Loraine 1944
Patton Vs Manteuffel
Tác giả : Steven J Zaloga
Xuất bản : Osprey Military năm 2000
Dich Hà Khánh
Ký hiệu quân sự
Tình huống chiến thuật
Tháng 9 năm 1944 , Hitler nhận thấy thời cơ để tung một đòn mạnh mẽ vào quân Đồng minh. Đạo quân thứ 3 của Patton đang dẫn đầu quân Đồng minh đột phá mạnh mẽ về phía Đông, trực tiếp tấn công vào Loraine, như mũi dao dí sát vào vành đai phòng thù của quân đội Đức. Hơn nữa mạn sườn phải của đội quân Patton bị phơi bày trong khi Tập đoàn quân số 6 của Mỹ đang tiến về phía Bắc dọc theo biên giới Thụy Sĩ , đã thâm nhập vào miền nam nước Pháp cách đó sớm hơn 1 tháng.
Như vậy, bằng cách tập một số số đông các lữ đoàn Panzer mới, Hitler chuẩn bị một cuộc phản công lớn bằng thiết giáp vào Loraine , mục tiêu là để bao vây và tiêu diệt đạo quân của Patton. Để chỉ huy cuộc tấn công táo bạo này và lãnh đạo tập đoàn thiết giáp số 5 ,Hitler chọn một trong những chỉ huy xe tank trẻ và hiếu chiến nhất của mình : Tướng Hasso van Manteuffel . Đây sẽ là cuộc phản công thiết giáp lớn nhất ở phía Đông của quân Đức và cũng là trận đấu tank lớn nhất của quân đội Mỹ trong WW2.
Trận đấu tank ở Loraine cũng là trong tâm của cuốn sách này.
Vùng Loraine bị tranh chấp bởi Pháp và Đức trong nhiều thế kỷ : bị Đức chiếm trong cuộc bạo động Franco-Prussian năm 1870, Pháp tái chiếm 1918 , sau đó lại sát nhập vào Đức 1940. Là tuyến biên giới xâm lấn truyền thống giữa hai quốc gia , vùng này còn dc củng cố qua hàng thế kỉ bởi các pháo đài như Metz . Trọng địa “Charmes Gap” của Pháp trong cuộc chiến năm 1914 , gần ngay trận địa Verdun là trung tâm của cuộc chiến 1916. Vùng Loraine này của nước Pháp dc chia theo đường biên Maniot , đối diện vùng biên giới nước Đức qua khu vực Westwall mà con gọi là đường biên Siegfried.
Suốt tháng 8 , tập đoàn quân số 3 của Patton tiến băng băng qua nước Pháp, đẩy các lực lượng Đức thối lui trong hỗn loạn . Dưới đây, vào ngày 21/8/1944 một chiếc tank M4 , lữ đoàn 8, sư đoàn 4, khai hỏa vào các phân đội lính Đức đang vượt sông Maine, cố gắng phá hủy các cây cầu. Sư đoàn số 4 của Patton luôn đóng vai trò mũi nhọn xung kích, tham chiến chủ yếu trong các trận đấu tank ở Loraine trong tháng 9.
Vào đầu tháng 9, quân Đồng Minh đã lạc quan về một chiến thắng đến sớm. Trong tháng 8 , các lực lượng Đức ở miền bắc nước Pháp đã bị bao vây và đập tan tại Falaise. Thương vong của Đức đã vượt quá 300.000 lính chết và bị thương và hơn 200.000 đang bị bao vây tại cảng Atlantic và đảo Channel. trong gần một tháng quân Đồng minh đã tràn lên phía trước , băng qua Pari và tiến vào Belgium. Tại phía Đông quân đội Đức cũng rơi vào tình cảnh tương tự với sự tan vỡ của tập đoàn quân trung tâm trong chiến dịch Bagration của quân đội Sô Viết. Tiếp theo sau cuộc tấn công đánh bật quân Đức ra khỏi Ucraina ,giải phóng toàn bộ Liên Xô và dồn quân Đức đến tận trung Ba Lan dọc sông Vítula. Khi trận tuyến trung tâm phía trước đã trở nên ổn định, đoàn quân Đỏ tiếp tục tràn vào vùng Balkan. Các đồng minh của Đức ở phía Đông – Phần Lan, Hungary, Rumania và Bulgaria- sắp sửa xoay chiều và nguồn cung cấp dầu chính của Đức tại các cánh đồng ở Rumani vùng Plesti sẽ sớm thất thủ. Ngày 20/7/1944 một số sỹ quan Đức quyết định ám sát Hitler, mà một số tin rằng đó là dấu hiệu của sự sụp đổ đế chế Đức, tái hiện cảnh tượng quân đội Đức đã traỉ qua vào mùa thu năm 1918.
Liên quân Anh-Mỹ dưới quyền tướng Dwight Eisenhower gồm ba lực lượng chính . Tập đoàn quân 21 của tướng Bernard Montgomery từ sườn trái tấn công từ vùng Deppie và Amiens tiến vào Flanders. Tập đoàn quân 21 gồm có Cánh quân Canada thứ nhất bên trái , cánh quân Anh thứ hai bên phải . Lực lượng chính của Mỹ là tập đoàn quân 12 của tướng Omar Bradley bao gồm , cánh thứ nhất của Courtney Hodgest tiến lên Đông Bắc vào trung tâm nước Bỉ, và tập đoàn quân số 3 của G.S. Patton băng qua Agonne tiến vào Loraine. Cộng thêm tập đoàn quân số 6 của tướng Jacop Denver , bao gồm đội quân thứ 7 của Mỹ và tập đoàn quân số 1 của Pháp, đã đổ bộ lên miên nam nước Pháp, tiến lên phía Bắc dọc theo biên giới Thụy Sĩ vào vùng Belfort Gap.
Các lực lượng Đức mất nhiều thiều thiết xa trong chiến dịch Normandy và cuộc vây hãm tiếp theo ở Falaise. trong 1890 tank và pháo tại D-Day khoảng 1700 chiếc bị phá hủy. Đây là khu vực bãi trống tại Travieres ,nước Pháp ngày 4/9/1944 , các thiết xa Đức bị chiếm, hai chiếc phía dưới đóng trên khung gầm của xe Pháp phục chế còn bên trên là ba chiếc Panther.
Kế hoạch phản công
Kế hoạch của Đức
Dưới góc nhìn của Đức thì tình huống chiếc lược quả thật là một thảm họa khó cứu vãn nổi. Quân đội đang trên đà triệt thoái khỏi nước Pháp và việc cần kíp phải làm là tái cơ cấu các lực lượng ở phía Tây, ngăn chặn quân Đồng minh và gia cố cho tuyến phòng thủ phía Tây. Sau vụ biến động trong quân đội vào tháng bảy, Hitler tỏ ra nghi ngờ ngiêm trọng các chỉ huy của mình, ông ta áp đặt ,thậm chí siết chặt kiểm soát toàn bộ các chiến dịch tới mức kỹ -chiến thuật. Hitler vẩn kinh thường liên quân Anh-Mỹ, và tin rằng việc tung ra các chiến dịch sẽ ngăn chặn được sự tiến công của liên quân. Cực kì phẫn nộ với thất bại của quân đoàn thiết giáp tại Mortain một tháng trước đó, Hitler đi tới quyết định chận đứng và tiêu diệt lực lượng chủ lực của liên quân. Ông ta hy vọng các lực lượng thiết giáp của mình sẽ đạt dc thắng thắng lợi trong cuộc bao vây ở phía Tây như họ từng đạt dc ở phía Đông. Không ngạc nhiên gì, Hitler chọn những người kì cựu ở giới tuyến phía đông cho cuộc phản kích tại Loraine.
Đầu tháng 9, các lực lượng Đức tại phía tây dưới sự chỉ huy của thống chế Gerd von Runstedt , lực lượng này bao gồm tập đoàn quân B của thống chế Otto Moritz Walter Model với bốn đạo quân trải dài từ biến Bắc đến khu vực xung quanh Nancy, và tập đoàn quân G nhỏ hơn, dưới sự chỉ huy của tướng Johannes Blackowitz, với duy nhất một cánh quân độc lập bố trí phía nam Nancy gần biên giới Thụy Sĩ.
Hitler tin tưởng rằng dùng sức mạnh của thiết xa Đức để đánh bại đạo quân thứ 3 của Patton là cần thiết và rất khả thi. Đạo quân thứ 3 của patton đã tiến quá xa về phía Đông chạm tới vùng Sars và có thể là đội quân đầu tiên của đông minh tiến vào nước Đức. Bằng việc cắt đứt mũi tiến công nguy hiểm này, Thiết xa Đức có thể phản công ngược trở lại Reims, cùng lúc đạt dc mục tiêu chia cắt sự kết nối của tập đoàn quân số 6 của Denver ở phía nam và tập đoàn quân 21 của Bradley ở phía bắc nước Pháp.
Ngày 3/9/1944 , Hitler chỉ thị Runsted lên kế hoạch tấn công. Kế hoạch ban đầu của Hitler , cuộc tấn công bao gồm các sư đoàn thiết giáp SS số 3, 15,17. các lữ đoàn thiết giáp mới 111, 113, 117 và quân tăng cường của sư đoàn thiếp giáp Lehr , sư đoàn số 11, 21 và các lữ đoàn thiế giáp mới 116, 107, 108. Bộ chỉ huy tập đoàn quân số 5 cũng sẽ được chuyển từ Bỉ tới Alsacce-Loraine để chỉ huy cuộc phản công này.
Ngày 5/9/1944 , tân chỉ huy trưởng tập đoàn quân số 5, tướng Hasso van Manteuffel bay trực tiếp từ mặt trận phía Đông về gặp riêng Hitler để thảo luận cho cuộc phản công. Ngày dự kiến bắt đầu là 12/9/1944 nhưng một số thay đổi bất thình lình đã ảnh hưởng đến toàn bộ kế hoạch.
kế hoạch của Đồng minh
Tình trạng các kế hoạch của quân Đồng minh trong tháng 9/1994 là rất khác nhau. Cuối mùa thu năm 1944, các lãnh đạo Đồng minh dự đoán về thời điểm sụp đổ của quân đội Đức tương tự điều đã diễn ra năm 1918 .Trong trường hợp đó việc tiếp tục các chuỗi tấn công liên tục là cách tốt nhất đạt dc mục tiêu. Cho tới lúc đó vẫn còn sự hoài nghi về sự vùng vẫy của quân đội Đức và sự chống cự sẽ càng mạnh mẽ cho tới khi tấn công vào biên giới nước Đức.
Cuộc tấn công tràn qua nước Pháp mùa thu 1994 khiến quân Đồng minh tiến xa hơn nhiều so với kế hoạch ban đầu : họ mong đợi sẽ đến dc sông Seine trước tháng 9 song bây giờ họ đã vượt qua nó hơn 150 dặm. Đội quân thứ ba của Patton đã đạt đến thời điểm thang 4/1945 theo kế hoạch. Hậu quả trực tiếp của việc tiến quân nhanh chóng như vậy là bây giờ các đạo quân đồng minh đang trải qua hàng loạt các khó khăn thường thấy. Hàng tiếp tế từ bãi biển Normandy phải vận chuyển bằng xe cơ giới lên phía trước, sau khi hệ thống đường xe lửa băng qua nước Pháp bị phá hủy trong các trận đánh bom trước đó. Sự thiếu hụt nhiên liệu và đạn dược có thể trở thành yếu tố then chốt hạn chế khả năng chiến đấu trong mùa thu 1944. Lý tưởng nhất là sự cần kíp phải có một cảng gần tiền tuyến hơn. Thích hợp nhất là Antwerp ,vốn rộng đủ lớn để nhận số lượng tiếp tế cần thiết. Nó nằm trong khu vực của người Anh, và tập đoàn quân số 21 của Montgomery có nhiệm vụ sống còn phải đảm bảo việc kiểm soát. Ngay trước khi cải thiện dc tình hình tiếp tế trước khi tấn công nước Đức , đã có sự tranh cãi về việc thực hiện các chiến dịch. Tháng 5/1944 SHAEF (Bộ chỉ huy tối cao quân viễn chinh Đồng minh) đã gút lại dc hai mảng chính của việc tấn công . Lực lượng chính sẽ xuyên qua nước Bỉ , tiến vào vùng Ardennes , sau đó vòng theo sông Rhine để phá hủy trung tâm công nghiệp của Đức tại Ruhr. Lực lượng này sẽ bao gồm cụm tập đoàn quân 21 của Montergomery và tập đoàn quân 1 của Mỹ. Cánh tấn công thứ hai sẽ băng qua Loraine hướng tới Flankfurt, tiến đến vùng công nghiệp Saar vào làm đầu cầu vượt sông Rehn tiến vào trung Đức. Lực lượng này bao gồm tập đoàn quân số 3 của Patton và tập đoàn quân số 6.
Tướng Montgomery
Vấn đề hậu cần vào tháng 9/1944 đặt ra câu hỏi cho các kế hoạch này, đặc biệt là chỉ huy của các lực lượng Anh, tướng Motogomery . Trong tháng 9, Montgomery đã lập luận rằng việc thiếu hụt hậu cần trong khi triển khai tấn công trên diện rộng là điều ko thể. Để thay thế, Montgomery yêu cầu tiếp tế phải đến trực tiếp cho cụm tập đoàn quân 21 của mình, khi nó đột phá vào Hà Lan. Montgomery đoan chắc quân Đức đã trên bờ vực thất bại và đội quân của mình có thể thắng tiến tới Berlin mang lại cái kết sớm cho cuộc chiến. Khi tháng 9 đến và sự kháng cự của Đức ngày càng tăng, Montgomery mắc kẹt với chiến lược tấn công của mình , phân vân như vậy có phải vẫn là cách tốt nhất để chiếm vùng Ruhr và kết thúc cuộc chiếm bằng cách bóp nghẹt nền công nghiệp của Đức hay không.Ẩn dưới sự tranh luận trên là sự mất dần quyền thống trị của nước Anh trong liên quân. Quân Anh đã tung ra toàn bộ các lực lượng trên mặt đất và nếu chiến tranh tiếp diễn, quân Mỹ sẽ tăng cường vai trò chính trong cuộc chiến. Vị trí dẫn đầu của Montgomery trong các chỉ huy quân Anh khi tiến vào nước Đức khiến cho thất bại không thể tránh khỏi của ông ta làm cho các lực lượng Anh bị rút ngắn lại khoảng cách tương xứng với các đạo quân Đồng minh.
Vị trí hiện tại của Montgomery bị cạnh tranh mạnh liệt bởi các chỉ huy Mỹ, đặc biệt bởi tướng Omar Bradley . Các chỉ huy Mỹ đã mất sự tin tưởng vào Mont sau cách bố trận của ông kéo dài việc đột kích bằng thiết giáp để chiếm Caen trong chiến dịch Normandy . Các chỉ huy Mỹ nghi ngờ hành động của Mont , cho rằng ông ta thèm muốn vị trí thống lãnh của liên quân trong chiến dịch trên đất Châu Âu hơn là quan tâm đến chiến lược tấn công thực sự.
Tướng Dwight Eisenhower
Bradley muốn tiếp tục hướng tấn công của Patton xuyên qua Loraine , hy vọng vượt sông Rhine tiến thẳng về Fankfurt sẽ làm suy yếu sức kháng cự của quân Đức.Kế hoạch của Montgomery lại khiến tập đoàn quân số 3 của Patton phải dừng lại trước khi chọc thủng phòng tuyến sông Moselle, và trước khi được sát nhập chung với cụm tập đoàn quân số 6 của Denver.
Chỉ huy tối cao của quân Đồng minh, tướng Dwight Eisenhower cố tìm giải pháp trung gian sau khi cân nhắc các mặt của vấn đề. Montgomery trước nay vẫn coi thường khả năng của Eisenhower như là một tư lệnh mặt trận, trong khi Bradley quá lo lắng về các đòi hỏi quá đáng của Montgomery.
Tầm quan trọng của việc đánh chiếm Antwerp khiến Eisenhower chấp nhận cho Montgomery được ưu tiên về hậu cần song sau đó tranh cãi vẫn tiếp tục nổ ra về việc định mức thật sự mà cụm tập đoàn quân 21 có thể nhận được. Định mức hậu cần phản ánh nhận thức chung của Đồng minh về tình hình quân đội Đức. Có phải Whermacht đang bên bờ vực sụp đổ hay họ đang phục hồi ? Nếu Đức quân trên bờ vực thất bại thì các kế hoạch táo bạo đáng để mạo hiểm nhưng nếu họ có dấu hiệu phục hồi thì các bước chuẩn bị là cần thiết để mở các chiến dịch vào lãnh thổ Đức trong những tháng tiếp theo. Quân Đồng minh kết luận dựa vào khả năng lô gich của cảng Normandy và yêu cầu về hậu cần cần được chú ý.
Ngày 3/9/1944 Montgomery lần đầu đề cập với Bradley kế hoạch tung ra chiến dịch gọi là Market-Garden ,nhắm vào việc lập đầu cầu vượt sông Rhine với lực lượng không vận từ Arnhem đề mở màn cho chiến dịch tiến lên phía bắc vùng Ruhr. Bradley chống lại bản kế hoạch, cho rằng không thực tế và quá mạo hiểm. Liên lạc với Eisenhower vào ngày 4/9, Montgomery tiếp tục thúc dục ” một cuộc đột kích mạnh mẽ và mãnh liệt đến thẳng Berlin”. Kết quả được quyết định vào cuộc họp ngày 10/9. Montgomery tiếp tục yêu cầu việc đột kích vào Berlin nhưng hiển nhiên là Eisenhower không chấp nhận bất cứ chiến dịch nào cho đến khi cảng Antwerp
sẵn sàng. Montgomery sau đó trình bày bản kế hoạch đoan chắc của mình Market-garden. Eisenhower cuối cùng chấp thuận kế hoạch Market-Garden cứ như là nó ít viển vông và ít tranh cãi cho cuộc phiêu lưu đến berlin.
Quyết định của Eisenhower chấp thuận kế hoạch Market-Garden
ảnh hưởng đến toàn bộ các chiến dịch của đồng minh trong tháng 9. Chiến thuật cho mặt trận chính chưa hoàn tất nhưng sự thực là vấn đề hậu cần sẽ giới hạn việc mở các chiến dịch tấn công của đồng minh. Êisenhower ưu tiên cho cuộc đột kích phía bắc, bao gồm chiến dịch Market-Garden của cụm tập đoàn quân 21 và chiến dịch tiếp ứng của quân Mỹ ở Belgum để bảo vệ sườn phải cho quân Anh. Hướng tấn công của Patton ở Lorane chưa hẳn bị đình chỉ nhưng khả năng của nó bị giới hạn bởi việc nguồn hậu cần thật sự bị cắt giảm. Cuộc tranh luận về việc thọc sâu vào Berlin và chiến dịch Market-Garden thật sự đã làm các lãnh đạo đồng minh sao nhãng sự tập trung và việc bảo đảm cho Antwerp bằng việc quét sạch cửa sông Scheldt. Mối bận tâm của Montgomery với chiến dịch tấn công trì hoãn nghiêm trọng các quan tâm đến Scheldt , và kết quả là cảng Antwerp thật sự ko thể nhận hàng tiếp tế cho đến tận tháng 10/1994. Đó là một trong nhừng sai lầm bị trỉ trích nhiều nhất của đồng minh trong mùa thu 1944.
chỉ huy tập đoàn quân thiết giáp số 5, tướng lục quân Hasso van Manteuffel trao đổi với chỉ huy cụm tập đoàn quân A , tướng Walter Model ,và thanh tra của lực lượng thiết giáp ở Mặt trận phía tây, tướng Lt. Horst Stumpff (đứng giữa) ( ảnh US army MHI)
Quân Đức chẳng mong đợi một kế hoạch liều lĩnh như Market-Garden . Đặc biệt là từ một tướng cực kì cẩn trọng như Manteuffel. Kết của của việc cả hai bên đều nhận thức khác nhau trong các chú ý chiến thuật khiến cuộc so tài giữa Tập đoàn quân số 3 của Patton và Tập đoàn quân thiết giáp số 5 của Manteuffel càng cân bằng hơn so với dự định. Lực lượng Đức ở Lorane nhận dc sự ưu tiên hậu cần và thiết bị hơn vì kế hoạch phản công bằng thiết giáp của Hitler, trong khi đối thủ Mỹ bị ép phải thực hiện các chiến dịch trong điều kiện hậu cần bị giới hạn. Lực lượng của Patton ở Loraine có được lợi thế từ hỏa lực mạnh mẽ trong cuộc truy đuổi quân Đức, nhưng thời tiết mưa bất thường sẽ sớm hạn chế số lượng không vận đến mức có thể. Đức quân lại có lợi thế từ lực lượng phòng thủ khủng khiếp tại chổ ở Metz cũng như là ưu thế phòng thủ tự nhiên của thung lũng Moselle.
Các đối thủ
Các Chỉ huy Đức quân
Adolf Hitler
Trong khi trọng tâm chính của việc đánh giá này là các chỉ huy chiến thuật nhưng không thể đánh giá chi tiết phía Đức nếu không đề cập đến Adolf Hitler, người đóng vai trò chính một cách bất thường trong việc chỉ huy các chiến dịch của Đức thậm chí trước khi quân đội ám toán thất bại ngày 20/7/1944. Sau cuộc ám sát thất bại Hitler càng nghi ngờ sự tận tụy của giới tướng lãnh với cuộc chiến và ông ta khăng khăng bắt buộc Đức quân phải tử thủ từng tấc đất bằng cách bác bỏ sự linh động trong chiến thuật của các chỉ huy. Sự nghi ngờ của Hitler dẫn tới việc tập trung cao độ ,với việc các chỉ huy phải được phép từ bộ chỉ huy cho các quyết định chiến thuật chủ yếu. Các tướng lãnh có thâm niên không được tin cậy, và có sự rối loạn lớn trong việc thăng cấp khi Hitler thường xuyên thay đổi các chỉ huy. Một số lớn các sĩ quan thâm niên đóng góp trong chiến dịch ở Loraine được chuyển từ tiền tuyến miền Đông sang, Hitler vị nể họ vì ít có tư tường chủ bại.
Wilhehm Keitel
Quyền chỉ huy tối cao của Đức quân thường năm trong tay của OKW (Oberkommando de Wermacht ) lãnh đạo bởi thống chế Wilhehm Keitel . Dù quyền lực của OKW bị giới hạn bởi chứng hoang tưởng của Hitler song nó vẫn duy trì các chức năng quan trọng kể từ lúc nó hình thành chức vụ quan sát viên chiến trường Fuhrer , và tất cả các chỉ huy cấp dưới đều phải thông qua OKW trước khi gặp Hitler.
Gerd von Rundstedt
Cơ quan SHAEF có bản sao tương tự là OB West (Oberbefehlshaber West) lãnh đạo bởi thống chế Gerd von Rundstedt . Ông ta nắm quyền chỉ huy chiến tuyến phía Tây ngày 1/9/1944 sau khi diện kiến Hitler để đối phó với cuộc đổ bộ lên Normandy. Rundstedt là thống chế chiến trường cuối cùng của Đức chưa bị đánh bại với sự tín nhiệm vào hàng loạt chiến thắng choáng váng năm 1939-1940 của ông ta. Tuy nhiên quyền lực của ông ta vào tháng 9 1944 bị hạn chế bởi Hitler và OKW .Ông ta sau đó than phiền rằng mình chỉ ra lệnh được cho các lính gác tại trụ sở .Rundstedt sau đó được trở lại hành động như là biểu tượng của sự kiên định và truyền cảm hứng vững vàng cho quân đội sau thảm họa mùa hè.
Walter Model
Cụm tập đoàn quân B được chỉ huy bởi thống chế Walter Model , người nắm giữ toàn bộ chiến tuyến phía Tây cho tới khi OB West thành lập 1/9/1944. Dù cụm tập đoàn quân B chỉ huy hầu hết các lực lượng tại Loraine vào đầu tháng 9 , một sự tái cơ cấu vào ngày 8/9/1994 điều tập đoàn quân số 1 đến bên cụm tập đoàn quân G. Model là ái tướng của Hitler – một tướng trẻ, ngỗ ngược được biết đến như là người tháo vát – có thể bảo vệ vận mệnh của nước Đức trong trường hợp thất bại có thể nặng nề hơn bởi khả năng thiết kế các chiến dịch phản công.
Các Chỉ huy Đức quân
Johannes Blaskowitz
Cụm tập đoàn quân G, gần Nancy , là trung tâm phía sau đợt tấn công thiết giáp tại Lorraine. Cụm tập đoàn quân G vốn được tổ chức để phòng thủ miền Nam nước Pháp, đại tướng Johannes Blaskowitz là một chỉ huy Đức truyền thống, giống với Runstedt hơn là Model . Có gốc gác Đông Phổ và không tham gia chính trị, ông ta lãnh đạo tập đoàn quân số 8 từ tháng 10 năm 1940 và đã trải qua hầu hết các trận đánh trong cương vị chỉ tập tập đoàn quân số 1 khi xâm chiếm nước Pháp. Theo yêu cầu đặc biệt của Runstedt , Blaskowitz được bổ nhiệm chỉ huy tập đoàn quân G vào ngày 10/5/1944. Blaskowitz khẳng định danh tiếng như là một nhà tổ chức xuất sắc và một chỉ huy có năng lực , và việc rút quân gọn gàng của cụm tập đoàn quân G từ vịnh Biscay và khu vực miền nam nước Pháp về khu vực Nancy được công nhận rộng rãi là đã hiển nhiên chứng tỏ khả năng chuyên nghiệp của ông ta. Blaskowitz không được yêu thích tại OKW vì ko mấy nhiệt tình ủng hộ quốc xã và đặc biệt là lực lượng SS. Là người mộ đạo, ông ta phản đối sự tàn bạo của SS trong chiến dịch Ba Lan 1939, và tiếp tục gặp rắc rối đầu tháng tư 1944 khi chất vấn mệnh lệnh của Himmler yêu cầu thiết lập hàng rào phòng thủ phía sau khu vực của ông ta tại vùng Nancy-Belfort, ngoài vùng phụ trách của ông ta. Việc không quan tâm đến chính trị che chắn cho ông ta khỏi bị ảnh hưởng bởi vụ binh biến tháng 7, và ông ta dc giữ lại để hỗ trợ Rundstedt.
Otto von Knobelsdorff
Ngày 8/9/1994 , Cụm tập đoàn quân G bao gồm tập đoàn quân số 1 và số 19 , tập đoàn quân số 1 lãnh đạo bởi tướng thiết giáp Otto von Knobelsdorff , người vừa được cất nhắc sau đợt rút lui băng qua nước Pháp đầu mùa hè qua. Knobelsdorff đã chứng tỏ mình là một chỉ huy thiết giáp trong cố gắng ở Stalingrad. Ông ta dc đích thân Hitler lựa chọn vì sự dũng cãm và tinh thần lạc quan ko do dự. Các chỉ huy thâm niên cảm thấy ông ta có kỹ năng chiến thuật ko mấy ấn tượng, và ông ta thể hiện sự khuông phép quá khô cứng khi phục vụ ở mặt trận dữ đội phía Đông.
Friederick Weise
Tập đoàn quân số 19 dc lãnh đạo bởi tướng Friederick Weise, người vốn là sĩ quan bộ binh trong thế chiến I , sau đó phục vụ trong ngành cảnh sát dưới thời công hòa Weimar , trở lại quân đội vào năm 1935. Weise thăng tiến khi chỉ huy sư đòan trong mùa thu 1942 và quân đoàn một năm sau đó. Ông ta dc chỉ định chỉ huy tập đoàn quân ở Pháp vào tháng 7/1944 và việc thực hiện tổ chức rút lui từ miền nam nước Pháp đã làm cho ông ta quen thuộc với kiểu chiến trận khác biệt ở mặt trận phía Tây. Ông ta là một chỉ huy không nổi bật lắm nhưng có năng lực.
Hasso van Manteuffel
Vị trí huy chiến thuật nổi bật nhất trong trận chiến ở Loraine trong 9/1944 là tướng thiết giáp Hasso van Manteuffel, cũng là một sĩ quan trẻ ngỗ ngược, dũng cảm và các kỹ năng chiến thuật đã thu hút sự chú ý của Hitler. Manteuffel đã phục vụ như là sĩ quan kị binh trong WWI, phục vụ cả trong trận Verdun. Ông ta phục vụ với cấp bậc thấp là sĩ quan kị binh trong quân đội sau cuộc chiến rồi chuyển qua thiết giáp 1934. Ông ta chỉ huy tiểu đoàn bộ binh trong sư đoàn thiết giáp 47 của Rommel tại Pháp năm 1940 và nắm quyền chỉ huy trung đoàn tháng 10/1941 , trong cuộc chiến với Liên Xô. Ông ta dc thưởng huy chương Hiệp sĩ vì tấn công bao vây cứ điểm trong trận chiến Moscow 11/1941. Manteuffel từng chỉ huy một lữ đoàn trong chiến dịch tại Bắc phi khi vẫn đeo lon đại tá trong sư đoàn tăng cường ở Tunisia (tướng von Arnim nhận xét ông ta là sư đoàn trưởng giỏi nhất của mình ở Tunisia ). Hitler đích thân chỉ định ông ta làm chỉ huy trưởng sư đoàn thiết giáp số 7 vào tháng 7/1943 và sau đó chuyển ông ta sang chỉ huy sư đoàn thiết giáp đặc biệt Grossdeuscthland (*) sau năm ông ta nhận huy chương Chữ thập hiệp sĩ với biểu tượng lá sồi . Danh tiếng trên chiến trường và mối liên hệ với Hitler cho phép ông ta thăng tiến vững vàng , và vào 1/9/1944 trở thành chỉ huy thân tín của Hitler , dc lệnh nắm quyền chỉ huy tập đoàn quân thiết giáp số 5 , nhảy cấp vượt bậc một cách bất thường ko cần phải trải chỉ huy cấp quân đoàn. Manteuffel ko dc huấn luyện và có kinh nghiệm ở vị trí này, và sẽ sớm chuốc lấy họa khi triển khai vụng về tập đoàn quân thiết giáp số 5 trong khu vực của TĐ quân số 1 và 19.
Chỉ huy quân đoàn thiết giáp 47, tướng thiết giáp Hernrich Freiyherr von Luttwitz
(*) chú thích : Grossdeuscthland Divison là các sư đoàn đặc biệt tinh nhuệ của Đức ,thậm chí cao cấp hơn các lực lượng SS, họ luôn dc ưu ái đầu tiên về trang bị hậu cần đạn dược trước các đơn vị khác.
CÁC CHỈ HUY ĐỒNG MINH
Không giống như Đức quân vào mùa thu năm 1944, cấu trúc chỉ huy của quân đội Mỹ là phân quyền. Dù Eisenhower là chỉ huy của SHAEF ,quyết định chiến thuật chung, nhưng ông ta hiếm khi can thiệp vào quyết định của cấp dưới. Ảnh hưởng của ông ta với chiến dịch ở Loraine chủ yếu ở việc cân nhắc mặt trận mũi nhọn, và các vị trí tiếp tế mà thôi. Trong hầu hết các trường hợp, các chỉ huy thâm niên của quân đội Mỹ, những người tốt nghiệp học viện West Point, là một nhóm nhỏ các sĩ quan ưu tú, những người phục vụ với cấp bậc cao trong quân đội trước chiến tranh, và nhiều người trong số họ có mối liên hệ chặt chẽ sau nhiều năm phục vụ.
Omar Braley
Chỉ huy của cụm tập đoàn quân 12 là tướng Omar Braley, bạn tốt nghiệp West Point cùng khóa 1915 với Eisenhower . Cũng giống Eisenhower, Bradley chưa từng vượt đại dương chiến đấu ở WWI, nhưng ông ta khẳng định danh tiếng như là một sĩ quan tham mưu
tận tụy và trầm lặng. Trong năm 1940, ông ta lãnh đạo trường Bộ binh ,và sau đó chỉ huy tốt sư đoàn số 82 và số 28. Đầu năm 1943, Eisenhower cần một người ủy quyền để giải quyết các vấn đề ở Bắc Phi, vị trí này ngắn ngủi vì sự trình diễn nghèo nàn của quân đoàn số II tại Kasserine Pass, dẫn tới việc mất chức của chỉ huy quân đoàn và người thay thế ông ta là tướng George .S. Patton. Người kế nhiệm ko muốn xem Bradley như là phái viên của Eisenhower và đã yêu cầu cho ông ta dc bổ nhiệm thay vì là chỉ huy quân đoàn ủy quyền. Bradley và Patton đã làm thành một cặp ăn ý chỉ huy quân Mỹ phản công ở Bắc Phi sau thất bại tại Kassenrine . Bradley sau đó nắm quyền chỉ huy quân đoàn số II sau khi Patton dc cất nhắc nắm vài trò chính của quân Mỹ trong chiến dịch đổ bộ lên Sicilia trong vai trò chỉ huy tập đoàn quân số 7. Quân đoàn của Bradley phục vụ dưới quyền Patton trong suốt chiến dịch ở Sicilia. Bradley khiến Eishenower tôn trọng vì khả năng xử lí điềm tĩnh và nắm vững các vấn đề logic hơn Patton. Với phong cách liều lĩnh của Patton, thì Bradley là lựa chọn hiển nhiên để lãnh đạo tập đoàn quân số 1 ở Normandy. Khi quân Mỹ ttràn vào nước Pháp 1944, Braley nắm quyền chỉ huy cụm tập đoàn quân số 12, với trung tướng Courtney Hodges chỉ huy tập đoàn quân số 1 và trung tướng George .s . Patton chỉ huy tập đoàn quân số 3. Bradley có mối quan hệ làm việc hữu hảo với Eisenhower, dựa trên tình bạn và sự tôn trọng lẫn nhau.
Tướng Omar Bradley chỉ huy tập đoàn quân số 1 tại Normandy, sau khi bổ sung tập đoàn quân số 3 của Patton đã thăng tiếp lên chỉ huy cụm tập đoàn quân số 12, dưới đây là hình ảnh ông ta đi thăm một tổ lái tank M4, tháng 9/1944
George S Patton
Tướng George S Patton là trường hợp tương phản với hai vị chỉ huy kia. Bradley và Eisenhower xuất thân từ các gia đình nông dân miền trung phía Đông nước Mỹ, vốn rất ít có truyền thống binh nghiệp. Patton xuất thân từ gia đình khá giả miền nam, là con cháu của gia đình có truyền thống binh nghiệp vốn tốt nghiệp từ học viện quân sự Virginia đầy thanh thế . Ông nội ông ta là một chỉ huy danh tiếng của quân li khai trong cuộc nội chiến. Tốt nghiệp học viện West Point sáu năm trước khóa của Bradley và Eisenhower, Patton đã từng chỉ huy lực lượng tank đầu tiên của Mỹ tại Pháp năm 1918, nơi ông ta giành dc huy chương chữ thập xuất sắc . Ông là sĩ quan kị binh lỗi lạc trước thế chiến, tránh xa các vị trí tham mưu ở Washinton, nơi mà Bradley và Eishenhower có phần trội hơn.Với kinh nghiệm chỉ huy tank và kị binh ,ông ta dc giao chỉ huy sư đoàn thiết giáp số 2 mới thành lập vào năm 1940, vào thời gian mà việc cơ giới hóa quân đội là ưu tiên hàng đầu. Ông ta thu hút sự chú ý của cả quốc gia khi lập các thành tích vượt trội trong huấn luyện trước chiến tranh. thậm chí lên trang bìa tạp chí Life magazine. Patton là lựa chọn tự nhiên để chỉ huy tập quân đoàn thiết giáp số 1 tại Bắc Phi năm 1942, và được chọn để thay thế vị trí chỉ quân đoàn II sau thất tại tại Kasserine. Phong cách chỉ huy truyền cảm hứng của ông ta khiến binh lính vững vàng , và dc Eisenhower lựa chọn để chỉ huy tập đoàn quân số 7 tại Sicilia. Tại đây, phong cách chỉ huy của ông ta dc pha trộn : đôi khi quá dữ dội và hung hăng, ông ta ko có đủ sự tập trung để nhìn nhận vấn đề một cách logich trong cuộc chiến, nơi mà logich thường là yếu tố chủ chốt. Phong cách cường điệu của ông ta rất khác với Bradley, và hành động ngông cuồng quá mức khiến ông ta gặp một loạt các rắc rối, trong hai lần viếng thăm bệnh viện dã chiến tại Sicilia ,ông ta tát binh lính trong quân phục dã chiến. Trong quân đội hiện đại ngày nay, đó là hành động chẳng hay ho chút nào, nó phủ bóng mờ lên tương lai của Paton. Eishenhower vẫn kiêng nể tính nóng nảy cũng như năng lực chỉ huy chiến xa của ông ta ,song phong cách bốc đồng và vô chính trị của ông ta trong và ngoài mặt trận và sự thiếu kiên nhẫn thường nhật của ông ta đối với bản chất chi li của cuộc chiến tranh hiện đại thật sự đã giới hạn sự thăng tiến của ông ta trong quân đội. Ông ta được hầu hết giới quân đội công nhận là một người hung hăng nhưng có tài chỉ huy chiến xa cực tốt phản ánh từ nguồn gốc kị binh của ông ta. Tướng Bruce Clarke đã nhận xét : ” “Patton hiểu biết về tank hơn bất kì ai tôi dc biết “
George S Patton
Tập đoàn quân số 3 của Patton có hai quân đoàn trong trận chiến ở Loraine vào đầu tháng 9, quân đoàn thứ 3 thì đang càn quét các ổ đề kháng của Đức vùng duyên hải Brittany. Quân đoàn XII dc chỉ huy bởi thiếu tướng Manton S Eddy từ 19/4/1944. Manton S Eddy, cựu chiến binh ở WWI từng chỉ huy sư đoàn bộ binh ở Bắc Phi, Sicilia và Normandy. Quân đoàn XX dc chỉ huy bởi thiếu tướng Walton Walker, tốt nghiệp West Point năm 1912, và cũng là cựu binh WWI.
Patton bàn luận tác chiến với chỉ huy quân đoàn XII, thiếu tướng Manton s Eddy. Sau khi mũi tấn công của quân đoàn XX bị chặn lại ở Metz, Patton đã hướng trọng tâm ở Loraine sang quân đoàn của Eddy, dẫn đến trận đấu tank ở Arracourt.
Thiếu tướng Lindsay Silvester (trái) chỉ huy quân đoàn số 7, trao đổi với thiếu tướng Walton H Walker (phải) , chỉ huy quân đoàn XX, gần Chartres ,cuối tháng 4/1944. sư đoàn của Silvester hy vọng đột kích một cứ điểm gần Metz, nhưng sự thiếu hụt hậu cần và thời tiết tồi tệ đã làm cuộc tấn công dậm chân tại chỗ vào đầu tháng 9.
Chỉ huy tập đoàn quân số 3, trung tướng G S Patton thị sát mặt trận ở Loraine với chỉ huy quân đoàn XII, thiếu tướng Manton S Eddy.
Chỉ huy quân đoàn XV, thiếu tướng Wade Haislip (phải) đến thăm chỉ huy quân đoàn XII, thiếu tướng Manton S Eddy (trái) liền sau khi quân đoàn của Haislip dc bổ sung vào tập đoàn quân số 3 của Patton vào giữa tháng 9 để tăng cường cho sườn bên phải.
Lực lượng của hai bên
Lực lượng Đức quân
Quân Đức ở Loraine vào đầu tháng 9 rất lộn xộn, nhưng bắt đầu kết nối với nhau thành một khối phòng thủ dọc sông Moselle. Trong suốt một tháng ,các đơn vị bổ sung dc đưa đến để gia cố mặt trận và phục vụ cho kế hoạch phản công của Hitler. Vào 1944, Đức quân đã trở thành một lực lượng ể oải . Yêu cầu khổng lồ cho mặt trận phía Tây và các lực lượng dự bị đang cạn dần khiến việc thành lập các sư đoàn mới thiếu sức chiến đấu. Lực lượng mỏng khiến các sư đoàn của Đức ko dc trang bị tốt như quân Mỹ. Một quân đoàn bộ binh bình thường của Đức di chuyển bằng ngựa và ko còn xe cộ để hoạt động. Còn quân đoàn bộ binh trung bình của Mỹ thì có xe mô tô cơ giới và tank chiến đấu, hoặc các tiểu đoàn diệt tank, có thể so sánh ngang tầm với sư đoàn thiết giáp của Đức.
Cơ cấu chính của lực lượng Đức ở Loraine là các sư đoàn bộ binh gồm 3 loại : các sư đoàn bị phá vỡ ở đầu trận chiến, các sư đoàn Volksgrenadier (1) mới thành lập, và các sư đoàn rút lui tương đối nguyên vẹn từ miền nam nước Pháp. Kết quả là cơ cấu bộ binh có chất lượng rất lộn xộn. Ví dụ như sư đoàn bộ binh số 16 ,một trong những đơn vị tốt nhất. Đầu 1944, nó dc triển khai để thực hiện nhiệm vụ chiếm cảng Biscay và đã rút lui về phía đông vào tháng 4, tổn thất gần hai tiểu đoàn khi giao tranh với quân du kích Pháp. Vào đầu tháng 9, lực lượng của nó khoảng 7000 người, vượt xa các đơn vị trung bình tại Loraine. Nhiều sư đoàn bộ binh giữ tên cũ trong khi một số khác dc cơ cấu lại mới hoàn toàn. Các sư đoàn Volksgrenadier dc sự chấp thuận của Hitler vào phút cuối để cơ giới hóa và trở nên sung sức cho trận đánh cuối, nỗ lực tuyệt vọng để phòng thủ nước Đức. Nó thật sự là vét cạn đáy thùng : họ đến từ ghế nhà trường, từ không quân, hải quân, từ lực lượng tại chỗ, từ đơn bị bổ sung. Một số có vẻ nhỉnh hơn , ví dụ sư đoàn Volksgrenadier số 462 có một trung đoàn những thiếu úy vừa rời ghế nhà trường, dc đưa thẳng ra tiền tuyến phía Tây. Trong hầu hết trường hợp, các sư đoàn bộ binh đều thiếu súng chống tank và pháo chiến trường.
(1) chú thích : sư đoàn Volksgrenadier là các sư đoàn mới thành lập từ các bộ phận từ cụm tập đoàn quân trung tâm và tập đoàn quân thiết giáp số 5. Các sư đoàn Volksgrenadier chỉ có 6 tiểu đoàn so với con số tiêu chuẩn là 9. Tổng cộng có khoảng 50 su đoàn mới dc thành lập vào cuối cuộc chiến.
Phương tiên tấn công yêu thích của các đơn vị Đức ở Loraine là chiếc tank Panther. Phần giáp giày phía trước của Panther chống lại dc hầu hết các pháo tank đời đầu của Mỹ , loại 75mm. Và nó lại cũng chịu dc loại pháo 76mm mạnh hơn của loại tăng hạng trung M4 ,M10, và M18 chuyên diệt tank . Chiếc Panther bên dưới dc dùng làm mẫu bắn thử cho súng 76mm, và ko có loạt đạn nào xuyên thủng. Kết quả là các chiến xa của Mỹ phải chuyển sang bắn ở những vị trí giáp mỏng hơn, hoặc dùng mánh khóe chiến thuật chẳng hạn như phun khói trăng phốt pho để che tầm súng địch.
Một cặp Panther tank của lữ đoàn thiết giáp 111, suốt chiến dịch gần Parroy cuối tháng 9 năm 1944. Do thực tế chiến trường vào cuối cuộc chiến nên những chiếc tank này dc ngụy trang lá cây để tránh bị không quân tấn công
Đức quân có đối sách khác hẳn quân Mỹ, và các sư đoàn trên mặt trận thiếu thốn về tổ chức và trang bị. Kết quả là, sự chuẩn bị cho chiến dịch của cả hai phe rất dễ gây nhầm lẫn khi so sánh : vì các sư đoàn Đức thật chất ko đủ sức mạnh còn các sư đoàn Mỹ lại gần như khỏe mạnh. Không có sư đoàn nào của Đức ở mặt trận phía Tây đủ tinh nhuệ để đạt hạng Kampfwert I, loại có thể thực hiện cuộc tấn công tổng lực. Các sư đoàn bộ binh tốt nhất dc xếp loại Kampfwert II, thực hiện dc các chiến dịch tấn công giới hạn. Vào giữa tháng 9, lực lượng Đức ở Loraine vào khoảng tương đương với 8 sư đoàn phòng thủ và khoảng 6 sư đoàn trù bị.
Thường khi nói đến “kinh nghiệm trận mạc” là để đánh giá năng lực của các đơn vị quân sự , nhưng cũng có lúc mà những trải nghiệm trận mạc này trở nên kiệt quệ, và động lực chiến đấu trở thành sự nỗ lực nhằm tự bảo vệ mình. Nhiều đơn vị Đức ở Loraine ở trong tình trạng cực kì tồi tệ bao gồm đủ thứ yếu tố : lính mới ko kinh nghiệm trộn lẫn với cựu binh, những người mà mấy tuần trước vừa trải qua ác mộng kinh hoàng trong cuộc thảm sát ở cái túi Falaise , hoặc kinh nghiệm thê lương từ sự tan vỡ của cụm tập đoàn quân trung tâm ở miền đông. Nếu có điều gì liên kết các đơn vị Đức ở Loraine thì đó là sự cố thủ chống lại đợt tấn công sắp tới vào lãnh thổ Đức.
Lực lượng Đức ở Loraine đặc biệt yếu ở pháo binh. Tập đoàn quân 19 đã mất tổng cộng 1316 trong số 1481 cơ số pháo của họ trong suốt cuộc rút lui khỏi miền nam nước Pháp. Dù pháo binh không đóng vai trò chính trong WWI, nhưng đó vẫn là hỏa lực giết chóc thống trị trên chiến trường. Rất nhiều cơ số pháo của các sư đoàn bộ binh dc kéo bằng sức ngựa, và sự thiếu hụt đạn dược thường xuyên do việc tác nghẽn giao thông vì bị quân đồng minh không kích đường xá và xe lửa. Việc quân Đức có hỏa lực yếu là sự bất lợi mang tính quyết định.
Việc cách tân kỹ nghệ cũng làm quân Đức bị trì trệ ở một vài mặt trận, chẳng hạn như thông tin liên lạc. Các trung đoàn bộ binh đưa vào triển khai liên lạc truyền tin ở cấp các trung đội , với các điện đàm và bốn tiểu đội vô tuyến. Những tiểu đội vô tuyến có thể triển khai ở cấp đại đội. Hầu hết liên lạc thực hiện qua điện đàm, đặc biệt trong các trận đánh phòng thủ, nhưng trong các chiến dịch cơ động, quân Đức lại gặp bất lợi. Điện đàm chiến trường của Đức lạc hậu và quá công kềnh, yêu cầu hai lính mang vác, và nó sử dụng băng tầng AM để truyền tin vốn dễ nhiễu hơn sóng FM của quân Mỹ đang sử dụng. Dù quân Đức đã triển khai các đơn vị định vị cho pháo binh, mạng lưới liên lạc của họ không trải rộng ,và không tin cậy bằng quân Mỹ.
Các sư đoàn thiết giáp và lính cơ giới của Đức ở Loraine có số phận rất khác nhau. Sư đoàn cơ giới thiết giáp SS 17 ,có tên “goetz von berlinchingen” đã hoàn toàn bị quân Mỹ đập tan trong chiến dịch rắn hổ mang tại Saint-Lô vào đầu tháng tư. Nó dc xây dựng lại từ hai tiểu đoàn cơ giới lấy từ Đan Mạch và dc gia cố bằng lính không quân và lính ngoại kiều từ vùng Balkan. Cũng giống như các sư đoàn thiết giáp cơ giới khác trong khu vực, nó có số lượng cơ giới ít ỏi : 4 chiếc tank destroyer Pz IV/70, 12 pháo tự hành Stug III, và 12 chiếc tank phòng không FlakPz 38 (t). Sư đoàn thiết giáp cơ giới số 3 và 15 vốn đóng ở miền nam Pháp, đã rút lui trong điều kiện tốt về Loraine. Cả hai sư đoàn đều đầy đủ cơ số quân, và đều có tiểu đoàn tank destroyer mới Pz IV/70. Sư đoàn số 15 có một tiểu đoàn gồm 36 chiếc tank PzKpfw, trong khi sư đoàn số 3 có một tiểu đoàn pháo tự hành Stug III.
Pháo chiến trường của Đức có chất lượng tốt, nhưng trong chiến dịch Loraine, số lượng ít ỏi và bị thiếu hụt đạn dược nghiêm trọng, Đây là khẩu Rheinmetall 150mm Kanone 18, pháo chiến trường tiêu chuẩn cho các quân đoàn trang bị ở các đơn vị pháo binh. Khẩu này cùng một số khác bị quân Mỹ tịch thu và và sử dụng bởi tiểu đoàn pháo binh 334 suốt chiến dịch ở Loraine cho đến khi hết đạn.
Sư đoàn thiết giáp số 11 dc công nhận rộng rãi là đơn vị tank tốt nhất của Đức trong khu vực. Giống hai sư đoàn thiết giáp cơ giới kể trên , nó cũng rút lui từ miền nam nước Pháp về Loraine trong điều kiện tốt, nhưng trong quá trình đó lại mất đi nhiều sức mạnh của tank. Ban đầu có khoảng 60 đến 70 tank, khi đến Loraine vào giữa tháng 9 ,số lượng chỉ còn 50 chiếc trong đó có 30 chiếc Panther. Sư đoàn thiết giáp 21 đã trải qua chiến đấu ở Normandy và chịu tổn thất nặng ko thể khôi phục nguyên trạng. Nó không còn chiếc tank nào, dù tiểu đoàn pháo tự hành xung kích StugAbt 200 dc nhận thêm một số pháo xung kích StuG III vào giữa tháng 9.
Vào 20/4/1944, chỉ có 184 tank và pháo tự hành ở mặt trận phía tây. Nhưng đến giữa tháng 9 thì số lượng cơ giới đã dc tăng cường. Kế hoạch tăng cường sức mạnh cho phía tây lên 712 tank và pháo tự hành xung kích vào đầu tháng 9 để phục vụ cho chỉ thị phản công bằng thiết giáp của Hitler ở Loraine. Sản lượng tank của Đức đã gần phục hồi lại vào 1944, nhờ vào dây chuyền công nghệ hợp lý của Albert Speer sau này . Cùng thời gian đó, dù gì thì sự hạn chế về nhiên liệu và động cơ đồng nghĩa với việc ko đủ các tổ lái đã qua huấn luyện hoặc các sĩ quan chỉ huy có kinh nghiệm để bù lại cho tổn thất nặng nề về nhân lực. Chất lượng các tổ lái tank của Đức rơi đều trong năm 1944, đặc biệt sau thảm họa mùa hè 1944. Vấn đề ko phải là sự thiếu hụt về tank mà là các tổ lái tank.
Chủ lực trong sức mạnh tank Đức ở Loraine nằm ở các lữ đoàn thiết giáp mới. Chúng dc tổ chức mới vào đầu tháng 9 theo ý nguyện của Hitler bất chấp lời khuyên của thanh tra các lực lượng thiết giáp Đức, tướng Henz Guderian. Những lữ đoàn này dc ưu tiên phân bổ cả sản lượng tank trong mùa hè nhằm thay thế các sư đoàn thiết giáp chính quy đã bị mất. Hầu hết đều dc cấu thành từ những bộ phận rời rạc của những đơn vị đã bị tiêu diệt ở mặt trận phía đông trong tháng 6, tháng 7 khi tập đoàn quân trung tâm bị phá hủy.
Lứa đầu tiên của những lữ đoàn này, số hiệu từ 101 đến 110, gần đạt sức mạnh tiêu chuẩn, với duy nhất một tiểu đoàn tank độc lập. Trang bị bao gồm 36 Panther, tank diệt tank 11 Pz IV/70, và 4 xe phòng không Flakpanzer. Các lữ đoàn sau, số hiệu từ 110 trở đi, có hai tiểu đoàn tank : một PzKpwf IV và một PzKpwf V Panther. Ba trong bốn lữ đoàn chiến đấu ở Loraine là thuộc loại mạnh này. Thậm chí trên lý thuyết đó cũng là đội hình đáng nể : với 90 tank và 10 tank destroyer, còn nhiều sức mạnh cơ giới hơn cả các sư đoàn thiết giáp trước đó. Nhưng chúng là những đội hình cẩu thả , dc tổ chức kém và huấn luyện sơ sài. Các lữ đoàn thiết giáp này dc dùng với mục đích như là lực lượng cơ giới phòng ngự mạnh mẽ để ngăn chận lỗ thủng ở trận tuyến. Kết quả là chúng ko kết hợp cân bằng với các đơn vị bộ binh như các sư đoàn thiết giáp khác, nhiều tank mà lại thiếu bộ binh tùng thiết, pháo , trinh sát và hậu cần. Ban tham mưu các lữ đoàn ko đầy đủ và các chỉ huy lữ đoàn mất nhiều thời gian để kết nối và điều khiển các đơn vị. Theo xu hướng chung của mặt trận phía tây, vũ khí chống tank dc chú ý nhiều hơn pháo chiến trường, và các lữ đoàn thiếu hỏa lực hỗ trợ của pháo chiến trường. Cộng thêm việc thiếu các đơn vị trinh sát ở các lữ đoàn này , nó sẽ dẫn đến kết cục chiến sự ở Loraine. Các lữ đoàn cũng thiếu các loại xe sửa chữa và bảo trì, sẽ làm tăng tổn thất trên chiến trường khi xe cộ bị hỏng đáng ra có thể sửa chữa dễ dàng lại bị bỏ rơi.
Các lữ đoàn này dc lấy từ nhiều vùng khác nhau của nước Đức, và các chỉ huy lữ đoàn hiếm khi biết dc thuộc cấp hay các đơn vị cấu thành cho tới bọn họ xuống tàu đến các khu vực tập trung dẫn đến Loraine. Manteuffel sau này thuật lại rằng các lữ đoàn thiết giáp là các đơn vị hiệu quả nhất ở chiến tuyến phía đông và trải nghiệm chỉ huy nó có thể xem như là kinh nghiệm tuyệt vời của ông ta vào lúc đó. Ở phía tây, lại hoàn toàn trái ngược, chúng chỉ có thể chứng minh sự thất vọng lớn lao.
Một phần vấn đề của lực lượng Đức trong cuộc phản công ở Loraine là quan điểm xuất phát “từ phía đông ” của rất nhiều các đơn vị. Bản thân Manteuffel cũng dc chuyển từ Ba Lan đến vài ngày trước cuộc tấn công, và các chỉ huy của những lữ đoàn mới và binh lính của họ cũng là cựu binh ở mặt trận phía đông. Trong khi họ đã khá quen thuộc với đội quân Đỏ thì họ lại hoàn toàn lạ lẫm với chiến thuật và năng lực của quân đội Mỹ. Điều này nhanh chóng ảnh hưởng đến chiến thuật thiết giáp của họ. Ở chiến tuyến phía đông, chẳng có gì bất thường khi sử dụng đội hình tank để tạo thành cú đấm thép xuyên thủng đội hình bộ binh của quân Đỏ. Quân Đỏ không có nhiều vũ khí chống tank và có năng lực giới hạn trong việc gọi pháo binh hay không quân yểm trợ. Đấy không phải là trường hợp của quân Mỹ, và nó sẽ dần rõ ràng trong các tháng tiếp theo.
Không quân Đức chẳng chứng tỏ mình có ích trong các trận đánh về sau. Máy bay chiến đấu và ném bom ở Pháp dưới quyền điểu khiển của quân đoàn Jagdkorps II , trong khi các chiến đấu cơ triển khai gần nước Đức để bảo vệ đế chế dưới quyền điều khiển của Jagdkorps I.
Vào ngày 29/4/1944 , áp lực của quân Đồng minh khiến quân đoàn Jagdkorps II phải rút lui toàn bộ phi cơ về đông Đức. Vào đầu tháng 9 có khoảng 420 chiến đấu cơ và máy bay ném bom trong lực lượng này , trong đó khoảng 110 chiếc bảo vệ vùng Nancy-Metz ở Loraine.
Không như quân Mỹ, Đức quân nhận dc ít sự hỗ trợ của không quân trong chiến trận ở Lorraine. Cũng như tank, thiếu hụt số lượng máy bay không bằng thiếu hụt về đào tạo phi công . Không quân Đức phải chịu tổn thất khổng lồ khắp đế chế từ mùa xuân 1944 , và nó còn tăng nhanh chóng vào mùa hè. Vấn đề càng tồi tệ hơn khi việc thiếu hụt nhiên liệu khiến việc luyện tập phải rút ngắn lại. Sản lượng máy bay đã phục hồi như trước vào mùa hè năm 1944, nhưng ko thể chuyển ngay thành lực lượng sẵn sàng. Không lực Mỹ chỉ đụng độ với Đức ở số lượng lớn hai lần duy nhất trong cuộc chiến ở Lorraine trong tháng 9 đã phát hiện ra việc phi công Đức thiếu kinh nghiệm và dễ bị tấn công. Ngoài việc thiếu hoàn toàn phi công có kinh nghiệm, lực lượng ném bom của không quân Đức còn bị sụt giảm tồi tệ trong năm 1944, bởi việc tập trung chế tạo chiến đấu cơ để bảo vệ đế chế. Không có tiêu chuẩn hóa cho việc chỉ dẫn hỗ trợ không kích mặt đất, mặc dù các cuộc gọi yêu cầu là thường xuyên nhưng không dc đáp ứng ngoại trừ vài trường hợp hiếm hoi khi các đầu cầu trọng điểm bị tập kích.
Địa hình vùng Lorraine mang đến cơ hội khác nhau cho cả hai bên. Từ góc nhìn của người Đức thì thung lũng Moselle tạo thành vòng đai phòng thủ tự nhiên, với dòng sông chảy mạnh chắn ngang, và những điểm băng qua sông đều bị rừng bao phủ, hai bên bờ sông lại rất dốc, và hầu hết những điểm vượt sông lại bao bọc bằng những dãy đồi phía bờ đông. Nó đặc biệt kinh khủng ở phía bắc khu vự này, gần như những điểm băng qua sông đều bao phủ bởi tầm pháo từ pháo đài Metz. Người Đức đã kiểm soát khu vực xung quanh Metz từ năm 1870 đến 1918 và sau năm 1940, vì vậy hầu hết điểm phòng thủ đều đối mặt với hướng tây. Cứ điểm Metz-Thionville Stellung là khu vực phòng thủ chính ở Lorraine. Thủ phủ truyền thống của Lorraine, Nancy, không dc gia cố gần đây, nhưng dòng chảy của con sông và cao nguyên Massif de Haye ở bờ tây hình thành rào chắn tự nhiên đáng kể. Địa hình thích hợp cho các chiến dịch cơ giới là ở khu vực miền nam giữa Toul và Epinal . Khu vực này ,theo bản đồ của người Pháp là Trouee de Charme hay Charme Gap, đã là bãi chiến trường truyền thống , hầu hết gần đây, ba thập niên trước người Đức đã bị đánh bại tại đây vào giai đoạn đầu của WWI. Khu vực này dc trấn giữ bởi tập đoàn quân 19, với vành đai phòng thủ dc gọi là Kitzinger Line, đã dc bắt đầu xây dựng từ tháng 4. Trong thực tế ,không có vành đai phòng thủ mới nào đáng kể . Thời tiết cũng ủng hộ người Đức chút ít : tháng 9 /1944 mưa dầm và có sương mù bất thường , sẽ giới hạn rất nhiều việc không kích hỗ trợ của liên quân.
Quân Mỹ
Tập đoàn quân số 3 của Patton bước vào chiến dịch ở Lorraine với hai quân đoàn, quân đoàn thứ ba đang càn quét các ổ đề kháng của Đức ở Brest, dọc bờ biển. Vào tháng 9/1944 quân đội Mỹ đang trong trạng thái hưng phấn sau thắng lợi quét qua nước Pháp tháng trước đó. Tập đoàn quân của Patton nói chung ở trong điều kiện tốt hơn so với tập đoàn quân của Hodges ,vừa mới trải qua trận sáp chiến kịch liệt ở Bocage vào tháng 6, tháng 7/1944. Điểm tương phản với các đơn vị của Đức, vốn hiếm khi đầy đủ sức mạnh vốn có , là tập đoàn số 3 của Patton chưa đụng độ trận nào ra trò vào cuối mùa thu. Sự nối kết của các đơn vị ,luyện tập ,và nhuệ khí nói chung là rất tốt.
Chiến thuật bộ binh của Đức và Mỹ khác biệt nhau rõ rệt. Các tiểu đội bộ binh của Đức dc tập luyện với súng máy MG42 làm tâm điểm chiến thuật , dựa theo kinh nghiệm từ WWI vốn nhấn mạnh tầm quan trọng của súng máy trong cuộc đấu bộ binh. Trong hoạt động của một trung đội, một trong các tiểu đội dc trang bị súng máy chính để làm tâm điểm. Học thuyết chiến thuật của Mỹ lại nhấn mạnh súng trường cá nhân, vũ trang với súng trường bán tự động M1 Garand hơn là súng tự động BAR giành cho tiểu đội. Dù khẩu M1 Garand của Mỹ có tốc độ bắn nhanh hơn khẩu K98 của Đức thì các tiểu đội lính Mỹ hiếm khi thể hiện dc hỏa lực vượt trội đối phương vì tính dữ dội của chiến thuật súng máy của Đức.
Pháo chiến trường trang bị cho các sư đoàn Mỹ là khẩu M2A1 105mm . Khẩu pháo này có thể bắn đạn 33 pound tầm xa 12000 yards . Mỗi sư đoàn dc trang bị 54 khẩu công với 12 khẩu loại 155mm. Trong đó 36 khẩu 105mm là pháo chiến trường, và 6 khẩu 155mm dc bố trí thành đại đội đại bác trong mỗi trung đoàn.
Tuy nhiên, đội hình bộ binh Mỹ lại thường có lợi thế hỏa lực đáng kể hơn đối phương. Yếu kém về hệ thống hỏa lực cấp tiểu đội và trung đội lại dc bù bằng hỗ trợ của pháo binh. Trong khi Mỹ và Đức có hỏa lực pháo binh cấp sư đoàn ngang nhau về lý thuyết, thì thực tế các sư đoàn Mỹ gần như giành dc toàn bộ ưu thế về vũ khí – và thường xuyên dc chu cấp đầy đủ về đạn dược. Dù gì, thì ưu thế trong chiến đấu bộ binh là thông tin liên lạc , đặc biệt trong các chiến dịch cơ giới. Bộ binh Mỹ có số lượng và chất lượng radio phong phú hơn quân Đức. Ở cấp trung đội, quân Mỹ sử dụng loại “tay-nói” SCR-536, loại cầm tay nhỏ gọn truyền tin sóng AM. Ở cấp đại đội , họ sử dụng loại vác vai “đi-nói” SRC-300 truyền tin sóng FM để liên lạc với tiểu đoàn và cấp chỉ huy cao hơn. Quân Đức ko có radio cấp trung đội, và loại radio vác vai AM lạc hậu của họ dc trang bị cho cấp đại đội trở lên. Việc sử dụng rộng rãi radio truyền tin cho phép quân Mỹ có thể gọi hỗ trợ suốt chiến dịch tấn công nhiều hơn bên Đức có thể.
Quân Mỹ có lợi thế về thông tin liên lạc, với ưu thế về trang bị như loại radio “đi-nói” SRC-300. Đây là mẫu radio bộ binh FM đầu tiên dc sử dụng rộng rãi , và thường thể hiện tốt hon loại AM của Đức. Trong ảnh là radio dc dùng gần vùng Vagney, nước Pháp ngày 17/10/1944 (ảnh US army)
rong một cải tiến chiến thuật quan trọng khác, quân Mỹ ở Châu âu thường triển khai đội trinh sát cho pháo binh với vài đại đội bộ binh. Sĩ quan chỉ huy dc trang bị radio di động có thể kết nối với mạng lưới pháo binh và phụ trách cả gọi bắn lẫn dẫn bắn. Các đơn vị Mỹ ở các trọng điểm thường dc hỗ trợ bởi pháo quân đoàn, và các sư đoàn bộ binh thì dc phiên chế thêm các tiểu đoàn pháo binh để hỗ trợ cho các nhiệm vụ đặc biệt. Bộ binh Mỹ cũng dc hỗ trợ cơ giới tốt hơn, thường là một tiểu đoàn tank hoặc tiểu đoàn diệt tank cộng thêm cho mỗi sư đoàn.
Bộ binh Đức thường có huynh hướng coi thường lính Mỹ, cho rằng họ thiếu lửa trong chiến thuật đánh giáp mặt. Điều nay phản ánh phần nào sự trì trệ trong chiến thuật bộ binh của Đức. Các đơn vị bộ binh Mỹ từng trải, có kinh nghiệm đau thương về thua thiệt trong hỏa lực khi đối đầu với các tiểu đội lính Đức, rất hạnh phúc khi sử dụng hỏa lực diết chóc của pháo binh thay vì chịu những thương vong ko cần thiết. Cách nhìn nhận khác nhau này là một phần của sự tương phản văn hóa : tính thực dụng của lính mỹ đối đầu với tinh thần chiến đấu lãng mạn của chiến binh Đức.
Các sư đoàn thiết giáp của Mỹ dc vũ trang tốt hơn nhiều so với bên phía Đức vào 9/1944, gần như với sức mạnh nguyên vẹn, và họ cũng chiến đấu khác nhau. Học thuyết của Mỹ là việc thâm nhập phá vỡ hàng rào phòng thủ của đối phương phụ trách bởi bộ binh dc hỗ trở phía sau bởi vài tiểu đoàn tank và pháo binh độc lập. Các sư đoàn thiết giáp dc dự trự để khai thác sau khi sự thâm nhập đã tiến triển. Các sư đoàn thiết giáp của Đức lại thường sử dụng để đột kích, một chiến thuật đã chứng minh là phải trả giá rất đắt khi cuộc chiến tiếp diễn và các vũ khí chống tank cũng như kỹ thuật đã phát triển. Kết quả là các sư đoàn thiết giáp của Mỹ thường ko dc triển khai như các lữ đoàn thiết giáp Đức ở Lorraine như là lực lượng mũi nhọn để khoan thủng đội hình bộ binh địch. Ở khía cạnh này, học thuyết của Mỹ gần giống với các quân đoàn xe tank của quân Đỏ hơn là thói quen của người Đức. Các sư đoàn thiết giáp Mỹ thật sự là những khối kết hợp chặt chẽ, đặc biệt khi so sánh với các sư đoàn thiếu tank hay các lữ đoàn thiết giáp thiên về tank của Đức. Người ta thường quên rằng, mỗi sư đoàn thiết giáp của Mỹ cũng có con số tương đương các tiểu đoàn bộ binh và pháo binh như các tiểu đoàn xe tank- ba tiểu đoàn trên một sư đoàn. Ngoài ra các sư đoàn thiết giáp Mỹ cũng thường dc bổ sung thêm bộ binh và pháo binh cho các nhiệm vụ đặc biệt.
Quân Mỹ có lợi thế vượt trội quân Đức về pháo binh, cả số lượng và chất lượng. Pháo hạng nặng của Mỹ là loại tự hành, sử dụng đầu kéo bánh xích như chiếc M4 có tốc độ cao này kéo khẩu pháo 8 in của tiểu đoàn pháo chiến trường số 999 gần Nantes-Gassicourt vào ngày 20/4/1944
Đơn vị chiến đấu chính của Mỹ là đội quân (Combat Command- tương đương trung đoàn) . Mỗi đội CC này tương ứng với từng nhiệm vụ chiến thuật nhưng thông thường gồm một tiểu đoàn tank, một tiểu đoàn bộ binh cơ giới, và một tiểu đoàn pháo mặt trận. Các đơn vị khác có thể bổ sung thêm từ sư đoàn hay quân đoàn . Ví dụ, suốt trận đánh ở Lorraine, đội CC A của sư đoàn thiết giáp số 4 được phiên chế ba tiểu đoàn pháo binh tùy ý sử dụng. Mỗi sư đoàn thường gồm ba đội quân này, ký hiệu CCA, CCB và CCR. Trong vài sư đoàn cả 3 tổ CC này tham gia chiến đấu cùng lúc. Sư đoàn thiết giáp số 4 ,phụ trách phần lớn cuộc đấu tank ở Lorraine, vận hành cấu trúc riêng với tổ CCR dự trữ . Các tiểu đoàn kiệt sức sẽ dc thay thế luân phiên với tổ CCR này nhằm tránh tình trạng tiêu hao quá mức.
Vì giới hạn vũ khí, lực lượng thiết giáp Đức cố tận dụng lợi thế kỹ thuật đáng kể đạt dc với chiếc tank Panther. Việc thiết kế xe tank của Mỹ trì trệ suốt những năm chiến tranh vì thất bại của lục quân và lực lượng thiết giáp trong việc tiếp thu và học hỏi sự tiến bộ trong kỹ thuật tank thiết giáp. Kết quả là các sư đoàn cơ giới ở Lorraine về cơ bản sử dụng chiếc tank hạng trung M4 y như ở Tusinia hai năm trước đó. Những chiếc tank hạng trung M4 mới phù hợp hơn với súng 76mm mới , nhưng số lượng ko nhiều ,giáp của chúng ko dc cải tiến và khả năng xuyên giáp kém hơn súng nòng dài 75mm của chiếc Panther. Chiếc M4 với khẩu 76mm bị chê bai bởi Patton, và ko dc ưa chuộng lúc đầu ở sư đoàn thiết giáp số 4. Lính tank cảm thấy khẩu 75mm linh hoạt hơn khẩu 76mm, vốn chỉ thích hợp để đấu tank. Trong cuộc đấu tank trực tiếp ở khoảng cách bình thường thì chiếc Panther ko thể bị xuyên thủng bởi khẩu 75mm, nhưng chiếc Panther chỉ diệt dc chiếc M4 ở khoảng cách hợp lý. Lợi thế của lính tank Mỹ so với Đức trong năm 1944 là họ dc đào tạo kỹ hơn. Thiếu thốn nhiên liệu và thời gian đào tạo rút ngắn khiến chất lượng của các tổ lái tank Đức rớt dốc kể từ thời hoàng kim 1939-42. Tank của Đức vẫn có ưu thế hơn vì tiến bộ trong kỹ thuật, hoặc khi khi bắn đối đầu, còn ở Lorraine các lính tank Mỹ lại thắng thế. Việc đổi mới chiến thuật góp phần quan trọng. Một chiến thuật phổ biến của các tiểu đoàn tank Mỹ có kinh nghiệm khi đối đầu với tank Đức là tấn công trước bằng đạn phốt pho trắng. Các tổ lái Đức thiếu kinh nghiệm có lúc bị buộc ra ngoài vì khói cay luồn vào chiếc tank qua bộ lọc gió. Thậm chí nếu mẹo này ko hiệu quả, màn khói sẽ ngăn những chiếc Panther xác định vị trí kẻ địch, cho phép những chiếc M4 có thời gian vận động sang bên hông hoặc phía sau , nơi những khẩu 75mm có thể xuyên thủng giáp của chiếc Panther. Chiến thuật này là thủ tục vận động tiêu chuẩn trong vài đơn vị, gồm cả tổ CCA của sư đoàn thiết giáp số 4. Một số đơn vị tank Mỹ lại thiên về bắn đạn trái phá vào chiếc Panther vì nhận thấy vài tổ lái thiếu kinh nghiệm của Đức sẽ dễ dàng bỏ xe.
Lính tăng Mỹ cũng hưởng lợi thế về thông tin liên lạc như bộ binh. Xe tăng của họ sử sụng loại radio FM đời mới, và liên lạc bằng radio tốt hơn giúp các tổ tank Mỹ có thể gọi pháo binh bắn hỗ trợ , hoặc trong vài trường hợp là không quân yểm trợ để hoàn thành nhiệm vụ. Trường hợp phổ biến là đội hình hành quân bị chặn lại bởi thiết giáp Đức phục kích ở vị trí thuận lợi, thì cũng ko thể dễ dàng bị tiêu diệt trong cuộc đấu tank trực tiếp. Mỗi tiểu đoàn tank có một trung đội tank M4 với đại đội chỉ huy trang bị pháo 105mm , và hầu hết các đội quân CC có ít nhất một tiểu đoàn pháo tự hành M7 105mm cho mỗi tiểu đoàn tank , thậm chí hơn. Các sư đoàn thiết giáp Mỹ có lợi thế nếu ít bị phát hiện sớm. Các đơn vị thiết giáp được chu cấp tốt hơn về thiết bị kỹ thuật, vốn rất thiết yếu cho các chiến dịch cơ giới hay vượt sông. Một cải tiến kỹ thuật quan trọng khác là thiết bị cầu phao, có thể tháo rời từng bộ phận nhỏ chất vừa xe tải tiêu chuẩn 2,5 tấn. Thật ngẫu nhiên, chỉ huy của đội quân tiên phong của Patton là đại tá Bruce Clarke , một kỹ sư đã qua đào tạo, người chủ trương tán thành phát triển các thiết bị làm cầu nhanh cho các đơn vị thiết giáp.
Quân Mỹ có một số lượng lớn tank trong khu vực Lorraine. Quân lực Đức chưa bao giờ quá 350 tank, ngay cả trong lúc đỉnh điểm của trận đấu tank vào tuần thứ 3 trong tháng 9 . Tập đoàn quân số 3 bắt đầu chiến dịch ở Lorraine với 165 tank hạng nhẹ M5A1, 596 M4 (75mm) và 76 M4 (76mm) tank hạng trung, và khoảng 450 chiếc tank diệt tank M10 và M18. Khoảng 40% tank trong số đó tách riêng thành các tiểu đoàn tank độc lập hỗ trợ cho bộ binh, phần còn lại nằm trong các sư đoàn thiết giáp.
Nếu có thế mạnh quân sự nào Mỹ vượt trội Đức không thể chối cãi dc thì đó là pháo binh. Đây ko chỉ đơn giản là vấn đề số lượng. Các tiểu đoàn pháo chiến trường của Mỹ hiện đại hơn Đức về gần như tât cả các mặt. Trong khi súng pháo ko khác biệt mấy về năng lực, thì các tiểu đoàn pháo chiến trường của Mỹ hoàn toàn cơ giới hóa, trong khi pháo chiến trường của Đức, đặc biệt trong các sư đoàn bộ binh, dc kéo bằng sức ngựa. Pháo hạng nặng của Mỹ là loại cơ giới, sử dụng đầu kéo tốc độ cao. Việc cơ giới hóa cao độ như vậy cung cấp tính linh động cho các trận đánh , và đảm bảo hậu cần.
Pháo chiến trường của Mỹ cũng có lợi thế nhiều hơn và hiện đại hơn về cơ số đạn dược, cho phép đáp các ứng yêu cầu và các tính toán nhanh chóng để khai hỏa. Đẳng cấp đạn dược như vậy cho phép thực hiện các chiến thuật mới, mà chết người nhất là TOT hay là “time-on-target”. Pháo chiến trường hiệu quả nhất ở loạt đạn đầu bắn trúng đối phương lúc ngay lúc đầu. Sau vài loạt đạn đầu thì quân địch sẽ phòng ngự và tỉ lệ thương vong gây nên sẽ giảm đột ngột. Mục tiêu của chiến thuật TOT là chia đều hỏa lực vào các mục tiêu cùng lúc, kể cả từ các khẩu đội pháo riêng rẽ. Kiểu khai hỏa TOT như vậy gây chết người và tiết kiệm đạn hơn so với chiến thuật bắn xen kẻ truyền thống. Thông tin liên lạc hiệu quả cho phép các khẩu đội pháo điều chỉnh mục tiêu một cách nhanh chóng.
Một lợi thế hỏa lực khác của quân Mỹ ở Lorraine là không kích hỗ trợ. Các trung tâm chỉ huy chiến thuật Không lực Mỹ (TAC) dc cấu trúc để hoạt động hỗ trợ trực tiếp cho từng đạo quân độc lập. Kết quả là tập đoàn quân số 3 của Patton dc đơn vị TAC XIX của trung tướng Otto Weyland hỗ trợ. Các đơn vị không quân chiến thuật của Mỹ kết hợp chặt chẽ hơn hầu hết các quân đội khác, và bộ chỉ huy của Weyland ở chung với trụ sở chỉ huy của Patton. Đơn vị TAC XIX có tổng số khoảng 400 máy bay, thường tổ chức thành 2 phi đoàn , mỗi phi đoàn chia thành các nhóm với trung bình 3 phi đội mỗi nhóm. Một phi đội chiến đấu có 25 máy bay. Mỗi nhiệm vụ ,phi đội triển khai 12 máy bay và một nhóm sử dụng 36 chiếc. Vào đầu tháng 9, TAC XIX có bảy nhóm chiến đấu và một nhóm chụp ảnh trinh sát. TAC XIX trang bị chủ yếu với máy bay cường kích P-47 Thunderbolt để hỗ trợ không tập với hỏa lực của súng máy, bom, bom napalm và tên lửa. Có khoảng 1 hay 2 phi đoàn P-51 để hỗ trợ chiến thuật kiểu “trinh sát nhanh” hay chỉ điểm cho pháo 240mm của quân đoàn. TAC XIX đã thực hiện các nhiệm vụ không tập hỗ trợ tương ứng rất lớn trong tổng số các nhiệm vụ chiến đấu của của họ hơn hầu hết các đơn vị TAC ở Châu Âu.
Quân Mỹ triển khai thông tin liên lạc tốt hơn, và nó dc phân bổ rộng rãi. Loại radio SRC-536 tay cầm nhỏ gọn này dc thiết kế nguyên thủy cho lính dù . Quân Mỹ là lực lượng quân sự duy nhất ở WWII trang bị rộn rãi radio ở cấp trung đội. Điều này rất hữu ích trong hỗ trợ bắn phối hợp.Như khẩu cối 60mm ở trên khai hỏa gần Perriers-en-Beaufice ngày 28/4/1944.
TAC XIX triển khai 12 nhóm radio với các đơn vị mặt đất : một nhóm trên một quân đoàn và trung tâm chỉ huy sư đoàn bộ binh, hai nhóm với mỗi sư đoàn thiết giáp (một nhóm với mỗi đội quân CC),một với mỗi nhóm kị binh khi họ thực hiện các nhiệm vụ nghi binh hay phòng thủ quan trọng. Các nhóm cơ bản là một tổ radio kết nối sư đoàn với trung tâm chỉ huy của XIX TAC bằng radio SRC-624 đi kèm theo sư đoàn trên xe thùng SRC-399 “nhà của chó “. Các sĩ quan liên lạc không quân chiến thuật (TALO) làm việc trên những chiếc jeep (lính Mỹ gọi đùa là “veep” -phó tổng thống) với radio không quân gắn trên giá loại SCR-522 VHF .Họ triển khai lên phía trước chung với quân tiên phong để định vị mục tiêu cho lực lượng không tập y hệt như cách thức của các trinh sát pháo binh.
Hiệu quả của không tập hỗ trợ ở WWII đang còn dc tranh luận. Cả Đức và Đồng minh đều cố ý phổi phồng sức mạnh của nó : không lực Mỹ thời hậu thế chiến đang đấu tranh để trở thành lực lượng riêng biệt, còn người Đức thì cố bào chữa cho màn trình diễn nghèo nàn của mình. Việc nghiên cứu giai đoạn chiến tranh và hậu chiến cho thấy việc khả năng của không quân tiêu diệt xe tăng trên chiến trường đã dc thổi phồng quá mức. Nghiên cứu sau trận đánh Ardennes vào năm 1945 trong khu vực của XIX TAC cho thấy máy bay chỉ tiêu diệt được 6 xe cộ trong 90 lần báo cáo. Đạn bom lúc đó như : tên lửa ko điều khiển, bom, súng máy không đủ độ chính xác để có thể hạ dc nhiều tank trên chiến trường. Mặt khác, phi cơ và máy bay ném bom có tác động tâm lý khủng khiếp nâng cao tinh thần quân Mỹ và khủng bố lính Đức. Các sĩ quan chiến trường của Đức thường nói về nỗi sợ bị không kích y hệt như nói về “cơn sốc tank ” trong chiến thuật của những năm blitzkrieg, và cũng như ” cơn sốc tank” năm nào tác động tâm lý của không kích cũng giảm dần nhanh chóng theo kinh nghiệm trận mạc.
Hành động có hiệu quả nhất của không kích hỗ trợ là tấn công vào các đoàn tiếp tế, khu vực kho bãi, hoặc các mục tiêu yếu. Thậm chí nếu bản thân nó không có năng lực diệt tank cao thì các phi cơ cũng giới hạn dữ dội các đơn vị cơ giới thiết giáp bằng cách bắt họ phải hành quân vào buổi đêm. Hơn nữa, đòi hỏi cao độ về nhiên liệu và đạn dược trong quân đội hiện đại khiến họ dễ bị cắt đường tiếp tế. Một sư đoàn có thể bị loại khỏi vòng chiến nếu bị tiêu diệt hết xe tải tiếp tế, cũng giống như việc bị tiêu diệt tất cả xe tank. Chỉ huy lữ đoàn CCA của sư đoàn thiết giáp số 4, đại tá Bruce Clarke ghi nhận :” Chúng tôi rất vui vì có sự hỗ trợ của không quân, nhưng tôi có thể nói hiệu quả cũng ko hoàn toàn quyết định trong vài trường hợp “.
Ngoài các phi cơ chiến đấu và ném bom, sư đoàn Mỹ cũng có trong biên chế loại máy bay L-4 Biber Cub) dùng để liên lạc, thường gọi là “cào cào bay” .Chúng thường dc dùng để dẫn bắn hay trinh sát cho pháo binh. Đại tá Clarke đã từng bay trên đội hình tank hành quân để điều chỉnh chính xác đội hình.
Bảng danh sách các tướng lãnh tham gia chiến dịch ở Lorraine
MỞ MÀN
Tiếp cận Moselle
Vào đầu tháng 9/1944 , tập đoàn quân số 3 của Patton tạm dừng sau khi vượt sông Meuse . Hậu cần từ cụm tập đoàn quân 12 của Bradley được ưu tiên chuyển cho tập đoàn quân số 1 của Hodges gần đó, hỗ trợ nó tiến về Aachen , để bảo vệ sườn phải cho cụm tập đoàn quân 21 của Montgomery . Vào ngày 4/9 , lực lượng của Montgomery đã vượt sông Seine an toàn và lực lượng dự bị của Đức tại Bỉ đã bị quân đoàn VII của Colins bao vây gần Mons. Eisenhower quyết định rằng theo hoàn cảnh thuận lợi đúng như ý định ban đầu của SHAEF là thực hiện thế gọng kìm tấn công nước Đức đã dc hỗ trợ , vì vậy tập đoàn quân số 3 của Patton sẽ nhận dc ưu tiên hậu cần ngang với tập đoàn quân số 1 của Hodges. Trong khi việc này chưa hẳn kết thúc các tranh cãi về hậu cần thì nó cũng cho phép tập đoàn quân số 3 của Patton tiếp tục chiến dịch tấn công với quy mộ giới hạn.
Các chiến dịch trinh sát dc tiến hành nhằm chắc chắn rằng các đầu cầu có thể đảm bảo trước khi quân Đức có thể thiết lập phòng thủ hữu hiệu. Các mục tiêu của quân đoàn XX của Walker đối diện pháo đài Metz chứng tỏ là khó khăn nhất. Walker hy vọng bảo đảm an toàn cho đầu cầu vượt sông Moselle bằng mũi đột kích nhanh bằng thiết giáp, như đã từng thực hiện vượt sông Marne và Meuse vào tháng 4, nhưng những đợt thăm dò trước bằng các sư đoàn kị binh cho thấy quân Đức sẽ ko dễ dàng bị đẩy lùi. Những đợt tấn công đầu tiên thực hiện bởi đội CCB sư đoàn số 7 vào cứ điểm Driant bờ nam sông Moselle vào sáng sớm ngày 7/9 , nối tiếp bởi đội CCA vào cứ điểm Thionville phía bắc dòng sông. Bên sườn trái của quân đoàn , phía bắc Metz , sư đoàn bộ binh 90 bắt đầu từ Etain tiến về Thionville trên sông Moselle.
Địa hình ở Lorrain là đất trồng trọt với nhiều quả đồi , ở trên là các sĩ quan của sư đoàn bộ binh 80 đang thiết lập vị trí quan sát từ một ngọn đồi ra miền đồng quê xung quanh Montsec vào ngày 3/9/1944 (ảnh US army)
Trinh sát là yêu cầu sống còn trong trận chiến ở Lorraine, các sư đoàn kị binh nguy khốn hiếm khi dc khen ngợi vì hoàn cảnh nguy hiểm khi thực hiện các nhiệm vụ khó khăn. Họ dc trang bị xe bọc thép hạng nhẹ M8, như chiếc trên đây, và những chiếc xe jeep vũ trang súng máy. Trên đây là tổ lính trinh sát của sư đoàn 80 thực hiện bữa ăn nhanh cùng một nhân viên chữ thập đỏ Mỹ gần sông Moselle ngày 8/9/1944.(ảnh US army)
Dù các lực lượng Đức đã giữ vững phòng tuyến ở sông Moselle , chỉ huy mới của tập đoàn quân số 1, tướng Knobelsdroff , muốn hành động mạnh mẽ hơn. Ông ta liên lạc với bộ chỉ huy ở Fuhrer trình bày kế hoạch thừa thắng tiến lên tấn công bằng xe tank vào sườn phải quân đoàn XX của Walker từ bờ trái sông Moselle. Ông ta định sử dụng lữ đoàn thiết giáp 106, vốn dc dự trữ để dùng trong cuộc phản công ở Lorraine sắp tới , tuy nhiên yêu đó cần dc đích thân Hitler chấp thuận. Kế hoạch dc chấp thuận vào ngày 7/9, với điều kiện lữ đoàn đó chỉ dc sử dụng trong 48 tiếng rồi quay về vị trí trù bị.
Lữ đoàn thiết giáp 106 dc cấu thành từ tàn dư của sư đoàn thiết giáp Grenadier Feldherrhalle mà đã bị bao vây và tiêu diệt ở Bylorussia trong chiến dịch Bagration. Nó dc chỉ huy bởi một trong những chỉ huy xe tank nổi bật nhất của quân lực Đức , đại tá Dr Franz Bake . Ông ta dc trao huy chương Chữ Thập Sắt hạng một và hạng hai khi là bộ binh ở WWI, sau đó chỉ huy đại đội PzKpfw 35 ở Pháp năm 1940. Ông ta cũng từng dẫn dắt một tiểu đoàn thiết giáp trong cuộc đấu tank đỉnh cao tại Prokorova trong trận Kurst vào năm 1943 và sau đó là trung đoàn thiết giáp hạng nặng Bake huyền thoại ở mặt trận phía đông 1944. Ông ta dc vinh dự nhận huy chương chữ thập Hiệp sĩ vào tháng 1/1943 và Lá Sồi vào tháng 4/1943. Chỉ có 49 chiến binh Đức vinh dự dc nhận huy chương Chữ thập Hiệp sĩ trong chiến tranh cho đến tháng giêng 1944. Ông ta dc bổ nhiệm làm chỉ huy lữ đoàn thiết giáp số 106 khi nó dc điều động đến gần Danzig vào tháng 7/1944. Lữ đoàn này dc nhận những chiếc Panther đầu tiên vào đầu tháng 4, nhưng việc thiếu nhiên liệu làm cho việc huấn luyện diễn ra sơ sài. Lữ đoàn có một nhóm nhỏ nòng cốt tinh nhuệ gồm vài đơn vị mới, với một chỉ huy khác cũng từng nhận huy chương Chữ thập Hiệp sĩ – Erich Oberwohrmann -chỉ huy trung đoàn Panther và Ewald Bartel chỉ huy tiểu đoàn trường.
Ở trên là một khẩu súng chống tank M1 57mm, đang phục kích một giao lộ tại Algrange trong trận đánh giữa tiểu đoàn bộ binh 358 của sư đoàn 90 với sư đoàn Volksgrenadier 559 vào ngày 10-12 tháng 9. Khẩu 57mm dc copy nhượng quyền từ khẩu súng chống tank 6-pdr của Anh, là vũ khí chống tank tiêu chuẩn của các sư đoàn bộ binh trong năm 1944. Mỗi trung đoàn có biên chế 18 khẩu, mỗi tiểu đoàn 3 khẩu. Sư đoàn 90 cũng có thêm tiểu đoàn pháo kéo 3-in diệt tank để tăng cường hỏa lực.
Mục tiêu của đợt tấn công thiết giáp này là sư đoàn bộ binh 90 , có biệt danh là “Tough Ombres” sau khi biểu tượng của sư đoàn có thêm chữ “T” và chữ “O” khi họ tuyển lính ở Texas và Oklahoma . Sư đoàn này có tai tiếng xấu vì chiến đấu tệ hại ở Normandy. Sau sáu tuần đổ bộ nó thiệt hại 100% lực lượng và thương vong ở vài đại đội súng trường tương đương 400% cơ số quân tiêu chuẩn. Vị chỉ huy ban đầu bị sa thải và người thay thế xuất thân là Vệ binh quốc gia , một chủ ngân hàng gốc Oklahoma, thiếu tướng Raymond McLain. Không bình thường khi một sĩ quan Vệ binh quốc gia nhận chức chỉ huy sư đoàn, và sự bổ nhiệm là bằng chứng cho thấy năng lực chỉ huy của McLain lúc ở chiến trường Địa trung Hải. Dưới sự lãnh đạo mới, năng lực của sư đoàn thăng tiến đáng kể ở mặt trận Falaise Gap, và đến tháng 9 nó trở thành đơn vị dày dạn chiến trường dc chỉ huy tốt. Sư đoàn bộ binh 90 là sư đoàn nằm phía bắc quân đoàn XX, và nếu nó tiến về Thionville, sườntrái của quân đoàn sẽ phơi ra ko dc bảo vệ.
Thị trấn Mairy bị bao bọc xung quanh bởi những ngọn đồi ,đây là hướng nhìn từ phía bắc về thị trấn từ đường D145 ở Mainville, từ đây có thể thấy dc những trung đoàn thiết giáp tiến vào thị trấn trong cuộc tấn công ngày mùng 8/9/1944. (ảnh s.Zaloga)
Lữ đoàn thiết giáp 106 dc trang bị với 36 Panther, 11 PzIV/70 tank detroyer, và 119 xe bán tải bọc thép . Thời điểm tấn công dc định vào đêm 6/9 nhưng bị trì hoãn vì sự tập kết trễ của trung đoàn bộ binh 59. Không đủ chỗ chứa lính trong các xe bán tải bọc thép do đó binh lính cưỡi cả lên những chiếc Panther để tham gia tấn công. Đợt tấn công đầu tiên vào chiều 7/9 bị đánh bại bởi lính Mỹ phòng thủ tại chỗ, họ dc lệnh thực hiện tiếp đợt tấn công thứ hai vào ban đêm với sự hỗ trợ của sư đoàn Volksgrenadier 19. Đội hình trải rộng uốn theo địa hình, các đơn vị tấn công vào vị trí phía bắc lực lượng tiền tiêu của Mỹ, nơi bên cánh trống trải. Đêm khuya ngày 7- 8/9, lữ đoàn thiết giáp 106 tiến về phía nam từ Audum-le-Roman đến Briey theo đội hình hai hàng dọc. Nhóm tấn công số 1 hướng đến Mont-Bolivier và nhóm số 2 tiến đến Trieux. Đợt tấn công ko dc thăm dò hay ko thực hiện công tác trinh sát trước, và vào khoảng 2h đội hình chính bị tách làm hai ở gần Murville ,một bộ phận di chuyển theo đường 43 và phần còn lại đi theo con đường nhỏ tiến đến những ngôi làng của Mont và Mairy.
Bộ chỉ huy sư đoàn bộ binh 90 đóng tại khu rừng cây phía nam Landres, chắn bởi các con đường ở phía bên kia. Đội hình của nhóm tấn công số 1 của lữ đoàn thiết giáp 106 di chuyển theo cùng những con đường đó lúc 2h. Toàn bộ khu vực là đồi núi và rừng cây, đội hình thiết giáp của Đức băng qua những đơn vị của trung tâm chỉ huy nằm rải rác mà ko phát hiện dc đến tận 3h. Lúc này, một tổ lái tank M4 đang gác tại trung tâm chỉ huy pháo binh sư đoàn phát hiện ra đội hình Đức và khai hỏa vào các xe cơ giới đang di chuyển. Một chiếc xe bán tải bọc thép của Đức bị nổ tung nhưng tia lửa đạn cũng soi sáng chiếc xe tank và kéo theo là mưa đạn đáp trả từ những chiếc Panther. Chiếc tank Mỹ bị phá hủy và bộ tham mưu pháo binh bị thương vong nặng nề. Đội tấn công số 1 tiếp tục di chuyển về hướng đông nam nhưng tập trung cao độ. Cán bộ của trung tâm chỉ huy sư đoàn , dc sự hỗ trợ từ những chiếc tank của tiểu đoàn tank 712, bắt đầu tấn công vào phía đuôi đội hình Đức, cùng lúc báo động cho các tiểu đoàn bộ binh khác. Tiểu đoàn tank 712 gần đó đang phân tán, nhưng các lính tank bắn lẫn nhau trong màn đêm vì sợ hãi.
Vào gần sáng, những chiếc tank Panther và các trung đoàn thiết giáp đã băng qua khu vực lính Mỹ đóng quân. Thay vì rút lui vì bị tấn công bất ngờ trong đêm, như người Đức mong đợi, bộ binh Mỹ bắt đầu tấn công bài bản vào vị khách ko mời mà đến này. Vào lúc rạng đông, cánh trái của đội hình tấn công số 1 bắt đầu tấn công vào ngôi làng Mairy, chiếm giữ bởi tiểu đoàn số 1, trung đoàn bộ binh 358 , dc hỗ trợ bởi trung đội súng chống tank 3-in từ tiểu đoàn diệt tank 607. Mairy là chỗ trũng xung quanh những ngọn đồi. Mũi tiên phong Panther bắn thẳng vào ngôi làng từ chỗ đất cao vào khoảng 7h nhưng bị súng chống tank bắn trả và hai chiếc Panther bị loại khỏi vòng chiến đấu. Một đại đội lính thiết giáp định đột kích vào sườn hàng rào phòng thủ chống tank, xộc thẳng vào ngôi làng từ phía nam dọc theo đường Mainville trên những chiếc xe bán tải bọc thép 11 SdKfz 251 vào lúc 8h. Hai chiếc bị thổi tung ở cự li gần bởi bộ binh Mỹ dc hỗ trợ bằng pháo 105mm từ đại đội pháo cối, hai chiếc khác bị bắn hạ bằng súng bazoka bởi trung đội diệt tank, và hơn bốn chiếc khác bị bắn hạ bởi súng chống tank 3-in khi cố rút lui về phía bắc. Một phần đội hình chính gồm những chiếc tank Panther bị sa lầy trên đường thâm nhập vào ngôi làng vào khoảng 8h50. Chiếc Panther dẫn đầu bị tiêu hủy bởi một nhóm bộ binh , và trước khi đội hình tank này thoát ra khỏi rãnh lầy, nó bị một trinh sát của đơn vị pháo chiến trường 949 phát hiện và hướng thẳng hỏa lực vào đội hình. Hơn 300 phát đạn đại bác 155mm giã liên hồi vào đội hình, loại khỏi vòng chiến đấu 5 chiếc Panther và 20 chiếc xe bán tải. Trận chiến xung quanh Mairy khiến lữ đoàn thiết giáp 106 tổn thất 7 tank Panther và 48 xe bán tải.
Một lính Mỹ của sư đoàn bộ binh 90 đang kiểm tra khí tài của Đức tịch thu dc trong trận đánhvới lữ đoàn thiết giáp 106 xung quanh Mairy . Đây là 2 biến thể của loại xe bán tải bộ binh vũ trang tiêu chuẩn SdKfz 251 Ausf.D . Một chiếc là loại 251/21 phòng không vũ trang với súng 3 nòng 30mm MG 151 trên nóc bên trái. Chiếc bên phải là loại SdKfz 251/9 Stummel với pháo tầm gần 75mm
Cuộc tấn công vào Mairy đã bị bẻ gãy với sự hỗ trợ của tiểu đoàn diệt tank 607, vũ trang với súng chống tank M6 3-in. Trong hình là cảnh luyện tập của tiểu đoàn diệt tank 614 vào ngày 23/9
Sư đoàn bộ binh 90 là sư đoàn đóng ở phía Bắc trong tập đoàn quân của Patton suốt quá trình băng qua Moselle, là đối tượng của cuộc tấn công thiết giáp vào đêm 7/8 tháng 9 xung quanh Mairy. Sau khi đẩy lùi cuộc tấn công này, sư đoàn tiếp tục tiến về Thionville . Những người lính trong ảnh thuộc trung đoàn bộ binh 358 của sư đoàn đang ẩn dưới chiến hào thông với một lô cốt cũ của Đức có khắc dòng chữ ” Viel, fiend, viel Hier”- Nhiều quân địch , nhiều chiến công (ảnh US army)
Sự phá hủy lữ đoàn thiết giáp 106 vào 8/9/1944
Chiếc tank Panther của lữ đoàn thiết giáp 106 bị bỏ lại ở phía tây Metz sau trận đánh ở Mairy. Nó dc dẹp sang bên đường và gắn bảng hiệu bởi những người lính Mỹ. Những người lính trong hình thuộc sư đoàn số 5 chuẩn bị dời nó đi vào 10/1944
Vào ngày 10/9 ,một nhóm tuần tra lính của sư đoàn thiết giáp số 2 ở Pháp , đơn vị cuối phía nam của tập đoàn quân số 3 của Patton, gặp gỡ nhóm tuần tra của cụm tập đoàn quân số 6, vào thành sư ghép nối của quân Đồng minh từ biển Bắc đến tận Địa Trung Hải. Trong hình là tổ lái Pháp trong xe bọc thép M20 bắt tay với tổ lái Mỹ trên xe thiết giáp M8 thuộc tập đoàn quân số 7 của Mỹ trên những con phố của Autun. (us army)
Lính Mỹ kiểm tra đội hình bị phá hủy của sư đoàn thiết giáp số 4 ở phía tây Nancy, nước Pháp vào 10/9 trong giai đoạn đầu của chiến dịch Sông Moselle. Chiếc xe bán tải bọc thép M3A1 bị phá hủy bởi đạn trái phá với lỗ thủng lớn bên hông tiêu hủy chiếc xe. (ảnh US Army)
Cùng lúc đó, trận chiến đã đổi chỗ. Đại đội số 2 của trung đoàn bộ binh 359, đang tiến hành bịt kín lối thoát phía sau lưng quân Đức. Với việc đội hình bên trái bị phá hủy trong cuộc tấn công yểu mệnh vào Mairy, đội cánh phải phân tán và bị sập bẫy. Bộ chỉ huy sư đoàn 90 được tăng cường bởi những chiếc tank của tiểu đoàn tank 712, trong khi tiểu đoàn tank số 3 của trung đoàn bộ binh 359 chiếm giữ thị trấn Bonlivier và đặt chốt chặn trên đường từ Auduns đến Langres .
Vào lúc 9h35, chỉ huy của đội hình tấn công số 1 yêu cầu dc phép rút lui. Điều này dc chấp nhận và mũi tấn công số 1 nhận được cam kết hỗ trợ từ mũi tiến công số 2 mà lúc này chưa chạm trán quân Mỹ. Đội hình này rút sớm về phía tiểu đoàn số 1 -trung đoàn bộ binh 359 gần Avril, dc hỗ trợ bởi đại đội pháo chống tank 3-in. Một đợt tấn công thực hiện bởi lính cơ giới thiết giáp bị bẻ gảy sau khi hai chiếc tank Panther IV/70 bị tiêu diệt và 4 xe bán tải bị phá hủy. Đội hình này rút lui sau đó.
Vậy là mũi tấn công số 1 giờ đây bị mắc kẹt trong vòng vây bộ binh Mỹ. Một loạt các đợt tấn công làm xé toạc đội hình ,và phần còn lại của đội hình này hoàn toàn bị tiêu diệt. Vào cuối buổi chiều, lữ đoàn 106 đã chỉ còn một phần tư sức mạnh, chủ yếu ở mũi tiến công số 2 vốn chiến đấu ít hơn. Tổng số 764 lính bị bắt, bao gồm cả chỉ huy trưởng của trung đoàn Panther, và rất nhiều lính chết. Lữ đoàn tổn thất hầu hết trang bị, bao gồm 21 tank và tank destroyer, 60 xe bọc thép Sdkfz, và 251 xe bán tải , và hơn 100 xe hỗ trợ. Chỉ còn 9 trong tổng số 47 tank và tank destroyer sau khi trận đánh kết thúc. Trong những ngày tiếp theo khoảng 17 chiếc tank và 9 chiếc Jagdpanther phục hồi và trốn về biên giới Đức cùng một bộ phận lính cơ giới. Những chiến thuật dùng ở phía đông đã chứng minh là vô dụng ở phía tây, và lữ đoàn gần như bị xóa xổ mà ko cho thấy hiệu quả chiến đấu gì.
Báo cáo của các đơn vị Đức cho thấy sự than phiền về yếu kém trong công tác trinh sát mặt trận, nhưng Baker mất quyền chỉ huy hiệu quả vào sáng sớm khi các đội hình bị phân tán trong vùng đồi núi. Trinh sát pháo binh của Mỹ báo cáo rằng Đức có vấn đề về thông tin liên lạc, và rằng họ có thể thấy dc những tổ lái thiết giáp Đức chạy từ chiếc tank này qua chiếc tank khác để chuyển thông điệp ngay cả giữa lúc bị pháo kích dữ dội. Điều đáng chú ý tương tự là phản ứng tấn công của người Mỹ : lịch sử sư đoàn lướt sơ qua việc hủy diệt lữ đoàn thiết giáp như là cuộc chạm trán bình thường, và tập trung sự chú ý vào trận chiến đẫm máu trên đường phố Thionville sau đó trong cùng tháng, thật sự thì trận đánh xung quanh Mairy về cơ bản đã tiêu diệt một trong bốn lữ đoàn thiết giáp tham gia cuộc phản công ở Lorraine.
Về phía nam, một đầu cầu vượt sông Moselle chỗ nước nông dc sư đoàn bộ binh số 5 thiết lập gần Dornot vào 8/9 nhưng bị chặn lại giữa chừng chỗ pháo đài St.Blaise. Đối mặt với lực lượng đáng gờm của sư đoàn cơ giới SS 17 , người Mỹ phải rút lui vào 11/9, nhưng cùng lúc đó, một đầu cầu khác rộng hơn và hữu dụng hơn dc thiết lập ở phía đối diện với Arnaville. Các kỹ sư cố gắng dựng một cây cầu vượt sông Moselle để hỗ trợ đầu cầu vượt sông đang nguy hiểm vì nằm trong tầm pháo của Đức chỉ dưới 3 dặm từ pháo đài Dariant. Vào ngày 13/9, pháo từ Driant bắn giã tới tấp phá hủy một phần lối vượt sông ở chỗ nước nông ,đánh sập cây cầu phao đang sắp sửa hoàn thành. Patton hy vọng sư đoàn thiết giáp số 7 vẫn có thể vượt sông tiến về phía nam thành phố, sau đó tiến về hướng đông bắc để bao vây nó. Dù vậy, sư đoàn thiết giáp số 7 đã tấn công bế tắc vì gặp phải sức kháng cự mạnh mẽ của quân Đức , cùng lúc đó những cây cầu chính yếu bị phá hủy, và các công sự tỏ ra rất kiên cố cũng như thời tiết mưa lớn làm giảm sự cơ động của xe tank vì kẹt trong bùn đất lầy lội
Vượt sông Moselle
Trong khi quân đoàn XX của Walker bị mắc kẹt trong nỗ lực giải cứu những đầu cầu vô dụng gần Metz, quân đoàn XII của Eddy thành công hơn nhiều tại ở các thị trấn dọc sông Moselle , tại thủ phủ Nancy. Eddy quyết định tấn công vào Nancy. Thành phố này ko phải là một pháo đài nhưng công sự De Haye gần đó cũng như cao độ của dãy đồi Grand Couronne ở hướng vào phía đông thành phố khiến nó trở thành muc tiêu khó khăn. Để thay thế, Eddy tiến quân vòng qua thành phố ở phía bắc và phía nam. Tại phía bắc Nancy, các tổ chiến đấu của sư đoàn bộ binh 80 định thiết lập lối băng qua tại Pont-a-Mousson vào 5/9. Dù đã thiết lập dc một đầu cầu, một cuộc phản công sư đoàn bộ binh cơ giới số 3 Đức đã chôn vùi lực lượng nhỏ này. Người Đức vẫn giữ vững bờ đông của Moselle tại nhiều cứ điểm, và mấy ngày sau đó sư đoàn bộ binh 80 cố gắn đẩy lùi họ ra khỏi bờ đông để chuẩn bị cho chiến dịch vượt sông. Sự phòng thủ của Đức bởi trung đoàn không quân mặt trận 92 và trung đoàn lính dù rất ngoan cường và họ ko rút lui cho đến tận 10/9.
Sư đoàn bộ binh 80 gặp nhiều khó khăn khiến Eddy chuyển hướng sang phía nam, sử dụng sư đoàn bộ binh 35. Kế hoạch là tăng cường cho sư đoàn bộ binh số 4 để bao vây Nancy một khi đầu cầu đã dc thiết lập. Đây là một quyết định gây tranh cãi, vì khu vực phía nam thành phố dc đan xen bởi nhiều sông ngòi và kênh rạch. Cuộc tấn công dc ấn định vào 10/9, bắt đầu bởi trung đoàn bộ binh 134 điều động một đại đội vượt một cây cầu còn nguyên vẹn vào sáng sớm. Người Đức cố gắng đánh bom cây cầu, và cuối cùng pháo cũng đánh sập vài nhịp cầu vào sáng ngày 11/9. Cuộc phản công dc thực hiện bởi lực lượng của Sư đoàn cơ giới số 15, đã đánh sập hoàn toàn cây cầu. Trong khi đó , trung đoàn 134 cũng thiết lập dc vài đầu cầu nhỏ cho đến cuối ngày. Đội CCB (Combat Command B) của sư đoàn bộ binh số 4 nỗ lực chiến đấu gần Bayon, và một số tank của đại đội số 8 cố vượt qua kênh bayon và bốn con suối nhỏ khác. Vào tối 11-12/9 , trung đoàn 137 gặp dc đội quân thiết giáp này gần Lorey. Một đại đội của sư đoàn bộ binh cơ giới 15 Đức cố phản công với sự hỗ trợ của xe tank nhưng bị phục kích và tiêu diệt.
trung đoàn bộ binh 134 thuộc sư đoàn 35 băng qua chỗ nông của con sông Madon gần Pierrerville cách 5 dặm từ Moselle. Điều hiếm thấy là những khẩu súng chống tăng 57mm của trung đoàn dc chở bằng xe 3/4 tấn chứ ko phải kéo.
Lối vượt sông Moselle đầu tiên thành công dc thực hiện bởi trung đoàn 137, sư đoàn bộ binh số 35 , đã vượt qua hàng loạt các cứ điểm phòng thủ của lữ đoàn cơ giới 104 Đức tại Neuviller phía nam kênh Bayon cuối buổi chiều ngày 11/9. Các kĩ sư cuối cùng cũng dựng dc cầu phao băng sông và trong ảnh là một chiếc tank destroyer M10 đang vượt sông
Một nhóm trinh sát pháo túm tụm trong nhà trại bằng đá ở Pont St Vincent vào ngày 11/9 suốt chiến dịch vượt sông gần Bayon. Trung đoàn bộ binh 134 giữ sườn phải của chiến dịch tại Pont St Vincent nơi nhánh sông Maydon chảy vào sông Moselle.
Vào thứ tư ngày 12/9 cả Patton và Hodges đều dc gọi về bộ chỉ huy của Bradley ở Dreux. Tình trạng hậu cần lại bị khủng hoảng lên tới đỉnh điểm và Bradley cảnh cáo thuộc cấp rằng các chiến dịch chắc chắn phải chậm lại . Hodges ước tính ông ta chỉ có số hậu cần đủ để chiến đấu kịch liệt trong hơn 10 ngày và ngày tiếp theo quân đoàn số 7 của ông ta sẽ đánh bật quân Đức khỏi các vị trí tiền tiêu trên đường tiến vào Aachen. Patton ước tính ông ta chỉ còn đủ đạn dược cho 4 ngày, nhưng đủ nhiên liệu cho phép tới tận Rhine sau khi đã chiếm dc vài kho bãi của Đức. Bradley cảnh báo Patton ông ta chỉ còn hơn hai ngày để vượt sông Moselle với lực lượng tại chỗ ở Metz-Nancy, và nếu ông ta ko thể làm dc điều đó tập đoàn quân số 3 của Patton phải vượt qua sự phòng thủ từ Moselle đến tận biên giới Luxembourg. Trong khi nhiên liệu phân phối cho tập đoàn quân số 3 đã đạt mốc 400.000 galon cho 2 tuần vừa rồi của tháng 9, vào cuối tháng 9 họ sẽ bị cắt giảm xuống 270.000 galon không tính các quân đoàn bổ sung.
Với việc quân đoàn XX của Eddy bị mắc kẹt trên đường tiến vào Metz, Patton dồn hy vọng vào quân đoàn XII và trọng trách của sư đoàn số 4. Tuyến hậu cần lại bị kéo dãn và tình huống bây giờ khủng hoảng cực điểm. Braley cảnh báo Patton rằng Montgomery đang gây áp lực để dc ưu tiên nhận hậu cần cho cụm tập đoàn quân 21 phía bắc của ông ta và hàng tiếp tế ngày càng khan hiếm hơn. Cuộc họp khiến Patton chỉ thị cho Eddy phải dưt điểm việc bao vây Nancy.
Với việc đầu cầu phía nam Nancy đã dc bảo đảm, quân đoàn XX của Eddy cố gắng hơn để thiết lập đầu cầu ở phía bắc. Sau khi bị đẩy lùi gần Mont-a-Mousson ,ông ta chuyển sự chú ý sang khu vực gần Dieulouard. Cũng giống như nhiều bãi khác dọc đoạn nối dài của con sông, bãi này là một khu vực khá bằng phẳng. Lối vượt sông này vốn đã dc chú ý từ thời Celtic, còn lại một pháo đài từ thời La Mã và một pháo đài-nhà thờ trung cổ. Rạng sáng 11/9 hai đại đội của sư đoàn bộ binh 80 bắt đầu vượt sông , leo lên bãi đất cao bên kia con sông. Người Đức phản công vào 1h ngày 13/9 bằng một đại đội từ sư đoàn cơ giới số 3 với 10 pháo tự hành StuG III. Trong cuộc chiến dữ dội lúc nữa đêm, cuộc phản công đẩy lùi quân Mỹ lui 100 yard về phía sau những cây cầu vào lúc 5h nhưng cùng lúc đó một đại đội tank hạng trung M4 của tiểu đoàn tank 702 tiến lên giao chiến với đội hình thiết giáp Đức trong khoảng cách tầm 200m. Đầu cầu này đã sắp sửa hoàn thành và các công binh vẫn cố thủ hết sức ở bãi vượt mà họ đã dựng những cây cầu. Vấp phải sự chống cự mạnh của quân Mỹ , đà tấn công của quân Đức đã bị chận lại.
Trước khi người Đức phản công, thiếu tướng John P Wood phụ trách sư đoàn bộ binh số 4 đã quyết định đưa tổ chiến đấu CCA vượt sông nhằm bắt đầu vòng vây thứ hai bao vây Nancy bắt đầu bởi cánh quân của tổ CCB ở gần Bayon. Dẫn đầu bởi 8 chiếc xe thiết giáp M8 của trung đội trinh sát kị binh số 25, họ vượt qua đầu cầu phía đông vào lúc 4h trong lúc trận chiến tại bờ đông vẫn đang tiếp diễn. Sĩ quan phụ trách vẫn chưa cho kị binh vượt sông tới tận 6h15 vì lo sắp xếp đội hình pháo binh. Sau khi vượt cầu, các xe thiết giáp xông thẳng vào đội hình bộ binh Đức trước khi buộc phải dừng lại bởi những khẩu súng Stug III từ các công sự. Một nhóm chỉ huy tác chiến dc thành lập tại bờ đông bao gồm cả tướng Eddy chỉ huy quân đoàn, đại tá Bruce Clarke chỉ huy tổ CCA. Eddy nghi ngờ khả năng có thể triển khai một lực lượng cơ giới tại đầu cầu nhỏ này, đặc biệt trong khi Đức chống cự rất ác liệt. Clarke thì ngả theo ý kiến của vị chỉ huy cộc cằn của tiểu đoàn tank 37, trung tá Creighton Abrams , người phát biểu câu : “Đó là cách nhanh nhất để về nhà! ” . Vì vậy kế hoạch dc tiếp tục triển khai mà ko màn tới hỏa lực của Đức.
Vành đai phòng thủ của Đức ở khu vực này là kiên cố, và tổ CCA mở đường tiến lên trong khi bị bộ binh Đức tấn công gần Dieulouard với vài tổn thất. Sau khi vượt dc vành đai phòng thủ này, những chiếc tank tăng tốc tiến sâu vào hậu phương phía sau quân Đức tới thằng Chateau-Salins , tiêu diệt 12 xe bọc thép của Đức, 85 xe cộ các loại và vài ổ pháo trong suốt quá trình. Vào cuối ngày lực lượng thiết giáp này đã vào sâu trong vành đai phòng thủ của Đức và đe dọa bao vây toàn bộ Nancy. Sư đoàn đã ghi nhận như sau : ” Việc tiến quân thần tốc của đội CCA xuyên qua tuyến phòng thủ đã phá vỡ lực lượng Đức thành những nhóm nhỏ tản mác sợ hãi, không còn mục tiêu chiến đấu dù vẫn đóng quân tại chỗ.”
Những chiếc tank của tiểu đoàn tank số 8 ,tổ CCB, sư đoàn bộ binh số 4 tìm dc vài chỗ nông vượt qua kênh Bayon ko cần cầu. Tiểu đoàn tank số 8 hay dùng lá cây ngụy trang cho những chiếc tank của mình, trong hình là chiếc tank hạng trung M4
Một chiếc M4 vượt kênh Bayon tại chỗ nông lầy lội vào 12/9/1944. Quân Mỹ dùng súng 75mm bắn đổ bờ dốc đê dựng đứng để xe tank có thể vượt qua
Tiểu đoàn tank số 8 vượt kênh Bayon nhờ vào mực nước thấp ở một số bãi. Bên trái là chiếc xà lan mắc cạn trong bùn còn bên phải là chiếc tank M4 mới với súng 76mm, loại xe này ko phổ biến trong sư đoàn số 4 vì Patton thấy nó ko cần thiết
Câu trả lời của người Đức
Blaskowitz nhận ra mối nguy hiểm từ mũi đột phá thiết giáp này và đẩy lực lượng tiến lên chặn đứng đầu cầu nhằm cắt đứt đội CCA của Mỹ. Cuộc chiến đấu dữ dội xảy ra trong các khu rừng và ngọn đồi gần chỗ đầu cầu vượt sông bởi cuộc phản kích của lữ đoàn thiết giáp số 3 và 15 của Đức trong 2 ngày sau đó. Những cuộc tấn công này bị đẩy lùi bởi sư đoàn bộ binh 80, và tới ngày 16/9 người Đức đã chịu nhiều tổn thất nặng nề. Quá mạo hiểm để các lực lượng chính ở Nancy bị bao vây, Blaskowitz cho phép các đơn vị ở Nancy rút quân vào 13/9 và việc đánh mất các đầu cầu đã dẫn tới sự thất thủ của thành phố vài ngày sau đó. Nó bị chiếm lĩnh bởi sư đoàn bộ binh 80 với sự hỗ trợ của quân du kích Pháp vào ngày 15/9.
Người Đức phản ứng lại tuyến băng qua kênh Bayon bằng hàng loạt cuộc phản kích, trong đó có trận tấn công nhanh của lữ đoàn thiết giáp 15 gần Mehocourt , trong đó 1 tank M4 của Mỹ bị phá hủy, trong ảnh là một quân y đang chăm sóc lính tank bị thương trên chiến trường
Lối vượt sông Moselle ở phía bắc gần thị trấn Dieulouard, khu vực phức tạp đen xen bởi các nhánh của sông Moselle. Trong hình là chiếc tank ủi đất M4 đang dọn dẹp một nhánh sông nhỏ vào 12/9
Bộ binh của sư đoàn 80 vượt sông Moselle ở Dieulouard vào 12/9 . Ngày hôm sau các công binh dựng cầu phao ở vị trí thuận tiên cho xe cơ giới vượt sông
Kế hoạch phản công bằng thiết giáp của Hitler đã bị trì hoãn suốt 2 tuần đầu của tháng 9. Ý đồ ban đầu là bắt đầu tấn công từ Pontalier ở biên giới tây bắc Thụy Sĩ tới Plateau de Langres nhằm cắt đứt mũi tiến công của quân Mỹ tiến về Belfort Gap và ngăn chặn sự kết nối của tập đoàn quân số 3 và tập đoàn quân số 7. Cuộc tấn công bao gồm 7 sư đoàn cơ giới và 3 lữ đoàn thiết giáp với hơn 3 lữ đoàn thiết giáp tăng viện. Ngày tấn công dc ấn định vào 12/9 nhưng đã trở nên không thể và vào 2 tuần sau của tháng 9 quân Đức rút lui sau khi quân Mỹ tiến gần Dijon , nơi chiến trường dự kiến của cuộc phản công theo kế hoạch , điều đó khiến kế hoạch của Hitler trở nên vẫn mãi ko thể thực hiện dc.
Vào ngày 10/9, Patton lại bị gọi về bộ chỉ huy trung tâm, kế hoạch của Hitler có vẻ như đã thay đổi với mũi tấn công xuất phát từ Plateau de Langresv à Epinal tới Riems nhằm cắt đứt tập đoàn quân số 3 của Patton trong khi nó đang mắc kẹt với cuộc chiến dọc sông Moselle. Mũi tiến công của quân Mỹ đe dọa tạo thành lỗ hổng giữa tập đoàn quân số 1 và số 9 của Đức, cho phép các đội hình xe tank Mỹ có thể tràn vào lòng chảo Saar vượt qua biên giới nước Đức. Dù mục tiêu nhắm đến là chận đứng tập đoàn quân số 3 của Patton, song các sĩ quan thực tế hơn trong bộ chỉ huy của Blaskowitz chỉ huy vọng cuộc tấn công sẽ chặn dc sự gẫy vỡ của tập đoàn quân số 1 và 19 và bảo vệ khu vực núi Vosges cho đến khi tuyến phòng thủ mới mang tên “Vosges Outpost ” dc thành lập.
Đầu cầu tại Dieuloard là chiến trường khốc liệt vào 13/9 khi lữ đoàn thiết giáp số 3 và 15 cố gắng phá hủy nó. Đầu cầu dc giữ vững và là tuyến đường cho tổ CCA của sư đoàn số 4 tiến về Arracourt. Trong ảnh là các tù binh Đức bị dẫn qua thị trấn vào buổi chiều, sau khi cuộc tấn công bị đẩy lùi
Việc phá những cây cầu có thể làm chậm nhưng ko ngăn dc đối phương vượt qua sông khi họ có chuẩn bị trước. Trong hình là chiếc tank m4 đang vượt sông bằng cầu tạm trong khi ở phía sau là một cây cầu đã bị phá hủy. Chỉ huy của tổ CCA, sư đoàn bộ binh số 4, đại tá Bruce Clarke là kỹ sư cầu đường của Mỹ trước chiến tranh.
Đầu cầu phía nam ở Metz trong khu vực của quân đoàn XX chứng tỏ hơn các khu vực khác của Nancy với bãi vượt sông trong tầm pháo từ pháo đài Driant . Vào ngày 12/9 một cây cầu lớn dc hoàn thành gần Arnarville , cho phép đội CCB của sư đoàn số 7 chi viện cho bộ binh bao vây ở bờ đông. Đây là chiếc xe sửa chữa M32 đang vượt cầu vào ngày 13/9
Người Đức phá hủy hầu hết các cây cầu trên sông Moselle, dù vậy những ngày tiếp theo sau khi vượt sông thành công , các công binh sử dụng lại các trụ cầu này để làm lối vượt sông dã chiến. Trong hình là tổ quân y vượt sông gần Arnarville vào 21/9
Manteuffel có mặt ở trung tâm chỉ huy Cụm tập đoàn quân G vào ngày 11/9 và dc báo cáo vắn tắt về tình huống chiến sự hiện tại. Tập đoàn quân thiết giáp số 5 trên thực tế khác xa với tưởng tượng của Hitler và Manteuffel bắt đầu cảm thấy kế hoạch phản công này là một “hy vọng hão huyền”. Vấn đề càng tồi tệ hơn khi tập đoàn quân số 1 của Mỹ tấn công từ Bỉ đã tiến sát tới Aachen, thành phố lớn đầu tiên của Đức đang bị đe dọa ở phía tây. Rundstedt đang rút bớ lực lượng từ mọi nơi về tăng cường cho khu vực này. Hai lữ đoàn thiết giáp dc chuẩn bị cho cuộc phản kích ở Lorraine , lữ đoàn 107 và 108 dc rút về Aachen ngay lập tức và ngày phản công trì hoãn lại tới 15/9. Dẫu vậy, Hiter vẫn rất cương quyết, ấn định ngày phản công ko trễ hơn thời hạn trên, dẫu cho chỉ có một phần biên chế lực lượng sẵn sàng vào thời điểm đó.
Các đơn vị của tập đoàn quân thiết giáp số 5 bao gồm : Sư đoàn thiết giáp số 21 từ lực lực trù bị của bộ tổng chỉ huy mặt trận phía tây- đang dc tái trang bị ở Molsheim , sư đoàn cơ giới thiết giáp 15 – đang dc đưa ra để đối đầu với tập đoàn quân số 1, các lữ đoàn thiết giáp số 106, 111 ,112 và 113. Tập đoàn quân thiết giáp số 5 dc cơ cấu về bộ chỉ huy của quân đoàn thiết giáp 47 tại Remiremont, và quân đoàn thiết giáp 57 dc thành lập vào ngày 18/9 tại Langguimberg. Việc chỉ huy và điều khiển quân đoàn này rất khó khăn vì nó ko tập trung ở một mặt trận mà chia xẻ quyền kiểm soát với tập đoàn quân số 1 và tập đoàn quân 19. Vì không đủ đường dây điện thoại liên lạc để hỗ trợ cho các trung tâm chỉ huy riêng rẽ nên tập đoàn quân số 5 phải chịu cảnh xếp sau các đơn vị khác. Sau lúc lữ đoàn thiết giáp 106 bị hủy hoại trong cuộc tấn công của sư đoàn bộ binh 90, Hitler ra lệnh ko dc dùng bất cứ đơn vị dự trữ nào cho cuộc phản công ở Lorraine để đem ra chiến đấu với quân Mỹ nữa. Dù vậy, trước khi kế hoạch sửa đổi của Hitler có hiệu lực, những cuộc tấn công của quân Đồng minh vào khu vực mới đe dọa địa bàn của cuộc phản công này.
Với việc đội CCB của sư đoàn 4 và sư đoàn bộ binh 35 đã vượt qua sông Moselle, những chiếc tank bắt đầu bao vây xung quanh thủ phủ Nancy. Trong hình là chiếc tank M4 của tiểu đoàn tank 737 khai hỏa vào các công trình gần Dombasle, dọc theo sường trái của mũi tiến công vào 15/9 để hỗ trợ cho sư đoàn bộ binh 320 đang vượt một con kênh gần đó.
Hai lính Mỹ của sư đoàn bộ binh 35 đang dùng cafe và bánh rán tại một trung tâm chữ thập đỏ bên ngoài Nancy vào 19/9/1944 .Lực lượng đặc nhiệm Sebree tiến vào Nancy vào 15/9 và nhận thấy thành phố đã bị quân Đức phá hủy trước khi rút lui.
Cuộc chiến vào cuối tháng 9 ở Lorraine dc tô điểm bởi mưa dầm và bùn lầy. Nó là một trong những tháng 9 có mưa nhiều nhất, và các cánh đồng đầy bùn lầy lội. Trong hình là chiếc jeep của tiểu đoàn 134 – sư đoàn bộ binh 35 gần Nancy
Thảm họa ở Dompaire
Trong khi quân đoàn của Eddy và Hodges lập dc các đầu cầu ở Nancy, tập đoàn quân số 3 của Patton dc bổ sung thêm quân đoàn thứ 3 , quân đoàn XV của thiếu tướng Wade Haislip .Nó tách khỏi tập đoàn quân số 3 suốt chiến dịch vượt sông Seine và tái nhập trở lại để bảo vệ sườn phải của Patton ở Lorraine. Trong cuộc tấn công ở Nancy, sườn phải dc bỏ trống vì sức kháng cự yếu của Đức. Nhưng vào thời điểm này, khi cụm tập đoàn quân số 6 đang tiến về phía bắc sau khi đổ bộ xuống miền nam nước Pháp và di chuyển dọc theo biên giới Thụy Sĩ đến tiến đến Belfort Gap. Ngay trước khi cụm tập đoàn quân số 6 tiến sát với tập đoàn quân số 3, các lực lượng Đức đã tấn công vào lỗ hổng giữa 2 đơn vị này và yêu cầu bảo vệ cánh sườn trở nên cấp bách. Đợt tuần tra của sư đoàn cơ giới số 2 Pháp, đơn vị cực nam của quân đoàn XV, đã gặp nhóm tuần tra của cụm tập đoàn quân số 6 vào ngày 10/9 phía tây Dijon , tạo nên vòng đai nối kết các lực lượng Đồng minh từ biển Bắc đến Địa Trung Hải.
Vào 11/9, quân đoàn XV của Haislip tiến đánh quân đoàn 64 khá yếu của Đức và đẩy lùi họ về sông Moselle, Mũi tiên phong của quân đoàn XV là sư đoàn cơ giới số 2 Pháp, dưới quyền vị chỉ huy huyền thoại Jacques Leclerc. Sư đoàn này là sư đoàn đầu tiên của nước Pháp tự do, và là đơn vị duy nhất hoạt động độc lập khỏi quân đoàn Pháp số 1 của Lattre. Sư đoàn này đầu tiên phục vụ trong quân đoàn XV ở Normandy ,Lattre đánh giá cao phong cách chỉ huy dữ dội của vị chỉ huy nói tiếng Pháp Haislip nhưng lại có vấn đề khi dc điều động sang quân đoàn V của thiếu tướng G.T. Gerow khi giải phóng Paris. De Gaulle muốn giữ sư đoàn của Leclerc ở lại Paris để làm đối trọng với những du kích quân cộng sản nhưng Leclerc ko thoải mái khi làm thuộc cấp của vị tướng thời Vichy như Lattre đạt dc sự chấp thuận trở về quân đoàn của Haislip. Bản thân Haislip cũng rất hài lòng vì sư đoàn của Leclerc thuộc loại tốt nhất trong các đơn vị Pháp cấu thành chủ yếu từ các đơn vị tình nguyện Phi Châu dày dạn chiến trận. Trong khi sư đoàn bộ binh 79 Mỹ đang cầm chân sư đoàn bộ binh 16 của Đức trong cuộc chạm trán trực tiếp , sư đoàn cơ giới số 2 gửi đội Combat Command Langladecủa mình dưới quyền chỉ huy của đại tá Paul Girot Langlade (Pháp đặt tên đội CC của mình theo tên chỉ huy ) tiến đến lỗ hỗng giữa hai đơn vị Đức là Kampfgruppe Ottenbacher và sư đoàn bộ binh 16.
Đội hình cơ giới Pháp nhanh chóng luồn ra phía sau quân Đức và đe dọa bao vây họ. Bất chấp mệnh lệnh của Hitler phải giữ các lữ đoàn cơ giới cho cuộc phản công, Blaskowitz cảm thấy việc bảo vệ phòng tuyến an toàn quan trọng hơn việc giữ những chiếc tank quý báu cho cuộc phản công mờ mịt kia . Ông ta ra lệnh cho Manteuffle đưa lực lượng của mình đến khu vực phía tây Epinal để ngăn chặn sự sụp đổ hoàn toàn của quân đoàn 64. Kế hoạch là sử dụng lữ đoàn thiết giáp 102 của đại tá von Usedom và nhóm chiến đấu của sư đoàn thiết giáp 21 để quét sạch khu vực phía sau bị thâm nhập bởi đội hình quân Pháp. Lữ đoàn thiết giáp tiến vào Epinal theo 2 nhóm : những chiếc Panther của trung đoàn thiết giáp 29 đến thị trấn Dompaire vào đầu buổi tối ngày 12/9 , và những chiếc tank của trung đoàn thiết giáp 2112 đến thẳng Darney.
Mìn là mối đe dọa thường trực và gây nên tổn thất 1/4 số tank của Mỹ trong cuộc chiến. Chiếc M4 (76mm) của tiểu đoàn 749 bị phá hủy gần Charmes vào 12/9 trong cuộc chiến giữa sư đoàn 79 Mỹ và sư đoàn bộ binh 16 của Đức. Trong khi quân Mỹ ngăn chặn người Đức tiến chiếm thì sư đoàn số 2 Pháp gửi tổ CC luồn sâu vào chiến tuyến đối phương làm bùng phát trận đấu tank ở Dompaire
Một chiếc tank Panther nằm trong đống đổ nát sau trận đánh của sư đoàn cơ giới Pháp số 2. Một số lượng đáng kể tank bị mất trong trận này là do những chiếc phi cơ P-47 Thunderbolt của lực lượng ko quân hỗ trợ XIX TAC, vốn thực hiện 4 đợt đánh phá vào thành phố suốt cuộc chiến
Đơn vị RBFM (trung đoàn cơ giới của lính thủy đánh bộ) là tiểu đoàn diệt tank của sư đoàn cơ giới số 2 Pháp. Các đại đội của nó từng chia ra thành từng nhóm riêng biệt để tăng cường hỏa lực cho các đội hình xe tank khi đối đầu với các xe Panther của Đức. Tiểu đoàn dc thành lập ở Bắc Phi vào năm 1943 từ những người tình nguyện trong hạm đội của Pháp ,và các tổ lái vẫn duy trì kiểu mũ hải quân của họ. Trong hình là bộ trường hải quân Pháp Jacquinot đi thăm các tổ lái dc vinh danh sau trận đánh ở Dompaire
Đội hình GTL Langlade có tin tức tình báo tuyệt vời về sức mạnh và vị trí của lực lượng Đức từ những cư dân Pháp địa phương. Vào khuya 12/9 trung đoàn thiết giáp 29 sắp thành chuỗi dài trong sự lựa chọn kém cỏi về bị trí cắm trại trong lòng thung lũng ở phía tây trị trấn Dompaire, và ở phía đông là các thôn xóm Lamerey và Madone. Langlade quyết định tấn công vào đội hình này trước, dù lực lượng của mình mỏng hơn đối phương.
Đội hình GTL Langlade bao gồm bộ binh cơ giới từ trung đoàn March du Tchade (RMT) cộng thêm 2 tiểu đoàn tank , trung đoàn Chasseur d”Afrique (RCA) và trung đoàn Char de Combat (RCC). Lực lượng của Langlade chia thành 3 nhóm chiến đấu : nhóm Putz gần Darney, nhóm Massu và Minjonet
gần Dompaire. Mỗi nhóm có 15 tank hạng trung M4A2 nòng 75mm và một tank M4A2 nòng 76mm, 3 tới 4 tank destroyer M10 và 1 hay 2 đại đội bộ binh tùng thiết. Tổng lực lượng của Langlade kém hơn quân số của lữ đoàn 112 ít nhất một nửa số tank và bộ binh, nhưng Langlade có vị trí thuận lợi hơn cũng như pháo và không quân hỗ trợ mà người Đức hoàn toàn thua thiệt.
Nhóm Massu chiếm một ngọn đồi nhìn xuống Dompaire từ phía tây và tây bắc, còn nhóm Minjonet tiến thẳng trung tâm thị trấn với những cánh đồng trống để khai hỏa về phái đông. Nhóm của Massu chạm trán quân Đức đầu tiên, trong khi thăm dò về phía Dompaire vào tối 12/9 họ đụng độ ngắn với những chiếc Panther về phía đông nam thị trấn. Những chiếc M4 của quân Pháp rút lui vào khu rừng phía trên thị trấn sau khi mỗi bên mất một chiếc tank.
Quân Pháp chiếm địa hình bằng phẳng cách vài kilomet phía nam Dompaire, lưa thưa vài cánh đồng đang ứ đọng tuyết và các khu rừng rải rác. Nơi đây cung cấp vị trí thuận lợi tuyệt vời để khai hỏa xuống thị trấn bên dưới và hỏa lực của pháo bắn trực tiếp. Lính Pháp có kinh nghiệm và tôi luyện nhiều hơn quân Đức. Ví dụ như đội RCA này , trước khi dưới quyền Langlade , nó đã chiến đấu chống lại Tập đoàn quân Phi Châu của Đức trong chiến dịch ở Tunisia trên những chiếc tank Somua S-35, trước khi dc quân Mỹ tái trang bị và huấn luyện lại với tank M4 vào năm 1943-44. Các đơn vị khác thì dc rút ra từ các đơn vị Pháp ở Châu Phi . Ngẫu nhiên là những chiếc tank destroyer dc giao cho trung đoàn cơ giới lính thủy đánh bộ RBFM.
Như hầu hết các lữ đoàn thiết giáp khác, lữ đoàn 112 mới thành lập ,huấn luyện kém và chưa từng thử lửa ở chiến trường. Một cư dân Pháp khi nhìn đội hình những chiếc Panther đi qua Lamerey đến Dompaire vào buổi tối trước trận đánh đã báo rằng các tổ lái là ” trông như là trẻ em” . Người Pháp tưởng quân Đức sẽ tuần tra đêm nghiêm ngặt để thám thính vị trí quân Pháp . Thay vào đó lính Đức thoải mái ngồi trong các khu làng dưới trời mưa trong khi quân Pháp chịu đựng trên cánh đồng lầy lội, chuẩn bị cho trận chiến ngày hôm sau. Một sĩ quan Đức có tham gia trận đánh vào hôm sau đã báo cáo trước trận đánh rằng lính Đức đã ko đánh giá đúng kỹ năng chiến đấu của lính tank Pháp.
Trận đánh mở màn ở phía đông thị trấn. Những chiếc Panther đầu tiên thử thoát về phía nam Lamerey dựa vào địa hình đồi núi và các khu rừng. Một bộ phận các chiếc tank destroyer M10 ở vị trí che khuất thân xe chận đứng lối thoát này. Thêm vào đó là gần 250 phát đạn từ các khẩu đội pháo 105mm . Nhóm Minjonnet gởi một đại đội tank hạng nhẹ tiến vào Damas ở phía nam Dompaire, giao chiến dữ dội với bộ binh Đức trong các chiến hào.
Đêm trước đó, Langlade đã sắp xếp để nhận dc sự hỗ trợ của không quân Mỹ, và vào khoảng 8h ,Đại tá Tower nhân viên TALO (sĩ quan liên lạc không quân chiến thuật) từ XIX TAC di chuyển trên chiếc tank M4 trang bị radio đến vị trí chỉ huy của Massu ở ngọn đồi phía trên Dompaire. Ông ta hướng dẫn cuộc không tập từ những chiếc máy bay ném bom P-47s của Nhóm phi cơ ném bom 406 nhắm vào đội hình hàng dài những chiếc Panther trong khu vực giữa hai làng Lamerey và Madone. Trung đoàn thiết giáp 29 lập tức bị cào nát bởi hỏa lực của bom, rocket và súng máy. Lính Đức bắn trả bằng súng 20mm ko mấy hiệu quả. Một lính tank Pháp báo cáo rằng “khung cảnh ấn tượng và khủng khiếp nhất có thể hình dung dc ” Quan sát chiến trường của Pháp ước tính có 8 tank bị loại khỏi vòng chiến, nhưng khói mù mịt từ các ngôi làng khiến ước tính khó chính xác. Dưới sự hỗ trợ của không quân đội hình quân Pháp tiến vào các vị trí bao vây quân Đức trong các ngôi làng ko cho họ thoát ra các con đường gần đó. Những chiếc tank M4 của quân Pháp tiến vào phần phía tây Dompaire xuyên qua thôn Vilaville và tiến lên ngọn đồi hướng về Bouzemont để chiếm những vị trí trên những ngọn đồi phía sau quân Đức. Theo sau họ vào khoảng gần trưa là trung đội tank M10 . Những chiếc Panther giờ đây bị kẹp cả ba mặt.
Vào khoảng 10h lại có thêm một cuộc không kích thứ hai của những chiếc P-47s bay đến, và lần này nắng đã lên và bầu trời quang đãng . Có sự rối loạn đội hình khi những chiếc tank của Pháp thâm nhập vào những ngôi làng , và quân Đức sử dụng một số bảng nhận biết không quân của Đồng minh trên một số tank của họ. Sau khi tham khảo với TALO, đợt không kích bắt đầu. Dân làng Pháp sau đó báo cáo rằng đợt không kích khủng bố các tổ lái tank Đức thiếu kinh nghiệm đến nỗi một số tổ lái bỏ trốn và cố lấy cắp quần áo của cư dân địa phương để trốn thoát. Chỉ huy của trung đoàn thiết giáp 29 yêu cầu trợ giúp từ tiểu đoàn tank của một trung đoàn khác , trung đoàn 2112 ở Darney khi nó bị quét sạch trong lúc quân Đức bị bao vây.
Vị trí chỉ huy của Langlade đóng ở làng Vill sur Illon ,khu vực bằng phẳng phía nam Dompaire . Vào lúc 1h30, ông ta nhận dc một cú điện thoại từ một phụ nữ trong căn nhà nằm phía nam báo cáo rằng bà ta thấy khoảng 300 đến 400 lính cơ giới Đức cùng vài xe tank đi dọc thị trấn. Đây là nhóm tiên phong của đội giải cứu từ trung đoàn 2112 dc gọi từ cách đó vài giờ. Lực lượng gồm một tiểu đoàn lính cơ giới và một số tank PzKpwf IV của trung đoàn. Nhóm quân này di chuyển cực kì mạo hiểm vào giữa lòng đội hình chiến đấu của quân Pháp. Mũi tiến quân này ko chỉ đe dọa vị trí chỉ huy của quân Pháp mà còn kẹp nhóm Minjonnet ở Dompaire vào giữa những chiếc tank Đức. Tuy nhiên, quân Đức bất ngờ dừng lại để tìm kiếm và uống rượu anh đào trong các hầm chứa dọc lộ trình (khúc này thấy ko ổn- người dịch) . Cùng lúc đó Lagnlade gấp rút tổ chức phòng thủ cho vị trí chỉ huy bằng cách sử dụng một ít tank chốt chặn trên đường D6, tank destroy M10 và pháo kéo chống tank. Vào khoảng một tá các chiếc tank PzKpfw IV vào tầm của các chốt chặn, 2 chiếc dẫn đầu bị tiêu diệt bởi tank M4 trong tầm 200-300m, 3 chiếc khác bị xóa xổ bởi những chiếc M10 nấp kín. Bộ binh Đức sau lúc trì hoãn với việc giải khát, cuối cùng băng qua phía tây tiến về sườn phải vị trí quân Pháp. Khu vực này chỉ dc phòng thủ bởi 2 chiếc jeep vũ trang súng 30mm. Họ khai hỏa và táo bạo xông vào rừng bắn xối xả vào quân cơ giới Đức bằng súng máy. Việc này khiến quân Đức tạm thời rút vào khu rừng gần đó. Một nhóm xe bán tải từ đại đội công binh tiến đến hỗ trợ và bắt dc vài tù binh. Sau khi biết rõ cơ số của quân Đức từ tù binh bắt dc, Langlade di tản đồn chỉ huy của mình sang vị trí an toàn hơn gần với lực lượng chính ở Dompaire.
vào tuần thứ 3 của tháng 9, các đơn vị Đức ở Lorraine đối mặt với lực lượng bổ sung của Đồng minh khi cụm tập đoàn quân số 6 của Denver kết nối với tập đoàn quân số 3 của Patton. Đây là chiếc M4A1 của tiểu đoàn 191, bằng qua sông Moselle gần Arches vào ngày 21/9 ,một phần trong cuộc tấn công hủy diệt quân đoàn số 64 của Đức.
Trong khi trận chiến tiếp tục trên một khu vực rộng lớn, vào 15h30 thêm một đợt không kích thứ 3 của 6 chiếc P-47s vào Lamerey . Đợt không kích này gần như ko hiệu quả vì khó khăn trong liên lạc qua radio với TALO. Trung đoàn thiết giáp 29 thực hiện hàng loạt các đợt tấn công rời rạc và thiếu hiệu quả vào buổi chiều. Thường bao gồm 2 hay 3 chiếc Panther nắhm vào các vị trí yếu của quân Pháp. Đây là những vận động vô ích vì quân Pháp đã chiếm lĩnh những vị trí ngụy trang thấp và có thể hạ những chiếc Panther nặng nề bằng cách bắn vào hông ở cự li gần. Đợt thăm dò vào đầu buổi chiều gần tìm thấy một lỗ hổng, dc bảo vệ chỉ bởi 1 khẩu chống tank 57mm nhưng các tổ pháo 105mm phía sau đã kịp thời ngăn chận đợt tấn công này. Vì có những vị trí quan sát tối ưu từ khu vực trống trải, quân Pháo có thể pháo kích chính xác suốt ngày, ko màn tới thời tiết, và đợt không kích thứ 4 vào lúc 15h khiến một số chiếc Panther trong các thôn phía đông Dompaire bị đốt cháy hoặc bỏ phế.
Sau cả ngày tấn công thăm dò yếu đuối và vô dụng về khu vực trống trải phía tây và nam , trung đoàn 29 tổ chức một đợt tấn công mới về phía đông bắc, lên các vị trí đóng quân của quân Pháp trên các ngọn đồi phía sau Dompaire. Ba chiếc Panther đầu tiên chứng tỏ sự thiếu quyết tâm khi chiếc đầu tiên bị tấn công bởi một chiếc M10 ngoài tầm hiệu quả khoảng 1600m. Hơn hai đại đội Panther cộng thêm lính cơ giới xuất hiện sau đó. Một vài chiếc bị loại khỏi vòng chiến bởi tank diệt tank M10. Điều này gãy đợt tấn công và tiếp diễn tiếp vào lúc 6h30 với thêm 2 chiếc Panther bị phá hủy. Vào buổi tuối, những đợt tấn công dừng hẳn, và vào cuối ngày lữ đoàn thiết giáp 112 trở thành một lò sát sinh. Trung đoàn 29 hầu như bị quét sạch, mất 37 chiếc Panther và chỉ còn 4 chiếc hoạt động dc. Trung đoàn 2112 chỉ còn 17 trong số 45 tank PzKpfw IV và tổn thất nhiều bộ binh trong khu rừng gần Ville-sur-Illon.
Sáng hôm sau, nhóm Massu chiếm dc phía đông Dompaire, họ tìm thấy 4 chiếc Panther bị bỏ lại trên đường phố. Một đội chiến đấu hầu hết từ trung đoàn thiết giáp 192 dưới quyền đại tá von Luck từ sư đoàn thiết giáp 21 được gởi đến phía tây từ Epinal để nghinh địch. Nhưng ngay khi nó đến nơi, vào ngày 14/9 , Langlade đã dc tăng cường thêm nhóm chiến đấu thứ 3 , nhóm Putz. Nhóm chiến đấu của Von Luck gồm 17 chiếc tank và 240 bộ binh tấn công vào nhóm Putz từ phía đông gần Hennecourt với ý định ngăn chặn sự hủy diệt toàn bộ trung đoàn thiết giáp 29 ở Dompaire. Cuộc tấn công này bị pháo trung đoàn tập kích dữ dội và chấm dứt sau 1h giao tranh. Bộ chỉ huy quân đoàn thiết giáp 47 của Đức quyết định rằng tiếp tục tấn công là vô ích . Von Luck và phần còn lại của lữ 112 dc lệnh rút lui về phía đông Epinal, hy vọng phần còn lại có thể dc sữ dụng sau đó trong kế hoạch phản công. Những kẻ sống sót bầm dập từ lữ 112 dc biên chế vào sư đoàn thiết giáp 21. Chưa tới 2 ngày giao tranh ,lữ đoàn đã bị tiêu hao chỉ còn 21 tank trên tổng số 90 chiếc. Thương vong ước tính khoảng 350 chết và hơn 1000 bị thương. Trong 33 chiếc tank dc nhóm Massu tìmt thấy, có 12 chiếc bị hạ bởi hỏa lực của xe tank hay tank destroyer, 16 chiếc bởi không kích và 4 chiếc bị bỏ lại còn nguyên vẹn. Quân Pháp mất 5 chiếc M4, 2 xe bán tải và 2 jeep, 44 lính chết và 1 phi cơ P-47 bị bắn hạ.
Sự tiêu vong của lữ 112 chưa đầy 1 tuần sau khi lữ 106 bị đánh bại, về căn bản đã làm giảm sức mạnh xe tank của Manteuffel cho kế hoạch phản công. Tập đoàn quân thiết giáp số 5 giảm chỉ còn 2 lữ đoàn , phần còn lại của lữ 106 và 112 cùng với sư đoàn 21 vốn ko đầy đủ sức mạnh và thiếu xe tank. Vào tối ngày 17/9, quân đoàn 64 của Đức thu thập tàn quân và rút lui khỏi Moselle bỏ lại gần như toàn bộ sư đoàn bộ binh 16 đang bị quân Mỹ và Pháp bao vây. Cả 3 quân đoàn của Patton nay lại kết nối với nhau dọc sông Moselle và tiến thẳng về sông Mortagne, tiến vào phía nam Luneville.
Một lính Đức bị thương dc cán bởi lính của sư đoàn 45 gần Archettes sau khi tập đoàn quân số 7 vượt sông Moselle gần Arches vào 21/9. Một trong những người mang băng ca là tù binh Đức
ĐẤU TĂNG Ở ARRACOURT
Các mũi tấn công của Mỹ và Pháp vào khu vực của quân đoàn XV khiến Blaskowitz báo cáo với Rundstedt rằng dự định phản công bằng thiết giáp dọc bờ tây sông Moselle không còn khả thi vì quân Đức đã mất bàn đạp tại Plateau de Langres. E ngại việc trình diễn một “tinh thần tấn công” nghèo nàn mà Hitler đã lấy làm thước đo lòng trung thành với chế độ, Blaskowitz đã đề nghị một cuộc tấn công khả thi và giới hạn hơn. Bắt đầu từ khu vực Epinal đến phía đông bắc , thiết lập căn cứ cho chiến dịch tại Lunneville , và sau đó cắt đứt đơn vị tiên phong của mũi tấn công cơ giới của Patton là sư đoàn số 4 xung quanh Arracourt. Dự tính của Blaskowitz là dùng tập đoàn thiết giáp số 5 tấn công dứt điểm một mục tiêu rất giới hạn nhằm bít lỗ hổng giữa Tập đoàn quân số 5 và 19, dù nó dc trình bày hoành tráng hơn nhiều để thuyết phục sự kì vọng lớn lao của Hitler .
Rundstedt biết rằng tốt nhất nên thông qua việc sửa đổi kế hoạch của Hitler mà ông ta chính là tác giả và gởi kiến nghị đến OKW ở Berlin. OKW thông qua bản kế hoạch này tăng cường cho lực lượng của Manteffel thêm sư đoàn thiết giáp 11 và lưu ý thêm rằng lữ đoàn thiết giáp 107 và lữ 108 sẽ dc bổ sung vào thời điểm thích hợp do đích thân Hitler chọn. Trên thực tế thì lữ 107 và 108 sau đó dc đưa thẳng đến tham chiến ở Aachen.
Kế hoạch tấn công thiết giáp giờ đây dc ấn định ko trễ hơn ngày 18/9 dù có vẻ như sư đoàn 11 chưa thật sự sẵn sàng. Rundstet đã khiến chánh thanh tra thiết giáp mặt trận phía tây phải nhương bộ, tướng Horst Stumpff , ưu tiên dùng những chiếc tank mới cho cuộc tấn công, đặc biệt giành cho sư 11 vốn rất kiệt quệ. Vào ngày 16/9 các mệnh lệnh chi tiết cho cuộc tấn công dc ban hành. Manteffel kiến nghị rằng tập đoàn số 5 chưa đủ mạnh để thực hiện cuộc tấn công đầy tham vọng như vậy, nhưng ông ta dc lệnh dứt khoát phải tấn công vào ngày 18/9 .
Mục tiêu là tiêu diệt quân đoàn XII của Mỹ ở bờ đông sông Moselle bằng cách thiết lập căn cứ ở Luneville sau đó tấn công vào đầu cầu ở Mont-a-Mousson. Quân đoàn thiết giáp 58 sẽ tấn công về phía tây dọc theo bờ bắc con kênh Marne-Rhine vào sư đoàn 4 của Mỹ sử dụng lữ đoàn thiết giáp 113 và sư đoàn cơ giới 15. Quân đoàn 47 sẽ tấn công thẳng vào Luneville sử dụng lữ đoàn thiết giáp 111 và phần còn lại của lữ thiết giáp 112 cùng với sư đoàn cơ giới 11.
Mục tiêu ban đầu của quân đoàn 47 do Luttwitz chỉ huy là thị trấn Luneville . Tình trạng chiến trường xung quanh thị trấn này đầy biến động. Hai trung đội từ Nhóm kị binh 21- “những con ma của Patton” – đã có tiến vào thị trấn vào 15/9 nhưng bị đánh bật bởi sư đoàn cơ giới 15. Ngày hôm sau, trung đội kị binh 42 lại tiến vào Luneville tăng cường thêm xe tank từ đội CCB của sư đoàn số 4. Bộ binh Đức rút lui. Trung đội kị binh 42 ko chiếm thị trấn, nhưng thiết lập một loạt tiền đồn dọc phía đông nam. Vào tối 17/9 bộ binh Đức thâm nhập thị trấn và báo cáo nó đã lọt vào tay họ. Khi cuộc tấn công thiết giáp bắt đầu vào sáng sớm ngày 18/9/1944 ,Lutwitz nghĩ rằng Luneville vẫn trong tầm kiểm soát. Thay vào đó thì đội hình tấn công của lữ 117 tiến vào ngay vị trí của một tiền đồn của trung đoàn kị binh 42. Các xe chở pháo M8 75mm HMC của trung đoàn dc huy động hỗ trợ hỏa lực cho các thiết giáp hạng nhẹ M8 . Dù vậy, các khẩu pháo nhỏ trên các xe bọc thép này hoàn toàn ko hiệu quả khi đối đầu với lớp giáp dày phía trước của những chiếc Panther. Ba trong tổng số 6 chiếc HMC nhanh chóng bị phá hủy và các tank Đức ào lên phía trước. Dù vậy lính bộ Mỹ vẫn ngoan cường chống cự và cầm chân đợt tấn công đến 11h. Chỉ huy trung đoàn 42 hi sinh và chỉ huy của Nhóm kị binh số 2 cũng bị thương nặng. Dù đối phương đông hơn hằn song lực lượng kị binh vẫn đủ sức cầm chân quân Đức cho đến khi Nhóm kị binh số 2 rút khỏi Luneville gọi tăng viện. Đội CCA của sư đoàn 4 gửi một nhóm quân đến chi viện kết hợp với một bộ phận từ đội CCB của sư đoàn 6. Một cuộc giáp chiến xảy ra trong đường phố giữa tiểu đoàn diệt tank 603 và đội tiên phong cơ giới của Đức. Lực lượng tăng cường mạnh mẽ từ hai tiểu đoàn HMC M7 105mm và Tổ pháo chiến trường 183 giã đạn tấp cập vào lính Đức. Hỏa lực pháo mạnh mẽ này chận đứng quân Đức phía sau đường ray xe lửa ở khu vực phía nam thị trấn. Manteuffel lệnh cho lữ 117 rút khỏi thị trấn và tiến về phía Parroy để tiến tục cuộc tấn công chính.
Đội hình của nhóm kị binh 106 vượt qua một chiếc PzKpwf IV bị bay mất tháp pháo trên đường gần Luneville vào 20/9. Đó có thể là một chiếc tank của lữ 112 sau khi nó dc kết hợp vào sư 21 sau thảm họa ở Dumpaire và đạt dc một số thành công ngắn ngủi khi đối đầu với quân đoàn XV một tuần sau đó ở Luneville
Một trung úy của sư 79 gọi điện trên thùng đạn cối trong trận chiến ở Luneville vào 21/9. Thành phố Luneville là chiến trường gây nhiều tranh luận sau khi quân Mỹ chiếm đóng từ lúc sư đoàn cơ giới 15 của Đức tổ chức tấn công nó từ khu rừng Parroy lân cận
Trận đấu tank vào cuối tháng 9 tập trung xung quanh thị trấn nhỏ Arracourt, đây là bức không ảnh chụp ít lâu sau cuộc chiến. Trận chiến quan trọng nhất diễn ra xung quanh đồi 318, chính giữa bức ảnh, sát bên phải rừng Benamont nằm bên trái. Nhìn trong hình thấy hơi phẳng nhưng trên thực tế địa hình chập chùng thấp dần về phía dưới bức ảnh, xuối theo hướng đông nam
Một chiếc tank diệt tank M18 của tiểu đoàn diệt tank 603, đội CCB , sư đoàn cơ giới số 4 đang canh gác tại một giao lộ ở Rue Carnot trong thị trấn Luneville hướng về phía Frambois vào 22/9. Các xe của đơn vị này tham chiến một phần với lữ 111 vào 18/9
Chỉ huy của tập đoàn quân thiết giáp số 5 , tướng Hasso van Manteffel , trao đổi quyết liệt với đại tá Heinrich von Bronsart Schellendorf ,chỉ huy lữ đoàn 111. Schellendorf bị chết bởi hỏa lực súng máy trong trận chiến vào ngày hôm sau ở Juvelize
Vào cuối ngày đầu của cuộc tấn công, quân Đức đạt được một số thành quả, giữ được một phần Luneville, ngay trước khi mũi đột kích phía nam đạt dc mục tiêu Luttwitz nhận thấy sườn trái của mình bị đe dọa bởi sự tấn công liên tục của quân đoàn XV. Cũng có thêm áp lực từ Hitler và OKW thúc đẩy tiếp tục tấn công. Mục tiêu giờ đây lại thay đổi , Nancy trở thành mục tiêu đầu tiên thay thế cho Chateau Salins , để giải cứu các lực lượng Đức đang bị bao vây. (Hitler cũng ném thêm vài sư đoàn dự bị vào những quyết định bất cẩn này, và sau đó trở nên bị ám ảnh bởi việc giải cứu vài tiểu đoàn bị bao vây ở một khu vực khác).
Manteffel bị buộc phải thay đổi kế hoạch một lần nữa. Luttwitz dc lệnh tấn công các điểm phòng ngự sử dụng Sư đoàn cơ giới 15, sư đoàn thiết giáp 21 , và lữ 112, trong khi lữ 111 bổ sung vào quân đoàn thiết giáp 58, vốn đảm trách chủ yếu nhiệm vụ tấn công. Vào giữa đêm , Manteffel gọi điệm cho chỉ huy của quân đoàn 58, tướng Kreuger , bảo rằng lữ 113 phải sẵn sảng cho chiến dịch tấn công vào Arracourt , hoặc ông ta phải lãnh hậu quả trực tiếp. Tình trạng vô tổ chức và sự thúc ép tấn công dai dẳng từ Berlin khiến Manteffel phải xé nát và chuyển giao phân tán lực lượng của mình. Nhóm kị binh số 2 phòng thủ ngăn chặn trinh sát Đức không thể xác định rõ cách bố trí các lực lượng của sư đoàn 4 quanh Arracourt và không quân Đức cũng chứng tỏ vô dụng trong việc này. Manteffel phát động chiến dịch mà ko có tinh tức tình báo ,trầm trọng hơn nữa ở tư duy của cự binh phía đông khi tổ chức đợt tấn công xe tank ko cần trinh sát.
Phần Patton cũng chưa nhận thấy ngay là một cuộc tiến công lớn bằng thiết giáp đã bắt đầu . Không có dấu hiện tình báo nào rõ ràng từ phía Đức, và đợt tấn công ở Luneville quá yếu và rời rạc đến nỗi nó dc xem như là hoạt động nhỏ ở địa phương. Kế hoạch của Patton vào 19/9 là sư đoàn 4 tiếp tục tấn công về biên giới Đức. Đội CCB quét từ Delme đến Saabrucken trong khi đội CCA tấn công từ Arracourt đến Saareguemines. Vào tối 18/19 tháng 9 đã có nhiều báo cáo từ tiền tuyến về âm thanh các xe cộ của Đức.
Cuộc tấn công vào sáng sơm dc lên kế hoạch với 2 lữ đoàn , với lữ 113 tấn công phía đông các lực lượng tiền tiêu của đội CCA gần Lezey trong khi lữ 111 tấn công vào trung tâm Arracourt. Điều này cho phép quân Đức có lợi thế gấp bốn lần về thiết giáp trong các khu vực này. Diễn biến xay ra như sau , lữ 113 bị lạc lối trên đường trong cuộc hành quân ban đêm, người ta cho rằng là do nhận dc sự chỉ dẫn sai từ các nông dân Pháp, nhưng dù ko có lữ 113 thì lực lượng của lữ 111 vẩn có lợi thế gấp đôi về quân số.
Bình minh ngày 19/9 đến giống như mấy ngày trước đó với sương mù dày đặc trong các khu vực thấp. Vào khoảng 7h30, đại úy W. Dwight sĩ quan liên lạc đang di chuyển qua các tiểu đoàn trên chiếc jeep chạy ngay phía sau một đội hình tank Đức gần Moncourt. Trong sương mù dày đặc , anh ta ko bị chú ý và thoát về dc Arracourt , lập tức báo cáo cho chỉ huy tiểu đoàn tank 37 ,trung tá Creighton Abrams qua radio. Một nhóm tank nhẹ M5A1 từ đại đội D tiểu đoàn tank 37 cũng trạm chán đội hình này nhưng rút lui an toàn trong sương mù dày đặc và báo cáo về.
Đội hình Đức đó là đại đội tank Panther trong nhánh tấn công của đông của lữ 113 . Một trung đội tank hạng trung M4 từ tổ đại đội C, tiểu đoàn tank 37, đang chốt chặn một tiền đồn khi họ nghe các chiếc tank băng qua vị trí của mình. Một nhóm tank Panther hiện ra lù lù từ khoảng cách 75 yard từ vị trí của họ. Họ phản ứng ngay lập tức , 3 chiếc Panther bị hạ nhanh chóng. Trong hoảng loạn đội hình Đức bị vỡ trận và chạy về hướng tây nam. Các lính tank Mỹ tận hưởng lợi thế sự tương thích về địa hình và đại úy Lamison dẫn trung đội tank M4 đuổi bọc đầu đội hình đang rút lui của đối phương ở phía tây Benzage-la-Petite. Ngay khi 8 chiếc tank Panther sóng sót xuất hiện , 4 chiếc nhanh chóng bị hạ ở cự li gần vào bên hông. Trước khi quân Đức kịp phản ứng, những chiếc tank M4 di chuyển vào phía sau các đồi dốc. Trong màn sương mù, các tổ lái tank Panther ko xác định dc vị trí xe tank Mỹ và
vài giây sau đó những chiếc M4 lại xuất hiện phía sau dãy đồi và hạ nốt 4 chiếc tank còn lại.
Hai chỉ huy xuất chúng của tổ CCA ,sư đoàn 4, là trung tá Creighton Abrams ,chỉ huy tiểu đoàn tank 37 (bên trái) và trung tá Harold Cohen , chỉ huy tiểu đoàn bộ binh cơ giới số 10 (bên phải). Sự kết hợp chặt chẽ giữa xe tank và bộ binh trên xe bán tải là một trong những lí do dẫn đến thành công của lực lượng chiến đấu này.
Những chiếc Panther của lữ 111 vận động ở ngoại ô Bures vào 20/9. Bures là một thị trấn nhỏ nằm giữa rừng Paroy và vùng đồi Arracourt và là chiến trường yêu thích trong cuộc tấn công của quân Đức
Cùng lúc đó ,đại úy Dwight đến dc Arracourt và dcc lệnh dẫn một trung đội tank diệt tank M18 để tăng cường cho tiền đồn gần Lezey . Trên đường đến Lezey, gần Penzange-la-Petite trung đội này trạm chán đơn vị tiên phong của mũi tấn công phía đông của lữ 113. Không bị chú ý trong màn sương mù dày , các chiếc M18 dàn quân ở vị trí thấp và khai hỏa vào đội hình Đức ở khoảng cách 150 yard từ vị trí dc che chắn phần thân này. Trong trận đấu súng ngay sau đó, 7 tank Đức bị tiêu diệt, nhưng 3 chiếc M18 Hellcats cũng bị loại khỏi vòng chiến. Đội hình xe Đức thối lui.
Lữ 113 tiếp tục tấn công vào Rechicourt-la-Petite . Một trung đội tank M18 Hellcats khác từ tiểu đoàn diệt tank 704 tấn công vào một trong các đội hình hành quân của Đức ,hạ 8 chiếc Panther và làm quân tấn công Đức rúng động. Vào khoảng giữa buổi chiều, các chiếc tank diệt tank của Mỹ hạ dc 19 chiếc tank Đức nhưng cũng chịu thương vong đáng kể, bao gồm chỉ huy tiểu đoàn ,chết vì đạn súng cối.
Khi trận chiến đang ác liệt, Abrams liên lạc qua radio với các đại đội tank rải rác, lệnh cho họ tập trung gần Arracourt. Vào đầu buổi chiều , Đại đội A và B dc kết hợp thành Tổ Săn Đặc Nhiệm và dc gởi ra phản công gần Rechicourt. Cuộc đấu tank này tiêu diệt dc 9 chiếc Panther nhưng tổn thất 3 chiếc tank M4 .
Patton đến Arracourt vào cuối ngày và nói chuyện với tướng Wood, chỉ huy sư đoàn. Wood báo cáo rằng các chiếc tank của ông ta đã hạ dc 43 chiếc tank đối phương suốt trận chiến, hầu hết là loại Panther mới xuất xưởng , thiệt hại 6 người và 3 bị thương, công thêm 3 tank M18 và 6 tank M4 bị loại. Patton tin rằng sức mạnh của Đức trong khu vực này đã cạn kiệt và lệnh cho Wood tiếp tục mũi tấn công ở Saareguement vào ngày hôm sau.
Cơ hội để hai lữ đoàn có thể tập trung quét sạch sư đoàn 4 bị lãng phí bởi việc đọc bản đồ kém. Lữ 111 ko đến dc Arracourt đến tận giữa chiều và không đóng vai trò gì trong trận chiến ngày hôm đó. Chỉ huy quân đoàn thiết giáp 58 ước tính mất khoảng 50 tank bị hạ hoặc hư hỏng trong trận chiến ngày hôm đó. Blaskowit điên tiết vì thất bại của quân đoàn 58 và lệnh cho Manteuffel tiếp tục tấn công vào ngày hôm sau bất chấp thương vong.
Sáng sớm ngày 20/9, đội CCA của sư đoàn 4 di chuyển khỏi khu vực gần Lezey theo kế hoạch tấn công. Họ đến dc Dieuze khi các đơn vị áp hậu của sư đoàn gần Arracourt báo cáo lại tấn công từ rừng Paroy vào thị trấn. Lúc này, đó là những chiếc tank của lữ 111 đã bỏ lỡ trận chiến hôm trước. Tám chiếc Panther xuất hiện khỏi màn sương mù ở khoảng cách 1000 yard từ vị trí của Tiểu đoàn pháo chiến trường 191 khi họ đang kéo pháo và rời khỏi. Pháo 155mm lập tức xoay vòng và bắt đầu bắn thằng vào các xe tank này. Một số ít tank và tank destroyer từ các đơn vị khác cũng xuất hiện và đợt tấn công thiết giáp bị bẽ gãy bởi hỏa lực mạnh mẽ.
Đại tá Abrams lệnh cho tiểu đoàn tank 37 quay lại Lezey và quét sạch những chiếc tank của Đức trong khu vực này một lần cho xong. Cùng lúc đó, đại đội PzKpwf IV của đại úy Jungghanis , dc hỗ trợ bởi súng chống tank, thiết lập các chốt mai phục trên các tuyến đường dẫn vào khu vực trên , nơi diễn ra các trận đánh trước đó. Khi tiểu đoàn 37 đang leo dốc ,họ nhận hàng loạt đạn từ xe tank và súng chống chống tank Đức từ bên dưới bắn lên , hơn nửa tá M4 bị loại ngay lập tức. Quân Mỹ thối lui và chờ đại đội B đuổi kịp . Sau khi tập hợp lại, hai đại đội tank Mỹ vận động theo các vị trí tốt hơn và trong trận đấu tank diễn ra sau đó, họ hạ 11 tank Đức trong khi bị mất thêm 6 chiếc khác. Hơn 5 chiếc Panther bị hạ vào cuối buổi chiều khi lực lượng đặc nhiệm của Mỹ đến dc Bures.
Trong khi đội CCA của sư đoàn 4 đang chiến đấu với thiết xa Đức suốt ngày 20/9 thì đội CCB đang tấn công gần Chateau Salins đe dọa tạo thành mũi nhọn đâm vào khoảng giữa của Tập đoàn thiết giáp số 5 và Tập đoàn quân số 1 ở phía bắc.
Blaskowitz thất vọng tột độ vì thất bại của Manteffel và kết tội ông này tự giới hạn quân số của mình vì các hành động phòng ngự. Lữ 113 hầu như vô dụng trong trận đánh ngày 20/9 trong khi lữ 111 chỉ tung ra 2 đại đội tank để chiến đấu trong cả ngày làm hỏng hết cả thành quả của ngày tấn công trước đó. Manteffel phản ứng bằng việc phàn nàn về chất lượng chiến đấu tệ hại của các lữ đoàn nhưng ông ta lại bị Blaskowitz lên lớp về các chiến thuật. Khi lực lượng đặc nhiệm Mỹ đẩy lui quân Đức ra khỏi Moncourt vào buổi tối, Manteuffel dùng nó như là cái cớ để xin rút lui toàn bộ Quân đoàn 58 ra khỏi phía đông rừng Paroy. Điên tiết , Blaskowitz lệnh cho ông ta phải tiếp tục tấn công vào hôm sau.
Cuộc vận động chung trong các lữ đoàn thiết giáp cho phép bộ binh cỡi trên xe tank, trong hình là chiếc Panther của lữ 111 ở Bures vào 20/9
Trung tá Creghton Abrams ,chỉ huy tiểu đoàn tank 37, trong hình là chiếc tank chỉ huy của ông ta, biệt danh làThunderbolt. Suốt cuộc chiến 1944/45, Abrams dùng đến 7 chiếc tank khác nhau có biệt danh Thunderbolt bởi bị bắn hay bị hỏng cơ giới. Ông ta dc xem như vị chỉ huy lập thành tích cao nhất trong số lính tank Mỹ trong WWII nhưng tổng số tank ông ta hạ dc ko rõ ràng vì ông ko coi trọng việc liệt kê chiến tích
Lữ đoàn thiết giáp dc trang bị tốt các vũ khí phòng không như chiếc Flakpanzer IV Wirbelwind 4 nòng 20mm này. Mỗi lữ đoàn có 8 chiếc, nhưng chúng ko chứng minh dc hiệu quả cao khi đối đầu với những phi cơ P-47 Thunderbolt.
Lính cứu thương ở tiểu đoàn tank 37 chăn sóc cho tổ lái tank bị thương trong trận đánh diễn ra trên cánh đồng gần Arracourt vào 24/9. Vài chiếc tank in bóng trên đường chân trời đằng xa
Đội bảo dưỡng tạo nên khác biệt trong trận đấu tank bằng việc nhanh chóng đưa các tank bị thương nhanh chóng quay lại hành động. Chiếc tank M4 dc hành thêm một miếng đính bên hông gần như vá dc một lỗ hổng lớn
Hitler điên tiết khi dc biết các lữ đoàn dc chăm nom đặc biệt này lại bị lãng phí với rất ít hiệu quả và rằng kế hoạch giành thắng lợi nhanh gọn của ông ta trước Patton có nguy cơ phá sản. Vào 21/9 ông ta cắt chức Blaskowitz và thay thế bằng tướng Hermann Balck, người dc tham gia kế hoạch cùng ngày hôm đó. Sự tập trung giờ đến từ bắc Arracourt ,xung quanh khu vực Chateau Salins. Một chiến dịch kết hợp tập đoàn thiết giáp 5 và tập đoàn quân số 1 nhằm thiết lập vòng vây xung quanh giao điểm các tuyến đường ở Moyenvic. Việc này làm đảo lộn mọi nỗ lực hơn nữa vì hầu hết thiết giáp cơ giới của Đức đang nằm ở phía nam Arracourt. Kết quả là, chỉ có một trận đánh nhỏ diễn ra vào 21/9 trong khi Đức đang tái bố trí nhân sự.
Cuộc tấn công vào sáng 22/9 bị chậm trễ bởi việc tập kết muộn của một tiểu đoàn bộ binh. Sườn phía bắc của đội CCA sư đoàn 4 dc che chắn bởi các đơn vị của Trung đoàn kị binh 25. Trong sương mù dày buổi sớm, đội hình Đức tiến sát các trạm tiền tiêu kị binh mà ko bị phát hiện. Một loạt các cuộc đột kích diễn ra với 7 chiếc tank hạng nhẹ M5A1 của đại đội F bị phá hủy trong khi tuyệt vọng chống đỡ hỏa lực mạnh hơn hẳn từ các chiếc tank Đức. Cuộc tấn công của Đức chùng lại khi nó gặp phải một nhóm tank destroyer M18 đại đội C tiểu đoàn diệt tank 704. Họ tiêu diệt 3 chiếc tank Đức. Cuộc tấn công muộn đồng nghĩa với sương mù đang tan đi và điều này khiến đội hình tank Đức gặp nguy hiểm khi bị không kích. Lần đầu tiên trong suốt mấy ngày giao chiến, những chiếc phi cơ P-47 của TAC XIX gầm rống trên chiến trường oanh tạc và ném bom vào quân Đức.
Trong khi hàng rào kị binh cầm chân cuộc tấn công của Đức, Abrams đổi hướng tiểu đoàn tank 37 về phía bắc và chiếm một ngọn đồi gần Trois Crois nhìn xuống thung lũng phía đông Juvelize , nơi lực lượng tăng cường của Đức đang tiến tới. Đại đội A, tiểu đoàn 37 tấn công những chiếc tank của Đức trong tầm 400 đến 2000 yard đồng thời gọi pháo binh bắn yểm trợ. Trong trận đánh, chỉ huy lữ 111, đại tá Heinrich von Bronsart Schellendorf bị chết bởi súng máy. Một vài sĩ quan dưới quyền cảm thấy ông ta đã từ bỏ hy vọng sau khi khi nhận dc lệnh lúc sáng sớm qua giọng nói của Manteuffel và phô mình một cách bất cẩn trước họng súng quân thù.
Đội hình rút lui của Đức tiếp tục bị giã bởi pháo 105mm từ các xe HMC M7 và bị tiếp tục tấn công bởi những chiếc P-47. Sau khi bị không quân Đức từ chối lời khẩn cầu hỗ trợ , Manteuffel tập hợp tất cả lực lượng cơ giới dự trữ của mình-những chiếc tank sống sót của lữ 113 . Điều này hoàn toàn ko có hiệu lực. Vào cuối ngày lữ 111 chỉ còn 7 chiếc tank và 80 lính trong tổng số 90 tank và 2500 lính ban đầu. Ngày tiếp theo ,chỉ huy lữ 113, đại tá Erich von Seckendorf khi chiếc xe bán tải chở ông ta bị oanh tạc bởi phi cơ P-47 từ phi đội 405.
Trong ba ngày giap chiến từ 19 đến 22/9, đội CCA của sư đoàn 4 mất 14 tank hạng trung M4, 5 tank hạng nhẹ M5A1 cũng như 25 lính chết và 88 bị thương. Đổi lại, họ hoàn toàn đập tan 2 lữ đoàn thiết giáp.
Một số người cho rằng sự tăng cường cho Tập đoàn thiết giáp số 5 bị Hitler bác bỏ bởi những thay đổi trong tình huống chiến thuật vào cuối tháng 9. Cuộc phản công thiết giáp ở Lorraine dc lên kế hoạch vào đầu tháng 9, khi Hitler nghĩ rằng mũi tấn công của Patton là mũi đầu tiên tiến vào đất Đức. Vào cuối tháng 9, nó trở nên rõ ràng là Đồng minh đã có những kế hoạch khác. Vào 17/9 hai ngày trước khi đợt phản công ở Lorraine bắt đầu, đồng minh đã mở chiến dịch Market-Garden, một chiến dịch không vận khổng lồ vào Hà Lan kết hợp với mũi tấn công xe tank từ Cụm tập đoàn quân 21 nhằm vượt sông Arnhem để tấn công vào phía bắc vùng Rhine. Tăng cường thêm bởi mũi tấn công của Tập đoàn quân sô 1 của Hodges ở Bỉ. Ngoài ra vào 15/9, sư đoàn cơ giới số 3 của Mỹ đã đục thủng phòng tuyến phía Tây đe dọa thành phố Aachen của Đức. Vào 24/9 sau khi đợt đấu tank đầu tiên ở Lorraine kết thúc, Rodstedt nài nỉ với Hitler để chuyển các lực lượng thiết giáp còn lại lên phía bắc để bảo vệ Aachen. Mặc dù Hitler ko cung cấp thêm sự tăng cường nào, ông ta cũng ko từ bỏ kế hoạch ở Lorraine. Việc đến chậm của sư đoàn thiết giáp 11 cũng đánh dấu diễn biến mới cho trận đấu tank ở Lorraine.
Bradley liên lạc với Patton vào 23/9 và cảnh báo ông ta vì tình hình thiếu thốn hậu cần , Tập đoàn quân số 3 nên thiết lập những vị trí phòng thủ. Sư đoàn cơ giới số 6 bị tách khỏi lực lượng của Patton do đó lực lực này cần phải vượt sông Rhine vốn ko khả thi. Hơn nữa, quân đoàn XV của Haislip dc chuyển sang Cụm tập đoàn quân số 6 vào cuối tháng đem theo sư đoàn cơ giới thứ 2 khiến Patton chỉ còn lại 2 sư đoàn. Ngày hôm sau ,Patton họp với 3 vị chỉ huy quân đoàn Eddy, Walker, Haislip và họ đồng ý rằng chiến tuyến có thể dc phòng thủ với các lực lượng còn lại.
Những đợt tấn công của Đức tiếp diễn vào 24/9 .Dựa trên kế hoạch mới của Balck ,sự tập trung chuyển sang tập đoàn quân số 1 của Đức, chủ yếu là Sư đoàn cơ giới 559, hỗ trợ bởi những chiếc tank của lữ 106. Đội CCB của sư đoàn 4 đóng chốt tại các vị trí dàn trải phía trước sư đoàn bộ binh 35 gần Chateau Salins, khi Đức tấn công với sự tập trung pháo binh vào khoảng 8h30. Hai trung đoàn bộ binh tấn công các vị trí của đội CCB, cộng thêm xe tank tấn công bên cánh phải. Bầu trời có mật độ 80% mây mù khiến việc cất cánh là ko thích hợp song 2 phi đội P-47 vẫn trực chỉ đến khu vực trên nhờ vào rada. Vào lúc 10h ,những chiếc P-47 tìm thấy một khoảng trống trong mây mù để cắt bom vào những chiếc Panther sau đó vòng lại để oanh tạc. Sau khoảng 15 phút, đợt tấn công này bị thất bại và rút lui để lại 800 lính chết và 11 tank bị phá hủy. Patton đã đề xuất Huy chương Danh dự cho phi công dẫn dắt đợt không kích này.
Balck nhanh chóng nhận ra Tập đoàn quân số 1 ko đủ nguồn lực để tấn công các vị trí của quân Mỹ. Một lần nữa trọng trách lại giao phó cho tập đoàn thiết giáp số 5. Ngày hôm sau, tổ chức số tank cuối cùng vào khoảng 50 chiếc, gồm cả 11 chiếc từ sư 11 mới đến. Vào lúc này các lữ đoàn thiết giáp chỉ còn độ 1/10 và ko đủ để tiến hành chiến dịch, Manteuffel dc phép gộm cả những chiếc tank và lính với những sư đoàn nào nào còn tận dụng dc nguồn lực. Lữ 111 gom vào sư thiết giáp 11, lữ 112 vào sư thiết giáp 21 và lữ 113 vào sư cơ giới 15. Manteuffel ko muốn lập lại đợt tấn công ngày 22/9 và gởi lính di do trinh sát vị trí của quân Mỹ. Trinh sát báo cáo rằng giao lộ tại Moyenvic chưa bị chiếm giữ vào tối 24/9 vì thế nó là mục tiêu đầu tiên của đợt tấn công. Mũi tiến quân nhanh chóng và rộng vào sáng sớm thuyết phục Manteuffel tiếp tục đà tấn công, và những đợt tấn công nhằm vào những vị trí nắm giữ bởi đội CCA , sư đoàn 4. Những đợt tấn công này đều bị đẩy lùi vì quân Mỹ chiếm những vị trí cao và có lợi thế cả về tank và pháo binh.
Kết quả của quyết định 24/9 là TĐ quân số 4 chuyển sang phòng ngự, vào ngày 25/9 đội CCA dc lệnh rút lui 2 dặm khỏi những vị trí của họ xung quanh Juvelize trở về Arracourt để tăng cường vành đai phòng thủ. Chỉ huy đội CCA, đại tá Brucke Clarke , chọn khu vực đồi xung quanh Arracourt để thiết lập vị trí có lợi thế, nhìn xuống những khu vực Đức xung quanh. Sự rút lui cũng đánh dấu việc thay đổi các lực lượng kết hợp. Tiểu đoàn tank 37 của Abrams dc kéo về phía sau để nghỉ ngơi và bảo dưỡng và vành đai phòng thủ do 3 tiểu đoàn bộ binh của sư 4 phụ trách. Sự tái tổ chức hoàn tất vào 26/9, và những đợt tấn công của quân Đức giờ đây đối mặt với các đơn vị bộ binh đào hào trên các đỉnh đồi phía đông và nam của Arracourt.
Manteuffel dựa vào đợt rút lui hoàn toàn của đội CCA của Clarke để tuyên bố một thắng lợi khu vực và Tập đoàn quân số 5 chiếm giữ Juvelize và Cointcourt.
Vào 27/9 quân Đức tấn công nối lại các đợt tấn công. Vào lúc này lực lượng cơ giới trong khu vực này bao gồm 24 chiếc Panther, 6 chiếc PzKpwf IV và vài khẩu pháo tự hành. Manteuffel tìm thấy 2 ngọn đồi ở sườn phía nam của sư đoàn 4 có vị trí nhìn bao quát vị trí của Tập đoàn thiết giáp số 5. Mục tiêu của đợt tấn công nhắm vào vùng trũng giữa hai ngọn đồi 318 và 293. Ông ta lệnh cho tướng Wietersherm tập trung một Nhóm chiếm đấu tấn công từ Bures đến Arracourt. Nhóm này gồm những đơn vị còn lại của lữ 113 với tiểu đoàn trinh sát của sư đoàn với khoảng 25 tank. Từ kinh nghiệm của mình ở phía Tây, Wietersherm phản đối việc tập trung tất cả lực lượng cơ giới vì nó quá nguy hiểm dễ bị tấn công bởi không kích và pháo binh, dựa vào kinh nghiệm bản thân ở phía Đông, Manteuffel cũng cương quyết rằng lực lượng cơ giới phải tập trung và ko nên sử dụng từng phần.
Cuộc đột kích bắt đầu với mũi nghi binh bởi phần còn lại của sư đoàn về phía đông và kết thúc ở khu vực quanh Lezey và Ley trong khi lữ 111 dc hỗ trợ một số chiếc tank để chiếm ngồi làng Bengaze-la-Petite bên dưới vị trí của Tiểu đoàn bộ binh 10 trên đồi 265. Bộ binh Đức cố tiến lên đỉnh đồi 265 nhưng bị đánh bật sau một trận chiến dữ dội. Trung úy James Field nhận Huy chương Vinh Dự sau trận đánh này. Cứ điểm trên đồi 265 dc tăng cường thêm một tiểu đoàn diệt tank và một tiểu đoàn công binh, và thêm một cuộc tấn công nữa của Đức vào lúc 21h50 hoàn toàn bị đẩy lùi. Ở sườn đông bắc, trung đoàn cơ giới thiết giáp 110 tiến vào Xanrey, nhưng trong lúc tái tập hợn vào lúc 16h họ bị phản công bởi những chiếc tank của tiểu đoàn tank 35, tổn thất 135 lính cơ giới và bị buộc phải rút lui.
Cuộc tấn công chính của Nhóm chiến đấu Đức bắt đầu vào khoảng 10h nhưng chỉ tiến dc khoảng 1000 yard dưới hỏa lực dữ dội của 6 tiểu đoàn pháo chiến trường hỗ trợ cho đội CCA của Clarke. Đợt tấn công phải tạm dừng và các thiết xa rút lui. Tướng Wietersherm chuyển Tiểu đoàn cơ giới số 2 sang hỗ trợ khu vực phía nam, và ngày hôm sau cuộc tấn công tiếp tục. Lính cơ giới Đức thâm nhập khu cánh đồng ở cứ điểm Đồi 318 sau một cuộc kịch chiến. Nhóm tác chiến Đức cuối cùng cũng chiếm dc đỉnh đồi và bìa rừng lân cận. Đỉnh đồi 318 trở thành tâm điểm của cuộc chiến những ngày tiếp theo.
Tổ lái của chiếc PzKpwf IV, chỉ huy đại đội đứng chính giữa , đại đội 2111 lữ đoàn 111 thời gian ngắn trước khi diễn ra trận đấu tank ở Arrcourt. Chiếc tank dc bọc thêm lớp giáp xung quanh tháp pháo và ăng ten radio chỉ huy là từ chiếc tank thứ hai bên trái. Đại úy mang huy chương Chữ Thập Sắt và Huy hiệu Cấp Độ 2 là giành cho những người tham gia chiến dịch Crimea ở chiến tuyến phía Đông năm 1942
Lính cơ giới thiết giáp của Lữ đoàn 111 kiểm tra vũ khí trước khi tổ chức tấn công vào cuối tháng 9 ở Arracourt trong khi xung quanh là dân Pháp đứng nhìn
Một lính Mỹ xem xét khẩu pháo tự hành StuG III bị bắn hạ ở Luneville. Phần giáp hông Schurzen hay khiên đỡ bị dính đạn bazooka còn trơ alị mấy thanh ray. Dù dc công nhận rộng rãi rằng có thể chống dc đạn Bazooka ,đạn PIAT , và các vũ khí chống tank khác trong thực tế chúng chỉ dùng để đối đầu với các vũ khí chống tank So Viết và thường bị điều khỏi chiến tuyến phía Tây, nơi chúng ko có giá trị phòng thủ. Quả thực như vậy vì chúng còn dễ bị bắn bởi đầu đạn Bazooka vì ảo tưởng an toàn nhờ khoảng cách với giáp chính
Mệnh lệnh của Manteuffel cho những ngày kế tiếp là rất rõ ràng ” Chiếm cao điểm 265 và 318 sau đó tiến thằng đến Arracourt “. Vào rạng sáng ngày 28/9 tiểu đoàn bộ binh cơ giới 51 tái chiếm khu vực 318, chiến sự ác liệt diễn ra suốt cả ngày hôm đó. Có đến 107 lần xuất kích của những chiếc P-47 san bằng khu vực thị trấn Bures và chận đứng lực lượng tăng cường của Đức bao vây khu vực này. Sau khi đẩy lùi 3 đợt tấn công của quân Đức, lính Mỹ tái chiếm đồi 318 vào khoảng buổi trưa. Lính cơ giới Đức nhận dc rất ít sự hỗ trợ của pháo binh vì các khẩu đội pháo di chuyển suốt đêm đến các vị trí mới và các trinh sát mặt trận của họ ko có mặt trong khu vực mãi đến cuối ngày.
Cuộc tấn công cuối ngày của Đức bị bẽ gãy bởi pháo binh trước khi nó kịp đến mục tiêu. Sau khi trời tối quân Đức gởi tiếp một đội đột kích dc hỗ trợ bởi tank để giải cứu sườn nam của ngọn đồi. Tiểu đoàn 51 rút lui về khu vực thung lũng phía bắc nhưng bị tấn công bởi số lớn pháo binh của Đức. Sư đoàn 4 phản công bằng 4 tiểu đoàn pháo binh bắn dập suốt khu phía nam thung lũng, tiếp sau đó là đợt phản công của tiểu đoàn 51 để giải cứu khu vực cao điểm phía nam vào gần giữa đêm.
Trận đánh ở cao điểm 265 cực kì ác liệt. Vào lúc 19h bộ binh Đức tấn công vào các tiểu đoàn của tổ CCA đẩy lùi dc một trung đội nhưng bị chặn lại bởi hỏa lực pháo binh. Wietersheim yêu cầu Manteuffel cho phép dừng các cuộc tấn công để binh lính nghĩ ngơi nếu không họ sẽ bị thương hoặc đơn giản là mất khả năng chiến đấu. Manteuffel từ chối, dưới áp lực từ Berlin ông ta cương quyết các đợt tấn công phải dc tiếp tục.
Vào bình minh ngày 29/9 , Sư đoàn thiết giáp 11 rút quân từ các khu vực khác về tăng cường cho khu vực đối diện cao điểm 265 và 318 , tập trung các lực lượng tản mác xung quanh Bures , lực lượng này bao gồm trung đoàn trinh sát sư thiết giáp 11, tiểu đoàn bộ binh cơ giới 110, một đại đội công binh, phần còn lại của lữ đoàn thiết giáp 111 và 113. Lực lượng thiếp giáp trong khu vực này gồm 18 chiếc PzKpwf IV, 20 chiếc Panther, 11 Flakpaner IV . Từ khoảng cách 500 yard quân Đức tái chiếm đỉnh đồi vào lúc 10h15.
Do tiểu đoàn 51 chịu thương vong lớn, đại tá Clark yêu cầu trực tiếp một đại đội tank M4 từ tiểu đoàn tank số 8. Họ đến giải cứu lực lượng bộ binh đang bị bao vây và diễn tiếp trận đánh sau đó giúp họ hạ hơn 8 chiếc Panther. Khi sương mù buổi sáng bốc hơi đi, sĩ quan điều khiển không quân chiến thuật hướng dẫn một nhóm P-47 tấn công vào những chiếc Panther ở cánh đồng bên dưới đồi 318 , nơi chúng đang tập trung cho một đợt tấn công khác. Không có sương mù bảo vệ nên quân Đức dễ bị quan sát thấy . Đợt không kích đầu tiên ko hiệu quả vì những máy bay ném bom dc dẫn hướng từ một nhiệm vụ rải truyền đơn phía trên khu vực Metz. Dù vậy trong ngày hôm đó phi đột 405 cũng thực hiện dc 7 đợt không kích tầm thấp vào lực lượng Đức chuẩn bị tấn công cao điểm . Ngoài việc hạ dc những chiếc tank bằng bom hay rocket các đợt không kích cũng chia cắt dc một phần xe tank Đức rời khỏi khu vực dc bảo vệ bởi rừng cây ra ngoài khu vực đất trống, nơi chúng sau đó bị hạ bằng pháo binh Mỹ.
Vào giữa buổi chiều, quân Đức rút lui hoàn toàn. Sau ba ngày giao tranh ác liệt, thiếu ngủ và chịu thương vong nặng nề , nhiều đơn vị lính Đức bị rệu rã, và chỉ huy nhóm quân chiến đấu của Đức là Bode bị suy sụp thần kinh. Lính Đức hạ trại ở khu vực bằng phẳng phía sau là con kênh Marne do vậy nhiều đơn vị Đức lo ngại quân Mỹ bất ngờ tập kích đẩy họ xuống dòng nước. Sư đoàn cơ giới 11 dc lệnh lập một vành đai bọc hậu với xe tank xung quanh khu vực Parroy nhằm mục tiêu dự bị. Những chiếc Flakpanzer sóng sót dc bố trí về giữa khu vực Parroy và Bures nhằm tránh những đợt không kích kế tiếp nhưng hầu như vô hiệu. Chỉ huy quân đoàn báo cáo thằng với Manteuffel rằng ” mất tam giác cao điểm, quân lính kiệt sức, cần nghỉ ngơi”. Một tổng số gồm 23 tank và vài xe bán tải bị phá hủy, theo tính toán của Đức sau trận chiến. Chỉ có 4 chiếc tank còn hoạt động vào cuối ngày dù quân tụt hậu vẫn tụ tập về vào ngày hôm sau. Những chiếc tank đã bị phá hủy bởi những chiếc máy bay ném bom P-47 .
Trận đánh ở khu vực 265 kế cận thì chủ yếu đối đầu với cánh phải của đại đội A, Tiểu đoàn bộ binh 10. Lính Mỹ cuối cùng bị đẩy lùi về thung lũng sau ngọn đồi nhưng họ giữ dc vị trí đó khi màn đêm buông xuống. Mệt mỏi quân Đức rút lui xuống khu vực thị trấn Benzange bên dưới. Một vài đơn vị Đức vẫn mắc kẹt ở khu vực giữa đồi 265 và 318 nhưng rút lui khi đêm xuống và nhận thấy các nhóm chiến đấu khác cũng đã rút lui .
Cuộc tấn công vào ngày 29/9 là nỗ lực cuối cùng của tập đoàn quân thiết giáp số 5 nhằm cắt đứt mũi tiên phong của Tập đoàn quân số 3 gần Arracourt. Bốn ngày tấn công vào tổ CCA, sư đoàn 4 khiến quân Đức thiệt hại 700 quân chết , 300 bị thương, 14 PzKpwf và 22 Panther. Tổng số 262 tank và pháo tự hành dc triển khai bởi các đơn vị Đức trong một tuần chiến sự tại Lorraine có 86 chiếc bị tiêu diệt và chỉ còn 62 chiếc hoạt động vào cuối tháng. Sư đoàn đảm nhận chủ yếu các trận đấu tank ở Lorraine mất 41 tank M4 và 5 chiếc M5A1 suốt tháng 9 với 225 lính chết và 648 bị thương.
Vào ngày 29/9 trong khi chiến sự vẫn diễn ra ác liệt xung quanh các khu đồi ở phía nam Arracourt , chỉ huy mới của Cụm tập đoàn quân G, tướng Balck đến gặp chỉ huy của chiến tuyến phía Tây ,Rundstedt tại bộ chỉ huy ở Bad Kreuznach , ông ta báo cáo với tổng chỉ huy mặt trận rằng lực lượng của mình nếu ko dc tăng cường tối thiểu khoảng 140 tank và nhiều pháo hơn nữa thì ko thể tiếp tục các đợt phản công. Von Rundstedt trả lời rằng việc tăng cường ko có trong kế hoạch, ông ta ngầm ngụ ý rằng trận chiến phản công ở Lorraine đã kết thúc mà ko đạt dc như ý nguyện của Hitler. Vào lúc 23h , Balck bảo Maneuffel dừng việc tấn công. Sư đoàn thiết giáp 11 rệu rã dc kéo về giàn thành tuyến phòng thủ các vị trí phòng ngự chính yếu. Phần Hitler vì quá bận tâm về chiến dịch không vận ở Arnhem và sự phá vỡ phòng tuyến phía Tây gần Aachen , tạm thời lờ đi một thất bại nữa trong số các kế hoạch viển vong của mình.
Một khẩu pháo tự hành Stug III của Đức nằm đổ nát với nóc máy bị thổi bay ở ngoại ô Luneville ngày 27/9. Súng Stug chủ yếu nhằm tăng cường hỏa lực cho các phân đội bộ binh Đức nhưng khẩu pháo 75mm của nó cũng rất hiệu quả đối với tank của Đồng Minh. Đây có thể là một chiếc Stug III từ lữ đoàn 111 bị phá hủy trong trận đánh tại đây
Một tổ lái M4 chỉ huy bởi trung sĩ Timothy Dunn, tiểu đoàn tank 37 nghỉ đêm trên cánh đồng phía đông bắc Arracourt vào tối 26/9. Anh lính phía trước đang di chuyển thiết bị Culin , một tổ hợp bánh răng thép dùng để cắt những cành cây cứng vùng Normandy
BẾ TẮC
Vào cuối tháng 9, trận chiến ở Lorraine đã rơi vào bế tắc. Bị cắt giảm quân số và hậu cần Tập đoàn quân số 3 của Patton ko có thế để tiến quân xa hơn. Khi tháng 9 sắp kết thúc, Patton đã có nhiều hành động táo bạo bất chấp cạn kiệt nhiên liệu để vượt qua phòng tuyến khủng khiếp ở Moselle . Nếu là một vị chỉ huy ít táo bạo hơn thì quân Mỹ đã ko thể vượt dc dòng sông và rơi vào thế chán nản khi mùa đông tới và phòng tuyến quân Đức cũng dc gia cố vững chắc hơn. Chiến dịch ở Loraine tháng 9/1944 giúp cho tập đoàn quân số 3 của Patton có vị trí vững chắc cho phép tấn công vào vùng Sarr và giải cứu Bastoge hai tháng sau đó trong các trận đánh ở Ardennes.
Sự tranh luận xung quanh Eisenhower ,Bradley và Montgomery về các ưu tiên chiến lược làm giảm đi vai trò của tập đoàn quân số 3 của Patton trong bối cảnh rộng lớn vào tháng 9, Ở Normandy quân Anh đóng vai trò như thỏi nam châm thu hút quân Đức và khiến cho quân Mỹ tấn công ở St. Lo. Vào tháng 9 thì những hành động táo bạo của Patton ở Lorraine lại thu hút một lượng lớn sức mạnh thiết giáp của Đức giúp quân Anh thực hiện chiến dịch chủ chốt Market-Garden mà phần nào tránh bị tấn công bởi xe tank Đức. Nếu ko có các hành động của Patton ở Lorraine, chiến dịch Market-Garden ít có cơ may thành công hơn và những chiến dịch khác của Đồng minh ở Bỉ sẽ gặp sức kháng cự lớn hơn nhiều.
Tham vọng của Patton đưa quân của mình vượt biên giới tiến thằng vào vùng Sarr là ko thể . Nó ko phải là do các chiến thuật ko hợp lý : kế hoạch chiến lược của SHAEF đặt trọng tâm vào các chiến dịch ở phía bắc Ardennes dẫn theo phần lớn nguồn hậu cần thiết yếu. Phòng tuyến ở Metz ngăn cản bước tiến của quân đoàn XX, và cuộc tấn công ở Loraine bẻ hướng mũi nhọn tấn công của quân đoàn XII . Hoàn toàn có khả năng Patton vượt dc biên giới nếu ko có cuộc phản công thiết giáp ở Lorraine hoặc ông ta nhận dc nhiều tiếp tế hậu cần hơn. Tham mưu trưỡng cụm tập đoàn quân G, đại tá Ferderic Mellenthin người sau đó cho rằng Patton đã có thể vượt biên vào giữa tháng 9 nếu có nhiều hậu cần hơn vì lực lượng Đức bố trí trong khu vực quả là yếu kém. Sự tranh cãi về mũi nhọn tấn công ở biên giới phía tây rất lộn xộn, và kết quả là tập trung vào chiến dịch market-Garden, Eisenhower quan tâm đến sự an toàn của vùng Lorraine và chỉ thị cho Patton bảo vệ sườn phải sông Moselle . Cơ hội ở Loraine và Sarr giành cho kẻ mạo hiểm nhưng vẫn tốt hơn là canh abc5 ở Hà Lan.
Tổng số thiết xa của Tập đoàn quân số 3 đánh mất trong tháng 9 là 49 tank hạng nhẹ và 151 tank hạng trung và tank diệt tank. Có tổng số 392 tank dc triển khai mới trong tháng 9, vì vậy vào cuối tháng tập đoàn quân số 3 dc bổ sung nhiều hơn số tank đã mất.
Về phía quân Đức, trận chiến ở Lorraine mang đến kết quả lẫn lộn. Tâp đoàn thiết giáp 5 bị đập tan và ko có khả năng thực hiện tấn công hơn nữa. Kế hoạch không tưởng của Hitler làm chênh lệch sự tập trung quân lực trong khu vực. Trong khi lực lượng thiết giáp Đức có dc lực lượng tương đương đối phương mà họ có thể chiến thắng như ở phía Đông tuy nhiên họ ko thể chống lại quân Mỹ vào năm 1944. Cả hai đợt phản công thiết giáp của Đức vào cuối mùa hè 1944 đều thất bại- trận chiến tháng 9 của quân đoàn thiết giáp 47 và tquân đoàn thiết giáp SS số 1 ở Mortain và cuộc phản công thiết giáp của Tập đoàn số 5. Trong cả hai trường hợp quân Đức đều có ưu thế về chiến xa tuy nhiên họ ko phát huy dc lợi thế bởi hỏa lực vượt trội của quân Mỹ và vì khả năng tấn công xuống dốc của quân Đức. Từ Mortain và Lorraine cho đến đợt tấn công cuối của Hitler ở Ardennes tại Dieppe đều như trận Normandy mà thôi ,những chiến dịch miễn cưỡng chống lại đối thủ thiện chiến thì khó tránh khỏi thất bại. Vào cuối tháng 9 với viễn cảnh thắng lợi ở Lorraine bay hơi, Hitler lại lên kế hoạch cho chiến dịch mới – Watcht-aim-Rhein – trận phản công ở Ardennes. Ko quan tâm kẻ thù , Hitler lên kế hoạch phá vây với 26 sư đoàn Đức.
Bài viết công phu quá, mình rất thích
Bạn có thể cho mình xin bản tiếng Anh được không, thấy một số đoạn dịch không chuẩn về cấp đơn vị
ThíchThích