Lưu Bá Ôn- Nhà mưu lược xây dựng triều Minh

luu ba on 2.jpg

Trích Mười Đại Mưu Lược Gia Trung Quốc

Dịch giả : Phong Đảo

Chủ biên : Tang Du

Lưu Cơ, tự Bá ôn, người Thanh Điền, Triết Giang. Sinh vào năm thứ tư niên hiệu Chí Đại, đời vua Võ Tông nhà Nguyên, đỗ tiến sĩ năm thứ tư niên hiệu Chí Thuận (công nguyên 1333) đời nhà Nguyên. Đến năm thứ hai mươi niên hiệu Chí Chính (công nguyên 1360) đời vua Huệ Tông triều nhà Nguyên, Lưu Cơ đã gần năm mươi tuổi, nhận lời mời của Chu Nguyên Chương đến Ứng Thiên, để trù hoạch quân cơ cho Chu Nguyên Chương, bắt đầu một cuộc sống huy hoàng, thông đạt, đem đầy bụng kinh luân của mình ra để thi triển. Lưu Cơ chết vào năm thứ tám, niên hiệu Hồng Võ (công nguyên 1375) đời vua Thái Tổ triều nhà Minh, hưởng dương sáu mươi lăm tuổi. 

Về mặt quân sự, Lưu Cơ được mọi người gọi là nhà chiến lược, có thể so sánh với Trương Lương, Khổng Minh. Về mặt chính trị, ông được mọi người gọi là nhà tư tưởng. Trong văn học sử, ông được mọi người xem là một nhà thơ trứ danh cuối đời nhà Nguyên đầu đời nhà Minh. Ông là tiến Sĩ triều nhà Nguyên, được mời ra làm quan, nhưng đã từ chối sự tiến cử của Sở Tài, để trở thành một vị khai quốc nguyên huân của triều nhà Minh. Ông là người có tài dụng binh như thần, đoán việc rất sáng suốt. Nhưng đối với sự hoài nghi của nhà vua thì đành chịu bó tay. Mặc dù ông biết rút lui đúng lúc, để quy ẩn thoát thân, nhưng rốt cục không tránh được cảnh “hết chim bẻ ná, thỏ chết làm thịt chó săn”. Cuộc đời của ông, rất đáng cho chúng ta tìm hiểu, nghiên cứu.

1. Năm Mươi Mới Xuống Núi 

Tổ tiên của Lưu Cơ là Hào Môn đại tộc ở huyện Thanh Điền. Ông sơ của Lưu Cơ là Lưu Hào, học vấn uyên bác, rất có mưu lược. Lưu Hào thường làm Hàn Lâm Chưởng Thư cho triều nhà Tống. Sau khi triều nhà Tống bị diệt vong, người địa phương từng đứng lên tổ chức nhiều cuộc khởi nghĩa chống Nguyên, nhưng đều bị thất bại. Những người sống sót trong cuộc khởi nghĩa này đã bỏ chạy tứ tán, tìm nơi ẩn náu. Đối với cuộc khởi nghĩa trên, Lưu Hào tỏ ra rất đồng tình. Về sau, triều đình phái quan viên mang theo danh sách những người khởi nghĩa còn sống để bắt giữ và tịch thâu tài sản. Người sứ giả trên đường đi, ghé trọ tại nhà Lưu Hào. Ông bèn tìm hiểu tình hình rồi giả vờ ân cần tiếp đãi. Chờ cho người sứ giả uống rượu say, bèn khóa cửa lại rồi phóng hỏa đốt cháy ngôi nhà. Thế là danh sách tìm bắt những người khởi nghĩa bị cháy thành tro. Nhờ đó mà số người này tránh khỏi tai họa. 

Lưu Cơ đã lớn lên trong một gia đình như thế, tất nhiên là được sự hun đúc rất tốt đẹp. Ngay từ nhỏ,  Lưu Cơ ham học, và đã đọc rất nhiều sách vở. Đối với sách của người xưa viết về thiên văn, địa lý, cách dụng binh để đánh giặc, ông say mê đọc mãi không khi nào rời khỏi tay. Việc chú tâm nghiên cứu sách vở mang đến nhiều lợi ích cho Lưu Cơ, chẳng những làm cho trí tuệ của ông được mở mang, mà còn thúc đẩy ông tha thiết muốn lập chí lớn, muốn xây dựng sự nghiệp cho mình. 

Năm mười bốn tuổi, ông đã là một thiếu niên rất tài hoa. Cha ông mời mấy ông thầy đến để dạy, nhưng do những ông thầy này học vấn không cao, không thể thỏa mãn được những điều muốn học của Lưu Cơ, nên họ phải từ chức. Cuối cùng, cha ông mời được một danh nho có tài học uyên bác ở vùng Giang Nam, là Trịnh Phục Sơ đến dạy. Ông này cũng cảm thấy Lưu Cơ là một đứa trẻ khác hẳn những đứa trẻ bình thường. 

Một hôm, Trịnh Phục Sơ cùng các học sinh của mình đang tìm hiểu về việc Khổng Tử đã đi chu du liệt quốc như thế nào, đã truyền đạo ra sao. Lưu Cơ bỗng đứng dậy, nói: 

– Khổng Tử tuy là người có đạo đức cao, bản thân lại là người nước Lỗ, thế mà nước mình bị bại trận, vẫn không tìm cách cứu vãn được. Học nhiều mà lại vô vi thì có phải là một thư sinh vô dụng hay không? Người đại trượng phu không nên như thế! 

Trịnh Phục Sơ nghe qua không khỏi kinh hoàng thất sắc. Sau đó ông nói với người cha của Lưu Cơ: 

– Đây không phải là một đứa bé bình thường đâu. Sau này chắc chắn nó sẽ trở thành rường cột của quốc gia đấy! 

Quả nhiên, đến năm thứ tư niên hiệu Chí Thuận triều nhà Nguyên (công nguyên 1333), với tuổi đời chỉ mới hai mươi ba, mà Lưu Cơ đã đỗ tiến sĩ, áo gấm về làng, và được cử làm Huyện Thừa huyện Cao An tại Giang Tây, cũng như được cử giữ chức Nho Học Phó Đề Cử tại Giang Triết. 

Lưu Bá Ôn đã là một thiếu niên đắc chí, nên tha thiết muốn tận trung góp sức với triều đình nhà Nguyên, để làm nên những sự nghiệp oanh liệt. Nhưng lúc bấy giờ đang cuối triều nhà Nguyên, quan trường rất hủ bại, quan viên đều tham ô, cả xã hội đang lung lay sắp sụp đổ. Dù vậy, Lưu Cơ vẫn không cảm thấy nguy cơ bão táp sắp ập tới, và ngôi nhà đô sộ của triều nhà Nguyên sẽ sụp đổ tan tành. Ông một mặt tự lấy mình làm gương, luôn giữ thanh liêm, một mặt đấu tranh thẳng thừng với bọn tham quan ô lại. Nhưng ông ra làm việc chẳng bao lâu, thì bị người chung quanh ghét, tìm cách gièm pha và bài xích, đưa đi chỗ khác. Ông đã vấp phải một trở lực to lớn khi vừa bước ra cuộc đời. Ít lâu sau, do ông viết đơn tố cáo viên giám sát ngự sử không làm tròn trách nhiệm, nên đắc tội với thượng cấp bị đuổi về nhà. 

Dù lần đầu tiên gặp trở lực trong quan trường, nhưng vẫn không làm cho người trẻ tuổi đầy nhiệt tình như Lưu Cơ chán nản. Trái lại, ông cho rằng do mình học thức còn quá nông cạn, kinh nghiệm xã hội chưa đủ chưa đi sâu vào cuộc đời, chưa hiểu rõ mọi sự hiểm ác trong quan trường, nhất là ông cũng nhận thức được triều đình nhà Nguyên do quá hủ bại, nên người ngay thẳng mới không có chỗ đứng chân, vậy đừng nói chi là làm chuyện gì khác. Bởi thế, trong những ngày trở về quê ẩn cư, ông đã ngày đêm nghiên cứu “Châu dịch”, bát quái binh thư, chiến sách, như một kẻ đói khát cố nuốt lấy thức ăn. Ông cũng không quên giao du rộng rãi với các vị tân khách, bằng hữu để mở rộng ảnh hưởng của mình, chuẩn bị sẵn sàng bước trở ra xã hội lần thứ hai. 

Lưu Cơ biết đã có cây ngô đồng thì không lo chi chim phượng hoàng không đến. 

Quả nhiên, sau một thời gian trôi qua, tiếng tăm của Lưu Cơ ngày càng to, thậm chí có người còn cho rằng tài năng của ông có thể ví với Gia Cát Lượng. Do vậy, có nhiều văn sĩ ở Giang Nam đã đua nhau đến cửa xin chỉ giáo. Lưu Cơ cảm thấy ngày mình xuất đầu lộ diện sẽ không còn xa nữa. 

Lúc bấy giờ là cuối đời triều Nguyên, sự mâu thuẫn trong xã hội hết sức gay gắt, nông dân ở các nơi đua nhau khởi nghĩa, chỗ này vừa yên thì chỗ khác nổi dậy. Hàn Sơn Đồng ở Dịch Thành (nay là Dịch Thành, Hà Bắc) và Lưu Phúc Thông ở Dĩnh Châu (nay là Phụ Dương, tỉnh An Huy) cùng khởi binh tại Nhữ Dĩnh, La Điền (nay là La Điền, tỉnh Hồ Bắc). Từ Thọ Huy khởi binh ở Kỳ Hoàng, Định Viễn (nay là Định Viễn, tỉnh An Huy). Quách Từ Hưng khởi binh ở Hào Châu, Thái Châu (nay là Đông Đài, tỉnh Giang Tô). Trương Sĩ Thành khởi binh ở Cáo Bưu… quân khởi nghĩa hết sức sôi nổi. Cứ cuộc khởi nghĩa này lại càng to hơn cuộc khởi nghĩa trước. 

Trong khi đó, tại vùng Giang Triết có Phương Quốc Trân là người Hoàng Nham, do bị vu cáo thông đồng với giặc, nên tức giận giết chết kẻ thù của mình, rồi dẫn ba anh em quy tụ hải tặc đông đến mấy nghìn người, liên tục khuấy phá ở vùng Giang Triết. Triều đình nhà Nguyên mấy lần phái binh để tiêu diệt nhưng đều không thành. Ngay đến một Bột Thiếp Mộc là Hành Tỉnh Tả Thừa Giang Triết cũng suýt bị chúng bắt sống. Trong khi không còn cách nào khác hơn, triều đình hứa cho Phương Quốc Trân được làm quan và được hưởng bổng lộc cao. Nhưng Phương Quốc Trân là người có bản tánh ngoan cường, mấy lần đầu hàng rồi mấy lần phản lại, khiến nhân tâm hoang mang. Hành tỉnh Giang Triết thấy Phương Quốc Trân như thế, nên đã nghĩ tới Lưu Cơ, tiến cử ông làm Đô Sự tại Nguyên Soái Phủ. Lưu Cơ đã ở yên một chỗ ngoài mười năm không bước ra xã hội, lần này cảm thấy trước mắt mình như bừng sáng lên. Ông vừa đến nhiệm sở, liền chủ trương dùng vũ lực để tiêu diệt Phương Quốc Trân. Ông cho rằng anh em họ Phương đứng lên làm loạn, không kể gì đến ân huệ của triều đình từng ban cho, vậy “không tiêu diệt thì không thể răn đe người hậu thế”. Đồng thời, ông cũng hoạch định phương án tiểu trừ. 

Phương Quốc Trân từ lâu đã nghe tiếng Lưu Cơ là người có tài năng, nên rất lo sợ, vội vàng phái người đem một số lớn vàng bạc bảo vật đến hối lộ cho ông. Nhưng Lưu Cơ tuyệt đối không nhận. Phương Quốc Trân lại sai người đi theo đường biển lên Bắc Kinh, hối lộ cho một yếu nhân có thế lực tại kinh đô, khiến triều đình quyết định sẽ tiến hành phủ dụ Phương Quốc Trân và ban cho chức tước. Lưu Cơ dù nằm mộng cũng không ngờ được chuyện lại xảy ra như thế. Ông đang bố trí binh lực thì triều đình xuống lệnh khiển trách ông tự tiện tác oai tác phúc. Việc đoạt mất binh quyền của ông là chuyện không nói, họ còn đưa ông giam lỏng tại Thiệu Hưng. Lưu Cơ quá tức giận, từ quan trở về quê hương của mình tại Thanh Điền. 

Năm thứ mười sáu niên hiệu Chí Chính (công nguyên 1356), Hành tỉnh của triều nhà Nguyên lại cử Lưu Cơ giữ chức Đô Sự, để ông đi phủ dụ Ngô Thành Thất và đồng bọn khởi nghĩa tại An Sơn. Lưu Cơ tự chiêu mộ binh nghĩa dũng, tổ chức thành bộ đội, rồi áp dụng cả hai phương pháp cứng rắn và xoa dịu: Ai đầu hàng triều đình thì sẽ được khoan dung, thậm chí còn cử làm quan. Ai chống lại mệnh lệnh của triều đình thì bắt được sẽ bị xử tử. Do đó, cánh nghĩa quân này đã bị tiêu diệt. 

Đến năm mười bảy niên hiệu Chí Chính (công nguyên 1357), nông dân ở vùng rừng núi Triết Đông nổi lên khởi nghĩa. Hành tỉnh lại triệu Lưu Cơ đi tảo trừ. Cùng với Thạch Mạt Nghi Tôn, ông giữ chức Hành Khu Mật Viện Phán Quan tại Giang Triết, cùng giữ Xứ Châu. Kinh Lược Sứ là Lý Quốc Phượng dâng sớ khen ngợi tài cán của Lưu Cơ, xin triều đình nhà Nguyên trọng dụng ông. Nhưng bọn quý tộc đang chấp chính trong triều đình sợ đắc tội với Phương Quốc Trân, nên chỉ để ông làm Tổng Quản Phủ Phán, chứ không để ông chỉ huy quân đội. Lưu Cơ thấy tài năng của mình không được phát huy, nên lại bỏ quan trở về Thanh Điền. 

Các nhà giàu tại Thanh Điền sợ Phương Quốc Trân tới cướp bóc, giết chóc, nên đã đua nhau nương tựa vào Lưu Cơ, tổ chức một đạo võ trang riêng của địa chủ trong vùng. Họ xây hào lũy để tự bảo vệ gia sản của mình. Quân đội của Phương Quốc Trân thấy vậy không dám xâm phạm. 

Tài năng của Lưu Cơ không được triều nhà Nguyên sử dụng tốt, nên không thể phát huy. Trong những ngày ẩn cư tại Thanh Điền, Lưu Cơ tuân theo lời cổ huấn của Khổng Tử: “Nước có đạo thì ra làm quan, nước không đạo thì nằm nhà đọc sách”. Ngày ngày ông luôn đọc sách như lời dạy của người xưa, chờ cơ hội gặp người tri ngộ. Tất cả những sách thuộc về thiên văn, binh pháp, Tứ thư, Ngũ kinh, thi từ, văn chương, không sách nào mà ông không đọc. Ông còn yêu thích làm thơ, viết văn để bộc lộ tâm trạng có tài mà không gặp thời của mình, cũng như tấm lòng muốn báo quốc nhưng lại không có điều kiện. Trong bài thơ “Cảm hoài”, ông viết: 

Ngô thiên áp Tần đức. 

Thoại khí sinh nghệ đang, 

Tu thân sĩ thiên mệnh, 

Vạn thạch toàn kì danh 

Dịch: 

Trời Ngô đè Tần đức, 

Khí lành sinh núi xinh, 

Tu thân chờ mệnh trời, 

Muôn đá giữ thanh danh 

Trong bài thơ dùng chữ “Tần” để ám chỉ triển nhà “Nguyên”, vừa phân tích chính xác thời cuộc, lại vừa bộc lộ tình cảm trong lòng mình. 

Trong bài thơ họa với Trương Đức Bình, ông viết: 

Giả Nghị tấu thư ai tự khóc, 

Khuất Nguyên tâm sự khổ thùy luân. 

Dịch: 

Giả Nghị tâu vua buồn tự khóc, 

Khuất Nguyên nỗi khổ nói cùng ai? 

Trong “Ba bài cảm hứng” ông viết: 

Càn khôn xứ xứ tinh kỳ mãn, 

Nhục thực hà nhân vấn thái di? 

Dịch: 

Càn khôn cờ xí rợp trời, 

Người ăn thịt cá đời nào hỏi (kẻ hái rau) vi. 

Lưu Cơ cảm thán những cuộc khởi nghĩa sôi nổi của nông dân, tuy đã khuấy động cuộc sống yên tĩnh của giai cấp địa chủ, nhưng đối với bọn quan liêu cao cấp, tâm hồn đã chai sạn, tham sống sợ chết, vẫn nửa tỉnh nửa mê, không quan tâm chi cả. Đối với những chí sĩ thương nước thương dân như Giả Nghị, Khuất Nguyên, thì triều đình lại không hiểu được tâm trạng của họ. Ông oán trách triều đình không hỏi đến những người đi hái rau vi để sống, không dùng đến những người bụng đầy kinh luân như ông, cũng như những người có tuyệt kỷ đang ẩn cư trong dân gian, trong những túp “chòi tranh” thô lậu. 

Lưu Cơ nhục mạ những cuộc nông dân khởi nghĩa ở khắp địa phương là đạo tặc, là một lũ cướp, và oán trách quân đội của triều đình trấn áp nông dân kỷ cương quá bại hoại, không ra hồn gì. Trong bài “Ưu hoài”, ông viết: 

Quần đạo tung hoành bán Cửu Châu, 

Can qua mãn mục kỷ thời hưu? 

Quan tào các hữu doanh sinh kế, 

Tướng soái hà tằng vị quốc mưu? 

Mãnh hổ phong lang an tiến thực, 

Nông phu điền phụ khổ chu cầu. 

Ức cường phù nhược tu thiên thảo, 

Khả quái vô nhân tá trợ trù 

Dịch:

 

Bọn cướp tung hoành nửa Cửu Châu (1), 

Can qua khắp chốn biết bao lâu? 

Quan viên chỉ biết vơ đầy túi, 

Tướng soái mấy ai vì nước đâu? 

Cọp dữ, sài lang dược hiến dâng, 

Nông phu rẩy bái hạch sách dân. 

Trị cường giúp nhược trời thảo phạt, 

Chỉ lạ không ai giúp đỡ dân. 

Chú thích (1) Tức nước Trung Hoa 

Trong bài họa thơ “ngày xuân trong sáng” của Thạch Mạt Công, ông viết: 

Xích Mi thanh độc chung hà tại, 

Bạch mã huỳnh cân mạc mạn cuồng. 

Tướng soái như lâm tu phát túng, 

Thái bình công nghiệp vọng Tiêu Trương. 

Dịch: 

Xích Mi cưỡi nghé nay còn đâu, 

Ngựa trắng khăn vàng chớ ngông cuồng. 

Tướng soái như rừng cần giữ nếp, 

Thái bình chỉ đợi Tiêu và Trương (1). 

 

Chú Thích: (1) Tức Tiêu Hà và Trương Lương. 

Trong bài thơ họa lại bài “Cảm hứng” của Mạnh Bá Chân, đối với quân khởi nghĩa quàng khăn đỏ đi theo Chu Nguyên Chương, ông gọi thẳng chúng là đạo tặc và viết: 

Ngũ tải Giang Hoài bách chiến trường, 

Càn khôn cử mục tống kham thương. 

Dĩ văn đạo tặc đa ư nghỉ, 

Vô nại quan quân bạo tự lang 

Dịch: 

Năm năm trăm trận ở Giang Hoài, 

Nhìn khắp nơi nơi thực thảm thay. 

Nghe đồn đạo tặc đông như kiến, 

Khổ nỗi quan quân ấy họa tai! 

Trong bài “Nghe Cao Bưu nộp tiền”, ông viết:

 

Văn đạo Cao Bưu dĩ triệt vi, 

Khước sầu Hoài Điện vị toàn quy. 

Thánh triều nhã trọng hoài nhu sách, 

Chư tướng dương tri lổ lược phi. 

Dịch: 

Nghe đồn Cao Bưu đã giải vây, 

Hoài Điện còn lo thiếu người này. 

Thánh triều ban lệnh nên mềm mỏng, 

Vậy tướng cướp dân ấy tội đày. 

Những chữ “Giang Hoài”, “Hoài Điện” đều chỉ Chu Nguyên Chương, còn “thánh triều” là chỉ triều nhà Nguyên. Lưu Cơ oán trách trong những cuộc nông dân khởi nghĩa, “quan quân hung bạo như sài lang”. Những tướng lãnh chỉ huy quân đi trấn áp chỉ lo “cướp bóc”, không cần biết việc “cướp bóc” sẽ dẫn đến hậu quả tai hại như thế nào. Từ trong những câu thơ trên, chúng ta có thể thấy được Lưu Cơ trước khi theo Chu Nguyên Chương thì lập trường, tư tưởng và tình cảm của ông, đều đứng về phía triều đình nhà Nguyên. Nhưng qua đó chúng ta cũng có thể thấy được, Lưu Cơ đã nhận thức được nền chính trị cửa triều nhà Nguyên đã hủ bại, cũng như quan viên toàn là bọn bất tài. Trong bài “Lời của người bán cam” ông đã có ngụ ý sâu xa, chỉ trích quan lại triều nhà Nguyên là “Vàng ngọc bên ngoài, nhưng bên trong thì hủ bại”, “giặc cướp nổi lên mà không biết bình định, bá tánh khốn khổ mà không biết cứu tế, quan lại làm bậy mà không biết ngăn cấm, thi hành pháp luật mà không biết lý lẽ, ngồi không ăn cơm mà không biết nhục”. 

Qua ảnh hưởng sâu rộng của bao nhiêu cuộc khởi nghĩa nông dân đại quy mô, và trải qua hơn hai mươi năm khi bị biếm, nên lúc được đưa lên cao trong hoạn trường, đã khiến người tráng niên Lưu Cơ vốn am hiểu quân sự và có chính nghĩa, đối với sự thống trị dị tộc của triều đình nhà Nguyên, dần dần đã có sự giác ngộ, nên niềm tin đối với triều đình bắt đầu lung lay. Ông ngưỡng mộ những nhà quân sự kiệt xuất thời cổ như Gia Cát Lượng, Tổ Địch, Nhạc Phi. Trong cuộc sống đầy buồn khổ, ông viết những bài như “Điếu Gia Cát Võ Hầu phú”, “Điếu Tổ Dự Châu phú”, “Điếu Nhạc tướng quân phú”, trong từng câu từng chữ, ông bộc lộ sự kính nể và ngưỡng mộ của ông đối với những vị anh hùng dân tộc này, và cũng bộc lộ sự chán ghét của ông đối với giai cấp thống trị quý tộc Mông Cổ. Đấy chính là sự chuẩn bị về mặt tư tưởng để ông đi theo Chu Nguyên Chương. 

Trong sách “Úc Ly Tử”, ông đã dùng hình thức ngụ ngôn để bày tỏ học thức uyên bác của mình, lại thể hiện tư tưởng sáng tạo rất phong phú, giúp người xem phải tự cảnh tỉnh một cách sâu xa. “Úc Ly Tử” vừa là tên sách, vừa là sự tự xưng của tác giả, nội dung đề cập đến nhiều mặt rất rộng, từ cá nhân đến gia đình, xã hội, quốc gia. Từ chính trị đến kinh tế, quân sự, ngoại giao, từ tư tưởng đến lý luận, thần tiên quỷ quái. Gần như cái gì cũng bao quát cả. Nó vừa là một sự tổng kết kinh nghiệm trong những ngày ra làm quan ở những giai đoạn trước, vừa là cơ sở lý luận thâm hậu cho việc lập quốc trị loạn sau này. 

Quyển “Bách Chiến Kỳ Lược” là một bộ sách trước tác về lý luận quân sự, cũng được ông viết ra trong thời kỳ đó. Chỉ đáng tiếc là bộ sách này về sau bị Chu Nguyên Chương giữ kín trong triều đình, không thể lọt ra ngoài. Và hiện nay thì không còn thấy nó đâu nữa, chỉ còn lưu truyền trong dân gian một số quyển chép tay mà thôi. 

Khoảng những năm niên hiệu Nguyên Phong đời vua Tống Thành Tông, từng tổng hợp các quyển sách binh thư thời cổ lại viết thành quyển “Võ Kinh”. Quy định sáu bộ binh thư là “Tôn Tử”, “Ngô Tử”, “Lục Thao”, “Tư Mã Pháp”, “Tam Lược”, “Úy Liêu Tử”, “Lý Vệ Công Vấn Đối”, là những quyển sách mà người dụng binh cần phải đọc. Riêng quyển “Bách chiến kỳ lược” chính là bút ký của Lưu Cơ khi đọc “Võ Kinh”. Đồng thời, trong quyển bút ký này, ông còn sưu tập tất cả những tư liệu quan trọng tản mát trong số sách từ đời Tiên Tần cho tới đời Ngũ Đại, kéo dài 600 năm. Một điều đáng nói hơn, ấy là trong quyển bút ký này, Lưu Cơ đã dựa vào kinh nghiệm thực tiễn và tâm đắc của mình trong vấn đề quân sự, đề xuất một số kiến giải rất có giá trị. 

Trong quyển “Bách chiến kỳ lược” Lưu Cơ đã kế thừa và phát triển những tinh hoa trong tư tưởng biện chứng về quân sự của các binh gia thời cổ. Một mặt ông phản đối việc lạm dụng lực lượng quân sự, và đứng từ góc độ trị quốc để nói đến vấn đề trị quân, cũng như đứng trên lập trường của một nhà chính trị, để bàn về vấn đề quân sự. Ông cho rằng những người hiếu chiến chắc chắn sẽ bị diệt vong. Mặt khác, ông cực lực nhấn mạnh về mặt chiến lược, chiến thuật, chủ trương khi sống trong yên ổn phải nhớ đến hồi nguy nan, khi sống trong bình yên, phải nhớ đến hồi loạn lạc, “bên trong phải chấn chỉnh văn đức, bên ngoài phải củng cố võ bị”. Về mặt chiến lược Lưu Cơ còn chủ trương “người thiện chiến sẽ ít kẻ thù”, và cho rằng “người ít kẻ thù là người hưng thịnh, còn người nhiều kẻ thù là người sẽ bị diệt vong”. Ông phản đối việc gây thù địch với khắp mọi nơi, và chủ trương phân hóa làm tan rã quân địch, lấy địch chế địch. 

Trong quyển “Bách chiến kỳ lược”, những quan điểm biện chứng về quân sự như trên, vẫn thường thấy luôn. Cho dù những tiêu đề trong sách cũng bộc lộ rõ điểm này, như: tín chiến dữ giáo chiến, công chiến dữ thủ chiến, tiến chiến dữ thoái chiến, hoãn chiến dữ tốc chiến, phân chiến dữ hợp chiến, cơ chiến dữ bảo chiến (đánh khi có lòng tin và đánh để dạy tướng sĩ, đánh để tấn công và đánh để giữ thành giữ đất, đánh để tiến lên và đánh để rút lui, đánh thong thả và đánh cấp tốc, đánh bằng cách chia quân ra và đánh bằng cách hợp nhất binh lại, đánh trong khi tướng sĩ đói và đánh trong khi tướng sĩ no)… Từng vấn đề một, ông đứng từ góc độ tương phản hoặc đối lập để giải thích rõ ràng nguyên tắc dụng binh. Ông đề xuất phép xây dựng quân đội bằng cách vừa có lòng tin vừa có sự giáo dục, việc ban ân và việc trừng phạt phải đi song đôi, nhất là trong vấn đề thưởng phạt cần phải nghiêm minh công bằng. Ông nêu ra hằng loạt những tình huống khác nhau và phương lược tác chiến linh hoạt, cơ động. 

Dưới ngòi bút của các nhà sử học, Lưu Bá Ôn còn là một kỳ nhân, một thần nhân. Ông am hiểu sâu xa về “Dịch” học, có thể dựa vào hiện tượng thiên nhiên để đoán biết việc con người. Thậm chí có thể tiên đoán mọi việc, có thể hô phong hoán vũ, và xem ông là Gia Cát Khổng Minh của Thanh Điền. 

Năm thứ mười chín niên hiệu Chí Chính triều đại nhà Nguyên (công nguyên 1359), Chu Nguyên Chương lãnh đạo một toán quân khăn đỏ trước sau chiếm lĩnh được Chư Ký, Cù Châu và Xứ Châu, cũng như trước sau đã tiêu diệt những cứ điểm quân sự bị cô lập của quân Nguyên ở phía Đông Nam. Lực lượng quân sự ở triều nhà Nguyên ở Triết Đông đã hoàn toàn bi tiêu diệt. Hầu hết các địa phương ở Triết Đông đều được bình định xong. 

Chu Nguyên Chương phấn khởi, ra sức quy tụ các phần tử trí thức, các nhân sĩ nổi tiếng ở các địa phương. Ông hy vọng số người này sẽ phụ tá cho mình hoàn thành sự nghiệp lớn, giúp mình mở rộng địa bàn, ổn định trật tự xã hội. 

Lưu Cơ là người rất có danh vọng ở Triết Đông, tất nhiên cũng là người được Chu Nguyên Chương mời về giúp cho ông ta. Nhưng do tư tưởng của Lưu Cơ phản đối quân khởi nghĩa khăn đỏ, và xem họ là “đạo tặc”. Nhưng do thế lực của ông vừa yếu vừa cô lập, nên không thể chống cự với Chu Nguyên Chương. Do vậy, khi Chu Nguyên Chương phái người đến mời ông ra phụ tá, thì ông đã tìm lời khôn khéo để từ chối. Đến khi Hồ Đại Hải đánh chiếm được Xứ Châu, một lần nữa lại mang lễ vật trọng hậu, nhiều tiền bạc đến mời Lưu Cơ, nhưng ông lại dùng lời uyển chuyển từ chối một lần nữa, không chịu quy thuận. Về sau, viên Tổng chế xứ Châu là Tôn Viêm viết một bức thư dài đến mấy nghìn chữ, phân tích nhiều mặt lợi hại và nói rõ sẽ xóa bỏ hết những chuyện cũ đã qua, yêu cầu ông xuất sơn để vừa bảo toàn được tính mệnh của bản thân và gia đình, vừa có thể làm quan để chung lo việc thiên hạ. Cùng một lúc đó, các bằng hửu của Lưu Cơ cũng viết thơ đốc thúc, nên ông mới nhận lời mời của Chu Nguyên Chương. 

Đứng trước tình hình quyết liệt như vậy, vào tháng ba năm thứ hai mươi niên hiệu Chí Chính triều nhà Nguyên (công nguyên 1360), Lưu Cơ cuối cùng đã quyết định đi Ứng Thiên Phủ (nay là Nam Kinh) để tìm hiểu thái độ của Chu Nguyên Chương xem đối với mình ra sao. 

Lúc bấy giờ ông đã gần năm mươi tuổi. Mãi cho đến khi rời khỏi Thanh Điền, ông vẫn còn bán tín bán nghi. Có người khuyên ông nên dẫn bộ đội của mình đi theo, nhưng ông không bằng lòng. Ông trao bộ đội của mình lại cho người em ruột là Lưu Bệ và những gia nhân đắc lực lo việc chỉ huy. Ông bảo họ cần phải bảo vệ tốt quê hương, đề phòng Phương Quốc Trân kéo đến tấn công.

Đánh Bại Trần Hữu Lượng

Lưu Quốc Cơ đến Ứng Thiên không bao lâu, được Chu Nguyên Chương triệu kiến. Chu Nguyên Chương dùng lễ thượng khách để tiếp đãi ông, rồi lại sai người đưa ông vào ở tại Lễ Hiền Quán. Lưu Cơ thấy Chu Nguyên Chương đối với mình rất thành tâm thành ý, nên tự cho rằng mình đã gặp được minh chúa. Cho nên ông liền dâng lên cho Chu Nguyên Chương mười tám kế sách về tình hình trước mắt, phân tích cả tình hình bên trong lẫn bên ngoài. Ông đặt kế hoạch xây dựng đất nước và tiêu diệt triều nhà Nguyên, cũng như phương châm tảo trừ những thành phần tiếm loạn khác. Chu Nguyên Chương nghe qua kế hoạch của Lưu Cơ thì vui mừng ngoài sức tưởng tượng, bèn giữ ông ở lại bên mình để cùng bàn những kế hoạch cơ mật, và tôn xưng ông là “Lão Tiên sinh” hoặc “Trương Lương của nhà Hán”. 

Sự tín nhiệm của Chu Nguyên Chương giúp cho Lưu Cơ có cơ hội thực hiện nguyện vọng vì dân vì nước của mình, cũng giúp cho tài năng chính trị và quân sự của ông có đất dụng võ. Thế là ông đã nghĩ ra nhiều mưu lược, giúp Chu Nguyên Chương đánh Đông dẹp Bắc, tranh giành thiên hạ ở Trung Nguyên, làm nên một sự nghiệp to lớn đầy oanh liệt. Ông trở thành nhân vật trung tâm trong những túi khôn, cũng như làm mưu sĩ trung thành của Chu Nguyên Chương. Thậm chí, đến lúc tuổi già sắp cáo lão về quê, ông cũng không quên củng cố đế nghiệp cho Chu Nguyên Chương. 

Công nguyên năm 1371, Chu Nguyên Chương sau khi định đô tại Trung Đô xong, cảm thấy vô cùng phấn khởi, định xua quân tiêu diệt quân Khuếch Khoáng, Lưu Cơ trước khi trở về Thanh Điền, còn gởi một tấu chương cuối cùng lên cho Chu Nguyên Chương, nói: 

– Phượng Dương, tuy là quê hương của hoàng đế, nhưng không phải là nơi có thể xây dựng kinh đô. Vậy ngài không thể xem thường. 

Nhưng Chu Nguyên Chương không thực sự quan tâm đến tờ tấu chương của Lưu Cơ, vội vàng xua quân Tây chinh, kết quả đại bại, phải lui quân trở về. Khuếch Khoáng cuối cùng đã chạy vào sa mạc ở vùng Tây Bắc, và trở thành mối họa biên cương kéo dài. Sau việc đó, Chu Nguyên Chương cảm thấy hết sức hối hận.

Lưu Cơ khi mới tới Ứng Thiên, đã giúp cho Chu Nguyên Chương hai việc lớn trong vấn đề chiến lược quân sự. Trong thời điểm đó chính là thời điểm then chốt để lực lượng chính trị, quân sự của Chu Nguyên Chương phát triển hùng mạnh. Sau khi Chu Nguyên Chương khởi binh đã lợi dụng Lưu Phúc Thông đang đánh nhau với quân Nguyên ở phía Bắc, xua quân tiến về phía Nam, lần lượt chiếm Trừ Châu, lấy Thái Bình, chiếm Kiến Khang, tấn công Giang Triết, lực lượng quân sự mỗi ngày lớn mạnh, nhưng về mặt chính trị, Chu Nguyên Chương vẫn tôn Phụng Tiểu Minh Vương là Hàn Lâm Nhi, xưng là hậu duệ của nhà Tống, và được Tiểu Minh Vương phong cho tước hiệu, lấy niên hiệu là Long Phượng. 

Đến ngày tết nguyên đán năm thứ hai mươi mốt niên hiệu Chí Chính (công nguyên 1361), Chu Nguyên Chương thiết ngự tọa tại Trung Thư Tỉnh ở Nam Kinh, quay mặt về hướng Tiểu Minh Vương quỳ lạy để chúc tết. Văn võ bá quan cũng quỳ lạy theo. Chỉ có một mình Lưu Cơ là không lạy. Chu Nguyên Chương hỏi nguyên do, Lưu Cơ đáp:

 – Ông ta chẳng qua là một tên chăn trâu mà thôi, vậy tôn phụng để làm gì?
 

Lưu Cơ cho rằng, trong khi quần hùng nổi dậy khắp bốn phương, thì người muốn hoàn thành sự nghiệp lớn của mình, cần phải thoát ra khỏi sự ràng buộc của người khác và hoàn toàn độc lập. Chu Nguyên Chương nghe qua, lấy làm cảm động, về sau đã hủy bỏ Tiểu Minh Vương Hàn Lâm Nhi. 

Lúc bấy giờ Chu Nguyên Chương có hai kình địch, một là Trần Hữu Lượng đang chiếm cứ vùng Hồ Quảng, nắm giữ vùng đất thượng du sông Trường Giang. Một người khác là Trương Sĩ Thành, đang xưng bá tại Tô Hàng, chiếm một vùng đất phì nhiêu giàu có. Vị trí chiếm đóng của hai người này trở thành thế gọng kềm, có thể đánh kẹp Chu Nguyên Chương vào giữa, tạo thế uy hiếp rất to. Chu Nguyên Chương quyết định chủ động tiến đánh họ, để phá vở thế nguy hiểm đó. Có người chủ trương nên đánh Trương Sĩ Thành trước, vì họ cho rằng lực lượng của Trương Sĩ Thành yếu, lại gần, nên dễ thủ thắng. Hơn nữa, vùng Giang Nam là khu vực có sản vật dồi dào, đánh chiếm được sẽ có lợi về mặt quân nhu. Chu Nguyên Chương hỏi ý kiến Lưu Cơ, Lưu Cơ chủ trương nên đánh Trần Hữu Lượng trước. Ông nói: 

– Chúa công chiếm được vùng Kim Lăng là nơi có địa hình hiểm yếu, điều kiện địa lý rất tốt. Nhưng ở phía Đông Nam có Trương Sĩ Thành, ở phía Tây Bắc có Trần Hữu Lượng. Hai người này đã nhiều phen gây tổn hại cho ngài. Vậy cần phải tiêu diệt hai tên giặc này, để trừ hậu hoạn, mới có thể nghĩ đến chuyện bình định Trung Nguyên ở phía Bắc. Trương Sĩ Thành là người tầm thường không có chí lớn, chỉ muốn giữ vùng đất mà hiện nay ông ta đang chiếm được, nên không có hành động gì đáng kể, vậy tạm thời mặc kệ ông ta. Riêng Trần Hữu Lượng thì khác. Hắn là người có rất nhiều tham vọng, là một kẻ thù nguy hiểm nhất. Hắn lại có nhiều tinh binh, nhiều chiến thuyền lớn, lại chiếm vùng thượng du của chúng ta, không lúc nào là không nghĩ tới chuyện thôn tính chúng ta cả. Đứng trước tình hình này, về mặt chiến lược chúng ta không thể đánh một lần hai mặt trận, mà cần phải tập trung lực lượng để tiêu diệt Trần Hữu Lượng trước. Sau khi Trần Hữu Lượng bị tiêu diệt xong, thì Trương Sĩ Thành sẽ bị cô độc, chỉ đánh là thắng thôi. Sau đó, mới tiến lên phía Bắc để lấy Trung Nguyên, thì bá nghiệp có thể hoàn thành. 

Chu Nguyên Chương nghe xong, cảm thấy ý kiến của Lưu Cơ rất toàn diện, nên gạt bỏ tất cả ý kiến của những người khác, tiếp nhận kế sách của Lưu Cơ. Kế sách này đã giúp cho Chu Nguyên Chương nắm được kẻ thù chính trong quá trình xây dựng đế nghiệp cho mình, rồi lần lượt mới đánh bại từng kẻ thù một, để thực hiện phương châm chiến lược là không thụ địch từ nhiều phía. 

Lưu Cơ chẳng những định rõ mục tiêu chiến lược giúp cho Chu Nguyên Chương, mà còn có sự cống hiến lớn lao qua nhiều hành động quan trọng để bình định Trần Hữu Lượng, giúp Chu Nguyên Chương thống nhất cả nước Trung Quốc. 

Tháng năm nhuận năm thứ hai mươi niên hiệu Chí Chính (công nguyên 1360), Trần Hữu Lượng đoạt được thành Thái Bình của Chu Nguyên Chương, giết chết người con nuôi của Chu Nguyên Chương là Chu Văn Tốn và viên tướng thủ thành là Hoa Vân, rồi cử hành nghi lễ xưng đế tại ngôi miếu Ngũ Thông tại Thái Thạch, đặt quốc hiệu là Hán, đổi niên hiệu là Đại Nghĩa, rồi đắc ý kéo quân chiến thắng trở về Giang Châu. Sau đó, Trần Hữu Lượng còn hẹn với Trương Sĩ Thành cùng đánh chiếm Ứng Thiên, nhưng Trương Sĩ Thành chưa chịu. Thế là Trần Hữu Lượng tự mình xua đoàn chiến thuyền, từ Giang Châu xuôi theo dòng Trường Giang tiến xuống phía Đông, nhắm mục tiêu là Ứng Thiên. Đoàn quân của Trần Hữu Lượng tiến xuống ồ ạt, khí thế hùng tráng. 

Khi tin tức này truyền đến Ứng Thiên, thì cả thành Ứng Thiên đều chấn động. Chu Nguyên Chương vội vàng triệu tập quần thần để thương thảo đối sách. Có người bảo Trần Hữu Lượng dũng cảm thiện chiến, nhuệ khí đang cao, lại chiếm giữ được vùng Giang, Sở, khống chế cả thượng du sông Trường Giang, địa thế hiểm trở, binh tướng mạnh mẽ, thế lực to lớn, vậy nếu tranh phong với ông ta, thì chỉ là đem trứng chọi đá, tự tìm lấy sự diệt vong. Vậy chi bằng hãy hiến thành Ứng Thiên cho ông ta, rồi quy phục dưới cờ cửa ông ta là tốt nhất. Có người lại cho rằng Trần Hữu Lượng mới vừa chiếm được thành Thái Bình, khí thế đang lên, vậy chi bằng trước tiên hãy lùi về Kiến Khang, Chung Sơn, là nơi có vương khí, có thể chiếm giữ ở đấy để chờ khi nhuệ khí của Trần Hữu Lượng xuống, thì ta mới xua quân quyết chiến với hắn. Có người bảo Trần Hữu Lượng chẳng qua là một gã đánh cá ở Miện Dương, chỉ là một tên tiểu lại, vậy nên cùng hắn quyết chiến một trận sống chết tại Kiến Khang. Vạn nhất nếu không thắng được, thì rút lui cũng chưa phải muộn. 

Chu Nguyên Chương cho rằng những chủ trương đó chưa phải là thượng sách, nhưng bản thân mình thì không thể giải thích tại sao. Ông ngó quanh mọi người có mặt trong phiên họp, thấy Lưu Cơ đôi mắt sáng ngời, im lặng không nói. Chu Nguyên Chương đoán biết vị quân sư của mình đang có diệu kế trong lòng. Ông bèn mời Lưu Cơ vào trong một phòng riêng, hỏi tại sao ông không nói chi cả. Lưu Cơ tức giận đáp: 

– Trước tiên phải chém những người chủ trương đầu hàng và bỏ chạy về Chung Sơn, thì mới nêu cao được chính khí, tiêu diệt được tên giặc họ Trần. 

Chu Nguyên Chương nói: 

– Tiên sinh có kế hoạch cụ thể chi không? 

Lưu Cơ đáp: 

– Trần Hữu Lượng lần này kéo đến đánh ta với một tinh thần kiêu binh, lại dùng một cánh quân vốn đã mệt mỏi đưa đi đánh tận nơi xa. Trong khi đó, ta đã học được bài học thất thủ thành Thái Bình vừa qua, lại có một đạo binh nghỉ ngơi đầy đủ sức khỏe để đánh họ. Phàm ai đi đúng thiên đạo thì người đó sẽ đắc thắng. Vậy chúng ta còn sợ gì không thắng được hắn? Hiện giờ việc làm cấp bách của chúng ta là mở toang cửa phủ khố với một tấm lòng chân thành, để nhằm củng cố lòng dân và lòng binh sĩ. Binh pháp xưa có nói một ngày chạy ba trăm dặm để bôn tập kẻ thù, cho dù chưa đánh nhau thì đội quân đó cũng bị tan rã. Tại sao vậy? Vì binh sĩ quá mệt mỏi. Chúng ta có thể rút lui bỏ một số địa phương, rồi chở hết quân lương đi, giả vờ như bỏ chạy. Kế đó, chúng ta lại phái người trá hàng, để dẫn dụ Trần Hữu Lượng nhanh chóng bôn tập. Riêng chúng ta thì đặt nhiều ổ mai phục trên đường tiến binh của chúng, lại phái binh cắt đứt hậu lộ của chúng, khiến chúng không thể tiếp ứng giữa cánh quân đi đầu và cánh quân đi sau, cũng như khiến việc tiếp tế quân lương của chúng gặp trở lực, làm cho binh sĩ của chúng hoang mang. Việc mai phục tấn công sẽ làm cho mọi sự bố trí của địch bị xáo trộn. Việc dùng một cánh quân nghỉ khỏe để đánh một cánh quân mệt nhọc, khiến nhuệ khí của chúng bị bẻ gãy. Vậy thì có lý nào lại không đánh thắng được chúng. Sau khi đánh thắng, chúng ta sẽ thừa thắng truy kích, khiến Trần Hưu Lượng bỏ chạy thục mạng, và ta chẳng những thu hồi được đất đai đã mất mà còn chiếm được những đất đai trước đây thuộc về chúng. Một khi Trần Hữu Lượng bị thất bại nặng nề như vậy, thì chúng ta sẽ tiến lên một bước, khống chế hắn dễ dàng thôi. Việc xây dựng đế nghiệp được quyết định trong hành động này. Vậy đây là cơ hội trời ban, có đâu lại bỏ qua? 

Nghe lời giải thích của Lưu Cơ, Chu Nguyên Chương cảm thấy rất vững niềm tin. Sau đó, họ cùng nhau sắp đặt mưu kế bí mật, trước tiên sai Hồ Đại Hải kéo quân đánh Tính Châu để khống chế con đường rút lui của Trần Hữu Lượng. Chu Nguyên Chương lại sai các tướng Thường Ngộ Xuân, Phùng Quốc Thắng, Hoa Cao, Tư Đạt, dẫn quân đi đặt những ổ mai phục, chuẩn bị xuất kích khi thời cơ đến. Sau khi sự bố trí đâu vào đấy Chu Nguyên Chương bèn mời người bạn thân của Trần Hữu Lượng là Khang Mâu Tài, viết một bức thư mật, giả vờ hẹn với Trần Hữu Lượng để làm nội ứng, bảo ông ta phải nhanh chóng kéo quân tới tấn công thành Ứng Thiên. 

Sau khi Trần Hữu Lượng nhận được bức thư, không khỏi mừng thầm, nói: 

– Phen này thì nắm chắc thắng lợi trong tay rồi!

Do nôn nóng muốn thủ thắng, để chiếm lĩnh vùng đất Kiến Khang, là một vùng đất quý về mặt phong thủy, nên hắn đã xuống lệnh tức khắc khởi binh để tấn công. Riêng về Chu Nguyên Chương thì tích cực chuẩn bị: trước hết đặt một ổ mai phục bên cạnh Thạch Khôi Sơn với quân số đông ba vạn người, rồi lại xuống lệnh phá hủy chiếc cầu gỗ tại Giang Đông, đưa đá và sắt tới để tạo chướng ngại trên dòng sông, chờ chiến thuyền của Trần Hữu Lượng sa vào bẫy. 

Quả nhiên, khi đoàn chiến thuyền của Trần Hữu Lượng đi vào một con sông hẹp, và khi đến cầu Giang Đông thì không thấy chiếc cầu gỗ nữa, mà dưới dòng sông toàn là đá tảng to. Trần Hữu Lương cả kinh, vội vàng dùng mật khẩu để liên lạc, nhưng không có ai trả lời. Đến chừng đó, hắn mới biết mình đã bị trúng kế, nhưng muốn thối lui cũng không còn kịp nữa. 

Quân đội cửa Chu Nguyên Chương khi thấy chiến thuyền của Trần Hữu Lượng đã đến cầu Giang Đông liền phất cờ vàng, phục binh từ khắp bốn phía nhảy ra, đánh kẹp Trần Hữu Lượng từ trên bộ lẫn dưới sông. Không mấy chốc, toàn quân cửa Trần Hữu Lượng bị đánh tan tác. Bản thân của Trần Hữu Lượng phải nhảy xuống thuyền con bỏ trốn. Chu Nguyên Chương chỉ huy đại quân thừa thắng truy kích, lấy lại thành Thái Bình, rồi tiến quân bảo vệ được cả Kiến Khang. 

Sau trận chiến này, Chu Nguyên Chương khao thưởng các tướng sĩ và đã dùng một phần thường cao cấp đặc biệt, gọi là “Khắc thắng thưởng” để thưởng cho Lưu Cơ. Lưu Cơ cho rằng mình chỉ cần có dịp đem hết tài năng để sử dụng, giúp nước giúp dân, chứ không cần nghĩ tới danh lợi trước mắt. Cho nên ông đã kiên quyết từ chối phần thưởng trên. Từ đó trở về sau, tên tuổi Lưu Cơ chấn động khắp mọi nơi. Mọi người đều gọi ông là Gia Cát Khổng Minh tái thế.

Kỳ Tập Thành Giang Châu

Sau khi Trần Hữu Lượng rút quân trở về Giang Châu, không cam tâm chịu thất bại, bèn phái bộ tướng đem một lực lượng to lớn đánh chiếm trọng trấn An Khánh, thuộc vùng đất của Chu Nguyên Chương. An Khánh là cửa ngỏ tại biên giới phía Tây của Chu Nguyên Chương, nên ông muốn mượn cơ hội này để tiếp tục thảo phạt Trần Hữu Lượng. Nhưng trong lòng ông vẫn cảm thấy do dự, chưa thể quyết định dứt khoát, bèn trưng cầu ý kiến của quân sư Lưu Cơ. Lưu Cơ phân tích tình hình trước mắt, cho rằng hiện nay tướng sĩ của chu Nguyên Chương đang có sĩ khí rất cao, thêm vào đó cuộc hành quân này là nhằm lấy lại phần đất bị địch chiếm, ra quân hoàn toàn có danh nghĩa. Vậy nếu trước khi diễn ra trận đánh, có sự phát động tốt trong hàng ngũ quân đội của mình, thì chắc chắn sẽ thắng được Trần Hữu Lượng một cách dễ dàng, để tiêu diệt sinh lực của hắn. Khi có vị “Gia Cát Khổng Minh” này ủng hộ, Chu Nguyên Chương liền quyết định một lần nữa xua quân thảo phạt Trần Hữu Lượng. 

Dựa theo ý kiến cửa Lưu Cơ, trước khi xuất quân, Chu Nguyên Chương tuyên bố với các tướng sĩ: 

– Trần Hữu Lượng giết chúa tiếm xưng hoàng đế, lại xâm phạm lãnh thổ của ta, giết chết tướng sĩ của ta. Qua hành động của hắn, nếu không tiêu diệt hắn thì không xóa được nỗi căm hờn trong lòng dân, không tiêu diệt hắn thì không an ủi được quốc hồn của ta. 

Lời nói của Chu Nguyên Chương làm cho tướng sĩ đều phẫn nộ và hăng hái, thề chết chiến đấu với Trần Hữu Lượng. Sau đó, Chu Nguyên Chương mới sắp xếp toàn quân để tiến về phía Tây. Chu Nguyên Chương và Lưu Cơ cùng ngồi một chiếc thuyền “Long Tương” to căng buồm chạy ngược lên thượng du sông Trường Giang. Suốt trên đường đi, tinh thần chiến đấu của các tướng sĩ rất cao, luôn sôi nổi hăng hái. Hằng vạn chiến thuyền đang vượt Trường Giang, cờ xí rợp trời, trông thực hùng tráng. 

Nhưng, cuộc chiến đấu diễn ra không hoàn toàn thuận lợi. Tướng của Trần Hữu Lượng là Trương Định vừa dũng cảm vừa thiện chiến, lại giỏi về mưu lược. Cộng thêm thành trì An Khánh rất kiên cố, địa thế rất hiểm yếu, dễ phòng thủ mà khó tấn công, nên tướng sĩ của Chu Nguyên Chương dù đánh rất dũng cảm, nhưng suốt một hôm mà vẫn không thu được một tiến triển nào. 

Đêm đến, Chu Nguyên Chương buồn buồn không vui, triệu Lưu Cơ tới để bàn bạc đối sách. Lưu Cơ nói với Chu Nguyên Chương: 

– Đại quân của chúng ta từ xa kéo tới, vốn có ý định chỉ đánh một trận là hạ được thành An Khánh. Thế nhưng đánh suốt cả ngày mà không giành được tấc đất tướng sĩ đều tỏ ra uể oải. Trong khi đó, Trương Định là tướng dũng cảm, thành An Khánh lại kiên cố, nếu tiếp tục đánh thì sẽ kéo dài rất lâu. Trần Hữu Lượng một khi biết ta đang đánh giằng co ở đây, nhất định sẽ phái binh mã tới quyết chiến để báo mối thù thất bại vừa rồi. Như vậy, ta sẽ bị quân địch từ bên trong lẫn bên ngoài hiệp lực tấn công, chắc chắn sẽ bại. 

Chu Nguyên Chương nghe qua, thở dài hỏi: 

– Chả lẽ không còn biện pháp nào, mà phải bỏ thành An Khánh rút lui hay sao? Một khi cánh cửa này đã bị mở toang, cọp dữ sẽ vào nhà, thì từ nay về sau làm thế nào yên ổn được?

 Lưu Cơ khoát tay nói với Chu Nguyên Chương:
 

– Chúa công nên an tâm. Chúng ta chỉ tạm thời bỏ An Khánh, chứ nào phải bỏ luôn. Sách “Võ kinh” có nói: Ta muốn đánh mà địch cố thủ trong lũy cao hào sâu, không đánh với ta, mà ta vẫn tiếp tục đánh giằng co với chúng, thì tất nhiên chúng sẽ phái viện binh tới nơi. Vậy An Khánh là nơi đây nguy hiểm, thành trì vững chắc như đồng, đủ sức để đánh giằng co lâu dài với ta. Sở dĩ hiện nay Trần Hữu Lượng chưa dám đưa binh đến nghinh chiến, là do hắn quá sợ ta đó thôi. Vậy, chúng ta nên bỏ rơi An Khánh, tiến nhanh về phía Tây, áp sát Giang Châu, đánh thốc vào sào huyệt của chúng, thì Trần Hữu Lượng nhất định phải rút quân từ An Khánh để cứu Giang Châu. Như vậy, An Khánh có chạy đi đâu mà sợ? Chẳng phải ta sẽ hạ được An Khánh dễ dàng hay sao? Như vậy là nhất cữ lưỡng tiện, có sợ gì mà không làm? 

Chu Nguyên Chương nghe xong, vỗ tay khen là tuyệt. Ông hoàn toàn nghe theo kế sách của Lưu Cơ, ngay trong đêm đó, xua quân tiến lên phía Tây, nhưng lại cho cắm nhiều cờ và đốt nhiều đống lửa hơn tại doanh trại cũ. ông cũng cho cột những con dê sống để chúng kéo dùi đánh trống, chiêng ầm ầm ngày đêm, khiến quân giặc trong thành không khỏi hoang mang sợ hãi. 

Trong khi đó, Chu Nguyên Chương ra lệnh cho hầu hết lực lượng đang bao vây An Khánh rút lui, chỉ để lại một ít binh sĩ làm nghi binh cầm chân giặc. Toàn quân của Chu Nguyên Chương cuốn cờ im trống, men theo dòng sông tiến lên phía Tây và chẳng mấy chốc đã áp sát Giang Châu. Giữa lúc binh sĩ của Trần Hữu Lượng còn đang ngon giấc, thì binh sĩ của Chu Nguyên Chương ào lên tấn công. Bọn lính giữ thành Giang Châu tưởng đâu binh thần từ trên trời rơi xuống, hốt hoảng lo ứng chiến. Trần Hữu Lượng cũng vội vàng phát binh đối phó, nhưng không còn cứu vãn được tình thế đang thảm bại nữa. Tất cả các mặt trận tại Giang Châu đều bị phá vỡ. Trần Hữu Lượng phải dẫn vợ con bỏ chạy. Hắn thừa đêm tối chạy đến Võ Xương. Quân thủ thành Giang Châu đầu hàng và Chu Nguyên Chương đã chiếm thành này một cách nhanh chóng. 

Trên đường bỏ chạy, Trần Hữu Lượng bắt được mấy tên binh sĩ của Chu Nguyên Chương, hỏi ra mới biết đấy là mưu của Lưu Cơ nên hắn ngửa mặt lên trời than rằng: 

– Dưới tay ta thiếu một mưa sĩ như Lưu Bá ôn. Sau này kẻ tiêu diệt ta, chắc chắn chính là Bá ôn rồi. Chả lẽ ý trời nghiêng về Chu Nguyên Chương, nên mới sai Bá ôn tới trợ giúp đó chăng? 

Lưu Cơ chẳng những có mưu lược trác tuyệt về mặt quân sự, mà các mặt chính trị, ngoại giao ông cũng có những mưu lược linh hoạt. Ông vừa sử dụng cách đánh chiếm, lại vừa sử dụng cách phủ dụ. Bất cứ đâu đâu ông cũng dựa vào tình huống cụ thể mà áp dựng sách lược cũng như biện pháp linh động để thủ thắng. 

Hồ Đình Thoại là Thừa tướng tỉnh Giang Tây của Trần Hữu Lượng, từ lâu đã nghe tới oai danh của Chu Nguyên Chương, nay lại càng sợ hãi mưu lược thần tình của Lưu Cơ, nên sai bộ tướng là Trịnh Nhân Kiệt đến doanh trướng của Chu Nguyên Chương xin cầu hòa. Chu Nguyên Chương mời Trịnh Nhân Kiệt vào bên trong để cùng thương thảo. Hầu hết các điều kiện đôi bên đã thỏa thuận xong, chỉ còn một điều kiện sau cùng là “không giải giới bộ đội dưới quân của Hồ Đình Thoại” thì Chu Nguyên Chương còn tỏ ra do dự, lộ sắc khó xử, vì ông sợ về sau toán quân này sẽ gây chuyện rắc rối. Nhưng Lưu Cơ cho rằng đây là cơ hội để phân hóa và làm tan rã quân địch, và cũng là cơ hội tốt để vừa ra oai vừa ban ân. Cho nên khi Lưu Cơ trông thấy Chu Nguyên Chương do dự chưa trả lời, thì vội vàng lấy chân mình đá vào chân chiếc ghế ngồi có lưng tựa của Chu Nguyên Chương. Khi Chu Nguyên Chương nghe tiếng chân đá vào chân ghế, đoán biết ý đồ của Lưu Cơ, nên liền bằng lòng lời yêu cầu của đối phương, còn viết thơ riêng để an ủi Hồ Đình Thoại, khen ông ta sáng suốt. Chẳng bao lâu sau, Hồ Đình Thoại công khai tuyên bố đầu hàng. Các phủ, châu, huyện ở chung quanh Hồ Đình Thoại như Dư Can, Kiến Xương, Cát An và Nam Khang, cũng noi gương lần lượt xin đầu hàng, toàn bộ đến nghe theo lệnh của Chu Nguyên Chương. 

Tháng mười, thành Kiến An, một ngôi thành bị tấn công đầu tiên và kéo dài chưa hạ được, cũng bị binh đội của Chu Nguyên Chương đánh chiếm

Hỗn Chiến Tại Hồ Thẩm Dương

鄱陽湖之戰.jpg

Tháng hai năm thứ hai mươi ba niên hiệu Chí Chính (công nguyên 1363), Chu Nguyên Chương quyết định thân chinh để giải cứu An Phong (nay nằm về phía Nam Thọ Huyện, tỉnh An Huy) để giải vây cho bộ tướng cửa mình là Lữ Trân, đang bị Trương Sĩ Thành bao vây. Lưu Cơ phân tích tình hình chung, cho rằng việc làm này không phù hợp với chiến lược trước kia đã quy định, tức phải đánh bại Trần Hữu Lượng trước rồi mới tiêu diệt Trương Sĩ Thành sau. Do vậy, ông đã cực lực khuyên ngăn Chu Nguyên Chương không nên ra quân. Ông nói: 

– Vạn nhất Trần Hữu Lượng thừa cơ đến tấn công, thì ta sẽ gặp tình cảnh tiến thoái lưỡng nan. Hơn nữa, cứu được Tiểu Minh Vương Hàn Lâm Nhi thì an trí ông ta thế nào? Nên tiếp tục để cho ông ta làm Minh Vương, hay là đưa ông ta đi giam ở một nơi khác. Hoặc, đem ông ta giết đi? Nếu đem giam hoặc giết ông ta, thì bây giờ đi cứu ông ta làm gì? Chi bằng cứ mượn tay Trương Sĩ Thành giết chết ông ta là hơn. Còn nếu để ông ta tiếp tục làm Minh Vương, há chẳng phải tự mình tạo chuyện rắc rối cho mình, tự tìm người đội lên đầu để họ cai quản mình sao? Chu Nguyên Chương cho rằng nếu An Phong thất thủ, thì Ứng Thiên cũng sẽ mất đi tấm bình phong, vậy cứu An Phong tức là bảo vệ cho Ứng Thiên. Cho nên chu Nguyên Chương vẫn tự mình thân chinh như đã định. 

Quả mọi việc không ngoài sự tiên liệu của Lưu Cơ, khi Chu Nguyên Chương cử binh đến cứu viện cho An Phong, thì Trần Hữu Lượng bèn thừa cơ xua quân tấn công. Hắn điều động mấy trăm chiến thuyền, năm sáu mươi vạn quân đội, dốc hết sức mạnh để bao vây Hồng Đô (nay là thành phố Nam Xương, tỉnh Giang Tây), và đã nhanh chóng chiếm Cát An, Lâm Giang, và Vô Vi Châu. Nam Xương bị vây hơn tám mươi ngày, kịch chiến liên tục đêm ngày mấy mươi hôm, tình trạng hết sức nguy cấp. Chu Nguyên Chương nghe thế mới biết lời tiên đoán của Lưu Cơ thực là chính xác, nên tự trách mình: “Vì không nghe lời tiên sinh nên mới có sự thất bại ngày hôm nay”. Lưu Cơ lên tiếng an ủi: 

– Bây giờ tỉnh ngộ vẫn còn chưa muộn. 

Chu Nguyên Chương bèn đích thân dẫn hai chục vạn đại binh đi cứu viện, ra lệnh cho Lưu Cơ ở lại giữ Ứng Thiên. 

Trần Hữu Lượng nghe nói Chu Nguyên Chương dẫn binh tới cứu viện, sợ hãi mặt thụ địch, nên vội vàng tháo vòng vây và bố trí trận địa tại hồ Thẫm Dương, chuẩn bị nghênh chiến. Quân cứu viện của Chu Nguyên Chương tới nơi, liền bắt đầu kịch chiến với quân địch trên hồ Thẩm Dương. Giai đoạn đầu của trận đánh, Chu Nguyên Chương nhiều lần gặp cảnh thất lợi, suýt nữa lâm nguy. Bí quá, Chu Nguyên Chương bèn ra lệnh cho Từ Đạt về Ứng Thiên thay thế Lưu Cơ. 

Lưu Cơ đi bất kể ngày đêm. Sau khi đến nơi, bèn cùng Chu Nguyên Chương bàn bạc chiến thuật để phá địch. Hai người đều chủ trương dùng hỏa công. Nhưng Chu Nguyên Chương vẫn lo hướng gió không ổn định, thuyền nhiều khó đốt cháy hết, nếu không khéo lửa còn có thể cháy đến thuyền mình như chơi. Căn cứ theo sự quan sát hiện tượng thiên văn của Lưu Cơ, ông đoán đến hoàng hôn thì sẽ có gió Đông bắc thổi. Họ liền chuẩn bị ngay bảy chiếc thuyền nhỏ, bên trên chất nhiều hình nộm bằng rơm để nghi binh, lại đổ nhiều dầu lên cỏ sậy khô, còn chứa trong thuyền rất nhiều thuốc súng và lưu huỳnh, nhanh chóng cho thuyền tiến ra giữa hồ. Khi tới gần chiến thuyền của địch, binh sĩ bèn quăng móc để móc dính thuyền địch và thuyền hỏa công, rồi nổi lửa đốt. 

Chỉ trong khoảnh khắc, lửa cháy ngất trời. Những thuyền to đều bị cháy. Cuộc chiến đấu giữa đôi bên diễn ra vô cùng ác liệt, một ngày phải tiếp lửa đến mấy chục lần. Tiếng hò reo sát phạt, tiếng sóng gió, tiếng lửa cháy hòa lẫn lại làm một, nghe thật rùng rợn. Trong khi kịch chiến, tướng sĩ hai bên thương vong rất nhiều. Trần Hữu Lượng không tiên liệu được điều đó nên sự tổn thất của hắn càng to hơn. 

Có lần, Chu Nguyên Chương đang ngồi trên thuyền chỉ huy để ra lệnh chiến đấu, bỗng Lưu Cơ đang ngồi bên cạnh nhảy vọt lên, la to: 

– Ngôi sao tai nạn sắp đi qua, vậy mời chúa công hãy mau đổi thuyền! 

Chu Nguyên Chương là người vốn rất bình tĩnh trong lúc chiến đấu, nghe thế cũng không khỏi giật mình, quay mặt nhìn lại ông thấy Lưu Cơ hai tay khoát lia lịa, to tiếng nói tiếp: 

– Hãy hỏa tốc đổi thuyền ngay! 

Chu Nguyên Chương chưa kịp hiểu ra chuyện gì, thì đã bị Lưu Cơ và mấy vệ sĩ theo hầu sát một bên, cùng kéo ông qua một chiếc thuyền khác. Chu Nguyên Chương ngồi chưa vững, đã nghe một tiếng nổ ‘ầm” thực to. Thế là chiếc thuyền chỉ huy của Chu Nguyên Chương đã bị trúng đạn đại pháo của Trần Hữu Lượng, vỡ thành từng mảnh vụn, và chìm lĩm xuống đáy hồ. Lúc bấy giờ Chu Nguyên Chương mới tỉnh thần trở lại, và hiểu chuyện gì đã xảy ra, lên tiếng khen ngợi Lưu Cơ là người tính toán như thần. 

Thì ra, Lưu Cơ thấy Chu Nguyên Chương do nóng lòng muốn chiến thắng, nên không chú ý tới việc nghi trang chiếc thuyền chỉ huy của mình, mà cho thuyền đi lại tự nhiên giữa chiến trận. Trong khi đó, đối phương đã phát giác Lưu Cơ đoán biết Trần Hữu Lượng chắc chắn sẽ ra lệnh cho pháo binh của mình tập trung bắn vào thuyền chỉ huy của Chu Nguyên Chương. Nhân lúc bấy giờ trên trời cũng vừa xuất hiện một hiện tượng khác thường, mà người đời thường gọi là “vì sao khổ nạn”. Lưu Cơ bèn hối Chu Nguyên Chương thay đổi chiếc thuyền chỉ huy, và may mắn tránh được một tai họa có thể quyết định cho sự thành bại của Chu Nguyên Chương. 

Riêng Trần Hữu Lượng và các tướng lãnh của ông ta, trông thấy chiếc thuyền chỉ huy của Chu Nguyên Chương bị bắn chìm, ai ai cũng cho rằng Chu Nguyên Chương đã chết, không còn gì phải nghi ngờ nữa. Toàn quân cửa Trần Hữu Lượng đều vỗ tay reo hò, nâng ly chúc mừng nhau. Giữa lúc họ đang vui mừng cuồng nhiệt đó, bỗng thấy thuyền chỉ huy của Chu Nguyên Chương lại xuất hiện để chỉ huy tấn công, nên tất cả không khỏi kinh hoàng thất sắc, cho rằng Chu Nguyên Chương được thần tiên phò hộ. Cả trận địa của Trần Hữu Lượng vì thế mà rối loạn cả lên. Quân đội của Chu Nguyên Chương bèn thừa cơ cho chiến thuyền của mình xoay quanh những chiến thuyền lớn của đối phương để tấn công, khi ẩn khi hiện, chẳng khác gì những con rồng thần đang bơi trên mặt nước, khiến Trần Hữu Lượng bối rối không biết cách nào để đối phó. Tướng sĩ của Chu Nguyên Chương thấy vậy, tinh thần phấn chấn hẳn lên, hò reo rung chuyển cả mặt hồ. Lúc đó mặt hồ cũng bắt đầu nổi sóng to, mây mù bắt đầu bao kín trên trời, tạo điều kiện tốt để quân Chu Nguyên Chương mở cuộc tấn công dữ dội. Chiến thuyền của Chu Nguyên Chương bé nhỏ hơn, nhưng nhờ đó mà nó di chuyển lanh lẹ hơn, thích hợp để sử dụng lối đánh hỏa công. Chiến thuyền to của Trần Hữu Lượng cứ đưa lưng ra chịu đánh. Có những chiếc bị đánh chìm, có những chiếc bị hỏa công đốt cháy như cây đuốc. 

Cuộc hỗn chiến tại hồ Thẩm Dương kéo dài ba hôm vẫn chưa phân thắng bại. Về sau, Lưu Cơ kiến nghị với Chu Nguyên Chương nên đưa quân chủ lực ra cửa hồ, chận con đường lưu thông của địch quân, rồi dùng biện pháp “đóng cửa đánh chó”, để cắt đứt đường vận chuyển lương thực của địch. Do lương thực thiếu thốn, binh sĩ mệt mỏi, nội bộ- của Trần Hữu Lượng bắt đầu nghi kỵ lẫn nhau, nên quân của Trần Hữu Lượng đã nhanh chóng bị đánh bại. Một số lớn bị bắt và đầu hàng. Trần Hữu Lượng khi chường mặt để quan sát tình hình, bỗng một mũi tên lạc bắn trúng, chết ngay tại chỗ. Quân đội cửa Chu Nguyên Chương đã trả một giá rất cao về mặt thương vong, và trải qua mấy lần nguy hiểm, rốt cục đã đánh bại triệt để cánh quân của tên cường địch này. 

Sau khi trở về đến Ứng Thiên, Chu Nguyên Chương tỏ ý hối hận đối với quyết sách trước đây của mình, nói với Lưu Cơ: 

– Đáng lý tôi không nên cử binh đi cứu An Phong. Nếu Trần Hữu Lượng thừa cơ hội đó đánh thốc vào Ứng Thiên, thì quân ta tiến cũng không thành công, mà thoái cũng không có nơi để cố thủ, đại sự chắc chắn sẽ tiêu tan. Cũng may hắn không tấn công Ứng Thiên, mà lai bao vây Nam Xương. Nam Xương đã cố thủ được ba tháng, giúp tôi có thời gian để tập trung binh lực. Trần Hữu Lượng đã sử dụng một kế sách tồi như vậy, không bị diệt vong thì đợi chừng nào. 

Qua mấy chiến dịch chủ yếu để bình định Trần Hữu Lượng, Lưu Cơ lúc nào cũng có sẵn mưu lược trong tâm trí, và mỗi kế hoạch của ông đều có hiệu quả rất cao. Nhất là qua cuộc chiến tại hồ Thẩm Dương, đánh bại quân Hán của Trần Hữu Lượng, đã tạo được nền tảng để xây dựng bá nghiệp của triều nhà Minh. Tư tưởng chiến lược và chiến thuật của Lưu Cơ trong trận đánh hồ Thẩm Dương, rất đáng được mọi người nghiên cứu và rút kinh nghiệm.

Bình Định Trương Sĩ Thành

Về mặt chiến lược, Lưu Cơ đã hiến cho Chu Nguyên Chương phương châm tiêu diệt Trần Hữu Lượng trước rồi bình định Trương Sĩ Thành sau, giúp Chu Nguyên Chương nắm được quyền chủ động trong quá trình giành thiên hạ. Khi cuộc chiến bình định quân Hán của Trần Hữu Lượng ở phía Tây đã dần dần kết thúc, thì Chu Nguyên Chương tập trung binh lực, quay mũi giáo chĩa về hướng Đông, tấn công vào Ngô Quốc do Trương Sĩ Thành dựng lên. 

Khi Trương Sĩ Thành chiếm cứ được vùng Triết Tây, phía Bắc liên kết được với Lưỡng Hoài, dựa vào sức mạnh vũ lực của mình, đã mấy phen xâm chiếm những vùng đất thuộc thế lực của Chu Nguyên Chương. Lưu Cơ cho rằng đấy là một nhóm quân đội bất nghĩa. Mục đích nổi dậy của họ chẳng phải nhằm cứu dân cứu nước, mà chỉ tham lam một cuộc sống phú quý vinh hoa. Do vậy chúng mặc tình cướp bóc của nhân dân bá tánh. Trong khi đó, quân đội của chúng ta thì khác hẳn, không cướp bóc, không lạm sát, không đốt nhà cửa, đúng là một quân đội nhân nghĩa. Có vậy mới tranh thủ được lòng dân. Là một nhà chính trị trứ danh, Lưu Cơ trước tiên đề xuất những kiến nghị trên, giúp cho quân đội của Chu Nguyên Chương trở thành một quân đội có kỷ luật, cao hơn hẳn quân đội của Trương Sĩ Thành một bậc. Là nhà quân sự, Lưu Cơ trong những hành động cụ thể để đánh Trương Sĩ Thành, cũng đã thực hiện tư tưởng quân sự của ông. 

Vào năm hai mươi ba niên hiệu Chí Chính (công nguyên 1363), Trương Sĩ Thành bao vây thành Kiến Đức. Vị nguyên soái giữ thành là Lý Văn Trung nghe tin cả giận, muốn đánh một trận chết sống với hắn. Nhưng lúc đó có mặt Lưu Cơ tại thành Kiến Đức. Ông bèn giải thích tường tận cho Lý Văn Trung nghe. Trong sách “Bách chiến kỳ lược” của ông, có nói đến chiến thuật “lấy quân đội ăn no để chờ đánh quân đội bị đói”: “Phàm kẻ địch từ xa kéo đến, lương thực tiếp tế đều gặp khó khăn, địch đói còn ta no, vậy ta có thể cố thú trong thành, và tìm cách cắt đứt nguồn lương thực cũng như đường chuyên chở lương thực của địch, rồi cùng chong mặt giằng co với địch. Phe địch nhất định sẽ gặp khó khăn lương thực. Tướng sĩ ăn không no, tất nhiên dễ sinh loạn. Do vậy, quân địch chắc chắn sẽ chủ động triệt thoái. Đến chừng đó, ta sẽ bí mật phái kỵ binh phục kích giữa đường, rồi cho quân ở phía sau truy đuổi theo, chắc chắn sẽ giành được toàn thắng”. Dựa vào đó, Lưu Cơ cho rằng: 

– Chỉ ba hôm sau Trương Sĩ Thành nhất định sẽ gặp khó khăn trong việc tiếp tế lương thảo, và buộc phải triệt thoái. Khi hắn rút lui thì ta đuổi theo, chắc chắn chỉ cần đánh một trận là bắt sống được hắn. 

Lý Văn Trung mặc dù bán tín bán nghi, nhưng nghe Lý Cơ nói hữu lý nên ra lệnh vét hết lương thực ở ngoài thành, rồi đóng cửa thành cố thủ. Đồng thời, nhân đêm tối bí mật phái những cánh quân nhỏ đi mai phục chờ địch. 

Ba hôm sau, Lưu Cơ thong thả dẫn Lý Văn Trung và các tướng sĩ lên đầu thành quan sát. Quan sát một lúc Lưu Cơ nói một cách tự tin: 

– Giặc Trương đã bỏ chạy rồi! 

Các tướng sĩ nhìn thấy doanh trại của Trương Sĩ Thành vẫn còn cờ xí rạp trời, không khác chi bình thường, lại nghe từng hồi trống đánh vang rền, nên nghi ngờ không dám cử binh ra ngoài. 

Lưu Cơ nhiều lần hối thúc, Lý Văn Trung mới chịu xuống lệnh mở cửa thành cho quân xuất kích. Khi tiến tới doanh trại của Trương Sĩ Thành, quả nhiên mọi việc đúng như sự tiên liệu của Lưu Cơ, doanh trại địch trống rỗng, chủ lực của Trương Sĩ Thành đã toàn bộ rút chạy, chỉ còn lại cờ xí và một số binh lao nhược. Lý Văn Trung bèn xuống lệnh truy kích. Tức thì, những con ngựa chiến đua nhau chạy như bay, mãi đến Đông Dương mới đuổi kịp bộ đội của Trương Sĩ Thành. Sau một trận kịch chiến, quân đội của Trương Sĩ Thành vốn đang đói lại đang mệt mỏi, nên không sao chống đỡ nổi. Chẳng mấy chốc, toàn bộ thảm bại và bị Lý Văn Trung bắt sống vô số. 

Riêng Phương Quốc Trân là người Đài Châu thuộc vùng Triết Đông, khởi binh đứng lên chống nhà Nguyên vào năm thứ tám niên hiệu Chí Chính, chiếm các châu huyện như Khánh Nguyên, Ôn, Đài ở vùng duyên hải. Quân Nguyên mấy lần thảo phạt nhưng không thể tiêu diệt. Lưu Cơ cũng đã từng liên lạc nhiều lần với ông ta trước đây. Đến năm thứ mười ba niên hiệu Chí Chính triều nhà Nguyên, Lưu Cơ giữ chức Hành Tỉnh Đô Sự ở Triết Đông, xuất phát từ bản tính bảo vệ cho giai cấp thống trị, ông kiến nghị: 

– Họ Phương cầm đầu nổi loạn, mấy lần đầu hàng lại mấy lần làm phản vô cùng hung ác và xảo quyệt, không thể tha thứ, phải bắt lấy để quy án đem chém đầu theo pháp luật. 

Nhưng Phương Quốc Trân đã hối lộ một nhóm quan viên của triều nhà Nguyên, nên trong cuộc họp bàn tại triều đình, họ không nghe theo kiến nghị của Lưu Cơ, mà lại kiến nghị với nhà vua cho Phương Quốc Trân đầu hàng. Chúng lại buộc tội Lưu Cơ là “ăn nói vượt quyền”, “lạm quyền”, rồi không dùng ông nữa. Sau khi Phương Quốc Trân được triều đình nhà Nguyên ban cho chức quan, vẫn nắm giữ binh lực trong tay không nghe theo sự điều khiển của triều đình, lại lợi dụng danh nghĩa quan chức, tha hồ vơ vét tài sản của lương dân, cướp đoạt quốc khố, để củng cố thêm lực lượng của mình, mở rộng địa bàn chiếm đóng. 

Phương Quốc Trân mặc dù từng có “duyên nợ” với Lưu Cơ như vậy, nhưng nói cho cùng, Phương Quốc Trân vẫn là người giỏi xem gió trở cờ, lại luôn ngưỡng mộ người có tài năng. Cho nên đối với Lưu Cơ vẫn một mực kính trọng không nhớ thù xưa. Mẫu thân của Lưu Cơ chết, Phương Quốc Trần phái người tới đưa thơ chia buồn. Giờ đây, Lưu Cơ cho rằng kẻ thù chủ yếu của Chu Nguyên Chương chỉ là Trần Hữu Lượng, Trương Sĩ Thành, còn đối với thế lực dù không phải nhỏ như Phương Quốc Trân, tạm thời có thể lợi dụng mà không dùng phương pháp cũ “bắt để chém đầu” nữa. 

Do vậy, Lưu Cơ bèn viết một phong thơ dài nói rõ cho Phương Quốc Trân hiểu về uy đức và thế lực quân sự hiện nay của Chu Nguyên Chương, hy vọng ông ta nên tìm hiểu thời cuộc để xây dựng sự nghiệp lớn. Lưu Cơ cũng viết cho Chu Nguyên Chương một phong thư, nói rõ ý nghĩa lợi dụng Phương Quốc Trân và xin Chu Nguyên Chương phái người đi chiêu dụ Phương Quốc Trân. 

Sau khi Phương Quốc Trân nhận được thư của Lưu Cơ, bèn nói với người em: 

– Hiện nay vận nước của triều nhà Nguyên sắp chết, quần hùng đang nổi dậy khắp nơi. Nhưng chỉ có quân đội của Chu Nguyên Chương là kỷ luật nghiêm minh, không ai đánh thắng nổi. Giờ đây ông ta lại tiến quân xuống Vụ Châu ở phía Đông, e rằng khó tranh phong được cùng ông ta. Phương chi, những thế lực thù địch của ông ta chỉ có Trương Sĩ Thành ở phía Đông và Trương Hữu Lượng ở phía Nam. Vậy chi bằng ta nên theo lời khuyên của Lưu Cơ, tạm thời dựa vào họ Chu, xem đó là một thế lực giúp đỡ ta, để ta ngồi yên chờ diễn biến. 

Vừa lúc đó, lại có sứ giả của Chu Nguyên Chương phái tới để chiêu dụ Phương Quốc Trân. Phương được mọi người chung quanh khuyên nhủ, nên quyết định đầu hàng Chu Nguyên Chương, bằng lòng hợp lực để tấn công Trương Sĩ Thành. Phương Quốc Trân còn hiến cho Chu Nguyên Chương năm chục cân vàng, một trăm cân bạc, và nhiều vải vóc. 

Từ việc chiêu hàng Phương Quốc Trân thành công, có thể nhận ra tư tưởng quân sự, chính trị cửa Lưu Cơ là linh hoạt, sâu sắc, cũng hết sức thực dụng. Chính tư tưởng này đã giúp cho Chu Nguyên Chương bình định được quân Hán của Trần Hữu Lượng, quân Ngô của Trương Sĩ Thành, và tiêu diệt một số thế lực chống đối khác.

Bị tiểu nhân phỉ báng

Tháng giêng năm thứ hai mươi bốn niên hiệu Chí Chính triều nhà Nguyên (công nguyên 1364), Chu Nguyên Chương lên ngôi làm Ngô Vương, qua sự khuyến khích của Lý Thiện Trường và Từ Đạt, và cử Lý Thiện Trường làm Tả tướng quốc, Từ Đạt làm Hữu tướng quốc, Lưu Cơ làm Thái Sử Lệnh. Lưu Cơ do tinh thông thiên văn, sau khi được cử làm Thái Sử Lệnh, bèn dựa trên cơ sở “Lịch thụ thời” của triều nhà Nguyên, tu chỉnh lại lịch pháp, đặt ra “Lịch đại thống”, và được ban hành vào năm thứ nhất sau khi Ngô Vương tấn thăng Hoàng đế, và trở thành lịch pháp suốt cả triều đại nhà Minh. Do năm đó là năm mậu thân, nên được gọi là “Lịch đại thống mậu thân”. 

Lúc bấy giờ, chính quyền do Chu Nguyên Chương xây dựng đã biến chất. Chu Nguyên Chương từ một đại biểu của giai cấp nông dân, đã chuyển biến thành đại biểu của giai cấp địa chủ phong kiến. Trong một dịp Chu Nguyên Chương nằm mộng, bèn định giết một toán tù nhân để hóa giải cơn ác mộng trên. Lưu Cơ từ quan điểm hòa hoãn mối mâu thuẫn giai cấp, đã lấy cớ giải mộng khuyên Chu Nguyên Chương nên ngưng lại việc hành hình số tù nhân đó, để tránh tình trạng lạm sát những người vô tội. ông giải thích giấc mộng của Chu Nguyên Chương là sẽ “được kẻ sĩ, cũng như được nhiều hiền tài”. Chẳng bao lâu, Châu Hải Ninh quy hàng, Chu Nguyên Chương cho rằng đấy là sự ứng nghiệm của giấc mộng, nên giao số tù nhân mà nhà vua định hành hình cho Lưu Cơ xử lý. Lưu Cơ đã thả hết số phạm nhân này. 

Năm thứ hai mươi tám niên hiệu Chí Chính (công nguyên 1368), Chu Nguyên Chương xưng đế và chính thức xây dựng triều đại nhà Minh, thay niên hiệu gọi là Hồng Võ, định đô tại Nam Kinh. Lý Thiện Trường, Từ Đạt từ chức Tướng quốc đổi thành chức Tả hữu Thừa tướng. Lưu Cơ cử làm Ngự Sử Trung Thừa kiêm Thái Sử Lệnh. Tại buổi đại lễ đăng cơ cửa Chu Nguyên Chương, Thái Sử Lệnh Lưu Cơ thay mặt hoàng đế đọc chúc văn. Và, trong khi Hoàng đế phong chức cho các công thần thì Lưu Cơ là người đọc bản sắc phong của Hoàng đế. 

Trong những năm Long Phượng, quân đội của Chu Nguyên Chương không ngớt mở rộng, biên chế không thống nhất nhau. Sự xưng hô của tướng tá cũng rất hỗn loạn. Sau khi Chu Nguyên Chương xưng Ngô Vương, từng xuống lệnh dựa vào cấp chỉ huy như Thiên Hộ, Bá Hộ, Tổng Kỳ, Tiểu Kỳ để biên chế lại quân đội có hiệu quả, tăng cường sức chiến đấu cho toàn quân. Đến năm Hồng Võ nguyên niên (1368), dựa trên cơ sở Lưu Cơ lại “tâu lập Quân Vệ Pháp”, tức ở những địa phương quan trọng được đặt Vệ, những địa phương kém quan trọng hơn thi đặt Sở, “từ Kinh Sư cho đến quận huyện đều được đặt Vệ và Sở”. Đại để quân số đông 5600 người thì đặt một Vệ, vị trưởng quan gọi là chỉ huy Sứ, Quân số 1120 người thì gọi là Thiên Hộ Sở, vị trưởng quan gọi là Thiên Hộ. Dưới Thiên Hộ Sở đặt Bá Hộ Sở, và Tổng Kỳ, Tiểu Kỳ, lấy Đô Chỉ Huy Sứ Ty làm cơ cấu quân sự tối cao tại địa phương, đã tăng cường và củng cố quyền lực thống trị của vị Hoàng đế phong kiến triều nhà Minh. 

Sau mấy mươi năm chiến loạn giữa quần hùng, đời sống của nhân dân vô cùng đồ thán, quốc gia suy sụp, bá tánh khốn đốn, vậy cần phải cấp bách để cho dân được nghỉ ngơi. Vì muốn cho bá tánh được sống yên, Chu Nguyên Chương lại hỏi về phép cai trị đất nước với Lưu Cơ. Lưu Cơ đáp: 

– Sau những ngày tuyết sương, tất nhiên phải đến ngày Xuân ấm áp. Hiện nay uy quyền của đất nước đã được củng cố, vậy phải dần dần có phép cai trị khoan dung. Vì đời sống của người dân phải được chăm sóc một cách nhân ái, cho nên phải lấy lòng nhân để cai trị dân. Từ các triều đại Tống, Nguyên, pháp chế tuy có nhưng thực ra cũng như không, buông lỏng quá lâu ngày. Giờ đây trước hết cần phải chỉnh đốn kỷ cương, ban hành pháp điển, rồi mới có thể thi hành việc cai trị nhân ái được. 

Lưu Cơ lấy tư tưởng “Nhân chính” truyền thống của Nho gia để làm cơ sở lý luận cai trị nước. Ông cho rằng phép cai trị đất nước, phải dùng song song một thể chế cai trị nhân đức, đi đôi với việc dùng hình pháp để răn đe, nhưng phải lấy cai trị nhân đức làm chủ đạo. Trước tiên, ông phản đối dùng phương thức hung bạo, tàn nhẫn, mà đối với bá tánh phải có lòng nhân ái. Đồng thời ông cho rằng cai trị theo thể chế nhân đức, cũng cần phải có pháp luật nghiêm minh để đảm bảo. Mục đích sử dụng hình pháp là để không sử dụng hình pháp nữa. Một khi có pháp luật thì phải tuân theo. Việc chấp pháp phải nghiêm minh để cho mọi người đều sợ, để từ đó xây dựng trật tự thống trị của chế độ phong kiến. 

Ông đã có những chủ trương rõ ràng như thế về mặt lý luận, và trong thực tế, ông cũng làm đúng như vậy. 

Ông đã giúp Chu Nguyên Chương thẩm định lại một số án oan đã tồn đọng từ nhiều năm qua, và đã tiến hành minh oan rửa nhục cho những người đó. Ông cũng đã cứu một toán tù nhân thoát chết, do nhà vua nằm mộng nên muốn giết họ để giải tỏa cơn ác mộng của mình như đã nói trên. Từ đó, Thái Tổ ủy thác cho Lưu Cơ xử lý tất cả những vấn đề tội phạm quan trọng. Lưu Cơ cố gắng xét xử họ bằng một thái độ khoan dung để lung lạc và ổn định nhân tâm. 

Ngoài ra, Lưu Cơ còn xin với Hoàng đế chấn chỉnh lại pháp luật, định ra những pháp chế mới, để ngăn chặn việc tùy nghi xử tội lương dân, và cũng nghiêm cấm việc lạm sát những người vô tội. Chu Nguyên Chương xuống lệnh thực thi những đề nghị của Lưu Cơ. Ít lâu sau, Lưu Cơ đã thảo ra nhiều pháp lệnh và trở thành cơ sở để sau này triều đại nhà Minh đưa vào đó mà lập pháp. Bộ “Đại Minh Luật” được ban bố hồi năm thứ ba mươi niên hiệu Hồng Võ, chính là dựa trên cơ sở của nhưng pháp lệnh này để tu chỉnh hoàn thiện. 

Tháng tư lịch nhà Hạ, tức niên hiệu Hồng Võ nguyên niên (1368), trong dịp bắc phạt Trung Nguyên thắng lợi, chiếm được Sơn Đông và Hà Nam. Chu Nguyên Chương từ Ứng Thiên (Nam Kinh) đi Biện Lương (Khai Phong), để đại hội các tướng bắc phạt, nghiên cứu chiến cuộc và bố trí những bước đánh chiếm Đại Đô của nhà Nguyên. Nhà vua để Lưu Cơ và Lý Thiện Trường ở lại giữ Nam Kinh. 

Lúc bấy giờ Lưu Cơ đang giữ chức Ngự Sử Trung Thừa, tức một trưởng quan tại Ngự Sử Đài, có nhiệm vụ lãnh đạo các giám sát ngự sử để phát hiện những hành vi phi pháp, trái luật của các quan lại. Lưu Cơ cho rằng cuối hai triều Tống và Nguyên do kỷ cương không nghiêm, nên dẫn đến bị mất thiên hạ. Do vậy ông yêu cầu các ngự sử quan phải chú ý phát hiện những hành vi trái pháp luật của quan lại, và phải thực tâm tra xét để xử lý. Bất luận người vi phạm pháp luật có quyền thế đến đâu, có chức tước cao đến đâu cũng mặc. Nếu những cận thần có nhiệm vụ túc trực bảo vệ triều đình mà phạm pháp, thì ông trước tiên báo cáo lên cho Hoàng Thái Tử biết, rồi mới định theo pháp luật mà trị tội. Mọi người đều khiếp sợ trước việc chấp pháp nghiêm khắc của Lưu Cơ, nên không dám vi phạm pháp luật một cách bừa bãi. 

Trong thời gian này, Lý Thiện Trường có một người thân tín là Lý Bân đang giữ chức Đô Sự tại Trung Thư tỉnh bị phạm pháp và bị kết tội chém. Lý Thiện Trường bèn ra mặt xin tội cho Lý Bân, nhưng Lưu Cơ với một thái độ nghiêm chỉnh, chấp pháp bất vị thân, sẵn sàng đón nhận nguy hiểm, không để ý gì tới chuyện xin xỏ của Lý Thiện Trường. Do đây là một sự kiện quan trọng, nên Lưu Cơ theo thông lệ viết sớ báo lên với Chu Nguyên Chương, chờ hoàng đế phê chuẩn xong thì mới đem Lý Bân ra chém. 

Nhưng sự kiện này đã khiến Lý Thiện Trường có sự đố kỵ với Lưu Cơ. Lý Thiện Trường nguyên là người được Chu Nguyên Chương thu nhận đưa vào làm thư ký Mạc phủ sau khi ông cử binh chẳng bao lâu. Thời Chu Nguyên Chương xưng vương nước Ngô, Lý Thiện Trường được cử làm Tả tướng quốc. Sau khi Chu Nguyên Chương xưng đế, ông ta lại được cử làm Tả thừa tướng. Trong triều đình, ông ta luôn luôn là người đứng hàng đầu. Sau khi Lý Bân bị giết, Lý Thiện Trường có ý trả thù. Vào tháng bảy nhuận, khi Chu Nguyên Chương từ Khai Phong trở về Nam Kinh, Lý Thiện Trường đã cực lực phỉ báng Lưu Cơ. Năm đó trời hạn hán, ông ta bảo do Lưu Cơ chém Lý Bân dưới đàn đảo võ, nên trời cho là bất kính, tức giận, khiến cuộc đảo Võ mất hiển linh. Ngoài ra, một số người khác vốn đang bất mãn Lưu Cơ, cũng đua nhau nói xấu ông. 

Chu Nguyên Chương dựa theo sự mê tín để xem xét nguyên nhân trời hạn hán. Khi nhà vua hỏi đến Lưu Cơ, ông bèn tâu: 

– Trong chiến tranh có nhiều chiến sĩ chết, vợ con và thân nhân của họ hoặc thất lạc hoặc sống cô quả không được ai lo lắng tới. Cho nên âm khí và oản khí xông lên trời xanh. Đó là một nguyên nhân. Kế đó, bao nhiêu công thợ đã chết phơi thây, rã xác ngoài đồng nội, không ai chôn cất. Đó là nguyên nhân thứ hai. Những quan viên đầu hàng tại vùng Giang Triết, đều bị đưa vào trong quân đội, để cả nhà họ đời này qua đời khác phải xung quân, sống trong những Vệ, Sở cố định, khiến họ luôn luôn oán trách. Đó là nguyên nhân thứ ba. Với ba nguyên nhân trên, kết hợp lòng oán hận của con người và lòng oán hận của trời, nên dẫn đến trời không mưa. Vậy, mong bệ hạ nên xử lý những việc trên cho tốt hơn. 

Chu Nguyên Chương tiếp nhận ý kiến của Lưu Cơ, ban bố ngay một số biện pháp khẩn cấp. Nhưng sau mười mấy hôm trời vẫn không mưa, khiến Chu Nguyên Chương giận dữ. Trước tình hình đó, Lưu Cơ cảm thấy hết sức lúng túng. Cho nên nhân dịp bà vợ của ông qua đời, ông lấy lý do phải về quê để lo việc ma chay cho vợ, bèn cáo lão từ quan.

Góp Ý Chọn Thừa Tướng

Trước khi Lưu Cơ cáo lão về quê, từng dâng lên cho Chu Nguyên Chương hai kiến nghị. Lúc bấy giờ, đại tướng Từ Đạt đã chiếm được Đại Đô của triều nhà Nguyên (nay là Bắc Kinh). Chu Nguyên Chương có ý định sẽ lấy quê hương cũ của mình là Phượng Dương để làm Trung Đô. Đồng thời cũng đang có kế hoạch tập trung binh lực để tiêu diệt viên thống soái của nhà Nguyên là Khuếch Khoách Thiết Mộc Nhi. Lưu Cơ nói: 

– Phượng Dương tuy là quê hương cũ của bệ hạ, nhưng điều kiện địa lý ở nơi đây không tốt, vậy không nên xây đựng kinh đô tại đấy. Riêng quân Nguyên tuy đã bại trận, nhưng Vương Bảo Bảo (tức Khuếch Khoách Thiết Mộc Nhi), vẫn là một tiềm lực quân sự của nhà Nguyên. Vậy, việc dụng binh đối với ông ta cần phải hết sức thận trọng. Vì ông ta là người dụng binh linh hoạt, nếu xem thường sẽ bị gặp trở lực. 

Lưu Cơ rời đi ba tháng sau, Chu Nguyên Chương cảm thấy lời nói của ông rất có lý, lại nghĩ tới thời gian qua, lúc nào ông cũng trung thành với triều đình, nên nhà vua tự xuống lệnh biểu dương công luân của Lưu Cơ, và triệu ông trở lại Nam Kinh. 

Chu Nguyên Chương chán ghét sự chuyên quyền hống hách của Lý Thiện Trường, nên có ý muốn đổi người lên thay chức vụ Thừa tướng. Nhà vua từng trưng cầu ý kiến của Lưu Cơ về người có thể lên giữ chức vụ này. Lưu Cơ nói với Chu Nguyên Chương: 

– Lý Thiện Trường là người có công lớn trong quá trình xây dựng nước, đức cao vọng trọng, được các tướng yêu quý, có thể điều động các tướng dễ dàng, vậy không nên thay đổi. 

Chu Nguyên Chương nói: 

– ông ta đã mấy phen mưu hại khanh, thế tại sao khanh còn nói tốt cho ông ấy. Theo trẩm, tốt nhất là khanh nên lên giữ chức Thừa tướng vậy. 

Dưới tình trạng tập đoàn Hoài Tây của Lý Thiện Trường nắm quyền, Lưu Cơ biết mình không sao có thể đứng vững chân tại triều đình được. Do vậy, ông vội vàng từ chối, nói: 

– Muốn thay thế rường cột thì phải dùng gỗ to, chứ không thể dùng nhiều cây bé nhỏ cột lại mà thay thế được. Vì chẳng bao lâu sau, nó sẽ bị sức nặng của ngôi nhà đè bẹp mất. 

Chu Nguyên Chương lại hỏi những người như Dương Hiến, Uông Quảng Dương và Hồ Duy Dung như thế nào? Dương Hiến tuy là bạn của Lưu Cơ, nhưng Lưu Cơ không do vậy mà tiến cử ông ta. Lưu Cơ bèn có lời bình luận rằng: 

– Dương Hiến tuy có đầy đủ tài năng để làm Thừa tướng, nhưng lòng dạ thiếu rộng rãi. Một vị Thừa tướng phải “có lòng dạ như một dòng sông, biết lấy nghĩa lý để mà xét đoán, không thể xử sự theo tình cảm” còn Uông Quảng Dương thì Lưu Cơ cho rằng lòng dạ quá hẹp hòi, còn kém hơn cả Dương Hiến. Riêng đối với Hồ Duy Dung, ông cho rằng nếu được cử làm Thừa tướng thì cũng như trao cho ông đánh một cổ xe, chẳng những ông ta đánh xe không tốt, mà còn làm cho gọng xe gãy đi nữa là khác! 

Sau khi đã bàn tới bàn lui, cuối cùng Chu Nguyên Chương nói: 

– Xem ra vị Thừa tướng của trẫm, chỉ có tiên sinh đảm nhận mới được mà thôi. Nhưng Lưu Cơ một lần nữa nói rõ khuyết điểm của mình. Ông bảo ông ghét cay ghét đắng những kẻ thích nói xấu những người khác, tính tình thiên lệch, lại nóng nảy, nên không thể làm tốt những việc cần bình tĩnh, không khéo, e rằng sẽ không xứng đáng với ân điển của hoàng thượng. Ông cũng nói thêm, những người hiền tài có mặt đều không thích hợp để làm Thừa tướng. Nhưng thiên hạ rộng lớn như thế này, có lo chi thiếu người đủ tài năng. Chỉ cần cố gắng tìm kiếm, thì nhất định sẽ tìm được người thích hợp hơn. 

Cuối cùng, Chu Nguyên Chương cho rằng ông quá khắt khe, quá cầu toàn, nên không nghe theo lời khuyến cáo của ông, cử Dương Hiến, Uông Quảng Dương, Hồ Duy Dung làm Thừa tướng. Kết quả, đúng như Lưu Cơ đã tiên liệu, những người này đã gây ra nhiều vấn đề rắc rối. Việc Lưu Cơ bình luận về người có đủ điều kiện để ra làm Thừa tướng, không dựa vào sự ưa thích hoặc sự không ưa thích của cá nhân minh, mà chỉ dựa vào tài năng thực sự để tiến cử với nhà vua. Ông chỉ nghĩ đến chuyện chung của đất nước, và nói lên những ý kiến rất sáng suốt, có tầm nhìn xa, chứng tỏ ông là người có tài xét đoán rất đặc biệt. 

Lý luận và thực tiễn trong việc trị quốc của Lưu Cơ xuất phát từ chỗ vì dân, vì vua. Ông chủ trương lấy “nhân” và “pháp” để tương trợ nhau, và luôn chứ trọng đến việc đề bạt nhân tài, khiến những năm đầu niên hiệu Hồng Võ, nền chính trị của triều đại nhà Minh khá trong sáng. 

Năm thứ ba niên hiệu Hồng Võ (1370), Lưu Cơ được cử giữ chức Học Sĩ Hoằng Văn Quán. Trong lịch sử, Hoằng Văn Quán là nơi to nhất dùng tàng trữ tranh sách và các loại văn hiến khác. Học Sĩ Hoằng Văn Quán chưởng quản việc hiệu đính các loại tranh và sách, cũng như lo việc dạy dỗ con em của hoàng gia, quý tộc về kinh sử. Trong tờ chiếu cáo mệnh gởi cho Lưu Cơ, Chu Nguyên Chương đã nhớ lại công lao to lớn của Lưu Cơ trước khi kiến quốc, có nói: “Ban đầu khi trẫm đến Triết Hữu, các ngươi đã hưởng ứng việc cử binh hợp chính nghĩa của trẫm, đến khi trẫm về kinh sư, các ngươi cũng đến phụ tá cho trẫm. Lúc bấy giờ dân ở Quát Thương (Xứ Châu) vẫn chưa hoàn toàn quy thuận. Kịp khi tiên sinh đến thì tình thế ở Triết Đông mới triệt để ổn định”. Ý nghĩa trong lời nói trên, là hy vọng Lưu Cơ sẽ tiến lên một bước phát huy ảnh hưởng của mình tại Hoằng Văn Quán. 

Tháng mười một cùng năm, Chu Nguyên Chương đại phong công thần đã có công trong việc thống nhất miền Bắc nước Trung Quốc. Lưu Cơ được phong làm Thành ý Bá, và cử giữ các chức “Khai Quốc Dịch Vận Thủ Chính Văn Thần”, “Tư Chính Đại Phu”, “Thượng Hộ Quân” đem đến cho Lưu Cơ một danh dự rất cao. 

Một hôm vào năm thứ tư niên hiệu Hồng Võ (1371), trên một ngọn núi có phong cảnh xinh đẹp tại khu núi Thanh Điền, cây cối xanh um, những cội tòng đơn độc đứng ngạo nghễ, trăm chim đua hót, tiếng nước suối chảy róc rách bên tai. Trên một con đường mòn ngoằn ngoèo nằm giữa hoa cỏ rừng núi, có một cụ già râu dài, tóc bạc, người dong dỏng cao, hai mắt sáng, đang nhìn ngắm những con chim nhỏ bay lượn khắp nơi trong rừng, cảm thấy tâm hồn vô cùng sảng khoái. Cụ già cất tiếng ngâm bài “Quy khứ lai từ” của Đào Uyên Minh. 

Vân vô tâm dĩ xuất tụ, 

Điểu quyện phi nhi tri hoàn, 

Cảnh ế ế dĩ tương nhập, 

Phủ cô tòng nhi bàn hoàn. 

Quy khứ lai hề, 

Thỉnh tức giao dĩ tuyệt du.

 

Dịch:

 

Mây vô tâm rời đỉnh núi, 

Chim mệt mỏi bay trở về. 

Nắng ảm đạm sắp tắt lịm, 

Vuốt cổ tòng lòng lê thê. 

Hãy trở về đi chừ, 

Xin chấm dứt sự giao tiếp, 

Để tha hồ đi ngao du. 

Cụ già này chính là Lưu Cơ, một nhân vật tiếng tăm lẫy lừng, trước đây không lâu, ông từ biệt Chu Nguyên Chương, cáo lão trở về quê nhà. Phải chăng ông đã buồn chán đối với cảnh quan trường? Chu Nguyên Chương đối với công lao hạn mã do ông đã lập được, không bao giờ lãng quên. Nhà vua bao giờ cũng ban thưởng đối với từng công lao của ông. Kể từ ngày ông rời núi cho tới nay, ông đã lần lượt giữ các chức quan to như Ngự Sử Trung Thừa kiêm Thái Sử Lệnh, Thái tử Tán Thiện Đại Phu, Hoằng Văn Quán Học Sĩ, Khai Quốc Dịch Vận Thủ Chính Văn Thần, Tư Chính Đại Phu, Thượng Hộ Quân, v.v… Đến năm công nguyên 1370, ông lại được phong Tước Thành ý Bá, bổng lộc mỗi năm hai trăm bốn mươi thạch, như vậy trong quan trường ông cũng đã là người danh vọng hiển hách. 

Có điều cần nói đến, ấy là những năm đầu khai quốc, Chu Nguyên Chương đối với việc thu thuế lương tại Xứ Châu, vẫn theo chế độ cũ của nhà Tống là mỗi mẫu thêm năm hộp. Nhưng Chu Nguyên Chương muốn cho quê hương của Lưu Bá Ôn đời đời truyền tụng sự tích tốt đẹp của ông, nên đã đặc biệt xuống lệnh, thuế lương tại Thanh Điền không thêm, để cho ân huệ của Lưu Cơ được trải rộng ra khắp thôn ấp của mình. Như vậy, cũng xem là một điều vinh dự cho ông. 

Thế thì tại sao ông lại quy ẩn vào rừng núi? Ngoài việc ông cương quyết chém Lý Bân và do đó đắc tội Lý Thiện Trường ra, nguyên nhân căn bản là vì ông đã nhận thức được một cách sâu sắc ý nghĩa chân thật của cuộc sống, chân lý của lịch sử, và những tang thương biến đổi của nhân thế. Ông tự biết cá tính của mình, tài năng của mình, chỉ có thể phát huy được trong một thời điểm nhất định, trong một phạm vi nhất định mà thôi. Nếu thay đổi thời điểm, thay đổi hoàn cảnh, thì vị tất ông có thể thích ứng được. Việc “thỏ chết làm thịt chó săn” là việc nào phải hiếm hoi trong lịch sử? 

Nhưng cũng không thiếu gì trường hợp khi sự việc đã hoàn thành thì biết kịp thời rút lui. Phạm Lãi từng bơi thuyền ra đi trên hồ rộng, và đi khắp bốn phương. Trương Lương đã mạnh dạn rút lui kịp thời. Họ được sống một cuộc sống có tuổi thọ cao, tránh được những bi kịch như Văn Chủng, Thương Ưởng, Lý Tư, Hàn Tín. Với một người khảng khái và có tiết tháo, có tri thức sâu rộng, có đầu óc triết lý như Lưu Cơ, những sự kiện lịch sử đó hết sức quen thuộc. Do vậy, tất nhiên ông cũng hiểu được ý nghĩa trong những sự kiện trên. Từ góc độ đó mà xét, thì việc ông quy ẩn là điều tất nhiên. 

Con người thường khi đã đánh mất một cái gì mới biết chân giá trị của vật đó. Vào mùa đông cùng năm, sau khi Lưu Cơ trở về quê quy ẩn, Chu Nguyên Chương mới cảm thấy Lưu Cơ đối với mình là quan trọng biết chừng nào: Do vậy, ông bác bỏ tất cả dư luận chung quanh, đích thân viết một bản chiếu văn, nói rõ tường tận công huân của Lưu Cơ và triệu Lưu Cơ trở về kinh, ban thưởng nhiều tiền bạc và tài vật quý báu, lại truy tặng cho tổ phụ, thân phụ cua Lưu Cơ làm Vĩnh Gia Quận Công, cũng như phong thêm chức tước và mời Lưu Cơ trở vào cung. 

Nhưng Lưu Cơ lúc đó đã hiểu thấu tình đời, cũng biết được trong triều đình nhà Minh tập đoàn Hoài Tây đang chiếm ưu thế tuyệt đối, mình sẽ không làm gì được. Cho nên ông cương quyết từ chối không nhận một thứ của vua ban, để trở về quê tiếp tục quy ẩn. 

Sau khi Lưu Cơ trở về đến quê hương, hằng ngày ngoài việc du sơn ngoạn thủy, di dưỡng tinh thần, ngâm thơ làm văn để thố lộ tình cảm ra, ông còn thích cùng uống rượu đánh cờ với dân làng, bình phẩm những bức tranh, những bức chữ viết đẹp, hoặc cùng với trẻ con nô đùa, nói chuyện đủ thứ, hoàn toàn quên mất địa vị của mình, tự xem mình như một bình dân bá tánh. Qua đó, ông hưởng được một cuộc sống phiêu diêu thế ngoại, quên hết những điều vinh nhục trong đời, để siêu thoát ra khỏi cảnh trần ai thế tục. 

Có khi ông còn đàm luận với những tiều phu, những ngư phủ về những chuyện vui trong núi rừng, những nhã hứng trên dòng sông. Cũng có khi ông cùng tản bộ với những lão già trồng dâu, làm ruộng, để cùng nhau bàn bạc về phép dưỡng sinh. Nhưng, ông tuyệt đối không bao giờ nhắc đến công danh chiến tích của mình trước kia, và cũng không thích người khác đề cập tới chuyện đó. Nếu có ai nói cùng ông những lời dua nịnh, chắc chắn ông sẽ bất mãn, thậm chí ông sẽ không tiếp xúc với người đó nữa. Do vậy, mọi người trong làng quen biết ông đều gọi ông là “Bá ôn huynh”, chứ không gọi chức danh của ông nữa. Cho nên những người chưa từng biết ông, vẫn tưởng ông là một ẩn sĩ thông thường, muốn gác bỏ thế sự ngoài tai. 

Viên huyện lệnh Thanh Điền từ lâu đã ngưỡng mộ tài học của Lưu Cơ, nghe ông trở về quê hương, nhiều lần xin gặp mặt nhưng Lưu Cơ dứt khoát không tiếp, hoặc lấy lời uyển chuyển để từ chối. Đối với việc viên huyện lệnh đề nghị chăm sóc, chiếu cố ông, ông cũng không tiếp nhận. Qua câu chuyện sau đây cho thấy việc mai danh ẩn tích của ông, cũng có ít nhiều màu sắc truyền kỳ. 

Một hôm, có một người ăn mặc theo lối nông dân, tìm đủ cách mới hỏi ra chỗ ở của Lưu Cơ. Ông ta phải lặn lội nhọc nhằn mới vào được núi sâu và xin ra mắt Lưu Cơ. Lúc bây giờ Lưu Cơ đang dùng một chiếc chậu rất thô sơ để rửa chân, khi nghe có người xin gặp, ông vẫn tưởng đó là những người cùng quê đi qua đường, nên vui vẻ bằng lòng tiếp kiến, và cho người nhà dẫn người nhà quê đó vào chòi tranh. Người này bảo mình chưa từng quen biết với ông, nhưng trong câu chuyện hai người tỏ ra rất hợp ý nhau. Ông giữ người này ở lại để dùng một bữa cơm gạo kê. Sau khi ăn xong, người nhà quê này nói: 

– Xin Lưu học sĩ tha tội nói đối của tiểu thần. Thực ra, tiểu thần đây là Tri huyện Thanh Điền từ lâu đã ngưỡng mộ học thức và tính tình của tiên sinh, nên mới cải trang đến đây yết kiến. 

Lưu Cơ nghe xong kinh ngạc, vội vàng đứng lên, nói: 

– Xin tha thứ cho sự bất kính của tiểu dân, Cơ này xin cáo từ. Nói dứt lời, Lưu Cơ bèn đi ra khỏi chòi tranh, bỏ rơi viên huyện lệnh ngồi tại đấy ngơ ngác, một lúc sau mới buồn bã ra về. Từ đó trở đi, viên huyện lệnh này không bao giờ được trông thấy hình bóng của Lưu Cơ lần thứ hai nữa. 

Lưu Cơ cắt đứt sự qua lại với các quan viên và những người giàu có, hành tung không cố định, cử chỉ khác thường, thể hiện phong cách của một văn nhân có tính ngông. Kỳ thực, đấy chính là sự thể hiện khác thường của cá tính vốn “ngay thẳng, ghét những chuyện xấu, và thường không vừa lòng đối với nhiều sự việc trong đời”. Ông định dùng hành động không bình thường có tính cực đoan đó, để tránh tai họa cho mình, và chống lại với sức quyến rũ của tư tưởng tế thế vốn có, tạo điều kiện cho cá tính của mình được phát triển. Nhưng nói cho cùng, ông vẫn là người đọc nhiều kinh sách, chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng “nhập thế” Nho gia, nên ông càng muốn siêu thoát bao nhiêu, thì chuyện phiền muộn trong thế gian càng quấy rầy ông bấy nhiêu. 

Sự việc xảy ra như thế này: Sau khi Lưu Cơ quy ẩn chẳng bao lâu, Hồ Duy Dung được cử giữ chức Tham tri chính sự tại Trung thư tỉnh. Ông này vẫn ghim trong lòng việc Lưu Cơ trước đây đã nói những lời không tốt đối với mình, bèn mượn cớ gièm pha Lưu Cơ trước mặt Chu Nguyên Chương. 

Thì ra, gần quê hương của Lưu Cơ là Thanh Điền, có một địa phương tên gọi Đạm Dương. Nơi đây đường giao thông thủy lục đều thuận lợi. Núi sông ao hồ nối liền nhau, dễ thủ khó tấn công. Trước kia nó là một trong những vùng đất không ai quản lý, bọn thổ phỉ thường ra vào, bọn trộm cắp thường tụ tập gây rối. Phương Quốc Trân cũng đã phát tích từ mảnh đất này, quy tụ quân sĩ rồi đứng lên chống lại triều đình, gây tai họa cho nước cho dân không ít. Lưu Cơ mắt thấy tai nghe mọi nguyện xảy ra ở đây, nên trong lòng cảm thấy rất lo lắng. Khi ông còn làm quan ở triều đình, đã từng dâng sớ yêu cầu nhà vua cho đặt “Tuần Kiểm Ty” tại đây để lo việc trấn thủ, tiết chế. Nhờ đó mà bọn đốt nhà cướp của, hãm hiếp trộm đạo, mới không dám hoành hành tự do như trước. 

Sau khi Lưu Cơ trở về quy ẩn, gặp phải bọn đào binh Minh Dương làm phản gây rối, phương hại đến sự an toàn của triều đình. Đám phiến loạn này thường quấy nhiễu bá tánh, không việc ác nào mà chúng không làm. Nhưng quan viên địa phương của nhà Minh muốn giấu chuyện này không cho Thái Tổ biết. Lưu Cơ nói cho cùng vẫn là một người nhiệt tình, nóng tính, rất ghét bọn giết người cướp của, mặc dù ông không ra mặt, nhưng để cho đứa con trai là Lưu Liễn, dâng sớ thẳng lên Hoàng đế để báo cáo việc này, mà không thông qua Trung thư tỉnh. 

Hồ Duy Dung biết được chuyện này thì hết sức vui mừng, cho rằng cơ hội trả thù Lưu Cơ đã đến. Hắn sách hoạch một cách tỉ mỉ, rồi xúi giục đồng đảng là Hình Bộ Thượng Thư Ngô Vân tố cáo Lưu Cơ, vu khống ông tranh đoạt vùng đất Đạm Dương với bá tánh. Vì Đạm Dương là một địa phương dựa lưng vào núi, trước mặt là sông, phong thủy rất tốt, lại có “vương khí” nên Lưu Cơ muốn xây mộ địa nơi đó, để mưu đồ chuyện bất chính về sau. Vì bá tánh không chịu nhường cho ông ta, nên ông ta đã phái “Tuần Kiểm Ty” lấy danh nghĩa quan quân để xua đuổi bá tánh, khiến bá tánh tức giận nổi lên làm loạn. 

Tờ sớ tố cáo rất sinh động, khiến ai xem cũng phải tin là thật. Sau khi Ngô Chương Vân trình tờ tố cáo lên triều đình, Hồ Duy Dung bèn mượn chuyện công để báo thù riêng, xin nhà vua xử phạt nặng nề, và yêu cầu cho bắt đứa con trai của Lưu Cơ. 

Minh Thái Tổ xem qua tờ tấu văn, cảm thấy Lưu Cơ cũng thật quá đáng, nên rất bực tức. Nếu xét xử theo bình thường, thì chuyện này chắc chắn cả nhà Lưu Cơ sẽ bị bắt và giết cả chín tộc. Nhưng Chu Nguyên Chương nghĩ tình Lưu Cơ là vị khai quốc công thần, có công lao rất to, không nhân tâm buộc tội ông,  chỉ xử phạt tượng trưng là cắt hết bổng lộc đã ban cho ông, rồi có minh thư chuyển đến để cho ông biết rõ mọi việc đã xãy ra. 

Sau khi Lưu Cơ tiếp nhận văn thư của Thái Tổ, kinh ngạc như sét đánh ngang mày. Ông suy tới nghĩ lui, đoán biết bên trong việc này có người muốn hãm hại. Vậy phải đi gặp Thái Tổ ngay để nói rõ nguyên nhân, làm sáng tỏ mọi việc, mới mong tránh khỏi đại họa. Thế là ông thu xếp hành trang tức khắc lên đường vào Nam Kinh. Sau khi tới Nam Kinh, ông phát hiện tình thế đối với mình hết sức bất lợi, vì bên trong lẫn bên ngoài triều đình đều là bè đảng của Hồ Duy Dung cả, chẳng ai hằng lòng nói tốt cho ông đâu. Do vậy, ông bèn xóa bỏ ý định thanh minh với Thái Tổ, để tránh gặp cảnh bị mọi người tố cáo, làm cho Thái Tổ càng không vui. Thế là ông thay đổi ý định ban đầu, vào ra mắt Thái Tổ để lên tiếng tự trách, và xin nhà vua trị tội. Chu Nguyên Chương thấy thái độ của ông hết sức thành thật, nên không truy cứu, và câu chuyện trên xem như đã giải quyết xong. 

Sau khi gặp phải sự kiện trên, Lưu Cơ biết cuộc sống quy ẩn theo kiểu Đào Uyên Minh là không thể thực hiện được. Và để tránh có thể tiếp tục bị vu cáo nữa, ông dứt khoát dọn đến Nam Kinh ở, và không bao giờ dám ra khỏi nhà. Chẳng mấy hôm, Lưu Cơ bị ngã bệnh. Ít lâu sau, Thái Tổ lại thăng Hồ Duy Dung làm Thừa tướng. Lưu Cơ đang bệnh nghe được tin này, cảm thấy đau đớn, nói: 

– Hồ Duy Dưng lên làm Thừa tướng, chắc chắn sẽ sinh đại họa, quốc gia sẽ gặp đại loạn, sinh linh lại phải chịu tai ương. Nếu lời nói của tôi không ứng nghiệm, thì đó chính là đại hồng phúc của bá tánh nhân dân. Trái lại, nếu lời nói cửa tôi ứng nghiệm, thì cuộc sống của đông đảo chúng sinh biết làm sao đây? 

Nào ngờ lời nói trên thấu tai Hồ Duy Dung, khiến ông ta càng căm thù Lưu Cơ hơn nữa, quyết tâm tìm cơ hội để trả thù Lưu Cơ, dồn ông vào chỗ chết mới nghe. Trong khi đó, Lưu Cơ do quá phẫn uất, nên bệnh tình ngày một nặng, nằm liệt giường không còn dậy nổi. Tháng ba năm thứ tám niên hiệu Hồng Võ, Minh Thái Tổ thấy bệnh tình của Lưu Cơ càng ngày càng nặng, hơi thở chỉ còn thoi thóp, nên không khỏi động lòng trắc ẩn, đích thân viết biểu văn gởi đến Lưu Cơ, và đặt phái sứ giả hộ tống ông trở về quê nhà. 

Sau khi trở về quê, bệnh tình của Lưu Cơ không thuyên giảm mà ngày một nặng thêm. Một tháng sau, ông rời khỏi nhân gian, mang theo nỗi u uất trong lòng. Ông chết năm sáu mươi lăm tuổi. Cuộc đời của Lưu Cơ, một bậc mưu lược đại sư có tầm nhìn sâu rộng, đã yên nghỉ vĩnh viễn trên ngọn núi quê hương đầy thê lương như thế. 

Cái chết của Lưu Cơ trước tiên có liên quan trực tiếp đến việc gièm pha của Hồ Duy Dung. Sử liệu ghi chép, lúc Lưu Cơ bị bệnh nặng, Hồ Duy Dung giả vờ quan tâm chăm sóc, phái thầy thuốc đến chữa trị cho ông. Sau khi người thầy thuốc này cho Lưu Cơ uống một thang thuốc, thì trong bụng Lưu Cơ xuất hiện một vật cứng như đá, to bằng nắm tay. Lưu Cơ là người có tâm hồn khoan hồng đại độ, tuyệt đối không nghĩ rằng Hồ Duy Dung sẽ dùng thủ đoạn đê hèn như thế để hãm hại mình. Đúng là ông đã dùng lòng dạ của người quân tử, để đo lòng dạ của kẻ tiểu nhân. 

Ngoài ra, cái chết của Lưu Cơ cũng có tương quan đến bản tính đa nghi của Minh Thái Tổ. Nhà vua đối với một vị công thần lúc nào cũng trung thành với nhà vua, mà vẫn không yên tâm. Đối với bản sớ tố cáo Lưu Cơ của bè đảng Hồ Duy Dung, nhà vua không cho điều tra cặn kẽ để tìm hiểu sự thật, mà lại kết luận một cách mù quáng. Như vậy, không làm cho Lưu Cơ đau khổ sao được? Tất cả những việc đó, chứng minh Lưu Cơ trước đây xin về quê quy ẩn là một người có tầm nhìn rất xa. Chẳng qua vì sự quy ẩn của ông không triệt để, nên cuối đời vẫn chạy không thoát cái cảnh “chó săn bị làm thịt”. 

Cho đến chết, Lưu Cơ vẫn không quên lòng trung thành muốn góp sức với vương triều nhà Minh. Trước khi lâm chung, ông đã dùng tâm huyết của mình viết ra một bản tấu chương dự đoán thời thế, nhân sự, để tâu trình lên Minh Thái Tổ. Điều đó cho thấy tâm trạng vừa bi phẫn vừa lạnh nhạt, vừa ấm ức lại vừa nặng tình của một vị mưu sĩ ngay thẳng, nói lên tính cách của Lưu Cơ vừa phiêu dạt khoáng đạt, lại vừa không thể gác bỏ mọi chuyện của trần thế ngoài tai. Điều đó phản ánh rõ rệt tính cách điển hình của một người nho học. Lưu Cơ nằm trên giường bệnh, chỉ còn da bọc xương, hơi thở thoi thóp, thế mà vẫn cố gắng gọi người con trai là Lưu Liễn đến bên cạnh, rồi dùng bàn tay run run lấy từ dưới gối ra một quyển sách nhỏ đã ngã màu vàng, trao cho con, nói: 

– Đây là một quyển sách có tương quan đến hiện tượng thiên văn và nhân sự. Nó chính là kinh nghiệm được tổng kết từ thực tiễn quân sự cũng như từ việc trị quốc nhiều năm qua của cha. Con hãy mang nó đến trao cho triều đình, và tâu với hoàng thượng là đừng để cho người hậu thế học tập. 

Quyển sách trên chính là quyển “Thiên văn thư” mà cho tới ngày nay, mọi người đều có cảm giác là nó hết sức thần bí. Về sau, Thái Tổ xuống lệnh xếp quyển sách này cùng với quyển “Bách chiến kỳ lược”, là loại văn hiến cơ mật, không được công bố ra ngoài. Do vậy, về sau cả hai quyền sách này đều bị thất truyền. Có thể nói đấy là một sự tổn thất to đối với lịch sử. 

Ông lại trao cho đứa con trai kế là Lưu Cảnh một bản tấu chương khác, dạy rằng: 

– Phép cai trị thì phải có khoan dung, có trừng trị, chẳng khác nào một sự tuần hoàn, có lúc phải nới lỏng, có lúc phải siết chặt. Khi cần thanh trừng trong thiên hạ thì phải có hiệu lệnh nghiêm minh, kẻ có tội phải bị xử chém, phải lấy phép nước để trị dân. Nhưng khi thiên hạ thái bình, nhất là như hiện nay, thì phải nghĩ tới chuyện dưỡng sức dân, phải lấy phép cai trị nhân đức mà cai trị dân, giảm thiểu hình phạt, thực thi nhân nghĩa. Những nơi có địa thế hiểm yếu quan trọng, thì cần phải gắn chặt với kinh sư. Ta vốn muốn viết một tờ di biểu nói rõ quan điểm trên, nhưng do Hồ Duy Dung đang nắm quyền triều chính, dù có viết cũng không có tác dụng gì, trái lại, sẽ gây hại cho các con. Ta tin chắc Hồ Duy Dung sẽ có chuyện xảy ra. Sau khi hắn có chuyện, thì hoàng thượng nhất định sẽ nghĩ tới ta. Nếu hoàng thượng có hỏi gì về ta, thì các ngươi hãy dâng lên cho nhà vua bản tấu chương cơ mật này. 

Hai người con trai ứa lệ, im lặng gật đầu nhận lệnh của cha. 

Về mặt triều đình, sau khi Dương Hiến, Uông Quản Dương lần lượt bị tội và bị cách chức, Hồ Duy Dung nắm hết quyền bính ở Trung thư tỉnh, chuyên quyền độc đoán, lạm dụng sự sinh sát để mưu đồ tư lợi, kết bè kết đảng để làm lợi riêng tư. Tất cả những bản tấu chương của các quan bên trong lẫn bên ngoài triều đình, Hồ Duy Dung đều xem qua trước. Thấy bản tấu chương nào có lợi cho mình thì hắn trình lên nhà vua, thấy bản tấu chương nào có hại cho mình thì hắn giữ lại, giấu kín không báo lên cho vua biết. Đồng thời, hắn tìm cơ hội để trừng trị quan viên nào vạch trần những tội lỗi của hắn. Trong nhất thời, bao nhiêu vụ án đẫm máu đã xảy ra, khiến ai ai cũng căm hờn, oán hận, khiến cả triều đình đều ngột ngạt không khí đen tối. 

Chu Nguyên Chương cảm thấy mọi việc không ổn, đồng thời cũng thấy được những hành động khác thường của Hồ Duy Dung. Cho nên nhà vua bèn liên tưởng đến việc Lưu Cơ trước đây có nói sau khi dùng thuốc của Hồ Duy Dung thì trong bụng xuất hiện một vật cứng to bằng nắm tay. Lúc bấy giờ Thái Tổ vẫn không để ý, nghĩ rằng Lưu Cơ đa nghi, nhưng nay nhớ lại thì mới thấy đó là một vấn đề nghiêm trọng. Chắc chắn có người đã lợi dụng thang thuốc này để mưu hại Lưu Cơ. Thế là nhà vua ra lệnh tra xét về cái chết của Lưu Cơ. Hồ Duy Dung biết mọi việc sắp bị bại lộ, nên nghĩ bụng: “Nếu hoàng thượng tra xét cái chết của vị công thần này, khi biết được sự thật, thì làm sao có thể tha thứ cho ta? Vậy để bại lộ mà chết, thi chi bằng nổi lên làm loạn có chết cũng cam. Vậy ta phải tiên hạ thủ vi cường, biết đâu còn tìm được cơ hội sống sót”. Thế là hắn cấu kết với bè đảng của hắn, liên lạc với giặc lùn ở ngoài biển, cũng như tàn binh của triều Nguyên, bí mật chuẩn bị việc đột kích vào triều đình để giết hại Thái Tổ, lật đổ vương triều nhà Minh. Không ngờ mọi việc bị bại lộ, Thái Tổ kết tội hắn mưu phản và đem chém. Số người liên lụy đến vụ án này lên đến hàng nghìn người. Sự tiên liệu của Lưu Cơ quả đã ứng nghiệm. Sau khi vụ án Hồ Duy Dung giải quyết xong, quả nhiên Chu Nguyên Chương lại nghĩ đến Lưu Cơ. Hai đứa con trai của Lưu Cơ bèn tuân theo lệnh cha, dâng lên triều đình “Thiên văn thư” và bản mật tấu. Thái Tổ tiếp nhận những di vật này, có cảm tưởng như trông thấy vị lão thần trung thành với mình, nên đã cảm động đến rơi lệ. Nhà vua nói với hai đứa con trai của Lưu Cơ: 

– Khi Lưu Bá Ôn còn sống. Cả triều đình đều là bọn “Hồ đảng”, chỉ riêng có một mình ông ấy là không theo chúng, nên mới bị chúng thư (bỏ thuốc độc). 

Năm thứ mười ba niên hiệu Hồng Võ (1380) Chu Nguyên Chương ban bố cáo mệnh, ra lệnh cho con cháu của Lưu Cơ được hưởng tước lộc truyền từ đời này qua đời khác của Thành ý Bá. Lưu Cơ mặc dù chưa từng chính thức giữ chức Thừa tướng của triều đình, nhưng với tài đức của ông, công huân trác tuyệt của ông, đã được người hậu thế hoài niệm và tôn kính. Minh Võ Tông đã khen tặng ông là người “Độ giang sách sĩ vô song, khai quốc văn thần đệ nhất” (nhà mưu lược có một không hai đã giúp cho triều nhà Minh vượt sông để bình định thiên hạ, cũng là bậc văn thần khai quốc đứng hàng đầu). 

Lưu Cơ là một phần tử trí thức của giới địa chủ, thời trẻ tuổi sự học vấn đã uyên thâm, là người “thông cổ kim chi biến” (tinh thông mọi sự diễn biến tự cổ chí kim). Thoạt tiên ông từng phục vụ cho giới thống trị của triều nhà Nguyên, nhưng về sau do bất mãn trước sự hủ bại đen tối của Nguyên Thuật Đế, nên đã đi theo con đường chống lại sự áp bức dân tộc, và bị lôi cuốn vào dòng xoáy của cuộc nông dân khởi nghĩa cuối đời nhà Nguyên. Ông theo Chu Nguyên Chương Nam chinh Bắc chiến, vận trù định mưu cho đế quốc đại Minh. Ông đã cống hiến cho triều nhà Minh nhiều sách lược quan trọng. Ông làm quan thanh liêm ngay thẳng, lúc nào cũng chống lại tham quan ô lại, chủ trương làm việc cho đất nước một cách trong sạch. Ông có tính ngay thẳng, không biết sợ cường quyền, không a dua theo bọn quyền quý. Ông là người siêu thoát trong những cuộc đấu tranh giữa các hệ phái chính trị trong triều đình, tự mình giữ mình trong sạch, đứng ngoài sự quyến rũ về vật chất. Chỉ đáng tiếc một người tài trí hơn người như ông, lại không thoát khỏi sự hãm hại của kẻ tiểu nhân hèn hạ. Đứng trước sự vu cáo ông không có cách nào chống đỡ, dẫn đến phải ôm hận mang xuống tuyền đài. Sự thật đó phản ánh một cách sâu sắc sự khuynh đảo tàn nhẫn giữa nhau trong tập đoàn chính tri xã hội phong kiến.

Nguồn bài đăng

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Twitter picture

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Twitter Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s