Võ Xuân Quế
1 . Cách đây tròn 370 năm, ngày 5/2/1651, Franciscus Piccolomincus, Bề trên cả Dòng Dòng Tên ban phép xuất bản tác phẩm “Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum” (Thường gọi Từ điển Việt-Bồ-La) của Alexandre de Rhodes, do Propaganda Fide xuất bản tại Roma. Đây là tác phẩm in đầu tiên, cùng với “Phép giảng tám ngày”, được xuất bản cùng năm, cũng của de Rhodes, đánh dấu sự ra đời và định hình của chữ Quốc Ngữ.
Mặc dù được biên soạn nhằm mục đích chính là giúp cho các giáo sĩ Dòng Tên học tiếng Việt, và “cho chính người An Nam có thể học tiếng Bồ Đào lẫn tiếng La Tinh”[1] song Từ điển Việt-Bồ-La “là một công trình khoa học nghiêm túc được biên soạn theo lối từ điển châu Âu thời kỳ Phục Hưng. Các từ ngữ khó hiểu được giải thích tỉ mỉ, kèm theo những thí dụ thuyết minh. Do đó, đối với những người biết cả tiếng Việt, Bồ Đào Nha và La Tinh, Từ điển Việt-Bồ-La trở thành quyển từ điển giải thích – cùng loại với từ điển tường giải sau này – về tiếng Việt. Trong thực chất, đây là cuốn từ điển giải thích về tiếng Việt duy nhất cho đến cuối thế kỷ thứ XIX trước lúc ra đời quyển từ điển giải thích thứ hai – quyển Đại Nam Quấc âm tự vị của Huiình Tịnh Paulus Của, xuất bản tại Sài Gòn năm 1895”[2] Dưới đây chúng tôi viết tắt “Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum” là VBL-1651 hay bản gốc (BG).
Trang đầu VBL-1651, photocopy từ Propaganda Fide (Roma) năm 2001 (trái) và trang đầu VBL-1991 copy trên mạng (phải)
Từ điển VBL-1651 gồm tất cả 491 trang, với 2 phần. Phần từ điển gồm 450 trang, mỗi trang được chia thành 2 cột và đánh số theo cột (từ 1 đến 900, trong đó có 4 cột: 849-852 bỏ trống); kèm theo là một Appendix, một đính chính cho cả ba thứ tiếng: tiếng Việt (2,5 trang), tiếng Bồ Đào Nha (0,5 trang) và tiếng Latin (0,5 trang), và một Index các mục từ Latin, không đánh số trang hay số cột. Phần “Từ điển” có 248 đính chính được chỉ dẫn theo số cột trước, số dòng sau.
Bên cạnh phần từ điển còn có “Linguae Annamiticae seu Tunchinensis Brevis Declaratio” (Khái lược về ngữ pháp tiếng Việt Đàng Ngoài, dưới đây gọi tắt là “Ngữ pháp”)[3], gồm 31 trang độc lập, được đánh số mỗi trang từ 1-31. Đáng chú ý là phần này được in trước phần Từ điển, trong một số bản (như bản ở Thư viện công cộng Thành phố Lyon (Pháp) hiện có trên mạng[4]) và trong một số bản khác lại được in ở cuối, sau phần từ điển (như bản ở Thư viện quốc gia Áo[5]). Dựa vào lời của de Rhodes trong Divers Voyages et Missions, Nguyễn Khắc Xuyên cho rằng “đây là một tập sách độc lập”[6].
Phần “Ngữ pháp” gồm có 8 chương. Chương 1: về các chữ cái và âm tiết tạo thành ngôn ngữ này. Chương 2: các dấu và các dấu nguyên âm khác. Chương 3: về danh từ; chương 4: về đại từ; chương 5: về các đại từ khác; chương 6: về động từ; chương 7: về những phần còn lại không diễn giải được của lời nói; và chương 8: một số bài học thích hợp về cú pháp. Cấu trúc và trật tự này “giống hệt như một phần (gồm 36 trang) trong De institutione grammatica libri tres, tác phẩm được coi là “sách giáo khoa tiêu chuẩn được các giáo sĩ Dòng Tên dùng trong việc dạy các thành viên của họ tiếng Latin”, xuất bản năm 1572 của Manuel Alvares”[7].
Phần “Ngữ pháp” này được đính chính 2 lần: lần đầu gồm 17 đính chính, in ngay sau phần này và lần 2 gồm 5 đính chính, in sau phụ lục cuối phần từ điển. Sự có mặt của các đính chính và phụ lục này cho thấy VBL-1651 được soạn thảo và in ấn rất công phu và nghiêm túc mà nhiều công trình ngày nay phải học tập. “Brevis Decaratio (Ngữ pháp – VXQ) ngắn gọn và tương đối dễ đọc. Mặc dù không phải là nghệ nhân gốc của tiếng Việt latinh hóa, thông qua các tác phẩm đã hoàn thành bằng ngôn ngữ và tiếng Latin về ngôn ngữ, Alexandre de Rhodes có vị trí xứng đáng là một nhân vật chính trong lịch sử tiếng Việt.”[8]
2 . Để sử dụng và khai thác được nguyên bản “Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum” cần phải biết tiếng Bồ Đào Nha và tiếng La Tinh hoặc phải có trong tay một bản dịch tiếng Việt. Vì vậy, năm 1991 Viện Khoa hoc xã hội tại thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức biên dịch cuốn từ điển này sang tiếng Việt và Nhà xuất bản Khoa học Xã hội xuất bản với tên gọi “Từ điển An Nam-Lusitan-La Tinh” (Thường gọi Từ điển Việt-Bồ-La). Dưới đây chúng tôi gọi tắt Từ điển này là VBL-1991 hay bản dịch (BD). Trước bản dịch trọn vẹn này, hai chương đầu (Chương I và II) của “Ngữ pháp” đã được Kenneth J. Gregerson dịch sang tiếng Anh trong công trình “A Study of Middle Vietnamese Phonology” (Nghiên cứu về âm vị học tiếng Việt Trung đại) của ông năm 1969[9]. Năm 2019, một lần nữa toàn bộ “Ngữ pháp” lại được Andrew Gaudio dịch sang tiếng Anh[10].
Việc biên dịch tiếng Bồ Đào Nha và La Tinh của Từ điển VBL-1651 sang tiếng Việt là một việc làm hết sức có ý nghĩa và rất đáng trân trọng. Nhờ có cuốn từ điển biên dịch này mà những người không biết tiếng Bồ Đào Nha và tiếng La Tinh có thể biết được lịch sử hình thành của chữ Quốc ngữ và sử dụng được “kho lưu trữ “bỏ túi” về hàng trăm, hàng ngàn di tích văn hóa thế kỷ XVII”[11] của Việt Nam mà Alexandre de Rhodes đã ghi chép lại. Nếu như VBL-1651 là cuốn sách gối đầu giường của các nhà truyền giáo cũng như các linh mục người Việt trong hơn ba thế kỷ qua thì kể từ khi được xuất bản đến nay, VBL-1991 là một nguồn tư liệu không thể thiếu được đối với những người nghiên cứu văn hóa, ngôn ngữ lịch sử tiếng Việt cũng như chữ Quốc ngữ trong 30 năm qua.
Tuy nhiên, do đây là cuốn Từ điển tiếng Việt đầu tiên bằng chữ Quốc ngữ, được ra đời khi hệ thống chữ Quốc ngữ chưa hoàn toàn ổn định, phương tiện in ấn chưa phát triển nên trong phụ lục cuối phần Từ điển, de Rhodes đã viết “Sau hết, không nên ngạc nhiên nếu thấy nhiều lỗi in trong lần xuất bản đầu tiên của ngôn ngữ này, vì dấu quá rắc rối đôi khi cũng lọt mắt thợ xếp chữ, chắc chắn cũng có những điều khác vượt khỏi tầm mắt tôi, mà sự sửa sai tôi xin phó thác cho những nhà thông thạo ngôn ngữ và tôi xin vui lòng nhận sự phê phán của các vị ấy”[12]. Trong “Lời Nhà xuất bản” của Nhà xuất bản Khoa học Xã hội (tr.5) cũng như “Lời nói đầu” của Viện Khoa học Xã hội tại Thành phố Hồ Chí Minh trong VBL-1991, cũng viết: “Mặc dù việc phiên dịch được tiến hành rất nghiêm chỉnh và thận trọng, chúng tôi chưa dám chắc là không còn sơ suất…Chúng tôi mong rồi đây nhận được nhiều ý kiến xây dựng để khi có dịp tái bản, quyển từ điển dịch này sẽ được hoàn hảo hơn.”[13]
Quả thật, cả BG và BD đều không tránh được khá nhiều lỗi in ấn và biên soạn. Với BG, ngoài 270 đính chính (248 ở phần “Từ điển” và 22 ở phần “Ngữ pháp”), cũng có một số lỗi không được đính chính. Còn BD, trong một bài viết in trên tạp chí Ngôn ngữ và đời sống năm 2001, linh mục Đỗ Quang Chính, một trong những người biên dịch BD đã viết: “Hồi đầu tháng 5-1991, khi vừa nhận được quyển Từ điển An Nam-Lusitan-La Tinh, tôi, một trong những dịch giả, thấy quyển sách có nhiều sai sót trầm trọng…”[14] Tuy nhiên, sai sót mà tác giả nói đến ở đây là ở “phần chụp sao nguyên bản” và cho biết lý do là “bản này được ai đó tô lại nhiều chữ đã bị lu mờ do khí hậu, thời gian… Nhưng lại tô sai không ít, sai từ trang đầu đến trang cuối sách.” Kết thúc bài viết này, tác giả viết: “Ngoài ra chúng tôi dám hi vọng quyển sách quý giá này sẽ được in lạ đúng với nguyên bản hơn.”
Đáp ứng mong muốn của tác giả VBL-1651 cũng như của Nhà xuất bản và cơ quan tổ chức biên dịch VBL-1991, trong bài này chúng tôi xin chỉ ra những lỗi và điểm chưa nhất quán trong phần dịch sang tiếng Việt (chứ không phải phần sao chụp lại bản gốc) của VBL-1991 với VBL-1651 qua việc đối chiếu hai bản dựa vào hai mục đáng chú ý ((2 và 3) trong phần “Phàm Lệ” được in ở đầu VBL-1991.
Ở mục 2, trong “Phàm Lệ” (tr. 6) của VBL-1991, có viết: “Chữ in hoa ở các mục từ và chữ in nghiêng trong phần giải thích các mục từ là những chữ rập đúng theo chữ nguyên dạng của từ điển gốc.” Ví dụ: ꞗá (BG) > ꞗÁ (BD), üỉ, an üỉ (BG) > ÜỈ, AN ÜỈ (BD). Tuy nhiên, ở cả phần “Ngữ pháp” lẫn trong phần “Từ điển” đều có thể tìm thấy một số trường hợp không phản ảnh đúng điều này. Chẳng hạn: riêng về chữ cái U trong BD vốn là chữ cái V “theo chữ nguyên dạng của bản gốc” (sau chữ cái T và trước chữ cái X), ở mục từ, có một số lỗi sau: V Mê (BG) > U ME (BD), Vạc nồi (BG) > UẠC NỒI (BD), üôm > UÔM, uươn ꞗay (BG) > UƯƠN VAY (BD). Còn ở ví dụ minh họa, có 2 lỗi là: uòi uoi (BG) > Uòi voi (BD), nhọn vát (BG) > nhọn vất (BD).
Ở mục 3, trong “Phàm Lệ”, có viết: “Những chữ trong dấu ngoặc vuông là những lời chú thích của các dịch giả, hoặc chú thích về một cách viết, một cách đọc, hoặc ghi chú thêm một số từ để làm rõ nghĩa lời dịch nguyên bản” (Kỳ thực, những chữ trong dấu ngoặc vuông này đều là những cách viết, cách đọc theo chữ Quốc ngữ ngày nay – VXQ). Ví dụ: mặt mũy (BG) > mặt mũy [mũi] (BD); Ai bạ thì ley (BG) > Ai bạ thì ley [lấy] (BD). Song, khá nhiều trường hợp không tuân theo quy định như vậy. Chẳng hạn: khá nhiều trường hợp, từ trong dấu ngoặc vuông của BD là từ đính chính của BG. Ví dụ: “lờ lung” (BG), có đính chính là “lở lang”, được BD ghi là “Lờ lung [Lở lang]”. Tương tự, “lan” trong “hai lan” có đính chính “lần” (cột 435, 13, Appendix, BG), song vẫn được ghi “Hai lan [lần]” trong BD. Hay “ſưng” trong “Tlâu bò mài ſưng” (BG) được đính chính là “sừng” (cột 446, d.13), song BD ghi là “TIÂU BÒ MÀI SƯNG [SỪNG]” (BD, tr.144). Trong ví dụ này, đáng chú ý chữ cái “tl” trong “tlâu” (BG) còn bị in sai thành “TI” trong “TIÂU” (BD). Có trường hợp như từ “Kựng” trong ví dụ ở mục từ sau chữ cái R (BG, c.636) được đính chính là “cứng”, song BD vẫn giữ nguyên từ sai ở BG và thêm từ giải thích cũng sai trong ngoặc vuông là: “Kựng [kứng]” (BD. Tr.190). Có trường hợp BD in sai và để từ đúng của BG trong ngoặc vuông, như: “Uô thỉ, chảng có tlước” (BG, c.870) > “Uô thỉ, chảng có thuóc [tlước]” (BD, tr.247).
Sự không nhất quán thường gặp nhất là vị trí của thanh điệu trong từ/âm tiết. Nhiều trường hợp BD giữ nguyên như BG, song cũng nhiều trường hợp BD sửa lại theo vị trí thanh điệu của chữ Quốc ngữ ngày nay. Chẳng hạn: có 10 trường hợp từ “khaó” và “khaỏ” (BG) được sửa thành “kháo” và “khảo” trong BD. “khứơc” (BG) > “khước” (BD). Song lại có nhiều trường hợp vị trí của thanh điệu trong BG được giữ nguyên trong BD. Ví dụ: “laò, nước laò” (BG) > “LAÒ, NƯỚC LAÒ” (BD), “laò, liệt laò, ốm laò” (BG) > “LAÒ, LIẸT LAÒ, ỐM LAÒ” (BD), “laỏ, oŭ laỏ, bà laỏ, đức laỏ, laỏ tử” (BG) > “LAỎ”, “oŭ laỏ, bà laỏ, đức laỏ”, “LAỎ TỬ” (BD). Có trường hợp cùng một từ nhưng BD vừa giữ nguyên vị trí dấu, vừa đổi vị trí dấu, như từ “lià”, gà lià nhà” (BG) > “LIÀ”, “Gà lià nhà” (BD), nhưng “lià ra” (BG) > “Lìa ra” (BD).
Screenshort cho thấy chữ viết của BG cần được chú thích vừa được chú thích trong ngoặc vuông, vừa không trong phần “Từ điển” của BD
Có thể xếp các lỗi và những điểm chưa nhất quán giữa VBL-1991 với VBL-1651 qua bảng sau đây (xem bảng ở trang 5):
Vì chưa có điều kiện để rà soát tất cả các mục từ và dẫn liệu trong BD, mặt khác do giới hạn của dung lượng bài viết, dưới đây chúng tôi chỉ dẫn ra những lỗi và sự không nhất quán chủ yếu ở trong phần “Ngữ pháp” (gồm 22 trang trong BD) và một số trường hợp dễ nhận thấy ở phần “Từ điển”, qua hai mục (mục 2 và 3) được nêu ra trong “Phàm lệ” như sau:
- Các chữ cái, từ trong BD không đúng với BG gồm: V (BG) được in thành (>) U (BD), V, mê (BG, có đính chính là: V mê) > U mê (BD), nhềo (BG) > nhèo (BD), 1 trường hợp vừa sai chữ cái vừa sai vị trí dấu thanh điệu: ꞗĕaò (BG) > bĕào (BD). Liên quan đến việc giữ nguyên hình thức chữ viết của BG trong BD, cần biết thêm rằng trong BG, chữ cái ghi âm vị /s/ xuất hiện dưới 2 hình thức ſ (Long s) và s (Short s). Chỉ riêng với các tiếng/từ trong vần/chữ cái S, có 213 từ với chữ ſ, trong khi chỉ có 89 từ với chữ s. Song trong BD, chỉ có 1 hình thức s. Ví dụ: “bất ſinh, chảng sóŭ” (BG, c.510) > “Bất sinh, chảng sóŭ” (BD, tr.159). Cách viết ſ thay s trong một số trường hợp bắt nguồn từ lối viết chữ Roman cursive thời trung đại đến cuối thế kỷ 18. Trong tiếng Việt, cách viết này vẫn còn được dùng trong từ điển Việt-La của Pegnhau de Behain (1772), và các văn bản viết tay của các linh mục người Việt.
Thứ tự | Các kiểu lỗi và sự thiếu nhất quán trong bản dịch (BD) | Ví dụ | |
VBL-1651 | VBL-1991 | ||
1 | BD in sai từ của bản gốc (BG) | V mê, Qva
nghề nghiẹp blái thệu lưự |
U MÊ, QUA
Nhề nghiẹp trái thệu lưự |
2 | BD ghi từ đúng của BG trong ngoặc vuông ([]), từ sai trước, hoặc từ đúng của BG cả trong [] | cơm đã cạn
tlước Tlèo lên may mặt Nuôi gà, lờn (đc: lợn) |
CƠM ĐÃ CAN [CẠN]
Thuóc [tlước] Tlèo [Tlèo] lên may mặt [mặt] Nuôi gà, lờn [lợn] |
3 | BG có đính chính (đc). BD không dùng đc mà giữ từ sai của BG, hoặc sửa theo cách đọc ngày nay. | coi iò (đc: – giò)
Cáy baù (đc: cây–) X. dĕanh (đc: X. dĕành) Dùi doục (đc: – đoục) Do (đc: dĕò) |
COI IÒ
CÁY BAÙ X. dĕanh DÙI DOỤC Dò |
4 | BG có đính chính. BD giữ từ sai của BG và ghi đính chính của BG trong ngoặc vuông | họt cải (đc: hột…)
có chó (đc: con) em tai (đc: êm) lờ lung (đc: lở lang) |
HỌT [HỘT] CẢI
CÕ [CON] CHÓ em [êm]tai Lờ lung [Lở lang] |
5 | BG có đính chính. BD dùng từ đính chính, không ghi từ sai của BG, hoặc ghi trong ngoặc vuông sai | bàng iên (đc: yên)
gặy heò (đc: gậy -) kựng (đc: cứng) |
BÀNG YÊN
GẬY HEÒ Kựng [kứng] |
6 | BG không có đính chính, BD sửa, vừa sai vừa đúng | cát ꞗeào
nuót ꞗeào chen ꞗĕao trừ tà |
cát ꞗĕào [ꞗĕào]
nuót ꞗĕào [ꞗĕào] CHEN ꞗĕao [ꞗĕaò] Trừ [ta] tà |
7 | BD giữ nguyên vị trí dấu thanh của BG, khác vị trí dấu thanh của chữ Quốc ngữ hiện nay | oŭ laỏ, bà laỏ, đức laỏ
laò, nước laò, đeò |
oŭ laỏ, bà laỏ, đức laỏ
laò, nước laò |
8 | BD đổi vị trí dấu thanh của BG theo vị trí dấu thanh của chữ Quốc ngữ hiện nay | khâu aó, blựơc
khứơc, mụoi chaỏ Heò, thuóc heò tàu trửơng |
Khâu áo, BLƯỢC
KHƯỚC, MỤOI CHẢO HEÒ, THUÓC HÈO Tàu trưởng [trưởng] |
- Trong BG, phần “Ngữ pháp” có 17 lỗi có đính chính (đc). Phần lớn các đính chính này đã được sửa trong BD. Chẳng hạn: ệm (BG – đc: êm) > êm (BD), Guet (BG – đc: nguet) > nguet (BD), ngững (BG – đc: những) > những (BD), chi (BG – đc: chị) > chị (BD), tôi (BG – đc: tội) > tội (BD), cŭên (BG – đc: cǒên) > cǒên (BD), nẹ (BG – đc: nọ) > nọ (BD), 8 trường hợp: iêo (BG – đc: yêo) > yêo (BD). Tuy nhiên, vẫn còn có một số đính chính của BG chưa được sửa. Ví dụ: từ “đáu” trong “kín đáu” ở cột 382 của BG được đính chính là “đáu: đáo” (Appendix, 382.13). Song BD vẫn giữ nguyên là “Kín đáu” (BD, tr.129). “iò” trong “coi iò coi nham” (BG, c.546) có đính chính “io: giò” (Appendix, 546. 1), nhưng BD vẫn giữ nguyên như BG là “COI IÒ NHAM” (BD, tr.167). Việc sử dụng từ đính chính chưa thống nhất khi có thể tìm thấy khá nhiều trong phần Từ điển của BD.
Screenshort từ 2 trang VBL-1651 và 1 trang VBL-1991 trong phần “Ngữ pháp” cho thấy BD vừa sửa đúng vừa sửa sai đính chính của BG
Ngoài ra, cũng cần nói thêm trong phần “Ngữ pháp” có một số từ diễn đạt chưa thực sự chính xác ở BD. Chẳng hạn: “phương ngữ” (tr.5, 255) đúng ra là “tiếng” hoặc “ngôn ngữ” (vì từ trong BG là “Linguae”, bản dịch tiếng Anh dùng “language”); “Vần” trong “Chương I: Chữ và vần gồm trong tiếng này” (tr. 5) đúng ra là “âm tiết” (BG: “ſyllabís”, bản dịch tiếng Anh: “Syllables”); “của” (trong “không chạm tới của”, tr.11) đúng ra là “vòm miệng”, “bình dân” (trong “các tiếng bình dân Âu châu”, tr.12) đúng ra là “thông dụng”, “đó” (trong “đó là danh từ”, tr.12) đúng ra là “cheò”.
Như vậy, có thể thấy VBL-1991 không chỉ có những sai sót nghiêm trọng trong phần sao chụp lại bản gốc VBL-1951 như linh mục Đỗ Quang Chính đã chỉ ra, mà phần biên dịch cũng có nhiều lỗi về chữ viết không đúng với BG cũng như nhiều trường hợp chưa nhất quán với nhau trong BD. Với những người nghiên cứu, nhất là người nghiên cứu sự phát triển của chữ Quốc ngữ, những tư liệu về tự dạng, kiểu viết trong Từ điển này hết sức quan trọng. Vì vậy, để đảm bảo độ tin cậy của các tư liệu, người nghiên cứu không thể chỉ dựa riêng vào bản dịch VBL-1991 mà cần phải đối chiếu với tư liệu từ bản gốc VBL-1651.
Cùng với những “sai sót rất phổ biến trong phần chụp lại BG”, những lỗi về chữ viết so với BG và dẫn liệu thiếu nhất quán trong phần biên dịch sang tiếng Việt của VBL-1991 cho thấy Từ điển VBL-1991 rất cần được rà soát, chỉnh sửa và xuất bản lại để đảm sự chính xác với VBL-1651. Hy vọng việc nhân 370 năm Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum được xuất bản ở Roma (1651-2021) và 30 năm “Từ điển An Nam-Lusitan-La Tinh” được phiên dịch và xuất bản ở Việt Nam (1991-2021) việc làm này sẽ sớm được thực hiện để những người nghiên cứu cũng như những ai quan tâm đến công trình quý báu này không cần mất thời gian đối chiếu giữa BG và BD như lâu nay.
Nhân 370 năm ra đời VBL (1651) và 30 năm bản dịch tiếng Việt (1991)
Ghi chú: Xin cảm ơn Pgs. Ts. Hoàng Dũng, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã gửi cho tác giả ảnh chụp bài viết của linh mục Đỗ Quang Chính in trong tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống, số 4 (66) năm 2001.
CHÚ THÍCH
[1] Alexandre De Rhodes, Cùng độc giả, trong “Từ điển An Nam-Lusitan-La Tinh” (Thường gọi Từ điển Việt-Bồ-La), Nhà xuất bản Khoa học Xã hội 1991.
[2] Trích từ “Lời nói đầu” trong “Từ điển An Nam-Lusitan-Latinh” (Thường gọi Từ điển Việt-Bồ-La)
[3] Văn bản này được một số tác giả gọi là: “Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh.” (https://nghiencuulichsu.com/2018/06/22/tieng-viet-thoi-lm-de-rhodes-cach-goi-ngay-thang-thoi-gian-phan-6/)
[4] https://books.google.fi/books?id=rmA2UEt0ZREC&hl=fi&source=gbs_navlinks_s
[5] https://books.google.fi/books?id=Du9MAAAAcAAJ&hl=fi&source=gbs_navlinks_s
[6] Hoàng Xuân Việt, Tìm hiểu lịch sử chữ quốc ngữ, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin 2006, tr. 147
[7] Andrew Gaudio, A Translation of the Linguae Annamiticae seu Tunchinensis brevis declaratio: The First Grammar of Quốc Ngữ, Vietnamese Journal Studies 2019, Vol. 14, Issue 3, pps.79-114
[8] Andrew Gaudio, tài liệu đã dẫn.
[9] Kenneth J. Gregerson, “A Study of Middle Vietnamese Phonology,” Bulletin De La Société Des Études Indochinoises 44, no. 2 (1969): 132–191.
[10] Andrew Gaudio, tài liệu đã dẫn.
[11] Xem chú thích 1.
[12] Trích từ “Phụ lục” trong “Từ điển An Nam-Lusitan-Latinh”, tài liệu đã dẫn, tr. 255
[13] Trích từ “Lời nói đầu” trong “Từ điển An Nam-Lusitan-Latinh”, tài liệu đã dẫn
[14] Đỗ Quang Chính, Về bản “Chụp sao nguyên bản” Từ điển An Nam-Lusitan-Latinh, Ngôn ngữ và Đời sống, số 4 (66)-2001, tr.2-4.
Sao tác giả lại bảo cuốn từ điển này viết bằng chữ Quốc ngữ, trong cuốn từ điển này có mục “chữ quốc ngữ không” Khái niệm chữ quốc ngữ ra đời hơn 200 năm trên Gia Định báo, sau khi Rhodes chết, nếu cứ sử dụng tùy tiện như thế thì bàn toán của Trung quốc là máy vi tinh ngày nay sao! Thật ra các ông giáo sĩ ấy không hề có ý định phiên âm tiếng Việt bằng mẫu tự La tinh cho người Việt, chứ nói chi chuyện chữ quốc ngữ, chính lời ông ta nói điều ấy ngay trong cuốn tự điển mà tác giả đang trình bày. Cụ thể tại thư gởi các Hồng Y Thánh Bộ Truyền bá Đức tin ông viết “Roma là thư viện và kho chứa, vừa để nuôi dưỡng đoàn chiên của vị Mục tử Tối Cao Nhân lành, vừa để ngăn chặn lũ sói lang xông phá? ” Lũ sói lang ở đây là ai chắc không khó hiểu, lũ người Việt đó ông ạ.
ThíchThích