về phía lính ta: “Ê, bọn Nga kia, chúng mày đãø từng bắn vào tao trong khi tao đang ngồi ngay dưới tảng đá này đây !” Một người lính Phần Lan khác hét qua khoảng đất chết giữa hai chiến hào: “Đừng đi sang phía bên phải, chúng tôi đã gài mìn chỗ ấy đấy.”
Và thế là hoà bình. Chúng tôi rút về phía sau một chút và được lệnh đào công sự. Người ta tổ chức một nhà tắm dã chiến với một căn phòng khử chấy rận. Điều đó hết sức cần thiết. Không có gì phải giấu diếm cả, lũ rận đang ăn sống chúng tôi. Chúng tôi tắm rửa trong ba cái lều dựng liên tục sát nhau. Cái nền đầy tuyết của lều được rải một lớp cành cây còn nguyên lá xanh. Chúng tôi cởi bỏ lớp đồ lót bẩn thỉu của mình trong cái lều đầu tiên. Tại cái lều thứ hai, một hệ thống ống phun nước nóng, gần như còn đang sôi sùng sục, lên mình chúng tôi. Rồi chúng tôi chạy qua cái lều thứ ba để nhận đồ lót sạch, mặc vội lên thân người hãy còn ướt lướt thướt bởi chẳng có gì để lau mình cả. Rồi chúng tôi đứng chờ, người bị luộc chín nhừ và chỉ vận độc có đồ lót, cho tới khi quân phục của chúng tôi được hơ lửa xong. Tất cả mọi chuyện đều diễn ra trong cái lạnh cắt da, nhiệt độ ở trong cũng như ngoài lều đều gần như nhau. Tôi cũng không hiểu tại sao chúng tôi có thể chịu được mà không bị cảm lạnh hay viêm phổi. Nhưng chúng tôi cũng rất mừng vì được cho đi tắm như thế.
Khoảng hai tuần sau khi kết thúc đánh nhau, sau khi đã nghỉ ngơi được một chút, lấy lại sức lực và lau chùi vũ khí, chúng tôi được lệnh hành quân trở về. Toàn trung đoàn lập thành một đội hình hành quân. Chỉ khi ấy chúng tôi mới thấy được chính xác những tổn thất mà trung đoàn phải chịu đựng. Trung đoàn tới đây với đầy đủ quân số thời chiến. Bộ binh bao gồm ba tiểu đoàn, mỗi tiểu đoàn có 700 tay lê. Giờ đây cả trung đoàn không còn đủ lính để lập thành một tiểu đoàn duy nhất. Các đại đội được giao cho các trung sĩ chỉ huy. Chúng tôi, lính pháo binh, cũng chịu tổn thất nặng. Trong số chín sĩ quan của khẩu đội chúng tôi, giờ chỉ còn có bốn. Hai người bị giết và ba bị thương. Ngay như tôi, một sĩ quan dự bị, cũng được chỉ định làm quyền khẩu đội trưởng trong trường hợp người đương nhiệm mất khả năng điều khiển khẩu đội. Tôi không nhớ nổi có bao nhiêu binh lính và hạ sĩ quan đã thiệt mạng nữa. Chúng tôi đi tới đây trong nhiều tốp, quân số trung đoàn rất đông. Bây giờ đây toàn trung đoàn chỉ còn là một đội hình duy nhất, có thể thấy và nghe tiếng ban nhạc đang chơi bài hành khúc ở phía trước. Chúng tôi hành quân ngược lại nơi trạm quân y đã đóng và nơi đặt các nghĩa trang. Trạm quân y đã dời đi nhưng nghĩa trang thì vẫn còn đó.
Nếu chúng tôi không phải trông thấy những xác chết, chúng như những manơcanh đáng sợ làm bằng sáp bị đông cứng, thì cái chết đối với chúng tôi đã không khủng khiếp đến thế. Trong thời bình, cái chết của một người bệnh không ập tới bất thình lình. Nhưng thật là phi lý khi phải thấy cái chết đến với một người trẻ trai khoẻ mạnh, tự dưng lại ngã vào tay ta như một cái bị, gương mặt anh ta chuyển dần sang vàng ệch, hai bên mép và mi mắt của anh trễ xuống. Và ta phải quan sát toàn bộ cái diễn tiến kinh khủng ấy, sự chuyển từ một người sống sang một xác chết, cuối cùng là thành một gò đất nhỏ băng giá trên mảnh đất Phần Lan đáng nguyền rủa.
Thật khó mà diễn tả nổi thành lời những cảm xúc xảy ra trong đầu chúng tôi khi hành quân ngang qua cái nghĩa địa ấy. Cách đây không lâu những con người ấy, những đồng chí của chúng tôi, khoẻ mạnh và trai tráng, còn ở cùng đội ngũ và trông chẳng khác gì chúng tôi. Thậm chí cho tới khi người ta đưa họ ra tới đây, vì bất kỳ người nào trong chúng tôi cũng có thể phải ra nằm đây bất cứ lúc nào, thì chúng tôi cũng vẫn chưa cảm thấy mình xa lạ đối với họ. Giờ đây chúng tôi đang rời xa họ mãi mãi, còn họ sẽ vĩnh viễn nằm lại chỗ này. Có một vực thẳm đã ngăn cách giữa chúng tôi và họ, mà chúng tôi không thể hình dung được bằng cách nào và vì sao điều đó đã xảy ra.
Hiển nhiên chúng tôi hiểu rằng cuộc chiến này là cần thiết. Chúng ta phải bảo vệ Leningrad, cách ly nó xa khỏi đường biên giới nguy hiểm kia bằng một vùng đất Xô viết rộng lớn hơn. Chúng tôi cũng biết rằng người Phần Lan đã từ chối lời đề nghị của Chính phủ Xô viết đổi vùng đất ấy lấy bất cứ một chỗ nào khác dọc theo biên giới. Nhưng chúng tôi không hiểu nổi một điều – đó là cách thức mà người ta đã tiến hành chiến tranh. Tại sao chúng ta không ném bom trước những lô cốt công sự của Phần Lan, cô lập chúng, vượt qua chúng và bỏ chúng lại phía sau?! Như cách người Đức đã làm với phòng tuyến Maginot chẳng hạn? Tại sao chúng ta không thả lính nhảy dù xuống hậu phương Phần Lan, và sử dụng xe tăng nhiều hơn nữa? (Thực ra, trong chiến tranh Phần Lan người Nga đã đưa vào sử dụng rất nhiều xe tăng. Tuy vậy phần lớn chúng là loại T-26 và BT-7 đã lạc hậu, không phù hợp điều kiện chiến trường và bị bộ binh đốt cháy khá dễ dàng – LTD) Chúng tôi đã trông thấy rất nhiều những trang thiết bị quân sự ấy nằm lại tại Bologoye. Không, họ đã chọn cách ném mọi người thẳng vào làn đạn súng máy và đại bác bắn ra từ các lô cốt, dưới ánh sáng mặt trời rõ mồn một. Và thế là hàng ngàn chàng trai bị đưa thẳng xuống mồ. Tại sao vậy? Hay có lẽ họ cũng cùng kiểu suy nghĩ như “nhà chiến lược quân sự” nọ đã đưa chúng tôi tiến thẳng tới cái lô cốt ngay trước trận đánh, cũng cho rằng đó chỉ là những pháo đài bằng cát cùng những chú lính chì trong tay họ, và bản thân họ đang tập đánh trận giả chăng. Tất cả những điều đó thật không hiểu nổi và thật đáng phẫn nộ.
Sau khi hiệp ước hòa bình được ký kết, trên báo chí người ta viết rằng thiệt hại của chúng tôi cả chết lẫn bị thương tổng cộng là khoảng năm mươi ngàn người. (Ngày nay, thống kê chính thức của cả phía Nga và Phần Lan cho biết trong chiến tranh Phần Lan quân đội Xô viết có khoảng từ 200.000 – 400.000 người chết và bị thương, phía Phần Lan là khoảng 66.000 người chết và bị thương – LTD) Có biết bao nhiêu bi kịch ẩn giấu đằng sau những con số ấy! Những tổn thất ấy đáng ra đã có thể giảm thiểu một cách đáng kể!
Các trung đoàn còn lại thuộc sư đoàn chúng tôi, được bố trí dự bị phía sau trong suốt thời gian giao tranh, đã quay về từ trước và là những đơn vị đầu tiên diễu qua Leningrad như những anh hùng. Họ được nhận một lễ đón tiếp long trọng, những lời chúc mừng và quà tặng từ nhân dân Leningrad. Còn khi trung đoàn 306 chúng tôi, hay đúng hơn là phần còn lại của nó, một đơn vị đã thực sự tham chiến và phải gánh trên vai toàn bộ sức nặng của chiến tranh, đi qua thành phố, thì những lễ chào mừng đã kết thúc, và chúng tôi chẳng nhận được quà tặng lẫn những lời chúc mừng nào. Cuộc đời là thế đó.
Sau này chúng tôi được biết rằng trung đoàn chúng tôi đã được tặng Huân chương Cờ Đỏ vì đã công phá được phòng tuyến Mannerheim. Nhiều sĩ quan của các đơn vị bộ binh của trung đoàn cũng được nhận huân chương. Phần thưởng và huân chương thời đó hãy còn rất hiếm. Cánh pháo binh chúng tôi không được nhận bất cứ thứ gì, dù danh sách khen thưởng của chúng tôi cũng được gửi đồng thời với họ. Nhưng còn được sống với nguyên vẹn cái đầu trên cổ cũng đã là một phần thưởng đáng kể rồi.
Khi chúng tôi rời Leningrad và lên tàu ở một nhà ga, chúng tôi được mục kích một cảnh tượng khác hẳn. Rất nhiều toa tàu chở hàng, cửa sổ chăng kín dây kẽm gai, nằm tách rời trên một tuyến đường rày riêng biệt. Lính gác mang súng có gắn lưỡi lê không để bất cứ ai lại gần những toa xe ấy. Một thợ đường sắt thì thầm với tôi rằng những toa ấy tới từ Phần Lan, chở những binh lính đã từng bị bắt làm tù binh. Cho tới trước lới lúc ấy chúng tôi mới chỉ nghĩ là những người trải qua cuộc chiến được chia thành ba loại: một số người may mắn thì đã tránh đi cho xa; những người khác, bị sương giá thui chột và đầy thương tật thì được đưa tới bệnh viện; còn loại thứ ba thì vùi xương trên mảnh đất Phần Lan tuyết phủ. Nhưng hóa ra vẫn còn loại người kém may mắn thứ tư, những người còn đang chờ bị thẩm vấn và xét xử trong các nhà tù di động bằng gỗ lạnh cóng ấy. Ai đứng ra quyết định số phận của mỗi con người trong chiến tranh và phân họ thành những loại khác nhau bằng một bàn tay tàn nhẫn đến như vậy? Và dễ biết bao để có thể chuyển một con người từ loại số phận này sang loại số phận khác. Điều gì là quyết định và điều gì là tình cờ? (Ngay sau khi chiến tranh Phần Lan vừa kết thúc, khoảng 5.500 tù binh Xô viết được Phần Lan trao trả lại cho Liên Xô. Tất cả đều bị đưa vào trại tập trung để thẩm vấn. Khoảng 500 người trong số đó bị xử bắn và 4.354 người bị đưa đi lao động khổ sai từ 5-8 năm. – LTD)
Một trong những đặc điểm của cuộc chiến tranh này là cái sự thực rằng chúng tôi chỉ chiến đấu bởi vì chúng tôi đã được ra lệnh như thế. Nó khác với cuộc Chiến tranh Vệ quốc sau này, khi chúng tôi thực sự căm thù bọn xâm lược đã tấn công quê hương chúng tôi. Lúc đó người ta chỉ cần hô: “Xung phong !” – thậm chí không phải giải thích chúng tôi cần tiến lên phía nào. Chúng tôi đã chỉ đơn giản là thực hiện nghĩa vụ quân nhân của mình trong cuộc chiến Phần Lan, trong khi lại ý thức rõ sự cần thiết của cuộc chiến sau đó (Chiến tranh Vệ quốc). Từ đầu chúng tôi không thấy thù ghét người Phần Lan, mà chỉ sau này, khi đã tận mắt chứng kiến nhiều hành động tàn nhẫn của đối phương, binh lính của chúng tôi mới bắt đầu cảm thấy căm giận họ. Ví dụ như họ đã điên cuồng giết chết bọn “cúc cu”, những kẻ gây rất nhiều tội ác. Nhưng nhìn chung, một người Nga, một người lính Xô viết thật ra là một người có bản tính tốt, anh phải cố gắng rất nhiều mới có thể làm cho hắn nổi giận.
Câu chuyện của tôi về thiên anh hùng ca Ba Lan – Phần Lan đã tới hồi kết. Tôi được phục viên vào mùa thu năm 1945, sau khi Chiến tranh Vệ quốc kết thúc. Một cô gái nào đó đứng ra điền vào tờ lý lịch quân nhân của tôi tại Trụ sở Quân uỷ quận Bauman. Cô ta ghi lại trên đó tất cả những rủi ro mà tôi đã gặp phải. “Xin hãy viết vào đây là tôi đã từng tham gia cuộc chiến chống lại bọn Bạch vệ Phần Lan.” “Ở đây chúng tôi không ghi lại về chiến tranh Phần Lan,” – cô gái nói và, rướn người qua bàn làm việc, hét về phía cô bạn bên cạnh: “Svetka, cậu có cùng đi ăn trưa không?” Đoạn kết là thế đó. Thật ra, tại sao anh lại phải “viết về cuộc chiến Phần Lan”, trong khi tình hình đã hoàn toàn đổi khác, và anh phải quên đi những gì về cái cuộc chiến đó càng nhanh càng tốt, vờ như nó thậm chí không hề xảy ra với một người láng giềng tốt bụng như người Phần Lan.
Những dòng hồi ký trên hầu hết được tác giả viết khi ông phải vào bệnh viện điều trị bệnh viêm phổi vào tháng Mười năm 1981. Việc này đã giúp ông khuây khỏa qua những buổi chiều tẻ ngắt và những đêm mất ngủ tại nơi bệnh viện ảm đạm. Trong những năm về sau, tác giả chỉ phải hiệu chỉnh, bổ sung và biên tập lại những ghi chép trên.
Phần 3: Bị giam cầm
Ngày 15 tháng Bảy năm 1942 (tôi nhớ rất rõ cái ngày đáng nguyền rủa này), chúng tôi bắt gặp mấy người nông dân trong một khu rừng và hỏi xin họ một ít thức ăn. Chúng tôi đang gần như sắp chết vì đói. Mấy người nông dân không cho chúng tôi thứ gì, nhưng họ bảo rằng cư dân ở làng bên (làng Kolodezi hay Istruby gì đó) có nhiều đồ ăn do cướp được từ kho của nông trang. Họ cũng bảo chúng tôi là trong làng không có bọn Đức. Đó là một làng nhỏ với một ngôi nhà đơn độc có một dãy kho thóc nằm án đằng trước. Chúng tôi vẫn biết là bọn Đức luôn đưa lính gác tới đóng ở những ngôi làng chúng đã chiếm giữ. Phục trong rừng, chúng tôi quan sát rất lâu ngôi làng nhưng không phát hiện thấy tên lính gác nào. Một người lính dưới quyền tôi lặng lẽ lẻn tới dọc theo hàng rào của ngôi nhà đầu tiên rồi quay về báo cáo rằng nhà hoàn toàn bỏ trống. Thế là chúng tôi cẩn trọng bước ra khỏi khu rừng và hướng về phía làng. Vừa tới được ngôi nhà đầu tiên mà chúng tôi cho rằng bị bỏ trống, một đám lính Đức lập tức ùa ra, la hét và nã tiểu liên liên hồi. Chúng chặn mất đường rút của chúng tôi vào rừng. Chúng tôi đã lọt vào một cái bẫy. Tôi chỉ kịp nổ một phát súng lục thì bị một người trong nhóm túm lấy tay và quát lớn: “Đừng bắn, chúng sẽ giết hết chúng ta mất!” Bọn Đức nắm lấy tôi, lấy báng súng giáng tôi thật mạnh, đánh bật khẩu súng lục khỏi tay tôi, và khi tôi ngã xuống thì chúng dùng đế giầy đạp tôi liên hồi. Tôi không hiểu hết những gì chúng đang nói bởi chúng nói quá nhanh mà không phát âm cho hết từ; chúng luôn nuốt mất âm cuối. Nhưng nhờ trời, tôi vẫn hiểu được những ý chính: “Đấy chính là thằng vừa mới nổ súng! Phải giết chết đồ lợn này! Nhưng không phải ở đây, hãy ra sau nhà kho kia mà làm, ở đó có sẵn một cái hố.” Tôi có một cái áo khoác lính bình thường – tôi mặc nó bên ngoài đồng phục sĩ quan để có thể gần gũi với binh sĩ hơn. Giờ đây chúng nắm lấy cái áo khoác kéo tôi đi. Tới đâu? Có lẽ tới cái hố đằng sau nhà kho. Cái áo khoác bị bung nút. Bọn Đức trông thấy bộ đồng phục sĩ quan của tôi, cái thắt lưng sĩ quan, cấp hiệu trung uý của tôi và cái xà cột đựng bản đồ bằng da màu vàng. Chúng thôi kéo tôi và bắt đầu chằm chằm quan sát.
“Du bist Komissar?” (“Mày có phải là chính trị viên không?“ – LTD) Tôi cố gắng trả lời thật rõ ràng: “Nein, ich bin Oberleitenant” (“Không, tôi là thượng uý” – LTD). Bọn Đức cúi xuống và tiếp tục khám xét tôi, trong lúc đó tôi nằm trên mặt đất, yếu ớt và bàn quan với số phận của chính mình. Bọn Đức lặng lẽ trao đổi với nhau. Thế rồi một tên trong bọn, một hạ sĩ quan, nói: “Hắn không nói dối đâu. Hắn là sĩ quan đấy. Chúng ta nên đưa hắn về Sở chỉ huy. Đã có lệnh nếu bắt được sĩ quan thì phải đưa về sở chỉ huy”. Chúng ngưng đánh, kéo tôi đứng dậy và đưa tôi đi, chốc chốc lại thúc báng súng vào lưng. Tôi bước đi, mặc dù rất khó khăn, người yếu lả vì đói và bi đánh. Mọi thứ trước mặt đều như trong làn sương mù và tôi cảm thấy rất chóng mặt. Mọi việc như trong một cơn ác mộng, và như đang xảy ra không phải với tôi mà với một người nào khác. Dường như tôi không còn tồn tại mà đang nằm chết ngoài rìa làng rồi. Tôi cảm thấy như bọn Đức đang dắt một ai khác về sở chỉ huy của chúng vậy.
Tôi không còn nhớ phải mất bao lâu để tới được sở chỉ huy của chúng. Tôi cũng không nhớ nổi mình đã phải đi bộ bao xa. Lính của tôi không được đi chung với tôi. Họ bị đưa tới một chỗ nào đó và tôi không gặp lại họ nữa. Chúng đem tôi tới một ngôi làng khác. Sau này như tôi được biết, đó là làng Razboynya (Nơi trú của lũ trộm) – một cái tên rất hợp. Gần làng, trên một bãi đất trống, tôi trông thấy san sát nhau nhiều dãy lán trại của một đơn vị lính Đức.
Bọn lính đưa tôi (hay đúng hơn là kéo lê tôi đi) vào một cái lán, có lẽ đó là trạm chỉ huy, trong có một bàn rộng và nhiều ghế ngồi. Chúng lột áo khoác và dây nịt của tôi, lấy mọi thứ trong túi và để tất cả lên bàn. Bọn sĩ quan Đức kéo tới. Chúng quan sát kỹ càng mọi vật dụng của tôi, các giấy tờ và mấy tấm ảnh. May thay, thẻ Đảng và thẻ sĩ quan cùng số hiệu trung đoàn đã được giấu trong ủng của tôi, bọn Đức không tìm được chúng. Đầu tiên chúng hỏi xem tôi có phải chính uỷ không. Để kiểm tra câu trả lời của tôi, chúng xăm soi thật kỹ ống tay áo quân phục của tôi, chỗ thêu ngôi sao của các chính trị viên. Ở chỗ ấy có dấu thêu của ngôi sao nào không, hay tôi chỉ vừa mới xé nó đi thôi? Rồi chúng hỏi xem tôi có phải Đảng viên Cộng sản không, tôi là sĩ quan chuyên nghiệp hay chỉ là lính quân dịch; tôi thuộc dân tộc nào, và tôi là người Nga thuần chủng phải không; vị tướng sư đoàn trưởng của tôi ở đâu. Ở chỗ nào làm sao mà tôi biết được? Tôi chật vật trả lời những câu hỏi của chúng. Tôi cảm thấy rất yếu và chóng mặt. Bọn chúng tỏ vẻ tò mò trước mấy bức ảnh của tôi. Chúng đặc biệt chú ý tới bức ảnh chụp vợ tôi đang ngồi cạnh cửa sổ. Tôi bảo chúng rằng bức ảnh ấy chụp tại căn hộ của tôi ở Matskva. Chúng hỏi lại tôi một cách giễu cợt: “Đấy có phải cái cửa sổ độc nhất trong căn hộ của mày không?” Tôi trả lời rằng ở đấy còn nhiều cửa sổ khác nữa. Chúng lấy đi tất cả trang bị của tôi, cái thắt lưng, cái bao trong có khẩu súng lục, cái xà cột đựng bản đồ và cái la bàn. Sau khi thẩm vấn chúng đưa tôi tới một nơi nào đấy, xung quanh rào đầy kẽm gai. Sau lớp kẽm gai tôi trông thấy những cái lán thảm hại làm bằng thùng và những tấm sắt rỉ sét. Tù binh Nga, những người phải làm việc phục dịch cho những đơn vị lính Đức, sống trong đó. Những con người ấy đón tiếp tôi rất nồng hậu. Họ đi tới nhà ăn của bọn Đức và đem về cho tôi một ca đầy cháo và một ổ bánh mì. Họ cũng cảnh báo tôi nên thận trọng. Ở đấy có một tên lính gác Đức luôn dò xét trong đám tù binh xem ai trông giống người Do Thái. Rồi hắn đem họ ra ngoài rừng và bắn chết họ. Những thằng Đức khác cũng không ưa hắn nhưng không ngăn hắn làm chuyện đó. Hóa ra thằng gác ấy cũng đã hỏi những tù binh khác về tôi, do mái tóc sẫm của tôi làm hắn nghi ngờ. Mọi người đã cố gắng thuyết phục hắn rằng tôi là người Nga. Sau đó thằng khốn nạn ấy lại tìm tôi sau hàng rào kẽm gai và hỏi mấy câu khiêu khích. Chật vật lắm tôi mới thoát khỏi hắn.
Tôi rất biết ơn những tù binh Nga đã cho tôi ăn và để tôi ở lại qua đêm tại một trong những cái lán. Sáng hôm sau tôi thức dậy và trước tiên là tự hỏi không hiểu mình đang ở đâu. Nhưng những vết đánh khắp người từ trận đòn hôm qua nhắc tôi nhớ ra sự thật đáng buồn – tôi đang là tù binh! Những vị chủ nhà hiếu khách, những người lính bị bắt làm tù binh, đã bị đưa đi làm việc đâu đó từ lúc sáng sớm. Tuy vậy, họ vẫn không quên để lại cho tôi một âu cháo cùng một mẩu bánh mì. Xin cám ơn các bạn, các đồng chí của tôi!
Qua hàng rào kẽm gai, tôi trông thấy một phần doanh trại quân Đức. Những cái lán rất đẹp được dựng thành từng hàng thẳng tắp. Trước lán trồng cả mấy luống hoa, còn những chiếc mũ sắt thì đặt thành hàng ngay ngắn trước lều. Cờ xí và các quân hiệu sặc sỡ treo khắp nơi. Như thể không hề có chiến tranh mà đang ở thời bình trong một doanh trại quân đội vậy. Chúng không thèm động một ngón tay để nguỵ trang doanh trại của mình. Chúng đủ khả năng tạo dựng một cuộc sống hòa bình như vậy chỉ vì quân đội ta không còn không quân hay xe tăng tại khu vực này của mặt trận, trong khi các lực lượng kiệt sức của ta tại vùng này đã bị bao vây hoàn toàn. Tất cả vẻ đẹp rực rỡ và thứ trật tự ngăn nắp này hoàn toàn tương phản với cảnh vật đất Nga bao quanh: những cánh rừng, những cánh đồng, những túp lều thôn quê nước Nga. Tôi cảm thấy rằng tất cả những thứ “kỷ luật Đức” này, những thứ được đưa tới đây bằng bạo lực, sẽ không thể tồn tại lâu ở đây.
Tôi nhanh chóng được nhập chung với một đoàn tù binh bị áp giải về phía tây. Trước khi khởi hành tôi tình cờ trông thấy một tên trong nhóm sĩ quan Đức đã tham gia hỏi cung tôi đêm trước. Hắn đeo cái xà cột đựng bản đồ bằng da vàng ưa thích của tôi bên thắt lưng – cái xà cột tôi đã đem theo từ kho quân trang Hồng quân ở Matskva. Tôi có thể làm gì bây giờ? Tôi hiện đang trong hoàn cảnh mà bất kỳ tên Đức nào cũng có thể tước đi bất cứ thứ gì hắn muốn, thậm chí cả mạng sống của tôi. Có người nói rằng bọn Đức thường đi săn lùng những xà cột da Xô viết. Bọn Polizei khốn nạn hèn hạ (Polizei – tên gọi mà người Nga dùng để chỉ những kẻ Ukraina-Nga gian tham gia lực lượng cảnh sát làm việc cho người Đức – LTD.), những kẻ luôn cố gắng hết sức để chứng tỏ lòng trung thành với những ông chủ mới của chúng, đặc biệt biết rõ điều đó.
Vậy đấy, bị bắt làm tù binh. Chúng tôi bước đi dưới sự áp tải chặt chẽ. Những người bị thương hay kiệt sức và không thể bước đi luôn bị đe dọa xử bắn dọc đường. Tại vài nơi, trong những rãnh hai bên đường, chúng tôi trông thấy thi thể đã thối rữa của nhiều binh lính Xô viết. Bị bắt vào mùa hè là còn may cho chúng tôi. Những người bị bắt vào mùa đông kể lại rằng, trong khi đi đường bọn lính Đức áp giải thường tìm cách tước ủng dạ của mọi người. Chúng thường đánh một tù binh ngã xuống rồi lột ủng khỏi chân anh ta. Đồng đội phải đưa anh ta một mảnh giẻ để quấn chân, nhưng điều này cũng không giúp gì nhiều. Những tù binh như thế thường sẽ lạnh cóng, tụt dần lại sau, và bọn lính áp tải sẽ bắn gục anh ta. Bọn Đức cũng cướp cả những nón lông còn tốt và áo khoác lông cừu. Đi mình trần trong giá lạnh cũng đồng nghĩa với bệnh viêm phổi và cái chết. Sau nhiều chặng nghỉ chân, chúng tôi bị đưa tới một trại tù binh lớn ở thị trấn Sychevka.
Đã đến trại tù binh ở Sychevka. Hàng đám đông những người đàn ông đói khát, râu ria lởm chởm tụ tập sau hàng rào thép gai. Những doanh trại và nhà kho, trong đó những người bị thương, người ốm và người khoẻ mạnh nằm chung với nhau trên những dãy giường tầng làm vội vàng tạm bợ. Trong trại, chúng tôi trông thấy những giá treo cổ, trên vẫn còn lủng lẳng vài đoạn thừng. Những người tù đã ở lâu trong trại kể rằng đã có một đợt hành hình xảy ra không lâu trước lúc chúng tôi tới. Điều đầu tiên chúng làm với chúng tôi là lục soát mọi người. Chúng lấy đi tất cả những giấy tờ còn lại và đốt chúng ngay trước mặt chúng tôi. Tại sao vậy? Để cho tất cả đều cảm thấy mình chỉ còn là một thằng “Ivan vô danh”, một thứ sinh vật không còn quyền hạn gì, hoàn toàn nằm trong tay bọn Kulturtraeger (giám ngục) Đức. Cùng lúc chúng cũng lấy đi đồng hồ, dao nhíp bỏ túi, băng gạc, tiền, nhẫn – tất cả những gì bọn Polizei (cảnh binh) thích. Cùng ngày chúng tôi tới trại, vào ban đêm, một dãy giường nằm hai tầng đổ sụp dưới sức nặng của những tù binh đang ngủ, nghiền nát những ai nằm ở dưới cùng. Tất cả những điều đó diễn ra trong bóng tối mịt mù, hoàn toàn không chút đèn đóm. Những người bị đè nghiến và ngạt thở bị để mặc cho chết dần trong bóng tối mà không nhận được bất cứ sự hỗ trợ thuốc men nào. Tại đây tôi tình cờ gặp lại một người lính cũ của mình. Toán chúng tôi bị đưa đi dọc một dãy nhà kho, nơi ở của những người lính bị bắt. Bất ngờ một người lính hét về phía tôi, anh ta rất mừng là tôi còn sống và cám ơn tôi vì đã không bỏ rơi binh sĩ của mình như những sĩ quan khác mà ở lại cho tới lúc kết thúc. Tôi cũng nhận ra người lính. Tôi thường đối xử nghiêm khắc với anh ta vì tính vô kỷ luật, nhưng những lời anh nói ở đây, trong trại tù của Đức, thực sự đã làm tôi hết sức xúc động.
Tình trạng ở đây thật man rợ và khủng khiếp. Đó là một thứ tự do tối thượng để bọn tội phạm hoành hành. Nạn trộm cướp và cảnh cậy mạnh hiếp yếu lan tràn khắp nơi. Hầu hết các tù nhân đều suy nhược vì giam cầm và không thể chống nổi các đợt tấn công của lũ trộm cướp và bọn Polizei. Trong tình thế như vậy mọi người bắt đầu tìm kiếm anh em đồng chí để cùng nhau chống lại lũ khốn kia. Đến đây tôi gặp được Boris Smirnov, người cũng không thể thoát khỏi vòng vây. Tôi cũng gặp Nikolai Loktev và Nikolai Semenov. Tôi chú ý đến Smirnov vì anh là một sĩ quan chuyên nghiệp. Loktev lại là một sĩ quan dự bị và đang phục vụ trong Bộ tham mưu Tập đoàn quân. Nghề nghiệp trong thời bình của anh là kỹ sư trắc đạc. Semenov cũng là sĩ quan dự bị, trước là hiệu trưởng một trường học ở Kursk. Chúng tôi đều thuộc cùng một quân đoàn pháo binh và đều là thượng úy. Chúng tôi quyết định sẽ giúp đỡ hỗ trợ lẫn nhau tới cùng dù có bất cứ chuyện gì xảy ra.
Những người vừa bị bắt làm tù binh cũng không biết rõ điều gì đang xảy ra. Thảm họa phải chăng chỉ xảy ra trong khu vực mặt trận chúng tôi hay ở khắp mọi nơi? Tất cả những điều này nghĩa là gì? Quân đội ta đã thua trong cuộc chiến này chăng? Bọn Đức sẽ thống trị chúng ta chăng? Tại sao người ta lại bỏ rơi chúng tôi trong vòng vây và để mặc cho bọn Đức tàn sát? Những câu hỏi này quay cuồng trong đầu tất cả mọi người, hạ gục dần ý chí của họ. Những cuộc tranh luận căng thẳng liên tục đưa ra nhiều quan điểm và lý lẽ sắc bén. Chúng tôi cố gắng nhận ra tình thế của quân ta, đưa ra một số quan điểm lý giải cho các sự kiện. Chúng tôi chỉ trích những chỉ huy của mình và sự thiếu kỷ luật của quân đội ta.
Một gã có râu quai nón phát biểu nhiều câu chống lại Chính quyền Xô viết. Hình như hắn là cựu thành viên thuộc phe Cách mạng Xã hội còn sót lại (phe này đã chấm dứt tồn tại kể từ cuộc chiến trong nội bộ Đảng những năm 20 – Bair Irincheev), cố sức rao giảng về cái gọi là “sức mạnh của quần chúng nông dân”. Hắn la lối rằng chỉ ở đây, sau hàng rào thép gai, hắn mới có được quyền tự do ngôn luận. Tôi không thể chịu nổi và bắt đầu tranh cãi với hắn. Các đồng chí ở gần đấy vội nhắc rằng tôi nên im miệng và đi chỗ khác càng nhanh càng tốt, bởi gã kia đã bắt đầu gọi tôi là “một thằng chính uỷ Bolshevik”.
Bọn do thám của Đức sục sạo khắp nơi. Một vài kẻ lắm mồm đi mọi nơi, cố tìm ra những người trước chiến tranh đã từng làm trong ngành công nghiệp quốc phòng. Trong khi tìm kiếm, chúng rêu rao là những chuyên gia quốc phòng có thể tìm được những chỗ làm tốt trong ngành công nghiệp quân sự Đức, được cấp một lượng thực phẩm phong phú và ở trong những điều kiện sinh hoạt tốt hơn nhiều so với những tù nhân khác. Một vài người đã bị chúng lừa gạt. Các thông tin cá nhân của họ bị ghi lại, và rồi những người tù đó bị đưa đi chỗ khác thẩm vấn, ở nơi đó họ sẽ bị buộc phải tiết lộ những thông tin chi tiết về nhà máy của mình, vẽ lại các bản đồ và sơ đồ bố trí của nhà máy, điểm chỉ các vị trí trên bản đồ địa hình. Các thông tin đó có lẽ phục vụ cho các đợt oanh tạc phá hoại. Một vài người tù bị đánh nhừ tử sau những cuộc thẩm vấn như thế, trong khi những người còn lại biến mất không còn một dấu vết.
Đôi khi có một người lớn tuổi mặc quân phục sĩ quan Đức xuất hiện giữa những người tù, nhưng qua giọng nói chúng tôi nhận ra hắn là một người Nga chính cống. Trên áo khoác tunic của hắn, ngoài con đại bàng Đức và chữ thập ngoặc như thường lệ, còn có một dải băng lạ mắt với chữ cái “D” viết theo kiểu chữ Slavơ cổ. Điều đó có nghĩa là gì? Một cựu sĩ quan Bạch vệ trong quân đội của Denikin chăng? Người đàn ông ấy trò chuyện thân mật với các tù binh, hỏi han mọi thứ, tỏ vẻ thông cảm trên mặt, viết vội vài điều gì đó, nói rằng để cải thiện tình trạng sinh hoạt cho các tù nhân. Có lẽ, đó là một cách đặc biệt để thu thập các tin tức tình báo. Bọn Đức không đơn giản đưa tên sĩ quan Bạch vệ này tới chỉ để tỏ ra thông cảm với những người đồng hương của hắn. Bản thân tôi không được gặp người này.
Nếu tình trạng của hầu hết tù nhân là tồi tệ cả về thể chất lẫn tinh thần thì điều kiện sống của các tù nhân Do Thái còn tồi tệ hơn nhiều lần. Họ coi như đã lãnh án tử. Tại trại Sychevka họ là mục tiêu của mọi loại hành hạ, lăng nhục và tra tấn. Một phần trong số họ bị lùa xuống ở dưới những dãy giường trong các căn phòng của bọn Polizei và Ukraina. Khi bị đưa từ trại tù tới nhà giam của thị trấn, họ bị lột trần chỉ còn đồ lót, trong khi quần áo của họ bị ném vào giữa đám đông tù nhân, và một cuộc chiến đáng xấu hổ để giành giật mớ quần áo ấy diễn ra. Tôi đã tận mắt thấy những con người đáng thương ấy bị dẫn tới nhà giam, đi chân trần và trên mình còn độc có đồ lót. Đi phía trước đoàn người là hai cô gái trẻ, đang nép vào nhau – có lẽ trước đây họ là những y tá Hồng quân. Bọn người thi hành có lẽ cũng ngượng không dám lột quần áo và tước giầy của hai cô gái. Hay có thể vài tên sĩ quan Đức còn chút lương tâm đã ra lệnh đó chăng?
Tại đây chúng tôi được nghe câu chuyện buồn về giờ phút cuối cùng của Ban tham mưu Tập đoàn quân 39 của chúng tôi. Họ bị bao vây trong một khoảnh rừng nhỏ hoàn toàn lọt trong tầm đạn cối của bọn Đức. Khu rừng được phòng thủ bởi những xạ thủ súng máy, những người đã nghe hứa là sẽ được sơ tán bằng máy bay (tất nhiên lời hứa này không được thực hiện). Mỗi đêm đều có máy bay chở tới đạn dược, thức ăn và chuyển đi những người bị thương nặng. Nhưng họ cũng chuyển đi hầu hết những chỉ huy cao cấp. Chỉ huy trưởng Tập đoàn quân Maslennikov hứa rằng ông ta sẽ ở lại với tập đoàn quân tới phút chót, dù trên thực tế điều đó không thể xảy ra. Tuy nhiên, theo lệnh của tướng Konev, chỉ huy trưởng Phương diện quân, ông ta là một trong những người đầu tiên bay tới Kalinin để báo cáo về tình hình của Tập đoàn quân và không bao giờ quay lại. Đêm trở nên ngắn lại và ngày càng ít máy bay bay tới. Khi một viên tướng lên máy bay bay đi, ông ta chỉ định một đại tá ở lại thay mình chỉ huy. Vị đại tá cố gắng để lên chuyến máy bay kế tiếp, chỉ định một trung tá lên thay mình và cứ tiếp tục tuần tự như thế. Tất cả bọn họ đều tìm cách cứu mạng mình trước tiên. Họ nhận ra là tình hình hoàn toàn vô vọng, và máy bay chỉ có thể bay tới vào ban đêm. Có thể chuyến máy bay ấy sẽ là cơ hội cuối cùng để cứu mạng họ, bọn Đức sẽ xuyên thủng tuyến phóng thủ vào ngày hôm sau. Khi những chỉ huy cao cấp rút hết, kỷ luật và trật tự cũng biến mất. Mọi người chỉ còn nghĩ tới lối thoát cho riêng mình. Chúng tôi được nghe câu chuyện về những hồi tiếp theo. Theo yêu cầu của bác sĩ, một thương binh nặng đang được đưa lên máy bay. Một sĩ quan tiến tới, láo xược kéo người bị thương khỏi máy bay và thế chỗ anh ta. Hắn dúi một nắm tem phiếu vào tay phi công, cầm súng đe dọa mọi người và chiếc máy bay cất cánh bay đi. Những người khác, thấy “có người làm được thế”, cũng bắt đầu dùng vũ lực chiếm chỗ trên máy bay. Họ nổ súng bắn lẫn nhau để giành quyền lên máy bay. Dần dần những xạ thủ súng máy cũng bắt đầu rời bỏ vị trí, ngay khi họ nhận ra mình đã bị lừa. Kết cục chuyện này là tuyến phòng thủ đổ sụp và tất cả đều bị giết hay bị bắt làm tù binh.
Chúng tôi bị chuyển tới chuyển lui từ trại này qua trại khác. Từ Sychevka chúng tôi tới Smolensk, từ Smolensk tới Lesnaya – ngày càng xa về phía Tây. Khủng khiếp nhất là một trại gần ga Lesnaya thuộc vùng Molodechno. Chúng tôi bị chuyển tới đây ngày mùng 4 tháng Tám năm 1942. Trước chiến tranh nơi đây là một kho nông phẩm với các nhà kho gỗ chạy dài, âm một nửa dưới mặt đất. Các nhà kho được chuyển thành nhà giam. Mỗi nhà giam được rào kín bằng dây thép gai và thuộc một khu vực độc lập của trại tù. Tại cổng vào trại tù có một chốt gác và một trạm gác nhỏ có hầm chứa rất sâu, mà vì lý do nào đó được gọi là “boongke”. Những người tù chạy trốn bị bắt lại được nhốt trong boongke. Những phòng phục vụ, nhà bếp, nhà kho và nhà tắm (cũng không còn sử dụng được nữa) nằm bên ngoài trại tù. Luật lệ chính trong trại tù là: “chia để trị”. Một vài nhà giam chỉ chứa người Ukraina, vài cái khác – chỉ người Tatar. Hai nhóm dân tộc này chiếm đặc quyền so với số đông tù nhân người Nga. Họ được cho ăn tốt hơn và được quyền lao động bên ngoài trại giam. Chúng tôi, những người Nga, được cho ăn rất tồi. Hai lần một ngày chúng tôi được phát một muôi cháo lúa mạch dở sống dở chín. Mỗi ngày một lần chúng mang tới một thùng nước lạnh, thùng này mau chóng bị uống cạn. Trời thì nóng mà chúng tôi tất cả đều khát khô cổ. Đừng nghĩ tới chuyện tắm, điều đó đơn thuần là không thể được. Trại được canh gác bởi cả lính Đức lẫn cảnh binh Ukraina. Điều khủng khiếp nhất ở trại giam này là số phận mọi người được quyết định tại đây: những người được sống và những người phải chết. Phải trải qua một đợt kiểm tra tổng thể. Chúng tìm ra những người Do Thái, các chính trị viên, các đảng viên lao động. Các cuộc thẩm vấn và điều tra được tiến hành tại phòng gác bởi một Sonderfuerer, một đặc phái viên Gestapo. Hắn có thể nói tiếng Nga khá tốt và không cần phiên dịch. Tù nhân từng người một bị lôi vào boongke để thẩm vấn và hầu hết mọi trường hợp đều kết thúc trong boongke. Những người bị đưa vào boongke thì bị cởi quần áo, chỉ còn mặc mỗi đồ lót. Giày và quần áo của họ bị bọn Polizei (cảnh binh) lấy đi. Vài người khác, ăn mặc cũng như tù nhân và được phép lang thang ngoài trại, sẽ vào đấy trò chuyện với họ, đặt ra vài câu hỏi khiêu khích. Sau đó chúng chạy tới chỗ tên Sonderfuerer và huýt sáo hỏi xin thuốc lá, cũng có nghĩa là những người trong kia sẽ bị kết án tử. Một người không cần phải là Do Thái hay chính trị viên cũng có thể bị đưa vào boongke – chỉ cần một báo cáo miệng của thằng khiêu khích kia là đủ. Chúng tìm kiếm người Do Thái không chỉ dựa theo giọng nói hay dáng vẻ, mà cả theo những phương thức đặc biệt khác, ví dụ như xem người ấy có cắt da quy đầu hay không.
Khi boongke đã chật, một chiếc xe đặc biệt từ Molodechno tới trại. Đó là một chuyến xe tải đến theo thường lệ, trên lắp một thùng lớn kín mít có gắn cửa. Bọn Đức và lũ Polizei kéo những tù nhân chân đất mình trần từ boongke ra, dùng báng súng tống họ vào trong thùng xe. Toàn bộ tù nhân trong trại đứng cạnh hàng rào thép gai, mắt dõi xem chiếc xe tải đi về hướng nào. Nếu nó đi về phía trái thì sẽ tới Molodechno, tới nhà tù. Nếu nó đi về phía phải thì là tới khu rừng. Những người Tatar ở nhà giam cạnh chúng tôi kể qua lưới kẽm gai rằng họ thường bị đưa tới khu rừng đào những hố lớn để chôn người chết. Nếu chiếc xe tải đi tới khu rừng, khói từ máy xe sẽ được phun thẳng vào thùng chứa tù nhân. Khi xe tải tới nơi, mọi người trên xe đều đã chết. Họ mau chóng được ném vào hố chôn và lấp đất vội vã. Những người Tatar cũng kể rằng xảy ra vài trường hợp vẫn còn tù nhân sống sót khi được kéo khỏi xe tải, nhưng cuối cùng vẫn bị chôn sống với những người chết. Do đó, tên Sonderfuerer tự quyết định rằng ai sẽ bị giết ngay lập tức trong chiếc xe giết người ấy và ai phải được đưa tới nhà tù để thẩm vấn và tra tấn tiếp. Ở đấy có một tên mặc đồng phục Đức làm phuÏ tá cho thằng Sonderfuerer. Hắn là loại người luôn luôn kín đáo, nhút nhát, rất lịch sự với tù nhân và nói tiếng Nga rất giỏi. Tôi nghe đồn rằng hắn là một trong những người Đức từng sống ở Liên Xô trước chiến tranh, từng là công dân Xô viết. Có lẽ hắn tự xấu hổ với bản thân vì tất cả những gì đang diễn ra trong trại tù.
Nếu trong những trại trước đấy giữa chúng tôi có nổ ra những cuộc tranh luận chính trị gay gắt thì tại trại Lesnaya mọi người đều trở nên kín tiếng. Thậm chí những người từng chỉ trích Liên bang Xô viết nay cũng im lặng. Tất cả chúng tôi đều thấy rõ một thực tế đang đe dọa mạng sống của mình, thần chết đang lôi chúng tôi đi dần dần từng người một, không cần đếm xỉa gì tới vấn đề mà anh ta đang tranh cãi. Hắn là một tên “khiêu khích” và thế là đã đủ để người đó bị đưa vào trong boongke và xa hơn nữa là về thế giới bên kia. Khi trại giam trở nên hoàn toàn câm lặng, thằng Sonderfuerer nghĩ ra một kế mới để bắt mọi người phải nói. Vài kẻ khiêu khích lại gần một người trong khu nhà giam sĩ quan và đưa ra một câu hỏi có vẻ thân mật: “Chúng ta đã thực sự thua trong cuộc chiến này sao? Nước Nga đã tiêu ma rồi chăng?” và đại loại như thế. Kết quả là mọi việc lại như cũ, cái boong ke vẫn luôn luôn chật người.
Những mối liên hệ giữa tù nhân ở các nhà giam khác nhau bị cấm tuyệt đối. Việc vận chuyển hay trao đổi đồ dùng giữa các nhà giam cũng bị cấm. Bọn Đức sợ điều gì – âm mưu, chaÏy trốn hay bệnh dịch? Vi phạm các điều cấm ấy bị trừng phạt cực kỳ tàn nhẫn, cao nhất là đánh đòn công khai, việc thi hành thường được giao cho đám người Tatar. Tù nhân ở khám phạt phải đứng “nghiêm” trong nhiều giờ liền.
Trong một lần tập hợp toàn thể trại tù, thằng Sonderfuerer đột ngột hỏi: “Thằng Do Thái … và … đâu rồi (hắn xướng họ những người ấy lên)? Tao đã cảnh cáo những tên này rằng chúng phải chấm dứt việc tuyên truyền độc hại, nhưng chúng đã không nghe theo lời răn đe của tao.” Những người đáng thương kia tiến lên trước hàng và lúng búng điều gì đó, cố bào chữa cho bản thân, và trong lúc luống cuống đã nói “thưa đồng chí”. Thằng Sonderfuerer hét lên: “Không có đồng chí nào ở đây! Bắt lấy nó!” Hai tên Polizei tóm lấy con người bất hạnh kia và kéo anh ta vào boongke.
Lại có lần một tên tướng cao cấp của Quân đội Đức tới thăm trại chúng tôi. Thằng phiên dịch nói với chúng tôi rằng tên kia là chỉ huy trưởng một đơn vị hậu cần. Tên tướng tới trại chúng tôi, vào khu sinh hoạt của các sĩ quan. Hắn được hộ tống và bảo vệ bởi bọn quản lý trại giam của chúng tôi. Hắn chăm chú quan sát nét mặt chúng tôi, có lẽ nhằm tìm hiểu cái “tâm hồn Nga” bí hiểm và hung bạo. Hắn hỏi vài người về cấp bậc, tên họ, nơi sinh sống. Sau đó hắn tóm tắt vài lời về tình hình hiện nay ngoài mặt trận, thông báo rằng Quân đội Đức đang chiến thắng trên mọi mặt trận và chiến tranh sẽ mau chóng kết thúc bằng thắng lợi của nước Đức. Tôi còn nhớ trong đó có một câu: “Sông Đông đã bị chiếm và bị vượt qua ở nhiều nơi”.
Những tên lính Đức thường đi tới vòng rào kẽm gai bên ngoài và đề nghị đổi những vật dụng có giá trị cuối cùng của tù binh lấy mấy mẩu bánh mì. Chúng hay đòi đồng hồ, nhẫn, tiền cổ, trà và dao nhíp bỏ túi. Các đồng đội đôi khi cũng nhờ tôi làm phiên dịch cho những cuộc đổi chác bất nhân ấy. Tôi còn một đồng 50 kopek bằng bạc có in chân dung Alexander Đệ Tam do khẩu đội trưởng của tôi (anh ấy đã bị giết hại sau đấy) tặng. Tôi quyết định đổi đồng tiền ấy lấy bánh mì, dù nó rất quý giá đối với tôi. Tên Đức, thằng mà tôi tìm cách trao đổi, bảo tôi: “ném đồng bạc qua hàng rào cho tao. Tao phải được thấy nó trước”. “Tại sao tôi lại phải tin ông?” “Tao không phải là Do Thái”, – hắn đáp một cách kiêu ngạo. Thực vậy, hắn chẳng phải là Do Thái. Để đổi lấy đồng tiền bạc, hắn ném lại cho tôi một khúc bánh mì đen. Tuy nhiên, sau khi xác nhận là đồng tiền làm bằng bạc thật, hắn hứa là ngày mai sẽ đem tới thêm ít bánh mì nữa. Giá như bạn biết nổi tôi đã mong đợi cho tới sáng hôm sau đến thế nào! Vậy mà trời ạ, sáng hôm sau, ngày 24 tháng Chín năm 1942, chúng tôi bị dựng dậy từ mờ sáng và bị đưa tới nhà ga để lên tàu tới nước Đức.
Một cuộc kiểm tra kéo dài diễn ra trước khi chúng tôi khởi hành. Việc khám xét tưởng như bất tận với việc phải đứng nghiêm thật lâu và lục soát kỹ lưỡng. Lo sợ bị xử bắn, chúng tôi phải tuân lệnh lộn trái túi quần túi áo để đưa nộp mọi loại dao nhíp, dao cạo và kéo. Khi chúng xét tới tôi, tôi chìa ra một cái kéo nhỏ và hỏi xin được đem theo. Tên lính Đức thô lỗ giật cái kéo khỏi tay tôi, lầm bầm rằng chúng tôi được đưa tới Đức để làm việc chứ không phải để “cắt móng tay”. Thế rồi chúng lấy đi tất cả thắt lưng và giầy da còn sót lại. Chúng tôi phải đi thế bằng những đôi guốc gỗ mà bọn Đức đem tới và chất đống trước sân. Người ta không thể chạy và đi bộ lâu với cái thứ giày dép như thế. Đấy cũng là lúc những kẻ đã phản bội lộ mặt. Những ai có trong tay một tờ “giấy phép” bằng tiếng Đức, ví dụ như một tờ chứng nhận đã tự nguyện đầu hàng thì có quyền được giữ lại những đôi giày da. Cũng cần phải nói rằng trong cả đám tù nhân thì chỉ có hai hoặc ba kẻ là phản bội.
Trên đường tới nhà ga, chúng tôi được áp tải bởi một đơn vị lính Đức rất đông, trang bị không chỉ tiểu liên mà thậm chí cả trung liên. Có lẽ vì chúng sợ một cuộc nổi loạn hay chạy trốn tập thể. Chúng tôi được đưa về phía tây, trong khi mặt trời đang mọc từ hướng đông và chiếu vào lưng chúng tôi, như thể đang nói lời vĩnh biệt. Tới gần Molodechno chúng tôi đi ngang một khu ghetto Do Thái. Đó là cả một khối những túp lều tồi tàn, chăng kín bởi hàng rào thép gai. Có một gã tóc đỏ khổng lồ đứng bên cổng vào khu ghetto, một kẻ rõ ràng là trí não kém phát triển – hắn trông như một con vượn người. Hắn cầm trong tay một ngọn roi. Một cô gái Do Thái đang quét dọn nền sân. Trước ngực và sau lưng cô có khâu hình ngôi sao David bằng vải màu vàng – một dấu hiệu mà mọi người Do Thái bắt buộc phải mang.
Chúng tôi được chất lên những toa hàng bẩn thỉu, không trang bị chút tiện nghi gì cho mục đích chở người. Do đó, chúng tôi phải ngồi nghỉ và nằm ngủ thẳng trên sàn toa. Những cửa sổ nhỏ được chằng kín dây thép gai, cửa toa luôn đóng chặt và bị khóa kín phía bên ngoài. Tôi không nhớ có bao nhiêu người chúng tôi dồn trong một toa, nhưng chúng tôi không thể tất cả nằm trên sàn cùng một lượt. Loktev, Semenov, Smirnov và tôi luôn sát cánh bên nhau, và thậm chí tại đây, trong cái toa tàu nhồi nhét chật chội khủng khiếp này, cũng vẫn vai kề vai hỗ trợ lẫn nhau cả về thể chất lẫn tinh thần. Đoàn tàu bắt đầu chuyển bánh. Chúng đưa chúng tôi tới một nơi xa lạ. Số phận thật trớ trêu! Đã bao lần tôi mơ ước được ra nước ngoài đi du lịch hay đi công tác. Và giờ đây, tôi bị đưa ra nước ngoài bằng vũ lực dưới thân phận một tù nhân!
Một tai nạn xảy ra khi chúng tôi mới khởi đầu chuyến hành trình. Đoàn tàu chở chúng tôi đang băng ngang một khu rừng thì có tiếng súng nổ. Tàu dừng lại đột ngột. Bọn lính Đức chạy ngược chạy xuôi dọc đoàn tàu, miệng văng tục ầm ĩ. Quãng một lúc sau, một tiếng súng đơn độc vang lên và đoàn tàu tiếp tục chuyển bánh. Về sau chúng tôi được biết một số tù nhân đã đục một lỗ trên sàn toa và nhiều người đã trốn qua cái lỗ đó trước khi tên lính tuần tra đang đứng ở toa cuối phát hiện và nổ súng. Tất cả những người còn lại trong toa đó đều bị lục soát. Chúng tìm thấy một con dao trên người một tù nhân. Chúng lôi anh ta ra khỏi toa và bắn anh ngay lập tức. Đó chính là phát súng đơn độc mà chúng tôi nghe thấy. Chúng tôi khâm phục những con người dũng cảm kia, ghen tỵ với họ và thầm chúc họ may mắn.
Chúng tôi không biết mình bị đang đưa đi đâu. Để xác định địa điểm chúng tôi đang tới, chúng tôi vẽ bản đồ Ba Lan và nước Đức lên mảnh gỗ dán bằng một mẩu bút chì. Dựa theo tên các thành phố chúng tôi đã đi qua, chúng tôi thử vẽ lại lộ trình của mình. Dần dần, chúng tôi nhận ra mình đang bị đưa qua Ba Lan để tới miền Tây Nam nước Đức. Một hay hai lần mỗi ngày, tại các ga chính, chúng tôi được phép rời tàu để đi lấy thực phẩm. Bọn chúng đổ một ít súp vào cà mèn cho chúng tôi – chỉ vừa đủ để chúng tôi không chết hết vì đói. Trong lúc chúng tôi ra khỏi toa, toàn đoàn tàu đều bị kiểm tra. Tôi thấy một tên Đức bắt gặp cái bản đồ của chúng tôi và mang nó lên cho đội trưởng của hắn. Tôi nghe tên đội nói rằng: “Lũ lợn này cũng có thể làm việc cần cù đấy nhỉ.” Tôi còn nhớ lúc tới ga Volkovyssk. Tại nhà ga này, tên Đức đầu bếp chịu trách nhiệm phân phát thức ăn kiêm luôn vai trò của một đứa “phân loại viên”. Nếu một tù nhân có mái tóc vàng, anh ta sẽ được nhận một cà mèn súp đầy. Nếu tù nhân tóc sẫm màu, anh ta sẽ chỉ nhận được nửa cà mèn hay thậm chí ít hơn nữa. Lúc ấy tóc tôi sậm màu nên tôi cũng chỉ được nhận nửa cà mèn súp. Thuyết phân biệt chủng tộc thể hiện theo cách hiểu của tên Đức nấu bếp là như vậy đó. Đoàn tàu chúng tôi thường phải dừng lại ở mỗi ga hay ngay giữa đồng trống. Có lần một đoàn tàu chở một đơn vị lính Ý dừng lại trên tuyến đường sắt đối diện. Đoàn tàu ấy đang đi về phía đông. Đám lính Ý mở cửa toa của họ về phía chúng tôi và thân thiện nói chuyện với chúng tôi. Chúng tôi cũng vẫy tay qua các cửa sổ nhỏ trên tàu để đáp lại họ. Rồi những người Ý sắp xếp một buổi hòa nhạc cho chúng tôi, có cả măngđôlin và ghitar. Rõ ràng là họ không thù ghét đất nước Xô viết, đất nước mà họ sắp phải tham chiến chống lại. Nói cách khác, họ tỏ thái độ thân thiện với chúng tôi. Buổi hòa nhạc bị cắt đứt bởi một sĩ quan Ý, hắn la mắng đám lính và hình như ra lệnh cho họ đóng hết cửa lại. Hắn đeo một dải băng xanh chéo qua vai, có lẽ đó là một tên sĩ quan trực nhật. Chúng tôi cũng thấy lính Ý đang dắt mấy con lừa để đi lấy nước. Phía Ý sử dụng những cái xô làm bằng nhựa trong suốt mà chúng tôi được trông thấy lần đầu tiên trong đời.
Chúng tôi bị chở xuyên qua Ba Lan. Chúng tôi cũng được chiêm ngưỡng một phần của Warsaw. Những lá cờ thập ngoặc được treo khắp nơi trên các ban công nhà. Nhưng rồi đoàn tàu chở chúng tôi nhanh chóng chui vào những đoạn đường hầm. Một công nhân đường sắt Ba Lan, thận trọng đưa mắt quan sát xung quanh, lại gần chỗ chúng tôi trong đoạn hầm khuất và cất tiếng hỏi xem chúng tôi bị bắt từ đâu tới. Trên đoạn đường trước khi tới Warsaw, những ngôi làng Ba Lan trông có vẻ nghèo nàn, toàn là những túp lều gỗ lợp tranh. Sau khi rời Warsaw, một khung cảnh “Châu Âu” xuất hiện: những ngôi nhà gạch sạch sẽ có mái ngói tử tế. Và rồi đã tới nước Đức. Trong số nhiều thành phố, tôi nhớ nhất là Chemnitz.
Tôi còn nhớ một đêm khuya, khi trời đã tối sẫm và đoàn tàu chúng tôi đang dừng tại một ga xép ở Đức. Chúng tôi đều đang ngủ, mình quấn trong áo khoác, nằm ngồi ngổn ngang trên sàn tàu chật chội khủng khiếp. Có thể nghe tiếng người đi bộ ngoài sân ga, thậm chí chúng tôi còn nghe cả tiếng cười phụ nữ. Chúng tôi nghe thấy tiếng nhạc xa xa. Một cơn gió ấm áp đưa lại mùi hương của thảo mộc mọc mùa hè. Tất cả những cái đó như thật gần gụi, đồng thời lại thật xa vời đối với chúng tôi, đang bị khóa nhốt kín trong cái nhà tù có bánh xe của mình.
Đến ngày thứ sáu của chuyến hành trình, ngày 30 tháng Chín năm 1942, chúng tôi tới điểm dừng cuối cùng, thị trấn nhỏ bé Muensingen thuộc miềân Tây Nam nước Đức. Chúng tôi đã kiệt sức bởi chuyến đi và đói khát tới mức chỉ có thể khó nhọc lê bước. Vậy mà hóa ra chúng tôi còn may mắn hơn nhiều những người vừa tới trước đó. Những người tới sớm hơn kể rằng chuyến xe lửa đó phải đi đường hết hơn mười ngày, và trên xe chật chội tới mức tù nhân phải đứng trong gần hết thời gian di chuyển. Họ cũng không được rời tàu ra ngoài và gần như không được cấp chút thức ăn nào. Khi tàu tới nơi, một “màn trình diễn” ngoạn mục được dàn sẵn: những tù nhân đói khát, kiệt sức, bẩn thỉu và lởm chởm râu ria bị bắt xếp hàng trên sân ga để ra mắt một tên tướng Đức giữ chức vụ quan trọng. Khi nhìn thấy các tù nhân, hắn thốt lên: “Lũ người thế này mà lại muốn đặt văn hóa của chúng lên trên chủng tộc German chúng ta sao?”
Thị trấn trung cổ nhỏ bé Muensingen với những ngôi nhà xinh xinh kiểu Gothic và mái ngói nhọn có thể làm phông nền hoàn hảo cho một vở ca kịch Faust. Dường như tất cả đều hấp dẫn và thú vị, ngoại trừ việc nó quá buồn tẻ. Chúng tôi được thấy một cảnh của quá khứ diễn ra tại nhà ga, có vẻ khá hợp với những kiến trúc cổ xung quanh. Một xe ngựa được kéo bởi một đôi ngựa mập mạp đi tới nhà ga. Những con ngựa được điều khiển bởi người đánh xe mặc bộ đồ thêu chỉ vàng. Một mệnh phụ kiêu kỳ ngồi trên xe, chăm chú dò xét chúng tôi qua đôi mục kỉnh một cách thành thạo. Như sau này chúng tôi nghe kể lại, bà ta là một địa chủ giàu có, tới để chọn lấy số “nô lệ Phương Đông” phần mình.
Nơi này thực sự là một thị trấn trung cổ trong chuyện cổ tích. Dường như kia là một nhân vật đang vận trang phục sân khấu sắp bước khỏi căn nhà và cất giọng hát một đoạn trong vở opera. Nhưng cái trại tù mà chúng tôi sắp bị đưa vào thì không phải là sân khấu opera. Trại bao gồm những dãy nhà dơ dáy đầy gián rào lưới kẽm gai. Đó cũng là nơi đói khát khủng khiếp. Bọn chúng phát cho chúng tôi mỗi ngày một ít súp bắp cải sống sít và một khoanh nhỏ bánh mì. Bánh mì đỏ quạch vì làm từ rễ củ cải đường. Khắp trại nhan nhản lũ phản bội, những cảnh binh Nga và Ukraina, điệu bộ như một lũ tội phạm. Nhằm giải trí, hàng ngày chúng tìm mọi cách để đánh đập đám tù nhân khốn khổ. Để làm chuyện đó, chúng đem tới khoảng nửa nồi súp rồi thông báo rằng mọi người được phép đến lấy “súp phụ cấp”. Những con người đang điên dại vì đói khát đổ xô về phía cái nồi súp. Một trận chiến giành thức ăn diễn ra và thế là bọn cảnh binh bắt đầu quất mọi người bằng những cây gậy dài đã chuẩn bị sẵn từ trước. Chân phồng rộp và chảy máu vì đi guốc gỗ nên tôi tìm cách để kiếm một thứ khác thay thế. Tôi nhờ một cảnh binh chuyện ấy – một tên trông có vẻ đỡ lưu manh hơn cả. Tôi vẫn còn một đôi đồng hồ đeo tay, giữ được chúng cũng là cả một phép lạ, và đề nghị đổi một trong số đó lấy một đôi giầy. Để đổi lấy cái đồng hồ, tên cảnh binh đem tới cho tôi một đôi giày lính cũ bằng da màu nâu đỏ đã nứt đế. Nhưng đôi giày như thế với tôi cũng đã là một niềm vui sướng tột cùng rồi.
Ở đây bọn chúng cấp cho mỗi người một cái thẻ xanh lá cây, trên ghi những thông tin về cá nhân từng người. Chiều cao, màu tóc và mắt, họ tên và nhóm chủng tộc đều ghi rõ trên thẻ. Chúng tìm kiếm lọc ra những người có chút máu Do Thái hay Di gan trong mình. Những người như thế sẽ bị thủ tiêu lập tức. Chúng dán hai tấm ảnh và các dấu vân tay lên thẻ. Có lẽ đó cũng là cách thức chúng tiến hành trong các nhà tù ở Đức. Mỗi người trong chúng tôi phải đeo một cái lập lắc cổ chó hình chữ nhật bằng nhôm. Trên đó có khắc số 5 và số tù cá nhân mỗi người (5 là mã số của trại giam – Stalag 5a. Cái lập lắc được phân làm đôi bởi nhiều lỗ đục sẵn. Khi người tù chết, một nửa sẽ để lại trên cổ cái xác và nửa kia được giữ lại để vào sổ. Mọi thứ được sắp xếp với độ chính xác theo kiểu Đức. Người ta nói rằng lính Đức cũng đeo một cái lập lắc có khắc số y như vậy, chỉ có điều cái của chúng có hình ô van. Những tù nhân về sau gia nhập Quân đội Giải phóng Nga ROA (tức đội quân phản bội của Vlasov) cũng được phát cái lập lắc cổ chó hình ô van. Đấy chính là lý do tại sao chúng tôi giữ mãi cái lập lắc hình chữ nhật như một bằng chứng xác thực rằng mình không có gì liên hệ với các đơn vị của Vlasov.
Vì các thức ăn tồi tệ trong trại nên chúng tôi bắt đầu mắc bệnh ỉa chảy. Mỗi tối tôi phải thức dậy nhiều lần để tới nhà vệ sinh, nằm rất xa nhà giam. Một tối nọ tôi đang đi tới đó. Bất ngờ, một tên gác, một thằng Đức lùn và béo, bước chắn ngang đường đi của tôi. Tôi dừng lại và hỏi một cách máy móc: “Was wollen Sie?” (Anh muốn gì?) Hắn chửi tôi, và tôi bắt buộc phải vòng qua hắn để đi tiếp. Khi tôi quay về, tôi nghe tên gác ấy đang nói với một thằng khác: “Mày thấy thế nào? Lũ lợn đó dám hỏi chúng ta rằng chúng ta muốn cái gì! Chúng ta chỉ muốn chúng nó chết hết đi cho rồi!”
Sau khi chúng tôi được “vô sổ” như thế và số tù được treo lủng lủng trên cổ, bọn chúng bắt đầu phân chúng tôi thành từng đội để đưa đi làm những công việc khác nhau. Tất cả mọi người đều muốn thoát khỏi cái trại chết đói đáng nguyền rủa đó càng nhanh càng tốt. Một số người mơ được tới làm tại một nhà máy sản xuất đường, nơi ít nhất họ cũng sẽ được nhá rễ củ cải đường. Bốn người chúng tôi cùng gắn bó với nhau trong suốt quá trình phân công công việc, và tất cả chúng tôi được đưa vào chung một đội công tác khoảng ba mươi người. Có thể xem đó là một đội công tác sĩ quan, dù chỉ phân nửa trong số họ là sĩ quan. Những người khác là binh nhì và hạ sĩ quan, những người cho rằng sẽ được ưu đãi hơn khi ở chung với một nhóm sĩ quan. Dù sao cũng không ai có thể kiểm tra cấp hiệu của họ – tất cả giấy tờ của chúng tôi đều đã bị tiêu hủy.
Ngày 16 tháng Mười năm 1942, đội chúng tôi được đưa khỏi trại, áp giải tới nhà ga và bị chất lên một toa hàng. Chúng tôi mừng rỡ khi thấy có sự thay đổi, nhất là bởi chúng tôi tin rằng không còn nơi nào có thể tệ hơn Muensingen. Ngày hôm sau chúng tôi xuống một ga nhỏ tên là Lorch, cách Stuttgart khoảng 35 km về phía đông. Một thị trấn nhỏ cùng tên với nhà ga nằm bên cạnh đường tàu. Ở đó có một nhà kho bằng gỗ cạnh đường sắt với hàng rào dây thép gai. Một biển quảng cáo to tướng nằm trên mái nhà kho, trên viết: “Công ty Lutz, chuyên xây dựng các công trình trên và dưới mặt đất”. Con sông Rems nhỏ bé nằm sau nhà kho, về sau chúng tôi được biết nó chảy về phía Tây để đổ vào sông Rhine. Phía bên kia đường tàu nhấp nhô một chỏm núi và các bức tường của một tu viện.
Cái nhà kho gỗ được chia làm hai phần. Một phần dành cho các tù nhân và phần thứ hai cho đám lính gác. Cửa sổ trong phòng tù nhân chằng kín song sắt và các tấm chớp gỗ. Các dãy giường sắt hai tầng được xếp sát tường, trải những tấm đệm độn rơm. Mỗi chiếc giường phủ hai tấm chăn cũ, một làm tấm trải và cái còn lại làm chăn đắp. Một lò sưởi bằng sắt đứng giữa phòng. Ở đấy cũng có những chiếc bàn dài và các băng ghế bằng gỗ. Có một tờ thông báo treo trên tường, đánh bằng tiếng Nga trên một máy đánh chữ (nhưng là thứ tiếng Nga rất tồi). Đó là bảng liệt kê những gì tù nhân bị cấm không được làm. Bảng liệt kê bắt đầu bởi dòng chữ: “bất cứ tù nhân nào dám đụng vào một người Đức đều sẽ bị xử bắn”. Tất cả những mục còn lại đều tương tự như điều đầu tiên kể trên.
Khu dành cho bọn Đức là một phòng ở rộng, ấm áp và sáng sủa cho đám lính gác (đội gác gồm một hạ sĩ quan và bốn lính Đức). Chúng có một lò sưởi, những chiếc giường một tầng, chỗ để súng và một máy thu thanh. Vào mùa đông, trong khi ở chỗ chúng tôi mái nhà phủ đầy tuyết thì khu của bọn Đức không hề có tuyết trên mái. Chúng luôn đốt lửa sưởi ấm phòng khi trời rét. Một biển báo trên cánh cửa thông từ phòng của chúng sang phòng chúng tôi, ghi bằng tiếng Đức: “Cấm vào”. Dù vậy chúng tôi cũng không bao giờ vào đấy. Ở đây cũng có nhà xí và nhà tắm (một căn phòng để chúng tôi tắm rửa và thay quần áo) nằm trong sân của khu nhà kho. Ở đó có một bồn nước đặt trên nóc nhà tắm, tự động đưa nước từ sông lên nhờ một máy bơm điện. Lúc đầu chúng tôi được phép tắm rửa mỗi tuần một lần. Thế rồi một tên chỉ huy cao cấp tới, la mắng tên hạ sĩ, và sau đó chúng tôi chỉ còn được phép tắm hai tuần một lần. Chúng cấp cho chúng tôi những bộ quần áo sẫm màu trên có sơn hai chữ cái bằng sơn trắng: SU (Liên Xô – Soviet Union). Những chữ này cũng được viết lên chỗ đầu gối phải, chỗ ngực trái, phía lưng bên phải và trên mũ. Không thể trốn thoát trong thứ trang phục như thế được. Chúng tôi cũng đi đôi giày công tác có đế gỗ rất dầy, đẽo tròn phía mũi và phía sau. Dựa theo những dấu hiệu trên nút áo, chúng tôi hiểu rằng đây là một loại quân phục –từ quân đội Tiệp Khắc và Pháp – nhuộm màu xanh lam-xanh lục sẫm.
Chúng thường đánh thức chúng tôi dậy từ sáu giờ sáng. Hai tù nhân trực nhật và một lính gác sẽ vác một cái nồi lên xe ngựa để tới chỗ nhà bếp gần nhất, nơi chúng đang nấu súp rau cho chúng tôi. Nhà bếp được điều hành bởi một tên Đức béo mập tên là Bromer. Trong thời gian đó chúng tôi phải dọn xong giường và quét dọn khu trại. Kế đến chúng mở khóa cổng để chúng tôi vệ sinh rồi mặc quần dài và đi giầy cùng cất ở đấy. Súp và một mẩu bánh mì quết bơ nhân tạo cũng vừa kịp tới. Mỗi súc bánh phải chia làm hai phần. Chúng tôi cắt chúng làm hai và thậm chí đem cân trên một chiếc cân tự tạo bằng gỗ sao cho hai phần thật đều nhau. Mẩu bánh nhỏ đó là phần ăn cho cả một ngày trời. Thế rồi chúng tôi lên đường đi làm việc. Nếu nơi làm không xa thì chúng tôi xếp hàng đi bộ tới. Nếu quãng đường phải đi quá dài thì chúng tôi sẽ lên một toa tàu, được gắn vào một đoàn tàu đi ngang qua. Hai người có thông báo ốm được phép ở lại trong trại. Chúng tôi lên một kế hoạch có sắp xếp phân công rõ ràng. Những người bị bệnh nặng sẽ được gửi tới bác sĩ để đưa về bệnh viện tại trại giam Stalag 5a ở Ludwigsburg. Không ai muốn phải tới đó, tù nhân ở đấy thường xuyên bị bỏ đói. Chúng tôi lao động trên đường sắt được cấp thức ăn đầy đủ hơn, do đó là một công việc tay chân nặng nhọc. Chúng tôi làm từ 10 tới 12 tiếng mỗi ngày. Công việc là tháo lên những thanh ray và tà vẹt đã cũ. Kế đó là thay những thanh ray thép còn mới vào, đặt tà vẹt mới lên rồi tán đinh vào tà vẹt. Sau đó chúng tôi phải nhét đá lót đường mới xuống dưới tà vẹt, nện bằng đầu tù của cái cuốc chim. Bốn người phải đứng lên trên thanh tà vẹt và nện xuống đá lót đường ở dưới tà vẹt từ cả hai phía. Tên Meister sẽ kiểm tra độ đầm chặt của lớp đá lót dưới tà vẹt bằng cách cuốc thử xuống bằng đầu nhọn của cái cuốc chim. Công việc nặng nhọc nhất là mang vác những thanh ray bằng loại kìm Zanga đặc biệt. Việc mang vác những thanh tà vẹt bôi đầy dầu mỡ bảo quản cũng rất khó khăn. Chất lên và dỡ đá lót đường xuống cũng là một công việc rất mệt.
Viên quản lý công ty Lutz là một người thon chắc đầy sức lực, một người Tiệp gốc Đức mà được mọi người gọi ngắn gọn là Meister (đốc công). Chúng tôi không biết tên thật của hắn, có lẽ hắn có lý do để không nói nó ra với chúng tôi. Các bạn tôi đặt tên cho hắn là Riwa, do hắn rất hay dùng cái từ này. Theo tiếng Schwab nó có nghĩa là (khi dùng chung với một động từ khác) “đặt” hay “ném cái gì đó qua một bên”. Vào mọi thời tiết trong năm hắn đều đội một chiếc mũ lông đỏ và gắn một phù hiệu kỹ thuật viên trên ve áo: một cái bánh răng và một chữ thập Đức nằm ở giữa. Chúng tôi bắt đầu và kết thúc công việc khi nghe hiệu lệnh phát ra từ cái còi do Riwa thổi. Trong lúc chúng tôi làm việc hắn thường la hét chúng tôi: “Los, los! (tương tự như “Davai, davai!” trong tiếng Nga – “Làm đi, làm đi !”)”. Thậm chí khi chỉ còn hai phút nữa là hết ngày làm việc, khi hắn đã chợm rút chiếc còi và cái đồng hồ trong túi ra, hắn vẫn tiếp tục hét: “Los, los!” Hắn không chấp nhận bất cứ thái độ thân tình hay đùa cợt nào, luôn luôn tỏ ra lạnh lùng thực dụng và yêu cầu một tinh thần lao động có trách nhiệm cao ở chúng tôi. Đồng thời hắn tỏ ra rất nguy hiểm, bởi hắn là người Tiệp và có thể hiểu tiếng Nga, dù hắn không bao giờ nói với chúng tôi về chuyện đó. Các bạn của tôi, những người ban đầu cho hắn là người Đức nên không hiểu tiếng Nga, đã nguyền rủa bằng tiếng Nga để đáp lại những mệnh lệnh của hắn. Sau đó tôi phải nói gỡ cho họ khỏi bị rắc rối, bằng cách giải thích cho Riwa rằng những từ thô tục đó trong tiếng Nga có nhiều nghĩa và hắn đã hiểu nhầm nó hay đại loại như thế.
Gần như trọn ngày chúng tôi phải ở ngoài tuyến đường sắt. Mặc cho nắng chiếu cháy da, mặc cho răng cỏ chúng tôi lung lay trong giá lạnh mùa đông – chúng tôi phải làm việc trong bất cứ điều kiện thời tiết nào. May mắn cho chúng tôi, thời tiết miền Nam nước Đức cũng khá ôn hòa. Từ mùa thu và cuối mùa đông cho tới dịp đầu năm mới mây đen thường tới từ Đại Tây Dương, lúc này thường xuyên có mưa. Vào tháng Giêng và tháng Hai trời có tuyết, theo sau là một mùa đông trời lạnh và khô ráo. Tuyết phủ trên mặt đất chỉ trong vòng một tháng, đôi khi còn ngắn hơn. Khi đó trời suốt ngày ấm áp, mặt trời chiếu sáng và đôi lúc có muỗi bay vo ve. Phụ nữ Đức mở toang cửa sổ để giũ sạch nệm trải giường. Nhưng khoảng bốn hay năm giờ chiều, khi mặt trời lặn trên dãy Alps thì trời bắt đầu se lạnh. Tới lúc đó cánh phụ nữ Đức đi khép kín cửa sổ lại. Về đêm có sương giá buông xuống mặt đất. Mùa xuân chỉ tới sớm nhất là vào tháng Ba.
Có lẽ chúng tôi đã may mắn khi được làm việc ngoài trời suốt ngày. Rất nhiều tù nhân bị đưa đi lao động dưới các mỏ muối hay mỏ than hoặc các xí nghiệp quân đội nằm ngầm dưới mặt đất. Đấy là chưa kể tới những người phải đi xây dựng những nhà máy hay công trình bí mật và sẽ bị giết hết sau khi công trình hoàn thành vì bị coi như những nhân chứng nguy hiểm. Có rất nhiều người Đức và người Ý cùng làm việc với chúng tôi, họ không đủ tiêu chuẩn để phục vụ trong quân đội do có khuyết tật tâm thần hay thể xác. Trong số đó có ông già Sadori người Ý đến từ Sicily, người suốt đời đã làm việc ở Đức. Tôi hỏi ông tại sao lại rời bỏ một quê hương xinh đẹp như thế. Ông trả lời rằng làm một người nghèo thì không thể hạnh phúc thậm chí ngay khi sống trên một đất nước xinh đẹp. Ông cũng bảo tôi rằng ông cũng chỉ là một tù nhân như chúng tôi mà thôi. Trợ lý đốc công là một gã Đức râu mép to lớn và đần độn, rất thù ghét chúng tôi. Những người chuyên đặt biệt hiệu trong nhóm đặt cho hắn cái tên “chó săn”. Tôi luôn cố tránh phải tranh luận với gã ngốc đó, nhưng không hiểu vì lý do gì đó hắn vẫn tìm cách nói chuyện với tôi, tán dương các chiến thắng của người Đức. Tới khi hắn bảo tôi rằng vũ khí của quân đội Đức có chất lượng tốt hơn của người Nga thì tôi không thể nhịn được nữa và trả lời rằng với điều đó thực tế chiến tranh sẽ trả lời. Hắn nổi giận và giơ nắm đấm trước mặt tôi. Một lần có người ném một cái ghế nặng bằng gỗ từ đoàn tàu vào chúng tôi. Chiếc ghế được nhắm vào những tù nhân, nhưng lại trúng vào tên chó săn. Hắn chửi thề như điên, làm tất cả chúng tôi đều thấy khoái trá. Vào buổi chiều, khi chúng tôi quay về khu trại, bọn chúng lục soát chúng tôi, nhưng không cẩn thận lắm. Một người trong bọn tôi luôn thủ về một tờ báo mới tiếng Đức với những tin tức nóng hổi nhất từ mặt trận, được nhặt lên từ đường tàu. Mọi người chuyển báo tới cho tôi để dịch lại. Chúng tôi đi rửa ráy ở nhà tắm, tại đó chúng tôi cởi bỏ giày và quần dài để đi ngủ, xỏ đôi guốc gỗ vào và ăn bữa súp tối trong nhà trại. Kế đó một tên lính gác đem tới cái thùng rác cũng dùng làm thùng xí, cửa phòng được khóa lại cho tới sáng, còn bên ngoài sân một con chó canh được thả ra. Chẳng khác gì nhà tù!
Trong những ngày đầu tiên làm việc ngoài tuyến đường sắt, tôi đã cố gắng thử bắt chuyện với những công nhân Đức. Họ phá lên cười. “Tôi đã nói cái gì không đúng chăng?” – “Anh nói rất chuẩn, nhưng chỉ có những quý ông và các ông chủ mới nói cái kiểu như anh mà thôi. Chúng tôi nói năng đơn giản hơn nhiều.” Rồi họ hỏi tôi về nghề nghiệp của mình hồi còn ở Nga. Tôi không muốn thú nhận mình là một kỹ sư, bởi trong tiếng Đức cái từ “Diplom-Engineur” chỉ có nghĩa đơn giản là kỹ thuật viên. Tôi bèn nói mình là một nhà thiết kế. Họ nghi ngờ tôi: “Hãy vẽ cho chúng tôi xem một cái bu lông và một cái đai ốc”. Bằng một mẩu phấn tôi mau chóng vẽ ra một bu lông có xãnh xoắn và cái đai ốc. Những người công nhân lộ vẻ ngạc nhiên. Một người trong bọn họ nói: “Anh ta không nói dối đâu. Anh ta đúng là một nhà thiết kế đấy. Anh ta hẳn là một quý ông.” Những điều đó nghe vừa khôi hài lại vừa đáng buồn.
Chúng tôi được canh gác bởi những lính Đức được gọi là Wachman, những người lính có nhiệm vụ theo dõi hay canh gác. Chúng thường bị thay đổi liên tục, do chúng chỉ làm việc với chúng tôi trong một thời gian ngắn khi vừa rời bệnh viện để kịp hồi sức, sau đó chúng lại phải ra mặt trận. Những tên lính đó có tính cách khác nhau và đối xử với chúng tôi cũng rất khác nhau. Những tên còn trẻ bị đầu độc quá nhiều bởi sự tuyên truyền của bọn Quốc xã, coi chúng tôi như kẻ thù và đối xử với chúng tôi rất tàn nhẫn. Những đứa già hơn, đã từng chiến đấu ngoài mặt trận, coi chúng tôi cũng là người lính như mình và đối xử tốt với chúng tôi mà không tỏ vẻ thù ghét. Trong số đó cũng có những thằng tàn bạo (mắc bệnh xađích) thường tìm mọi dịp để đánh đập tù nhân. Có lần một thằng xađích thực thụ lọt vào trong đội gác-hắn thích lấy móng tay rạch mặt tù nhân chỉ vì những lỗi nhỏ nhất. Tôi khiếu nại chuyện đó với tên hạ sĩ quan, người chỉ huy của nhóm gác. Tên hạ sĩ mắng tôi rằng ngoài chiến trường còn phải đổ máu nhiều hơn mà đâu có ai kêu ca. Nhưng có lẽ hắn cũng có nói với tên thú vật kia nên về sau tên kia thôi không hành hạ tù nhân nữa. Bọn Đức trước hết coi tù nhân như súc vật thồ, phù hợp với lao động chân tay nặng nhọc, nên chúng cũng không muốn đánh đập chúng tôi để đến nỗi không làm việc nặng được nữa. Ngoài ra chúng còn những lý do khác. Thực ra tham gia trong đội cảnh vệ tại hậu phương luôn an toàn hơn đi đánh nhau ngoài mặt trận, nên bọn Đức tìm mọi cách để giữ chỗ đứng của mình ở đây. Chúng biết là nếu để chúng tôi than phiền lên tên thiếu tá, chỉ huy trưởng của khu đồn trú, người vẫn hay tới đây kiểm tra, thì chúng rất dễ bị đưa ra ngoài mặt trận. Không phải vì chúng thông cảm cho chúng tôi, mà chỉ vì mặt trận luôn thiếu lính tiếp viện.
Bọn Đức cũng sợ lẫn nhau. Tên hạ sĩ sợ tên chỉ huy đồn trú; bọn lính thì sợ tên hạ sĩ và sợ cả lẫn nhau. Khi chỉ có một tên lính canh áp giải chúng tôi đi làm, hắn thường không bao giờ giơ chân đá chúng tôi, đôi khi còn trò chuyện khá thân mật nữa. Nhưng khi có hai tên cùng đi áp giải thì, thậm chí là những tên trước đó có thiện cảm nhất, cũng sẵn sàng la hét chúng tôi, thúc giục chúng tôi làm nhanh hơn nữa, như thể cố ganh nhau xem đứa nào làm tích cực hơn vậy. Cũng có những tên lính đôi lúc cố tỏ ra mình là người có học. Một tên trong số đó có thái độ rất kiêu ngạo trịch thượng. Thêm vào đó hắn đối xử với chúng tôi rất tàn nhẫn. Hắn vênh váo nói với tôi rằng mình đã tốt nghiệp một trường thể dục thể thao. Rồi hắn hỏi tôi như một giáo sư hỏi học trò tên những người Đức kiệt xuất mà tôi biết. Khi tôi nêu tên Henrich Heine trong số những nhà thơ Đức, hắn sửa lưng tôi với một cái nhìn khinh miệt, bảo rằng không hề có một nhà thơ Đức nào với cái tên như thế. Tới lượt mình, tôi đề nghị hắn kể tên những nhà văn Nga mà hắn biết. “Bá tước Leo Tolstoi và Dostoyevski là linh hồn Nga.” Đã bao giờ hắn được nghe về Pushkin chưa nhỉ? “Pushkin, Pushkin, – tên Đức hỏi lại tôi, phát âm nhấn mạnh âm tiết cuối. “Ông ta là ai, một người theo chủ nghĩa quốc tế hay là một người theo chủ nghĩa dân tộc?” Tôi không biết trả lời câu hỏi đó như thế nào mà chỉ đáp rằng ông là một nhà thơ Nga vĩ đại. “Thế có nghĩa hắn là một người theo dân tộc chủ nghĩa” gã Đức đáp và kiêu ngạo nói thêm: “Nếu hắn nổi tiếng thì tao đã phải biết tên hắn rồi.” Một tên lính khác từng là sinh viên đại học, việc học của hắn bị gián đoạn bởi chiến tranh. Khi nói chuyện với tôi, hắn bảo: “Tao là một người trung lập. Tao không bênh vực mà cũng không thù ghét chúng mày. Nhưng tao vẫn tin rằng chúng tao đối xử với chúng mày như thế là quá mức nhân đạo”. Thật là một nhân vật trung lập đáng mến!
Dù đã rất cố gắng, nhóm bạn bốn người chúng tôi vẫn để mất đi một đồng chí. Một tên lính canh quấy rối Boris Smirnov vì một lý do gì đó và đánh anh. Để phản ứng Boris liền ngưng làm việc. Lát sau tôi tìm cách lại gần anh và khẽ bảo: “Cậu phải cố vượt qua chuyện này để sống sót, Boris. Quay trở lại làm việc; nếu không cậu sẽ gặp rắc rối đó.” Anh trả lời: “Giờ thì đã quá muộn. Tớ chịu hết nổi rồi. Cứ để chuyện ấy tới.” Bọn Đức lôi anh đi một nơi nào đó và chúng tôi không bao giờ còn gặp anh nữa. Chuyện đó xảy ra vào cuối năm 1942. Về sau, tới năm 1944, khi tình thế của bọn Đức đã thay đổi, chúng tôi cùng sát cánh chặt chẽ với nhau và trở nên táo bạo hơn. Nếu có ai trong đội bị bọn Đức làm phiền, tất cả chúng tôi liền dừng làm việc, mặc cho chúng la hét và dọa nạt.
Thậm chí chúng tôi còn được trả một khoản “tiền công” do làm việc cho công ty Lutz. Vào dịp cuối tháng, tên Meister (đốc công) phát cho mỗi người một món tiền, nhờ đó chúng tôi có thể mua nước giải khát, dao cạo râu hay bột đánh răng tại cửa hàng của tên mập Bromer. Đôi lúc chúng tôi hùn tiền lại và mua được của Bromer một túi khoai tây luộc, và mỗi người nhờ thế có thêm một đĩa thức ăn cải thiện. Ban đầu chúng trả chúng tôi bằng loại tem phiếu đặc biệt, chỉ có giá trị cho tù nhân. Rồi sau chúng tôi được bảo đổi lại các tem phiếu đó và bắt đầu được trả bằng tiền mặt. Chúng không trả công đồng đều cho mọi người. Tên đốc công chăm chú quan sát chúng tôi làm việc và những ai làm tốt hơn sẽ nhận được nhiều tiền hơn.
Khi tên Vlasov mở rộng các hoạt động phản bội của hắn và bắt đầu thành lập cái gọi là Quân đội Giải phóng Nga (ROA), chúng tôi thường được những gã tuyên truyền viên của hắn tới thăm. Chúng nói với chúng tôi rằng Stalin đã từ chối ký hiệp định quốc tế về tù binh với Hội Chữ thập Đỏ, bởi cho rằng không có tù binh chiến tranh Xô viết mà đó chỉ là những kẻ phản bội. Viện cớ đó ông ta đã đưa chúng tôi tới tình thế không còn bất cứ quyền lợi nào. Trong khi tù binh các quốc gia khác được Hội Chữ thập Đỏ bảo vệ, được nhận thực phẩm từ nhà gửi sang và thậm chí được báo tin về gia đình, thì những công dân Xô viết bị bắt chỉ được coi là những nô lệ. Bọn Đức có thể làm bất cứ điều gì đối với chúng tôi mà không ai có thể đứng ra bảo vệ chúng tôi. Sau những lời đó, tên tuyên truyền viên đưa ra kết luận rằng cách duy nhất để giảm bớt tình trạng nô lệ đó là gia nhập ROA. Sử dụng một lượng lớn tù binh Xô viết cho lao động cưỡng bức, bọn trùm sỏ nước Đức cũng bắt đầu tiến hành tẩy não họ. Chúng cho in những tờ báo dành riêng cho tù binh viết bằng tiếng Nga, Ukraina và nhiều thứ tiếng các dân tộc khác thuộc Liên bang Xô viết. Tôi thậm chí còn được thấy một tờ báo in bằng tiếng Kalmyk. Dù tờ báo tiếng Nga ấy (tôi đã quên mất tên của nó) in bằng giấy tốt và thiết kế khá đẹp, nội dung tuyên truyền chống Xô viết bên trong thật bẩn thỉu và báng bổ. Tác giả những tờ báo ấy gồm những tên Bạch vệ di tản, những tên phản bội mới đầu hàng, tất cả những loại tự xưng là dân tộc chủ nghĩa và “trí thức”. Chúng tán dương văn hóa Đức, ca ngợi những chiến thắng của nước Đức, kêu gọi chúng tôi gia nhập ROA và chỉ trích mọi điều liên quan tới chính quyền Xô viết. Chúng tôi thường vẫn rất tôn trọng và tin tưởng những gì được in trên giấy, nhưng những dòng chữ in trong tờ báo ấy thật gây sốc bởi lời lẽ chống Xô viết, bài Do Thái, thái độ thô lỗ, khiếm nhã và những lời nói dối trắng trợn của nó. Những tên bồi bút đó có bao giờ nghĩ tới số phận đất nước chúng ta trong trường hợp nước Đức chiến thắng không? Trong các bài viết của chúng chỉ có vài đoạn đề cập mơ hồ về nước Nga “gia nhập cộng đồng các quốc gia Châu Âu dưới sự lãnh đạo của Đức quốc”. Chúng không viết về sự thật rằng đất nước ta sẽ có thể trở thành một thuộc địa cho bọn Đức khai thác bóc lột. Tờ báo cố gắng ca ngợi rằng phần chiến quả của nước Đức chỉ là giúp nước Nga thoát khỏi “nền độc tài của chủ nghĩa cộng sản”. Làm thế nào có người ngây thơ nhẹ dạ đi tin vào cái luận điệu ấy? Khi chúng tôi được nhận những tờ báo ấy, tên hạ sĩ thường nghiên cứu kỹ chúng thật lâu. Có một lần tờ báo được chuyển tới đúng dịp tên hạ sĩ đi vắng và bọn lính không dám phát chúng cho chúng tôi mà không có sự đồng ý của hắn. Tôi nghe được một lính Đức nói với bạn của hắn: “Hãy đưa chúng nó cái thứ rác rưởi kia của Goebbels đi cho rồi!”
Tuy nhiên, vào nửa cuối cuộc chiến tranh những tờ báo trên bắt đầu cho in những bài viết khách quan hơn và chúng tôi có thể đọc thấy những ẩn ý đằng sau nội dung của nó. Có lẽ đã xuất hiện những người từng sống dưới thời Xô viết đồng ý làm việc cho tờ báo ấy. Ví dụ, họ đưa ra một bài phóng sự về diễn biến của cuộc chiến, trong đó mô tả rõ rệt là bọn Đức đã thất bại trên tất cả các mặt trận. Nhưng để nguỵ trang, bài báo thường kết thúc bởi một lời tuyên bố hoàn toàn lố bịch rằng chiến thắng của vũ khí Đức là điều hiển nhiên. Khi quốc ca mới của Liên bang Xô viết xuất hiện, tờ báo ấy in một bài phóng sự chỉ trích, nhưng lại đăng cả lời bài hát mà khi ấy đối với chúng tôi là hết sức quan trọng. Đáng tiếc thay, khi ấy chúng tôi lại không biết được giai điệu của nó. Họ cũng đăng bài thơ “Đợi anh về” của Simonov. Một bài báo còn thông tin cho chúng tôi rằng binh lính Xô viết không bắt bọn Vlasov làm tù binh mà xử bắn chúng ngay tại chiến trường. Đó là một thông điệp rõ ràng cho những ai sắp sửa đi phục vụ cho ROA. Tất nhiên, những thông tin ủng hộ Xô viết như thế là rất hiếm giữa một lượng lớn những lời lẽ dối trá và chống Xô viết, nhưng chúng vẫn tồn tại và chúng tôi vẫn cố gắng tìm kiếm chúng. Khi thần chiến tranh đã quay lưng lại với bọn Đức trên mặt trận phía Đông, hầu hết các đơn vị của ROA bắt đầu tìm cách đầu hàng quân đội Xô viết. Do đó, bọn Đức tái bố trí chúng ở mặt trận phía Tây để chống lại quân Mỹ. Thậm chí chúng còn thiết lập các đơn vị chặn hậu lấy từ những người của ROA để ngăn chặn binh lính Đức rút lui. Tôi sẽ đề cập tới điều này ở đoạn sau.
Những tờ báo của Đức viết khá trung thực về tất cả những thay đổi ngoài mặt trận, đưa ra những bình luận rõ ràng về những thay đổi đó. Chúng tôi bị cấm không được giữ và đọc báo chí của Đức. Nhưng chúng tôi vẫn tìm cách “xoay sở” được. Hành khách trên những chuyến tàu đi ngang qua thường vứt báo ra ngoài cửa sổ. Chúng tôi nhặt chúng lên, giấu dưới quần áo của mình và mang về khu trại. Tới buổi chiều tôi bí mật dịch những tin tức chiến sự ra tiếng Nga, viết lại lên một mảnh giấy lấy từ vỏ bao ximăng và chuyền mẩu tin ấy đi. Đấy là cách mà chúng tôi có được tờ báo bí mật riêng của mình.
Một công nhân đường sắt già (Sicherpost) canh giúp chúng tôi khi có tàu hỏa chạy qua. Ông ta thường đứng ở trên cao và khi thấy một đoàn tàu sắp tới, ông sẽ thổi cái còi của mình để chúng tôi ngừng làm việc và rời khỏi đường ray. Đấy là một ông già đáng mến; có thể trò chuyện với ông những lúc tên đốc công và lính canh bỏ đi chỗ khác. Có lần tôi chú ý tới đôi ủng đặc biệt của ông. Chúng ngắn và trông rất lạ mắt. “Đấy là đôi ủng của ông nội tôi”, ông già kể với tôi. “Chúng đã được hơn trăm tuổi rồi. Tôi giữ chúng trong hòm như một thánh tích. Nhưng thời bây giờ không tài nào mua được giày ủng nên tôi vẫn phải dùng chúng.” Tôi vẫn để ý tìm hiểu tình hình của tổ quốc nên lên tiếng hỏi ông già xem ông đã tới thăm vùng lãnh thổ đang bị Đức chiếm đóng của nước Nga chưa. “Chưa,” ông già đáp, “Tôi chưa từng tới nước Nga. Người ta đưa tôi tới Romania. Tôi đã tới thăm Odessa, đó là một thành phố xinh đẹp.” “Nhưng Odessa chính là nước Nga,” Tôi phản đối. “Không, bây giờ nó là của Romania”. Thật là đau khổ và cay đắng khi phải nghe thấy điều đấy. Có lần tôi hỏi ông già xem ông ta nghĩ về cuộc chiến tranh này như thế nào. “Công việc của tôi là thổi cái còi của mình để các anh không bị đoàn tàu cán phải”, ông già trả lời. Rồi sau một lúc im lặng, ông nói thêm: “Những ông lớn, những người ở Berlin, mới biết chuyện đó.” Một câu trả lời điển hình kiểu Đức.
Có lần chúng tôi được thấy một cảnh khá khôi hài trong lúc làm việc. Một đoàn xiếc đột nhiên tới cắm trại trên bãi đất trống gần đường tàu. Có hai chiếc ôtô nhỏ với các lồng thú và các hình vẽ trang trí. Một người đàn ông cụt tay, có lẽ là một thương binh, đang cho một con khỉ nhỏ ăn và một phụ nữ đang chăm sóc lũ thú trong chuồng. Có những áp phích quảng cáo sặc sỡ dán trên hai bên thành xe. Một trong những áp phích ấy mô tả một chiếc dù đang thả xuống những con khỉ, vận quân phục lính Đức. Dòng chữ viết: “Bọn Mỹ đã bị bắt, chúng ta chiến thắng. Một chương trình xiếc độc đáo.” Đấy là cái gì: là sự mỉa mai hay sự ngu ngốc của một đế quốc? Đấy đúng là thứ thức ăn tinh thần phù hợp với một người Đức trung bình.
Dù thực phẩm được phát cho chúng tôi rất tệ, nó vẫn có chút giá trị, do chúng tôi được xếp vào hạng lao động nặng. Tất cả chúng tôi đều sợ bị ốm, nếu ốm chúng tôi sẽ bị đưa về trại trung tâm Stalag 5a ở Ludwigsburg, nơi tù nhân bị bỏ cho chết đói. Đấy là lý do tại sao nếu bị bệnh thì chúng tôi phải giấu đi. Sau khi hồi phục rất có thể sẽ phải đi làm việc ở một chỗ nào khác – vào hầm mỏ hay trong các xí nghiệp quân sự, nơi tù nhân bị xử bắn chỉ vì những lý do vụn vặt nhất. Nhưng thậm chí chỉ với một lượng thực phẩm ít ỏi và lao động nặng chúng tôi cũng vẫn phải làm việc hết sức lực của mình. Có vài người không chịu nổi, họ bị đưa đi và thay bằng những tù nhân mới. Những người trở về từ bệnh viện kể cho chúng tôi câu chuyện về “toà án binh bí mật”, đi thu thập thông tin từ những tù nhân ốm mới nhập viện về bọn cảnh binh, bọn phản bội và tất cả những kẻ cộng tác với quân Đức. Nếu có một kẻ như thế phải vào bệnh viện, “toà án binh” sẽ tổ chức một cuộc xét xử. Những kẻ bị chứng minh là có tội sẽ bị xử theo một kiểu khủng khiếp: nhiều người sẽ tóm lấy nạn nhân, bẻ cong người anh ta lại đến mức đầu chạm tới chân, rồi ném anh ta trong tình trạng như thế xuống sàn bê tông. Cách đó sẽ làm gẫy xương sống, xương cụt và gây ra những đau đớn khủng khiếp thường xuyên, cũng có thể gây liệt chi. Một người cũng có thể thành người què. Anh ta sẽ không còn đi được nữa mà chỉ có thể bò trườn. Đó thật là một câu hỏi phức tạp, rằng cái “tòa án binh” ấy về mặt đạo đức có quyền làm như vậy hay chăng.
Giữ gìn được trong một thời gian dài, nhưng cuối cùng cũng tới lượt tôi. Do điều kiện dinh dưỡng kém nên tay tôi bị nổi mụn nhọt. Tôi hỏi chỉ huy nhóm lính canh, một tên hạ sĩ, xin đưa tôi tới khám bác sĩ. Vào một sáng, khi toàn trại bỏ đi làm việc, một tay lính gác già tốt bụng cầm súng dẫn tôi tới chỗ bác sĩ. Bác sĩ là người địa phương và rất ít khi mặc bộ đồng phục bác sĩ quân y của mình. Ông ta thường nhận bệnh nhân tại nhà mình, tại đó ông có một căn phòng dành riêng để khám. Hai tên lính Đức đã tới đăng ký trước chúng tôi, trong khi tay lính canh và tôi chờ ở ngoài sảnh tiếp nhận. Thình lình chúng tôi nghe thấy tiếng hét giận dữ của viên bác sĩ. Cửa phòng mở và mấy tên lính đi ra ngoài, vẫn quay mặt về viên bác sĩ và đứng lại ở tư thế “nghiêm” (trong quân đội Đức, lính không được phép đứng quay lưng lại đối với sĩ quan cấp trên). Tay lính gác và tôi bật dậy. Đằng sau hai tên lính viên bác sĩ bước ra khỏi phòng làm việc, hét lớn: “Đồng đội của các anh đang tưới máu mình để bảo vệ tổ quốc, vậy mà các anh dám khai giả bệnh để tránh phải ra mặt trận! Khi họ giả bệnh (ông ta chỉ vào tôi) thì tôi còn thông cảm được. Tôi cũng sẽ làm như thế nếu tôi bị bắt làm tù binh”. Tay lính gác tôi lúng búng: “Thưa bác sĩ, tù nhân này có thể hiểu được tiếng Đức”. Viên bác sĩ trả lời: “Tôi không cần quan tâm tới việc anh ta biết tiếng Đức. Tôi nói để bọn kia hiểu được ý tôi!” Rồi ông ta ra lệnh cho tôi vào phòng mình. Ông ta đeo găng tay cao su vào, khám những cái nhọt của tôi và băng chúng lại bằng những miếng băng giấy. Ông ta cho tôi biết thời gian có thể quay tới tái khám. Tôi hỏi ông về nguyên nhân căn bệnh của mình. Ôâng ta nghiêm nghị trả lời: “Đừng ngốc như thế, nguyên nhân chính là chiến tranh.” Vị bác sĩ ấy thường tới chỗ chúng tôi ba tháng một lần và khám cho tất cả chúng tôi. Trong trường hợp ấy tôi làm việc như một thông dịch viên cho mọi người. Có lần tôi mắc bệnh cúm và sợ rằng sau khi khám vị bác sĩ sẽ đưa tôi tới bệnh viện ở Ludwigsbur. Do đó tôi bảo ông ta rằng đấy chỉ là cảm lạnh sơ sơ thôi. Nhưng thay vì nói là “Kleine verkaltung” tôi lại nói “Kleine Kalt”, có nghĩa là “lạnh ít”. Ông bác sĩ mỉm cười, hiểu ra và đồng ý với tôi. Bao giờ cuối buổi khám ông ta cũng thường cho tôi một điếu xì gà quấn bằng thuốc lá thật như để trả công tôi phiên dịch. Để chia sẻ hạnh phúc với các bạn nghiện thuốc, tôi đưa điếu xì gà cho họ và họ đem cắt nó ra từng mẩu nhỏ để chia với nhau. Các tù nhân nghiện thuốc đôi khi được phát makhorka – những mẩu vụn một loại lá cây gì đó tẩm dung dịch thuốc lá nguyên chất. Đám lính canh không hút loại makhorka đó và gọi chúng là “Holz” (củi đốt). Đám bác sĩ Đức cũng rất khác nhau. Có vài kẻ mắc bệnh xađích và thường tiến hành những thí nghiệm vô nhân tính trên cơ thể tù nhân. Nhưng trong số đó cũng có những người rất đứng đắn giống như ông bác sĩ của trại chúng tôi.
Đôi khi chúng tôi được gặp tù nhân thuộc các quốc tịch khác: Pháp, Ba Lan, Bỉ, Ấn Độ. Những cuộc gặp ấy diễn ra tại tơi làm việc hay trên tàu hỏa khi di chuyển. Chúng tôi trao đổi với nhau thông tin từ các mặt trận, tất cả chúng tôi đều rất vui mừng khi nghe bọn Đức bị thua trận. Chúng tôi nói với nhau bằng thứ tiếng Đức đơn giản, nhưng vẫn có thể hiểu nhau rất rõ. Tôi từng được nghe một câu chuyện kể rằng có hai tù nhân, một người Nga và một người Pháp, trò chuyện với nhau bằng thứ tiếng Đức phát âm sai bét và đầy lỗi như thế, trong khi có một tên lính Đức đang đứng ngay sát cạnh mà vẫn không thể hiểu nổi một lời.
Không phải tất cả bọn Đức đều giống nhau hay tỏ ra thù địch với chúng tôi. Tôi nhớ có một hôm trời mưa và rất lạnh, khi chúng tôi, lạnh và ướt tới tận xương, đang làm việc trên đường tàu. Người thợ máy lái tàu, người được chúng tôi phục vụ, khi thấy chúng tôi trong tình trạng đáng thương như thế đã ném rất nhiều bánh than cám cho chúng tôi để có thể tự sưởi ấm sau khi trở về khu trại. Chúng tôi nhặt những bánh than đó lên và nói lời cảm ơn ông ta. Tôi trông thấy những giọt nước trong mắt ông. Để giấu chúng đi, ông ta quay lưng lại rồi vẫy tay với chúng tôi và ném thêm xuống vài bánh than nữa. Có lẽ con trai ông đã mất tích khi đang chiến đấu trên mặt trận phía Đông và ông nghĩ con mình cũng đang phải chịu giam cầm. Có lần chúng tôi phải đi sửa đoạn đường ray nằm cạnh một ngôi nhà nhỏ, có lẽ đó là nhà của một công nhân đường sắt. Một người đàn bà cùng đám con nhỏ sống ở đó. Cô ta kéo lũ trẻ lại khi chúng cố chạy tới chỗ chúng tôi, và nhìn chúng tôi với ánh mắt căm thù. Tên lính canh bảo với tôi rằng đó là một “Kriegswitwe”, một góa phụ vì chiến tranh, có chồng bị giết tại mặt trận phía Đông. Cô ta nói với viên đốc công của chúng tôi và hắn ra lệnh cho chúng tôi mang tới cho cô ta một thanh tà vẹt gỗ đã cũ để làm củi đốt. Mọi người mang tới cho cô ta hai thanh tà vẹt. Dù cô ta ghét chúng tôi, chúng tôi vẫn cảm thấy thương hại người phụ nữ đó, dù chồng cô ta là kẻ thù của chúng tôi và đã phải trả giá đời mình vì điều đó.
Tại một trong những cửa hàng bán lẻ ở Lorch (tại thị trấn đấy có rất ít hàng hóa Đức được bán công khai) có một tấm áp phích lớn sặc sỡ dán trên cửa sổ. Trên áp phích vẽ một khẩu đại bác của Đức. Ở hậu cảnh là một tên lính pháo binh Đức đang vươn dài cánh tay của hắn về phía người xem. Dòng chữ trên đó đề: “Hãy trao đạn cho chúng tôi!” Khi chúng tôi có dịp phải đi ngang cửa hàng, một vài tù nhân kín đáo làm mấy cử chỉ lăng mạ với tên lính pháo binh Đức. Điều đó thật ngô nghê nhưng là một phản ứng rất chân thật.
Tất cả mọi con đường trong khu vực chúng tôi sống đều được viền hai bên bằng những hàng cây táo. Vào mùa thu, khi táo chín, những rãnh đất dọc bên đường đều chất đầy táo, cuối cùng phải vứt cho súc vật ăn. Đôi lần chúng tôi đề nghị bọn lính và tên hạ sĩ cho phép chúng tôi lấy một chiếc xe ngựa ở chỗ Bromer cùng với hai người đi nhặt táo rụng cho cả nhóm, có một lính gác áp giải. Đấy thực sự là một dịp lễ đối với chúng tôi. Khi làm việc dọc đường tàu, chúng tôi có dịp tận mắt thấy bọn Đức đã cướp bóc các quốc gia Châu Âu như thế nào. Các toa xe mang các dấu hiệu của Ba Lan, Áo, Pháp, Ý, Bỉ, Đan Mạch, Nam Tư và nhiều nước khác. Chỉ có một lần chúng tôi được thấy toa chở hàng của đất nước mình, của nước Nga Xô viết. Có lẽ nó đã được sửa lại cho hợp với tuyến đường sắt hẹp hơn kiểu Châu Âu. Nó đứng lẻ loi trên một tuyến đường tránh, và chúng tôi âu yếm vuốt ve hai bên sườn cũ mòn của nó như một phần của tổ quốc xa xôi và mến thương của mình!
Có lần tên hạ sĩ, chỉ huy nhóm gác, một tay hăng máu khác thường, giống như đám thượng sĩ Nga, quyết định gây ấn tượng với tôi bằng kiến thức của mình và đồng thời để chứng tỏ sự ưu việt về chủng tộc. Làm vẻ mặt đặc biệt nghiêm nghị, hắn hỏi tôi đã bao giờ được nghe về những cuộc chiến tranh Punic chưa. Dựa theo nét mặt hắn tôi có thể thấy rõ rằng hắn chắc chắn tôi sẽ trả lời là “không”. Tôi quyết định mình sẽ không cho hắn niềm vui thích đấy và trả lời rằng đó là các cuộc chiến giữa La Mã và Carthage vào thế kỷ thứ ba trước Công nguyên, rằng đã diễn ra ba cuộc chiến để giành quyền kiểm soát Địa Trung Hải và rằng Carthage cuối cùng đã thua trận. Gã hạ sĩ tỏ ra bị sốc và rất thất vọng. Hắn suy nghĩ trong chốc lát, rồi mỉm một nụ cười láu cá và bảo: “Thế thì tôi sẽ hỏi anh một câu hỏi mà anh cũng không cần phải trả lời, bởi rất ít người biết điều đó. Đấy là một cuộc chiến tranh giữa La Mã và Carthage, thế tại sao người ta lại gọi đó là cuộc chiến Punic?” “Bởi vì người La Mã gọi người Carthage là Pune.” Thế là tên hạ sĩ càu nhàu và câm họng. Có lẽ, kiến thức về lịch sử của hắn đã cạn kiệt. Hắn phẩy tay và quay trở vào phòng gác, quên cả đóng cửa phía sau lưng. Tôi nghe tiếng hắn thất vọng nói với tên lính bên cạnh: “Thì ra lũ Nga hèn hạ đó cũng biết về cuộc chiến Punic”. “Vậy có thêm cuộc chiến nào nữa nổ ra hay sao?” – bọn lính lo lắng hỏi. “Ôi lũ con nhà nông dân chúng mày,” – tên hạ sĩ khinh bỉ nói. “Những cuộc chiến đó diễn ra từ thời cổ đại!” “Nếu các cuộc chiến đó diễn ra từ lâu rồi thì tại sao chúng ta lại phải nhớ tới chúng? Tôi chỉ muốn biết lúc nào thì cuộc chiến tranh này kết thúc.” – tên lính phản đối. “Đi làm nhiệm vụ của mày đi và đừng hỏi những câu hỏi ngu ngốc nữa,” – tên hạ sĩ kiêu căng đáp, không hề nghi ngờ rằng những lời đó cũng rất hợp với hắn. Sau đó hắn đóng sầm cánh cửa phòng lại.
Chạy trốn! Quay trở về với Hồng quân, cầm lấy vũ khí và trả thù cho tất cả những nhục nhã, xúc phạm và đánh đập. Chúng tôi tất cả đều quan tậm tới vấn đề đấy và bàn bạc với nhau rất nhiều về nó. Chạy trốn, nhưng chạy đi đâu? Chúng tôi đang ở phía Tây Nam nước Đức. Hàng ngàn dặm đường đất thù nghịch ngăn trở giữa chúng tôi với Đất Mẹ. Đi về phía Đông qua những vùng đất đầy người Đức sinh sống, kế đó là vùng đất Ba lan bị chiếm đóng, rồi cuối cùng là qua mảnh đất của chúng ta, vẫn còn nằm dưới ách phát xít – điều đó là không thể thực hiện được! Chạy trốn về phía Tây, tới nước Pháp chăng? Nước Pháp chỉ cách chúng tôi 150 kilômét. Nhưng Pháp cũng đang bị bọn Đức thống trị, và cũng bị chia cách với chúng tôi bởi sông Rein. Cách 200 kilômét về phía Nam là vùng đất Thụy Sĩ trung lập. Tại một vị trí đường biên giới khuất sau cái hồ rộng tên là Bodensee và tại nhiều nơi khác biên giới nằm sau các rặng núi. Ở trại tập trung Ludwigsburg chúng tôi đã nghe những câu chuyện về các cuộc đào thoát tới Thuỵ Sĩ. Các tù nhân chạy trốn thường trộm những chiếc xe đạp của dân địa phương, đạp tới hồ Bodensee vào ban đêm, rồi tròng vào người những cái ruột xe đã bơm căng và cố gắng bơi qua hồ. Những ai không bị giết bởi bọn lính biên phòng Đức và không chết đuối thì qua được tới Thụy Sĩ và được đưa tới một trại giam khác. Nên tất cả cũng chỉ là sự thay đổi nhà tù. Tôi có nghe câu chuyện về một người tù như thế, đã vượt qua được biên giới nhưng lại bị bọn Đức bắn bị thương. Anh ta ngã xuống ngay trên đường biên giới. Lính biên phòng Đức và Thụy Sĩ chạy tới chỗ anh ta. Người tù van xin phía Thụy Sĩ đem anh đi, nhưng họ sợ bọn Đức và từ chối. Con người tội nghiệp đó bị đưa trở lại Ludwigsburg và bị xử bắn.
Dù vậy, hai người trong đội chúng tôi vẫn trốn đi. Tôi không còn nhớ nổi tên của họ. Không một ai trong chúng tôi biết là họ đang chuẩn bị chạy trốn. Một hôm họ đi lấy bữa sáng tại nhà bếp cùng với tên lính gác và rồi biến mất. Tên lính gác giận dữ quay về; hắn la lối rằng bây giờ hắn sẽ bị đưa ra mặt trận, rằng tất cả chúng tôi sẽ bị xử bắn và đại loại thế. Ngày hôm sau chúng tôi không được đưa đi làm. Chúng tôi không biết chuyện gì đã xảy ra. Nhanh chóng, toàn bộ cảnh sát từ thị trấn Lorch đổ tới lục soát chúng tôi, xới tung toàn bộ khu trại. Thậm chí chúng còn ra lệnh cho chúng tôi phải rút cả rơm độn các tấm nện giường lên. Chúng la mắng chúng tôi và đối xử rất thô lỗ. Nhưng tất nhiên chúng không tìm thấy bất cứ thứ gì. Khoảng một tuần sau chúng tôi được thông báo là hai người kia đã bị bắt lại. Có lẽ, chúng đã thông báo sự thật – dù sao họ cũng không thể đi xa được. Không có thức ăn, không có bản đồ, không có la bàn, trên người mặc bộ quần áo tù, lại không biết ngôn ngữ giữa một khu vực dân cư sinh sống đông đúc nên sự đào thoát của họ dẫn tới sự thất bại tất yếu. Tôi không nghe nói điều gì về số phận của họ, nhưng những ai thử trốn mà bị bắt lại đều bị đưa đi thủ tiêu.
Cuộc đời của chúng tôi trong đội lao động ấy như thế nào? Làm việc nặng nhọc và thiếu thốn thức ăn, sống trong tình trạng như trong nhà tù, chịu sự cư xử thô bạo của bọn lính canh, và điều chủ yếu là một tương lai hoàn toàn không xác định. Chúng tôi không được có chút quyền hạn gì. Bọn lính canh có thể đánh nhừ tử hay thậm chí giết chết bất cứ người nào trong số chúng tôi. Đối với tổ quốc, chúng tôi là những kẻ phản bội, và khi chúng tôi trở về có lẽ sẽ phải đối diện với một toà án và sẽ bị đày đi làm việc trong các hầm mỏ ở Siberia. Chúng tôi cảm thấy mình có tội mà không phạm phải bất cứ tội nào. Chúng tôi sống trong một tình trạng tồi tệ, không quan tâm tới việc người ta trông chúng tôi như thế nào. Tôi còn nhớ rằng mình đã ghi lại những dòng nhật ký dưới đây, mà sau này đã bị tiêu hủy: “Như lũ súc vật thồ, tôi kéo cái ách của mình mà không còn nhớ tới quá khứ và cũng không còn chút hy vọng vào tương lai.” Không một ai có thể hiểu nổi cuộc sống như thế. Một số người bị đưa đi, và những tù nhận mới được gửi tới nhóm chúng tôi để thay thế họ, và qua những người mới đến chúng tôi biết được những gì đang xảy ra trên thế giới. Đây là một sự thật đáng ngạc nhiên, nhưng những người sống ở thành phố, dù có thể trạng yếu hơn, lại chịu đựng cái điều kiện tồi tệ đó tốt hơn những người nông dân.
Vào cuối năm 1944, khi Mặt trận thứ hai được mở và nước Đức phải chiến đấu trên hai mặt trận, cả phía đông lẫn phía tây, thái độ của binh lính Đức, những kẻ canh giữ chúng tôi, bắt đầu thay đổi hoàn toàn. Như người ta vẫn nói, đôi khi ăn đòn làm cho người ta tỉnh ra. Có vài tên lính bắt đầu tuyên bố một cách thận trọng: “Cả anh lẫn tôi đều là những người tốt. Vậy sao chúng ta lại phải đánh nhau? Nước Nga có thể bán cho chúng tôi dầu hỏa và bánh mì, trong khi chúng tôi sẽ sản xuất máy móc cho nước Nga.” Tôi trả lời với hắn là sự cân nhắc ấy đáng lý phải được thực hiện từ trước chiến tranh, và hắn buồn rầu đồng ý với tôi.
Tình hình càng ngày càng trở nên đáng báo động hơn. Không quân Mỹ bắt đầu ném bom những thành phố gần chỗ chúng tôi, và thường phá hủy các tuyến đường sắt. Chúng tôi bị bắt buộc phải đi sửa lại chúng. Những tuyên truyền viên tới từ ROA (Quân đội Giải phóng nước Nga) bắt đầu tới thăm chúng tôi thường xuyên hơn, khuyến khích chúng tôi gia nhập quân đội của Vlasov. Chúng cũng bảo chúng tôi là “trong trường hợp xấu nhất, toàn thể Châu Âu sẽ mở cửa đón chúng ta”. Chúng lái chúng tôi tới chuyện nhét vũ khí Đức vào tay chúng tôi, “trước khi điều đấy thành quá muộn”. Những tin đồn gây hoang mang bay tới từ trại tù binh Ludwigsburg nói rằng bọn chúng đang dùng vũ lực ép buộc mọi người gia nhập vào quân đội của chúng. Tuy nhiên, còn lâu mới tìm được những kẻ ngu ngốc hay phản bội trong nhóm của chúng tôi. Vào một ngày làm việc chúng tôi không được đưa tới công trường mà ở lại trong khu trại. Chúng tôi được yêu cầu ngồi xuống quanh chiếc bàn và chờ đợi. Tất cả chúng tôi đều mất bình tĩnh vì những phỏng đoán đầy lo âu. Cuối cùng, cánh cửa thông sang phòng bọn gác mở ra, một tên hạ sĩ quan xuất hiện và ra lệnh tất cả chú ý. Chúng tôi đứng dậy. Một gã sĩ quan Đức lạ mặt bước vào phòng. Hắn khẽ nói điều gì đó với tên hạ sĩ. Tên kia chào và đi ra khỏi phòng. Tên sĩ quan đi tới giữa nhà và bắt đầu nhìn thẳng vào chúng tôi. Hắn là một người thấp, khoẻ mạnh và đã đứng tuổi, có một bộ râu mép đỏ đã bắt đầu điểm bạc, lông mày đậm và cái nhìn như khoan thẳng vào người đối diện. Sự mâu thuẫn giữa tuổi tác và chức vụ của hắn lộ rõ. Hắn chỉ được đeo lon trung uý. Các sọc vàng trên quân phục của hắn cho biết hắn là một sĩ quan kỵ binh. Nhiều phút trôi qua trong im lặng. Bất ngờ tên sĩ quan thốt lên bằng tiếng Nga rõ ràng rành mạch: “Nghỉ, xin ngồi xuống, thưa các ngài!” Các “quý ngài” ngạc nhiên ngồi xuống. Tên sĩ quan bước dọc theo cái bàn và bắt đầu nói: “Thưa các ngài, tôi cũng là người Nga như các ngài, nhưng lớn tuổi hơn, và theo ý muốn của số mệnh tôi đã phải rời tổ quốc của mình. Tôi là một trung uý thuộc trung đoàn Astrakhanski, từng tham gia Thế chiến thứ nhất và cả thời kỳ Nội chiến. Như các ngài có thể đoán, tôi chiến đấu bên phe Bạch vệ.” “Thưa các ngài,” hắn tiếp tục, “Thế chiến thứ hai đã tiến tới giai đoạn quyết định, và không ai có thể tránh không tham gia vào đó. Các ngài cũng có thể tham dự, nhưng lần này là ở phe những người văn minh và chính nghĩa. Các ngài sẽ sớm được tuyển vào Quân đội Giải phóng nước Nga của tướng Vlasov và sẽ phục vụ vào làm lính bộ binh. Hiện tôi đang thành lập một đơn vị kỵ binh Cossack có đặc quyền và tới đây để tuyển lựa những ai từng phục vụ trong những đơn vị kỵ binh hay Cossack, những ai là người Cossack hoặc những ai mong muốn phục vụ trong một đơn vị ưu tú thay vì phải vào bộ binh.” Chúng tôi lặng người đi vì những thông tin và những lời đề nghị như thế. Sau khi dừng lại một lúc, tên sĩ quan hỏi: “Thế nào, các ngài, ai muốn gia nhập đây?” Tất cả chúng tôi đều giữ im lặng. Tên sĩ quan tiếp tục: “nếu ở đây không có người tình nguyện, tôi sẽ tự chỉ định những người mà tôi thấy là phù hợp. Nhưng tôi cảnh báo các anh là tôi sẽ chuyển những ai từ chối cho Gestapo. Các anh cũng tự biết điều đó có nghĩa gì rồi. Không ai còn sống sót và khoẻ mạnh quay về từ chỗ đấy đâu.” Sau những lời đấy hắn bắt đầu gọi lần lượt từng người, hỏi tên, chức vụ, nghề nghiệp của gia đình và v.v. Tôi muốn đứng lên và nói: “Thưa ngài! Chúng tôi đã chiến đấu một cách trung thực, bảo vệ tổ quốc của mình và chúng tôi bị bắt làm tù binh không phải là do lỗi của bản thân. Phân nửa đất nước chúng tôi bị tàn phá bởi chiến tranh. Hàng triệu người dân nước tôi bị chết. Chúng tôi đang bị sử dụng như những nô lệ, chúng tôi bị bỏ đói, chúng tôi bị đánh đập và hạ nhục. Còn bây giờ, khi nước Đức bị đánh bại từ cả hai phía, khi chúng tôi có được hy vọng sẽ kết thúc chiến tranh, được giải phóng và quay về tổ quốc, thì ông lại ở đây và đề nghị chúng tôi mặc vào bộ quân phục Đức, cầm lấy vũ khí Đức và bảo vệ nước Đức. Ông đang đề nghị chúng tôi chiến đấu chống lại những người anh em của mình, những người đang đến để giải phóng chúng tôi. Có lẽ, ông nghĩ tất cả chúng tôi ở đây đều là lũ khờ để ông đưa ra một lời đề nghị như vậy. Ông đã từng đánh lại chính đồng bào của ông, đánh mất quê hương của ông và tự hạ mình tới mức đi mặc vào người bộ quân phục của Đức, trở thành một kẻ phản bội. Giờ đây ông muốn chúng tôi cũng làm như vậy, để cho chúng tôi (nếu chúng tôi không bị giết bởi chính những anh em của mình) sẽ lặp lại số phận của chính ông.” Mỗi người trong chúng tôi đều muốn nói như vậy, nhưng chúng tôi không thể. Chúng tôi phải đứng im lặng, bởi tên Bạch vệ mặc quân phục Đức đó có thể bắn bất cứ người nào trong số chúng tôi. Sau khi thẩm vấn, tên sĩ quan chọn ra ba người và đưa họ đi. Một trong số họ là Lisnevski, một chàng trai dễ thương thuộc gia đình trí thức; người thứ hai là Yurkin, một kẻ khó ưa đã bị mất gốc. Tôi không còn nhớ tên của người thứ ba. Một thời gian sau Lisnevski tìm được cách thoát khỏi câu chuyện bẩn thỉu đó và quay trở về nhóm chúng tôi. Chúng tôi không biết được điều gì đã xảy ra với hai người còn lại. Những lời đe dọa sẽ động viên vào quân đội của Vlasov không bao giờ trở thành sự thật. Hoặc là chúng không có đủ thời gian hoặc bọn Đức không đồng ý vũ trang cho những ai công khai tỏ ra thù địch với chúng. Hoặc tên Bạch vệ kia chỉ nói dối tất cả mọi chuyện với chúng tôi để dọa nạt mà thôi.
Trong khi ấy, tình hình ngày càng trở nên đáng lo. Chiến tranh nhanh chóng tiến về phía chúng tôi từ hướng tây. Đấy là những tin tức vừa tốt lành lại vừa đáng lo ngại. Trước khi thất trận, bọn Đức có thể sẽ “đóng cửa lại” tàn sát tất cả chúng tôi. Những máy bay ném bom của người Mỹ oanh tạc các thành phố, các tuyến đường sắt và các xa lộ lân cận. Máy bay ném bom bay hàng đàn tới Stuttgart và tiến hành “ném bom rải thảm”, thả hàng trăm quả bom cùng một lúc dựa theo các tín hiệu vô tuyến. Nhằm làm vô hiệu hóa hỏa lực phòng không của Đức, người Mỹ thả xuống từ các máy bay ném bom rất nhiều những dải kim loại. Tôi nghe những người nông dân Đức nói rằng những dải kim loại ấy được thả xuống để đầu độc tất cả các gia súc.
Mùng một tháng Tư năm 1945 là ngày cuối cùng chúng tôi còn làm việc trên tuyến đường sắt. Sau đó chúng tôi chỉ còn ngồi trong nhà kho, bị khóa kín cửa, chờ cho mọi việc xảy đến. Tất cả chúng tôi đều rất căng thẳng. Trong một ngày như thế một máy bay tiêm kích của Mỹ đã tấn công khu trại chúng tôi và nã xuống một loạt đạn từ khẩu đại liên cỡ lớn của nó, nhưng may mắn thay, trong chúng tôi không có ai bị thương cả. Chúng tôi sớm nghe thấy tiếng đại bác nổ từ phía xa. Chúng tôi lắng nghe nó như thể đó là tiếng nhạc mừng cho sự giải thoát chính mình. Vào một trong những ngày đó chúng nhìn thấy từ cửa sổ của mình một đoàn tù binh rất đông có lính áp giải dừng lại nghỉ đêm trên cánh đồng đằng sau con sông. Rồi chúng tôi nghe thấy tiếng súng nổ. Trả lời câu hỏi của tôi về lý do tiếng súng nổ, tên hạ sĩ nói rằng một tù nhân trong đám đó cố gắng bỏ trốn, nhưng bị bắn chết.
Cuối cùng, tới ngày thứ năm thì vụ “ngồi trại” đó kết thúc. Trong bữa sáng ngày mùng 6 tháng Tư chúng tôi được lệnh phải sắp hàng để hành quân với hành trang cá nhân. Chúng tôi không được biết mình bị dẫn đi đâu và tại sao. Chúng tôi nghĩ ra đủ thứ – từ tình huống tốt nhất tới tình huống xấu nhất có thể tưởng tượng ra được. Chúng tôi sắp xếp đồ đạc nhanh chóng. Mỗi người chúng tôi có một túi xách, bên trong bỏ những vật dụng thiết yếu nhất của mình. Tôi có một quyển sách, một cuốn từ điển tiếng Đức mà tôi tự làm từ những mảnh giấy của bao đựng ximăng. Cái bìa làm từ mảnh len màu xanh lá cây sẫm được phát cho chúng tôi để vá quần áo. Cuốn sách to và nặng, trong khi tôi lại yếu sức nên tôi phải bỏ lại trong trại. Tôi vẫn còn rất tiếc vì điều đó. Chỉ huy khu đồn trú tới nói lời tạm biệt với chúng tôi, hắn ta vốn là một bác sĩ, một người thấp bé và kiêu căng. Hắn nói tạm biệt với đám lính, và chỉ ngạo mạn nhìn chúng tôi, không thèm nói một lời. Và rồi chúng đưa chúng tôi đi. ??? Vĩnh biệt công ty Lutz, Meister Riwa và cái khu trại nằm sau hàng rào dây thép gai! Chúng tôi mau chóng nhận ra rằng mình đang bị đưa về phía đông. Điều đó có nghĩa là chúng đang đưa chúng tôi rời xa mặt trận, đang ngày một tiến lại gần. Ban đầu chúng tôi đi với rất đông lính áp giải và thậm chí có cả chó canh. Nhưng sau một thời gian số lượng lính canh giảm dần, và chó thì biến mất ở một quãng nào đó. Tên hạ sĩ, chỉ huy nhóm áp giải chúng tôi, cũng biến mất. Một tên đội già (Feldwebel) được chỉ định lên thay hắn. Quân phục của hắn bốc đầy mùi nấm mốc rất khó chịu. Chúng tôi dừng lại nghỉ đêm trong những ngôi làng, ở đó chúng tôi thường bị nhốt lại trong những nhà kho, có lính Đức đứng gác. Chúng tôi được cho ăn khoai tây luộc, do bọn lính gác Đức lấy từ các nông dân. Các nông dân Đức trồng rất nhiều khoai tây. Dù tình hình rất khó khăn và sự bất lường của tương lai phía trước, chúng tôi vẫn tò mò quan sát đời sống người nông dân Đức và những ngôi nhà họ ở. Chiến tranh tới gần đưa sự hoảng loạn vào vùng hậu phương nước Đức. Chúng tôi trông thấy bọn phát xít địa phương khẩn trương sơ tán về khu vực trung tâm đất nước, và chúng tôi cũng thấy sự tổng động viên tất cả người già và trẻ em. Một lần chúng tôi trông thấy bọn lính đang áp giải những tân binh mới bị động viên, trong số đó có cả một cậu gypsy còn rất trẻ, mặc chiếc áo vét quân phục Đức choàng ra ngoài bộ quần áo dân thường.
Nhiều ngày trôi qua trong cuộc hành trình. Nhưng một lần chúng tôi bị đánh thức bởi những dấu hiệu khác lạ vào giữa đêm khuya. Cửa nhà kho nơi chúng tôi đang nằm không bị khóa, và ở xung quanh lính gác hoàn toàn biến mất. Tất cả chúng tôi đều đứng lên vì kích động. Điều này có nghĩa gì? Chúng tôi phải làm gì đây? Vài người hăng hái đòi bỏ trốn ngay lập tức! Những người khác cho rằng đây là trò khiêu khích của bọn Đức, chúng sẽ viện cớ bỏ trốn để bắn chết tất cả mọi người. Chạy trốn trên đồng trống không có rừng rậm, giữa những cộng đồng thù địch và hàng đoàn lính địch là một việc vô vọng. Sau khi thảo luận hồi lâu chúng tôi quyết định hẵng cứ chờ đợi đã. Sáng hôm sau viên đội nọ bước vào căn nhà kho của chúng tôi. Hắn nói rằng đám lính gác bị chuyển lên mặt trận, trong khi chính hắn đứng ra bảo đảm với cấp trên là chúng tôi sẽ không trốn chạy. Hắn cũng nói rằng từ giờ phút này hắn sẽ là người gác duy nhất. Tới lúc sáng rõ, chúng tôi ra ngoài sắp hàng lại. Tên đội đi đằng trước, chúng tôi theo sau, và tất cả cùng hành quân về phía đông. Các ngả đường đều kẹt cứng các đơn vị hậu cần và dự bị của Đức đang rút lui. Lính Đức thuộc các đơn vị ấy hét với theo tên lính canh của chúng tôi: “Việc quái gì mà mày phải áp giải chúng nó đi như vậy? Bắn sạch chúng nó đi, trước khi chúng nó kịp bắn vào chúng ta!” Tay lính canh của chúng tôi cứ giả vờ như không nghe gì hết. Mọi người hỏi tôi xem bọn Đức đang la hét điều gì. Tôi không muốn làm họ lo lắng thêm nên trả lời: “Ồ, không có gì đâu, chỉ là trò chuyện vớ vẩn thôi, đừng để ý đến”.
Đột nhiên một nỗi sợ hãi lan đi trong khắp cái khối người ngựa và xe cộ đang rút lui ấy. Tiếng súng, sự hỗn loạn và tháo chạy vẫn tiếp tục. Chúng tôi tìm cách vượt qua đám đông đó và tiến xa hơn trên con đường. Rồi chúng tôi dừng lại ở một khoảng rừng nhỏ. Tên lính gác của chúng tôi đã hoàn toàn mất phương hướng. Để trả lời cho câu hỏi của tôi xem hắn định dẫn chúng tôi đi đâu, hắn đáp: “Tôi chỉ là một cai đội, còn tất cả các anh đều là sĩ quan, vậy các anh tự quyết định đi!” Từ lúc đó, giữa tên gác và chúng tôi có một sự thỏa hiệp ngầm, cùng đóng giả sao cho có vẻ như chúng tôi vẫn là những tù nhân. Sau khi tham khảo ý kiến, chúng tôi quyết định đi tới một ngôi làng nhỏ, cách xa đường lớn và dừng ở đó chờ người Mỹ tới. Tay lính gác đích thân đi tìm giúp chúng tôi một ngôi làng như thế. Đấy là làng Stetten. Chúng tôi trú trong nhà kho của một nông dân giàu có. Ở đấy có một hầm chứa khoai tây nằm dưới căn nhà kho. Người Đức chủ của cái kho im lặng, không phản đối việc chúng tôi chiếm đóng tài sản của anh ta. Có lẽ anh ta sợ chúng tôi. Viên đội của chúng tôi có lẽ cũng trở nên sợ chúng tôi hơn, dù chúng tôi luôn tỏ ra rất biết điều với anh ta. Anh ta trốn trong một căn nhà trên phố và không ló mặt ra ngoài nữa. Chúng tôi sống như thế trong suốt nhiều ngày, cắt người canh gác ban đêm để tránh bị bất ngờ trước bất cứ tình huống nào xảy ra. Chúng tôi luộc khoai tây lấy trong hầm nhà bằng một cái nồi. Vài người trong chúng tôi đi vòng quanh làng và cưa cây rồi bổ củi cho nông dân để đổi lấy những thức ăn khác.
Lính Đức, bọn cảnh binh cùng chó canh, những thường dân (có lẽ là các thành viên của Đảng Quốc xã) và thậm chí là vài tên lính đi lẻ lục đục rút qua trước mặt chúng tôi theo con đường làng. Đôi khi bọn lính Đức có bước vào cái nhà kho của chúng tôi để ở lại qua đêm hay để nghỉ chân. Tôi cũng nói chuyện với chúng. Hầu hết chúng đều đã đào ngũ và ngang nhiên nói về thất bại của nước Đức. Vài tên trong bọn chúng hy vọng rằng vào ngày 20 tháng Tư, ngày sinh nhật của Hitler, một hiệp định hòa bình sẽ được ký kết. Chúng cũng nói rằng những đơn vị chặn hậu đặc biệt được thành lập từ những binh lính của Vlasov, chúng hành quyết tất cả những binh lính rút chạy và những người tụt hậu lạc đơn vị. “Nếu không có bọn đồng hương của chúng mày thì chúng tao đã thôi đánh nhau từ lâu rồi.” Chúng cũng cảnh báo chúng tôi rằng bọn Vlasov là những đứa rút lui cuối cùng và bắn chết tất cả mọi người, thậm chí cả tù binh Nga. “Cho nên hãy cẩn thận với đám đồng hương của chúng mày đấy.” Sẽ là thật đáng buồn lúc này nếu phải chết dưới tay lũ kẻ cướp đó, khi giờ giải phóng đã gần kề. Chúng tôi quyết định sẽ trốn vào trong một hầm chứa bê tông chờ cho bọn Đức rút đi.
Suốt đêm ngày 25 tháng Tư năm 1945 chúng tôi hoàn toàn không ngủ. Dựa theo tiếng pháo và tiếng đại liên nổ thì chiến trận đang diễn ra ở rất gần. Nhiều lính Đức đang say chếnh choáng đi vào cái nhà kho của chúng tôi. Tôi nghe tiếng chúng bảo rằng phải chuồn đi càng nhanh càng tốt. Một tên lính Đức trông thấy chúng tôi và hỏi đồng bọn của hắn: “Chúng ta phải làm gì với lũ lợn Nga này bây giờ? Chẳng lẽ chúng ta lại bỏ mặc chúng thế kia? Tao sẽ ném một quả lựu đạn vào đấy”. May thay, một tên Đức khác phản đối: “Đừng làm vậy, đã có quá nhiều máu đổ ra rồi”. Tranh cãi với nhau một hồi, chúng bỏ đi. Tôi nhận ra đó là những tên lính Đức cuối cùng rút lui, và bọn Vlasov sẽ có thể xuất hiện vào bất cứ lúc nào. Tôi hét: “Các đồng chí, đã tới lúc phải rút xuống hầm thôi!” Tấùt cả mọi người đều chạy nhanh xuống hầm kho bằng bê tông.
Chúng tôi đã sẵn sàng chờ lũ cướp ấy đến bất cứ lúc nào, chúng tôi cho rằng chúng sẽ bắn chết chúng tôi hay ném lựu đạn vào trong hầm chứa. Chúng tôi ước gì mình có vũ khí trong tay. Chỉ cần hai hay ba khẩu súng có kèm đạn dược. Khi đó chúng tôi sẽ không lẩn trốn nữa mà sẵn sàng đón tiếp lũ phản bội kia thật cẩn thận. Nhưng chúng tôi chẳng có gì trong tay cả. Nhiều giờ trôi qua trong căng thẳng chờ đợi, trong thời gian đó chúng tôi cảm thấy mình như đang lơ lửng giữa sống và chết vậy. Đám cháy bên ngoài tắt dần, và cuối cùng bình minh đã đến.
Một người trong bọn tôi cẩn thận luồn ra ngoài cái sân để xem điều gì đang xảy ra bên ngoài. Lập tức anh quay lại hét lên đầy vui sướng: “Người Mỹ đang ở đây, chúng ta được tự do rồi !” Tất cả chúng tôi đều chạy ùa ra ngoài. Những người lính mặc quân phục màu xanh lá cây nhạt, trông như thể những bộ đồ thể thao, đang đứng trên đường phố. Vài người trong bọn họ là da trắng, vài người khác da đen. Chúng tôi chạy tới chỗ họ, lắc tay họ, nói những lời cảm ơn với họ. Không ai trong chúng tôi biết tiếng Anh, còn những người đã giải phóng chúng tôi lại không nói được tiếng Nga, nhưng chúng tôi hiểu nhau rất rõ. Những người Mỹ cười rạng rỡ, miệng nói: “Rasen, rasen – Russian, Russian!”, tặng chúng tôi thịt hộp, sôcôla và thuốc lá. Đấy là vào 5 giờ 30, buổi sáng ngày 25 tháng Tư năm 1945. Thật hạnh phúc làm sao !
Dịch từ Nga sang Anh: Bair Irincheev
Dịch từ Anh sang Việt: Lý Thế Dân