Tại sao Chiến tranh Nga-Ukraina không giống Chiến tranh Trung-Việt năm 1979

Rạng sáng ngày 24/2, Nga chính thức tiến hành cuộc xâm lược Ukraina, đánh dấu bước leo thang lớn đối với xung đột Nga-Ukraina bắt đầu từ năm 2014. Cuộc chiến đã gây chấn động phần còn lại của thế giới và Việt Nam không phải là ngoại lệ. Cuộc xâm lược của Nga, sau khi Nga không đảm bảo được cam kết từ Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) không kết nạp thêm Ukraina, khiến nhiều người Việt Nam nhớ lại cuộc xâm lược Việt Nam của Trung Quốc vào năm 1979, sau khi đất nước này nghiêng hẳn về Liên Xô sau hậu quả của việc ký Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác với Mátxcơva vào năm trước.

 

Nhiều cư dân mạng Việt Nam đã rút ra sự tương đồng giữa hai cuộc xâm lược này: đó là một cường quốc lớn, không hài lòng với chính sách đối ngoại của một nước nhỏ, quyết định tiến hành một cuộc xâm lược để dạy cho nước nhỏ một bài học. Theo nghĩa này, việc Trung Quốc phát động một cuộc xâm lược chớp nhoáng vào Việt Nam vào sáng sớm ngày 17 tháng 2 năm 1979, với hơn 600.000 quân gần giống với cuộc xâm lược Ukraina của Nga.

 

Để rút ra mối liên hệ giữa hai sự kiện này là rất hay, nhưng sự ví von như vậy đã bỏ sót một điểm khác biệt cơ bản giữa Việt Nam vào năm 1979 và Ukraina vào năm 2022. Cụ thể, Trung Quốc đã xâm lược một quốc gia được một siêu cường hậu thuẫn mà họ đã có hiệp ước chính thức, trong khi Ukraina chính thức không là một phần của bất kỳ liên minh quân sự nào với phương Tây. Trong khi mục tiêu của hai cuộc xâm lược có thể giống nhau – nhằm làm suy giảm niềm tin của Việt Nam và Ukraina vào các cam kết an ninh của Liên Xô và NATO – thì sự hiện diện của một cường quốc làm đồng minh trong trường hợp của Việt Nam đã hạn chế đáng kể cách các nhà lãnh đạo Trung Quốc tiến hành cuộc chiến tranh. Đối với trường hợp của Nga, cho đến nay có rất ít bằng chứng cho thấy Nga cảm thấy bị NATO kiềm chế khi tính đến các kế hoạch chiến tranh của mình.

 

Liên minh khác với liên kết ở một ý nghĩa chính: liệu có tồn tại một văn bản pháp lý quy định rõ ràng rằng một bên phải đứng ra bảo vệ bên kia khi có mối đe dọa quân sự hay không. Hiệp ước liên minh có ý nghĩa về một số khía cạnh. Thứ nhất, nó tạo ra các cơ chế trói buộc có thể phát sinh chi phí nếu một bên không giữ vững cam kết. Thứ hai, nó đặt nền tảng cho sự hợp tác quân sự trước khi một cuộc chiến bắt đầu để tăng cơ hội chiến thắng và giảm chi phí hỗ trợ quân sự. Còn việc liên kết dựa trên kỳ vọng chứ không phải nghĩa vụ bắt buộc hỗ trợ khi xung đột phát sinh. Liên minh năm 1978 của Việt Nam với Liên Xô đặt nó vào một vị trí mạnh mẽ hơn để ngăn chặn và phòng thủ chống lại Trung Quốc so với sự liên kết của Ukraina với NATO.

 

Không còn nghi ngờ gì nữa, cuộc xâm lược của Trung Quốc vào Việt Nam năm 1979 trước hết là kết quả của liên minh giữa Hà Nội với Liên Xô. Các học giả Trung Quốc cho rằng quyết định xâm lược Việt Nam là “lý thuyết về kẻ thù chính”: rằng chính sách của Trung Quốc đối với một quốc gia là kết quả của chính sách của quốc gia đó đối với kẻ thù chính của Trung Quốc. Theo lý thuyết này, Trung Quốc sẽ trở nên thù địch với một quốc gia nếu nước đó cải thiện quan hệ với kẻ thù chính của Trung Quốc. Động cơ của Trung Quốc trong việc ngăn chặn một liên minh thù địch đe dọa nó có thể giống với động cơ của Nga khi xâm lược Ukraina, nhưng phạm vi của hai cuộc chiến có thể rất khác nhau.

 

Trước cuộc chiến Trung-Việt và cuộc xâm lược Campuchia của Việt Nam, nhà lãnh đạo Đặng Tiểu Bình của Trung Quốc đã coi khả năng Liên Xô trả đũa dọc biên giới phía bắc của Trung Quốc là một trong những yếu tố quan trọng đằng sau phạm vi giới hạn của việc xâm lược Việt Nam. Giới lãnh đạo Trung Quốc nhất trí rằng không nên đe dọa sự tồn vong của chính quyền Hà Nội, và cuộc chiến chỉ nên giới hạn ở các khu vực biên giới. Quân đội Trung Quốc sẽ rút lui sau khi chiếm các thành phố biên giới của Việt Nam. Điều quan trọng là Trung Quốc cố ý nói rõ với công chúng rằng cuộc xâm lược sẽ được giới hạn trong một thời gian nhất định để tránh sự can thiệp của Liên Xô.

 

Cần nhắc lại rằng Liên Xô đã đưa 44 sư đoàn đóng dọc theo biên giới Trung-Xô vào thời điểm Trung Quốc xâm lược. Các cuộc triển khai quân đội của Liên Xô đã khiến Đặng lo lắng khi ông đang tìm cách bình thường hóa quan hệ Trung-Mỹ với chính quyền Jimmy Carter vào năm 1978. Khi Trung Quốc xâm lược Việt Nam, họ không tìm cách lật đổ chính quyền Hà Nội vì lo ngại rằng họ có thể thúc đẩy Liên Xô can thiệp. Liên Xô, mặc dù viện dẫn hiệp ước 1978, đã tin rằng cuộc xâm lược này sẽ bị hạn chế. Điều này đúng như ý định của Đặng, và Liên Xô đã chỉ cung cấp quân nhu và cố vấn cho Hà Nội.

 

Những gì đang xảy ra ở Ukraina thì không như vậy. Tổng thống Nga Vladimir Putin không đưa ra tín hiệu rằng cuộc xâm lược sẽ diễn ra trong thời gian ngắn hoặc giới hạn về phạm vi. Lầu Năm Góc đã cảnh báo rằng Putin muốn xóa sổ chính phủ Kyiv và đưa những nhân vật thân Nga lên nắm quyền. Hơn nữa, Nga không phải đối mặt với bất kỳ mối đe dọa tức thời nào ở biên giới với quy mô mà Trung Quốc đã lo ngại vào năm 1979. Nga được cho là đủ tự tin rằng quan hệ đối tác quân sự của họ với Trung Quốc đủ mạnh để họ có thể để hở sườn phía đông và chuyển quân sang phía tây để xâm lược Ukraina . Ông Putin cũng đưa ra lời đe dọa sử dụng vũ khí hạt nhân nếu phương Tây can thiệp vào quân đội Ukraina. Nói tóm lại, mục tiêu chiến tranh của Putin là tối đa và dường như ông ấy đã chuẩn bị sẵn sàng để trả một cái giá đắt cho chúng, trái ngược hoàn toàn với các “bài học” hạn chế và thận trọng của Đặng về nhiều mặt đối với Việt Nam.

 

Sự khác biệt ở chỗ Việt Nam có đồng minh chính thức trong khi Ukraina thì không, dẫn đến kết luận rằng bất kỳ nỗ lực nào sử dụng chiến tranh Trung-Việt để dự đoán hành vi của Nga là không khả thi. Chúng ta thậm chí không thể đoán được liệu cuộc xâm lược của Trung Quốc vào Việt Nam có bị hạn chế khi không có liên minh Việt-Xô hay không, hay liệu Trung Quốc có xâm lược nếu Hà Nội chưa bao giờ nghiêng về phía Liên Xô ngay từ đầu. Suy luận mà không dựa trên thực tế thì không hề dễ dàng.

 

Điều quan trọng là một số cư dân mạng ở Việt Nam đã bày tỏ lo lắng rằng việc Nga xâm lược Ukraina nhắc nhở họ về mối đe dọa về một cuộc xâm lược bất ngờ tiềm tàng của Trung Quốc nếu Việt Nam nghiêm túc xem xét việc tham gia một liên minh do Hoa Kỳ dẫn đầu chống lại Trung Quốc trong tương lai. Tuy nhiên, lo lắng này là quá sớm vì việc Trung Quốc sẵn sàng trừng phạt Việt Nam vì mối quan hệ quân sự chặt chẽ hơn với Mỹ sẽ phụ thuộc vào nhiều yếu tố không nhất thiết liên quan đến bài học của cuộc xâm lược của Nga. Trung Quốc có nhiều khả năng sẽ lo lắng về kỳ vọng Hoa Kỳ hỗ trợ Việt Nam vào thời điểm xâm lược, cán cân quân sự Trung Quốc-Hoa Kỳ ở Đông Á, các cam kết quân sự của Washington với Đài Loan, mức độ hỗ trợ của Nga (điều này sẽ khiến Trung Quốc sẵn sàng để hở sườn phía bắc của mình) hoặc các vấn đề hạt nhân của Triều Tiên. Những tính toán tại thời điểm hành động thậm chí còn quan trọng hơn những bài học rút ra từ lịch sử. Sự lo sợ phi lý của Việt Nam về một cuộc xâm lược của Trung Quốc có thể cản trở những cải thiện trong quan hệ Hoa Kỳ-Việt Nam, vốn cần thiết để ngăn chặn tham vọng của Trung Quốc ở Biển Đông. Theo một cách trực giác điều này có thể khiến Trung Quốc gây hấn hơn khi Trung Quốc thấy cam kết an ninh của Hoa Kỳ đối với Việt Nam là thấp.

 

Ngay cả khi có thông tin hoàn hảo về ý đồ của nhau, một cuộc chiến có thể tự phát huy và có thể tiến triển ngoài mục tiêu ban đầu của bên chủ mưu. Do đó, điều quan trọng chúng ta cần lưu ý là chiến tranh vốn dĩ rất phức tạp và chúng ta nên thận trọng trong việc đưa ra những phép loại suy lịch sử hời hợt và vội vàng.

 

 

– Cù Tuấn dịch bài của Khang Vu trên TheDiplomat

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s