Sự xoay chuyển của chính trường Việt Nam năm 1948

Một sĩ quan Nhật đầu hàng sĩ quan Anh quốc tại Saigon  13-9- 1945. (ảnh wiki)

Một sĩ quan Nhật đầu hàng sĩ quan Anh quốc tại Saigon 13-9- 1945. (ảnh wiki)

Vũ Tường
Tqvn2004 chuyển ngữ

‘Đã đến lúc Cuộc Cách Mạng Đông Dương bộc lộ màu sắc thực của mình’: Sự xoay chuyển hoàn toàn của chính trường Việt Nam năm 1948

Những sử gia thời Chiến Tranh Lạnh đã bỏ qua thời khắc quan trọng đối với Đông Dương – năm 1948. Dựa trên các nguồn tài liệu mới, bài viết này chỉ ra những thay đổi nguy cấp trong môi trường chính trị của phong trào dân tộc chủ nghĩa tại Việt Nam năm 1948. Những thay đổi này là kết quả của những sự kiện diễn ra vào cuối 1947 và đầu 1948, bao gồm cả những thay đổi trên chính trường quốc tế, mối quan hệ giữa Pháp và Việt Nam, và mối quan hệ giữa các lãnh đạo phi cộng sản và cộng sản trong liên minh Việt Minh. Tới cuối năm 1948, các nhà tư tưởng Đảng CS đã bắt đầu bỏ mục tiêu độc lập lại đằng sau để chuyển hướng sang xây dựng một thể chế cộng sản mới. Liên minh dân tộc chủ nghĩa đang lãnh đạo nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã bị tổn hại nghiêm trọng vào năm 1948, ngay cả khi nội chiến chưa diễn ra vài năm sau đó. Cũng giống như những nơi khác ở Đông Nam Á, năm 1948 như thế đánh dấu một giai đoạn mới: Sự kết thúc của giai đoạn “mặt trận thống nhất” và hợp tác cùng với những nhà tư sản dân tộc chủ nghĩa.

Lời giới thiệu

Các sử gia thời Chiến Tranh Lạnh đã bỏ qua năm 1948, thời điểm của những thay đổi quan trọng ở Đông Dương. Thay vào đó, họ tập trung vào năm 1950, khi mà Đảng Cộng Sản Đông Dương (ĐCSĐD) đã thắng lợi trong việc dành được sự ủng hộ từ Trung Quốc và khối Sô Viết; trong khi Pháp và phong trào chống chủ nghĩa cộng sản do Hoa Kỳ dẫn đầu đạt được một thỏa thuận với Hoàng Đế Bảo Đại, và đã thành lập được nước Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) như một sự thay thế cho nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) do Đảng CS lãnh đạo. Dựa trên các văn bản trong nội bộ Đảng CS được công bố gần đây, dựa trên báo chí tiếng Việt, và các hồi ký và phỏng vấn với các bộ trưởng phi Cộng Sản trong chính quyền VNDCCH trong thời kỳ 1945-50, tôi hi vọng sẽ chỉ ra được những thay đổi to lớn về mặt chính trị của phong trào dân tộc chủ nghĩa của Việt Nam vào năm 1948, vốn cho tới nay vẫn bị nhiều người bỏ qua không để ý đến [1].

Những thay đổi này là kết quả của hai xu hướng hội tụ vào cuối năm 1947 và đầu 1948. Một xu hướng liên quan đến sự thành lập của Cominform, công bố học thuyết Zhdanov, chiến thắng quân sự của đảng CS Trung Quốc tại Manchuria (Mãn Châu) và chính sách tái phân bổ ruộng đất mới của họ, và các đối thủ của ĐCSĐD như Bảo Đại và Trần Trọng Kim đã thành công trong việc dành sự ủng hộ của Pháp. Trong khi đa số các sự kiện bên ngoài này được nhiều người biết đến, thì xung đột nội bộ ngày càng tăng bên trong chính phủ VNDCCH giữa các lãnh đạo cộng sản và phi cộng sản – xu hướng thứ hai – lại không được các nhà quan sát chú ý. Kích thích bởi xung đột này, và được cổ vũ bởi những thay đổi trên chính trường thế giới, lãnh đạo Đảng CSĐD đã quyết định lái con đường cách mạng của mình theo hướng cấp tiến (radical), tuân thủ với niềm tin của họ vào chủ nghĩa cộng sản [2].

Sự thay đổi này được chứng tỏ bằng những chuyển đổi quan trọng trong chính sách ruộng đất và nỗ lực củng cố Đảng năm 1948. Một Hội nghị Trung ương đầu năm 1948 đã quyết định đem một năng lượng mới vào chính sách ruộng đất và tăng cường huy động nông dân. Đảng cũng lên kế hoạch (nhưng sau đó đã phải trì hoãn) triệu tập Đại hội Đảng vào cuối năm 1948 để tái thiết lập ĐCSĐD trước đó đã bị giải tán công khai, nhưng thực tế vẫn hoạt động ngầm, vào cuối năm 1945. Báo Đảng được phép chỉ trích công khai các lãnh tụ phi cộng sản nổi danh trong nhà nước Việt Minh, dẫn tới các cuộc tranh luận căng thẳng và sự chia rẽ giữa những người cộng sản và phi cộng sản. Tới cuối năm 1948, các nhà tư tưởng Đảng CS đã bắt đầu đặt mục tiêu độc lập lại đằng sau để chuyển hướng sang xây dựng một thể chế cộng sản mới. Liên minh đã từng dẫn dắt Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa chính thức bị tiêu diệt năm 1948, mặc dù chúng ta chỉ nhìn thấy ảnh hưởng của sự kiện này xuất hiện từ từ trong giai đoạn 1949-50 khi mà quyền lực dần dần bị lấy đi khỏi các bộ trưởng phi cộng sản và nhiều quan chức phi cộng sản của VNDCCH rời bỏ vị trí [3] để ‘dinh tê’ (bỏ sang các thành phố do Pháp kiểm soát) vì tức giận. Cũng giống như ở những nơi khác tại Đông Nam Á, năm 1948 như thế đánh dấu sự kết thúc của giai đoạn mặt trận thống nhất, đây là nơi kết thúc của các liên minh dân tộc chủ nghĩa đã từng lên nắm quyền lực ở Việt Nam năm 1945. Thế nhưng, không giống ở các nơi khác, chính trường nội tại của VNDCCH trong giai đoạn 1945-50 vẫn nằm trong bóng tối cho tới gần đây, bởi những người phi cộng sản trước đây, hoặc đã im lặng, hoặc đã bị bỏ quên, và các tài liệu cộng sản quan trọng không được công khai [4].

Bài viết này được chia làm bốn phần. Phần thứ nhất nói về những thỏa hiệp mà Đảng CSĐD đã phải tuân theo vào cuối năm 1945 khi họ dành chính quyền. Hiểu về những thỏa hiệp này, vốn bị cố ý xóa bỏ khỏi ký ức của công chúng bởi các lãnh đạo cộng sản cho tới gần đây, là đặc biệt quan trọng để hiểu tầm vóc của năm 1948. Phần thứ hai xem xét những phát triển trong năm 1947 về cuộc chiến giữa Pháp và VNDCCH, cũng như các sự kiện quốc tế. Phần ba tập trung vào những vấn đề nảy sinh bên trong chính phủ Việt Minh, diễn ra sau 2 năm hợp tác giữa các lãnh đạo phi cộng sản và cộng sản. Phần thứ tư phân tích sự tan võ của liên minh này vào năm 1948 bởi các chính sách mới của Đảng CSĐD. Trong phần kết luận, tôi sẽ suy xét tại sao các sự kiện ở Việt Nam lại được phơi bày chậm hơn so với các sự kiện tại các quốc gia Đông Nam Á khác.

Tuong Vu phó giáo sư tại Khoa Khoa học Chính Trị, trường đại học Oregon. Chuyên môn của ông là về chính trị Đông Nam Á, kinh tế chính trị phát triển, chính trị của trí thức, các phong trào xã hội có sự tham gia của đông đảo quần chúng, và sự cấu thành của nhà nước. Trao đổi liên quan đến bài viết này có thể gửi tới: thvu(a)uoregon.edu.

Tôi rất biết ơn Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển thuộc trường Đại Học Quốc Gia Hà Nội đã tài trợ cho nghiên cứu của tôi tại Việt Nam, và tôi cũng biết ơn Viện Nghiê Cứu Châu Á thuộc trường Đại học Quốc Gia Singapore, đã ủng hộ bằng uy tín và tài chính rộng rãi của mình. Bài viết này cũng nhận được những góp ý có ích từ Ang Cheng Guan, Karl Hack, Anthony Reid, Geoff Wade và các nhà phê bình ẩn danh của tờ Tạp chí Nghiên Cứu Đông Nam Á.

Chú thích trong bài:

1. Xem Kim Ninh, A world transformed: The politics of culture in revolutionary Vietnam, 1945-1965 (Ann Arbor: University of Michigan Press, 2002), chương 2 và 3, tập trung vào những thay đổi trong chính sách văn hóa và về sự va chạm giữa các nhà lý luận Đảng CS và các trí thức văn hóa trong giai đoạn 1948-1950, và trong đó đồng ý với lập luận ở đây rằng năm 1948 thể hiện một sự phân chia trong cuộc cách mạng Việt Nam.

2. Một nghiên cứu xem xét đầy đủ những thay đổi chính sách của Đảng CSĐD về đấu tranh giai cấp là điều vượt quá khuôn khổ của bài viết này. Nhìn chung ĐCSĐD đã nhấn mạnh vào đấu tranh giai cấp trong một thập niên đầu tiên của nó (1930-1940), nhưng sau đó lại hạ giọng vào giai đoạn 1941-1948. Trước 1948, quan điểm của Đảng CSĐD về đấu tranh giai cấp vẫn luôn chịu ảnh hưởng nặng nề bởi quan điểm của Comintern, trong khi đồng thời phản ánh những tranh luận nội tại về từng biện pháp cụ thể giữa các nhà lãnh đạo cực đoan và ôn hòa trong Đảng. Để tìm hiểu thêm về các chính sách của Đảng CSĐD và mối quan hệ Comintern – Đảng CSĐD, tìm đọc Huỳnh Kim Khánh, Vietnamese Communism (Ithaca, NY: Cornell University Press, 1982). Tôi cũng có phân tích chi tiết chính sách của Đảng CSĐD trong những năm 1940 và 1950, về mối quan hệ giữa cách mạng quốc gia và đấu tranh giai cấp; xem Tuong Vu, ‘Paths to development in Asia: South Korea, Vietnam, China and Indonesia (New York: Cambridge University Press, forthcoming)’; and Vu, ‘From cheering to volunteering: Vietnam communists and the arrival of the Cold War, 1940-1951’, in ‘Connecting histories: The Cold War and decolonization in Asia (1945-1962), biên tập bởi Christopher Goscha và Christian Ostermann (Standford: Standford University Press, 2009). Dù sao, chúng ta cũng biết nhiều về những tranh luận nội bộ giữa các nhà lãnh đạo cực đoan và ôn hòa của Đảng CSĐD trong những năm 1930 hơn là trong các giai đoạn sau đó.

3. Lực lượng quân du kích. Để biết suy nghĩ của một trí thức dời bỏ vị trí, xem Phạm Duy, Hồi ký: Cách mạng và thời kháng chiến (PDC Musical Productions, 1991).

4. Bài viết này đặc biệt nhận được những thông tin quý giá từ hai hồi ký được công bố gần đây bởi ông Vũ Đình Hòe. Những hồi ký này được kết hợp từ các hồi ký không được công bố của một vài đồng nghiệp gần gũi của ông Hòe như Phan Anh và Vũ Trọng Khánh. Ông Vũ Đình Hòe, sinh năm 1912, là bộ trưởng phi Cộng Sản duy nhất trong chính quyền Việt Minh (1945-1954) vẫn còn sống đến ngày hôm nya. Tôi cảm ơn ông Hòe và con trai của ông, giáo sư Vũ Thế Khôi, đã cho tôi thực hiện nhiều cuộc phỏng vấn kể từ năm 2003.

Tuong Vu (trái) phó giáo sư tại Khoa Khoa học Chính Trị, trường đại học Oregon. Chuyên môn của ông là về chính trị Đông Nam Á

Tuong Vu (trái) phó giáo sư tại Khoa Khoa học Chính Trị, trường đại học Oregon. Chuyên môn của ông là về chính trị Đông Nam Á – Ảnh : asiasociety.org

Những thỏa hiệp bị quên lãng

Với nghiên cứu mở đường của Vũ Ngự Chiêu, học giả nghiên cứu về lịch sử Việt Nam hiện đại đã bắt đầu nghi vấn về giả thiết rằng chính quyền Việt Minh là một sự đoạn tuyệt hoàn toàn với chính phủ Trần Trọng Kim (TTK), vốn đã tồn tại trước nó trong một thời gian ngắn (từ tháng Tư đến tháng Tám 1945) [5]. Giả thiết này một phần là do thiếu những dữ liệu lịch sử liên quan đến chính quyền TTK. Nhưng phần khác lớn hơn, là các nhà quan sát đã (vô tình hoặc cố ý) tin vào những lời tuyên truyền của Việt Minh cũng như các nhà sử gia cộng sản (ví dụ Trần Huy Liệu) rằng chính quyền TTK chỉ là một chính quyền bù nhìn đã bị lật đổ vào tháng Tám 1945 khi những người cộng sản dành quyền lực với sự ủng hộ của đông đảo quần chúng. Đây lại là một trường hợp mà kẻ chiến thắng viết lại lịch sử để che đậy quá khứ của chính mình. Tôi muốn chỉ ra rằng, để dành được sự lên ngôi và tồn tại của mình vào cuối năm 1945, những người Cộng sản đã phải đưa ra những thỏa hiệp với những người ủng hộ và thành viên của chính quyền TTK, với tầng lớp thượng lưu thuộc địa và cơ quan thuộc địa, với các nhóm nhân dân địa phương. Hiểu rõ về những thỏa hiệp này sẽ giúp chúng ta hiểu tầm quan trọng của năm 1948, và khi những thỏa hiệp này bị bỏ rơi, chúng góp phần vào cuộc nội chiến sau đó giữa miền Bắc và Nam Việt Nam.

Câu chuyện về những thỏa hiệp này bắt đầu khi Nhật bước vào Đông Dương thuộc Pháp năm 1940 qua sự thương lượng. Đối mặt với mối đe dọa Nhật Bản, chính quyền Vichy đã đồng ý mở các cảng và đường xá, cung cấp nhân lực và vật liệu cho nhu cầu chiến tranh của Nhật Bản. Đáp lại, Pháp được phép duy trì bộ máy cai trị của mình đối với Đông Dương [6]. Chỉ tới tháng 3 năm 1945, sau khi chính quyền Vichy sụp đổ ở Pháp và người ta trông đợi lực lượng Đồng Minh tới tiếp quản Đông Dương, Nhật mới quyết định lật đổ chính quyền Pháp ở đây.

Sau khi tống giam bộ máy quản lý và quân đội thuộc địa của Pháp vào tháng Ba năm 1945, Nhật cho phép Hoàng đế Việt Nam tuyên bố một Đế Quốc Việt Nam (ĐQVN) độc lập, và thiết lập bộ máy quản lý của người Việt vào tháng sau đó. Thay vì lựa chọn những người theo chủ nghĩa dân tộc có nhiều kinh nghiệm (như họ đã làm ở Java), người Nhật chọn một nhóm trí thức và giáo sư thành đạt trong cuộc sống, nhưng thiếu kinh nghiệm chính trị để thành lập chính quyền mới của Việt Nam [7]. Thủ tướng của chính quyền này, ông Trần Trọng Kim, được đào tạo tại Pháp và được biết tới chủ yếu như là một thanh tra trường học và một sử gia [8].

Mặc dù các lãnh đạo mới này có rất ít kinh nghiệm chính trị và chính quyền đó chỉ tồn tại có 4 tháng, vai trò lịch sử của nó không phải không có những ảnh hưởng nhất định [9]. Đứng bên cạnh nó là nhiều nhóm thành thị có ảnh hưởng như Đảng Đại Việt [10] nhà nhóm Thanh Nghị [11], vốn theo chủ nghĩa dân tộc. Phan Anh và Vũ Văn Hiền, hai luật sư được đào tạo ở Pháp trong Thanh Nghị đã giữ hai vị trí tương ứng là Bộ Trưởng Thanh Niên và Bộ Trưởng Tư Pháp. Nhóm Thanh Nghị đã tạo ra Tân Việt Nam Hội để động viên sự ủng hộ của quần chúng đối với chính phủ mới [12]. Trung ương của Hội này gồm 33 trí thức và giáo sư nổi tiếng, là những người thuộc một mạng lưới rộng lớn hơn các trí thức cùng tâm tư, những người đã thành lập và đóng góp cho Thanh Nghị [13]. Trong nhiệm kỳ ngắn ngủi của mình, chính quyền TTK đã mở rộng đáng kể cơ hội cho hoạt động chính trị của quần chúng bằng cách dỡ bỏ kiểm duyệt báo chí, thả hàng ngàn tù chính trị từ các nhà tù thuộc địa, và tiến hành phong trào thanh niên rộng lớn tại các thành phố. Nếu không có những bước tiến này, sự nổi dậy tự phát của quần chúng dẫn tới việc dành chính quyền khi Nhật Bản đầu hàng tháng Tám năm 1945 có lẽ đã không xảy ra.

Sự lật đổ Pháp của người Nhật tháng 3 năm 1945 đã đưa chính phủ TTK lên nắm quyền lực, nhưng sự kiện này đồng thời là món quà của người Nhật dành cho phong trào cộng sản đang hoạt động bí mật [14]. Cảnh sát và mật thám thuộc địa Pháp, cho tới thời điểm đó, đã làm rất tốt việc đàn áp phong trào cộng sản. Năm 1940, cảnh sát và quân đội thuộc địa đã đập tan một cuộc phản kháng dẫn dắt bởi Đảng CSĐD ở miền Nam Việt Nam và xử tử gần như tất cả lãnh đạo của nó. Năm 1941, Hồ Chí Minh quay trở về khu vực biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc, và tìm cách khôi phục phong trào. Ông ta và các lãnh đạo còn sống sót của Đảng CSĐD chi nhánh miền Bắc đã thiết lập Việt Nam Độc Lập Đồng Minh, một tổ chức mặt trận điều khiển bởi những người cộng sản nhưng mở rộng cho mọi thành phần khác tham gia [15]. Bắt chước chính sách của Trung Quốc, các nhà lãnh đạo Đảng CSĐD tìm cách xây dựng lực lượng du kích quân và thành công ở một mức độ nào đó trong việc huy động sự ủng hộ của địa phương để thực hiện sự nghiệp của mình [16]. Dưới sự tài trợ của Zhang Fakui, một tướng Quốc Dân Đảng, Hồ lưỡng lự hợp tác với các nhóm người Việt theo chủ nghĩa dân tộc tại miền Nam Trung Quốc để thiết lập một mặt trận tương tự, nhưng chỉ thu hút được số ít tham gia [17]. Thế nhưng trước tháng Ba năm 1945, Việt Minh có một tổ chức chính quy nhỏ và duy trì một sự phản kháng bấp bênh trước sự đàn áp dữ dội của Pháp. Điều này thay đổi khi Nhật hất cẳng Pháp vào tháng Ba năm 1945. Tới lúc đó, các chỉ huy quân đội Nhật chủ yếu lo lắng chuẩn bị cho cuộc đổ bộ của quân đội Đồng Minh, chứ không chú ý tới các cuộc nổi dậy trong nước. Nông thôn vì thế trở thành khoảng trống, không ai ngăn cản việc khích động quần chúng, và Việt Minh nhanh chóng tận dụng này [19]. Trong khi Việt Minh công khai lên án chính quyền TTK như một thứ bù nhìn Nhật Bản [20], đằng sau sân khấu thì những người cộng sản lại tìm cách lôi kéo lãnh đạo bên chính quyền TTK làm việc cho sự nghiệp của mình [21]. Điều này tạo ra cơ hội cho những thỏa hiệp về sau.

Chú thích trong bài viết

5. Vũ Ngự Chiêu, ‘The other side of the revolution: The Empire of Vietnam (March-August 1945)’, Journal of Asian Studies, 45, 2 (1986): 293-328. Vũ Ngự Chiêu chỉ ra rằng chính quyền TTK đã tạo ra những điều kiện thuận lợi để Việt Minh chiếm quyền thành công vào tháng Tám năm 1945 như thế nào. Xem thêm Stein Tønnesson, The Vietnamese revolution of 1945 (London: Sage Publications, 1991); và David Marr, Vietnam 1945: The quest for power (Berkeley: University of California Press, 1995).

6. Vai trò của Nhật Bản đối với tương lai của Đông Dương không dễ thấy như trong trường hợp của Indonesia. Tại Dutch Indies, quân đội Nhật Bản đã đổ bộ, nhanh chóng đánh bại lực lượng quân đội thuộc địa Hà Lan, và đưa những người dân tộc chủ nghĩa nổi tiếng lên làm cố vấn cho chính quyền quân sự của Nhật, với lời hứa sẽ trả lại độc lập trong tương lai. Tuy nhiên, ở Việt Nam, Pháp vẫn còn tại vị, và Nhật chẳng làm gì nhiều ngoài để ngỏ các khả năng của mình khi tiếp xúc với các nhóm Việt Nam như Hòa Hảo và Cao Đài, và bảo vệ một số người theo chủ nghĩa dân tộc khỏi sự đàn áp của Pháp.

7. Để tìm hiểu về các giả thuyết liên quan đến động cơ của Nhật khi làm việc này, xem Tønnesson, The Vietnamese Revolution of 1945, tr. 282-6; Marr, Vietnam 1945, tr. 116-117.

8. Nguyễn Quốc Thắng và Nguyễn Bá Thế, Từ điển Nhân vật Lịch sử Việt Nam (thành phố Hồ Chí Minh: Văn Hóa, 1997), tr. 894-895

9. Vũ Ngự Chiêu, ‘The other side of the revolution’.

10. Xem Francois Guillemot, ‘Vietnamese nationalist revolutionaries and the Japanese Occupation: The case of the Đại Việt parties (1936-1946)’, trong Imperial Japan and national identities in Asia, 1895-1945, biên tập bởi Li Narangoa và Robert Cribb (New York: Routledge Curzon, 2003), tr. 221-48

11. Đây là tập hợp của nhiều luật sư, bác sĩ, và các chuyên gia khác, những người cùng nhau xuất bản tờ Thanh Nghị tại Hà Nội từ năm 1940-1945. Thanh Nghị thường được dịch theo nghĩa bóng là “những thảo luận / nghị luận rõ ràng”.

12. Trong cuộc phỏng vấn của tôi với ông Vũ Đình Hòe (Hà Nội, 12/2003), vốn là bí thư của đảng, ông giải thích rằng ‘Hội’ ở đây cũng có nghĩa là ‘Đảng’, chứ không phải chỉ là hội đoàn.

13. Vũ Đình Hòe, hồi ký Thanh Nghị (Hà Nội: Văn học, 1995), trang 182-189. Đảng Đại Việt có lẽ đã bị đàn áp bởi Nhật vào tháng 7 năm 1945, và nhiều lãnh tụ của nó đã ra nhập Việt Minh.

14. Tønnesson, The Vietnam revolution of 1945, trang 247.

15. Như trên, tr. 114-125.

16. Như trên, tr. 125-132 và 144-147.

17. Như trên, tr. 122. Hồ Chí Minh đi tới miền Nam Trung Quốc vào năm 1943, và bị bắt bởi lực lượng Quốc Dân Đảng, và đã bị giam giữ trong vòng một năm trước khi được thả và được yêu cầu hợp tác với các nhóm theo chủ nghĩa dân tộc khác.

18. Như trên, tr. 131.

19. Như trên, tr. 249. Trong bài báo trên tờ Việt Nam Độc Lập, một tờ báo của Việt Minh (30 tháng tư năm 1945), người ta đã thừa nhận phong trào đã hưởng lợi từ sự sụp đổ của Pháp.

20. Xem Việt Nam Độc Lập, 21 tháng tư năm 1945.

21. Lê Trọng Nghĩa, ‘Các cuộc tiếp xúc giữa Việt Minh và chính phủ Trần Trọng Kim’, trong Lịch sử, sự thật và bài học (Hà Nội: Trẻ, 2000).

Chính phủ TTK chỉ mới tồn tại được 4 tháng khi Nhật đầu hàng. Trước làn sóng quần chúng bạo loạn diễn ra sau sự kiện này, và một sự thách thức của Việt Minh ở miền Bắc, chính quyền này đã từ nhiệm và đồng ý chuyển giao quyền lực cho đối thủ của mình mà không chống cự. Sự thỏa hiệp này là điều đáng phải nói đến, bởi vì chính quyền TTK có thể chọn con đường đàn áp những người cộng sản: Trong khi tại Hà Nội, nơi Việt Minh mạnh nhất, các nhóm thân Việt Minh chỉ có dưới 1000 người ủng hộ với khoảng 100 súng, trong khi đó chính quyền TTK có trong tay 1500 lính dân sự có trang bị vũ khí [22]. Để đổi lại, nhiều lãnh đạo bên Đế Quốc Việt Nam sau đó đã được nhận những chức vụ trong chính quyền Việt Minh như Bộ trưởng và phó Bộ Trưởng. Trong đó bao gồm Phan Anh (Bộ trưởng Bộ Thanh Niên), Phan Kế Toại (Khâm Sai Bắc Bộ), Nguyễn Văn Hưởng (trợ lý chính của Phan Kế Toại), Tạ Quang Bửu (trợ lý của Phan Anh), Vũ Trọng Khánh (Thị trưởng Hải Phòng), Nguyễn Mạnh Hà (trưởng ban kinh tế Hải Phòng), Hoàng Minh Giám (đội trưởng liên kết Việt Nhật ở miền Bắc) và những người khác. Trong bộ máy hành chính thuộc địa, bao gồm cả luật pháp, thủ tục và nhân viên thuộc địa, tất cả đều được sử dụng gần như nguyên vẹn cho chính quyền mới [23]. Hàng ngàn binh lính thuộc địa đã đào ngũ và tham gia lực lượng Việt Minh vào cuối năm 1945 [24]. Sự ra đời của nhà nước Việt Minh diễn ra qua thỏa hiệp quan trọng, nhưng ít được để ý đến, này. Khi Hồ Chí Minh tuyên thệ để trở thành Chủ tịch nước VNDCCH vào tháng 9 năm 1945, gần một nửa các vị trí trong nội các của ông được trao cho những người phi cộng sản [23]. Cộng sản nắm các vị trí như Bộ Ngoại Giao, Bộ Quốc Phòng, Bộ Nội Vụ và Bộ Thông tin trong chính quyền liên minh, trong khi trao các thực quyền cho những người phi cộng sản ở Bộ Kinh Tế, Bộ Nông Nghiệp, Bộ Giáo Dục và Bộ Tư Pháp.

Chính quyền Việt Minh được nhiều người cho là một mặt trận với Đảng CSĐD ở trung tâm dẫn dắt các thành phần phi cộng sản và các “đồng chí” khác trong mặt trận. Nếu nhìn gần hơn, điều này không hoàn toàn đúng. Chấp nhận những thỏa hiệp chính trị trong khi thiếu vắng những nhân sự có đủ trình độ của riêng mình, lãnh đạo Đảng CSĐD đã trao cho các lãnh đạo phi cộng sản, phần lớn là các thành viên thuộc nhóm Thanh Nghị, đầy đủ quyền lực trong lĩnh vực mình quản lý, từ thị trưởng hay tỉnh trưởng cho đến các bộ trưởng thuộc một số bộ. Thay vì đơn giản là chiếm giữ các vị trí trên một trong những vòng tròn đồng tâm bao quay Đảng CSĐD như mô hình lý thuyết về mặt trận thống nhất thường mô tả [26], các lãnh đạo phi cộng sản tạo thành những trung tâm của nhiều quỹ đạo các hoạt động tự trị. Mặc dù những quỹ đạo này không nằm trong lĩnh vực chính sách đối ngoại hay quốc phòng, chúng liên quan đến những khu vực quan trọng, gồm cách chính sách xã hội, văn hóa và kinh tế tại mức quốc gia lẫn địa phương. Trong khi sự thống trị của những người cộng sản là điều không thể bàn cãi, có những lĩnh vực quan trọng của bộ máy nhà nước mà họ có rất ít quyền kiểm soát. Như lãnh đạo Đảng CSĐD và Thủ tướng Phạm Văn Đồng than vãn vào đầu năm 1950, ‘Hiện tại Đảng chúng ta chỉ nắm được những tổ chức chính phủ quan trọng, chứ không phải toàn bộ các lĩnh vực và phòng ban kỹ thuật. Ngay cả cơ quan quan trọng như cảnh sát, chúng ta cũng không có kiểm soát được từ trên xuống dưới. Kiểm soát của chúng ta trong hệ thống tư pháp cũng yếu. Thể chế giáo dục thì nằm ngoài sự chỉ huy trực tiếp của chúng ta’ [27]. Chúng ta sẽ xem ở dưới đây tại sao Phạm Văn Đồng lại tỏ ra buồn bã như vậy; tuy nhiên trong cuối năm 1945 thì sự thỏa hiệp như thế là cách duy nhất để một Đảng CSĐD còn yếu vươn lên và nắm giữ quyền lực.

Trên thực tế, nếu không có những thỏa hiệp ban đầu này, Đảng CSĐD có lẽ đã không thể tồn tại trước những thách thức từ cánh hữu sau khi dành được quyền lực vào tháng 8 năm 1945. VNDCCH chỉ mới thành lập được 5 tuần thì quân Quốc Dân Đảng tiến vào Hà Nội để tước vũ khí của quân đội Nhật Bản theo thỏa thuận Postdam [28]. Theo chân đội quân này từ miền nam Trung Quốc là hai nhóm lưu vong nổi tiếng, Việt Nam Quốc Dân Đảng (VNQDĐ) và Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội (VNCMĐMH). VNQDĐ, lưu vong sang miền Nam Trung Quốc sau khi bị đập tan trong vụ nổi dậy thất bại của mình vào năm 1930, dẫn đầu bởi Nguyễn Tường Tam, một trí thức và tiểu thuyết gia nổi tiếng được đào tạo ở trường Pháp [30]. Trong những năm 1930, Tam là lãnh đạo nhóm Tự Lực Văn Đoàn tại Hà Nội, nhưng đã ra hải ngoại trong thế chiến II để gia nhập VNQDĐ. VNCMĐMH được lãnh đạo bởi Nguyễn Hải Thần, người đã có nhiều hoạt động tại các tổ chức chống thực dân ở miền nam Trung Quốc từ những năm 1905, và là người đã từng học và giảng dạy tại Học viện quân sự Whampoa [30]. VNQDĐ và VNCMĐMH nắm quyền ở nhiều tỉnh với lực lượng quân sự riêng của họ và yêu sách rằng chính quyền Việt Nam phải từ nhiệm. Lực lượng Việt Minh vẫn kiểm soát Hà Nội nhưng những vụ chạm trán vẫn nổ ra hàng ngày giữa hai phe đối địch này.

Các tướng Trung Quốc chủ yếu quan tâm vào việc giữ trật tự và tước vũ khí quân đội Nhật. Không giống như người Mỹ ở Nam Hàn hay người Anh ở Sài Gòn, quân đội Trung Quốc ở Hà Nội thừa nhận chính quyền của Hồ. Như đã nói ở trên, trong những năm 1943-1944, tướng Quốc Dân Đảng đã ủng hộ cho một số nỗ lực hợp tác giữa các nhóm Việt Nam tại hải ngoại, bao gồm cả hồ Chí Minh như một đại diện của Việt Minh. Bây giờ họ đơn giản là tiếp tục nỗ lực đó bằng cách ép Hồ phải chia sẻ quyền lực với VNQDĐ và VNCMĐMH. Quá yếu để chống lại quân Trung Quốc, cộng sản đã hứa cho đối thủ của mình vị trí Phó thủ tướng, vài vị trí bộ trưởng, và 70 ghế trong Quốc Hội mới bầu. Hồ Chí Minh cũng buộc phải đề cử ‘những người không đảng phái'[31] vào các vị trí Bộ trưởng Quốc Phòng và Nội Vụ. Bởi vì lãnh đạo Đảng CSĐD muốn tránh những cáo buộc của kẻ thù rằng chính quyền Việt Minh được lãnh đạo bởi những người cộng sản, họ đã thỏa hiệp bằng cách ra lệnh giải tán Đảng CSĐD vào tháng 11 năm 1945. Đảng này thực chất không bao giờ bị giải tán; nó chỉ đi vào hoạt động bí mật kể từ thời điểm đó. Tại một thời điểm, áp lực của Trung Quốc căng thẳng tới mức Hồ Chí Minh thậm chí còn cân nhắc cả việc đưa cực Hoàng Đế trở lại vào lãnh đạo chính quyền, trong khi ông ta từ chối để trở thành một ‘cố vấn’ [32]. Điều Đảng CSĐD mời chào các nhóm hải ngoại không phải là một thỏa hiệp thực tế, bởi lẽ người cộng sản chưa bao giờ nắm trọn quyền lực, [ở thế trên] so với các đối thủ hoặc các bộ trưởng ngoài Đảng [33]. Ngay khi Trung Quốc rút lui vào giữa năm 1946, chính quyền Hồ Chí Minh thanh lọc phần lớn các lãnh đạo VNQDĐ và VNCMĐMH; số còn lại trốn thoát chạy sang miền nam Trung Quốc hoặc các nơi khác.

Sự đối địch giữa Đảng CSĐD và các nhóm hải ngoại củng cố những thỏa hiệp giữa những người cộng sản và phi cộng sản bên trong chính quyền Việt Minh. Với việc VNQDĐ và VNCMĐMH tăng cường lôi kéo những thành phần tinh hoa ở thành thị, Đảng CSĐD đi tới việc phải dựa vào các trú thức và doanh nhân nổi tiếng trong chính phủ liên hiệp để vươn ảnh hưởng ra các khu vực bầu cử thành phố. Những cựu viên chức của Đế Quốc Việt Nam đã đóng một vai trò quan trọng, nhưng không được thừa nhận, trong việc tạo ra sự ủng hộ cho Việt Minh. Những viên chức này có ảnh hưởng trong các vòng tròn tinh hoa thuộc địa; gia đình và quan hệ kinh doanh của họ liên quan đến các quan lại cũ, các tinh hoa địa phương và quan chức thuộc địa giúp lôi kéo những thành phần này về phía Việt Minh [36]. Bên cạnh đó, chính quyền Việt Minh tiến hành hàng loạt các vụ bắt bớ các thành viên của VNQDĐ cũng như VNCMĐMH với cáo buộc những người này đã vi phạm pháp luật. Sự tham gia của những người phi cộng sản ở trong chính phủ, đặc biệt là trong Bộ Tư Pháp, đã giúp làm lệch hướng những cáo buộc rằng các vụ bắt bớ chẳng qua là hành động thanh lọc của cộng sản. Quân đội Trung Quốc đã có thể dùng những cáo buộc kiểu như thế để làm cớ lật đổ chính quyền Việt Minh. Bên ngoài vai trò chính trị của họ, những người phi cộng sản cũng đã được ghi nhận trong các lĩnh vực khoa học kỹ thuật có lợi cho Đảng CSĐD trong nhiều nhiệm vụ quản trị khó khăn, bao gồm việc lập ra Hiến Pháp mới và các bộ luật mới, lựa chọn và bổ nhiệm các viên chức mới, chiến đấu với nạn mù chữ và nạn đói, thực hiện cách chính sách nông nghiệp để ngăn chặn nạn đói.

Chú thích trong bài viết

22. Marr, Vietnam 1945, tr. 393.

23. David Marr, ‘Beyond high politics: State formation in northern Vietnam, 1945-1946’, trong Naissance d’un état-parti: Le Viet Nam depuis 1945 / The birth of a party-state: Vietnam since 1945, biên tập bởi Christopher Goscha và Benoit de Tréglodé (Paris: Le Indes Savantes, 2004), tr. 25-60.

24. John McAlister, Vietnam: The origin of revolution (New York: Alfred Knopf, 1969); Greg Lockhart, Nations in arms: Origins of the People’s Army of Vietnam (Wellington: Allen & Unwin, 1989), tr. 150, 175-176.

25. Những người phi cộng sản, bao gồm Vũ Đình Hòe (Giáo dục, và sau đó là Tư pháp), Dương Đức Hiền (Thanh niên), Vũ Trọng Khánh (Tư pháp), Nguyễn Mạnh Hà (kinh tế), Nguyễn Văn Tố (xã hội), và Nguyễn Văn Xuân (không bộ). Nhiều người phi cộng sản được bổ sung sau này, bao gồm Nghiêm Xuân Yêm (Nông nghiệp), Nguyễn Văn Huyên (Giáo dục), Trần Đăng Khoa (Thủy lợi) và Phan Anh (thương mại và công nghiệp).

26. Để tìm hiểu về lý thuyết và thực hành của Đảng CSĐD về mặt trận thống nhất những năm 1930, xem Huỳnh, Vietnamese Communism, tr. 137-141.

27. Phạm Văn Đồng, ‘Phải kiện toàn chính quyền cộng hòa nhân dân’, phát biểu trước Đại Hội Đảng Toàn Quốc lần III, 21/1-3/2/1950. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, vol. 11, tr. 185.

28. Peter Worthington, ‘Occupation and revolution: The Chinese Nationalist Army in north Vietnam, 1945-1946’ (Luận văn PhD, Universtity of Hawaii, 1995).

29. Neil Jamieson, Understanding Vietnam (Berkeley: University of California Press, 1993), tr. 113-114, 176-181.

30. Nguyễn Quốc Thắng và Nguyễn Bá Thế, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, tr. 953-954.

31. ‘không đảng phái’ ở đây có nghĩa là họ không thuộc về Đảng CSĐD cũng như VNQDĐ hay VNCMĐMH.

32. Vũ Đình Hòe, Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh, (Hà Nội: Văn hóa thông tin, 2000), tr. 58.

33. Đọc thêm về nỗ lực của cộng sản để nắm quyền tại Bộ Nội Vụ dưới con mắt của một người được bổ nhiệm, xem Lê Giản, Những ngày sóng gió: Hồi Ký, (Hà Nội: Công An Nhân Dân, 2000).

34. Chính quyền Tưởng Giới Thạch làm theo áp lực của Hoa Kỳ, cho phép quân Pháp thay thế quân Trung Quốc. Người Pháp, để đáp lại, đã cho Tưởng một số quyền ưu tiên về thương mại tại miền Bắc Việt Nam. Xem Worthington, ‘Occupation and revolution’.

35. Đối với những người còn ở lại thì số phận không mỉm cười với họ. Ví dụ, lãnh tụ VNQDĐ Chu Bá Phượng, Bộ trưởng bộ kinh tế, đã được gửi tới trại tập trung vì đã tìm cách bỏ trốn khỏi vùng Việt Minh kiểm soát; xem Văn Phòng Quốc Hội, Đại Biểu Quốc hội từ khóa I đến khóa X, (Hà Nội: Chính Trị Quốc Gia, 2002) để biết về số phận của nhiều lãnh tụ VNQDĐ và VNCMĐMH.

36. Vũ Đình Hòe, Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh, tr. 68, 96-100. Một ví dụ nổi tiếng là Nguyễn Văn Huyên, Bộ trưởng Giáo dục VNDCCH (tới năm 1975), là con rể của quan Vi Văn Định, tỉnh trưởng Thái Bình.

Một thỏa hiệp quan trọng khác được thực hiện ở mức địa phương. Trong khi những nghiên cứu trước đây giả định rằng Việt Minh nắm quyền lãnh đạo trung ương của cuộc cách mạng, những tác phẩm gần đây cho thấy tình hình phức tạp hơn nhiều. Trước tháng Tám năm 1945, các lãnh đạo Việt Minh đã ước đoán lầm và trông đợi một cuộc đổ bộ của Trung Quốc và Hoa Kỳ để giải giáp Nhật Bản. Họ vì thế đã tập trung vào việc xây dựng đội quân du kích để chiến đấu bên cạnh Đồng minh [37]. Cuộc đổ bộ này không bao giờ xảy ra. Khi Nhật Bản bất ngờ đầu hàng và khoảng trống quyền lực mở ra ở các thành phố, thì chính các nhóm địa phương đã chiếm quyền một cách tự phát và không đổ máu. Nhiều nhóm địa phương được tổ chức bởi các cán bộ cộng sản bí mật hoặc vừa mới được thả khỏi nhà tù, nhưng cũng có nhiều nơi chính quyền địa phương là do các thành phần tinh túy hoặc nhóm tư sản địa phương thành lập. Lấy ví dụ, ở Hà Nội, Đảng Dân Chủ, không phải là một nhánh của Đảng CSĐD, đã nắm đa số tay súng. Các nhóm không phải Việt Minh cũng chạy đua để chiếm quyền, nhưng vì lý do này hoặc lý do khác đã thua các nhóm ủng hộ Việt Minh như Đảng Dân Chủ [40]. Đa số các cán bộ cộng sản địa phương tự ý hành động mà không có chỉ thị từ trung ương Đảng CSĐD. Tại đa số các trung tâm tỉnh lỵ thuộc miền Trung và miền Bắc Việt Nam, đó là đội Thiếu Niên Tiền Phong tổ chức bởi Phan Anh – Bộ trưởng Bộ Thanh Niên của chính quyền TTK – trước đây, chiếm quyền lãnh đạo [41]. Các lãnh đạo Trung Ương Việt Minh và quân du kích của họ tới sau vài ngày, thậm chí là vài tuần, và nắm quyền kiểm soát của một vài thành phố chính; tại đa số các địa điểm khác, các nhóm nhân dân hay du kích địa phương này được mặc nhiên thừa nhận là chính quyền Việt Minh ở địa phương.

Trong ký ức khá chi tiết của mình về cuộc cách mạng nhân dân địa phương trên khắp Việt Nam vào cuối năm 1945, sử gia David Marr mô tả làm thế nào ‘Chính quyền được thành lập bởi Việt Minh ở Hà Nội gần như biến thành tù nhân của hàng ngàn ủy ban cách mạng nảy nở trên khắp mọi miền đất nước, nắm quyền lực trực tiếp’ [42]. Chính quyền trung ương đã tích hợp đa số các nhóm địa phương, người chiếm quyền điều hành địa phương cuối năm 1945, bất chấp phẩm chất cách mạng và lòng trung thành chính trị của họ. Các chính sách do các chính quyền ‘cách mạng’ địa phương đưa ra đáp ứng nhiều hơn tới các lợi ích và điều kiện địa phương, hơn là tới mệnh lệnh của chính quyền trung ương [43]. Vấn đề các “quan cách mạng” rất phổ biến sau sự ra đời của nhà nước Việt Minh. Đặc biệt là các Ủy ban Nhân Dân cấp xã đã trở thành nổi tiếng với sự dốt nát, gia đình trị, bao che, bắt giữ tùy tiện và sử dụng tài sản công sai mục đích [44]. Đánh nhau diễn ra thường xuyên giữa các nhóm du kích địa phương. Trong đa số trường hợp, các du kích quân Việt Minh không đánh nhau với Nhật Bản. Thay vào đó, đó là các nhóm “Việt Minh cũ” đánh nhau với các nhóm “Việt Minh mới” [45], các nhóm Việt Minh bắn nhau với các nhóm Đảng Dân Chủ [46], và các Ủy ban Nhân Dân địa phương thách thức quyền lực của ủy ban Việt Minh [47]. Chúng ta sẽ thấy rằng các tổ chức địa phương không chịu phục tùng này sẽ trở thành sự bất hòa chính dẫn tới chia rẽ giữa các lãnh đạo cộng sản và phi cộng sản trong Nhà nước Việt Minh vào năm 1948.

Nhìn tổng thể, những người cộng sản Việt Nam lên nắm quyền mà không đổ nhiều máu và đã thiết lập một nhà nước mới trong thời gian ngắn. Giá phải trả là họ buộc phải chấp nhận các thành phần tinh túy thuộc địa cũ, các cơ quan thuộc địa, và các nhóm nhân dân địa phương. Những người cộng sản đã không chấp nhận tất cả: Những người theo chủ nghĩa Tờ-rốt-ki (Trotsky) và nhiều nhà lãnh đạo VNQDĐ và VNCMĐMH là đối thủ của Đảng CSĐD đã bị hạ thủ một cách tàn nhẫn [48]. Cùng lúc, việc chấp nhận các thành phần tinh túy cũ này ở Việt Nam là hoàn toàn khác biệt so với sự hiện diện mang tính “nghi thức” của những người phi cộng sản trong chính quyền cộng sản Trung Quốc tại Hoa Lục năm 1949 [49]. Những ‘cá nhân yêu nước’ này không đóng một vai trò trực tiếp nào trong chiến thắng của Đảng CSTQ trong cuộc nội chiến và được đưa vào chính quyền sau đó chủ yếu vì mục đích tuyên truyền. Ngược lại, các viên chức Đế Quốc Việt Nam và các trí thức thành thị khác, những người đã hợp tác cùng những người cộng sản, lại đóng vai trò quan trọng đối với việc trỗi dậy và nắm quyền lực của Đảng CSĐD trong giai đoạn cuối năm 1945 tới giữa năm 1946. Ở mức độ quần chúng, nhà nước Việt Minh tích hợp hàng loạt các nhóm quần chúng địa phương. Chúng ta sẽ thấy rằng sự thỏa hiệp này chỉ có tác dụng trong thời gian ngắn và những rạn nứt nghiêm trọng trong liên minh này sẽ lộ ra vào năm 1948.

Chú thích trong bài viết:

37. Tønnesson, Vietnameses revolution of 1945, tr. 336.

38. Một đảng lỏng lẻo do các trí thức và sinh viên học trường Pháp lãnh đạo, được Đảng CSĐD giúp đỡ thiết lập vào tháng 6/1944 để thu hút sự ủng hộ từ các thành phần tinh túy ở thành phố. Đảng CSĐD duy trì ảnh hưởng của mình đối với Đảng Dân Chủ qua các cán bộ cộng sản nằm trong bộ phận lãnh đạo Đảng Dân Chủ. Đảng Dân Chủ được coi như là một đảng thiểu số trong chính quyền Việt Minh.

39. Marr, Vietnam 1945, tr. 393; Vũ Đình Hòe, Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh, tr. 63.

40. Marr, Vietnam 1945, tr. 375-377.

41. Như trên, trang 464-466. For the local dynamics in a Mekong Delta provice, see David Elliott, The Vietnamese war, 2 vols. (New York: M. E. Sharpe, 2003).

42. Như trên, tr. 402.

43. Marr, ‘Beyond high politics’.

44. Xem lá thư của Hồ Chí Minh: ‘Thư gửi Ủy ban Nhân Dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng’, n.d. ĐCSVN, tập 8, tr. 16-18; và xem hàng loạt các bài viết trên báo của VNP, ‘Xưa và Nay: Nhìn qua các Ủy ban hành chính địa phương’, Việt Nam, 25/5-5/6/1946.

45. Như trên.

46. Vũ Đình Hòe trích từ báo cáo năm 1948 của Phạm Tuấn Khánh, Tổng thư ký Đảng Dân Chủ (Vũ Đình Hòe, Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh, tr. 141). Xung đột nổ ra ở Hải Dương và miền Bắc Việt Nam. Xem thêm cả Marr, Vietnam 1945, tr. 409-410.

47. Xem ‘Chỉ thị Ban Chấp hành Trung ương’, 25/10/1945, ĐCSVN, tập 8, tr. 30.

48. Đây không phải là đặc điểm duy nhất chỉ có ở Việt Nam. Tại Indonesia, Sutan Sjahrir cũng thỏa hiệp với và hợp tác với Sukarno và Amir Sjarifuddin nhưng không thỏa hiệp với Tan Malaka. Xem Tuong Vu, ‘State formation and the origins of developmental states in South Korea and Indonesia’, Studies in Comparative International Development, 41, 4 (2007): 27-56.

48. Sau năm 1954, những người phi cộng sản hợp tác với cộng sản ở Việt Nam cũng bị chuyển hóa tương tự thành 2 đảng chính trị mang tính biểu tượng là Đảng Dân Chủ và Đảng Xã Hội trong chính quyền.

Chiến tranh và các bối cảnh địa chính trị

Cuộc chiến giữa Pháp và chính phủ Việt Minh trải qua một bước ngoặt quan trọng trong năm 1947. Sau khi chiến tranh bùng nổ vào tháng Chạp năm 1946 giữa VNDCCH và Pháp, quân đội Pháp nhanh chóng giành được quyền kiểm soát phần lớn các thành phố và thị trấn. Ở miền Bắc Việt Nam, chính phủ VNDCCH rút lui vào các khu vực núi non Đông Bắc và tiến hành chiến lược vườn không nhà trống. Ngày 25 tháng Tư năm 1947, đúng bốn tháng sau khi chiến tranh bắt đầu, VNDCCH gửi thư cho chính phủ Pháp đề nghị thương thuyết ngừng bắn. Chúng ta không biết rõ lý do khiến chính phủ của Hồ Chí Minh đề nghị ngừng bắn. Trong một tài liệu nội bộ, lãnh đạo ĐCSĐD giải thích rằng họ chấp nhận Việt Nam là thành viên của Liên hiệp Pháp [French Union] chừng nào Pháp cam kết độc lập thực thụ và toàn vẹn lãnh thổ. Có vẻ họ đặt rất nhiều hy vọng vào khả năng Đảng Cộng sản Pháp sớm lập một chính phủ mới, và vì vậy “không chủ trương tách Đông Dương ra khỏi khối Liên hiệp Pháp để ngã vào cánh tay của Anh-Mỹ.” [50]

Để đáp lại, vào tháng Năm 1947, Cao uỷ Pháp Émile Bollaert thông qua một người đại diện đề nghị trao cho VNDCCH quyền tự trị bên trong Liên hiệp Pháp nhưng không có độc lập về quốc phòng và quan hệ đối ngoại. [51] Vẫn tiếp tục nuôi hy vọng, các lãnh tụ của ĐCSĐD cải tổ cơ cấu chính phủ VNDCCH vào ngày 19 tháng Bảy năm 1947 để đưa thêm nhiều nhân vật không cộng sản vào, nâng số lượng các quan chức ngang cấp bộ trưởng thuộc loại này lên con số 15 trên 27. [52] Động thái này nhằm thể hiện mong muốn thương lượng, đồng thời chống lại tuyên truyền của Pháp cho rằng chính phủ VNDCCH chỉ là chính phủ cộng sản trá hình. Trong số những người được thêm vào này có hai người theo Thiên chúa giáo và một vị quan (Đặng Văn Hưởng) trước đây. Võ Nguyên Giáp vẫn là tổng tư lệnh quân đội VNDCCH, nhưng Tạ Quang Bửu, một quan chức của chính phủ Trần Trọng Kim trước đây, được thăng chức lên làm Bộ trưởng Quốc phòng. Thế nhưng nỗ lực mang tính tượng trưng này chỉ gặt hái được một kết quả đáng thất vọng. Trong bài diễn văn đọc tại Hà Đông vào ngày 10 tháng Chín năm 1947, Bollaert lặp lại ý định của Pháp dành cho Việt Nam “tự do trong Liên hiệp Pháp”. Thậm chí ông ta còn từ chối thừa nhận VNDCCH là chính phủ hợp pháp của Việt Nam và tuyên bố việc sáp nhập Nam Kỳ với phần còn lại của đất nước sẽ được quyết định thông qua một cuộc trưng cầu dân ý. [53]

Trong khi ĐCSĐD thất bại trong các mưu toan chính trị của mình, thì cựu hoàng Bảo Đại sống lưu vong tại Hồng Kông và các nhóm quốc gia lại giành được một số thắng lợi. [54] Sau khi thoát khỏi cuộc thanh trừng của cộng sản vào cuối năm 1946, VNQDĐ và VNCMĐMH hợp nhất với các lãnh tụ tôn giáo miền Nam lập ra Mặt trận Thống nhất Quốc gia vào tháng Năm 1947. Họ tự nhận là đại diện thực sự của tinh thần dân tộc chủ nghĩa, khác với chính phủ Việt Minh bị phe cộng sản thống trị. Nhóm này đã thu hút sự chú ý của Pháp và hai bên bắt đầu thương thuyết với nhau. Đến tháng Mười, quân Pháp nhảy dù xuống Việt Bắc, khởi sự một cuộc tấn công lớn. Nhưng chiến dịch quân sự của Pháp kết thúc sau hai tháng mà không có thắng lợi rõ ràng nào cho cả hai phía. Các vùng do Pháp kiểm soát được mở rộng, nhưng cuộc tấn công không đạt được mục tiêu ban đầu là tiêu diệt lãnh đạo và lực lượng chủ lực của Việt Minh. Sau những thất bại đầu tiên, quân đội Việt Minh đã chống trả và thu được vài chiến thắng nhỏ. Cuối năm 1947, chiến tranh rơi vào tình trạng bế tắc. Các lực lượng của Pháp vẫn có ưu thế hơn, nhưng cả hai bên đều nhận ra rằng đây sẽ là một cuộc chiến dai dẳng.

Cuộc tấn công của Pháp và tin đàm phán giữa Bollaert và Bảo Đại báo hiệu cho các lãnh tụ ĐCSĐD rằng việc theo đuổi thương thuyết của họ đã đi vào ngõ cụt. Một chiều hướng chính trị xấu nữa đối với ĐCSĐD là phe de Gaulle đang mạnh lên, dẫn tới thất bại của những người cộng sản Pháp trong cuộc bầu cử ở Pháp vào cuối tháng Mười 1947. [55] Niềm hy vọng mà các lãnh tụ ĐCSĐD đặt vào Đảng Cộng sản Pháp vẫn còn, nhưng giờ đây đã có ít lý do để thương thuyết hơn. [56] Quan trọng hơn cả, tính chính danh của chế độ Hồ Chí Minh bị đe dọa khi những phe nhóm quốc gia chống cộng đã tập hợp lại và bắt đầu cạnh tranh có hiệu quả với chính phủ Việt Minh trong việc giành hậu thuẫn của quốc tế và ủng hộ của dân chúng. Ngày 2 tháng Chạp năm 1947, một bước đột phá quan trọng đã diễn ra với cuộc gặp gỡ giữa Bảo Đại và Bollaert tại Vịnh Hạ Long. Trước đó, Bảo Đại đã gạt bỏ các đề nghị của Pháp về độc lập hạn chế cho Việt Nam trong Liên hiệp Pháp; thế nhưng giờ đây ông ta lại đồng ý gặp Bollaert. Tháng Năm 1948, lần đầu tiên kể từ năm 1945, ở Đông Dương tồn tại hai chính phủ: một do Hồ Chí Minh lãnh đạo trong vùng rừng núi miền Bắc Việt Nam, và một do tướng Nguyễn Văn Xuân lãnh đạo đặt dưới sự bảo hộ của Pháp tại Sài Gòn. [57]

Trong khi sự ủng hộ của Pháp dành cho Bảo Đại và các nhóm quốc gia chống cộng trở thành một mối lo ngại lớn đối với ĐCSĐD, những chuyển biến trong khối Xô viết vào cuối năm 1947 lại mang đến nhiều cơ hội. Tại Warsaw (Ba Lan) vào tháng Chín 1947, Cục Thông tin của các Đảng Cộng sản và Lao động được lập ra với sự tham gia của chín đảng cộng sản châu Âu. Người phụ trách công tác tư tưởng của Đảng Cộng sản Liên Xô, Andre Zhdanov, đã phát biểu trong cuộc họp, tố cáo Tổng thống Mỹ Truman đang mưu đồ thống trị thế giới. Zhdanov trình bày về sự hình thành của hai khối chính trị-quân sự đối nghịch do Mỹ và Liên Xô đứng đầu và cho rằng phe đế quốc sẽ phải thất bại. Zhdanov cũng nhắc tới Indonesia và Đông Dương như là các thành viên của “mặt trận phản đế và chống phát xít”. Ông ta kêu gọi tất cả các đảng cộng sản hãy nắm lấy quyền lãnh đạo phong trào phản đế tại đất nước mình.

Một tiến triển khác theo thời gian ngày càng có thêm tầm quan trọng là việc thành lập một căn cứ du kích cộng sản tại miền Nam Trung Quốc đi kèm với chiến thắng của các lực lượng ĐCSTQ tại Mãn Châu. Ngày 20 tháng Chạp năm 1947, Mao Trạch Đông đọc một báo cáo quan trọng tại Hội nghị toàn thể Trung ương của ĐCSTQ, thông báo một giai đoạn mới trong cuộc nội chiến tại Trung Quốc trong đó Hồng quân Trung Quốc bắt đầu chuyển sang thế tấn công. Trong bài diễn văn của mình, Mao kiểm điểm tình hình quân sự kể từ khi chiến tranh bắt đầu, trình bày chiến lược của Hồng Quân nhằm chiến đấu chống lại kẻ thù ban đầu mạnh hơn, và ghi nhận các thành công của chính sách đất đai do ĐCSTQ tiến hành. Hai tháng trước đó, một cuộc họp của ĐCSTQ về vấn đề ruộng đất đã thông qua đạo luật mới về ruộng đất, trong đó lần đầu tiên kể từ khi nội chiến nổ ra, chính sách cải cách ruộng đất được ĐCSTQ quyết tâm đẩy mạnh. Nhờ có những mối quan hệ rất tốt ở nước ngoài, các báo cáo của Zhdanov và Mao đều nhanh chóng tới tay ĐCSĐD. [58]

Như các phần dưới đây sẽ chỉ ra, tình hình khối Xô viết có tác động rất đáng kể lên ĐCSĐD. Ý tưởng về hai phe đối đầu về ý thức hệ không mới mẻ gì với Đảng và họ đã ủng hộ những người cộng sản Trung Hoa từ những năm 1930. [59] Diễn văn của Zhdanov lần đầu tiên cho thấy chính sách của Xô viết đối với VNDCCH có thể được đảo ngược; cho đến lúc đó, Stalin vẫn lờ đi mọi kêu gọi của Hồ Chí Minh xin được công nhận về mặt ngoại giao và viện trợ. Việc thành lập Cục Thông tin các Đảng Cộng sản biểu thị một khối cộng sản thống nhất hơn và một Liên Xô kiên quyết hơn trong việc đối đầu với phe đế quốc. Những chiến thắng của ĐCSTQ tại Mãn Châu và căn cứ mới của nó tại miền Nam Trung Quốc mở ra khả năng liên kết giữa các lực lượng cộng sản Trung Quốc và Việt Nam. Hơn thế nữa, Mao rao giảng rằng một chiến lược quân sự thành công không đòi hỏi phải xoa dịu giai cấp địa chủ, một chính sách mà ĐCSĐD đã theo đuổi cho đến khi đó. Ngược lại, Mao lập luận một cách mạnh mẽ rằng phóng tay phát động quần chúng mới là tiền đề cho thắng lợi.

Như vậy là cuộc chiến tranh chống Pháp, các sự kiện tại Trung Quốc, và sự khởi đầu của Chiến tranh Lạnh ở châu Âu đã cùng nhau tạo ra điều kiện thuận lợi cho việc chuyển sang chính sách đối nội khuynh tả tại Việt Nam. Ngay khi chính phủ Hồ Chí Minh vừa từ bỏ hy vọng về một giải pháp hoà bình nhanh chóng thông qua thương lượng và chuẩn bị cho một cuộc chiến đấu lâu dài, những cơ hội tốt đã xuất hiện cho phép vừa “tả hoá” nền chính trị đối nội, vừa mở rộng phạm vi cuộc chiến. Quả là, như chúng tôi từng chỉ ra, các lãnh tụ ĐCSĐD không phải là những con cừu theo chủ nghĩa quốc gia bị tình thế bắt buộc phải hoá thân thành những con sói cộng sản. [60] Ngược lại, chính hoàn cảnh trong năm 1945 đã buộc họ phải đội lên mình bộ lông quốc gia chủ nghĩa ôn hoà; với các tiến triển của năm 1947, họ sẵn sàng vứt bộ lông hoá trang ấy đi. Phần tiếp theo, chúng ta sẽ xem xét tình hình chính trị vào năm 1948 bên trong khối liên hiệp dân tộc đã từng tạo dựng lên chính phủ Việt Minh. Nhìn vào tình hình này, hoàn toàn có thể cho rằng một cuộc nội chiến Việt Nam hẳn đã có thể xảy ra ngay cả khi không có những sự kiện quốc tế kể trên.

Ghi chú trong bài:

50. “Nghị quyết Hội nghị Cán bộ Trung ương”, 3-6/4/1947. ĐCSVN, t. 8, tr. 178-9. Cũng xem “Chỉ thị của T. Ư.”, 22 tháng Năm 1947. nt, tr. 207-13.

51. “Chỉ thị của T. Ư.”, tr. 207. Một công trình có giá trị về giai đoạn 1947-1950 nhìn từ quan điểm của Pháp là Ellen Hammer, The Struggle for Indochina 1940-1955 (Stanford: Stanford University Press, 1955). Một phân tích gần đây về chính trị của Pháp trong mối liên hệ với chính sách Đông Dương là Martin Thomas, “French imperial reconstruction and the development of the Indochina War, 1945-1950”, trong Mark Lawrence và Fredrik Logevall, bs. The First Vietnam War: Colonial Conflict and Cold War Crisis (Cambridge, MA: Harvard University Press, 2007).

52. Tân Trào (Trường Chinh), “Việc mở rộng chính phủ”. Sự thật, 19 tháng Tám 1947. Trong bài báo này, Trường Chinh gợi ý rằng động thái chỉ mang tính tượng trưng và cảnh báo độc giả đừng có ảo tưởng về việc thương thuyết. Trong một tài liệu nội bộ, Đảng nói với các đảng viên là họ sẽ phải “chiến đấu mạnh mẽ hơn” nếu muốn đưa người Pháp trở lại bàn thương lượng. Xem “Thông cáo của T.Ư. về việc thay đổi một số nhân viên chính phủ”, 27 tháng
Bảy năm 1947, ký tên Lê Đức Thọ.

53. Về các phản ứng của VNDCCH, xem “Bô-la nói gì? Ta phải làm gì? Chỉ thị của T.Ư.”, 15 tháng Chín 1947. ĐCSVN, t. 8, tr. 289-303.

54. Hammer, The Struggle for Indochina 1940-1955, tr. 209-22.

55. Thomas, “French imperial reconstruction,” tr. 142-6.

56. ĐCSĐD hy vọng rằng Đảng Cộng sản Pháp sẽ lãnh đạo một cuộc nội chiến ở Pháp. Trung ương Đảng tiên đoán trong trường hợp đó, tướng Franco của Tây Ban Nha có thể sẽ đem quân can thiệp vào Pháp nhằm hỗ trợ phe bảo thủ trong khi Mỹ can thiệp vào Đông Dương. Do đó họ tính đến một “phong trào cách mạng” mới ở châu Âu và việc cách mạng Trung Quốc và Việt Nam hợp lại để chống liên minh giữa Mỹ và nước Pháp bảo thủ tại châu Á. Xem “Thông cáo của Thường vụ T.Ư.”, 2 tháng Chạp 1947, ký tên Phương (Trường Chinh). ĐCSVN, t. 8, tr. 337-9.

57. Hammer, The Struggle for Indochina 1940-1955, tr. 221-3.

58. Báo cáo của Zhdanov được dịch và đăng trên nhiều số báo Sự thật, bắt đầu từ 19 tháng Năm 1948, trong khi báo cáo của Mao và chính sách ruộng đất của ĐCSTQ cũng được dịch và đăng nhiều kỳ trên Sự thật bắt đầu từ 15 tháng Tư 1948.

59. Xem Tuong Vu, “From Cheering to Volunteering”; và Vu, “Dreams of Paradise: The Making of a Soviet Outpost in Vietnam”, Ab Imperio: Studies of New Imperial History and Nationalism in the Post-Soviet Space, tháng Tám năm
2008.

60. nt

Lủng củng bên trong chính phủ liên hiệp Việt Minh, 1945-1947

Cho đến lúc này, tôi đã chỉ ra việc ĐCSĐD nắm được chính quyền nhờ vào thỏa hiệp và thu nạp như thế nào; nhưng đổi lại, Đảng Cộng sản cũng phải nhân nhượng nhiều trong các mục tiêu cách mạng xã hội. Quan trọng hơn nữa là việc ĐCSĐD phải chia sẻ quyền lực chính quyền với những nhân sĩ trí thức không cộng sản. Những người này không tán thành đường lối cách mạng xã hội bằng bạo lực của người cộng sản. Chính quyền Hồ Chí Minh cũng buộc phải lưu dụng các viên chức ngạch hành chính thuộc địa, những người nói chung có quan điểm bảo thủ. Hoàn cảnh ép buộc chính quyền này phải chấp nhận các chính quyền địa phương được tự phát thành lập. ĐCSĐD cũng buộc phải mở cửa cho các giai cấp trên gia nhập Đảng. Đó là những cái giá phải trả để có thể lên nắm quyền và sống sót trong giai đoạn 1945-1946. Chiến thuật cộng sản sử dụng “bạn đồng hành” [fellow travellers] trong từng giai đoạn khi cần thiết và bỏ rơi họ khi không còn cần nữa có vẻ rất dễ dàng trên lý thuyết,[61] nhưng dưới đây chúng ta sẽ thấy rằng ở trường hợp Việt Minh, thực tế phức tạp hơn lý thuyết một chút. Việc thỏa hiệp và thu nạp gây ra nhiều khó khăn cho chính phủ Việt Minh, và vào năm 1948 những khó khăn ấy trở nên gay gắt trên ba lĩnh vực có liên quan với nhau: chính sách ruộng đất, các xung đột trong hàng ngũ lãnh đạo, và việc kiện toàn các tổ chức nhà nước và đảng.

Khi mặt trận Việt Minh được lập ra vào năm 1941, các lãnh tụ ĐCSĐD đã quyết định tạm gác vấn đề phân chia ruộng đất nhằm củng cố khối liên hiệp dân tộc. Cùng lúc, họ cũng tin rằng đặt mục tiêu giải phóng đất nước lên trước không nhất thiết gây trở ngại cho cách mạng xã hội; các điều kiện quốc tế có lợi có thể cho phép cả hai được tiến hành cùng một lúc.[62] Theo lập luận của họ, sẽ không có trở ngại bởi vì (1) nếu Đảng, đội tiên phong của những người vô sản, nắm được quyền lãnh đạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, Đảng sẽ dễ dàng lái cuộc cách mạng đó theo hướng phục vụ cho mục tiêu cách mạng xã hội; (2) trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, Đảng kiểm soát chính phủ và có thể sử dụng nó như một công cụ để tiến hành cách mạng xã hội; (3) khi cách mạng Đông Dương thắng lợi, “thế giới sẽ giống như một nồi nước sôi sục”. Tình hình ấy có thể sẽ cho phép cách mạng Đông Dương nhảy vọt, chuyển sang cách mạng vô sản và xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Suy nghĩ này được thể hiện trong chính sách ruộng đất khi ĐCSĐD lập ra nhà nước Việt Minh vào cuối năm 1945. Mặc dù những người cộng sản không kêu gọi chia lại ruộng đất, họ vẫn ban hành các đạo luật buộc địa chủ phải giảm tô 25%, tái cấu trúc nợ nần, và xoá bỏ một số loại tô. [63] Những đạo luật này gợi ý rằng, trong khi ĐCSĐD bị buộc phải thu nạp địa chủ vào mặt trận Việt Minh toàn quốc, thì nó không từ bỏ mục tiêu cách mạng xã hội của mình, mà chỉ chờ thời điểm tốt hơn. [64] Đáng buồn là những đạo luật với mục tiêu khá khiêm tốn này cũng không được thực hiện.

Chính sách giảm tô bị phản đối và cưỡng lại ngay khi được ban hành. Ngay từ tháng Chín năm 1946, Tổng bí thư ĐCSĐD Trường Chinh công khai phê bình những người cổ vũ việc tách rời hai cuộc cách mạng.

Đến đây một quan điểm sai lầm về bước tiến triển của cách mạng Việt Nam cần phải đánh đổ. Có người cho rằng cách mạng Việt Nam cần phải đi từng bước một: cách mạng giải phóng dân tộc (phản đế) hoàn thành, rồi mới đến cách mạng dân chủ hoặc cách mạng ruộng đất (phản phong kiến); cách mạng dân chủ hoặc cách mạng ruộng đất hoàn thành, rồi mới đến cách mạng xã hội chủ nghĩa. Thuyết “tuần tự nhi tiến” đó là sai. Bên trong, quyền lãnh đạo cách mạng ngày càng vững chắc trong tay giai cấp vô sản cầm quyền; các lực lượng dân chủ, tiến bộ đúc thành một khối không thể lay chuyển; bên ngoài, Liên Xô, nước xã hội chủ nghĩa, thắng lợi và phong trào dân chủ nhân dân phát triển bồng bột. Trong điều kiện lịch sử ấy, cách mạng Việt Nam có thể vừa hoàn thành nhiệm vụ phản đế, vừa giải quyết một phần nhiệm vụ phản phong. [65] (in nghiêng trong nguyên bản).

Các chỉ trích của Trường Chinh phản ánh một sự chia rẽ nhất định về tư tưởng bên trong ĐCSĐD dù cho chúng ta không biết ai là người trong hàng ngũ lãnh đạo đảng bị chỉ trích. Bất chấp lời kêu gọi đầy nhiệt tình của Trường Chinh, mọi việc thay đổi rất ít vì các lý do liên quan đến thỏa hiệp hồi năm 1945 như tôi sẽ giải thích dưới đây. Trong một bản kiểm điểm toàn diện các chính sách nông thôn của Đảng vào năm 1950, Trường Chinh cho rằng chương trình giảm tô từ 1945 vẫn chưa được hoàn thành ngay tại những vùng nằm dưới sự kiểm soát hoàn toàn của Việt Minh. Việc chuyển giao đất tịch thu từ người Pháp sang cho nông dân hoặc bị lơ là hoặc được tiến hành quá chậm chạp. [66] Trong những trường hợp tệ hại nhất, tá điền đã gửi hàng trăm lá thư tới chính quyền tỉnh và trung ương để than phiền về nhiều cán bộ không công bằng hoặc hống hách. Công điền ở các làng xã không được phân chia theo luật định. Trong chiến dịch trưng mua gạo cho chính phủ, người giàu thường tìm được cách tránh không phải bán, trong khi đó người nghèo phải đi vay gạo với lãi suất cao nhằm đảm bảo thực hiện nghĩa vụ với chính phủ. Những nơi các đạo luật giảm tô được áp dụng, chúng gây ra căng thẳng rất lớn nhưng lại không mấy hiệu quả trong việc giúp đỡ tá điền. [67]

Trong khi chính sách ruộng đất không mấy tiến triển, thì xung đột nổ ra ngày càng gay gắt giữa những người cộng sản và những người không cộng sản ở nhiều cấp độ trong chính phủ vào năm 1948. [68] Giờ đây Đảng không còn kiểm soát các đô thị và cũng đã đào tạo được đủ số lượng cán bộ đảng viên để điều hành chính quyền. Do đó, trí thức thành thị và chuyên gia do Pháp đào tạo không còn cần thiết cho Đảng như hồi cuối năm 1945. Xung đột giữa những người cộng sản và những người không cộng sản xảy ra trong bối cảnh ấy. Những người không cộng sản khó chịu khi những người cộng sản, thường là có học vấn thấp hơn, đòi quyền kiểm soát một cách thô bạo các lĩnh vực chuyên môn trải từ các chính sách luật pháp, kinh tế cho tới văn học. Đối với chính sách nông thôn, những người không cộng sản trong chính phủ Việt Minh ủng hộ cải cách ruộng đất nhưng lại có cảm tình với phú và trung nông. [69] Vì vẫn giữ được quyền nắm năm bộ của nhà nước, Tư pháp, Giáo dục, Công thương, Canh nông và Thuỷ lợi, quan điểm của họ đã được chuyển hoá thành các chính sách ôn hoà. Trong số này, Tư pháp là bộ quan trọng nhất bởi vì nó là một phần của cơ cấu cưỡng chế của nhà nước. Đó cũng là nơi các xung đột gay gắt nhất đã diễn ra. Khi nhà nước Việt Minh được thành lập, các Bộ trưởng Tư pháp không cộng sản [70] đã bổ nhiệm các luật gia do Pháp đào tạo làm thẩm phán trong bộ máy tư pháp của chính quyền trung ương và các cấp thấp hơn. [71] Những nơi chính sách giảm tô được áp dụng, những thẩm phán này thường xuyên, dựa trên đánh giá của chính họ và nhân danh luật pháp cũng như độc lập tư pháp, đứng về phía địa chủ chống lại cả tá điền lẫn chính quyền địa phương. Đôi khi các thẩm phán này ra lệnh thả những người bị công an địa phương bắt bất hợp pháp. Họ cũng không ngần ngại trong việc ra lệnh bắt giữ và xử án nhiều quan chức địa phương tham nhũng nhưng lại là Đảng viên.[72]

Sự căng thẳng giữa các lãnh tụ cộng sản và không cộng sản trở nên sâu sắc một phần do việc chính phủ Việt Minh lưu dụng hệ thống hành chính thuộc địa. Không giống như ở Trung Quốc, nơi ĐCSTQ loại bỏ phần lớn quan chức hành chính của chính quyền Tưởng Giới Thạch ngay trong năm đầu tiên, nhà nước Việt Nam vẫn lưu dụng các viên chức thuộc địa trong nhiều năm. Ngay từ đầu đã có những lời than phiền về nhiều “phần tử phản cách mạng” trong số các giáo viên còn lại từ chế độ thuộc địa. Các tài liệu của Đảng ghi nhận rằng các cựu viên chức thuộc địa không mấy hào hứng, thậm chí còn cố ý phá hoại các chính sách của chính phủ. Như chúng ta có thể tiên đoán, cuộc hôn phối của một đảng cách mạng với một nền hành chính thuộc địa không thể êm thấm được. Như Trường Chinh viết vào năm 1946, phần lớn cán bộ chính trị “trung thành, hăng hái, hiểu chính trị và tháo vát, nhưng phần nhiều thất học, trình độ văn hoá thấp”, và nhiều phần không biết chữ. [73] Ngược lại, các chuyên gia, nhà quản lý và trí thức được đào tạo thời Pháp “tuy có trình độ văn hoá, nhưng lại ít hiểu về chính trị.” Xung đột trở nên căng thẳng
vào năm 1948: cán bộ chính trị coi thường và không tin tưởng giới chuyên môn; đến lượt mình, những người kia lại lập luận rằng vì Việt Nam đã giành được độc lập, đã đến lúc các cán bộ chính trị cần được thay thế bằng những chuyên gia có học, những người có các kỹ năng cần thiết để quản lý nhà nước. Các lãnh tụ ĐCSĐD đã biết tới cuộc xung đột trên giữa những quan chức hành pháp và tư pháp trong chính phủ từ giữa năm 1946.[74] Năm 1950, Trường Chinh than phiền về các viên chức của Bộ Canh nông cùng các ty địa phương vì không thi hành chính sách của đảng đến nơi đến chốn. Theo ông, các quan chức này là sản phẩm của nền hành chính thuộc địa chứ không xuất thân từ giai cấp nông dân, do đó có hiểu biết kém về tình hình nông thôn và không quan tâm đến lợi ích của người nông dân. [75]

Ngoài chính sách ruộng đất và xung đột nội bộ, tổ chức của ĐCSĐD cũng có vấn đề. Một khó khăn các lãnh tụ ĐCSĐD gặp phải từ năm 1945 là làm thế nào giữ được tính chọn lọc trong việc kết nạp đảng viên mới trong khi phải thỏa hiệp và thu nạp tầng lớp trên vào phong trào giải phóng dân tộc. ĐCSĐD phát triển rất nhanh từ 1945 đến 1950. Từ chưa tới 5.000 đảng viên vào cuối năm 1945, Đảng đã có hơn 760.000 vào năm 1950, nghĩa là phát triển hơn một trăm lần. [76] Rõ ràng Đảng đã quan tâm đến thu nạp hơn là chọn lọc: theo một ước tính của Đảng vào năm 1952, hơn 65% đảng viên xuất thân từ giai cấp tiểu tư sản. [77] Nếu so sánh giữa Việt Nam và Trung Quốc, chúng ta sẽ hiểu ý nghĩa của con số này. Với đa số đảng viên xuất thân từ bần cố nông, nhà nước của Mao bén rễ vào giới nông dân vững chắc hơn nhiều và nội bộ ĐCSTQ dễ nhất trí việc áp dụng các chương trình kinh tế-xã hội cực đoan như cải cách ruộng đất bằng bạo lực. Với một đảng được cấu thành chủ yếu từ trung nông và các giai cấp xã hội cao hơn, giấc mơ cách mạng xã hội xây dựng trên đấu tranh giai cấp của các lãnh tụ ĐCSĐD khó mà thoát khỏi chống đối nội bộ. Chính sách giảm tô nói đến ở trên bị lơ một phần vì nó bị cản trở bởi các viên chức không cộng sản và các thẩm phán địa phương. Nhưng phần khác, sự lơ là này cũng có nguồn gốc từ chính bên trong hàng ngũ của Đảng.

Tóm lại, thỏa hiệp và thu nạp đã gây ra nhiều vấn đề cho các lãnh tụ ĐCSĐD nôn nóng thực hiện một chương trình cách mạng cộng sản. Những vấn đề này bao gồm những cản trở trong việc thực hiện chính sách giảm tô, sự “nhiễm độc” trong Đảng bởi các phần tử tư sản, và xung đột với những nhân sĩ không cộng sản trong chính phủ liên hiệp và với các viên chức lưu dụng. Những vấn đề này đã xuất hiện vào năm 1946 nhưng trở nên gay gắt hơn vào năm 1948. Như chúng tôi sẽ trình bày ở phần tiếp theo, những vấn đề này gây lo lắng cho các lãnh tụ ĐCSĐD khi họ quyết định đưa cuộc cách mạng của mình theo con đường đấu tranh giai cấp vào năm 1948.

Ghi chú trong bài viết:

61. Theo lý thuyết của Lenin, “bạn đồng hành” là những người nhất trí với các mục tiêu ngắn hạn của Đảng Cộng sản nhưng không lựa chọn việc đứng dưới lá cờ của nó. Họ được khuyến khích gia nhập các tổ chức quần chúng trong một mặt trận đoàn kết. Xem Huỳnh Kim Khánh, Vietnamese Communism, tr. 138-9.

62. “Trung ương Hội nghị lần thứ Tám”, tháng Năm 1941. ĐCSVN, t. 7, tr. 120-1. Xem phân tích của chúng tôi về tài liệu này trong Vu, “From Cheering to Volunteering.”

63. Bộ Canh nông, giảm tô giảm tức, thể lệ lĩnh canh (Việt Bắc, kh. 1950), tr. 7-12.

64. “Cách mạng tháng Tám: Triển vọng của Cách mạng Việt Nam”, Sự thật, 7 tháng Chín năm 1946.

65. nt

66. “Chính sách của Đảng ở nông thôn (Việt Nam)”, báo cáo của Trường Chinh tại cuộc họp của Ủy ban Kinh tế Trung ương, 5-7/7/1950. ĐCSVN, t. 11, tr. 608-12. Tài liệu này không nêu lên việc tịch thu đất từ “Việt gian”. Không giống như chính sách đối với ruộng đất do Pháp sở hữu, chính sách liên quan đến đất của “Việt gian” cho tới khi đó chỉ được quyết định đối với từng trường hợp cụ thể.

67. Về một trường hợp của sự căng thẳng này, xem Vũ Đình Hoè, Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh, tr. 120-1. Báo của Đảng cũng nhận xét rằng chính sách giảm tô được thi hành trọn vẹn ở miền Nam, chậm chạp ở miền Trung, và bị coi nhẹ ở miền Bắc cho tới năm 1948. Chí Thanh, Sự thật, 30 tháng Mười năm 1950.

68. Cũng xem Dương Đức Hiền, “Đảng Dân chủ Việt Nam trong hàng ngũ Mặt trận”, Độc lập, 20 tháng Hai năm 1951 và Hoàng Văn Đức, “Hiện trạng đời sống viên chức, trí thức”, Độc lập, 15 tháng Mười năm 1951.

69. Chẳng hạn, Đỗ Đức Dục, một thành viên của nhóm Thanh Nghị và một lãnh tụ của ĐDC, kêu gọi bảo vệ trung nông trong cải cách ruộng đất. Độc lập, 15 tháng Ba năm 1953.

70. Đó là các luật gia do Pháp đào tạo Vũ Trọng Khánh và Vũ Đình Hoè.

71. Vũ Đình Hoè, Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh, tr. 53-6.

72. Sđd., tr. 159-65; 196-7.

73. “Cách mạng tháng Tám: Nhiệm vụ cần kíp của dân tộc Việt Nam”, Sự thật, 4 tháng Mười năm 1946.

74. “Nghị quyết của Hội nghị Cán bộ Trung ương”, 31/7-1/8/1946. ĐCSVN t. 8, tr. 103.

75. Trường Chinh, “Chính sách của Đảng ở nông thôn (Việt Nam),” tr. 612-3. Trong bài diễn văn của mình tại cùng hội nghị, Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng tiếc rằng ĐCSĐD đã lưu dụng các viên chức thuộc địa mặc dù ông không nói chi tiết về vấn đề. Xem Phạm Văn Đồng, “Phải kiện toàn chính quyền cộng hoà nhân dân”, tr. 185.

76. Xem “Nhân dân dân chủ chuyên chính ở Việt Nam”, một báo cáo tại Hội nghị Trung ương lần thứ ba (có lẽ vào tháng Tư năm 1952). ĐCSVN, t. 14, tr. 95-6.

77. Xem “Vấn đề chỉnh Đảng”, báo cáo của Lê Văn Lương tại Hội nghị Trung ương lần thứ ba. ĐCSVN, t. 14, tr. 102.

Bước ngoặt dẫn đến đấu tranh giai cấp và nội chiến vào năm 1948

Chính sách của ĐCSĐD được điều chỉnh dần vào năm 1948 khi Đảng ứng phó với những hoàn cảnh mới. Những thay đổi chính sách được tiến hành thông qua hai hội nghị Trung ương vào tháng Giêng và tháng Tám năm 1948. Các thay đổi này bao gồm một chính sách ruộng đất mạnh tay hơn và một Đảng mang tính vô sản nhiều hơn. Sau hội nghị tháng Giêng, xuất hiện cuộc tranh luận công khai gay gắt giữa các lãnh tụ không cộng sản và cộng sản của chính phủ về tư pháp độc lập và vai trò của những người không cộng sản trong cách mạng. Cuộc tranh luận này còn kéo dài cho mãi tới năm 1950, nhưng vào cuối năm 1948 chúng ta đã có thể thấy sự rạn nứt sâu sắc và không thể hàn gắn giữa hai nhóm lãnh đạo trong chính phủ liên hiệp. Những người không cộng sản sẽ không bị hoàn toàn vô hiệu hoá cho tới khoảng năm 1950, nhưng nhiều người trong số họ đã bắt đầu “dinh tê” vào năm 1949, chủ yếu do bất mãn với những người cộng sản. Dù cho các sự kiện tại Việt Nam không dẫn ngay đến nội chiến như ở Mã Lai, Miến Điện và Indonesia, thì năm 1948 ở Việt Nam vẫn là bước ngoặt quan trọng trên một đường hướng không thể đảo ngược.

Đầu tiên chúng ta hãy xem xét chính sách ruộng đất. Vào các ngày 15-17 tháng Giêng năm 1948, ĐCSĐD tổ chức hội nghị Trung ương để định ra chính sách cho tình hình mới. Nghị quyết của hội nghị này cho thấy sự phấn khích của những người cộng sản Việt Nam trước các tiến triển mới trên thế giới và thông báo những thay đổi quan yếu trong chính sách ruộng đất cùng với nhiều chính sách khác. Phần nhận định tình hình quốc tế trong nghị quyết ghi nhận sự thành lập của Cục Thông tin của các Đảng Cộng sản và Lao động, đồng thời nhấn mạnh các điểm quan trọng trong bài diễn văn của Zhdanov. Nghị quyết bắt đầu với câu, “Các lực lượng phản dân chủ và dân chủ, đế quốc và chống đế quốc trên thế giới đã dần dần sắp thành hai phe rõ rệt ‘Phe đế quốc phản dân chủ’ và ‘Phe dân chủ chống đế quốc’”; đây cũng là một câu quan trọng trong bài nói chuyện của Zhdanov.78 Nghị quyết nhận định rằng “cuộc đại phản công của Quân Giải phóng Trung Hoa đang đẩy mạnh phong trào nông dân khởi nghĩa [tại các vùng dưới sự kiểm soát của QDĐTQ] và cách mạng ruộng đất [tại các vùng của ĐCSTQ] ở Trung Hoa. Quân Giải phóng Trung Hoa đã lập được căn cứ sát biên giới Bắc Bộ”. [79] Ngoài việc nhấn mạnh rằng cuộc vận động giảm tô phải được tiến hành mạnh mẽ hơn, lần đầu tiên Đảng ra lệnh tịch thu đất và tài sản của “Việt gian”, hoặc để chia lại cho nông dân nghèo, hoặc để bộ đội canh tác nhằm tự cung tự cấp. [80] Đảng cũng ra lệnh tổ chức Hội nghị cán bộ nông vận ở cấp khu và tỉnh nhằm đẩy nhanh việc vận động nông dân. [81] Các điều tra nông thôn trước đây đã có chỉ thị nhưng không được tiến hành; giờ đây, việc này được ưu tiên, một phần bởi vì Đảng cần biết “Việt gian” có bao nhiêu đất đai và tài sản để tịch thu. Hội nghị cũng quyết định một số chính sách nhằm kiện toàn tổ chức của ĐCSĐD. Đảng đã phát triển nhanh chóng kể từ năm 1945: trong quý bốn của năm 1947, chỉ riêng số lượng đảng viên tại các tỉnh phía Bắc đã lên đến hơn 10.000. [82] Các lãnh tụ của đảng không thực sự hài lòng với những con số này, vì công nhân vẫn mới chỉ chiếm 7% và phụ nữ 6,5% trong tổng số đảng viên, trong khi đa số đảng viên xuất thân từ trung nông và tiểu tư sản. Đảng quyết định triệu tập Đại hội vào tháng Tám năm 1948 bởi:

Cuộc Cách mạng Tháng Tám đã thắng lợi hơn hai năm rồi. Cuộc kháng chiến toàn quốc cũng đã hơn một năm. Tình hình thế giới lại bước vào một thời mới, với sự khủng hoảng kinh tế và chính trị đương lan rộng trong các nước tư bản. Những biến cố mới ấy đẻ ra những nhiệm vụ nặng nề. Hội [Đảng] phải duyệt lại chương trình, đường lối về cuộc vận động cách mạng trong nước. Hơn nữa, việc chung đúc kinh nghiệm và thống nhất tư tưởng, hành động toàn Hội là vấn đề cấp bách. [83]

Ngoài một Đại hội (rồi sẽ bị hoãn nhiều lần cho mãi tới tháng Ba năm 1951), Trung ương ĐCSĐD khởi động một chiến dịch tăng số lượng đảng viên với tham vọng phát triển số Đảng viên ở mỗi khu lên 30% trong năm tháng tiếp theo.84 Xuất phát từ mối quan ngại của Đảng về việc đảng viên gồm quá nhiều người thuộc các giai cấp trên, nghị quyết này ra chỉ thị rằng việc kết nạp phải chọn lọc hơn: đối tượng chính là bộ đội và du kích, công nhân, và dân chúng ở các vùng nằm dưới sự kiểm soát của Pháp và các vùng dân tộc thiểu số. Ngoài mục tiêu trên, phát triển Đảng phải đi kèm với việc kiện toàn thông qua tăng cường đào tạo và các hoạt động có kế hoạch. Mục đích là có được 20% chi bộ trong toàn Đảng “được kiện toàn” trong vòng năm tháng. [85]

Một phần nhờ chiến dịch kết nạp đảng viên này mà Đông Dương gần đạt tiêu chuẩn thế giới vào đầu năm 1949 về tỉ lệ đảng viên cộng sản trên tổng số dân chúng. Như Hồ Chí Minh đã tự hào tuyên bố trong bài diễn văn bế mạc Hội nghị Cán bộ Trung ương lần thứ 6 vào tháng Giêng năm 1949, trong khi có 20 triệu người cộng sản trên tổng số hai tỉ người (1 trên 100) trên toàn thế giới, thì tại Đông Dương, tỉ lệ này là 1 trên 112.[86] Số lượng đảng viên đã tăng 300% trong chín tháng đầu năm 1948 và 450% trong toàn năm 1948.[87] Từ chỗ chỉ có 20.000 đảng viên vào cuối năm 1946, một năm sau đó Đảng đã có 50.000 thành viên, và khoảng 180.000 vào cuối năm 1948.[88]

Cả chính sách ruộng đất và việc kiện toàn tổ chức đảng đều chỉ ra những bước đi cực đoan hơn trên con đường đấu tranh giai cấp theo hướng bạo lực sẽ bắt đầu thực sự vào năm 1953. Tuy nhiên, những thay đổi chính sách này có ít ý nghĩa tượng trưng [symbolic significance] hơn cuộc tranh luận giữa những người cộng sản và những người không cộng sản trong chính phủ Việt Minh về độc lập tư pháp và thực thi pháp luật tại địa phương. Bắt đầu vào năm 1948 và kéo dài cho tới đầu năm 1950, cuộc tranh luận công khai này bề ngoài có vẻ ôn hoà nhưng không có nghĩa là không quan trọng.[89] Những bộ trưởng không cộng sản nắm quyền kiểm soát các lãnh vực chính sách xã hội, kinh tế, văn hoá và tư pháp. Các trí thức thành thị cũng đóng những vai trò nổi bật trong các cấp và các cơ quan của chính phủ; họ có nhiều hậu thuẫn trong giới viên chức thuộc địa và thậm chí trong hàng ngũ Đảng viên ĐCSĐD. Hiếm có khi nào mà cuộc xung đột gay gắt giữa những người cộng sản và những người không cộng sản ở cấp cao nhất trong nhà nước Việt Minh được thể hiện công khai như trong dịp này. Cuộc tranh luận chỉ liên quan tới một số ít người, nhưng trên thực tế nó được cả giới lãnh tụ cao nhất, giới quan chức địa phương lẫn những người trong lĩnh vực thi hành pháp luật theo dõi sát sao.

Bên phía cộng sản, người đứng ra tranh luận là Quang Đạm, một người được Trường Chinh đỡ đầu, biên tập viên của Sự thật và dịch giả nhiều tác phẩm của Mao sang tiếng Việt.[90] Cách viết của Quang Đạm đầy thẩm quyền như thể ông ta là một người phát ngôn không chính thức cho Đảng. Về phần mình, những người không cộng sản giao cho Vũ Trọng Khánh, một luật gia do Pháp đào tạo và là chưởng lý Khu 10, làm đại diện chính. Vũ Trọng Khánh từng là Thị trưởng Hải Phòng dưới chính phủ Trần Trọng Kim và là Bộ trưởng Tư pháp đầu tiên trong chính phủ Việt Minh vào cuối 1945. Đứng về cùng phía với Vũ Trọng Khánh là Vũ Đình Hòe, thư ký của Tân Việt Nam Hội, được lập ra để hỗ trợ chính phủ Trần Trọng Kim từ tháng Tư đến tháng Tám năm 1945. Vũ Đình Hòe là một luật gia do Pháp đào tạo và trở thành Bộ trưởng Giáo dục vào cuối năm 1945 và Bộ trưởng Tư pháp từ 1946. Cuộc tranh luận cho thấy, và đào sâu hơn, mức độ khác biệt về ý thức hệ giữa những người cộng sản và không cộng sản. Sau cuộc tranh luận, ĐCSĐD sẽ dần tước quyền của các bộ trưởng và viên chức không cộng sản.

Cuộc tranh luận khởi đầu với những lời phê phán của phe cộng sản đối với nguyên tắc độc lập tư pháp. Các thẩm phán địa phương dùng nguyên tắc này biện minh cho các hành động nhằm hạn chế sự lạm dụng quyền lực của chính quyền địa phương hoặc của các cán bộ đảng. Nhiều thẩm phán từ chối làm theo chỉ thị của các uỷ ban đảng hoặc hành chính địa phương, đồng thời thả những người bị bắt vì các lý do chính trị nhưng trái với luật pháp. Trong hai bài báo đầu tiên mở màn cuộc tranh luận, Quang Đạm tung ra hai hướng tấn công, một chống lại hệ thống tư pháp của chủ nghĩa tư bản và một chỉ trích các trí thức do Pháp đào tạo.[91] Trước hết, ông lập luận rằng luật và công lý, với tư cách là một bộ phận của nhà nước, vận hành để phục vụ lợi ích giai cấp. Trong những xã hội có giai cấp, không có gì nằm trên đấu tranh giai cấp. Độc lập tư pháp và phân quyền [giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp] có thể đã từng giúp cho tư sản châu Âu hạn chế quyền lực võ đoán quân chủ, nhưng kể từ đó đã trở thành một thứ huyền thoại nhằm che đậy bản chất áp bức của hệ thống chủ nghĩa tư bản. Tại các xã hội thuộc địa, chính quyền thực dân cũng đưa ra huyền thoại đó, nhưng các toà án của nó chưa bao giờ mang lại công lý cho người dân xứ thuộc địa, mà ngược lại đã ban bố hàng nghìn bản án độc ác chống lại các nhà cách mạng dân tộc. Độc lập tư pháp và phân quyền không phải là các nguyên tắc linh thiêng và trung tính như một số người tin tưởng. Quang Đạm tập trung tấn công vào luật của tư bản nhưng không hề tìm cách áp đặt một cái khung khái niệm theo chủ nghĩa Lê Nin cho luật của xã hội chủ nghĩa. Ông ta dùng đấu tranh giai cấp làm cơ sở lý thuyết và tấn công vào hệ thống luật của thuộc địa, nhưng ở đây ông tuyên bố mình bảo vệ quyền lợi “nhân dân” và “quần chúng”, chứ chưa phải lợi ích giai cấp.

Hướng tấn công thứ hai của Quang Đạm nhằm vào các lãnh tụ không cộng sản, những người từng được đào tạo tại các trường thuộc địa. Ông ta tố cáo “nhiều phần tử trí thức” xa rời “quần chúng” và “nhân dân”. Các “phần tử” này do Pháp đào tạo, bị nhiễm những thứ lý thuyết cũ kỹ của tư sản được tạo ra để phục vụ cho lợi ích của chính quyền thực dân và các giai cấp bóc lột. Những người này có lòng tự ái cao và tin quá mức vào tự do cá nhân. Động cơ của họ là sự đố kỵ, tham vọng và mong muốn địa vị xã hội và quyền lực chính trị. Hiểu biết chuyên môn về luật của họ chỉ đơn giản là kinh nghiệm áp dụng những thủ tục luật phức tạp chứ không đảm bảo việc thực thi công lý, nhưng họ lại cho rằng hiểu biết chuyên môn ấy là đủ để họ có được một tự do không hạn chế, nằm ngoài mọi kiểm soát chính trị. Vô tình hay cố ý, họ đang giúp đỡ bọn phản cách mạng thông qua việc cứ khăng khăng đòi độc lập tư pháp và hằn học chỉ trích các uỷ ban hành chính địa phương. Rõ ràng là Quang Đạm muốn nói thay cho những cán bộ đảng thất học không ưa các trí thức do Pháp đào tạo và thái độ có vẻ ngạo mạn của họ với các cán bộ chính trị.

Để đáp lời Quang Đạm, các đối thủ của ông phủ nhận tính thích đáng và hợp thức của đấu tranh giai cấp ngay cả ở bình diện lý thuyết. Đặc biệt, Vũ Trọng Khánh lập luận rằng luật không chỉ là một công cụ của giai cấp thống trị mà còn là một công cụ bảo vệ kẻ yếu chống lại kẻ mạnh và kẻ nhiều quyền lực. [92] Luật cao hơn đấu tranh giai cấp. Chẳng hạn như luật dân sự dùng để điều chỉnh các xung đột giữa những người bình thường và không có gì liên quan tới chính trị. Luật được xây dựng và phản ảnh không chỉ dựa trên ý chí của tầng lớp thống trị mà cả các tập quán xã hội ở các khối “nhân dân”. Tương tự, độc lập tư pháp nhằm để bảo vệ “nhân dân,” nghĩa là ở trên mọi giai cấp, và để phòng ngừa việc những người có chức quyền lạm dụng quyền lực ở mọi chế độ, dù là chế độ dân chủ hay không. Vũ Đình Hòe chỉ ra rằng Việt Nam chưa bao giờ có một nền tư pháp độc lập kể từ thời cổ đại cho tới thuộc địa. [93] Chính là “nhờ Cách mạng Tháng Tám” mà giờ đây “nhân dân” mới được hưởng hệ thống luật tiến bộ này. Nói cách khác, Vũ Đình Hòe hàm ý những trí thức như ông đại diện cho “cách mạng”, chứ không phải chống lại. Độc lập tư pháp không phải một huyền thoại của chế độ phong kiến lẫn thuộc địa, nó mang tính cách mạng.

Vũ Đình Hòe cho rằng hệ thống tư pháp dưới sự lãnh đạo của ông kể từ đầu cuộc cách mạng là hoàn toàn đứng về phía “nhân dân”. Về nguyên tắc, mọi thẩm phán đều do các cơ quan đại diện cho nhân dân chỉ định, như Quốc hội và các Hội đồng Nhân dân địa phương. Tại các cấp địa phương, ông cho biết Bộ Tư pháp đã thiết lập một hệ thống bồi thẩm theo đó “nhân dân” có thể tham gia trực tiếp xử án các trường hợp đặc biệt. Vũ Đình Hòe gián tiếp nhắc nhở những người cộng sản rằng, theo bản Hiến pháp năm 1946 vẫn còn hiệu lực, các cơ quan do dân bầu ra, chứ không phải Đảng Cộng sản hay chính phủ, mới nắm quyền lực nhà nước tối cao. Các thẩm phán chỉ tuân theo những cơ quan ấy. Nói cách khác, thông điệp gửi tới những người cộng sản là, các anh không đồng nhất với “nhân dân” và các anh cũng phải có trách nhiệm giải trình [accountability] trước “nhân dân”. Theo lập luận của Vũ Đình Hòe, “nhân dân” với tư cách một tập thể rõ ràng là nền tảng duy nhất của sự hợp thức, chứ không phải các giai cấp xã hội. Ông buộc các lãnh tụ cộng sản phải đối mặt với tuyên bố trước đây của họ [về chính phủ do dân và vì dân] và các thể chế nhà nước vẫn còn hợp thức [ví dụ Hiến pháp 1946] được lập ra dựa trên những thỏa hiệp trước đây với những người không cộng sản.

Vũ Trọng Khánh và Vũ Đình Hòe đẩy Quang Đạm vào thế phòng thủ: Quang Đạm phải biện minh rằng phe cộng sản đại diện cho “nhân dân”. [94] Quang Đạm lập luận rằng chính phủ và “nhân dân” là một, vì chính phủ được cấu thành từ những đại diện ưu tú nhất của nhân dân. Tôn trọng “nhân dân” có nghĩa là theo lệnh chính phủ, đặc biệt là các chính quyền địa phương. Các uỷ ban địa phương gần với “nhân dân” hơn cả”, họ biết “mong muốn của người dân” rõ hơn là chính phủ trung ương. Chính “nhân dân” chứ không phải các uỷ ban này đã bắt Việt gian bởi vì nhân dân căm ghét chúng. Những vụ bắt bớ trái luật là do các hoàn cảnh đặc biệt, nhưng làm thế nào mà các thủ tục luật pháp lại có thể quan trọng hơn “mong muốn của người dân” được? Các uỷ ban địa phương không lạm dụng quyền lực của mình mà chỉ hành động vì lợi ích của nhân dân thông qua việc bắt “Việt gian”. Các quan chức ngành tư pháp nên ủng hộ thay vì chỉ trích những uỷ ban ấy.

Mặc dù khởi đầu cuộc tranh luận với lý thuyết đấu tranh giai cấp, giờ đây Quang Đạm bị buộc phải bám vào một khái niệm “nhân dân” rất mù mờ, khiến cho ông ta càng xa rời đấu tranh giai cấp hơn. “Nhân dân” theo Quang Đạm nghĩ là một tập đoàn không thể phân chia và kiên quyết gắn liền với cuộc đấu tranh. Nhân dân có một “ý chí tập đoàn” đại diện cho hình thức công lý tối cao; và “lợi ích của nhân dân” phải được coi như là nguyên tắc luật tối cao. Nhân dân có một “mong muốn chung”, mà các cán bộ tư pháp phải tuân theo. [95] Vì không có khả năng đáp trả các lập luận lý thuyết của đối thủ, Quang Đạm quay sang dọa nạt:

“Trước Toà án tối cao là Toà án của nhân dân, dưới đạo luật tối cao là ý chí của nhân dân, kẻ nào cố ý hay vô tình bám vào hình thức pháp luật mà phản lại tinh thần pháp luật, quyết không thể tránh khỏi bản cáo trạng và sự trừng phạt rất đơn giản nhưng rất đích đáng của nhân dân”.

Cuộc tranh luận kéo dài đến năm 1950, nhưng sau loạt bài báo đầu tiên của Quang Đạm và đáp trả của Vũ Trọng Khánh và Vũ Đình Hòe vào năm 1948, ta đã có thể thấy rõ mâu thuẫn nằm ở đâu và chúng là không thể hàn gắn. Mặc dù việc những quan chức không cộng sản sẽ bị tước bỏ quyền lực vẫn chưa xảy ra, có vẻ như điều này sẽ chỉ là vấn đề thời gian. Quả thực, các viên chức tư pháp do Pháp đào tạo như Vũ Văn Huyền và Trần Chánh Thành bị khiển trách do tranh cãi với chính quyền địa phương đã bắt đầu dinh tê vào năm 1949. [96]

Ngay cả khi ĐCSĐD không thể triệu tập một hội nghị Đảng toàn quốc vào tháng Tám năm 1948 do nhiều nguyên nhân, khi ấy một đường lối mới đã ra đời để chỉ đạo cách mạng cho đến năm 1953. Ở Hội nghị Cán bộ lần thứ 5 vào tháng Tám 1948, Trường Chinh đọc một báo cáo dài theo đó, lần đầu tiên kể từ 1941, nhiệm vụ cải cách ruộng đất đã chính thức được đặt ngang hàng với nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Mục tiêu cuối cùng của cách mạng giờ đây được chính thức tuyên bố là chủ nghĩa xã hội. Bản báo cáo mang tên “Chúng ta chiến đấu cho độc lập và dân chủ”, với “dân chủ” được hiểu là một “chế độ dân chủ mới” tương tự với nền dân chủ được thiết lập tại Đông Âu, Bắc Triều Tiên và “những vùng được giải phóng” ở Trung Quốc. Trích dẫn Zhdanov, E. Varga (Đảng Cộng sản Pháp), Gottwald (Chủ tịch Tiệp Khắc) và Dimitrov (lãnh tụ Bulgaria và trước đây là một trong những người lãnh đạo Quốc Tế Cộng Sản), Trường Chinh lập luận rằng “chế độ dân chủ mới” này là một sáng tạo mới của vô sản thế giới bằng cách áp dụng lý thuyết Mác xít-Lê nin nít.97 “Cách mạng dân chủ mới” tương tự như cách mạng dân chủ tư sản (cũ) ở chỗ cả hai đều hướng tới việc tiêu diệt chế độ phong kiến do giai cấp địa chủ làm đại diện. Dĩ nhiên “cách mạng dân chủ mới” do vô sản lãnh đạo, chứ không phải giai cấp tư sản. “Chế độ dân chủ mới” nghe không có vẻ tiên tiến bằng chuyên chính vô sản được sử dụng ở Liên Xô, nhưng nó vẫn hướng tới xây dựng Chủ nghĩa Xã hội và Chủ nghĩa Cộng sản. Nhờ các điều kiện thế giới thuận lợi (sự giúp đỡ có được từ Liên Xô và phe tư bản chủ nghĩa đang rơi vào khủng hoảng), các nền dân chủ mới có thể phát triển Chủ nghĩa Xã hội mà không cần đổ máu nhiều trong đấu tranh giai cấp.98 Trường Chinh kết luận rằng, “Ngày nay, cách mạng Đông Dương phải ‘hiện nguyên hình’… là cách mạng tư sản dân chủ, cách mạng dân chủ mới” dù cho cuộc chiến chống Pháp [của VNDCCH] vẫn có thể được coi là một cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. [99] Nói cách khác, loài sói giờ đây có thể hiện nguyên hình là sói mà không cần giả làm cừu nữa. Trong khi Trường Chinh và ĐCSĐD vẫn muốn duy trì mặt trận dân tộc thống nhất, [100] thì trong bài diễn văn này cũng như tên của nó, chúng ta có thể thấy họ đang nhắm xa hơn độc lập dân tộc. Họ hướng tới một ngày của tương lai gần khi hoàn thành được mục tiêu thứ hai, “chế độ dân chủ mới”, và họ đang tích cực chuẩn bị cho ngày đó tới thông qua chính sách ruộng đất và nhiều chính sách khác.

Kết luận

Cho đến nay, các sử gia đã không xem năm 1948 là một bước ngoặt quan yếu của cuộc cách mạng ở Đông Dương. Rõ ràng các thay đổi ở Việt Nam trong năm này không dẫn tới một cuộc nội chiến như tại các nước Đông Nam Á khác, nhưng chúng vẫn rất quan trọng trong bối cảnh chính trị Việt Nam. Tiểu luận này trình bày các sự kiện trong các năm 1947-1948, đồng thời quay trở lại với những thỏa hiệp mà ĐCSĐD thực hiện khi nắm chính quyền vào cuối năm 1945. Những thỏa hiệp chính trị ở giai đoạn chính phủ Việt Minh mới lên nắm chính quyền giúp chúng ta hiểu được tầm quan trọng của năm 1948, nghĩa là lúc khối đoàn kết dân tộc bắt đầu sụp đổ – chưa phải là một cuộc nội chiến nhưng cũng đã là sự chia rẽ không thể đảo ngược.

Trong khi tình hình quốc tế thúc đẩy các lãnh tụ ĐCSĐD đưa ra một đường lối cực đoan hơn, thì họ lo lắng trước những vật cản đối với cuộc cách mạng của họ: thất bại trong việc tiến hành các chính sách giảm tô, xung đột với các lãnh tụ không cộng sản trong chính phủ, và mâu thuẫn giữa lý tưởng đấu tranh giai cấp của Đảng với quan điểm bảo thủ của các viên chức hành chính thuộc địa được lưu dụng. Những vấn đề này có nguồn gốc ở những thỏa hiệp và thu nạp thực hiện vào cuối năm 1945 để đổi lại sự ủng hộ của dân chúng và tầng lớp tinh hoa thuộc địa. Đa số lãnh tụ của Đảng mong muốn tiến hành một cuộc cách mạng xã hội càng sớm càng tốt nên họ bức xúc trước các vấn đề này. Họ phân tích tình hình thế giới dựa trên thế giới quan của họ về một cuộc đối đầu không thể tránh khỏi giữa hai phe. [101]

Còn lại một câu hỏi lớn: Tại sao ĐCSĐD không đoạn tuyệt ngay lập tức với những người không cộng sản vào năm 1948 và bắt đầu nội chiến như ở các nước Đông Nam Á khác? Câu hỏi này cần nghiên cứu thêm, nhưng chúng tôi có thể đề xuất một vài lý do. Có thể những lãnh tụ nhiệt tình với đấu tranh giai cấp như Trường Chinh cần thời gian để thuyết phục những đồng chí cẩn trọng hơn trong hàng ngũ lãnh đạo của Đảng đi theo mình. Những người cẩn trọng có thể đã lập luận thuyết phục về việc tiến hành thay đổi chậm hơn. Trước hết, ĐCSĐD đã thống trị khối liên hiệp, và những nhân vật không cộng sản như Vũ Đình Hòe không thể đe dọa quyền lực của nó. [102] Nó có thể kiên nhẫn chờ đợi trong khi dần dần loại “những bạn đồng hành” không còn có lợi ra khỏi chính phủ. Thứ hai, xét về mặt quân sự, cán cân vẫn nghiêng về phía người Pháp và ĐCSĐD không dại gì loại bỏ những người không cộng sản vẫn được dân chúng kính trọng. Ngoài ra, còn có mối nguy những người này sẽ bị chính phủ Bảo Đại thu hút về. Giữ họ lại trong vòng kiểm soát đồng thời vô hiệu hoá họ là một chiến lược khôn ngoan hơn so với để cho họ chạy đi để giúp Bảo Đại. Hoặc, ngay cả nếu ĐCSĐD thủ tiêu ngay lập tức các lãnh tụ không cộng sản, thì động thái này có thể kích động rất nhiều người vẫn đang phân vân giữa Bảo Đại và Hồ Chí Minh chuyển hẳn sang ủng hộ Bảo Đại. Thứ ba, ĐCSĐD có thể trông cậy vào hỗ trợ quốc tế nếu Đảng biết kiên nhẫn. Các lực lượng cộng sản Trung Quốc từ giữa năm 1948 đã ở vào thế thắng và việc họ áp sát biên giới Việt Nam chỉ còn là vấn đề thời gian. Đây cũng là một khác biệt cốt yếu về tình hình của ĐCSĐD so với các đảng cộng sản khác tại Đông Nam Á. Nếu ĐCSĐD chờ đợi, nó có thể được ĐCSTQ hỗ trợ trong một thời gian gần. Nếu nó hành động vội vàng, Mỹ có thể can thiệp trong khi Hồng Quân Trung Quốc vẫn còn ở xa. Với các đảng cộng sản khác ở Đông Nam Á, thời gian không đứng về phía họ. Nếu hành động trong khi các đối thủ phe quốc gia vẫn còn yếu, thì họ có cơ may chiếm được thế thượng phong. Họ không thể trông chờ một sự giúp đỡ từ bên ngoài nào và nếu như chờ đợi, cơ may của họ trong việc đánh bại đối thủ sẽ ngày càng ít hơn.

Mặc dù đã tự kiềm chế, bước ngoặt năm 1948 đã dẫn tới việc nhiều trí thức và chuyên gia chán nản rời khỏi hàng ngũ Việt Minh trong những năm sau đó. Không phải ai cũng bỏ đi, và trong số những người ở lại nhiều người đã phải chịu đựng các vụ thanh trừng đầy bạo lực trong cải cách ruộng đất, “chiến dịch chỉnh huấn tổ chức đảng”, rồi vụ Nhân văn-Giai phẩm hồi giữa thập niên 1950. [103] Và câu chuyện cũng chưa dừng tại đó. Lịch sử sẽ lặp lại vào năm 1975 khi các trí thức thành thị miền Nam Việt Nam trước đó từng gia nhập Mặt trận Giải phóng Dân tộc nhanh chóng bị gạt ra lề sau khi thống nhất đất nước. Dù cho Đảng Cộng sản Việt Nam mới đây đã tỏ ra xoa dịu trí thức, thì cái quá khứ xung khắc ấy vẫn còn để lại di chứng. Theo nghĩa này, bóng ma năm 1948 vẫn ám ảnh nền chính trị Việt Nam cho đến ngày hôm nay.

Chú thích trong bài viết:

78. “Nghị quyết Hội nghị Trung ương mở rộng”, 15-17/1/1948. ĐCSVN, t. 9, tr. 16.

79. nt, tr. 17.

80. nt, tr. 31. Cũng xem mệnh lệnh sau đó nhằm tiến hành chính sách: “Chỉ thị gửi các khu uỷ về việc tịch thu ruộng đất, tài sản của bọn Việt gian phản quốc”, 18 tháng Hai năm 1948. ĐCSVN, t. 9, tr. 60-1. Đảng chưa đả động đến địa chủ lúc này.

81. “Chỉ thị về vấn đề vận động nông dân”, 19 tháng Năm 1948. ĐCSVN, t. 9, tr. 140-1.

82. nt, tr. 45.

83. nt, tr. 44. Cũng xem một quyết định chi tiết hơn “Quyết nghị của Ban Thường vụ Trung ương”, 1 tháng Tư năm 1948. ĐCSVN, t. 9, tr. 85-8.

84. “Chỉ thị của Ban Thường vụ Trung ương”, ký tên Lê Đức Thọ, 1 tháng Sáu năm 1948. ĐCSVN t. 9, tr. 149. Có nhiều lý do Đại hội bị hoãn, nhưng có vẻ hai lý do quan trọng hơn cả là khó khăn của các đại biểu của cơ sở Đảng tại miền Trung và miền Nam Việt Nam để tới được căn cứ Việt Bắc vào những năm 1948-1950, và việc chiến tranh Triều Tiên bùng nổ vào tháng Sáu năm 1950.

85. Văn kiện này không nói tới việc thanh trừng đảng viên vì thành phần giai cấp. Việc này chỉ bắt đầu được tiến hành
từ khoảng 1953.

86. “Bài nói chuyện trong buổi bế mạc Hội nghị”, Hội nghị Cán bộ Trung ương, 14-18/1/1949. ĐCSVN, t. 10, tr. 166-7.

87. “Báo cáo về tình hình Đảng năm 1948”, Hội nghị Cán bộ Trung ương, 14-18/1/1949. ĐCSVN, t. 10, tr. 120-50. Con số 450% cho năm 1948 được lấy từ “Hoàn thành nhiệm vụ chuẩn bị, tích cực chuyển sang tổng phản công”, báo cáo của Trường Chinh tại Hội nghị toàn quốc lần thứ ba, 21/1-3/2/1950. ĐCSVN, t. 11, tr. 92.

88. Tuy nhiên sự tăng trưởng không đồng đều: chỉ riêng Khu 3 (các tỉnh ở thượng nguồn sông Hồng) đã có 70.000 đảng viên. Miền Nam Việt Nam có tổng cộng khoảng 30.000 đảng viên vào cuối năm 1948.

89. Cuộc tranh luận diễn ra trên Sự thật, tờ báo của ĐCSĐD, và Độc lập một tờ báo tuần của ĐDC.

90. Xem Quang Đạm: Nhà báo, học giả (Hà Nội: Lao động, 2002). Quang Đạm là bút danh của Tạ Quang Đệ, từng làm thẩm phán trong chính quyền thuộc địa và không có liên hệ với Thanh Nghị. Anh trai ông, Tạ Quang Bửu, nổi tiếng hơn nhiều, đã từng phục vụ chính phủ Trần Trọng Kim và là một thứ trưởng của Việt Minh.

91. “Tư pháp với nhà nước”, Sự thật, 15 tháng Tư 1948; “Tính chất chuyên môn trong tư pháp”, Sự thật, 19 tháng Năm 1948.

92. “Ý kiến bạn đọc về vấn đề tư pháp”, Sự thật, 19/8-2/9/1948; và “Vấn đề tư pháp”, Sự thật, 20 tháng Sáu, 10 tháng Bảy và 1 tháng Tám năm 1949.

93. “Tư pháp trong chế độ dân chủ mới”, Độc lập, tháng Bảy năm 1948.

94. “Vài điểm căn bản về vấn đề tư pháp”, Sự thật, 15 tháng Mười một, 30 tháng Mười một, và 19 tháng Chạp năm 1948; và “Về cuộc thảo luận vấn đề tư pháp”, Sự thật, 6 tháng Giêng năm 1950.

95. Cho mãi đến năm 1950, sau khi VNDCCH đã chính thức gia nhập khối Xô viết, Quang Đạm mới dùng từ “nhân dân” như một khái niệm dựa trên giai cấp, nghĩa là “nhân dân” với tư cách một tập thể được tạo nên từ hai giai cấp (công nhân và nông dân) dẫn dắt cách mạng dân tộc và đấu tranh giai cấp. Xem Quang Đạm, “Người trí thức trong xã hội và trong cách mạng, Sự thật, 15 tháng Ba năm 1950. Từ “nhân dân” trước 1945 không hay được sử dụng. Đến 1950, nó chủ yếu được một số ít tác giả dùng, một trong số đó là Trường Chinh. Từ này được sử dụng rộng rãi và bắt đầu có một số hàm ý Mác xít có lẽ là nhờ các nỗ lực của Trường Chinh trong việc quảng bá nó và du nhập
diễn ngôn cách mạng Trung Quốc vào Việt Nam từ sau 1950. “Renmin” (dịch từng từ là “nhân dân”) là một từ trọng tâm trong diễn ngôn của Mao.

96. Sau này Trần Chánh Thành sẽ trở thành Bộ trưởng Thông tin của Việt Nam Cộng hoà dưới thời Ngô Đình Diệm.

97. Trường Chinh, “Chúng ta chiến đấu cho độc lập và dân chủ”, bài diễn văn tại Hội nghị Cán bộ lần thứ năm, 8-16/8/1948. ĐCSVN, t. 9, tr. 191.

98. nt, tr. 187-92.

99. nt, tr. 198.

100. nt, tr. 209-18.

101. Vu, “From Cheering to Volunteering.”

102. Vào năm 1957, sau khi những sai lầm của cải cách ruộng đất được phát hiện, ông Vũ, lúc đó vẫn là Bộ trưởng Tư pháp trên danh nghĩa (dù quyền lực thực tế thì từ năm 1949 đã mất về tay Thứ trưởng Tư pháp Trần Công Tường là một đảng viên), và một vài nhân sĩ trí thức không cộng sản đề nghị nhà nước cho phép Đảng Dân chủ được hoạt động như một đảng đối lập để ngăn ngừa những sai lầm tương tự. ĐCSVN lập tức cho ông Vũ về hưu non. Bộ Tư pháp bị giải thể và VNDCCH/Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam không có Bộ Tư pháp cho đến những năm 90 của thế kỷ 20.

103. Để có các bình luận mới về những sự kiến ấy, xem Vu, Paths to Development in Asia; Ninh, A World Transformed; và Shawn McHale, “Vietnamese Marxism, Dissent, and the Politics of Postcolonial memory: Tran Duc Thao, 1946-1993,” Journal of Asian Studies, 61, 1 (tháng Hai năm 2002), tr. 7-31.

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Twitter picture

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Twitter Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s