Viên Như
瓊海元宵
阮攸
元夜空庭月滿天
依依不改舊嬋娟
一天春興誰家落
萬里瓊州此夜圓
鴻嶺無家兄弟散
白頭多恨歲時遷
窮途憐汝遙相見
海角天涯三十年
Quỳnh Hải nguyên tiêu
Nguyễn Du
Nguyên dạ không đình nguyệt mãn thiên,
Y y bất cải cựu thiền quyên.
Nhất thiên xuân hứng, thuỳ gia lạc?
Vạn lý Quỳnh Châu, thử dạ viên ?
Hồng Lĩnh vô gia huynh đệ tán,
Bạch đầu đa hận tuế thời thiên.
Cùng đồ lân nhữ dao tương kiến,
Hải giác thiên nhai tam thập niên.
Đêm rằm tháng giêng ở Quỳnh Hải
Đêm rằm tháng giêng, sân trống, trời đầy trăng,
Trăng không thay đổi gì, vẫn đẹp như thuở nào.
Một trời xuân nồng ấm, nhà ai có người còn lưu lạc?
Khắp xứ Quỳnh Châu, đêm nay có ai về không?
(Còn ở) Hồng Lĩnh (quê tôi giờ đây) nhà tan, anh em li tán,
Bạc đầu vì hận năm tháng và thời cuộc sao đổi thay quá.
(Trong lúc) cùng đường, thương bạn lại (nhớ ta mà) tới thăm,
Ba mươi tuổi rồi mà cứ (góc bể chân trời) rày đây mai đó.
Dịch thơ:
Sân vắng, trăng suông, rằm tháng giêng,
Trăng xưa vẫn vậy, đẹp như tiên.
Một trời xuân ấm, ai lưu lạc?
Quỳnh Hải đêm nay, có hạnh viên?
Hồng Lĩnh nhà tan, anh chị tán,
Bạc đầu quá hận thế thời điên.
Cùng đường thương gặp nhau ta bạn,
Góc bể chân trời tam thập niên.
Nguyễn Du (阮攸; 1765–1820) Đại thi hào của dân tộc Việt Nam, trong gia tài văn chương của ông, ngoài tác phẩm bất hủ Truyện Kiều viết bằng chữ Nôm, ông còn các tập thơ chữ Hán, Bắc hành tạp lục, Nam trung tạp ngâm, Thanh Hiên thi tập. Bài “Quỳnh Hải nguyên tiêu” là bài đầu tiên trong Thanh Hiên thi tập. Có thể nói trong kho tàng văn chương nước Việt, những tác phẩm của Nguyễn Du phản ảnh đậm nét nhất của một con người bị tàn phá từ tâm hồn đến thể chất trong một đất nước mà nơi nào cũng đầy những vết hằn bởi thời cuộc. Thơ của ông không phải là sử nhưng đọc thơ ông ta mới cảm thấy hết cái cô đơn, lạc lõng của những con người ấp ủ giấc mộng bình an cho dân tộc, nhiều cái tết thầm lặng đi qua, những cái bánh chưng, bánh tét như giấu giếm nỗi niềm hy vọng đoàn viên trong một giai đoạn lịch sử mà bao nhiêu tinh hoa của dân tộc trở thành những tảng đá lót đường cho những tham vọng vô minh. Những tham vọng đó không những làm cho quê hương tan nát mà còn làm cho con người không còn tin ở con người, nơi nơi chỗ chỗ đầy những cạm bẫy, cho nên nỗi niềm trăn trở biết nói cùng ai, nhưng không nói không được, không nói được với con người thì nói với trời, với đất, với con trăng vẫn cứ đến thăm ông hồn nhiên như thuở nào, ít ra như thế ông vẫn còn có bạn, có người để chia sẻ nỗi niềm, vì vậy ngay từ hai câu đề ông đã cho thấy cái tương phản giữa cái củ và cái mới, giữa giấc mơ thanh bình và một thực tế lạnh lẽo, cô đơn.
Nguyên dạ, không đình, nguyệt mãn thiên,
Sân vắng, trăng suông, rằm tháng giêng.
Như ta biết, mùa xuân là mùa của đoàn tụ, yêu thương, ấy thế mà ngay từ câu đầu tiên ông đã cho chúng ta thấy cái cô quạnh, trống vắng, không chỉ là tâm hồn của ông mà cả cảnh vật chung quanh ông nữa. Một con trăng cô đơn giữa khung trời mênh mông lại chiếu vào mảnh sân vắng vẽ, mà con trăng ấy lại là trăng nguyên tiêu, điều ấy lại làm cho nỗi vắng vẽ cô đơn càng nhân lên gấp bội.
Y y bất cải, cựu thiền quyên,
Trăng xưa vẫn thế, đẹp như tiên.
Cũng là con trăng thuở nào, vẫn trẻ, đẹp như chưa từng thay đổi, cũng như ước vọng thanh bình muôn đời của biết bao con người trên quê hương nước Việt chưa bao giờ đổi thay, thiên nhiên không thay đổi nhưng nơi đây con người và thời thế đã đổi thay biết bao nhiêu rồi. Có quá nhiều thất vọng, ê chề đè nặng lên tâm hồn ông, hai câu thực nói lên tâm trạng đó, giữa lúc mùa xuân đang bừng tỉnh cỏ cây, đất trời thì lòng người lại nặng đầy bao nỗi ưu tư.
Nhất thiên xuân hứng, thùy gia lạc? [1]
Một trời xuân ấm, ai lưu lạc?
Một trời xuân, một đất nước đang xuân, đáng lẽ ra phải là hạnh phúc lắm chứ, vậy mà trên quê hương nước Việt của ông và Quỳnh Hải nơi ông đang ở, xuân với người chẳng có chung một nỗi niềm. Bởi vì kể từ ngày ông bắt đầu nhận thức và thấm thía được nỗi đau thân phận con người thì cũng là lúc mà ông bị giày xéo bởi nỗi đau của một con dân trong một đất nước mà vua, chúa tranh nhau quyền bính, bao nhiêu mưu mô hiểm ác nhất được dịp đem ra thi thố, rồi Tây Sơn đem quân ra Bắc dưới danh nghĩa phù Lê diệt Trịnh, nhưng kẻ yếu vẫn cứ yếu, yếu mà nắm quyền thì người khác làm thay, hết kẻ dưới tay rồi lại mời cả ngoại bang vào cướp nước, lại phải đem máu xương của dân Việt ra để mà lấy lại quyền tự chủ, chiến tranh lại diễn ra, mà chiến tranh đồng nghĩa với chết chóc, li tán, tiềm lực và nguyên khí của đất nước suy yếu trầm trọng. Trong khi phương bắc chưa nguôi giấc mộng xâm lăng thì đàng trong Nguyễn Ánh đã chiêu binh quyết diệt Tây Sơn, lòng ông ở ngã ba đường, nên trong không khí xuân nồng ấm như thế lại làm cho ông tái tê hơn, rồi tự hỏi: Xuân nồng ấm thế nhưng nhà ai còn có người lưu lạc không?
Vạn Lý Quỳnh châu thử dạ viên?
Quỳnh Hải đêm nay có hạnh viên?
Trong khắp xứ Quỳnh Hải đêm nay có ai lưu lạc, ra đi trong chiến tranh còn sống sót trở về đoàn viên không? Đặt câu hỏi như thế cũng có nghĩa là sao mà nhiều người ra đi nhưng quá ít trở về thế! Quỳnh Hải là một phần của nước Việt, là quê vợ ông, đối với ông nơi đây là đất khách, quê người, đất khách quê người mà như thế, còn quê ông thì như thế nào?
Hồng Lĩnh vô gia huynh đệ tán,
Hồng Lĩnh nhà tan anh chị tán,
Câu trên là ông tự hỏi, nên không chắc lắm ai đã ra đi và bao nhiêu người trở về, nhưng ở câu này chính là câu trả lời, câu xác định, chính quê ông, nhà ông, gia đình ông là nạn nhân của thời cuộc. Quê vợ đã thế, quê mình cũng tan hoang, như thế là cả một đất nước chìm trong đói khổ, tang thương, chết chóc và ly tán.
Bạch đầu đa hận tuế thời thiên.
Bạc đầu quá hận thế thời điên.
Ông giận sao mà thời gian qua nhanh quá, thoáng một cái mà ông đã bạc đầu, ông lại hận thời thế sao mà quá đảo điên, cứ thay đổi xoành xoạch, trong vòng quay của tạo hóa, dường như ông chẳng gặt hái được gì trong khi mà cái giá phải trả cho những ưu tư là một mái tóc bạc, còn trong vòng quay của thời cuộc, một kẻ sĩ như ông dường như chẳng có nghĩa lý gì. Có lẽ ông còn hận nhiều hơn thế, ông hận nhân gian, ông hận thời thế, rồi ông hận cả đất trời
“Bản vô văn tự năng tăng mệnh,
Hà sự kiền khôn thác đố nhân?”
Chữ nghĩa nào có ghen với mệnh,
Mà sao trời đất ghét nhầm người?
Cùng đồ lân nhữ dao tương kiến.
Đường cùng thương gặp nhau ta bạn.
Có thể xem đây là lúc Nguyễn Du tuyệt vọng nhất, bởi vì nơi đây ông đã từng được gia đình bạn cha ông nuôi dưởng bảo bọc, rồi lại gả con gái cho ông, cũng từ nơi đây ông đã đèn sách nghiên bút đi thi, tuy không đổ cao nhưng cũng được tập ấm một chức quan nhỏ từ cha nuôi họ Hà của ông, ít ra như thế cũng có nghĩa là ông đã có một đường đi riêng cho bản thân và gia đình mình, nhưng mọi thứ đều bị xóa sạch trước những đổi thay nhanh chóng của một đất nước đầy biến động, biến động thời cuộc, biến động lòng người, cái không khí ngột ngạt của sự nghi ngờ đã làm cho con người khép kín lại, không ai dám nói với ai những nỗi niềm cho dù đó là lúc đầu xuân. Trong lúc tuyệt vọng, cùng đường như thế ông lại gặp người bạn củ, người bạn tri âm đã bao lần lắng nghe tâm sự thầm kín của ông mà chưa từng phản đối hay tiết lộ, một người bạn mà trải qua bao đổi thay của nhân thế, trong lúc ông đã già đi mà khuôn mặt người ấy vẫn cứ rạng ngời khi gặp lại ông, đặc biệt người bạn ấy từ ngàn xưa đến nay vẫn một mình cô đơn giữa một khung trời lồng lộng (như giấc mơ thanh bình ngàn đời vẫn chỉ giấc mơ). Hai kẻ cô đơn gặp nhau, như hai người đồng bịnh đến với nhau, an ủi nhau.
Hải giác thiên nhai tam thập niên.
Góc bể chân trời tam thập niên.
Lúc này ông đã 30 tuổi rồi, ngày xưa tam thập nhi lập, ba mươi tuổi mà chưa có sự nghiệp là xem như thất bại, ấy vậy mà ở cái tuổi này ông vẫn còn nương thân nơi quê vợ. Ông hận cho năm tháng qua mau, thời cuộc đổi thay như chong chóng, tóc đã bạc rồi mà dường như mọi thứ vẫn chưa có lối ra phía trước, hận mình bất lực trước những gì diễn ra trong tư cách của một kẻ sĩ trước vận mệnh của dân tộc “Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”.
Trong hoàn cảnh cô đơn và tâm trạng bời bời của bản thân như thế lại đối diện với khoảnh khắc đẹp nhất trong đêm rằm tháng giêng, tất cả điều đó đã làm cho Nguyễn Du càng cảm thấy cô đơn hơn, cô đơn về kiếp người, cô đơn trong thân phận của một kẻ sĩ bất lực trước thời thế, cô đơn trong thân phận của một con dân trước một đất nước tan hoang bởi những bàn tay của những kẻ tham lam, dùng máu xương của nhân dân để xây thành quách quyền lực cho riêng dòng họ, cá nhân mình. Như vết thương trên cây dó đã thành khối trầm, tỏa hương thơm cho đời, tất cả chất liệu khổ đau đã làm thành khối tinh anh trong con người ông, chuyển tải thành những áng văn chương bất hủ lưu mãi muôn đời cho hậu thế, cho dân tộc.
Tinh anh phát tiết ra ngoài,
Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa./.
[1] Hai câu thực này nhiều người hiểu là:
Một trời xuân hứng không biết rơi vào nhà ai,
Muôn dặm Quỳnh Châu đêm nay (trăng) tròn.