Trần Đại Vinh
GIỚI THIỆU NGUYỄN ĐỨC XUYÊN (1759-1824) VÀ TẬP HỒI KÝ BIÊN NIÊN “LÝ LỊCH SỰ VỤ”
1. Hành trạng Nguyễn Đức Xuyên
Nguyễn Đức Xuyên là hậu duệ đời thứ XV của dòng họ Nguyễn,(1) khai canh
làng Dương Nỗ, xã Phú Dương, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế, mà tổ
tiên vốn thừa hưởng được linh khí của núi sông, truyền thống của gia tộc, và thời
vận của đất nước, đã có nhiều võ công lừng lẫy dưới thời nhà Lê Trung hưng.
Dòng họ ấy vốn có gốc nguồn từ Hải Dương, đời Trần Thái Tông (1225-
1258) đã chuyển cư vào ven Sông Mã, lập nên làng Phước Châu thuộc huyện
Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa, trải qua nhiều lần đổi tên, cuối cùng định danh
là làng Nguyệt Viên. Từ nửa sau thế kỷ XV, một số nhân vật trong dòng họ đã
theo Lê Thánh Tông nam chinh, đánh Đồ Bàn. Sau khi thắng lợi trở về, các vị
đã lập một làng mới ở bờ nam hạ lưu Sông Hương, thuộc huyện Tư Vinh, phủ
Triệu Phong, xứ Thuận Hóa, đặt tên làng là Dương Nỗ.
Đời thứ IV của dòng họ này trên đất Thuận Hóa đã có một người lẫy lừng
về võ nghiệp, đó là tướng Nguyễn Hữu Liêu (1538-1597). Quá trình hoạt động
của ông diễn ra trên đất Bắc vào thời Lê-Mạc phân tranh. Năm 1551 ông được
vua Lê Trung Tông cho triệu đến yết kiến, và cho lệ vào chính dinh theo Trịnh
Kiểm đánh Mạc. Là một vị tướng trẻ có tài xông pha trận mạc, ông đã được
Trịnh Kiểm gả con gái nuôi, được Trịnh Tùng tin cậy, trở thành cánh tay phải
cho Trịnh Tùng trong việc bình định nhà Mạc, củng cố nhà Lê Trung hưng.
Đại Việt sử ký toàn thư phần Bản kỷ tục biên của Phạm Công Trứ và Lê triều
thông sử của Lê Quý Đôn đã ghi lại quãng đời binh nghiệp oanh liệt của ông.
Vì thế ông đã được phong chức Điện tiền kiểm hiệu thái úy, Tráng Nghĩa dinh
phó đô tướng, Tổng đốc thủy quân, tước Dương quốc công.
Đời thứ V của dòng họ có quận công Nguyễn Hữu Giai làm đến Điện tiền
tả kiểm hiệu Tây quân đô đốc, kiêm Thủy sư thái phó.
Bẵng đi 6 đời sau, con cháu chỉ lấy nghề nông sinh sống. Đến đời XII, ông cố
của Nguyễn Đức Xuyên là Nguyễn Đức Ân có tay nghề được bổ làm Huấn đạo tại
Sở Nhà Đồ. Người con là Nguyễn Đức Triêm tiếp tục giữ chức này. Vì thiếu tiền
nhà nước, ông phải bỏ vào phủ Quy Nhơn sinh sống. Đến cháu nội là Nguyễn Đức
Quảng lại chuyển gia đình vào cư trú ở thôn Tân Kiểng, huyện Tân Long, thành
Gia Định, là thân phụ của Nguyễn Đức Xuyên. Tại đây, Nguyễn Đức Quảng đã
ra tòng quân. Do tuổi cao, sức yếu, nên nửa chừng ông đã nghỉ. Ba người con của
ông do biến động chiến cuộc đã có những chọn lựa ban đầu khác nhau.
Người con đầu là Nguyễn Đức Thái đã ra phò Nguyễn Ánh, về sau thăng
đến Khâm sai Cai cơ. Người con thứ ba là Nguyễn Đức Ngữ, đầu quân với Tây
Sơn, thăng đến Đô đốc, sau trở về hàng dưới trướng Nguyễn Ánh.
1 Thủy tổ là ngài Nguyễn Hữu Vĩnh, do đó các đời sau đều giữ họ Nguyễn Hữu, riêng chi của Nguyễn Đức Xuyên lại đổi sang Nguyễn Đức. Trong Lời tâu dâng lý lịch sự vụ, Nguyễn Đức Xuyên lại khai là họ Nguyễn Phúc, tên các đời cũng khác trong gia phả. Có lẽ do phải trốn tránh lưu lạc nhiều đời vào Nam nên có sự khác nhau ấy.
Nguyễn Đức Xuyên là con trai thứ hai, sinh năm 1759. Vốn có sức khỏe,
thiếu thời đã luyện tập tinh thông võ nghệ, năm 1780 ông theo tòng quân với
Nguyễn Ánh, được làm đội viên đội cấm binh bảo vệ chúa.
Hai năm sau do có chiến công cùng toàn đội cấm binh truy kích quân Tây
Sơn ở đồng Long Mạt, nên được thăng làm nội đội Đội trưởng tòng quân tước
Xuyên Đức hầu.
Đại Nam chính biên liệt truyện đã viết về Nguyễn Đức Xuyên như sau:
“Xuyên là người dũng cảm mưu lược. Ban đầu lệ vào Nội hầu, làm Đội
trưởng. Năm Quý Mão (1783) giặc Tây Sơn vào cướp, xa giá đi ra ngoài, Xuyên
và Nguyễn Văn Mẫn hộ vệ cung quyến đến hành tại. Nhưng khi đánh ở Hòn
Chồng, quân ta thất lợi, Xuyên lên đường bộ trốn thoát. Mùa thu năm Giáp
Thìn (1784), vua từ nước Xiêm hồi loan, Xuyên đến yết kiến, theo vua đánh
giặc, lại thất lợi, vua đi Hà Tiên, Xuyên theo hầu. Một hôm, đến tối vua vẫn
chưa có cơm ăn, Xuyên chạy vào nhà dân xin cơm. Dân hỏi: Kiệu đi trước có
phải là chúa cũ không? Xuyên lúc đầu trả lời không phải. Dân nói rằng đã trộm
thấy, đừng che giấu gì nữa. Cậu hãy đi đi, lát nữa cơm chín tôi sẽ đem tới dâng.
Vua sai hỏi họ tên, nhưng dân ấy chạy mệt không trả lời được. Khi vua đi Vọng
Các, Xuyên vì ngộ sát người buôn nước Xiêm, sợ bị tra hỏi, không ở theo vua
mà tạm ở Rạch Khương [địa danh nước Xiêm].
“Mùa thu năm Đinh Mùi (1787) ngự giá trở về, đổi Xuyên làm thuộc nội
Cai đội đội Túc trực, cùng với Nguyễn Văn Khiêm đi Bình Thuận do thám giặc
và thu thuế dầu, vải.
“Năm Nhâm Tý (1792) đại giá thân chinh Quy Nhơn, đến cảng Thi Nại,
Xuyên đôn đốc chiến thuyền theo bọn Nguyễn Văn Trương vào trước. Các quân
tiến sau, giặc bèn tan vỡ.
“Năm sau lại theo đánh Quy Nhơn, Đô đốc Đẩu của giặc chiếm cứ bảo
Khố Sơn để chống cự, quân ta ở dưới núi không lên được. Một mình Xuyên tiến
lên, gọi giặc nói rằng: ‘Nay Vương sư đã chiếm Song Kiều đến Tháp Cát, chúa
các ngươi thu binh vào thành, đại binh ta bốn mặt vây hãm, thành Quy Nhơn
không chừng bị hạ. Các ngươi vì tên Đẩu cố thủ mà chuốc lấy cái chết sao’. Lính
giặc nghe Xuyên nói, bèn có ý hàng. Xuyên báo gấp cho Nguyễn Văn Trương
thúc binh tiến lên. Giặc mở cửa bảo đón quan quân. Tên Đẩu sợ hãi trốn thoát,
bảo [Khố Sơn] bèn bị chiếm. Rồi tiến công lên vây thành Quy Nhơn. Giặc đưa
quân vào tiếp viện. Đến khi ban sư, do công lao Xuyên được thăng hàm Vệ úy
vệ Hùng Võ quân Thần Sách.
“Năm Ất Mão (1795) theo đi đánh Quy Nhơn. Cùng Lê Văn Duyệt đánh
Đô đốc Lê Văn Phong của giặc ở bảo Lò Gốm, cả phá được.
“Bính Thìn (1796) hải phỉ Đồ Bà ở ngoài biển Hà Tiên cướp bóc, cản trở
đường biển. Gặp lúc đưa sứ nước Xiêm về nước, vua sai Xuyên dẫn binh thuyền
hơn 10 chiếc đưa ra khỏi biên giới. Xuyên đến Phú Quốc, dò xét được chỗ tàu
phỉ đậu, bèn phân thủy binh làm ba đạo quân, nhân lúc phỉ không phòng bị,
đã đột kích thuyền phỉ, đánh chìm một chiếc, còn lại đều chạy trốn, đuổi bắt
được 10 chiếc, bắt được đảng giặc hơn 80 người, súng khí giới nhiều vô kể. Gặp
lúc nước Xiêm cũng sai tướng dẫn thủy binh tiêu trừ, đến đó thì Đồ Bà đã vỡ
tan, bèn tiếp đón sứ bộ trở về nước. Từ đó phỉ Đồ Bà trốn xa, người Xiêm cũng
nể sợ tên Xuyên. Lúc khác, sứ Xiêm đến, vua chỉ vào Xuyên nói rằng đây là vị
tướng năm trước đánh Đồ Bà đó.
“Năm Mậu Ngọ (1798) thăng làm Phó thống Hậu đồn. Kỷ Mùi (1799) kiêm
quản 5 tượng cơ theo đánh Quy Nhơn. Giặc đánh vào bảo Tháp Cát, Xuyên bị
đạn bay trúng đầu, bịt vết thương mà đánh, cả phá binh giặc, bắt được hơn 20
thớt voi. Được tin thắng trận, vua ban thưởng 500 quan tiền.
“Canh Thân (1800) thăng Thần Sách quân Tri tượng chính Đô thống chế
dẫn binh hộ giá cứu viện cho Bình Định. Xuyên đến Diên Khánh, nghe gián
điệp báo rằng: Tư đồ giặc là Võ Văn Dũng dẫn quân thủy bộ đánh vào Phú
Yên, thế rất lớn. Xuyên vì binh giặc đông, binh ta ít, dâng sớ xin lui binh về
Phan Rí, đợi thủy binh tiến lên, rồi mới cùng tiến. Vua dạy: ngươi cứ tiến lên,
ta đã có phương lược. Xuyên bèn tiến binh, theo Nguyễn Văn Thành sai phái.
Rồi dẫn binh đóng ở ải Thạch Cương, giặc dựa vào núi cố thủ. Xuyên đưa binh
đánh úp, giặc chạy khỏi La Thai, truy kích cả phá. Gặp lúc hàng tướng Từ Văn
Chiêu làm phản. Vua sai Lê Văn Duyệt tiến binh đến Cù Mông, sai Xuyên chia
tượng quân làm hai, một nửa lệ vào quân của Thành, một nửa tự lãnh đến cùng
Duyệt. Xuyên dâng sớ tâu rằng: đánh trên bộ, voi là quan trọng; quân Tả đồn
nhiều kẻ hàng giặc, cơ mưu tiết lộ, quân voi nếu chia ra hai, địch sẽ nhân sơ
hở, sợ khó giữ được vạn toàn. Thần xin giữ nguyên ở Đồng Thị, mà đem quân
Tả đồn đến Cù Mông để ngừa hậu hoạn. Vua báo về: ‘Đồng Thị đất hiểm trở
khó dùng voi, Cù Mông đất rộng rãi bằng phẳng lợi cho dùng voi đánh, ngươi
nên đi liền’. Xuyên vâng mệnh ra Cù Mông.
“Mùa thu năm ấy, Nguyễn Văn Thành đánh giặc ở bảo Núi Chúa, không
thắng. Phó Vệ úy Nguyễn Công Trọng bị chết, Xuyên dâng sớ đại lược rằng:
Giặc tất kéo dài việc vây thành Bình Định, mà binh ta lợi ở tốc chiến. Nay gió
tây bắc dấy rồi, thủy quân không tiện, mà khe núi hiểm trở không quen thuộc.
Nếu gấp đánh, sợ chỉ là gắng gượng cầu may vậy. Trong thành Võ Tánh tất giữ
vững được. Nay cần đánh chậm, chọn binh hàng và quân già yếu đưa về thành
Gia Định để giảm hao phí. Mùa xuân tới, thuận gió thì xin lãnh binh thuyền
tiến đánh Thuận, Quảng, cắt đường vận lương của giặc; chúng sẽ tự cứu, không
rảnh, thì vòng vây Bình Định có thể tự giải cứu được.
“Mùa đông năm ấy, Xuyên quản 10 tượng cơ. Giặc đánh vào bảo Thần Vệ,
Xuyên chống phá, bắt được hơn trăm tên. Gặp lúc vua muốn dùng hỏa công đốt
thuyền giặc, hỏi chư tướng ai làm được. Tống Viết Phước xin đi. Vua sắp cho,
bèn mật báo cho Thành và Xuyên biết. Xuyên đang bệnh, vua sai Nguyễn Cửu
Kỷ đem nhân sâm ban cho. Xuyên nói với Kỷ rằng: Nghe chúa thượng dùng kế
hỏa công mà Phước xin đi, theo Xuyên tính Phước tuy dũng nhưng hỏng ở chỗ
khinh suất tiến lên. Lê Văn Duyệt thì dũng mà có mưu. Nếu sai Duyệt đi thì
việc tất xong. Nếu không thế, thì Xuyên xin đi vậy. Kỷ về tâu lại, vua bèn sai
Duyệt. Mùa xuân Tân Dậu, cả phá Thi Nại. Xuyên và Thành chia binh đánh các
bảo giặc ở Vân Sơn, Phú Trung, chém Đô đốc giặc là Hạch, bắt được 2 thớt voi.
“Mùa hạ, vua thân dẫn thủy quân tiến đánh Phú Xuân. Xuyên theo Nguyễn
Văn Thành, Nguyễn Huỳnh Đức ở lại Bình Định đối phó với giặc. Vua triệu
Xuyên đến dụ rằng: Nguyễn Văn Thành tốt nhưng kiêu, phạt nhiều, mất lòng
kẻ tùy thuộc, nên lưu khanh ở lại đó hãy sửa chữa điều mất, để xong việc nước.
Lại ban một chiếc nhung y ngự dụng và một chóe rượu ngự. Xuyên lạy tạ.
“Tháng 5, đại binh thu phục Phú Xuân. Tướng giặc là Lê Văn Phong đến
cửa khuyết hàng. Lê Văn Duyệt tâu: Phong có tài đáng đại dụng. Xuyên ở quân
thứ nghe tin, dâng mật sớ, cho Phong là kẻ rất thân tín với giặc, như thần và
Nguyễn Văn Thành đối với nước nhà vậy. Thành và thần không phản bội nước,
thì bọn Phong về hàng với ta ắt là không thành thực. Duyệt không xét, bàn cử
Phong, ấy là do Lê Chất xui vậy. Chất về với ta đã lâu, vừa qua lại đuổi giặc
không kịp, cũng có người nghi ngờ bàn ra nói vào. Huống chi là Phong. Chúa
thượng lâu năm lao thân tiêu tứ mới thu phục cựu đô, một việc dùng người rất
quan hệ, mà không xét kỹ, xin gia ý hơn.
“Vua rất tin cậy. Năm Nhâm Tuất (1802) Xuyên và tướng giặc là Trần
Quang Diệu đánh nhau ở Kỳ Sơn, bị thua, Phó tướng Nguyễn Văn Huệ tử trận,
Xuyên bèn dâng sớ xin chịu tội. Vua dụ rằng: Ngươi với quốc gia, nghĩa là quân
thần, tình như phụ tử. Đã gắng gỏi cùng chư tướng sĩ đồng tâm hiệp lực để
chống nghịch cuồng chớ lấy bại một trận mà nản lòng.
“Tháng Ba, thành Bình Định bị hạ, triệu Xuyên về kinh.
“Gia Long năm đầu, mùa hạ, hộ giá Bắc phạt. Đến Thanh Hoa, được sai
lưu lại làm Đốc trấn, ban tước quận công.
“Tháng Tám, triệu đến hành tại ở Bắc thành, sai quyền chưởng Thần Vũ
quân. Xuyên vâng chiếu, cùng Lê Văn Duyệt chia chọn binh đinh trong 5 trấn,
cứ 7 đinh lấy 1. Rồi được vua ban cho 1.000 hộc lúa.
“Mùa đông năm ấy hộ giá trở về kinh. Lại có tang cha. Tháng Mười Một,
chọn lính ở Bố Chính ngoại châu bổ vào tượng dinh.
“Gia Long năm thứ 2, mùa hạ, làm Chưởng Tượng chính kiêm Cai tào vụ.
Mùa thu năm ấy có việc bang giao, đã hộ giá Bắc tuần. Đến Thanh Hoa, vua
sai lãnh bộ binh đi trước ra Bắc thành.
“Gia Long năm thứ 3, lễ bang giao xong, hỗ giá trở về kinh. Vua có lúc mê
say âm nhạc, Xuyên và Nguyễn Văn Nhân dâng sớ thống thiết can ngăn. Vua
nhận lời can gián.
“Gia Long năm thứ 7, mùa thu được làm Khâm sai Chưởng Tượng quân
lãnh Tượng chính, Cai tào vụ. Gia Long năm 11, mùa xuân, nhân lễ ninh lăng
của Hiếu Khương Hoàng hậu, Xuyên làm Đề đốc binh voi theo hầu tả hữu. Gia
Long năm 14, nhân lễ ninh lăng Thừa Thiên Cao Hoàng hậu, sung làm Phù
liễn sứ.
“Năm thứ 18, Xuyên tâu rằng thiên hạ tuy an, không thể quên chiến. Xin
sai các thành dinh trấn hàng năm vào tháng Giêng, tháng 7 thao diễn trận voi,
mỗi kỳ 3 ngày. Vua đồng ý.
“Minh Mệnh năm đầu, mùa hạ, nhân lễ ninh lăng Thế Tổ Cao Hoàng đế,
sung làm Phù liễn sứ.
“Năm thứ 2, xây dựng Thế Tổ miếu, Xuyên đôn đốc công việc. Mùa thu,
đại giá Bắc tuần, sung làm tùy giá thị vệ đại thần. Trong lễ bang giao, sung
làm Thọ sắc sứ.
“Xuyên tính hào phóng, chi phí lại rộng. Có lập ban tuồng gồm nam bộ,
nữ bộ, cơ thiếp cũng xen lẫn trong nữ bộ. Vì của dùng không đủ, tâu xin với
Thánh tổ cho lãnh bổng năm sau. Vua mệnh ban cho tiền 1.000 quan, gạo 1.000
phương, và dụ rằng như không đủ thì tâu với trẫm. Nhà nước đối với khanh
không hề hà tiện.
“Minh Mệnh năm thứ 5, bị bệnh, vua sai trung sứ đến thăm, ngày vài ba
lần. Xuyên gắng gỏi tâu bày: Thần xưa thờ tiên đế, từ trẻ đã có công lao nhỏ.
Kính vâng hoàng thượng lâm ngự đến nay, đã có nhiều lần ban ơn, chưa từng
xung trận bịt vết thương để báo đáp. Nay lại quá ban ơn thương xót, ghi khắc
nào hơn.
“Vua dạy: Xuyên tuổi đã suy yếu, còn có chí da ngựa bọc thây, quốc gia
được người đều như thế, thì có lo gì. Mùa đông năm ấy mất, thọ 67 tuổi.(1)
“Vua dụ Bộ Lễ rằng: Xuyên là người trung dũng, thuần phác, phò tá hoàng
khảo là Thế Tổ Cao Hoàng đế dẹp yên họa hoạn, rồi đến thờ trẫm cung kính
thành thực ra đạo làm tôi. Không ngờ bị bệnh hơn tuần đã không dậy được.
Ta nghĩ bậc kỳ cựu, nói đến thì nước mắt rơi. Tặng Đặc Tiến Tráng Võ Tướng
Quân Tả Trụ Quốc Thái Phó, thụy Trung Dũng. Ban cho nhiều gấm đoạn sô sa,
tiền, bãi triều 3 ngày. Sai quan dụ tế. Ngày đám tang cũng nghỉ triều 1 ngày,
phái binh 1.000, voi 10 thớt đưa tiễn. Lại ban tiền hơn 1.400 quan, gạo 1.000
phương, cấp mộ phu. Con cái đều được cấp tiền gạo.
“Năm Minh Mạng thứ 8 ban cho tòng tự ở Thế Miếu, lại liệt tự ở miếu
Trung Hưng công thần. Cấp tự điền.
“Năm Minh Mệnh thứ 12, truy tặng Tá Vận Công Thần Đặc Tiến Tráng
Võ Tướng Quân Hữu Quân Đô Thống Phủ Chưởng Phủ Sự, Thái phó, cải thụy
là Hằng Dũng, phong Khoái Châu quận công”.
Như thế, cả vua Gia Long và vua Minh Mệnh đều đánh giá rất cao vai trò
của Nguyễn Đức Xuyên.
1 Đúng ra là thọ 66 tuổi (1759-1824).
2. Tập hồi ký biên niên “Lý lịch sự vụ”
Năm 1822, do chủ trương của vua Minh Mệnh, cho các quan từng giữ
trọng trách trong triều, viết lý lịch sự vụ nạp tại Sử quán để làm tài liệu viết
sử, Nguyễn Đức Xuyên đã viết bản hồi ký này, gọi tên là “Lý lịch sự vụ”, gồm
2 bản, mỗi bản khổ 34 x 28cm, có 148 tờ tức 296 trang. Mỗi trang 12 dòng,
mỗi dòng đủ có từ 32 đến 39 chữ, phạm vi ghi chép từ năm 1780 đến 1822.
Một bản đã nộp vào Sử quán ngày 22 tháng 6 năm Nhâm Ngọ, 1822. Một bản
lưu chiếu tại nhà riêng. Bản chúng tôi phiên dịch là bản lưu chiếu này. Do bảo
quản chưa tốt, bản này bị nát trang đầu, trang cuối, và rách xơ xác góc trên
của một phần sáu số trang sách, ảnh hưởng từ một phần ba đến một phần hai
các dòng 1, 2, 3, 4, 5 của tờ B và các dòng 8, 9, 10, 11, 12 của tờ A trên tổng số
một phần sáu số trang sách. Có chỗ tuy rách còn dính liền cho phép đọc được,
có chỗ mất hẳn, trong trường hợp đó chúng tôi đã ghi chú rõ mất mấy chữ đặt
trong ngoặc vuông. Tuy nhiên khi bắt tay vào việc dịch, mới thấy là mất mát
không đáng kể.(1)
Cách viết của tài liệu này là lối viết biên niên theo trình tự năm tháng
ngày. Nội dung bao gồm đủ mọi việc liên quan đến công vụ của Nguyễn Đức
Xuyên trong suốt 43 năm.
Tính chất quan trọng của bản hồi ký này thể hiện trên nhiều mặt, trong
đó nổi bật là việc bảo lưu những văn bản chính thức thời Nguyễn vương còn
đóng ở Gia Định, và cả những văn bản triều Gia Long. Đó là những tờ truyền,
tờ phó của bộ tham mưu Nguyễn Ánh, những chiếu, hịch, văn thệ sư, điều lệnh
quân đội của Nguyễn Ánh, đều được viết hầu hết với lối văn Nôm có pha thành
ngữ chữ Hán, vào cuối thế kỷ XVIII.
Đối với các văn bản này, chúng tôi chỉ phiên âm, nếu có chỗ nào khó hiểu
thì chú thích riêng.
Trong đó còn có những mật tấu của các cận thần như Nguyễn Đức Xuyên, Lê
Văn Duyệt, những mật chỉ, mật chiếu của Nguyễn Ánh. Điều đó có ích cho việc
tiếp cận với sự thực lịch sử khi nghiên cứu về Gia Long và vương triều Nguyễn.
Mặt khác tài liệu này cũng bảo lưu những văn thư trao đổi, giao thương
giữa các Tổng trấn thành Lữ Tống (Luzon, Philippines), Ma Đa Đạt (Madras,
Ấn Độ), Ma Cao, Đông phương Tổng trấn nước Anh, thư của vua Louis nước
Pháp với nhà chức trách Việt Nam cũng như phúc tư của Việt Nam. Các văn
bản này hầu hết do các viên quan người Pháp trong triều Gia Long dịch ra văn
Nôm. Điều đó sẽ góp phần tìm hiểu về phương diện ngoại giao cũng như việc
buôn bán với nước ngoài, trang bị quân sự và tình hình quan thuế buổi đầu
triều Nguyễn.
Phần chiếm đa số trong tài liệu là mô tả quá trình chiến đấu của Nguyễn
vương, từ năm 1780 cho đến khi chiếm Thăng Long, với những trận chiến cụ
thể trên các vùng đất theo cách gọi dân dã ở các địa bàn Nam Bộ, Phú Yên,
Diên Khánh, Quy Nhơn, Nam Ngãi…
Tài liệu này tự nó có giá trị về các phương diện văn học, địa lý, đặc biệt
là lịch sử cận đại, về các lĩnh vực quân sự, nội trị, ngoại giao, ngoại thương của
buổi đầu thời Nguyễn.
T Đ V
1 Trước khi in ấn, chúng tôi được thân hữu gởi cho bản dịch “Lý lịch của Xuyên quận công
Nguyễn Đức Xuyên” của GS Ngô Văn Ích, nhờ thế bổ sung được hai trang đầu của tập hồi
ký theo bản dịch này, mà nguyên bản chúng tôi sử dụng bị rách mất. Ngoài ra, ở một số chữ
bị mất, chúng tôi đối chiếu, bổ sung theo bản dịch của GS Ngô Văn Ích (đặt trong dấu ngoặc
vuông, liền sau ghi chú mất chữ) nhằm hạn chế bớt phần khiếm khuyết của nguyên bản.
BẢN DỊCH TẬP HỒI KÝ BIÊN NIÊN “LÝ LỊCH SỰ VỤ” CỦA NGUYỄN ĐỨC XUYÊN (Từ 1780 đến 1803)
LỜI TÂU DÂNG LÝ LỊCH SỰ VỤ
Bề tôi là Nguyễn Đức Xuyên, Khâm sai Chưởng Tượng quân lãnh Tượng
chính Quản lý Thương Bạc sự vụ, rập đầu, cúi đầu trăm lạy, kính cẩn khâm
phụng thượng dụ: “Các quan từ tứ phẩm trở lên ở các xứ đều làm tờ trạng trình
bày sự thật về việc quân, việc nước, liên quan đến lý lịch bản thân. Bản lý lịch
sự vụ này đệ nạp tại Quốc Sử Quán. Khâm thử”.
Vả chăng, thần từ xuất thân đến nay, việc nước, việc quân đều đội ơn (…)
hiềm vì thần là người thất học, khó bề ghi chép hết. Duy chỉ có [văn thư trong
quân] và lời nói là có thể kê cứu, xin ghi theo thứ tự các năm (…..)
Kính run sợ khôn xiết.
Giờ Thìn, ngày 21 Quý Hợi tháng này, nhân ngày thường triều tâu dâng
[tức ngày 21 tháng 6 năm Nhâm Ngọ, 1822].
Tằng tổ [ông cố] của thần tên là Nguyễn Phúc Huân, người làng Dương
Nỗ, tổng Dương Nỗ, huyện Phú Vang, phủ Triệu Phong. Bà tằng tổ là người họ
Trần. Ông tằng tổ vốn có tay nghề, vào làm tại Đồ gia [Nhà Đồ]. Sinh được 3
người con trai. Người thứ nhất là ông nội của thần, tên Nguyễn Phúc Mẫn, bà
nội là người họ Võ. Ông vẫn noi theo nghiệp cũ, vào làm việc tại Đồ gia. Sau
được chuyển làm Huấn đạo tại hai ty thợ: Ty Tài công và Ty Tố tượng. Thần
có nghe truyền lại là ông nội bị mắc lỗi phân suất thiếu tiền công. Việc bị phát
giác, bèn dời gia quyến vào phủ Quy Nhơn sinh sống, sinh được 2 trai 7 gái.
Thân phụ thần là Nguyễn Đức Khương, bà mẹ người họ Đỗ, mới sinh được 2
người con gái. Lúc này gia cảnh sa sút, lại phải di cư một lần nữa, vào ngụ tại
thôn Tân Kiểng, huyện Tân Long, thành Gia Định.
Thần sinh vào ngày 15 tháng 6 năm Kỷ Mão [09/7/1759]… Anh chị em
gồm có 5 người, thần đứng vào hàng thứ hai, nhủ danh là Ất.
Thân phụ của thần là Nguyễn Phúc Đạt (húy Quảng)(1) vào ngày mồng 2
tháng Hai niên hiệu Cảnh Hưng thứ 42 [1781], được Công đồng truyền thăng
chức Tiện nghi Thủ hợp Ty Ngõa Hôi (Khôi) tượng [ty thợ vôi, ngói] tại trấn
Phiên An, tước Khương Đức bá…
Thần ở với quan Khâm sai Chưởng cơ, Quản Trường đà là Lã quận công.
Vì tội hát xướng, lệnh trên đổi thần (…). [Lúc đó] anh của thần làm việc tại Ty
Ngõa tượng [ty thợ ngói]. [Gặp khi] Cai đội Hóa Thành hầu làm xướng bạn đầu
1 Thân phụ của Nguyễn Đức Xuyên có tên húy là Quảng, tự là Đạt, thường gọi là Khương.
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (123) . 2015 – Lý lịch sự vụ của Nguyễn Đức Xuyên 11
mục, tìm bắt các xướng bạn cũ, bèn đưa thần đến trước Tham luận chi Hậu tập
là Nghị Chính hầu dẫn đến bái mạng tại chùa Kim Chương [được cho làm đội
viên đội Hầu điếu, vào năm Canh Tý (1780)].
Canh Tý, Cảnh Hưng năm 41 (1780): Mùa xuân, tháng Giêng.
Vâng lệnh trên (…) phàm mọi việc nếu tâu rỗi ở trước mặt thì gọi là “tấu”,
dâng sớ trát thì gọi là “bẩm”. [Vương] đóng đô tại Gia Định, sinh vương tử.
Lúc đó, nước Cao Miên có nội loạn cầu cứu, vua sai Cai cơ Trừng Thanh
hầu [Dương Công Trừng], Cai cơ trấn Quảng Nam là Lân Ngọc hầu đem quân
ứng cứu, dẹp tan, và dâng sớ báo tin thắng trận, lập con vua nước Cao Miên làm
vua. Quân cứu viện ca khúc khải hoàn trở về. Lúc đó ở Trà Vinh [có loạn] càn
rỡ cướp bóc dân chúng ở ven cõi. Vua sai quan Ngoại tả Chưởng dinh Phương
quận công [Đỗ Thành Nhơn] đánh dẹp tan.
(Đoạn trên đây trích theo bản dịch “Lý lịch của Xuyên
quận công Nguyễn Đức Xuyên” của GS Ngô Văn Ích,
bản đánh máy, chưa xuất bản).
Tân Sửu, Cảnh Hưng năm 42 (1781): Mùa xuân, tháng Ba.
Ngoại tả Chưởng dinh Phương(1) chết. Trước là Phương nắm hết binh
quyền, bề ngoài rêu rao là quân thần, bên trong lại ôm lòng làm loạn. Việc phát
lộ bị bắt giết. [Vua sai bọn chúng tôi thuộc đội Nội hầu bắt giết].
Lúc đó, Chưởng cơ Thiêm Đức hầu [Tống Phước Thiêm],(2) Cai cơ Trừng
1 Tức là Đỗ Thanh Nhơn, người huyện Hương Trà, nay thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế, ban đầu đi
lính ở Huế, rồi giữ chức Đội trưởng Hữu thuyền. Khi chúa Nguyễn Phúc Thuần chạy vào Nam,
Nhơn theo hầu trong quân. Chúa sai chiêu mộ các đạo nghĩa binh, rồi kéo đến Ba Giồng hợp
quân với Nguyễn Huỳnh Đức. Nhơn lại kêu gọi được Trần Búa, Đỗ Vàng, Đỗ Kỵ, Đỗ Bảng, Võ
Nhàn chia đi tuyển mộ các nơi, tất cả được 3.000 quân, lấy Ba Giồng làm căn cứ để tụ nghĩa.
Nhơn tự xưng là Đông Sơn Thượng tướng quân, cho dựng cờ, may mũ áo, tiến quân đánh úp
quân Tây Sơn của Nguyễn Lữ thắng luôn mấy trận, khiến Lữ phải rút chạy về Quy Nhơn. Đỗ
Thanh Nhơn lấy lại được Gia Định, liền đón Định Vương Nguyễn Phúc Thuần trở về. Chúa
thưởng công, phong Đỗ Thanh Nhơn làm Ngoại tả Chưởng dinh, tước Phương quận công.
Tướng sĩ Đông Sơn đều được ban thưởng.Đầu năm 1776, Định Vương nhường ngôi cho Đông cung Dương, hiệu là Tân Chính Vương.
Sau đó quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy tiến vào đánh, Tân Chính Vương thất trận phải
tự sát. Định Vương chạy về Long Xuyên, cũng bị quân Tây Sơn truy đuổi bắt giết. Sau khi
Nguyễn Huệ rút quân về, quân của Nguyễn Ánh chiếm lại Sài Gòn. Đỗ Thanh Nhơn và các
tướng tôn Nguyễn Ánh làm Đại nguyên súy nắm giữ quốc chính. Tháng Giêng năm 1780, lại
tôn Nguyễn Ánh lên ngôi vương. Xét công phò tá, Đỗ Thanh Nhơn được thăng chức Ngoại hữu
Phụ chính Thượng tướng quân. Nhưng do kiêu ngạo, ngang tàng, lộng quyền nên cận thần
khuyên Nguyễn vương trừ khử. Nguyễn vương lấy cớ mệt, cho gọi Đỗ Thanh Nhơn vào bàn
công việc, để vệ sĩ mai phục bắt giết. Lúc đó là tháng Ba năm Tân Sửu (1781).2 Tiên tổ của Tống Phước Thiêm quê ở huyện Tống Sơn, Thanh Hóa, từng là nghĩa dũng theo
Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa. Ông làm quan, theo chúa Nguyễn Phúc Thuần vào Gia Định,
giữ chức Chưởng cơ chỉ huy thủy binh. Nguyễn vương lên ngôi, ông kiêm chức Nội tả. Năm
1782, quân Tây Sơn lại vào đánh, ông chỉ huy thủy binh giữ đồn Cá Trê chống cự nhưng thất
trận. Nguyễn vương đi Ba Giồng, ông lùi lại sau, bị quân Đông Sơn giết chết.
Thanh hầu [Dương Công Trừng],(1) Cai cơ Thụy Ngọc hầu [Nguyên Hữu Thụy](2)
xin đi đánh giặc Tây Sơn.
Tháng Năm, quân Đông Sơn nghe tin Phương bị giết, đã làm phản chiếm
đất Ba Giồng. Vương sai Nội tả Chưởng dinh Thuyên quận công [Nguyễn Đình
Thuyên] và Tống Phước Lương đánh ở sông Lương Phúc bị thua. Phước Thiện
hầu [Tống Văn Phước] là con của Thống suất Khôi đem binh tiến đánh. Quân
Đông Sơn tập kích, Phước Thiện hầu tử trận.
Nhâm Dần, Cảnh Hưng năm 43 (1782): Mùa xuân, Vương sai Cai cơ
Thụy Ngọc hầu, Cai cơ Trừng Thanh hầu điều binh ứng viện giúp Nặc Ấn đánh
Xiêm La.
Tây Sơn sai tướng là ngụy Phò mã Đa [Phò mã Trương Văn Đa] đem thủy
binh vào cướp. Vương sai Cai cơ Thiêm Đức hầu đưa thủy binh đóng ở sông
Ngã Bảy. Thuyền giặc vào cửa Cần Giờ. Vương sai thần [Nguyễn Đức Xuyên]
và Thoại Trung bá đều ngồi ghe nhanh nhẹ, chèo tới đó. [Mất 20 chữ]. Quân
địch chiếm Sài Gòn. Lúc đó Vương được cấm binh [đội] Hầu điếu hơn 100 người,
có Thống binh Cai cơ Quý Ngọc hầu [Nguyễn Văn Quý] [mất 7 chữ], Hữu chi
Khuông [có thể là Tống Phước Khuông] cùng lính Bắc Hà chống đánh tại đồng
Long Mạt. Hữu chi Khuông chém được ngụy Đốc chiến Học. Quân Hầu điếu cấm
binh cùng lúc nhất tề xông lên tiếp đánh, binh giặc cả vỡ, trốn tới xứ Cầu Già.
Lúc đó có Cai cơ Trừng Thanh hầu đem lính Cao Miên theo đường bộ giồng Ba
Thắc [mất 5 chữ].
Kính được Vương thượng ban thưởng quân cấm binh Hầu điếu (sau về Sài
Gòn bèn cấp chỉ truyền) chức quan, Tả chi Tiền, Hữu chi Khuông, Hòa Nghĩa
[mất 7 chữ] còn lính Cao Miên cũng được ban rượu thịt. Vương sai chém ngụy
Đốc chiến Định. Lúc đó, chư tướng nghe tin, dần dần tụ tập lại. Rồi ngự giá đi
tới đồn Ngã Tư, sai Cai cơ Tào Đức hầu đem truyền văn tới hai xứ Cái Lau, Bến
Than, truyền cho Tiếp quận công [Chu Văn Tiếp](3) hẹn kỳ giáp công giặc Tây
Sơn. Bất ngờ, quân đi tuần của giặc bắt được truyền văn, bèn tấn công trước.
Tiếp quận công bị thua. Sau đó quân giặc đánh đại đồn Ngã Tư, từ giờ Mão đến
giờ Ngọ. Nội thủy Cai cơ Quý Ngọc hầu tử trận. Lúc đó, mưa to gió lớn. Binh
tướng nhờ mưa mờ mịt nên trốn thoát được. Thần cũng thoát nạn, không biết
ngự giá đi đâu, nên trốn về Sài Gòn, mới nghe tin ngự giá đi xuống đạo Kiên
Giang. Thần nói ngầm với ngụy Đốc chiến Diễn cùng đi Ba Giồng bái kiến. Tả
thủy Dung quận công [Lê Văn Quân](1) liền sai Đốc chiến Diễn lãnh quân ban
đêm tấn công đồn giặc tại cầu Lão Bỉnh. Dung quận công cũng có tờ sai Đốc
chiến Diễn làm Thống binh Cai cơ, và sai thần đi Sài Gòn do thám.
1 Dương Công Trừng quê ở Long Xuyên, khỏe mạnh hơn người, giữ chức Cai cơ tước Trừng
Thanh hầu, sau thăng lên Khâm sai Điều khiển. Năm 1783 thất trận, bị tướng Tây Sơn là
Phạm Văn Tham bắt giết.2 Nguyễn Hữu Thụy quê ở huyện Tống Sơn, Thanh Hóa. Cha làm chức Cai đội, ông cùng cha và
em theo chúa Nguyễn Phúc Thuần vào Nam, làm quan Cai cơ, coi thủy binh ở Gia Định, sau
thăng đến Chưởng cơ Giám quân, được gả công chúa. Năm 1782, quân Tây Sơn vào đánh,
Nguyễn vương lui quân về đồn Ngã Tư, thất trận, ông cùng Trần Xuân Thạch sang Chân Lạp
để đi Xiêm cầu viện, bị người Chân Lạp ngầm giúp Tây Sơn giết chết.3 Chu Văn Tiếp: Tổ tiên quê huyện Phù Mỹ, Bình Định, vào ở huyện Đồng Xuân, Phú Yên.
Trước Tiếp đi buôn, quen biết với Nguyễn Nhạc. Ban đầu theo Nhạc, sau quy thuận. Khi
Nguyễn vương lên ngôi, được bổ làm Đô đốc Chưởng cơ. Năm 1782, Tây Sơn vào đánh, vua
phải chạy ra đảo Phú Quốc, Tiếp đem quân vào cứu viện, cờ đề 4 chữ “Lương Sơn tá quốc”,
đánh tan quân của tướng Tây Sơn là Đỗ Nhàn Trập, lấy lại Sài Gòn, đón vua trở về. Vua thăng
Tiếp làm Ngoại tả Chưởng dinh. Năm 1783, Nguyễn Huệ dẫn quân vào đánh, quân Nguyễn
vương thất trận, Tiếp sang Xiêm cầu viện. Năm 1784, Tiếp và quan quân Nguyễn vương theo
quân Xiêm trở về, Tiếp làm Bình Tây Đại đô đốc, tiến quân đến Trấn Giang. Khi đánh quân
Tây Sơn ở sông Mân Thít, Tiếp bị thương rồi chết.
Mùa thu, tháng Tám, ngày 25, đội ơn được truy thưởng chiến công đồng
Long Mạt, được ban tước hầu, theo dẹp giặc. Được ban đặc sai là: “Thuộc nội
Hầu điếu đội Đội trưởng Xuyên Tài bá Nguyễn Đức Xuyên từ khi theo việc
quân, đã có ít công lao, đáng thăng làm nội đội Đội trưởng tòng quân Xuyên
Đức hầu, phải chỉnh bị chiến cụ để hầu việc quân…” [mất mấy chữ] Vương sai
quân đóng ở phủ Bình Thuận để ngăn giặc Tây Sơn. Lúc đó Tây Sơn sai tướng
là Phò mã Đa cử bộ binh xâm phạm. Chưởng dinh Dung quận công cầm binh
ứng địch, rồi trở về.
Quý Mão, Cảnh Hưng năm 44 (1783): Mùa xuân, tháng Giêng, ngày
mồng 7, Vương sai Mân quận công [Tôn Thất Mân] cất binh dẹp giặc [mất 8
chữ]. Tiếp quận công kết bè để làm hỏa công. Bất ngờ, gió đông bắc thổi mạnh,
bè lửa trở lại đốt thuyền quân ta. Binh đều vỡ chạy. Giặc thừa thắng áp tới.
Mân quận công chạy lui rơi xuống nước chết. Quân của Trừng Thanh hầu trốn
chạy về đường Đồng Cháy. Thu Tài bá thu lượm một bao bạc phiến cùng hộ vệ
nội phủ [gia đình của vua], trở về giao cho Mẫn Chính hầu [Nguyễn Văn Mẫn]
hộ vệ. Thần và Ngũ trưởng Năng, Thu Tài bá theo đường bộ rút lui. Thần tâu
phải bảo toàn nội phủ. Đến nửa canh hai, nội phủ đã hoàn toàn về tới hành
tại. Vương ngồi ghe Tiểu sai [mất 9 chữ] đi ghe chài cùng với Dung quận công,
Hội lý Hầu [Tôn Thất Hội], thần và Ngũ trưởng Năng cùng chèo nhanh, tới cầu
Lão Bỉnh lại gặp [mất 9 chữ] [một chiếc ghe Sai của quân Đông Sơn]. Ngự giá
ngồi ghe đó, chư tướng hỗ tòng về tới đạo Kiên Giang, tìm đổi ghe lớn vượt biển
ra đậu ở cửa sông đảo Phú Quốc [mất 9 chữ]. Cai cơ Lượng Trực hầu theo Tiếp
quận công ngày hôm trước thất lợi đã đi thuyền lục tục tới.
Phụng mệnh [mất 5 chữ] quy tập cựu binh theo ở với Tây Sơn để làm
nội ứng. Kế có Cai cơ Tần, Cai cơ Trọng, Cai cơ Quý quản ghe chiến của người
Thanh đến [mất 5 chữ] [báo tin Thống binh Hinh, Thống] binh Thạc tại Hà
Tiên làm phản. Ngự giá đi ghe Ô, Cai cơ Trọng Đức hầu và chư tướng đều ngồi
ghe Loan, ghe Bằng tới trấn Hà Tiên phạt tội, dẹp yên quân phản loạn, theo
ghe thuyền trở về vịnh Đá Chồng đảo Phú Quốc.
1 Lê Văn Quân: người Kiến Hưng, Định Tường, theo Chu Văn Tiếp, được gả em gái. Năm 1777,
Đỗ Thanh Nhơn vâng mật chỉ tuyên dụ tướng sĩ, ông theo về tụ họp nghĩa dũng ở Ba Giồng,
rồi chiến thắng Gia Định. Sau khi Đỗ Thanh Nhơn bị giết, ông giữ Tiền quân. Sau khi Tiếp
chết, ông chỉ huy đại quân. Khi tạm trú tại Xiêm, ông đã giúp đánh thắng quân Miến Điện, lại
giúp đánh thắng quân Đồ Bà. Sau khi lấy lại Gia Định, ông được cử làm Khâm sai Bình Tây
Đô đốc, chỉ huy Tiền quân, tước Dung quận công. Sau trấn giữ Bà Rịa, rồi chỉ huy tiến đánh
Bình Thuận, rồi tiến ra Diên Khánh, khinh địch bị thua trận. Ông xấu hổ, lại đau ốm nên cáo
bịnh. Năm 1791 trở về Gia Định bị đình nghị, vua sai tước hết quan chức, ông uống thuốc độc
tự vận.
Ngụy Phò mã Đa, ngụy Điều khiển Chân nghe tin đem ghe thuyền vây.
Vương sai các ghe bài bố trận thế. Hai mươi bốn người thuộc đội hai của thần
đã cỡi một chiếc ghe Son, Trung thủy Mính Phương hầu cầm lái một chiếc,
cùng lúc chèo tới nghinh địch. Lúc ấy giặc cậy đông, vây đánh. Cai cơ Điển
Lễ hầu [Lê Phước Điển] và quan quân Bắc Hà cùng ngồi ghe chiến của Cai
cơ Tần đều bị đánh chìm. Quân ta thua, lúc đó trời nổi gió bão, mưa lớn, mặt
biển tối tăm, quân hai bên xen lẫn nhau không phân biệt được. Ngự giá và
binh thuyền chư tướng nhân đó được thoát nạn. Ghe của thần và lính trong
đội bị gió trôi dạt 6, 7 ngày mới đến xứ Xích Lam.(1) Không rõ ngự giá đi đâu.
Lúc đó bèn bỏ thuyền lên bộ. Mính Phương hầu trốn lánh tại nhà Cai đội Mão
ở nơi này. Thần và lính trong đội cùng đi bộ về chợ Mụ Rịa, giả làm lính mật
sai của giặc, lấy ghe thuyền vượt về Sài Gòn. Lính tuần của giặc thấy cũng
lầm mà cho đi qua không dám hỏi xét. Cả đội mới được về đến Sài Gòn, mỗi
người trở về quê nhà mình ẩn trốn. Được ít ngày, trong làng xóm có người
biết, sợ rằng điều cấm của giặc không cho che giấu binh triều, nếu che giấu
thì tội liên lụy cả làng xã, nên thần phải đến nhà ngụy Cai bạ Quảng Nam
tên Trí, khai là lính Hổ bôn cũ, xin đầu quân, do ngụy Cai cơ Trương cai quản.
Chưa lâu, thì gặp Cai cơ Chiêu nói ngầm với thần rằng: “Vừa qua, kính lãnh
được mật sai [mất 11 chữ], nay nghe hoàng huynh(2) trốn ở chợ Mụ Rịa(3) xứ
Ba Tháp, chúng ta nên tới đó để phò tá, cũng là tạo thêm một mặt để công
thủ vậy. Thần bèn tìm đến gặp [mất 11 chữ] Thái giám Duyệt Hòa hầu (sau
làm Chưởng Tả quân Bình Tây tướng quân quận công) [Lê Văn Duyệt], Đội
trưởng Khiêm Hòa hầu [Nguyễn Văn Khiêm] (sau làm Đô Thống chế dinh Túc
Trực), Thu Tài bá, Hổ bôn cũ Điền Tài bá [mất 12 chữ], cùng nhau bàn tính
rằng: Nay thì giặc Tây Sơn chiếm đóng Sài Gòn, mà lại ngầm biết [mất 11
chữ] chúng ta há lại hai lòng thờ bọn giặc hay sao. Thần nghe Cai cơ Chiêu
nói hoàng huynh ẩn trốn ở xứ này, không như chúng ta [mất 11 chữ], chúng
ta nên làm tả hữu cho hoàng huynh để lo vượt biển nghinh giá, nếu có thất
cơ mà chết thì cũng cam lòng.
Ngụy Cai bạ Trí sai thần cùng với Cai cơ Dũng [Võ Văn Dũng] (sau làm
ngụy Tư đồ. Chú của Nguyễn Đức Xuyên) đấu côn với nhau để xem. Ngụy Cai bạ
Trí khen thần giỏi côn pháp và hứa sẽ cho lãnh tờ sai đến xứ Mụ Rịa tập họp lập
nên đội Chiến Đăng, Hùng Nghĩa để làm thân binh cho nó. Ít ngày sau thần đến
nhà ngụy Cai đội Lộc xin lãnh tờ sai. Ngụy Trí cho. Đã được tờ sai [mất 5 chữ],
thần đến Cai cơ Quỳnh Ngọc hầu sắm sửa ghe thuyền vượt đến đồn Mô Xoài(4)
về ở với Cai cơ Chiêu, Đốc chiến Phong [mất 5 chữ] bàn nhau thực hiện kế của
hoàng huynh. Thần nói rằng: lập mưu mà không có binh lính để lo liệu, rốt cùng
cũng bị quân giặc đánh bại. Chẳng bằng nhân ngụy Hưng sắp làm lễ duyệt binh,
ta trộm lấy áo quần lính ngụy, sung vào hàng ngũ để giết nó. Anh em bọn tôi
thừa thế, gắng sức ứng theo để nắm trọn số binh đó, mới hữu dụng được.
1 Cũng gọi là Xích Ram (Sông Ray), tên sông và cửa biển, nay thuộc tỉnh Đồng Nai.
2 Hoàng huynh tức Nguyễn Phúc Đồng, con trai thứ hai của Hưng Tổ Nguyễn Phúc Côn, anh
của Nguyễn Phúc Ánh. Về sau được phong Hải Đông quận vương.
3 Cũng gọi là Bà Rịa, nay là tỉnh lỵ của tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.
4 Đồn đóng ở núi Mô Xoài, dinh Trấn Biên, nay thuộc Long Khánh, tỉnh Đồng Nai.
Anh em bọn thần chỉ sợ là tên ngụy Hưng không đích thân làm lễ duyệt
binh, sợ lâu ngày nó có thể biết ra, đại sự không làm được. Bèn nhân thu hồi
bọn lính mới tập luyện, mời trưởng chi, trưởng hiệu đều tề tựu đến sảnh đường
nghe việc. Thần và anh em chúng thần ẩn tránh ở sau sảnh đường, đều rút
kiếm nhảy ra hỏi rằng: “Chúng ta đều tình nguyện đem số quân này lập hoàng
huynh để nghinh đón đại giá. Nay tên nào khứng chịu bỏ Tây Sơn, đem hết
lính của mình theo kế của ta chăng?”. Bọn chúng đều hoảng sợ vâng dạ. Chỉ
có Tiền chi Lân từ chối rằng: “Cần phải trình với ngụy Hưng và phụ thuộc vào
đại binh mới yên”. Thần liệu biết viên ấy từ chối không thuận, bèn bắt trói vào
cột sảnh chém đầu. Bọn chúng đều thất sắc. Bèn thu hết số binh ấy, lập tức
truyền cho các viên trưởng chi, trưởng hiệu, viên nào tình nguyện quy thuận
hãy gấp rút bắt tên ngụy Hưng để làm công đầu. Nếu ai thối lui thì theo lệ như
ngụy Lân. Chúng đều lãnh ý, tranh nhau làm. Chưa được một giờ, đã trói ngụy
Hưng đem đến nạp dưới sảnh. Vì người tùy tòng của ngụy Hưng như Hổ Tài
bá, Điền Tài bá đều là người đồng chí nên tiện hành sự như thế. Thần bèn hỏi
ngụy Hưng về việc quy thuận. Hưng nói rằng: nếu đem quân ông ta quy phục
với hoàng huynh thì cũng chẳng muộn; chỉ sợ tướng ngụy biết được lại càng
đem đại binh đến tàn sát, đó là mối lo về sau. Thần nghe nói thế, sợ làm cho
bọn chúng phân vân, lầm lạc, bèn lớn tiếng quát bắt chém đầu. Rồi thu hết số
binh đó, kể được hơn năm ngàn quân, chiếm cứ đồn và đón hoàng huynh về
đồn, lập làm chủ sự. Ở đó được mười ngày, thần bẩm hoàng huynh cho chuẩn
bị gạo muối đầy đủ, đoạt lấy ghe chài vượt biển nghênh đón đại giá.
Lại có một số bàn rằng nay là lúc gió không thuận, thuyền côi, binh ít.
Không bằng đóng quân ở đây tự làm một mặt để công thủ; chờ nghe Vương sư
khởi binh đánh ngụy, lúc đó chúng nó sẽ hai mặt thọ địch, thì cũng là một cánh
tay của Vương sư vậy. Tranh luận tiến thối chưa xong, chợt có tin báo giặc mật
sai [mất 20 chữ] [22 tên quân “Long Nhương” đi một chiếc ghe Sai truyền lệnh
trở về Quy Nhơn]. Thần bèn giả đón tiếp tử tế, từ từ chờ vào đồn rồi chém đầu,
thu được thư trát.
Khoảng năm ngày [mất 9 chữ], thần một mặt xin dời đồn về chợ Quán
Tranh xứ Mụ Rịa, một mặt sắp đặt trận thế đánh bại ngụy binh [mất 8 chữ].
Ba ngày sau, Đốc chiến Bửu Thuận hầu [Trương Tấn Bửu] đem hơn 500 tên lính
Miên quy thuận. Tướng giặc lại sai quân Hổ bôn đến đánh đồn [mất 7 chữ],
Đội trưởng Khiêm Hòa hầu bị thương. Giặc đông, binh [ta] ít, đánh địch không
xong. Bửu Thuận hầu trước đã vâng lệnh hoàng huynh đến Chùa Hang [mất
12 chữ] đóng đồn ở Gò Dầu Hạ,(1) bốn mặt dò tìm hoàng huynh vẫn chưa nghe
tin tức. Sau hoàng huynh tới nơi [mất 12 chữ], lo liệu cử binh về sau vậy. Bèn
chiếm đồn ấy, trú được hơn 7 ngày, tướng giặc lại tấn công. Duyệt Hòa hầu,
Khiêm Hòa hầu, Ngũ trưởng Vân, Ngũ trưởng Sơn và [mất 12 chữ] hoàn toàn
thoát được, đến trốn ở xứ Bến Cá. Lúc di chuyển, Thu Tài bá, Điền Tài bá [mất
10 chữ] bị địch bắt, tra hỏi hoàng huynh ở đâu và bọn đồng đảng tên gì. Thu
Tài bá đến cuối cùng vẫn không chịu khai [mất 8 chữ].
1 Nay là thị trấn của huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh, trên đầu nguồn sông Vàm Cỏ Đông, cách
biên giới Campuchia 12km, cách thị xã Tây Ninh 37km.
Thần và Huề Tài bá dẫn quân hơn 50 người đến xứ Gò Dầu Thượng tìm
kiếm tin tức hoàng huynh [mất 8 chữ]. Gạo cơm đều hết, duy chỉ đổi áo quần
ra người Miên, không có cơm ăn không biết đã bao ngày, chỉ lấy rau trái, thịt
trâu ăn đỡ đói. Kế đó [mất 6 chữ] theo đường xuống phân thủ Nước Trong,(1)
nhưng đi tới đồn Đồng Môn thì đều tan rã. Thần và Cai đội Thắng đi đến bến
Lão Kéo, gặp một bà lão đi chợ về, xin được bánh khô, mắm tôm, nhưng ăn vào
không hạp mà nôn ra. Bà lão thấy vẻ đói, cho về nhà đem cơm trưa cho ăn, ăn
vào vẫn không hết nôn. Bất ngờ, con trai của bà lão là đầu mục đóng ở Nước
Trong, nhận ra thần là người đã đánh phá lúc nó đóng quân, bèn giận dữ muốn
đánh gãy chân để bắt, bà mẹ không cho. Thần và Cai đội Thắng bèn chạy vào
trong núi. Giờ Dậu lại trốn tới bến Lão Kéo, gặp thuyền buôn, xin theo trở về
quê nhà. Dò ra biết cha của thần đã dời đến nhà lão Đông nơi rạch Mụ Tàng.
Thần bèn trốn đến kể rõ tình hình tòng quân rồi mắc nạn. Cha của thần kể lại
là ông đã biết thần đóng binh ở Mụ Rịa. Lại nói rằng họ thần là Nguyễn Phúc,
thì là con cháu sót lại của cựu triều, giặc nó lại càng tìm bắt, nên cha của thần
đã đổi họ Nguyễn Phúc ra Nguyễn Đức, cùng với dân đi khai nạp sổ bộ, rồi dời
chỗ ở. Lúc đó thần vì không hợp thủy thổ, phát bệnh sốt rét, hơn năm tháng
ẩn trốn, lấy ngày làm đêm.
Giáp Thìn, Cảnh Hưng năm 45 (1784): Mùa hạ, tháng Tư. Chồng của
chị thần tên là Diệm đến thăm cha thần, nói rằng nghe ngự giá đi Xiêm La,
nay đã cầm đại binh thu phục được các xứ Hậu Giang, Ba Thắc, Trà Ôn. Cha
thần bèn khiến lên đường, cấp cho tiền bạc, cơm nước, áo quần, đi theo ghe của
Diệm. Đến chợ Cái Bè gặp Thống binh Diễn Phái hầu, Thống binh Lưu Phương
hầu, Cai cơ Bửu Thiện hầu, cùng dẫn nhau về trú ở nhà Cai cơ Tình Hòa hầu,
bàn nhau đóng giữ đường để nghinh bái đại giá. Thần và Diễn Phái hầu tự ra
bờ sông tìm đường để đi. Bỗng thấy lính ngụy mang gươm cỡi một chiếc ghe
Son vừa chèo nhanh vừa hò. Thần và Diễn Phái hầu cao giọng chửi mắng,
chúng giận quá ghé thuyền vào bờ để bắt. Thần và Diễn Phái hầu rút kiếm ra
nhảy vào ghe, bọn chúng bó tay không kịp, bị chém 14 đứa. Thu được dao kiếm,
cởi lấy áo quần, chôn cất bọn chết, trở về báo cho anh em biết. Sợ rằng việc
tiết lộ, bèn dìm ghe, mua một chiếc ghe khác, thu giấu hết gươm giáo lấy được
ở dưới sạp ghe, anh em 5 người chèo nhanh tới rạch Cái Lau, đến chỗ Ốc nha(2)
1 Địa danh ven sông Nước Trong, một dòng sông ở đông bắc An Bình chảy vào bờ trái Sông Bé
ở gần Phước Hòa, phía bắc huyện Tân Uyên, tỉnh Đồng Nai.
2 Ốc nha: một chức quan của người Chân Lạp.
Phú Trầm đã thấy quân Xiêm và quân ta, mới biết rõ là Thiếu phó Huy quận
công thống lãnh. Chúng thần bèn tới cửa quân bái tỏ. Công ủy Cai đội Bình
Luận hầu dẫn chúng thần đến hành tại. Chúng thần đã nạp giáo gươm, áo quần
lấy được, được dạy rằng: Các ngươi có chí nỗ lực cần vương, đoạt binh, chiếm cứ
xứ Mụ Rịa, rồi gặp việc thất lợi, nay thì tới cửa quân [mất 10 chữ]. Diễn Phái
hầu, Lưu Phương hầu, Tĩnh Hòa hầu được bổ phân [mất 9 chữ]. [Thủy binh
ngụy đóng ngoài cửa Ba Kỳ tiến vào đánh]. Suốt ngày tấn công từ giờ Mùi đến
giờ Dậu. [Mất 8 chữ] [Trong lúc giao công, viên Tả chi Tiền] cũng bị súng bắn
chết. Vương thượng cùng với Dũng quận công [Lê Văn Quân] đích thân nắm đại
binh, ngày đêm [mất 8 chữ], súng lớn nổ sáng rực trời, cả phá ngụy binh, tiến
tới đồn Trà Luật [Trà Lọt] trú đóng. Kế đó thấy Đằng giao Hựu Lộc hầu [Đỗ
Văn Hựu], Đội trưởng Khiêm Hòa hầu, thái giám Duyệt Hòa hầu, đều đến hành
tại lạy mừng. Vương sai Dũng quận công đem thủy binh [mất 8 chữ] [đến dụ
quan Thống binh]. Đông Sơn Triệu Đức hầu đem quân bản bộ đến hầu hành tại.
Vương sai Diễn Phái hầu làm tiền quân đến Bàu Phiêu [mất 7 chữ]. Viện binh
Xiêm kiêu căng, càn rỡ, cướp bóc của cải, hãm hiếp phụ nữ. Một hôm, Vương
thượng đi xem xét các đồn lũy, dân bị quân Xiêm cướp phá khóc than kêu cứu,
Vương vì thế chảy nước mắt, dụ rằng: “Được dân là được nước, nay Tiếp quận
công đã chết, quân Xiêm không ai chế ngự được. Nếu dẫu thu được thành Gia
Định thì cũng mất lòng dân, trẫm cho thu quân. Các khanh nên chuẩn bị chiến
thuyền, khí giới đầy đủ để chờ miếu toán.(1) Khâm thử”. Chẳng tới hai ngày,
quân giặc đem các đạo tiến đánh, phạm tới đại đồn hành tại. Vương đi đường
bộ, chỉ có Đằng giao Hựu Lộc hầu, thái giám Duyệt Hòa hầu, Cai cơ Định Sách
hầu, Khâm sai Cai đội Châu Ngọc hầu, Đội trưởng Khiêm, Ngũ trưởng Vân,
Nghị Tài bá Nguyễn Văn Thành, thần và Tư Tài bá cùng quân tướng khoảng
hơn 500 người kiệu Vương thượng đi bộ một ngày đêm tới miếu Ngã Ba, rạch
Cái Cối thì hết lương ăn. Chư tướng phải xin cơm nhà dân để dâng lên. Hiềm
nhà dân bị bọn giặc cướp phá về làm đồn, chẳng có nhà nào để tới. Thần trông
xa thấy một nơi có khói, bèn đến, thì chỉ thấy một cặp vợ chồng dân quê vào
lấy từ trong hang một nồi nhỏ ra nấu, cơm đang sôi chưa chín. Họ nói: bọn tôi
thấy một kiệu chạy đằng trước, tức là Vương thượng phải không. Thần nói dối
rằng: Không phải. Họ bảo: Quả đúng rồi, huống chi cậu là lính hầu, chẳng cần
phải che giấu. Cậu nên về trước, một lát nữa cơm chín, tôi sẽ đem tới lập tức
để dâng lên Vương thượng. Thần bèn tỏ thực, dặn rằng: Đã biết là chúa thực,
thì chớ khá tiết lộ. Thần sợ đợi cơm chín sẽ tụt lại sau, bèn vội vàng chạy theo.
Hai khắc sau kịp Vương thượng. Kế đó, thấy người dân ấy đem cơm và cá đồng
chạy lại dâng lên. Được hỏi về họ tên. Nhưng ông ta từ xa chạy tới chỉ biết
vâng dạ, ngồi mà thở, không trả lời được vì đã chạy quá nhanh. Thần lấy cơm
ấy rồi đi. Đến canh hai, đem cơm dâng lên Vương thượng ngự thiện. Còn binh
tướng hỗ tòng chỉ ăn chuối nướng thay cơm. Chợt báo có Mỹ Tài bá đi thuyền
vào hầu tại vàm Cần Lố.(2) Vương thượng bèn đi thuyền ấy, đến nơi thấy binh
tướng còn hơn 20 người, bèn vào bến Cần Thơ. Thị Đông đi ghe tới dâng cơm
trưa, xong Vương lại đi ghe [mất 8 chữ]. Tới Rạch Giá lại gặp một chiếc ghe
chiến của Sinh Đức hầu ở Hà Tiên, bèn đòi tới mượn để vượt biển ra đảo Phú
Quốc. Nhân cử Khâm sai Cai đội Châu Ngọc hầu tới trước lên bờ dò thám, rồi
Vương thượng mới đi. Xong đem ghe ấy giao trả lại cho Sinh Đức hầu, và gởi
thư báo cho quốc vương Xiêm La. Khi ngang qua hòn Thổ Châu, lại gặp các ghe
chở nội phủ, cùng lên đảo ấy để tạm trú. Lúc ấy hết lương thực, quan quân thấy
có thuyền buôn Hạ Châu, nhưng khi các đạo quan quân đoạt lấy để cung cấp
lương thực, thuyền buôn đã chống cự lại. Kính được [mất 11 chữ]. Lúc đó sắp
tối, trời lại nổi gió bão, mưa lớn (mất 1 chữ). Viên Tài bá rảnh rỗi chuyện trò,
kể lại rằng: lần thứ nhất thất lợi, phụng Vương thượng [mất 11 chữ] bèn múc
nước biển ấy uống được, việc tâu lên được lệnh cho múc đổ đầy các vò trong ghe,
xong đến khi múc lại thì nước biển mặn lại như cũ. Ấy là một chuyện lạ vậy.
Lại có ngày [mất 11 chữ], cá trắng nhảy vào thuyền, lượm được hai đài [gàu
tay] cho bọn chúng nấu ăn. Đó cũng là một chuyện lạ nữa. Thần bảo từ đó mà
nghiệm ra thì tựa như có mệnh trời. Nhưng hiện nay chưa khá, lại phải sang
nước Xiêm vậy. Bởi vì hai việc ấy, thần đã từng được dụ bảo cùng các vị tòng
vong. Và Tự Tài bá cũng đã từng nói đến lần thứ ba thất lợi, bị khốn tại Cái
Tăm, nhưng nhờ có gió bão, mưa to nên thoát nạn. Cho nên chư tướng đều hay
là có mệnh trời vậy.
1 Miếu toán: mưu tính của nhà vua.
2 Con rạch chảy từ Đồng Tháp hợp lưu với Sông Tiền ở bờ trái, tại làng Nhị Mỹ.
Ất Tỵ, Cảnh Hưng năm 46 (1785): Vương sai Cai cơ Đoài Trạch hầu
[Tô Văn Đoài] ngồi một chiếc ghe Phiêu, thần ngồi một chiếc ghe Điểu sai tiễn
Tiền quân Đốc chiến Hội Lý hầu, Cai cơ Ngoạn Ngọc hầu [Tống Phước Ngoạn]
một thể đến Phú Quốc điều vận lúa gạo. Đến ngày trở về, chợt gặp một chiếc
ghe chiến của bọn người Hoa chèo nhanh đến bến Hòn Đất trấn Hà Tiên, thần
bèn cho ghe áp vào gần ghe ấy rồi nhảy qua rút kiếm chém, chỉ có một tên lặn
xuống nước trốn thoát. Thần thu lấy ghe ấy, mới biết là ghe Xiêm đi công cán,
nên đốt cháy ghe, còn vật hạng thì đem cất ở Hòn Đùn, xứ Cổ Cò. Đến khi
vượt biển đến nước Xiêm, nghe người ấy thoát trở về kêu rằng đã bị binh triều
cướp đoạt, xin cho nhận diện. Thần bèn tâu lên mọi chuyện, được Vương thượng
chiếu cố dụ cho đánh chìm chiếc ghe Sai đã ngồi, và chuẩn ban cho thần trốn
đến trang trại ở xứ Rạch Băng Khương cư trú.
Bính Ngo, Cảnh Hưng năm 47 (1786): Vua nước Xiêm La(1) ngỏ lời
với Vương thượng về việc Diến Điện [nguyên văn viết là Ô Tang] cử binh xâm
phạm bờ cõi, nhờ quân tướng của Vương thượng giúp về thủy chiến. Vương
thượng thuận giúp, sai Dũng quận công và Nguyễn Văn Thành đôn đốc khai
thác cây gỗ nước Xiêm chế tạo 24 chiếc ghe Sai, lãnh đầy đủ súng ống, khí giới,
chuẩn bị quân lương. Vương thượng thân chỉ huy tướng sĩ cùng với vua nước
Xiêm La tiến đánh đồn Diến Điện ở Sài Nặc. Quân do thám của Xiêm La về
báo rằng binh Diến Điện xâm lấn đường khác, vua Xiêm La lại xin trợ chiến.
Vương sai Lưu thủ Khoa Đăng hầu đem binh cự địch, địch không đánh mà rút.
Vua Xiêm La lại báo tin nước Đồ Bà [tức Java] xâm lấn, xin Vương thượng giúp
đánh, Vương thuận giúp, sai Dũng quận công đem binh cùng với Đệ nhị vương
nước Xiêm theo đường biển đánh Đồ Bà. Vượt ra ngoài biển, chiếc ghe vàng của
Đệ nhị vương nước Xiêm mắc cạn, Dũng quận công phải nhảy sang ghe này, đốc
thúc các ghe bản bộ áp đẩy ghe vàng khỏi chỗ mắc cạn, rồi trực chỉ tới nước Đồ
Bà. Dũng quận công chỉ huy quân bản bộ, đích thân ra sức đánh trước, thắng
giặc. Đệ nhị vương trông thấy, khen là bậc tướng trời sinh. Đệ nhị vương nước
Xiêm vui mừng ban thưởng rất hậu, lại ủy cho các ghe Sai đánh giặc được chở
súng ống khí giới thu được, không còn chỗ chứa được.
[Mất 8 chữ] [Anh em Tây Sơn bất hòa] Nhân cơ hội ấy, Vương sai chia
quân lên các ghe Sai nước Xiêm trở về. Thuyền Vương thượng đến đảo Cổ Cốt,
1 Tức vua Rama I, sử Việt gọi là Phật vương, ở ngôi từ 1782-1809. Phật vương phong em là Sô
Si làm Đệ nhị vương, cháu là Ma Lặc làm Đệ tam vương.
Hà tướng quân [Hà Hỉ Văn, người Trung Hoa, theo Bạch Liên giáo, tự xưng
là Thiên Địa hội, cướp bóc ở miền Mân Việt] đem tàu thuyền bản bộ về hàng.
Vương triệu thần vào xá tội, ban cho phục chức cũ, cùng với [mất 7 chữ] Đội
trưởng Khiêm Hòa hầu, Đội trưởng Trung Nghĩa hầu, Ngũ trưởng Hiến Tài bá
được lãnh lương thực khí giới đem quan viên đi ghe chiến vượt biển ra Côn Lôn,
nơi tàu của Hà tướng quân đậu để tuyên đức ý, chấp thuận cho quy hàng. Rồi
cùng vượt biển trở về quân thứ ở cảng trấn Hà Tiên.
Nguyễn Văn Thành vì hết lương thực, ủy thần đi trước vào trấn Hà Tiên
dò thám hư thực. Ngụy Cai cơ Lượng chia quân đóng giữ. Thần liền bắt hết, thu
khí giới rồi trở về. Nguyễn Văn Thành cho [giặc] Tàu Ô đều vào cảng Hà Tiên,
lên bờ, xem xét thành, rồi gởi văn thơ nhờ lương thực của người Hoa. Bất ngờ
bọn chúng tập họp bên ngoài dẫn quân chống cự. Lúc đó thần ở dưới tàu thấy
thế tức thời chỉnh đốn tàu, bắn súng tiếp viện. Nguyễn Văn Thành và Hà tướng
quân ở bên trong thành Hà Tiên đánh giải thoát ra. Đội Hầu điếu tử trận 2
người, quân Tàu Ô tử trận 2 người. Rồi thu binh xuống tàu vượt biển tới Giàng
Khảm. Lại gặp một chiếc ghe người Hoa, trong ghe khoảng 7 người. Thần sai
vượt đến gần chiếc ghe ấy, nhảy qua giết hết. Bọn quan Phi Kỵ Xuyến, Phi Kỵ
Lục của Tàu Ô, gồm 7 người cùng cỡi thuyền tam bản đến giúp. Thần cho thu
hết vật dụng trong ghe ấy để dùng cho Tàu Ô. Lúc đó Nguyễn Văn Thành và
quân Tàu Ô đậu lại ở đây. Còn thần đi ghe Triệu tử trở về hành tại trước. Lại
gặp Vương sư tiến đóng Long Xuyên. Thần lạy tâu lên mọi việc. Kế đó thấy Lưu
thủ Quyền [Nguyễn Văn Trương, Chưởng cơ Tây Sơn, trấn thủ Long Xuyên, sau
làm Khâm sai Chưởng Trung quân Bình Tây Đại tướng quân quận công] dẫn
quân bản bộ ra hàng.
Hai hôm sau có hai chiếc ghe Đồ Bà vào đậu ở bến Long Xuyên. Vương
sai thông ngôn là Khâm sai Cai đội Lành thông dịch với người Đồ Bà để mua
súng ống. Nó không chịu, giương buồm mà đi. Vương sai đại binh truy nã. Lúc
đó thần và Chưởng cơ Vân Long hầu [Nguyễn Đăng Vân], Trung dinh Phước
Lộc hầu [Tống Viết Phước], Cai đội Hiến Chương hầu cùng đi ghe Triệu tử truy
nã. Thần bèn cầm đèn chiến phóng hỏa đốt, một chiếc tàu Đồ Bà chìm, một
chiếc chạy thoát. Binh trở về Long Xuyên chuẩn bị lương hướng tiến đánh cửa
Trà Ôn. Đại binh vây chiếm được đồn Khâm Giám, thu được ghe Sai phân bổ
cho các đạo quân, rồi tiến vào Bãi Ngao, Cửa Đại, Cửa Tiểu, cửa Cần Giờ, cảng
Vũng Tàu, thu được một chiếc tàu Kim Bồng, và một chiếc tàu chở thuốc bắc.
Đêm ấy Vương ban cho [quân trên] tàu Kim Bồng khỏi chết, giả làm trốn thoát
để trở về thuật lại với ngụy Lữ, bí mật nói rằng ngụy Tham [Phạm Văn Tham,
Thái bảo Tây Sơn, trấn thủ Sài Gòn] có ý muốn chiếm Gia Định. Lữ bèn nghi
ngờ Tham, từ đó không chịu tăng viện binh, và cũng không báo chiến công. Hai
bên hiềm khích từ đó.
Vương sai Chưởng cơ Lưu thủ Khoa Đăng hầu đến các xứ Mụ Rịa, Mô
Xoài quy tụ tàn quân. Vương sư tiến đóng Mỹ Lồng.(1) Chưởng cơ Ngữ [có thể là
Nguyễn Đức Ngữ, em ruột Nguyễn Đức Xuyên] dẫn quân bản bộ ra hàng. Vương
bèn sai Chưởng cơ Ngữ dẫn quân đã hàng tiến đánh vào cửa Ba Lai đóng đồn
đánh giặc. Ngụy Ngự úy, Đô đốc Khoa và Đô đốc Cúc chống cự. Dũng quận công
đốc thúc các đạo ghe tiến đánh, quân giặc trốn chạy đến chợ Cai Lậy, bỏ hết
ghe thuyền, quan binh lấy được chiếc ghe của ngụy Ngự úy đến hành tại dâng
nạp. Vua sai giao chiếc ghe ấy cho đội Nhì Hầu điếu. Quân ta tập kích đồn Mỹ
Tho. Ngụy Đô đốc Tham đốc thúc thủy quân chống đánh suốt 4, 5 giờ, quân ta
quả bất địch chúng, Vân Long hầu bị giặc bắt, mắng chửi không thôi, bị ngụy
Tham giết chết.
1 Chợ ở thôn An Đức, vốn là huyện lỵ của huyện Bảo Hựu, phủ Hoằng Trị, tỉnh Vĩnh Long. Nay
thuộc tỉnh Bến Tre.
[Mất 7 chữ] Chưởng cơ Hội Lý hầu, Khâm sai Tiền tượng và viên quân
đội Nhì Hầu điếu cùng đến cửa Ba Thắc. Chợt có gió bão, ghe Mười, ghe Lê,
ghe Chim trôi dạt bị mắc cạn [mất 6 chữ]. Ngày […] thần thấy Quyền Chính
hầu, Hà tướng quân đến hành tại bái yết. Vương sai thần ngồi ghe Lê đến các
xứ Ba Thắc do thám. Thần bắt được ngụy Chưởng Chân đang làm phản chở
hai chiếc ghe lương đi. Thần ủy Cai cơ Tiến bắt giam giữ lại. Cai cơ Tiến lại
thả cho thoát được một chiếc. Sau đó được lệnh tuyên triệu đến chỉ thấy một
chiếc. Thần bèn giải bọn làm phản cùng Cai cơ Tiến về hành tại xin mệnh
trừng phạt. Vương ban chỉ dụ cho ngụy Chưởng Chân, ngụy Chân bèn ủy cho
tướng bản bộ là Cai cơ Chấn dâng biểu xin hàng. Hôm sau Chưởng Chân dẫn
quân bản bộ đến hàng. Vương sai Hội Lý hầu đi trước đến Long Hồ, Sa Đéc quy
tụ binh lính. Lúc đó có Huy quận công, Dũng quận công dâng biểu xin thu tàn
quân trú đóng tại Mỹ Lồng.
Thánh giá lại trở về Bãi Ngao, Đô đốc Diễm bái nghinh. Lại có tin do
thám báo rằng binh ngụy Chưởng Trì xâm phạm đồn Mỹ Lồng. Vương sai
Chưởng Chân, Đô đốc Diễm, Đô đốc Quyền đánh tập hậu, đội Nhì Hầu điếu
và Đội trưởng Khiêm dẫn binh cả phá ngụy binh, giết ngụy Chưởng Trì, thu
được hơn 20 chiếc ghe Sai cũ của ta. Lúc đó ngụy Chưởng Huấn, ngụy Chưởng
Phượng dâng biểu xin hàng. Vương sai thần và thuộc nội Cai cơ Châu Ngọc hầu
cùng đến xứ Bến Long tiếp nhận về hành tại bái kiến.
Vương thượng lại sai thần và Cai đội Phước Lộc hầu, Thuận Tài bá, Chấn
Tài bá, Bạch Tài bá, Thoại Tài bá, Trinh Tài bá cầm lệnh tiễn đến Gò Công
thăm dò Cai cơ Tánh Thiện hầu [Võ Tánh] thu được bao nhiêu binh lính, và
tình hình giặc thế nào trở về báo bẩm. Thần tới Gò Công, dò được tin Tánh
Thiện hầu cất binh đánh ngụy chỉ huy Nghiêm đóng tại chợ Bến Tranh bị ngụy
binh đánh bại. Tánh Thiện hầu lui quân về đóng ở xứ Kỳ Hôm. Thần ngầm
đến nơi ấy gặp. Tánh Thiện hầu ở giữa đường tiếp lãnh chỉ truyền. Trong lúc
tuyên đọc, ngụy binh truy kích, thần và Tánh Thiện hầu đều rút thương chống
cự. Đến chiều mới thu quân. Thần cùng anh em phân tán ở nơi này, tìm quy
tụ tàn binh, cùng Tánh Thiện hầu cả phá đồn ngụy tại chợ Gò Công, giao cho
Tánh Thiện hầu cắt đặt phòng thủ. Ba ngày sau, bọn ngụy Tham, ngụy Hưng
[Nguyễn Văn Hưng, Thái úy Tây Sơn], Chưởng Uyên cất binh 3 đạo tiến đánh.
Binh ít không địch được, Tánh Thiện hầu lại tản quân. Thần liền trở về hành
tại tâu trước mặt Vương thượng. Vương dụ rằng: “Ít không địch được nhiều là
sự thường của binh gia, riêng Tánh Thiện hầu và quân tướng các ngươi không
bị hao tổn, thì đó là thắng lợi vậy. Khâm thử”.
Mậu Thân, Cảnh Hưng năm 49 (1788): Ngụy Tham, ngụy Hưng cử
thủy binh đến phạm hành tại, và cử bộ binh đánh Huy quận công, Dũng quận
công. Hai bên cùng thiệt hại, chưa phân thắng bại. Lại có tin báo là [mất 6 chữ]
[có Chưởng cơ] Nghĩa Lý hầu [Nguyễn Văn Nghĩa], Lưu thủ Khoa Đăng hầu dấy
quân, bọn ngụy sợ mất đường rút lui, liền triệt binh kéo về Sài Gòn chống cự.
Vương sai Huy quận công, Dũng quận công điều các đạo bộ binh đi đường
bộ tiến đánh. Hai bên đánh nhau đối lũy suốt ngày. Lúc đó có người Cao Miên
tên Ốc làm phản, đem quân theo ngụy binh. Vương sư tiến đánh tên Ốc ở tại
Rạch [mất 2 chữ], thu được ghe Sai, thuyền bè không kể hết. Rồi rút về đồn
Nước Xoáy.(1)
Huy quận công xin tăng thuốc súng [mất 6 chữ]. Đến khi đạn dược chở
đến đồn Ngã Ba Chè mới biết được Hội Lý hầu không giữ được đồn Chú Triệu,
mà ngụy Tổng đốc Lý đã chiếm. Lính chở đạn dược vào đồn Ngã Ba Chè trình
nạp. Hôm sau ngụy binh đem toàn bộ tiến đánh. Thần và Cai cơ Nguyễn Văn
Thành dẫn quân cự địch, từ giờ Thìn đến giờ Thân, không phân thắng bại. Có
các viên trước thuộc đội Hầu điếu là Tự Tài bá, Lộc Tài bá, Thành Tài bá đến
hành tại lạy tâu.
Mùa hạ, tháng Tư, ngày mồng 6 thần được nhận đặc sai cùng với Thuận
Tài bá, Chấn Tài bá lãnh mang 100 tờ khống chỉ đóng ấn son đến Gò Công
ban cho Khâm sai Tổng nhung Cai cơ Tánh Thiện hầu, và dò hỏi binh cơ thế
giặc rồi về tâu. Được Vương truyền cho Cai đội Sĩ lấy thuyền chở qua cửa biển
mà đi. Tờ sai rằng: “Nay đặc sai Xuyên Thanh hầu, Thuận Tài bá, Chấn Tài bá
kính đệ 100 tờ khống chỉ đóng dấu son, ngoài có niêm phong ấn son nhỏ, đến
ban cho Khâm sai Tổng nhung Cai cơ Tánh Thiện hầu để tỏ rõ việc ban thưởng
cho tướng sĩ đánh trận, thể hiện đạo thần tử vì nước tận trung. Lại phải thăm
hỏi binh cơ thế giặc, công thủ thế nào, và điều súng, trống, binh khí các hạng,
mau chóng lấy tự tích trở về kính nạp, chuyển lời tâu bẩm. Lần đi này, đường
sá phải nên cẩn thận. Nếu trễ nải, chần chờ lâu thì sẽ có công pháp trừng trị.
Khâm tai đặc sai”.
Thần đến nơi ấy, gặp Tánh Thiện hầu tại xứ Cồn Mông, kính ban chỉ
truyền. Lúc rời đó, ngụy Tham và Tổng đốc Lý cử binh đến đánh. Tánh Thiện
hầu và bọn thần binh ít không đánh được, bèn chia nhau tránh. Thần vượt qua
Cửa Tiểu, lén trở về đến Xóm Lưới ở Cồn Bần, vào nhà Cai đội Sĩ lấy thuyền nhỏ
về hành tại bái tấu. Xong được tin là Chưởng cơ Nghĩa Lý hầu, Lưu thủ Khoa
Đăng hầu ở xứ Lăng Kép đã đánh bại ngụy binh tại Đồng Cháy, Đồng Nai.
Vương thượng sai Cai đội Giáo Thiện hầu kính đem một phong chỉ đến Gò
Công truyền cho Tánh Thiện hầu đem quân bản bộ đến đồn Nước Xoáy cho tiện
giáp binh hai mặt để đánh giặc. Vương sư tiến đến Ba Giồng. Ngụy Đốc chiến
Minh [Lê Văn Minh, Đốc chiến Tây Sơn] đóng quân giữ cầu Lão Ngũ. Vương
sai Chưởng Hậu quân Hội Lý hầu dẫn bộ binh cùng công hãm. Còn Vương dẫn
chư tướng theo đường thủy giáp công, sai dùng đèn lồng sắt [Nguyên văn: thiết
1 Địa danh ở thôn Tân Long, sau đổi là Long Hưng, An Giang. Nay thuộc tỉnh Đồng Tháp.
22 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (123) . 2015 – Lý lịch sự vụ của Nguyễn Đức Xuyên
đăng lung] ném vào đồn, và cử thần dẫn quan quân cả phá đồn này, thảy đều
bắt được. Vương sư tiến đến Sài Gòn, đóng ở chùa Cây Mai,(1) phân cho chư
tướng trấn giữ đường giáp công. Trong khoảng 5, 6 ngày, ngụy Tham tan quân,
trốn ở Ba Thắc. Vương sư thu phục được Gia Định, sai Dũng quận công cầm bộ
binh truy đánh ngụy Tham.
Ngự giá vào Sài Gòn. Sai đốc thúc làm ghe Sai đi biển để chỉnh bị chiến
cụ. Lúc đó thấy sông Bến Nghé nước trong, thần không nhớ mấy ngày.
Kỷ Dậu, Cảnh Hưng năm 50 (1789): Mùa xuân, tháng Giêng, ngày
mồng 1, Dũng quận công đánh ngụy Tham tại Ba Thắc. Quản đội Tiểu sai là
Hựu Lộc hầu, Mẫn Chính hầu tử trận. Quân vây hãm chưa xong, dâng thư cáo
cấp. Vương thân dẫn đại binh, sai chư tướng vây hãm bốn mặt. Ngụy Tham và
ngụy Tham đốc Tú cùng quẫn phải trốn ở Bãi Chèo dâng biểu xin hàng. Vương
thuận cho. Rồi ngụy Tham ngầm âm mưu, việc bại lộ bị giết.
Ngày tháng Sáu, Vương tử [tức Hoàng tử Cảnh] tại nước Tây Dương trở về.
Vương sai quan chọn lấy ngự binh, vệ binh các chi.
Canh Tuất, Cảnh Hưng năm 51 (1790): Tháng Hai, ngày mồng 2 thần
được chỉ truyền phong Cai đội, tước hầu:
“Khâm sai nội đội Đội trưởng Xuyên Thanh hầu, dũng cảm kiêu hùng,
theo phò xe loan ở Vọng Các mấy thu, chẳng nề gian hiểm, phò tá xe mặt trời
trở lại cung son, công lao hãn mã đáng phong làm thuộc nội Cai đội Xuyên
Thanh hầu coi sóc viên quân 6 đội Túc trực trung, theo Trung quân sai bát đánh
giặc. Nếu quân luật không nghiêm, đã có hình pháp. Khâm tai đặc truyền.”
Mùa hạ, tháng Sáu, ngày 27 được nhận chỉ truyền đi tàu Ô đến thẳng đại
đồn Phan Rí phủ Bình Thuận để thăm dò hư thực tình hình quân lính, lương
hướng và tướng hiệu của Khâm sai Bình Tây Chưởng Tiền quân dinh Dũng
quận công, [do] thất thủ đồn Mai Nương, trở về tại đó, bao nhiêu viên thiệt hại,
và xem địa thế đồn thế nào.
“Khâm sai Cai đội Xuyên Thanh hầu quản 6 đội Túc trực trung thuộc nội
hãy đem 5 tên quân, đều cỡi nhanh tàu Ô đến thẳng phủ Bình Thuận, tới đại
đồn Phan Rí thăm hỏi Khâm sai Bình Tây Đô đốc Chưởng Tiền quân dinh
Dũng quận công, binh lính hiện tại trong đồn bao nhiêu, lương hướng chi cấp
được trong mấy ngày. Lại như tướng hiệu thất thủ đồn Mai Nương rút lui trở về
Phan Rí bao nhiêu viên, thiệt hại bao nhiêu, và bị ốm đau, bị thương bao nhiêu
tên. Lại cần nên hỏi kỹ về quân giặc đóng đồn tại nơi nào, tiến vào đường nào,
hoặc xa hoặc gần, nhất nhất sự việc đều ghi chú minh bạch. Và xem địa thế
đồn ra sao, trở về nhanh bẩm đủ. Lần đi này đường sá cần phải nhanh chóng.
Khâm tai đặc sai”.
Thần kính vâng mệnh, đi tàu Ô nhanh chóng, nội trong 20 ngày trở về
tâu bẩm.
Tân Hợi, Cảnh Hưng năm 52 (1791): Lúa má mất mùa. Vương sai các
đội Túc trực trung, lãnh tiền công mua trâu cày đến xứ Rạch Bàng mở mang
làm ruộng.
1 Chùa xây dựng trên một gò đất trồng nhiều cây mai, nay ở Quận 5, TP Hồ Chí Minh.
Lúc đó Vương sai thần và Cai đội Khiêm Hòa hầu đi hai chiếc ghe Chiến
số 5 và số 6 theo Khâm sai Cai đội Chất Trực hầu chỉ vạch đường biển đến Hòn
Khói thuộc phủ Bình Thuận thu chở thuế dầu, vải; và do thám tình hình giặc
tại phủ đó thế nào. Nội trong một tháng thu được thuế xong, chở về thu nạp.
Nhâm Tý, Cảnh Hưng năm 53 (1792): Ngự giá xem xét quân các dinh
đắp đồn đất Đồng Môn [thuộc dinh Trấn Biên]. Vương đích thân sai quân các
dinh làm 5 hiệu ghe Chiến tại rạch Mụ Nghè.(1) Hơn một tháng làm xong. Sai
mỗi chiếc lãnh lương hướng, binh khí trang bị để thử trọng tải nặng nhẹ, rồi
trương buồm chạy ra biển để xem nhanh chậm. Nhân được thuận gió, chạy
thẳng ra cửa Thi Nại. Kính vâng ngự giá thu được ghe Chiến đi biển ở cửa Thi
Nại không nhớ bao nhiêu chiếc. Ấy là lần đầu tiên [Vương thượng] ngự giá tàu
Thoại. Thần dẫn bản đội cỡi một chiếc tàu Phượng thử vượt đến vũng Mũi Diên,
gặp ghe tuần ngụy đậu trốn ở đó. Thần đi chiếc tàu Phượng nhanh nhẹ nên
đến nơi đó trước, bắn súng hiệu trực chỉ vào ghe tuần ngụy, bọn nó bị thương,
chết, phải bỏ ghe trốn thoát, thần bắt được dẫn đến tâu nạp. Kính vâng Vương
thượng hỏi bọn lính ấy, tâu rằng: thuyền thủy chiến của Tây Sơn đầy đủ ở cảng
Thi Nại, nếu nắm được thời cơ, có thể thừa thắng. Bèn sai các thứ tàu Chiến,
ghe Ô nhanh chóng ra cửa biển Thi Nại phủ Quy Nhơn. Đội nhất Túc trực trung
và viên quân của Trung dinh Quyền Chính hầu cùng ngồi một chiếc tàu Long,
còn viên quân của thần ngồi chiếc tàu Phượng cùng một lần vào trước trong
cảng. Ngụy chỉ huy Tánh đánh thua, trốn chạy, thu được tàu Chiến của ngụy,
không nhớ hết số lượng. Vâng mệnh ban sư, các đạo tàu ghe vượt biển trở về
vũng Mũi Diên.
Từ đó tráng chí bừng lên, các đạo hải khẩu đều muốn cất quân thu lại phủ
Quy Nhơn.
Quý Sửu, Cảnh Hưng năm 54 (1793): Lại sai làm thêm 5 hiệu tàu nữa.
Làm xong phụng mệnh cho chư quân cỡi tàu ấy cùng Vương sư vượt thẳng ra
cửa biển Thi Nại phủ Quy Nhơn. Vương sư vào cảng như vào chỗ không người.
Chỉ có mấy chiếc tàu đi biển mới đóng là [mất 9 chữ]. Quân ta thu được các đồn
từ Cầu Đôi cho tới chợ Cây Na. Vương sai Khâm sai Chưởng Tiền dinh Hội Lý
hầu quản quân binh tiến lên. Lúc đó bộ binh tới nguồn Hà Nghiêu, Hà Nha,
đóng đồn ở xứ Đồng Tre. Quân ngụy chia ra chống đỡ, từ núi Lão Vũ cho đến
núi Cồn Úc. Quân thủy bộ của ta thế chưa thể nối liền. Vương thượng ngự giá
tại xứ Cầu Đôi thấy quân ngụy giữ thế ỷ giốc chống đỡ, bèn sai thần giả làm
nghi vệ Vương thượng, mở đường để thông bộ binh. Thần vâng mệnh cỡi ngự
mã, che tàng ngự, cầm bổn đội và viên quân 10 đội Túc trực trung hỗ tòng, từ
Cầu Đôi mở một đường trực chỉ đến Đồng Tre để tiếp liền với bộ binh. Ngụy
binh tại núi Lão Vũ và núi Cồn Úc từ trên núi cao trông thấy, liền hai mặt bắn
súng xuống. Đạn bay như mưa. Chỉ nhờ mệnh vua ở trong thân, nên tự có âm
phù, thần và quân tùy tùng đều không bị thương tổn.
Hội Lý hầu từ xa trông thấy, ngỡ là ngự giá đến đấy, bèn giữ đường đánh
giết xông tới. Thần bèn xuống ngựa tại Đồng Tre, chắp tay chào, thuật lại cơ
sự, hợp binh đến hành tại trực hầu. Vương sai Hội Lý hầu quản các đạo bộ binh
tiến đánh mặt nam, lấy được từ Kỳ Sơn đến Mang Giang.
1 Còn gọi là rạch Thị Nghè, từ sông Chí Hòa chảy quanh đến phía bắc thành Gia Định, chảy ra
sông Sài Gòn.
Thái giám Duyệt Hòa hầu quản viên quân 10 đội Hầu điếu tiến đánh mặt
đông nam, lấy được núi Cồn Úc. Tiền chi Lượng Tín hầu điều binh hậu ứng
thành hai đạo. Ngụy binh tan vỡ, chạy trốn vào thành Quy Nhơn. Hội Lý hầu
đốc thúc các đạo bộ binh đuổi tới xứ Tháp Cát đóng đồn.
Ngự giá lại đi Kẻ Thử. Sai Duyệt Hòa hầu nắm tiền chi, Đắc Lộc hầu quản
vệ Tuyển Phong tiền, cùng Phước Lộc hầu. Thủy bộ nối nhau, đóng tại Kẻ Thử,
giữ đường mặt nam công phá thành mới của ngụy Nhạc. Lý Văn hầu quản vệ
Túc Võ, thủy bộ nối nhau, đóng ở hai nơi Vũng Rô, Suối Ngọn, giữ đường mặt
bắc công phá đồn núi Lỗ Lúa. Hai đạo giáp công từ giờ Dần tới giờ Mùi, vẫn
chưa hạ được thành mới.
Lúc đó, Quyền Chính hầu ủy thần dẫn 20 người trong đội từ Kẻ Thử men
theo đường ven sông mà tiến lên, thăm dò xem vệ Ban trực hữu và thế giặc tiền
đạo ra sao. Thần đến nơi đóng quân, thấy viên quân vệ ấy kêu khát, bèn sai
bổn quân múc nước giúp cho. Thần thân dẫn binh lên trước, thăm dò binh cơ
thế giặc thấy thành ngụy dựa vào chỗ hiểm Núi Khố, chiếm chỗ cao đặt súng
lớn, đạn bắn như mưa, mà binh thuộc vệ Ban trực hữu thì sợ không dám tiến.
Thần bèn cao giọng nói với quân ngụy tiền du [quân tuần tiễu do thám ở mặt
trước] rằng: “Này Vương sư phía nam chiếm từ Cầu Đôi cho đến Tháp Cát, chủ
các ngươi cùng khốn. Thành này đang bị vây khốn, bất chợt thành sẽ bị hạ. Mà
Đô đốc Đẩu không biết binh pháp, cố thủ thành này là tự chuốc cái chết. Các
ngươi há không nghe súng quân ta đánh đồn sau núi Lỗ Lúa, mặt bắc thành
này cũng thọ địch, tiếng hỏa xa phóng nổ như sấm sao? Một khi đồn ấy thất
thủ, ta là cánh quân mặt nam sẽ đánh vào thành phóng hỏa, thì các ngươi sẽ
cùng với Đô đốc Đẩu bị đốt cháy ra tro. Chẳng bằng các ngươi tránh mũi nhọn
mà rút lui, ta sẽ tha cho sống để thấy cha mẹ.”
Quân giặc nghe nói liền nghỉ không bắn. Thần thấy nó có ý nhường liền
sai về báo cho Quyền Chính hầu tăng thêm 100 quân, cấp tốc gởi tới cùng
quân của Quyền Chính hầu chia đường mà tiến. Thần đích thân dẫn tiền đạo,
từ từ bắn súng lớn, rồi áp vào gần cửa thành hơn 50 bước. Quân giặc nhường
lui, nhưng quân ta vẫn chưa vào thành. Thần bèn vội truyền lệnh la ầm lên
rằng mặt bắc thành đã bị hãm xong, nên nhanh chóng trốn thoát, kẻo một khi
dao kiếm hạ xuống thì chớ trách vô tình. Giặc nghe vậy, liền mở cửa thành
trốn thoát. Thần liền phóng hỏa đốt cháy rào lũy [mất 8 chữ] [xông vào chém
giết]. Thần bắt được một con ngựa chiến, sai quân trong đội cỡi ra cửa bắc phi
về hành tại bái tấu. Số ngụy binh ở bờ thành phía nam dựa lưng sông cũng bị
vệ Ban trực hữu đánh giết, bắt được. Thành bị đạp bằng, thu được súng ống
rất nhiều.
Lúc rời thành, Lý Văn hầu lại đem quân mặt bắc đến. Vâng mệnh Vương
thượng ngự tại Vườn Xoài cho làm lễ hiến phù. Các tên ngụy [Chỉ] huy Thành,
[Chỉ] huy Khoa đều quy hàng. Vương sai các đạo truy kích, quân giặc tan vỡ,
trốn đến Núi Đất. Trời tối, quân ta đóng binh. Vương sai Tánh Thiện hầu cất
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (123) . 2015 – Lý lịch sự vụ của Nguyễn Đức Xuyên 25
binh chiếm cứ đồn tháp Thốc Lốc,(1) công hãm mặt đông bắc thành Quy Nhơn.
Còn Vương thân dẫn các đạo quay lại thu các chiến hạm mà địch mới làm ở xứ
Lễ Dương. Vương sư đến đó lấy được thuyền ghe đi biển mới đóng không biết
bao nhiêu. Ngụy Đô đốc Thành, ngụy Công bộ Quý đều quy hàng. Vương sai các
đạo thủy quân điểm thu số chiến thuyền lấy được chèo về cửa Thi Nại. Rồi ngự
giá theo đường bộ về thành Quy Nhơn, khiến Đô đốc Thành, Công bộ Quý và
các hàng tướng binh lính khác lệ vào các đạo để công hãm thành Quy Nhơn.
Ngụy Nhạc thế cùng, đã cầu viện trước với ngụy Trát [tức Nguyễn Quang
Toản]. Ngụy Trát bèn sai Thái úy Hưng, Tư mã Chấn dẫn đại binh vào cứu. Tin
gián điệp phi báo, Vương sai Đô đốc Diễm Quang hầu, Binh bộ Thận Đức hầu
chống giữ ở đèo Bến Đá. Lúc đó có 6 đạo quân lính của Chưởng Trực thuộc phủ
Hòa Nghĩa về hàng. Tin báo về hành tại, Vương sai số viên quân bái hàng ấy ở
đó lệ thuộc vào quân ngăn địch. Vương nhân thấy gió mùa đã muộn, bọn ngoại
viện quân đông, cơ hội chưa thể được, bèn sai các đạo thủy bộ đem hết số binh
khí lấy được trang bị dưới tàu ghe rồi ban sư, trở về thành Diên Khánh trú
chân, số tàu ghe chiến hạm thì sai vượt biển trở về Gia Định. Hơn tuần trăng
thành Diên Khánh đắp xong. Vương sai Nguyễn Văn Thành trấn giữ. Rồi ngự
giá trở về Gia Định. Viên quân 10 đội Túc trực trung đều lấy ghe gọ đánh cá
hỗ tòng. Canh hai về tới Hòn Nội, Hòn Ngoại, gió bão nổi to. Một số thuyền
gãy bánh lái. Cai đội Trung Nghĩa hầu thuộc đội 8 Túc trực trung bị chìm ghe
chết. Sáng sớm, sóng gió lại yên, liền tu bổ thuyền ghe, rồi gặp gió thuận về
tới Gia Định.
Tháng […] ngày mồng 3 thần được “thăng chức Vệ úy Khâm sai thuộc nội
Cai đội tước hầu quản suất viên quân trong vệ theo Trung quân điều bát đánh
giặc. Khâm thử”.
Vâng mệnh, thần lãnh viên quân các đội gồm 900 người.
Vương sai Tuyển Phong tiền Vệ úy Phước Lộc hầu làm phó tướng. Cai đội
đội 2 Túc trực trung là Khiêm Hòa hầu làm phó tướng.
Vương lại sai Khâm sai Chưởng Hậu quân dinh Tánh Thiện hầu đến
thành Diên Khánh thay cho Chưởng Tiền Phong dinh Nguyễn Văn Thành trở
về Gia Định công cán.
Ngụy Thái úy Hưng, ngụy Thiếu bảo Huấn cử đại binh thủy bộ xâm phạm
thành Diên Khánh. Vì binh ít, địch đông nên Tánh Thiện hầu thu quân vào
thành trấn giữ.
Giáp Dần, Cảnh Hưng năm 55 (1794): Mùa xuân, tháng Ba, phụng ngự
giá thân chinh. Thần quản nội vệ 18 đội ngồi 18 chiếc thuyền Hải đạo, cùng với
Chi trưởng chi Hậu thủy là Minh Quang hầu theo đạo ngự Trung quân, và các
đạo thủy binh tiến ra giải vây thành Diên Khánh. Bọn ngụy Hưng hai mặt thọ
địch, liền triệt binh về Quy Nhơn. Vương sư đi đường thủy thuận gió, liền truy
đuổi tới Phú Yên. Vương sai Chưởng Hậu quân Tánh quận công lên bờ đánh
đồn Chợ Gò. Lính ngụy chạy trốn đến La Hai, Đồng Thị ngăn giữ.
1 Tháp Thốc Lốc, nay thuộc phường Nhơn Thành, thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định.
Ngày hôm sau, Đông cung Nguyên soái quận công [Hoàng tử Cảnh] điều
bộ binh đến phủ Phú Yên, hội quân thủy bộ. Vương sai Tánh quận công thu
binh trở về đi tàu ghe, nhân thuận gió thủy binh của Vương sư tiến đóng ngoài
cửa Thi Nại. Vương sai Khâm sai Chưởng Tiền quân Hội Lý hầu điều quân tiến
đánh, lấy được đồn Đập Đá. Các vệ quân Túc trực và quân Thần Sách cùng với
lính Xiêm lên bộ ở Làng Mai núi Tam Tòa cho đến đồn Ghềnh Hùm cả phá,
ngụy binh phải trốn chạy vào trong cảng Thi Nại. Thủy binh Vương sư trở lui
đậu ở cảng Vũng Lấm. Bất ngờ hôm sau bão lớn dấy lên, tàu thuyền đi biển của
giặc bị chìm và hư hỏng quá nửa. Chiến hạm của Vương sư hoàn toàn không
thiệt hại. Lúc đó quân tướng và mọi người đều khen là Vương thượng biết được
mệnh trời.
Bộ binh của Đông cung Nguyên soái quận công chiếm được Đồng Thị, Phú
Yên. Quân giặc chiếm núi cao làm thế hiểm yếu, nên chưa thể tiến lên được.
Vương bảo rằng mùa thu đã muộn, gió bấc đã về, huống bộ binh đóng ở đây
tất cảm sơn lam chướng khí độc địa nên liền sai các đạo bộ binh ban sư trở về.
Vương thân cầm thủy binh lui quân về tới thành Diên Khánh. Lưu Khâm sai
Chưởng Hậu quân Tánh quận công đóng giữ. Còn ngự giá về thành Gia Định.
Mùa đông, tháng Mười, quân Tây Sơn vào cướp thành Diên Khánh. Tánh
quận công vì binh ít, vào thành đóng giữ.
Ất Mão, Cảnh Hưng năm 56 (1795): Mùa xuân, tháng Ba, Vương sai
Khâm sai Chưởng Tiền quân Hội Lý hầu chỉ huy các đạo bộ binh theo đường
bộ đi trước ra giải vây thành Diên Khánh. Thần quản nội vệ, chia ngồi một
chiếc ghe Loan và 5 chiếc ghe Sai theo ngự đạo Trung quân tiến quân ra vũng
Cà Ná phủ Bình Thuận.
Vệ Tuyển Phong tiền giết được Đô đốc Sĩ, thủy binh giặc trốn chạy. Hôm
sau, Vương sư tiến đến cảng khẩu thành Diên Khánh. Thần được sai đem viên
quân nội vệ đóng đồn ở dưới chân Núi Khố. Còn các vệ, chi khác đóng đồn từ
Núi Bông cho tới Trường Cá. Một mặt [mất 7 chữ] Vương sai thần đốc thúc nội
vệ và các vệ ở hai đồn Xương Cá, Trường Cá tạo thêm áp lũy để công hãm. Phó
Vệ úy bổn vệ là [mất 7 chữ] thần tâu lên, được Vương sai Chỉ huy Khoa làm
phó Vệ úy. Lúc đó có quân ngụy đi tuần ở đồn Xương Cá là lính Nho [mất 7 chữ]
[và 6 lính khác đến hàng]. Vương ngự đến xứ Đồng Đế. Sai Vệ úy vệ Diệu Võ
là Duyệt Hòa hầu đóng đồn ở trên núi Lão Lánh. Thần [mất 7 chữ] theo ven bờ
sông đối lũy với đồn ngụy Đô đốc Phong [Lê Danh Phong]. Chưởng Trung quân
dinh giám quân Quyền Chính hầu cất binh [mất 8 chữ]. Vương thượng sai thần
dẫn quân ngầm giúp nhổ hết các cọc gỗ của giặc chặn nơi sông lạch. Phàm ban
đêm thường cỡi ghe Sai, đi thẳng đến [mất 5 chữ] bắn súng giả làm thế tấn
công đồn. Như thế mất 5, 6 đêm. Ngụy Phong đóng binh cho là hư thế, không
phòng bị. Thần lại chia cho các thuyền Hải đạo, trên đặt sàn ván có cấm binh
bắn súng, dưới thì thủy quân chèo nhanh. Một khi đột nhập vào đồn giặc ở Lò
Gốm, quân giặc chỉ bó tay trốn chạy. Lại sai Minh Phương hầu thu quân đóng
ở đó, phá tan lũy đất tạm giữ. Còn tiền chi Đắc Lộc hầu, Dương Võ vệ Minh
Quang hầu cùng với Hùng Oai vệ họp binh công hãm đồn ngụy Phong, nhưng
vẫn chưa hạ được đồn.
Duyệt Hòa hầu ủy Cai đội Tam Tài hầu đến nói với thần lấy 3 vệ, chi họp
binh công hãm thế mà đồn ấy vẫn không hạ được; chi bằng lấy 3 đội lính Diệu
Võ qua sông đánh ở mặt sau, và lính Hùng Võ ngồi 5 chiếc ghe Sai, đột nhập
vào mặt trước đồn mà đào bờ lũy, thì đồn ấy bốn mặt thọ địch, tất sẽ hạ được.
Thần bảo Tam Tài hầu rằng: Như thế thì địch sẽ thua nặng. Chỉ ngại chưa
được mệnh, nếu thắng thì sẽ được tưởng thưởng đặc biệt, còn đánh mà không
hạ được đồn, làm thiệt hại bổn binh, thì lại là đem quân mình nắm giữ đẩy vào
chỗ chết, Vương thượng lại càng gia tội. Binh mình đều chết, thì chẳng biết
làm sao. Phải cùng trình lên vậy. Tôi cũng muốn đánh từ lâu rồi, hiềm ngại
điều ấy mà thôi.
Tam Tài hầu liền về trình lại, Duyệt Hòa hầu lại ủy đến bảo thần lời
nói ấy rất tốt. Bèn một mặt sai người nhanh chóng tâu lên, một mặt đốc thúc
xung phong công hãm, nếu Vương thượng có gia tội thì xin chịu. Thần liền sai
Cai đội Tại Lộc hầu, Phó đội Lễ Nghĩa hầu và 30 lính cỡi ghe Sai nhảy xuống
nước đào phá góc đồn giáp bờ sông của ngụy Phong. Duyệt Hòa hầu đốc thúc 3
đội thuộc bổn vệ dùng ghe tam bản qua sông đánh bên cánh mặt sau. Khoảng
hai giờ đã đào sụp một góc đồn, tức thì dùng dao ngắn nhảy vào đồn. Lính của
ngụy Phong thấy đồn đã bị sụp, liền vỡ tan, ta bắt được rất nhiều. Riêng ngụy
Phong trốn thoát.
Tin thắng trận báo về hành tại, Vương ngự giá đến xem. Duyệt Hòa hầu
và thần cùng đến trước lạy tâu đầy đủ, xin chờ tội. Được Vương thượng dụ rằng
“lâm trận mà thắng địch thì tội cũng được tha. Khâm thử”.
Vương sai vệ Ban trực, vệ Tuyển Phong tiền, vệ Tuyển Phong tả đóng ở
hai bên bờ sông đồn ấy. Đêm đó, tướng giặc đem cả binh, voi đến chiếm lại, bị
các đồn dùng súng lớn bắn ra, lính ngụy không dám đến gần.
Hôm sau, chúng lại cử đại binh đánh nữa. Tín Nhiệm hầu, Vị Thành hầu,
Vệ úy Trường Miên hầu họp binh chống lại, giữ vững đồn ấy. Vương sai thần
quản Nội vệ và Nội trực, Túc trực các đội cùng với Tín Nhiệm hầu phụ giúp
phòng thủ. Hai vệ Long Võ, Hổ Oai đóng đồn tại Lò Gốm. Lại sai Vệ úy vệ
Tuyển Phong tả là Lý Văn hầu giúp phòng thủ với vệ Long Võ, vệ Hổ Oai. Các
đội Túc trực, Nội trực thì chọn người xung phong, khí giới đầy đủ đi theo tên
Nho, dẫn theo hàng binh, đánh vào đồn, cả phá, ngụy binh bỏ đồn vỡ tan. Tin
thắng trận tâu lên. Vương sai bộ binh của Hội Lý hầu tiến lên đóng ở Quán Lạp.
Kể từ khi tên Nho ra hàng, đến nay chỉ mới tuần nhật đã đại thắng. Ấy
thực là nhờ phúc của xã tắc.
Vương sai truy kích, ngụy binh rút chạy. Liền lập tức chỉnh đốn tàu ghe.
Sai thần quản viên quân Nội vệ cùng với quân vệ Long Võ, theo quân Tuyển
Phong đóng giữ 3 đồn, hợp với Tả chi Lân Ngọc hầu liên binh chống giữ. Quân
ngụy vây đánh 3 đồn này. Viên quân của vệ thần hết sức chống trả. Nhưng quân
địch lấy số đông vây áp suốt 3 ngày đêm. Cả 3 đồn thuốc đạn, gạo cơm đều hết.
Vương sai các đội Túc trực vận chuyển đạn dược, lương thực tiếp viện. Ngụy binh
lại đem cả binh voi, súng hỏa xa tấn công vây hãm đồn sau của quân Tuyển
28 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (123) . 2015 – Lý lịch sự vụ của Nguyễn Đức Xuyên
Phong và Kiên Oai. Trong đồn dùng súng lớn bắn ra, quân ngụy sợ không dám
tiến gần. Chúng bèn rút, không vây nữa, ngầm trốn ở đèo Cung Quăng.
Tin gián điệp báo về, thần liền sai Cai đội Nghị Hòa hầu, Phó đội [mất 3
chữ] đều thuộc đội Nhất, đem 20 lính và súng ống mai phục. Khi quân ngụy đi
ngang qua, phục binh phát súng hiệu bắn liền, bắt được quân ngụy và 1 quả ấn
đồng, giấy đóng dấu son hơn trăm tờ. Bọn chúng không dám trốn qua đường
ấy nữa, mà họp với đại binh mở đường máu về hướng núi Nhà Cắp mà trốn.
Vương sai Tiền chi Đắc Lộc hầu chận đón truy kích, nhưng bị súng giặc
bắn chết. Lại sai thần quản Nội vệ hợp với Tiền chi Lượng Tín hầu truy kích
đến núi Cục Kịch.(1) Bọn giặc mở đường máu qua đèo Nhà Cắp trốn về thành
Quy Nhơn. Thần được mệnh triệu về hành tại ở Bãi Thau chờ lệnh. Vương
thượng dụ chư tướng rằng mùa gió đã muộn, nếu truy kích thì thủy bộ chưa thể
nối liền, nên sai tướng sĩ các đạo chỉnh đốn ban sư.
Ngự giá trở về thành Diên Khánh. Sai quản Tiên Phong dinh Nguyễn Văn
Thành trấn giữ, rồi ngự giá trở về thành Gia Định.
Bính Thìn, Cảnh Hưng năm 57 (1796): Vua nước Xiêm La sai sứ chầu
mừng. Lúc đó các viên trấn thủ trấn Hà Tiên và 2 đạo Kiên Giang, Long Xuyên
dâng biểu cáo cấp rằng bọn hải phỉ Đồ Bà đi 17 chiếc tàu vào cướp bóc dân đảo
Phú Quốc, Hòn Tre và Hòn Rái.
Mùa thu, tháng Tám, ngày mồng 2, vâng chỉ sai thần quản Ban trực tả,
Ban trực hữu, Ban trực hậu, Tuyển Phong tiền, Tuyển Phong hậu, Long Võ, Hổ
Oai, và Tả quân dinh Thần Võ, cộng 10 vệ, mỗi vệ viên quân 20 người, cộng 200
người, lãnh súng ống, lương hướng các hạng đầy đủ, chia nhau đi 10 chiếc ghe
Sai, hộ tống sứ thần Xiêm La về nước. Hễ khi tới xứ Chân Bôn thì để sứ thần
về nước. Xong việc hộ tống, thần còn đích thân quản viên quân các vệ cỡi ghe
Sai tuần du trong ngoài biển để tiễu trừ bọn hải phỉ Đồ Bà:
“Chỉ sai Thần Sách quân Hùng Võ vệ Vệ úy thuộc nội Cai đội Xuyên
Thanh hầu hãy quản Ban trực tả, Ban trực hữu, Ban trực hậu, Tuyển Phong
tiền, Tuyển Phong hậu, Tuyển Phong hữu, Long Võ, Hổ Oai và Tả quân dinh
Thần Võ, cộng 10 vệ viên quân, mang theo súng ống khí giới các hạng và lương
hướng đầy đủ, chia đi 10 chiếc ghe Sai, thành một đoàn để hộ tống sứ thần
Xiêm La về nước. Hễ khi tới xứ Chân Bôn thì để sứ thần đi ghe của họ trở về
nước. Còn Xuyên Thanh hầu quản viên quân các vệ ấy ngồi ghe Sai tuần du
trong ngoài biển để tiễu trừ bọn hải phỉ Đồ Bà. Ai bắt được thì được thưởng
công. Nếu quân luật không nghiêm thì có quân pháp. Khâm tai đặc sai”.
Lại còn truyền thêm, nếu thiếu người chèo, thì lấy thêm dân xứ ấy 7 người
để đủ số ghe Sai tăng phái một chiếc một người chèo:
“Nay truyền Cai đội Xuyên Thanh hầu tuân tri: Vả nay có sai quân suất
viên quân các vệ tịnh Sai ghe đẳng chiếc hộ đưa Xiêm La sứ thần hồi quốc.
1 Núi Cục Kịch: núi ở giáp giới giữa Phú Yên và Khánh Hòa, đường núi hiểm trở, gập ghềnh nên
gọi tên thế.
[Mất 8 chữ]. Người chèo ghe ấy đã có 3 người cầm lái, còn thiếu 7 người. Hợp
truyền hễ như Sai ghe tựu xứ thời khá tác [mất 8 chữ], cùng với các Cai đội
lấy ở tại xứ ấy tên nào thuộc việc hải trình cũng đòi thêm nữa cho đủ. Hễ việc
quan rồi thì cho nó phản hồi bổn sở sinh nghiệp. Giá tư công vụ vật khả khể
trì [công vụ này không thể chậm trễ]. Tư truyền” [Nguyên văn Hán Nôm trong
nguyên bản].
Tháng Tám, ngày […] khởi hành. Ngày mồng 7 vâng Công đồng truyền
cho binh dân 2 đạo Long Xuyên, Kiên Giang và 7 chiếc ghe Sai tại đó để tăng
phái cho làm mạnh binh uy. Thảng như liệu bọn Đồ Bà đông hay ít mà liệu lấy
thêm binh dân Long Xuyên, Kiên Giang cũng được, nếu không cần thì cho Vân
Long hầu cỡi 7 chiếc ghe Sai ấy trở về hành tại phụng hầu:
“Nay truyền Hùng Võ Vệ úy thuộc nội Cai đội Xuyên Thanh hầu tuân tri:
Nay có tờ truyền cho Long Xuyên, Kiên Giang nhị đạo, hễ đạo nội Thiện Chính
hầu, Trinh Tường hầu có suất Sai ghe tuần du Đồ Bà bao nhiêu thời đều thính
tòng Xuyên Thanh hầu quản hạt sai bát.
“Hợp truyền Xuyên Thanh hầu khá đòi Thiện Chính hầu, Trinh Tường
hầu các suất đạo nội Sai ghe viên quân thính tòng sai bát dĩ tráng binh uy mà
tuần du hải ngoại, cầm tróc Đồ Bà. Lại như Đồ Bà tiết lợi ghe nó hoặc có tức
nhiều, liệu ghe ta ít, nan cơ thủ thắng thời đã có 7 chiếc Sai ghe Khâm sai Cai
đội Vân Long hầu sở quản tải đệ Xiêm tàu các vật tựu Hà Tiên trấn giao hứa
sự ngật, Xuyên Thanh hầu khá đòi lấy viên quân ấy cùng Sai ghe ấy thính tòng
sai bát. Mà lấy các ghe bổn binh cùng quân Long Xuyên, Kiên Giang nhị đạo,
hoặc quân ngoài hòn mà cấp vào 7 chiếc ghe ấy cho đủ chân chèo. Với nay lại
có nhiều súng khí cùng quân Chấn Uy 7 người sai vào cũng đặt tại ghe ấy dĩ
tiện công thảo. Còn các Sai ghe đạo nội thời để ở lại. Hoặc như nhơn có Đồ Bà
ghe nó tới ít, liệu như bổn binh Sai ghe cùng ghe Long Xuyên, Kiên Giang nhị
đạo vừa đủ việc, đã chẳng lo tăng binh thì cho Vân Long hầu đem 7 chiếc ghe
ấy cùng viên quân đẳng phản hồi hành tại phụng thị. Truyền văn sở đáo, nghi
tức tuân y. Tư truyền” [Nguyên văn Hán Nôm trong nguyên bản].
Cùng ngày trên vâng Công đồng truyền cho Ban trực, Tuyển Phong tiền
vệ viên quân trở về làm công vụ riêng, mà lưu Chấn Oai nhị đội thuộc nội Cai
đội Chấn Oai hầu quản lý cỡi ghe Sai đến nơi nhận súng, chọn quân chia ngồi
ghe Sai làm nhiệm vụ tiễu trừ. Còn viên quân vệ ấy liền cho trở về hành tại
chờ sai phái.
Quân do thần chỉ huy đóng ngoài cảng Kiên Giang. Ngày 13 vâng Công
đồng truyền rằng có Khâm sai Cai cơ là Trinh Tường hầu thuộc đạo Kiên Giang
dâng biểu nói là ông ta đã dẫn quân dân trong đạo tiễu trừ, bọn hải phỉ Đồ Bà
tẩu thoát trên một chiếc tam bản, cần nhanh chóng truy kích:
“Nay truyền Hùng Võ Vệ úy, thuộc nội Cai đội Xuyên Thanh hầu tuân tri:
Do nay Kiên Giang đạo Khâm sai Cai cơ Trinh Tường hầu có biểu văn cụ bẩm
rằng nội ngày mồng 3, ghe Đồ Bà 3 chiếc tựu Hòn Tre, nên đạo nội sai quân
tuần du. Tức ngày mồng 4, giờ Tỵ về báo tin rằng Đồ Bà 3 chiếc tam bản đã
tới cảng khẩu, nên Trinh Tường hầu quản suất đạo nội quân dân đánh cùng
30 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (123) . 2015 – Lý lịch sự vụ của Nguyễn Đức Xuyên
chúng nó, chém đặng 5 đứa. Lại lấy đặng súng cò máy đá 1 khẩu, tam bản 1
chiếc, chìm 1 chiếc, còn 1 chiếc chạy khỏi. Ấy trong biểu văn đại lược thời vậy.
“Hợp truyền Xuyên Thanh hầu tốc nghi chỉnh điểm khí giới, phân sai
viên quân tiến thảo Đồ Bà hải kiếp, vụ tại cầm hoạch, tất hữu thưởng công.
Nhược úy súc đậu lưu hữu can quân chính. Truyền văn sở đáo, tức khắc phụng
hành. Tư truyền” [Nguyên văn Hán Nôm trong nguyên bản].
Trước là tiếp được ghe tuần của Kiên Giang về báo là tàu Đồ Bà đậu tại
vũng Hòn Tre. Phụng tiếp Công đồng truyền tức khắc vâng hành. Thần bèn
thúc Cai cơ Trinh Tường hầu của đạo Kiên Giang, và Cai cơ Thiện Chính hầu
quản đạo Long Xuyên đều đến nghe hiệu lệnh phân binh; và truyền cho viên
quân 10 vệ cùng 2 đạo lấy gỗ để làm sàn trận ở trên các ghe, từ cột buồm lòng
đến cột buồm mũi. Dưới sàn ở hai bên ghe đều lấy sợi lá bàng chế làm mung
xung dùng để tiến đánh. Hạn trong một ngày làm xong, liền cuốn lại thu cất
trong ghe. Tất cả chỉnh đốn quân dung chờ hiệu lệnh khởi hành.
Thần cũng truyền dịch cho sứ thần tạm trú ở đạo Kiên Giang. Rồi thân
cùng viên quân 10 vệ và 2 đạo Kiên Giang, Long Xuyên đều ngồi trên sàn ghe
mới làm, vượt ra khỏi cửa khẩu Kiên Giang, chia sai Thiện Chính hầu quản
viên quân 2 đạo Kiên Giang, Long Xuyên, ngồi trên các ghe Chiến trong đạo
để làm tiền đạo trực chỉ vũng Hòn Tre, quành qua phải ở mặt ngoài vũng chận
bắt; phó Vệ úy vệ Tuyển Phong hậu là Tự Nghĩa hầu quản suất 5 chiếc ghe Sai
để làm hậu đạo trực chỉ bên trái vũng Hòn Tre, chận bắt ở mặt sau vũng. Còn
thần đích thân quản bổn binh và viên quân các vệ ngồi 5 chiếc ghe Sai làm
trung đạo, theo đường giữa vào thẳng vũng Hòn Tre. Ghe nào của mỗi đạo khi
giao phong với tàu Đồ Bà phải lấy đầu rường của ghe sát vào, nếu lấy hai bên
ghe áp gần tàu Đồ Bà, thì bọn Đồ Bà giỏi dùng dao độc đánh bại. Và ghe nào
mà gián đoạn không nối liền, hoặc không cứu ứng nhau để cho bọn Đồ Bà nhờ
thế mà tẩu thoát được một chiếc, thì sẽ y theo quân pháp trừng trị.
Theo lệnh, viên quân 3 đạo trước hết lo nấu cơm, hẹn đợi đêm tấn công.
Phàm ban đêm, mỗi canh ở trung đạo có đèn lồng, từ thấp đưa lên cao tức là
hiệu ngừng chèo tiến vào. Khi ghe các đạo tiến vào thì đối chiếu với tiếng súng
hỏa mai làm hiệu. Còn các ghe tịnh không được giăng đèn đuốc. Đợi đến canh
năm, chờ ghe ở trung đạo đánh xong tiếng trống tan canh, thì các ghe ở các đạo
mới nhất tề tiến công. Nếu ghe nào chậm trễ, xử theo quân pháp.
Ba đạo ghe nghe hiệu lệnh xong thì cùng mở buồm trực chỉ vũng Hòn Tre.
Đến giờ Dậu, xa trông thấy tàu Đồ Bà đậu ở đó, sợ bọn nó thấy nên dừng lại,
đợi ban đêm y theo lệnh truyền tấn công.
Đến canh hai, ở trung đạo ra hiệu đèn thu chèo tiến vào một lần. Hai đạo
tiền hậu vào vị trí. Cả 3 đạo đã tiếp cận nơi tàu Đồ Bà đậu. Đến khi tan canh,
hiệu một tiếng trống ban ra, 3 đạo quân nhất tề xông vào đánh giết. Súng từ 3
đạo ghe bắn ra làm tàu Đồ Bà chìm 1 chiếc. Còn lại đều nhảy xuống nước, chết
đuối hơn nửa. Ta bắt được 80 đứa. Tính từ trên bờ Hòn Tre trở xuống, không
dưới 100 đầu. Lấy được 14 chiếc tàu.
Lúc đó có một chiếc tàu phỉ ở mũi Hòn Tre vượt chạy. Binh của Thiện
Chính hầu đuổi theo. Tàu phỉ chạy tới ngoài biển Long Xuyên thì sóng gió làm
chìm. Thiện Chính hầu thu cánh buồm trở về dâng nạp, thỉnh tội. Thần liền
thu quân trở về đạo Kiên Giang dâng biểu, nhân ủy ghe Sai của Khâm sai Cai
đội Vân Long hầu dẫn theo 14 chiếc tàu bắt được của giặc Đồ Bà, cùng đầu
đảng, súng ống, khí giới dâng nạp.
Thần lại cùng với sứ thần Xiêm La vượt biển đến trấn Hà Tiên, lại gặp
thủy binh Xiêm đang đánh Đồ Bà tới đó. Sứ thần thuật lại cho hay bọn Đồ
Bà đã bị quân ta đánh lấy được tàu, bắt được đầu đảng giải về báo tin thắng
trận xong rồi. Tướng Xiêm mời thần đến nhà Thống binh Hinh tiếp đãi. Tướng
Xiêm nói rằng thần vâng mệnh đã thành công, còn binh Xiêm đến đó toàn
không thu được gì. Thần khiến dịch rằng: Khi thần tấn công thì bọn Đồ Bà có
kẻ trốn thoát ở Hòn Tre, phỏng không dưới 100 đứa. Hiện nay đã ủy cho ghe
tuần lùng bắt, tất nhiên bọn phỉ sẽ chết đói ở đó, không đường sống sót. Tướng
Xiêm nghe lời ấy, xin đi truy nã. Thần bèn ủy một chiếc ghe Sai làm tiền đạo.
Lính Xiêm tới đó lên bờ truy bắt. Bọn dư đảng Đồ Bà lại hợp đảng tử chiến, tẩu
thoát. Quân Xiêm lại rút về trấn Hà Tiên. Tướng Xiêm nói với thần xin lãnh
sứ thần hộ vệ đưa về nước, rồi sẽ dâng biểu tâu đầy đủ.
Tháng Chín, ngày mồng 5, có Công đồng truyền cần nói với sứ thần Xiêm
đình trú tại trấn Hà Tiên nghỉ ngơi, còn thần đích thân dẫn các Sai ghe kiêm
quản binh dân trấn giữ đạo Long Xuyên tiến thẳng ra đảo Phú Quốc truy đánh
để yên hải trình. Việc xong sẽ trở về đưa sứ thần Xiêm cũng không muộn:
“Công đồng truyền Thần Sách quân Hùng Võ vệ Vệ úy thuộc nội Cai đội
Xuyên Thanh hầu tuân tri: nay có biểu văn cụ bẩm rằng tiến thảo Đồ Bà hải
kiếp, thu hoạch tàu cộng là 14 chiếc cụ súng khí các vật, đều đã đổng tường.
Mà nay ngoài hòn Phú Quốc có 4 chiếc tàu lớn, cùng 8 chiếc nhỏ nó còn túc bạc
tại đó. Nếu đợi đưa sứ vào rồi mới trở ra truy thảo chúng nó, sao khỏi chúng
nó thông tin cho nhau rằng có binh triều truy trục ắt là chúng nó vọng phong
thoát tẩu. Sau lại kêu tụ tái lai kiếp lược.
“Hợp truyền nghi phân dữ Xiêm sứ nay đã tới Hà Tiên thời hữu đình bạc
hưu tức tại đó, ngõ đặng trừ đảng Đồ Bà cho tuyệt thời khứ hồi hải trình mới
tiện. Còn Xuyên Thanh hầu tốc nghi quản suất các vệ Sai ghe, kiêm quản Long
Xuyên đạo thủ hạt nội quân dân tựu tiến Phú Quốc truy thảo Đồ Bà, vụ tu cầm
hoạch dĩ hiến lỗ. Công rồi trở lại Hà Tiên hãy đưa Xiêm sứ phản hồi diệc bất
vị vãn. Thảng như Xuyên Thanh hầu cùng các Sai ghe đã đưa Xiêm sứ vào thời
đến hòn Giang Khảm mà thôi, lại gấp trở ra Phú Quốc đón đánh mấy tàu chúng
nó, vật dung tẩu lậu. Như khiếm lương hướng thời truyền cho Kiên Giang đạo
cấp phát quân nhu. Còn như Đồ Bà dư đảng trốn vào Hòn Tre, đã có tờ truyền
cho Kiên Giang đạo thủ Khâm sai Cai cơ Trinh Tường hầu quản suất hạt nội
quân dân tựu tại Hòn Tre bao quát truy tróc chúng nó. Truyền văn đáo nhật,
tức nghi phụng hành. Tư truyền” [Nguyên văn Hán Nôm trong nguyên bản].
Liền đó, thần quản suất nội vệ ra đảo Phú Quốc truy tìm chúng nó ở các
cảng quan yếu, nhưng bọn Đồ Bà đã thông báo cho nhau trốn trước.
Ngày 15, vâng có Công đồng truyền cho nhất thể trở về, kẻo cuối thu đầu
đông, tiết trời gió ngược bất trắc:
“Công đồng truyền Hùng Võ vệ Vệ úy Thần Sách quân Cai đội Xuyên
Thanh hầu tuân tri: Do nay tiếp kiến biểu văn rằng giao sứ cho các quan Xiêm
lãnh hộ vệ Xiêm La sứ thần về nước. Xiêm sứ lại xin xuất lực hãn loát bắt cho
tuyệt Đồ Bà như vậy cũng phải. Hợp truyền Xuyên Thanh hầu quản suất nội
viên quân 10 vệ và Sai ghe cùng lấy mây với trân bì đem về lưu dùng binh vụ,
rồi thời đốc suất bổn binh phản hồi kẻo tiết trời động, hoặc khi có ác phong
mà lại khổ lòng. Truyền văn nhất hạ, nghi tức tuân y. Tư truyền” [Nguyên văn
Hán Nôm trong nguyên bản].
Vâng truyền, thần đã cho viên quân 10 vệ lượm lặt các loại mây và trân
bì cho đến khi ghe Sai đã chở đầy mới lui quân về.
Mùa đông, tháng Mười, ngày mồng 2, vâng được Công đồng truyền phải
nhanh chóng trở về cho khỏi thời tiết ngược gió:
“Công đồng truyền Thần Sách quân Hùng Võ vệ Vệ úy thuộc nội Cai đội
Xuyên Thanh hầu tuân tri: như hộ vệ Xiêm sứ về rồi, hễ lấy mây cùng trân,
dẫu đặng bao nhiêu chẳng luận nhiều ít, vả trời đông tiết hậu trở ngược gió, mà
đừng trì hoãn. Hợp truyền nghi tất suất các vệ viên quân tịnh ghe đẳng chiếc
phản hồi hành tại ứng hầu công vụ. Truyền văn sở đáo, tức nhật phụng hành.
Tư truyền” [Nguyên văn Hán Nôm trong nguyên bản].
Vâng truyền thôi thúc viên quân trở về bái mạng, được Vương thượng dụ
rằng: giữ được toàn quân là xứng sự ủy thác. Thần lạy tạ, tâu rằng: Từ khi có
trấn, đạo dâng biểu về chuyện Đồ Bà cướp bóc dân biên giới, kính vâng chỉ dụ
đình thần tiễu phỉ. Mệnh vua vừa ra, xuất sư tất được. Lúc thần chầu hầu đã có
nghe thế. Sau khi kính vâng mệnh đi bình giặc, thì thần vốn sợ không thắng
được, may nhờ miếu toán nên đã bắt được giặc. Chỉ còn dư phỉ chưa biết báo
phục thế nào. Sau nghe bọn Đồ Bà đã trốn thoát, lượm khoai núi mà ăn, chặt
cây vông làm bè vượt biển trở về nước. Từ đó về sau không dám tái phạm. Vùng
ven biển nước ta yên ổn đến nay, tuyệt không dám trở lại cướp bóc.
Mỗi khi có sứ Xiêm đến chầu mừng, kính được Vương thượng chỉ thần mà
nói với sứ Xiêm rằng: Đây là vị tướng quân đánh Đồ Bà năm xưa. Cho tới nay,
Đồ Bà không dám đến gần bờ cõi. Đường biển mới được tiện lợi vậy. Khâm thử.
Đinh Tỵ, Cảnh Hưng năm 58 (1797): Mùa hạ, tháng Tư, phụng ngự
giá đích thân cầm thủy binh tiến đánh, sai thần quản viên quân nội vệ, đi một
chiếc tàu hiệu chữ Giáp và 5 chiếc ghe Sai theo Trung quân sai bát đánh giặc.
Tháng đó, Vương sư thu phục cảng Thi Nại, Quy Nhơn.
Ngày 29, kính vâng chỉ truyền cấm quan viên nội vệ cướp bóc dân mới
bình định mà phụ lòng mong mỏi của họ. Khâm thử. Mỗi đội được một bản sao
mà răn dạy, đọc cho thuộc:
“Chỉ truyền: Thần Sách quân Hùng Võ vệ quan quân đẳng khâm tri: Vả
nay gặp hội trung hưng, nên ta đại cử, dầu nhẫn [đến] quan quân cũng vậy,
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (123) . 2015 – Lý lịch sự vụ của Nguyễn Đức Xuyên 33
đồng tâm tru lực tiễu trừ Tây tặc cho yên, ngõ đặng đều hưởng thái bình chi
phước. Lý thời quan sở quản cấm tập [ngăn cấm] cho nghiêm mới gọi rằng
nhân nghĩa chi binh. Song nay mới vào Thi Nại thu hoạch tàu ghe rốt cũng
tiểu dân [dân mọn] mà thôi. Cớ sao quan sở quản chẳng vâng quân chính dung
túng sĩ tốt lìa hàng thất thứ thiện nhập dân gia lỗ lược tài vật [cướp bóc của
cải], như vậy chẳng là khiến dân thất vọng.
“Hợp truyền các tàu ghe sở quản mà theo chẳng đặng ghé vào bờ bãi, hoặc
chiếc nào gãy lái hư buồm thời phải bắn súng ngõ đặng quan thuyền trình quan
trên cho ghé thời mới đặng ghé. Bằng chiếc nào không hư buồm lái thời cứ thứ
mà theo chẳng đặng ghé vào. Chiếc nào phạm cấm thời chém quan đầu mục
dưới ghe ấy để trừng cấm tập bất nghiêm.
“Lại như kéo bộ cũng cứ đội ngũ mà đi, không được ghé vào làng xóm cướp
bóc. Kẻ nào phạm cấm thì cứ theo quân chính luận tội. Hoặc như đến chỗ địch
cảnh thế phải làm đồn, liệu sai viên quân, thì phải sai một tên Cai đội suất
lấy quân ấy, chẳng đặng cho vào nhà dân lỗ lược từ nhất vật thì sẽ trị tội theo
khinh trọng. Hoặc ai bắt đặng, hoặc dân đầu minh [tố cáo] cũng vậy, hễ quan
thể sát cứu quả [xét đúng] tức thời khiêu thủ [chém đầu] tên quân ấy để giới
sức ba quân. Trên đã tỏ lời, dưới tua [phải] vâng phép. Khâm tai đặc truyền”.
[Nguyên văn Hán Nôm trong nguyên bản].
Binh thuyền của Trung quân Quyền Chính hầu vào xứ Hãn Hải môn [tức
Cửa Hàn ở Đà Nẵng] cảng khẩu, cứ hiểm cố thủ. Viên quân của thần theo sau
dồn lên bờ, đóng đồn tại bãi Thanh Khê cùng với giặc đối địch chống giữ.
Tháng Sáu, Vương sai Trung quân giám quân Quyền Chính hầu điều thủy
binh tiến công cảng Ải Vân, lên bờ đóng đồn tại đèo Phú Gia [thuộc huyện Phú
Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế, cách Huế 60km] để ngăn chặn quân giặc trong ra
ngoài vào. Ngụy tướng là Nội hầu Tứ đem binh đến đánh. Quyền Chính hầu
binh ít không địch được phải thu hồi tàu ghe về nơi đậu và bẩm lên hành tại.
Vương sai thần đem nội vệ và kiêm quản 5 đội Túc trực trung cùng với viên
quân vệ Dương Võ chia ngồi ghe Sai vượt đến cảng ấy, cùng với Quyền Chính
hầu tiến đánh, cả phá ngụy binh, thu phục đèo Phú Gia. Binh ngụy lui quân
đóng ở đồn Kiền Kiền chống cự. Thần bèn nhân địa thế, đốc thúc nội vệ và viên
quân tùng thuộc đóng đồn tại Hói Mít đề cắt tuyệt đường sau của địch trong ải.
Chưa được tuần nhật, thần được mệnh để đồn ấy cho Quyền Chính hầu trấn
giữ, còn thần quản viên quân sai phái vừa qua, ngồi ghe trở về hành tại ở Hãn
Hải môn chực hầu.
Mùa thu, tháng Chín, ngày mồng 7, được chỉ truyền quản viên quân nội
vệ và 6 vệ Long Võ, Kiên Oai, Thiết Kỵ, Cường Oai, Tín Oai, Tiền Du đến đồn
Đồng Trạm chia ra trấn đóng đề án ngữ binh ngoài vào:
“Chỉ truyền Thần Sách quân Hùng Võ vệ Vệ úy thuộc nội Cai đội Xuyên
Thanh hầu, Long Võ vệ Vệ úy thuộc nội Cai đội Duệ Mẫn hầu khâm tri: Nay có
chỉ truyền Kiên Oai vệ Vệ úy Thịnh Đức hầu [Nguyễn Văn Thịnh], quản 3 vệ
Thiết Kỵ, Cường Oai, Tín Oai là Búa Tài hầu [Trần Văn Búa], và Tiền Du vệ
chánh Vệ úy Tứ Ân hầu [Trần Văn Tứ] các nghi tất suất bổn binh đem lên giữ
đồn Đồng Trạm để ách ngoại binh.
“Hợp truyền Xuyên Thanh hầu làm Chánh quản mà suất bổn vệ viên quân
kiêm quản Long Võ vệ mà phân sai thế thủ đồn Kiên Oai cùng các đồn, với đại
bác, Sai ghe bên ấy để phòng ứng địch. Khá tua nỗ lực mới đặng thành công.
Lại khá cấm tập sĩ tốt cho nghiêm, mựa dung lỗ lược. Khâm tai đặc truyền”.
[Nguyên văn Hán Nôm trong nguyên bản]
Ngày mồng 10, kính được chỉ sai quản viên quân nội vệ đến 3 ải thượng
đạo, kiêm quản viên quân 4 vệ Kiên Oai, Thiết Kỵ, Cường Oai, Tiền Du cắt đặt
đóng giữ các đồn nơi đường quan yếu trên từ Đồng Trạm, dưới đến Câu Đê, suốt
một dãy lũy dài, chận đứng quân giặc trong ra ngoài vào:
“Chỉ truyền Thần Sách quân Hùng Võ vệ Vệ úy thuộc nội Cai đội Xuyên
Thanh hầu nên đến tại 3 ải thượng đạo quản suất viên quân 4 vệ Kiên Oai,
Thiết Kỵ, Cường Oai, Tiền Du cắt đặt đóng giữ các đồn nơi đường quan yếu,
trên từ Đồng Trạm, dưới tới Câu Đê, nghiêm phòng cẩn mật chận tiệt lính giặc
không được trong ra ngoài vào.
“Lại huấn luyện đội ngũ chỉnh tề, tăng thêm nghiêm cấm. Nếu phép binh
không nghiêm thì có quân pháp. Khâm tai đặc chỉ”. [Nguyên văn Hán Nôm].
Thần liền dẫn các vệ quân đến đó cắt đặt đóng đồn trấn giữ.
Đóng ở đó hơn tuần nhật, thần chợt cảm sơn lam chướng khí, nên dâng
biểu xin trở về đồn Phú Mỹ trú dưỡng. Chưa được mấy ngày, được Vương thượng
gởi một phong mật truyền hãy nên triệt binh về Hãn Hải môn nghe hầu. Xem
xong nên đốt đi. Khâm thử.
Thần bèn đem viên quân, tàu ghe về hầu, được kính dụ rằng: Nay gió
thuận chưa tới, gió bấc lại về, nên chỉnh đốn rút quân về thành Gia Định.
Khâm thử.
Mậu Ngọ, Cảnh Hưng năm 59 (1798): Mùa hạ, tháng Sáu, ngày mồng
7, kính được chỉ truyền thăng thần làm Phó thống Hậu đồn Khâm sai thuộc nội
Cai cơ tước hầu, quản suất viên quân 4 vệ Ban trực tả, Ban trực Tuyển Phong
tả, Ban trực Tuyển Phong hậu, Hùng Võ theo Chánh thống đồn [tức Mai Đức
Nghị, nguyên Vệ úy vệ Ban trực tả] sai phái đánh giặc. Được lãnh binh tập
luyện tại đồng Tập Trận:
“Chỉ truyền Thần Sách quân Hùng Võ vệ Vệ úy thuộc nội Cai đội Nguyễn
Đức Xuyên tính thật thà, nhanh chóng, công lao siêng năng khó nhọc, nên
thăng làm Phó thống Hậu đồn Khâm sai thuộc nội Cai cơ Xuyên Thanh hầu,
quản suất 4 vệ viên quân trong đồn là Ban trực tả, Ban trực Tuyển Phong tả,
Ban trực Tuyển Phong hậu, Hùng Võ, theo Chánh thống đồn sai phái đánh
giặc, ngõ hầu khi lâm trận cố gắng dõng mãnh toàn thu đại thắng. Vì nước mà
đồng tâm, giúp đỡ vận trung hưng. Nếu quân luật không siêng năng, đã có quân
pháp. Khâm tai đặc truyền”. [Nguyên văn Hán Nôm].
Kỷ Mùi, Cảnh Hưng năm 60 (1799): Mùa xuân, tháng Giêng, ngày
mồng 10, thần nhận được chỉ truyền đem viên quân bổn vệ Hùng Võ, quản
lấy viên quân và voi của 5 cơ tượng luyện tập chiến trận, chờ theo vương sự.
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (123) . 2015 – Lý lịch sự vụ của Nguyễn Đức Xuyên 35
Nguyên trước Khâm sai thuộc nội Cai cơ quản Tiểu sai Luật Chính hầu vốn
quản 5 tượng cơ. Đến nay đình thần vâng mệnh tuyển chọn thần thay thế.
Công đồng đã cử thần nhận chức ấy:
“Chỉ truyền Thần Sách quân Phó thống Hậu đồn Khâm sai thuộc nội Cai
cơ Xuyên Thanh hầu vững tiết trung cần, bền lòng dũng cảm, nên cho suất
viên quân vệ Hùng Võ nội đồn, quản viên quân 5 tượng cơ để tiện luyện tập voi
đực cho tinh tường chiến trận, theo Vương sự, ngõ hầu không gì không quen
quân luật, dũng mãnh đồng tâm, trước trận tiền đạp phá quân Tây Sơn, thu
công đại thắng. Nếu quân luật không siêng năng, đã có quân pháp. Khâm tai
đặc truyền”. [Nguyên văn Hán Nôm].
Ngày mồng 1, tháng Ba, kính lãnh chỉ truyền sức giảng giải quân lệnh
cho viên quân ghi nhớ:
“Chỉ truyền thủy bộ chư dinh tướng sĩ đẳng khâm tri: Hễ phép dùng binh
thời có hiệu lệnh ước thúc vậy mới tướng lệnh nghiêm minh, đội ngũ chỉnh túc.
Nên lời cổ ngữ rằng: Hữu chế chi binh bất khả bại [Binh có kỷ luật thì không
thể bại].
“Như phép quân chính thời cũng nương theo trong phép thúc ngũ lệnh
mà thưởng phạt thi hành, ai nấy trên dưới tua khá cứ thứ giáo huấn nhau đọc
lấy cho thuộc mà giữ phép, kẻo đến khi phạm trong quân chính, dẫu người quý
thích, kẻ huân thần cũng vậy, hễ đại phép nhất định, lý ắt khôn dung. Nữa lại
trách rằng vừa lên chẳng hay [mất 6 chữ].
“Vả quốc pháp cùng quân pháp là khoan mãnh thù tuyệt [khoan hòa mạnh
bạo khác nhau], cho nên lời kinh rằng: Quân dung bất nhập quốc, quốc dung
bất nhập quân [Quân đội tha thứ thì không vào nước, nhà nước tha thứ thì
không vào lính]. Vậy phải hết lời đinh ninh cáo giới ngõ cho ba quân đặng hay,
xem việc binh là trọng [mất 6 chữ], tu du tử sinh [sống chết trong khoảnh khắc]
. Nếu chẳng giữ phép thời lụy cập thương sinh [dân đen] xã tắc, dữ ấy lại thập
bội hơn. Quân pháp lại phải tỏ tường minh huấn, hàm sử [khiến cho] đồng tri.
Khâm tai đặc truyền.” [Nguyên văn Hán Nôm trong nguyên bản].
Quân chính gồm 32 điều, như sau:
“1. Trong quân lấy yên lặng làm quý. Mắt thời xem tinh kỳ, tai thời nghe
kim cổ [chiêng trống], chớ cho sai lạc nói thốt [nói năng] mà loạn quân nhĩ
mục đội ngũ. Tại diễn trường cập đồn sở thì đánh một trăm roi; lâm địch thì
quân pháp thị chúng [lâm địch thì dùng quân pháp để răn chúng, tức xử trảm].
“2. Khi hành quân không được tự tiện lìa bỏ hàng ngũ. Các chi hiệu đội ngũ
thời cứ thứ mà theo nhau. Nếu một người nào đi lộn hàng tức đội ngũ ấy phải
giải nộp ngay; nếu không thời liên tọa đồng tội [cùng có tội liên can]. Tại diễn
trường cập đồn sở thì đánh một trăm roi, lâm địch thời quân pháp thị chúng.
“3. Hành quân không được mang theo phụ nữ và thuật sĩ [thầy bói]. Vọng
đàm tốt xấu can tội loạn quân tình, thời kẻ đem theo với người đi theo cũng
đều quân pháp thị chúng. Lại cứ liên tọa như thúc ngũ lệnh [liên can như điều
lệnh xếp đội ngũ].
“4. Như khắc địch thừa thắng, chớ khá chém giết những quân giặc đã bỏ
khí giới mà xem bằng giặc. Đứa nào biết phép, bỏ khí giới mà chịu phép cũng
chớ khá giết hại nó. Bắt lấy đem nộp cho quan sở cai thời có quân công. Bằng
giết hại nó thời có trọng tội. Lại liên tọa như thúc ngũ lệnh.
“5. Như thắng khắc nhập được dinh lũy, bắt đắc thiện lìa hàng ngũ tứ tán
lỗ lược [cướp bóc]. Bằng chi hiệu đội ngũ nào vi lệnh thời cứ thứ liên tọa, đều
xử dĩ quân pháp thị chúng. Chờ sự định rồi sẽ phân cấp tài vật cho tướng hiệu
sĩ tốt. Còn lương hướng tượng mã khí giới thuyền chiếc thì nhập quan dĩ nhu
quân quốc chi dụng [nhập vào của công để dùng cho việc quân, việc nước].
“6. Như Tây Sơn tướng sĩ vốn là triều đình xích tử [con đỏ], bằng chúng
nó bại tan trốn ẩn thôn ấp nào thời theo dân thôn ấp ấy. Chớ khá cho quan
tìm bắt sát hại nó, cũng chớ khá bắt nhà chứa dưỡng nó. Nếu ai vi lệnh mà lỗ
lược chúng nó thời tội ắt trọng luận, lại liên tội đồng tọa như thúc ngũ lệnh.
“7. Bất đắc lỗ lược dân gian tài vật, phụ nữ. Hễ việc chinh chiến thời lấy
nghĩa điếu dân phạt tội làm trọng. Nếu lấy của dân từ nhất văn dĩ thượng thời
bất luận khinh trọng, cùng người quý tiện đều xử dĩ quân pháp thị chúng. Như
lính thời Ngũ trưởng liên tọa, Ngũ trưởng thời Đội trưởng liên tọa, Đội trưởng
thời Cai đội liên tọa, nhẫn tới quan Trưởng hiệu, Trưởng chi cũng vậy. Bằng cứ
thứ bắt nạp trình xử thời khỏi tội liên tọa.
“8. Tự tư dĩ hậu, tướng sĩ lâm trận hữu tâm chiến tử như quan chức chi
thời cho con tập phong chức ấy. Bằng con có tài năng thời triều đình lục dụng,
bằng không tài năng thời giữ hương hỏa mà phụng tự. Như lính thời cũng cho
một đứa nhiêu thân [làm nhiêu, tức được miễn thuế, sưu] mãn đại mà phụng tự.
Không con thời em, không em thời cháu, dĩ biểu kỳ tiết, tử ư quân quốc chi sự
[để biểu dương khí tiết, đã chết vì việc nước].
“9. Sở quản quan bất đắc ảnh xạ quân số [không được che giấu quân số].
Hễ quân thời cứ thực ngạch thực số, chớ khá cho hữu danh vô thực. Như quân
bạ một dinh binh số thời nạp tại đại tướng, một đội binh số thời giao tại quản
biện. Bằng đội nào hữu danh vô thực thời xử trảm quản biện. Như quan nào trì
thế mà ảnh xạ quân số thời quản biện trình với quan sở quản, quan sở quản cứ
thứ mà trình đến quan đại tướng, thời quản biện mới khỏi tội tử hình.
“10. Trong quân không được đổ bác, ẩm tửu [đánh bạc, uống rượu]. Như ở
tại đồn mà đổ bác thời bất luận quý tiện đều đánh 100 roi, lại thu bao nhiêu
tiền hành thất mà thưởng cho người thủ cáo. Ẩm tửu ở đồn sở thì bị đánh 100
roi, lại truất xuống làm hỏa binh [lính bếp]. Khi lâm trận đối lũy mà đổ bác,
ẩm tửu thời bất phân quý tiện đều xử dĩ quân pháp thị chúng. Bằng như lễ chi
ban tứ trong quân thời cho tướng sĩ yến ẩm.
“11. Điệp tử [gián điệp] ở đất địch về, tướng hiệu cũng chẳng đặng hỏi,
điệp tử cũng chẳng đặng nói, trừ thưa chào mà thôi. Sự chi chẳng cho nói mà kẻ
ngoại nhân hay đặng thời điệp tử thám thính đều xử dĩ quân pháp thị chúng,
dĩ nghiêm quân cơ.
“12. Như quân trung tranh tụng thời cứ thứ mà cáo với quan sở cai. Khinh
thời quan sở cai tài xử, trọng thời trình thân. Nếu chẳng xử, chẳng thân mà
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (123) . 2015 – Lý lịch sự vụ của Nguyễn Đức Xuyên 37
để cho kẻ hàm oan phúc cáo đến quan trên thời cứ thứ liên tọa đồng tội. Nhẫn
đến quan đại tướng mà để người hàm oan minh tỏ đến triều đình thời tội cũng
chẳng dung. Lại chớ khá cho quân lớn tiếng vặc nhau, với chửi nhau, đánh
nhau. Nếu chửi nhau, đánh nhau thời bất phân quý tiện đều đánh 100 roi, rồi
mới xử kỳ khúc trực [lý lẽ đúng sai], lại liên tọa như thúc ngũ lệnh dĩ giới bạc
tục vô lễ chi tập [để răn thói vô lễ, khinh nhờn].
“13. Hành quân người nào bỏ rơi khí giới, người nào đặng khí giới thời
nạp với quan sở cai, quan sở cai cứ thứ mà nạp tới quan lớn. Người bỏ khí giới
thời đánh 100 roi, lại cắt một tháng lương mà thưởng cho người đặng khí giới,
để trừng bất cẩn chi tội.
“14. Như tróc hoạch tặc nhân cập hành lộ nhân hựu hoặc hữu nhân phó
tố địch quốc mỗ sự [như bắt được kẻ giặc hoặc người đi đường mà có người tố
cáo việc gì của giặc] thời đem trình đến quan đại tướng để mặc một quan đại
tướng đến vấn sự cơ. Dẫu cho quan Trưởng chi, Trưởng hiệu cũng chẳng đặng
hỏi. Nếu ai vi lệnh thì bất phân quý tiện, đều án dĩ quân pháp thị chúng, dĩ
giới vọng đàm địch sự, nhiễu loạn quân tình chi tội [để răn nói xằng việc giặc,
làm loạn quân tình].
“15. Hành quân nhật mộ trú binh chi sở, như cận địch cảnh thời làm thực
đồn, viễn địch thời làm tạm đồn. Chớ khá vào thôn ấp mà làm tạp xử với dân
gia, đã tao nhiễu nhân dân, lại dạ biến không thể ứng địch. Như vi lệnh thời
quan sở quản tất hữu trọng tội.
“16. Khiếp địch thối tẩu dĩ quân pháp luận [sợ địch chạy lui thì theo quân
pháp mà xử]. Như một chi thối tẩu thời quan Trưởng chi dĩ tử tội luận. Một hiệu
thối tẩu thời tội tại Trưởng hiệu. Một đội thối tẩu thời tội tại Cai đội. Một tiểu
đội thối tẩu thời tội tại Đội trưởng. Một ngũ thối tẩu thời tội tại Ngũ trưởng. Đều
xử dĩ quân pháp thị chúng. Lại như quan Trưởng chi hoặc chiến tử, hoặc tha tẩu
mà các quan Trưởng hiệu chẳng theo giữ, bỏ mất quan Trưởng chi, thời nội chi
các quan Trưởng hiệu đồng xử tử tội. Mất quan trưởng hiệu thời nội hiệu các Cai
đội đồng xử trảm. Mất một Đội trưởng thời hai Ngũ trưởng đồng xử trảm. Mất
một Ngũ trưởng thời 4 tên quân đồng xử trảm. Như bất hạnh mà lâm trong thỉ
thạch [không may mà lâm vào vòng tên đạn] thì bao nhiêu chúng dưới khỏi tội dĩ
trừng tật thị kỳ thượng bất năng cứu chi tội [để trừng trị tội thấy mà không cứu].
“17. Tướng sĩ lâm trận khá y thúc ngũ lệnh mà giữ nhau, chớ khá thối súc.
Như quân thối súc [nhút nhát rút lui] thời Ngũ trưởng tức khắc khiêu thủ. Cứ
thế mà lên chừng đến Trưởng chi, Trưởng hiệu cũng vậy. Nếu dung nhau thối
súc thời cứ thứ liên tọa đồng tội như thúc ngũ lệnh.
“18. Lâm trận không được làm động đến quân tình. Tất như trong chư
tướng có ai phải thỉ thạch đao thương chi trọng tích [vết thương nặng vì đao
thương, tên đạn], chớ khá lên tiếng cùng loạn tẩu, đội ngũ nào khá giữ đội ngũ
ấy. Nếu lên tiếng cùng loạn tẩu thời tức khắc cứ thứ mà khiêu thủ kẻo dao động
chúng tâm. Bằng chẳng tức khắc khiêu thủ, thời liên tọa đồng tội.
“19. Ra quân thì hễ dinh nào, chi nào, hiệu nào nhẫn đến đội ngũ nào
cũng vậy nếu khiếm số thời tội quy người sở quản. Nếu tướng sĩ nào trốn ở nhà
người, chẳng đi chinh dịch thời bất luận quý tiện, người cho với người ở đều xử
dĩ quân pháp thị chúng. Lại cứ thứ liên tọa đồng tội như thúc ngũ lệnh.
“20. Tướng sĩ đi đánh trận xa, thê tử quan giao lại cho trấn thủ quan tế
cấp, kẻo mà khiếm phạp [thiếu đói]. Chẳng cho đem theo đường sá mà khiên
lụy quân tâm. Nếu ai vi lệnh mà đem theo thời xử dĩ quân pháp thị chúng. Lại
cứ thứ liên tọa như thúc ngũ lệnh.
“21. Hễ thủy bộ trú binh chi sở nhất thiết thương cổ thuyền chiếc bất đắc
tạp hành tạp bạc [hễ nơi đóng quân của binh thủy bộ, tất cả thuyền buôn bán
không được đi xen lẫn hay đậu xen lẫn], dầu cho tướng sĩ có vợ con buôn bán
cũng chẳng cho tạp xử quân trung, bình cư thời cứ thứ liên tọa trọng tội, lâm
địch thời án dĩ quân pháp thị chúng.
“22. Hễ du binh [binh đi tuần] cùng phục lộ quân [quân mai phục, giữ
đường] gặp tặc thời phát súng làm hiệu cho trung quân nghe biết. Thủy thời cho
một chiếc về trì báo, bộ thì sai một ngũ về trì báo. Còn bao nhiêu thời từ ngự
địch nhi thối [ngăn địch mà rút lui]. Như trì báo quân về tới đại đồn thời ở ngoài
quân môn, bất đắc đồng khỏa sấn nhập [kéo cả bọn tiến vào], bả [giữ] quân môn
nhận thực quân ta thời khai quân môn cho một người đàn anh vào thưa một
quan đại tướng hay, dầu tướng hiệu thảy thảy chẳng cho đón đường đón hỏi.
Nếu mà ai hãy hỏi thời người hỏi với người nói đều án dĩ quân pháp thị chúng.
“23. Thủy binh đối trận giao chiến chi tế như Tây Sơn chúng nó buông
chèo nhảy xuống sông thời quân vớt lấy đem lên thuyền trói lại, hồi trận giải
nạp cho quan đại tướng tới vấn rồi sẽ tha. Nếu ai vi lệnh mà giết hại chúng
nó thời cứ thứ liên tọa đồng tội, kẻo dân ta vì thế sở bách theo chúng nó hãy
nhiều. Lại tướng nó cũng nhiều kẻ có lòng cùng ta mà chưa đặng phương thừa
tiện, e nỗi Côn Sơn chi hỏa ngọc thạch câu phần [e nỗi ngọn lửa Côn Sơn sẽ
đốt cháy cả đá, ngọc], mà hại những người hữu tâm lương thiện.
“24. Như hoặc khứ thuyền tàu nhi tẩu cập phao khứ tài vật vi nhĩ [Nếu
(địch) bỏ tàu thuyền mà chạy, và vứt bỏ của cải làm mồi nhử] quân ta, chớ cho
quân thiện lìa hiệu đội tranh thủ thuyền tàu cùng tài vật mà bỏ giặc chẳng
theo. Nếu hiệu đội nào vi lệnh thời liên tọa đồng tội, đều xử dĩ quân pháp thị
chúng. Như bao nhiêu thuyền tàu, tài vật ấy thời mặc quan trung quân sai
người khán thủ. Chờ đến khi hồi trận định công hành thưởng sẽ lấy tài vật ấy
mà tùy công phân cấp tướng hiệu cho quân bình.
“25. Tướng soái dữ sĩ tốt đồng hoạn tương tuất, đồng bệnh tương liên. Như
trong chi hiệu ai có lòng vị quốc mà lụy cập, mình ngồi vậy chẳng an.
“26. Quân khí cập hỏa dược lưu phế đồi tệ [bỏ bê hư hỏng] hữu tội. Như
quân ai cầm khí giới chi [bị hư hỏng] thời giữ cho Ngũ trưởng nạp tại đội, cứ
thứ mà nạp tới quan trên cho thợ tu lý hỏa dược. Thời 5 ngày một lần phơi
phóng điểm soát. Nếu chẳng giữ phép mà điểm soát khí giới cùng hỏa dược thời
cứ liên tọa đồng tội.
“27. Tướng sĩ không được tự tiện lìa bỏ dinh ngũ, từ Thống tướng cho tới
Trưởng chi, Trưởng hiệu. Bằng có công tư việc chi mà cách đêm lìa dinh thời
phải cùng người tạm quản. Bằng chẳng y lệnh, thời ở đồn sở thì trị tội nặng,
lâm trận thì dĩ quân pháp thị chúng. Nếu ai có đi công, rồi bỏ việc nội trong
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (123) . 2015 – Lý lịch sự vụ của Nguyễn Đức Xuyên 39
một ngày thời lãnh thẻ trừ, Đội trưởng đi cách đêm thời lãnh thẻ trừ tại Cai
đội, cai đội đi cách đêm thời lãnh thẻ trừ tại quan Trưởng hiệu, quan Trưởng
hiệu đi cách đêm thời lãnh tờ, đến quan Trưởng chi lại đặt người tạm quản.
Quá kỳ mà không trở về thì cứ thứ trình thân. Nếu chẳng trình thân thời tội
liên tọa đến người sở quản như thúc ngũ lệnh.
“28. Trong dinh quân, đương đêm có chỗ nào báo động, có chỗ nào thất hỏa
[bị cháy], thời điểm chỗ ấy tự cứu. Còn bao nhiêu chi hiệu đội ngũ thời tức khắc
chấp khí giới liệt hàng trận cho chỉnh tề mà nghe lệnh sai bát. Bằng ai nghe
ngoa thác [lời ngoa đồn đại] làm loạn thời bất phân quý tiện đều quân pháp thị
chúng. Lại liên tọa như thúc ngũ lệnh dĩ phòng bất ngờ ý ngoại chi biến.
“29. Hễ quân ai cầm khí giới thì tập nghề ấy cho chín. Một tháng một lần
tuyển thí thời có truất giáng thưởng phạt. Lại cứ liên cập truất giáng thưởng
phạt cho đến người sở quản như thúc ngũ lệnh.
“30. Cấm tướng soái lao dịch quân sĩ, như quân hễ tập luyện canh hậu rồi
thời cho quân hưu tức, chớ khá dịch sử quân tư sự [chớ khá sai lính làm việc
riêng]. Nếu trên dưới chẳng thương nhau mà dịch sử quân tư sự thời có tội liên
tọa như thúc ngũ lệnh. Bằng có sai quân việc chi phải nghĩa thời trình đến
quan Trưởng chi, Trưởng hiệu có cho mới đặng sai, dĩ trừng tướng soái bất năng
phủ tuất sĩ tốt chi tệ [để trừng trị tội tướng soái không thương xót binh lính].
“31. Tướng thọ mệnh đề binh chi nhật bất đắc tiết lậu cơ sự. Như quân
thời ngày bình nhật, khí giới lương hướng hỏa thực nang thác [túi xách] đã
chỉnh bị rồi đến khi sai chi hiệu nào thời tức khắc là đi, kẻo phải truyền quân
sắm sửa, mà binh chẳng thần tốc. Như mệnh lệnh thời một tướng hay, còn
bao nhiêu sĩ tốt thời bất tri sở hướng. Bằng cho chúng hay trước ắt là nghị
luận phong thanh, quân tâm bất nhất. Nếu mà tiết lậu thời bắt tội quân cơ
bất mật, hữu trọng luận.
“32. Kỳ hội hậu chí dĩ quân pháp luận [hội họp mà đến sau cũng xử theo
quân pháp]. Như kỳ mỗ nhật tiến binh tại mỗ xứ mà vi kỳ nhật với vị đáo xứ
[như hẹn ngày ấy tiến quân đến vùng ấy mà đến kỳ hạn vẫn chưa đến nơi], thời
tội quy sở quản, dĩ quân pháp luận. Bằng tựu diễn trường thao tập thời cũng có
thời khắc. Nếu vi thời khắc mà hậu chí thời sở quản tất hữu trọng luận. Lại cứ
thứ liên tọa như thúc ngũ lệnh.
“Cổ vân: khử thực, khử binh, tín bất khả khử; cố ư bình tố tuy vô sự, thao
luyện diệc bất khả bất lập đại tín” [Người xưa nói: Bỏ lương thực, bỏ binh lính,
chữ tín không thể bỏ; nên vào lúc bình thường tuy vô sự, việc thao luyện cũng
không thể không lập chữ tín thành]. [Nguyên văn Hán Nôm trong nguyên bản].
Ngày 20 kính lãnh chỉ truyền quân chính để giảng giải rõ cho viên quân
dưới quyền ghi nhớ:
“Chỉ truyền nội ngoại tướng sĩ đẳng khâm tri: Từng nghe Chu đông chinh
mà sĩ nữ đều an, tuy chúng mười vạn khôn địch; Hán bắc tuần do thu hào chẳng
động, biết đời bốn bảy ắt nên(1) [bốn bảy là 28, phải chăng 28 ngày thì thành
tựu]. Tầm thường cao vượt từng mây; chỉ xích nhập truyền lệnh sấm. Nay thời
nên khắc phục, chí quyết hưng sư, nhất thị đồng nhân, huống nữa di Lê nước
1 Bốn bảy … thành tựu ?
cũ. Tứ phương hữu tội xem sao thiện vượt phép xưa. Khi chiến tranh e lụy đến
vô cô [vô tội], nếu an tập đã làm cho thành mệnh. Điều lỗ lược định phép liên
tọa dùng sau quá nỗi ẩn ưu. Lòng tham ô cứ hãy công hành, binh di lý lại thêm
điều nhũng tệ. Lũ quân ác còn vâng phép nước; người Đồng Nai dễ khuất tính
trời. Có thân thời phải lo thân, hãy gẫm chầy ngày nước nhục. Đánh giặc chẳng
nên làm giặc, mựa hề cố ý dịch những khi [những khi thay đổi]. Lòng giữ trước
thời hơn, thổi rún(1) e lâu chẳng kịp. Tối con mắt cũng vì thấy của, tham mới
quên thân. Chê lòng gian sao chẳng [mất 3 chữ] thời giữ [mất 5 chữ] thời vỗ
dưỡng sao toàn một hội công danh. Xuất dĩ luật bỉ (phủ) tàng hung [ra thì theo
luật, chớ chứa lòng ác], binh dùng lấy lễ, giáo bất tòng nhiên hậu sát [dạy mà
không theo thì sau mới giết] dũng quyết [xử chém] là nhân [mất 7 chữ]. Khâm
tai đặc truyền”. [Nguyên văn Hán Nôm].
Định thêm 4 điều quân chính:
1. Sĩ tốt tòng chinh, nếu ai thiện tiện vào dân gia hãm hiếp phụ nữ, và
cướp lấy của cải thì bất luận nặng nhẹ, chém ngay để răn chúng. Lại xét tội
liên can như điều thúc ngũ. Lại vào đất giặc mà có người đem của cải vật dụng
biếu riêng dám công nhiên nhận lấy, việc phát giác thì người chánh phạm bị
chém ngay. Còn những viên nhận lấy, từ trưởng chi trở xuống đều phạt 50
trượng và giáng một bậc y như luật định.
2. Khi giao chiến, kẻ địch có ai bỏ khí giới đầu hàng, mà lại giết càn thì
phép quân đã có luật định: giết chết người thì có tội, bắt sống người thì có công.
Từ nay về sau, hễ khi đánh đồn giặc nào, ai bắt được lính giặc giải nạp, cứ mỗi
tên thưởng tiền 5 quan; như Hộ quân, Quán quân, Đô ty, Đô úy thực sự có quản
binh lính, thì người bắt được được thưởng 20 quan, Đô đốc thưởng 100 quan,
quận công một ngàn quan. Phàm tướng giặc có chia quân và có trấn giữ đồn thì
tiền thưởng chiếu theo đó. Nếu không thể bắt sống mà tự tay chém được thủ cấp,
từ Hộ quân đến quận công được thưởng tiền y lệ, lại thăng lên quan tước. Nếu
giặc bị thương vì tên đạn mà tự nhận làm công mình thì không theo lệ này. Còn
như những kẻ có chức quan mà không cầm quân thì thưởng tiền chỉ một phần
ba. Nếu bắt được áo khăn, khí vật mà quẳng đi không đem nộp thì bị phạt 100
trượng, truất làm đầu bếp. Nếu không phải là giao chiến ở đồn giặc, không phải
lúc giao phong mà bắt giết xằng thì phép quân đã có định tội. Lại như quân giặc
tự đến đầu hàng, không phải trong chiến trận thì không theo lệ thưởng.
3. Những người thể sát và tham quân, chấp pháp, mà quân nhân có tội
nhưng lo lót để làm lơ, bỏ phế, hoặc vì việc riêng mà che giấu hay vì sợ uy thế
mà lưu tình thì đều là trốn tránh pháp luật mà dung túng, phải bị phạt đồng
tội với kẻ phạm, bị luận nặng y như trên.
4. Bản quân chính ban hành trên, mỗi vệ được một bản, dùng để làm sáng
tỏ pháp luật để chính lòng nhân. Nếu quan quản suất không đốc thúc giảng giải
để làm mất phép quân, thì từ nay về sau trong 10 ngày một lần, mỗi vệ phải
hội họp giảng giải rõ, khiến cho quân nhân để tâm nghe nhớ không quên. Ở tại
đồn hoặc khi đi đường cũng như thế. Nếu thiếu một lần thì phạt 100 roi. Trải
3 lần mà quân nhân vẫn mờ tối, không nhớ thì tội cũng như thế.
1 Không hiểu từ Nôm này chỉ việc gì ?
Mùa hạ, tháng Tư, ngày 14, kính được chỉ sai đem viên quân nội vệ và voi
đực theo Khâm sai Chưởng Tiền quân dinh Bình Tây Tiền tướng quân Thành
Tín hầu [Nguyễn Văn Thành] chỉ huy, đánh giặc cốt cho tỏ rõ võ lực ta, đạp phá
Tây tặc. Nếu quân luật không siêng năng, thì đã có quân lệnh. Khâm tai đặc sai.
Vương thượng sai Nguyễn Văn Thành quản các đạo bộ binh đi trước đến
phủ Quy Nhơn, đợi hội thủy binh đánh giặc.
Phụng đại giá dẫn cả thủy binh, gặp được thuận gió, các hướng tàu ghe
không có địch đều đã vào cảng Thi Nại.
Vương sai Chưởng Hậu quân Bình Tây tham thặng đại tướng quân Tánh
quận công đem quân lên bờ, giao chiến với ngụy binh tại Gò Chùa. Đô đốc Chất
[Lê Chất] đem quân bản bộ hơn 300 người quy hàng.
Vương sư thủy bộ hội ở Gò Chùa, tướng ngụy là Thái võ Ứng, Ty võ Tuấn,
Thái úy Thúy đem quân đến đánh. Ta bắt được 14 thớt voi, giết được ngụy Đô
đốc Thực. Tánh quận công đem số voi bắt được giao cho thần quản lãnh cùng
với 5 cơ voi. Vương sư và binh ngụy đều đóng đồn đối lũy giữ nhau. Thần đóng
binh voi ở phía sau xứ Vườn Mít.
Ngày mồng 5 tháng Năm, giặc đánh vào bãi Sa Yển. Quân Xiêm của đạo
Tiền quân rút lui. Nguyễn Văn Thành ủy thần điều quân và voi bản bộ chống
lại, xếp hàng ở phía sau quân giặc xua voi áp đánh. Quân Xiêm lại rút lui. Lúc
đó quân chống giữ của thần dù không được mệnh sai phái nhưng thấy thế nguy
cấp bèn thân đốc thúc bổn binh, voi đánh vào quân giặc. Thần cùng quân tả
hữu xung kích chia cắt quân giặc làm chúng tan vỡ, trốn tới xứ Tháp Cải. Các
đạo quân thấy thế liền truy kích, bắt được 17 thớt voi, trong đó voi đực 16 thớt,
1 thớt voi cái. Trong lúc súng bắn, đạn bay, thần bị trúng đạn ở đầu, máu chảy
xuống trán, trong khi gấp vội, thần lấy khăn bịt đầu băng lại mà tiếp tục truy
kích. Đến khi thu quân, lấy khăn bịt đầu xuống, máu chảy ra dính liền một lớp
như hình cái đấu.
Tin thắng trận báo lên, Nguyễn Văn Thành đến nơi đóng quân hết lời an
ủy. Thần, nói rằng: mệnh sai chưa tới, nhờ uy đức của triều đình và quân bản
bộ hết lòng tử chiến nên mới thắng trận.
Quân tướng nội dinh được thưởng 3.000 quan tiền, trong đó thưởng thần
500 quan. Nguyễn Văn Thành lại thưởng riêng cho nội dinh 500 quan, thưởng
thần một chiếc áo bào hoa, và tiền 100 quan.
Ngày 21, vâng Công đồng truyền rằng có 70 chiếc áo vải vàng viền lục tua
hồng ban cho lính cỡi voi làm y phục để tăng oai vệ cho quân:
“Công đồng truyền Khâm sai thuộc nội Cai cơ quản vệ Hùng Võ kiêm 5
tượng cơ Xuyên Thanh hầu tuân tri: Do nay có sai điều 70 chiếc chiến y vải vàng
viền lục tua hồng giao cho khanh mà ban cho quân cỡi voi mới ấy, ngõ đặng khi
ra trận cho đều một sắc quân dung. Lại như thớt voi nào hãy còn đạn trong mình
thời sai người đến trình với Khâm sai Chưởng Hậu dinh quan cho thầy Hương
qua nhể đạn ra cho hết mà hoạn dưỡng cho mau lành mạnh để phòng chinh
trận. Truyền văn sở đáo, tua khá tuân y. Tư truyền”. [Nguyên văn Hán Nôm].
Ngày 24, giờ Mùi, Nguyễn Văn Thành đóng quân tại Tháp Cải xứ Phúc
Hậu triệu thần nói rằng: Vì tướng giặc đem 1 vạn tinh binh đến đánh, hiện đang
công hãm đồn Lão Dong, ở mặt trước đồn Phúc Hậu, lính tiền đạo đã thối lui gần
đồn Trung quân, khanh(1) lãnh lệnh tiễn đem quân bản bộ và quân tiền đạo tiến
lên trước để cự địch. Phàm vệ, chi, hiệu nào bắt được hay chém được 1 tên thì
theo lệ được thưởng tiền 5 quan. Thần bèn truyền khắp cho tùy binh rõ, và chia
pháo binh, voi bản bộ thành 3 đạo. Phó Vệ úy vệ Hùng Võ là Giáo Thiện hầu
quản viên quân 3 đội nội vệ và chánh Trưởng chi Tả tượng là Châu Quang hầu
làm tiền đạo, Khâm sai Cai cơ Kiên Đức hầu quản chi Hữu tượng, Cai cơ Năm
Lộc hầu quản chi Hậu tượng và viên quân 3 đội vệ Hùng Võ làm tả đạo, thần và
Cai cơ Văn Đức hầu, Cai đội Thiệu Quang hầu quản viên quân 4 đội vệ Hùng Võ
làm trung đạo, cùng các vệ chi nhất tề đánh ra. Ngụy binh đại bại, tan vỡ trốn
vào đồn Ba Tháp. Thần cho truy kích, trên từ bến đò Mụ Lò, dưới đến sông Ba
Tháp. Quân nội dinh bắt được 30 tên ngụy binh, chém được 19 thủ cấp, còn số
chết chìm không kể, chiều tối thu quân về đồn. Quân nội dinh và các vệ đem
thủ cấp nạp lên, Nguyễn Văn Thành dâng biểu báo tin thắng trận về hành tại ở
đồn Đồng Châu. Vương sai thuộc nội Cai đội Thọ Lộc hầu đến nơi xem thực chỗ
chồng chất thủ cấp, trở về tâu, Vương ban thưởng 1.550 quan, thần được nhận
100 quan, Nguyễn Văn Thành lại thưởng riêng cho nội dinh thần 535 quan.
Tháng Sáu, ngày 18, thần vâng lời truyền của Tánh quận công, để lại
ở đạo Tiền quân của Nguyễn Văn Thành 30 thớt voi. Số bổn binh và voi còn
lại 43 thớt nhân ban đêm nhanh chóng trở về đồn Tánh quận công trú đóng
tại chợ Phiêu Phao làm tả đạo, Phó tướng Duân Quang hầu và Đô đốc Chất
Thiện hầu làm hữu đạo. Tánh quận công tự quản trung đạo, nhất tề tiến binh
đánh ngụy Thái võ Ứng ở Cà Đáo, bắt được binh tướng và voi ngụy không rõ
số lượng. Ngụy Ứng trốn thoát, sau khi dẹp yên không biết ở nơi nào. Lúc đó
Tánh quận công truyền cho thần đem binh, voi bản bộ trở về đóng ở đồn Tháp
Cải. Sau được ban thưởng cho nội dinh 1 nghìn quan, trong đó thưởng cho
thần 50 quan. Hơn tuần nhật, thần được lệnh đem bổn binh, voi đến đóng ở
Truông Mây, rồi được gặp Vương thượng ban mệnh: Nay có ngụy Thành Thủ
úy, ngụy Ty võ, Tuấn Thượng thư [Thượng thư Binh Bộ Tây Sơn Nguyễn Đại
Phác] dâng biểu xin hàng, khanh nên lưu binh tại đó, hỗ tòng ngự giá nhập
thành. Khâm thử.
Qua 2 ngày, tướng ngụy mở rộng cửa thành nghênh đón tiền đạo của Tánh
quận công vào thành. Thần hỗ tòng ngự giá sau đó vào thành. Binh tướng ngụy
đã tự trói tay, cổ, bỏ khí giới quy hàng đợi tội. Được Vương thượng ban chỉ tha
tội, thu hết khí giới nhập vào kho, ngoài ra tơ hào chẳng phạm, nhân dân yên
ổn như cũ.
Đêm ấy Vương thượng sai Tánh quận công vào thành trú đóng, và sai
thần theo hầu ngự giá về đồn Ba Tháp nghỉ chân. Ngày hôm sau ngự giá vào
thành, sai Tánh quận công trú giữ, chiêu dụ hàng tướng, binh dân, và sai thần
theo hầu lui quân về đồn Đồng Châu. Chư tướng tụ tập lạy mừng. Vương sai
thần ở đấy theo hầu Đông cung Nguyên soái quận công sai bát.
1 “khanh” nguyên là tên chức quan ngày xưa, sau được dùng làm đại từ nhân xưng ngôi thứ hai
để tỏ ý tôn trọng.
Ngự giá đi về thành Quy Nhơn. Lúc đó ngụy Đô đốc Nghĩa và lính mật
sai về tâu rằng ngụy Diệu, ngụy Dũng, ngụy Kết, ngụy Chân đem đại binh thủy
bộ 3 đạo tiến gấp cứu thành Quy Nhơn. Hiện nay thủy binh ngụy đánh 2 cảng
Tân Quan, Bàu Voi, bộ binh ngụy đánh đồn Mân Khê. Đông cung Nguyên soái
quận công sai Tả quân phó tướng Thành Tín hầu đem hai vệ Thần Oai, Thần
Dũng và 24 thớt voi đến vịnh Sa Huỳnh cự địch, sai thần đem bổn binh, voi
ngày đêm chống cự, trên từ Tân Quan, dưới đến Bàu Voi. Lúc đó ngụy binh
đánh đồn Mân Khê. Suốt 3 ngày đêm trong đồn bắn súng phun lửa, ngụy binh
không thể đến gần.
Đông cung Nguyên soái quận công dâng biểu ngự giá đi đồn Mân Khê hội
đánh. Gặp trời nổi bão tố, Vương thượng sai đội Tiểu sai thám thính xem tàu
thuyền đi biển đang đậu tại cảng Thi Nại thế nào. Chưa được 2 ngày sau, tin
về báo thuyền tàu ta có phiêu dạt nhưng không rõ số lượng. Còn tàu ghe địch
không có đảo chắn nên phần nhiều bị trôi dạt chìm mất. Địch lại nghe thành
Quy Nhơn đã bị hạ, nên triệt binh trở về thành Phú Xuân.
Ngự giá lui quân về thành Quy Nhơn, sai quan tuyển điểm binh đinh thu
tô thuế. Vương sai Tánh quận công, Lễ Bộ Ngô Tùng Châu trông coi việc trấn
giữ. Rồi rút binh tướng ngụy về hàng và súng ống đem chở dưới tàu ghe, vượt
biển trở về thành Gia Định. Thần được sai phái cùng với các đạo bộ binh theo
hầu ngự giá ban sư.
Mùa đông, tháng Mười, ngày 15 được Công đồng truyền cho viên quân 3
vệ Hùng Võ, Hùng Oai, Phấn Oai bổ làm Tượng đồn theo thần sai bát công vụ.
Thần lãnh viên quân ấy cùng 5 Tượng cơ làm thành 3 toán luyện tập:
“Công đồng truyền viên quân 3 vệ Hùng Võ, Hùng Oai, Phấn Oai, thuộc
Thần Sách quân tuân tri: Nay triều đình tuyển đinh phân bổ 3 vệ làm Tượng
đồn theo Khâm sai thuộc nội Cai cơ quản 5 Tượng cơ là Xuyên Thanh hầu sai
bát đánh giặc, và các công vụ khác. Truyền văn nhất hạ, nghi nhất tuân y. Tư
truyền”. [Nguyên văn Hán Nôm].
Tháng Mười Một, ngày mồng 8, thần được thăng làm Tri tượng chính,
tước hầu, quản 4 vệ Hùng Võ, Hùng Oai, Phấn Oai, Hùng Dũng, và 10 Tượng
cơ, luyện tập cho tinh thục để theo hầu Vương sự:
“Chỉ truyền Thần Sách quân thuộc nội Cai cơ Nguyễn Đức Xuyên am
tường tướng lược, nhiều phen lập công, đáng thăng làm Tri tượng chính Xuyên
Thanh hầu, quản suất viên quân 4 vệ Hùng Võ, Hùng Oai, Phấn Oai, Hùng
Dũng và 10 Tượng cơ, luyện tập voi đực cho tinh thục để theo hầu việc nước,
cốt sao cho luyện được phép dùng voi, đội ngũ chỉnh tề, khi đánh Tây tặc ra oai
gắng sức lập được chiến công. Nếu quân lệnh không siêng năng thì đã có quân
pháp. Khâm sai đặc truyền”. [Nguyên văn Hán Nôm].
Năm ấy, cũng bắt đầu đặt dinh Túc trực và ngũ quân: Trung, Tiền, Tả,
Hữu, Hậu; cùng thủy quân, tượng dinh và các đồn ngự lâm quân, họp thành đội
ngũ thao luyện tinh thục.
Năm Kỷ Mùi trên, nội dinh thần đánh trận được thưởng tiền tất cả 6.585
quan, trong đó thưởng thần 750 quan, thưởng nội dinh cả thảy 5.835 quan.
Canh Thân, Cảnh Hưng năm 61 (1800): Mùa xuân, tháng Ba, ngày 26,
ngự giá đại duyệt điểm quân ở đồng Tập Trận. Được ban chỉ dụ Thệ sư một
đạo. Và ban tiền yến tiệc cho binh đinh mỗi người 50 hào, số quân cả nội dinh
4 vệ và 10 Tượng cơ đếm được 2.727 người; ngoài ra ốm đau và trốn 435 người:
“Chỉ dụ nội ngoại thủy bộ các dinh tướng sĩ đẳng đều hay:
“Cơn bát loạn chẳng lo sao đặng, năm sáu năm đãng định [đánh dẹp] dễ
muốn chi qua giáp tanh chiên [chiến tranh tanh tưởi]. Hội trung hưng phải
quyết mới xong, muôn ngàn dặm thu công, bao nỡ để sinh linh đồ thán.
“Thời dĩ chí há rằng vội tưởng; cơ khá thừa vậy phải sớm toan.
“Ta nay: gặp hội trung vi [nửa chừng suy yếu], dựng nền tái tạo. Tám chín
phủ giang san đồ số, đặng chỗ này, lo chỗ khác, thù tổ tông đâu dám nguôi lòng.
Mười ba thu tướng sĩ nhọc nhằn, đánh trận nọ, qua trận kia, đạo thần tử luật
đà gắng sức. Vậy năm ngoái thu thành Bình Định rất đỗi cần lao; Tưởng năm
nay nghỉ chúng Đồng Nai yên bề hưu tức.
“Song liệu chừng thế nó tướng phẫn binh tàn, hạ lăng thượng phế [dưới
lẫy lừng, trên phế bỏ], dầu chẳng đánh cũng hư. Nhơn tính lại việc ta đồn quân
tích hướng, đúc súng tăng thuyền phải sắm thêm mới mạnh. Nên nỗi nhiều
đường phú liễm, nặng việc công sưu.
“Dân thời cung cống tiền lương, nhịn mặc nhịn ăn, ta đâu chẳng tỏ.
“Quân thời tân cần chinh dịch, gắng công gắng sức, huân lao ta vốn
không quên.
“Trước tuy nhật xúc kinh dinh, rày đã sẵn rồi chiến cụ.
“Cũng muốn dưỡng oai súc nhuệ, trời Gia Định nghỉ ngay cho khỏe, ngõ
chư quân cử đắc lạc sinh.
“Nào ngờ cùng khấu xương cuồng, lũy Bàn Xà thả phát sức vây, bởi nghịch
tặc tự lai tống tử. Huống nó em phản anh, tôi phản chúa, lại thêm ngoại viện
táng sư [làm mất quân], trường thành thất hiểm, tai phần sào [tai họa cháy tổ]
đã quyết từ nay. Mà ta lương thời đủ, binh thời ròng, sẵn có tướng tài quy phụ,
chư quốc liên binh, thế phá trúc chờ bao thuở.
“Vì cớ ấy, vội vàng trục Bắc, hăm hở bình Tây. Trước là lo tông xã mà
phục thù, kẻo lăng tẩm một thời man mác. Sau là vì thần tử mà tiết phẫn, kẻo
thương sinh khắp chốn than van.
“Cơ hội ni ai nỡ đặng thôi, công danh ấy người âu phải gắng.
“Rày mới vui lòng sư lữ [quân đội], mở tiệc cảo lao [khao quân]. Muốn cho
tỏ tấm lòng chung, tôn ty nhất thể. Vậy phải tỏ bày lẽ thực, minh thệ tam quân.
“Quan thời nợ nước lo đền, khoán sắt thư son dành tạc đó. Quân thời thù
trai dốc báo, cung dâu tên cỏ phỉ nguyền xưa. Gồm người tiên kiến hướng minh,
trót đã lập công chớ để Trần Bình khong [khen] thuở Hán. Nhẫn kẻ hậu lai quy
mệnh đều cho báo hiệu, mựa nhường Kính Đức ngợi đời Đường.
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (123) . 2015 – Lý lịch sự vụ của Nguyễn Đức Xuyên 45
“Phép vô tư chẳng khuất một ai, dầu bộ khuất thiên tỳ có công ắt thưởng;
Quyền tất phạt không riêng nửa mảy, tuy huân thần quý thích phạm tội nào dung.
“Trên dưới tua dốc chí cần vương, tướng sĩ cũng một lòng địch khái.
“Thành Quy Nhơn chỉ mác đạp phá trùng vây; đô Thuận Hóa giong cờ dẹp
yên đảng ngụy. Công tru bạo gắng rồi một thuở; phước thái bình đều hưởng
nghìn thu.
“Ai tưởng câu chúa quý thần vinh mà phụng thị tại triều, ắt đặng danh đề
trúc bạch; Ai muốn chữ công thành thân thoái mà quy hưu tại dã, thời xá thuế
lính chinh dao. Trên đã bày lời, dưới tua lãnh ý. Khâm tai đặc dụ”. [Nguyên
văn Hán Nôm].
Ngày 26, kính được chỉ truyền gia thần làm Đô thống chế tước hầu, cùng
với một bộ phẩm phục, một quả ấn đồng dùng mực, quản suất viên quân bổn
binh và voi thớt Trung quân sai bát đánh giặc:
“Chỉ truyền Thần Sách quân Tri tượng chính Khâm sai thuộc nội Cai cơ
Xuyên Thanh hầu Nguyễn Đức Xuyên nhiều phen có công khó nhọc, cần được
ban phẩm trật, nên gia làm Đô thống chế quản suất 4 vệ Hùng Võ, Hùng Oai,
Phấn Oai, Hùng Dũng và 10 Tượng cơ theo Trung quân sai bát đánh giặc, cốt
làm nanh làm vuốt, phò tá bề trên, làm cánh tay cổ chân, giúp vận trung hưng.
Nếu không siêng năng quân luật thì đã có quân pháp. Khâm tai đặc truyền”.
[Nguyên văn Hán Nôm].
Mùa hạ, tháng Tư, ngày mồng 1, được Công đồng truyền: Nay Vương sư ra
quân tiễu trừ quốc tặc, triều đình sai thần dẫn tượng binh theo đường bộ đi trước:
“Công đồng truyền Thần Sách quân Tri tượng chính Đô thống chế Xuyên
Thanh hầu tuân tri: Do nay đại cử Vương sư tiễu trừ quốc tặc, nên triều đình sai
Xuyên Thanh hầu đem tượng binh theo đường bộ đi trước. Và truyền hễ đi ngang
2 dinh Bình Thuận, Bình Khang thì đến các trạm, kho tạm tính ngày lãnh lương
thực cấp phát cho quân nhu chi dùng, để siêng năng việc binh và tiện hành
trình. Truyền văn nhật hạ, tức khá tuân y. Tư truyền”. [Nguyên văn Hán Nôm].
Ngày mồng 7, ngự giá đi theo thủy binh. Ngày mồng 8, thần đem bổn
binh theo đường bộ tiến phát. Binh tới nơi khe suối thôn Chiêu Quân vào buổi
trưa thì gặp dân địa phương báo rằng có cọp dữ giết hại dân, hiện đang ở đó.
Thần liền sai viên quân tượng binh chia đạo tả hữu vây lại. Thần ngồi con voi
Chinh nhì, Phó đội Vinh Tài hầu Nguyễn Văn Vinh cỡi ở đầu, xông thẳng vào
hang cọp húc đánh giết chết.
Ngày mồng 1 tháng Tư nhuận, có tin gián điệp báo về tình hình quân
giặc. Thần soạn biểu ủy Đội phó Cần Tài hầu Lê Phước Cần thuộc vệ Hùng
Võ đến hành tại ở cảng Phan Rang bái bẩm. Lê Phước Cần về thuật lại rằng
Vương thượng dụ là đã biết việc ấy, nên cho trở về trình ngay, Vương sẽ có
phương lược chỉ bày:
“Thần Sách quân Tri tượng chính Đô thống chế Nguyễn Đức Xuyên cúi
đầu trăm lạy kính báo bẩm: Do tháng Tư, ngày mồng 8, thời chúng tôi ở tại
xứ Mụ Rịa phát hành, qua ngày 22 vừa đến Diên Khánh thành đình trú. Đến
ngày 29 vừa có điệp tử báo tin về nói rằng ngụy Tư đồ Dũng kiêm thống thủy
46 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (123) . 2015 – Lý lịch sự vụ của Nguyễn Đức Xuyên
binh trực nhập Phú Đài cảng khẩu bạc trú; còn ngụy Đô ngu Giáp thống suất
bổn bộ binh chuyển nhập Phú Yên phủ, hợp dữ ngụy Thái, ngụy Điềm dĩ vi ỷ
giốc chi thế.
“Lại nghe nói chúng nó nghị luận cùng nhau khiển binh xâm nhập ngã
địa kháng tiệt viện binh. Nghe lời điệp tử về nói thời vậy, nên chúng tôi xin
Vương sư đăng ngạn ngõ đặng lục [lên bờ để đi đường bộ] hành tựu Diên Khánh
thành dĩ phòng ngự địch. Kẻo binh Tiên Phong dinh trấn thủ Diên Khánh
thành với bổn binh chúng tôi mới ra tới đó đều bị xuông dịch khí [vướng phải
bệnh dịch], quan quân đới bệnh đãi tương quá bán. Nên chúng tôi có cạn tưởng
thế ngụy tặc chúng nó cũng có điệp tử lộn vào thám thính, dòm thấy binh tình
quân trấn Diên Khánh thành bị bệnh vả nhiều, mà bộ binh tiến vào thời ít,
còn thủy đạo lại trở nghịch phong, e chúng nó tiên đoán thừa thế thuận phong
thủy bộ binh tiến tựu nhập Diên Khánh thành đoạt thủ, quân trong thành và
chúng tôi nan phương chế địch. Chúng tôi liệu tính như nghe tin chúng nó thực
làm thế ấy thời Diên Khánh thành kiên bế thành môn cố thủ, còn tượng binh
[mất 6 chữ] đặng chờ thủy binh trực tiến thời hãy trở ra, kẻo quân bộ đi theo
tượng binh thời ít, dầu có lâm địch nan dĩ thủ thắng. Chúng tôi cạn liệu thời
vậy, cúi cám [dám] cẩn cụ biểu văn nhờ bề trên lượng thế nào mặc dạy. Chúng
tôi rất sợ rất lo. Lạy Vương thượng muôn muôn năm”. [Nguyên văn Hán Nôm].
Ngày mồng 10, binh đóng trong thành Diên Khánh nhận được chỉ truyền
thủy bộ tướng sĩ phàm có giao phong tiếp nhận, chánh viên hoặc lâm vạn nhất,
phó viên tiện nghi quản sự tiếp chiến, đợi sau khi thu quân bẩm lên. Nếu bắt
được ngụy Dũng, ngụy Diệu thì gia thưởng tước quận công, tiền thưởng tới một
vạn quan. Trở xuống thì có sai biệt. Còn như viên nào sợ sệt mà không tiến lên
thì cứ theo quân chính, để làm sáng tỏ thưởng phạt, tỏ sự khuyến trừng:
“Chỉ truyền nội ngoại thủy bộ tướng sĩ đẳng đều hay: Hễ đạo làm tướng
soái tua giữ câu: Tiến tử tắc vinh, thoái sinh tắc nhục. Ghì lòng trung phẫn,
đừng quên khi có dùng việc binh nhung. Cho biết chữ công danh là gấp, đợi
mệnh là chầy, noi phép kinh quyền mới hợp.
“Vậy nên trong dinh đã đặt làm mỗi dinh chánh phó Thống chế, chánh
phó Vệ úy, chánh phó Trưởng chi, cùng chánh phó quản Cai đội, Phó đội đẳng
viên, phòng khi bất ý thống nhiếp cho tiện. Hợp truyền như tàu thuyền ghe
chiếc nào chánh viên, phó viên đã ngồi chiếc khác thời mỗi binh quan phải dự
đặt chánh viên, phó viên quản lấy chiếc ấy cho sẵn. Hễ binh đương giáp chiến,
hoặc chánh viên nào lâm trong vạn nhất thời, phó viên tức khắc quản lấy viên
quân chiếc ấy chỉnh tề đội ngũ nỗ lực tấn công, chẳng đặng đóng lại. Nếu quân
trung hữu sự, chực đợi tấu văn, ắt là dao động chúng tâm, địch nhân thừa gian.
Đợi tàn giặc rồi bẩm bạch ngõ đặng triều đình tuyển viên thế khuyết. Kẻo cuộc
giao phong tiếp nhận, bại thành khoảnh khắc, quan hệ chẳng khinh.
“Vả phen ni thân đổng lục sư tiễu trừ đảng ác, tìm bỉ oa sào tại thử nhất
cử, hoặc như chiến tàu đôi ba chiếc, nhẫn dầu Hải đạo Sai ghe cũng vậy, bằng
ai dám dũng xông vào hãm chiến, cầm hoạch [bắt được] Tây cừ ngụy Dũng,
ngụy Diệu hoặc tống phù khuyết hạ [đưa tù binh đến dưới cửa khuyết], hoặc
hiến quắc quân trung [dâng đầu trong quân], như chánh viên thời phong dĩ
quận công chi chức. Còn phó viên nhẫn xuống gia tăng nhất cấp, lại thưởng
quan tiền nhất vạn quan. Chí ư bộ chiến, tượng chiến luận công hành thưởng
cũng đồng như vậy. Bằng đánh rồi trận chúng nó hội tán, mà ai trục bắc truy
vong, sinh cầm [đuổi theo ra bắc, bắt sống] giải nạp, hoặc trảm thủ tâu công
thời gia thưởng các hữu sai đẳng. Còn như chém đặng ngụy bối quận công, Đô
đốc, Đô ty đẳng chức, thưởng công cứ lệ.
“Bằng viên quân nào úy súc bất tiền [sợ hãi không tiến lên], xử y quân
chính, dĩ minh thưởng phạt, dĩ thị khuyến trừng. Khâm tai đặc truyền”. [Nguyên
văn Hán Nôm].
Ngày 15, ngự giá đi thủy binh tiến tới cửa Cù Huân. Thần kính đến tàu
ngự phụng hầu một ngày, rồi trở về nơi bổn binh trú đóng. Ngày 17, bổn binh
trú đóng tại thành Diên Khánh. Thần được sai quản bổn binh và chi An Võ
Trung quân họp với Khâm sai Tổng nhung Cai cơ Tánh Thiện hầu, Khâm sai
Tán lý binh vụ Thường Chính hầu [Đặng Trần Thường] chuyển đánh tiến lên,
thu phục được phủ Phú Yên cùng thủy binh thừa cơ kéo ra thành Quy Nhơn để
sớm giải vây:
“Chỉ sai Thần Sách quân Tri tượng chính Đô thống chế Xuyên Thanh hầu
hãy quản suất bổn binh và viên quân chi An Võ thuộc Trung quân, khí giới tinh
nhuệ, hợp với Tiên Phong dinh Khâm sai Tổng nhung Cai cơ Tánh Thiện hầu
và Khâm sai Tán lý binh vụ Thường Chính hầu chuyển đánh tiến lên thu phục
phủ Phú Yên, cùng thủy binh tiến công Thi Nại y theo phương lược chỉ bày,
thừa cơ kéo ra thành Quy Nhơn công phá giặc Tây, khiến chúng không thể cứu
nhau, cốt sao tập hợp ở Bình Định hẹn kỳ quyết thắng, sớm thu được công lao
giải vây tướng binh khỏi nó cầm cự, báo đáp được mệnh ta sai phái đúng người.
Khâm thử”. [Nguyên văn Hán Nôm].
Lúc đó được mệnh truyền nhưng chợt bị đau chân, nên sai người báo bẩm.
Được Vương sai ngự y Liêu Thể bá đem thuốc men đến nơi thần trú đóng điều
trị. Vương sai Khâm sai giám Thần Sách quân Nhân Nghĩa hầu đến thay quản
tượng binh, bảo vệ thần từ từ tiến phát.
Ngày 19 nhận được chỉ truyền tuyển lựa 14 thớt voi nội đồn và quân tùy
thuộc sai theo binh Tiền Phong dinh tiến thẳng vào địa giới dinh Phú Yên, số
bộ binh bao nhiêu và voi tạm trú tại thôn An Lương để đợi tin tức hư thực thế
nào tỏ rõ mới được cùng tiến vào:
“Chỉ truyền Thần Sách quân Tượng đồn Đô thống chế Xuyên Thanh
hầu: Do nay đại binh nhất cử, hãy nên thận trọng, chớ khá khinh động. Hợp
truyền như số bộ binh, tượng binh trong đồn khá chọn 14 thớt voi đực cùng
quân hộ vệ voi ấy thảy đều cho đủ mà sai theo cùng binh dinh Tiền Phong
cùng trực chỉ Phú Yên tiến công chúng nó. Còn bao nhiêu bộ binh, tượng binh
thời tạm trú tại An Lương mà đợi tin binh hư thực thế nào, ngõ đặng miếu
toán chỉ thị mới được cùng tiến vào. Truyền văn nhất hạ, tua khá tuân y.
Khâm tai đặc truyền”. [Nguyên văn Hán Nôm].
Lúc đó, thần kính ủy chánh Trưởng chi Tiền tượng là Khâm sai Cai cơ
Châu quản 14 thớt voi đực theo Tánh Thiện hầu sai bát.
Ngày 20, bổn binh trú tại thôn An Lương. Vừa trống canh năm thời báo
tin gặp một con voi rừng cao ước hơn 5 thước lìa núi xuống ăn lúa ruộng của dân
ở xứ Tô Hà trong khe núi. Lúc ấy bệnh chứng của thần hơi giảm liền truyền
binh voi vây bắt. Voi một ngà của cơ Hữu tượng đánh con voi ấy trúng miệng
chết ngay, thu lấy hai ngà và vòi, chân, ủy sai Phó đội vệ Hùng Võ là Cần Tài
hầu Lê Phước Cần lãnh đem dâng đến hành tại ở cảng Đà Diễn, và bái tấu
rằng bệnh đau chân của thần nhờ đi bắt con voi ấy đã giãn gân cốt, thư khoái
tựa như 10 phần giảm hết 9. Được Vương thượng dụ trở về truyền lại nên từ từ
tiến binh. Khâm thử.
Ngày 28, bổn binh vượt qua Đèo Cả. Được chỉ truyền quản suất viên quân
nội đồn theo Nguyễn Văn Thành điều bát đánh giặc. Khi lãnh truyền mệnh,
hỏi người đệ truyền nói rằng thủy binh ngự giá đã vào Cảng Mú phủ Phú Yên
đậu lại:
“Chỉ truyền Thần Sách quân Tri tượng chính Đô thống chế Xuyên Thanh
hầu nên quản suất viên quân nội đồn, đội ngũ chỉnh tề, khí giới tinh nhuệ, theo
Khâm sai Chưởng Tiền quân Chưởng cơ Bình Tây tiền tướng quân Thành Tín
hầu điều bát đánh giặc. Cốt cho binh quý thần tốc, nêu cao uy vũ ta hơn cả các lần
trước, để đánh quỵ mưu tham tàn của nó, mà chớ trì hoãn. Nếu tướng lược chẳng
kham thì đã có triều chương. Khâm tai đặc truyền”. [Nguyên văn Hán Nôm].
Mùa hạ, tháng Năm ngày mồng 2, bổn binh tiến đến Chợ Gò, mới nghe
Nguyễn Văn Thành điều binh đánh giặc ở đó, thần liền thúc bổn binh và voi
đến gặp binh Nguyễn Văn Thành tại đồn Chợ Gò trú đóng. Sớm ngày mồng
4, thần suất nội dinh tỳ tướng dùng heo quay, xôi đem tế thần sông núi, thần
thành hoàng bổn xứ, thần đạo lộ và binh tướng tử trận của nội dinh, mà cũng
ước rằng phàm viên quân nội dinh đều muốn cùng tử sinh, cùng cứu nhau. Từ
đó về sau, mỗi năm xuân thu hai tiết đều chọn ngày cúng tế, thành lệ từ đó.
Sớm mồng 6, Nguyễn Văn Thành sai binh của Đô thống chế Tả đồn ngự
lâm quân là Chất Thiện hầu và vệ Thần Ngũ làm tiền đạo, bổn binh voi của
thần làm hậu ứng, đánh quân giặc ở Đồng Nghệ. Binh giặc mặt trước chiếm cứ
núi Đá Chẹt, nhân nơi hiểm yếu nghinh chiến. Tiền đạo ta khó tiến. Thần xin
tiếp ứng, Nguyễn Văn Thành cho. Thần liền thúc binh voi chiếm cứ vùng khe
dưới chân núi Đá Chẹt đánh thốc làm quân địch đại bại. Quân tiền đạo cùng
truy kích đến La Hai.(1) Lũy của ngụy ở trước mặt, Nguyễn Văn Thành dẫn quân
tiến đánh, lưu [quân] Tiền Phong dinh đồn trú tại Gò Chẻ. Trận ấy bộ binh
bắt được ngụy binh và khí giới không biết bao nhiêu. Nguyễn Văn Thành dâng
biểu báo tin thắng trận về hành tại ở Vịnh Mú. Sau ban thưởng cho nội dinh
tiền 600 quan, 5 chiếc chiến y sô sa đỏ nền vải xanh, 8 chiếc áo diệp y lụa đỏ
nền vải xanh.
Ngày mồng 8, gián điệp trở về báo rằng có đường tắt có thể tiến công đồn
giặc La Hai. Sớm mồng 9, Nguyễn Văn Thành phân binh Tả đồn ngự lâm quân
và viên quân vệ Hùng Oai cùng 10 thớt voi đực làm tiếp ứng, đều theo đường
1 La Hai: một thị trấn ở vùng trung du Phú Yên, cách huyện lỵ Tuy An 18km.
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (123) . 2015 – Lý lịch sự vụ của Nguyễn Đức Xuyên 49
tắt vượt núi mà tiến. Giờ Tỵ, đột nhiên xuất hiện ở Đồng Dài là mặt lưng của
quân giặc đồn La Hai. Các đạo binh nhất tề bắn súng xông vào đồn giặc. Binh
và voi của ngụy điều bát Đô đốc Hoan đại loạn, bỏ đồn tan vỡ. Ta truy kích đến
xứ Mụ Lãnh, Nguyễn Văn Thành mới án binh dừng. Lúc đó các đạo và quân
nội dinh bắt được lính ngụy trốn thoát, súng, khí giới và một thớt voi đực. Đến
ngày sau, quân dinh Tiền Phong bắt được ngụy điều bát Đô đốc Hoan nạp lên.
Nguyễn Văn Thành dâng biểu thắng trận về hành tại ở Vịnh Mú. Sau được ban
thưởng cho nội dinh 550 quan và 40 chiếc áo lụa hồng (nội dinh 20 chiếc, ngự
lâm quân Tả đồn 20 chiếc), Nguyễn Văn Thành lại thưởng riêng cho nội dinh
458 quan.
Ngày 22, Nguyễn Văn Thành đốc thúc các đạo bộ binh tiến tới Đồng Thị.
Lúc đó bổn binh, voi của thần đóng ở mặt sau dưới đèo Lão Hương. Ngụy binh
dựa vào chỗ hiểm làm thêm lũy. Bộ binh đóng đồn đối lũy cầm cự nhau.
Ngày 26, Nguyễn Văn Thành cất binh công hãm bốn mặt thành Núi
Chúa. Bổn binh và voi của thần làm hậu ứng. Hữu chi Tả đồn ngự lâm quân
công hãm đồn ngụy ở góc tả Núi Chúa. Các viên Phó chi, Trưởng hiệu đem quân
đầu theo ngụy, Nguyễn Văn Thành bèn thu binh về đồn.
Ngày mồng 2, tháng Sáu, thần được chỉ truyền chia số voi thần quản ra
hai phần, một phần để lại cho Cai cơ Văn tạm quản theo Nguyễn Văn Thành
sai bát đánh giặc, một phần thần quản dẫn đến đèo Cù Mông cùng với Đô
thống chế Tả dinh Thần Sách quân Duyệt Hòa hầu đồng lòng đánh giặc:
“Chỉ truyền Thần Sách quân Tri tượng chính Đô thống chế Xuyên Thanh
hầu khâm tri: Do nay đã sai Thần Sách quân Tả dinh Đô thống chế Duyệt Hòa
hầu đem binh lên đường Cù Mông kiêm quản Hữu quân phó tướng và viên quân
Hữu đồn ngự lâm quân tướng hiệu nội dinh tiến thẳng đến Phú Trung, Bình
Định tảo thanh quốc tặc.
“Hợp truyền như Tượng chính viên quân thời phân làm hai phần, chọn lấy
người cũ một phần với voi đực một phần, cùng bao nhiêu voi cái để lại mà đặt
Cai cơ Văn tạm quản tòng Khâm sai Chưởng Tiền quân. Còn Xuyên Thanh hầu
tuyển một phần voi hay, cùng một phần Tượng chính viên quân, tức nhật đem
xuống Cù Mông đèo(1) hợp dữ Đô thống chế Duyệt Hòa hầu đồng tâm phá địch,
tảo kiến kỳ công. Khâm tai đặc truyền”. [Nguyên văn Hán Nôm].
Lúc đó thần vì quân Tả đồn nhớ nhà, nhân đánh nhau mà đầu hàng giặc.
Quân giặc vì thế kiêu căng, tất nhiên tử thủ. Vả bộ binh lấy voi mà tiến công.
Nay được mệnh truyền chia làm hai phần, một phần ít ở tại lũy, giặc tất thừa
cơ tấn công. Bèn đem thiển kiến viết biểu văn tâu lên, xin triệu viên quân Tả
đồn ngự lâm quân đến lệ theo thủy binh. Còn số voi xin để hoàn toàn tại lũy để
chống cự địch. Đã kính soạn biểu văn gởi đến hành tại ở Vịnh Mú để chờ mệnh:
“Thần Sách quân Tri tượng chính Đô thống chế thần Nguyễn Đức Xuyên
khể thủ đốn thủ [cúi đầu rập đầu] bách bái đồng lạy đức Vương thượng muôn
muôn năm cao minh ngự lãm. Nay chúng tôi vâng thấy chỉ truyền chúng tôi
quản bán phần tượng binh xuống đèo Cù Mông, còn nửa phần tượng binh giao
cho Cai cơ Văn quản lấy tòng quan Chưởng Tiền quân sai bát. Vả Cai cơ Văn
người cũ trung thành lưu dưỡng tại Diên Khánh thành chưa ra, mà người mới
Cai cơ Kiên, Cai cơ Châu nước dám lấy làm tin, nhiệm ủy gởi cho đành [quốc
gia chưa dám lấy làm tin mà giao phó]. Huống trong Tượng chính, quan quân
sơ phụ thời nhiều, e xa chúng tôi nhân tình mạc trắc, rất sợ rất lo. Nay chúng
tôi trộm thấy quan Chưởng Tiền quân chuyển tâu xin để chúng tôi lại một ít
người, chờ Xiêm binh đến rồi chúng tôi sẽ tất giao tượng binh xuống đó. Đại
lược thời vậy, chưa biết bề trên phát lạc lẽ nào, chúng tôi chưa dám huyễn tiện.
Chúng tôi lại trộm thấy ngự lâm quân Tả đồn hằng trốn qua cùng giặc, nhất
thiết hư thực tiết lậu quân cơ. Dám xin như binh ấy triệu hồi phụng thị, một là
sai xuống Cù Mông cùng đồn Hữu, hoặc có giảo kỳ ưu liệt [so sánh hơn thua],
phấn kích tranh tiên [hăng hái giành lên trước], tế thành kỳ sự biến dẫu đào
trốn lẽ gì thà một nơi tiết lậu mà các nơi hãy mật cơ mưu chế địch. Chúng
tôi ngu kiến nhường ấy, chưa dám tất nhiên. Cúi dâng lượng trên thần đoán”.
[Nguyên văn Hán Nôm].
1 Cù Mông: núi và đèo cao 245m, giáp giới giữa Phú Yên và Bình Định, dài 6km, cách Quy Nhơn
24km về phía nam.
Ngày mồng 6 kính được chỉ truyền đại lược nói rằng xem biểu văn ấy đã
tường hư thực. Hiềm Đồng Thị là nơi núi cao hiểm trở không phải là thế dùng
voi. Mà quan lộ mặt dưới, từ Truông Dự cho đến Cây Na một dải bằng phẳng
lợi cho việc dùng voi. Nên y theo lời truyền trước, để lại một phần tượng binh
do thần đích thân quản lãnh cùng với Thành Tín hầu tùy cơ đánh địch. Còn
một phần nên chọn voi đực từng trải chinh chiến và tùy binh 100 người, đặt
viên cai quản, đem voi Nhảy, voi Chinh nhì một thể đến tại đèo Cù Mông để
tiện ngự giá thân chinh khá được vạn toàn. Còn như việc triệu hồi Tả quân thì
chờ khi binh Xiêm đến, khanh hãy tự đem quân bản bộ và voi đến hành tại:
“Chỉ truyền Thần Sách quân Tri tượng chính Đô thống chế Xuyên Thanh
hầu khâm tri: Hễ là dùng binh quý tại nhơn địa lợi, mà nay a khanh [cách gọi
quan gần gũi] có hồi biểu xin lưu toàn bộ tượng binh để lại trên ấy thời ta xem
thử biểu văn đã tường hư thực. Song tưởng trên ấy là đường nham lĩnh tuấn
hiểm dĩ phi dụng tượng chi thế, mà đường Truông Dự nhẫn đến Cây Na thời
nhất lộ bình thản, lợi tại dụng tượng. Lại thêm dưới ni là chỗ chúng hư trương
vô bị. Nếu chẳng nhơn theo thế ấy sao tằng chế thắng chi cơ [từng có cơ thắng
lợi]. Hợp truyền a khanh khá y theo tờ truyền ngày trước mà phân tượng ấy
làm hai, thời a khanh quản lấy một phần ở trên ấy cùng Thành Tín hầu tùy cơ
ứng địch. Còn một phần thời lựa những thớt voi đã lịch chiến cùng quân cỡi voi
cho đủ. Còn binh theo chân voi thời lựa 100 viên quân mà sai người quản lấy
một phần ấy, cùng đem thớt voi Nhảy, voi Chinh nhì thảy đều tề tựu Cù Mông
đèo tức tốc trì đáo ngõ ta tự tương mới đặng vạn toàn. Chí như Tả đồn triệu hồi
chi sự nghi đãi tảo vãn Xiêm binh tiến chí thời Thành Tín hầu phân sai, rồi a
khanh điều voi ấy về đường ni, y Thành Tín hầu sở bẩm. Khâm tai đặc truyền”.
[Nguyên văn Hán Nôm].
Lưu thủ Ngoạn Ngọc hầu và tướng Xiêm Cao La Hâm đem binh voi đến
đồn Đồng Thị đóng đồn. Ngày 23, Nguyễn Văn Thành đốc thúc các đồn ba mặt
tấn công giặc ở đồn Núi Chúa, lũy Mang Cá. Vốn trước Nguyễn Văn Thành
đã ngầm sức đào hầm gần sát mặt lũy giặc ước hơn 4, 5 tầm. Quân dinh Tiền
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (123) . 2015 – Lý lịch sự vụ của Nguyễn Đức Xuyên 51
Phong và binh của thần là vệ Phấn Oai đã thừa cơ tấn công. Binh giặc tử thủ,
Nguyễn Văn Thành thu quân về đồn.
Mùa thu, tháng Bảy, ngày 13, kính được chỉ truyền thắng trận, lấy được
trên từ núi Hoa An, dưới thông đến Cây Na. Lại nói nghe bọn địch đồn rằng
binh nước Xiêm La, Ai Lao đánh vào Bắc Hà. Và các trấn Đông, Đoài, binh dấy
cho nên liệu bọn ngụy tất sẽ gắng sức một trận để lui quân về cứu nơi căn bản.
Nay hãy đem bổn binh, voi đực cùng với quân Tả đồn ngự lâm quân về hành
tại hội binh đánh dẹp:
“Chỉ truyền Thần Sách quân Tri tượng chính Đô thống chế Xuyên Thanh
hầu khâm tri: Do nay dưới ni đánh lấy phía núi, trên liền Hoa Lộc, dưới thông
Cây Na, đặng nhiều nẻo khả dĩ tiến công. Tưởng như tướng sĩ trên ấy đối lũy
chầy ngày, trót đà lao quyện, dầu sai lũy chiến, chưa tiện thu công. Nay cứ
quân ta phiêu phong [bị gió dạt] năm ngoái trốn về bẩm rằng có thằng Đô ty
Ngoạn ở ngoài Phú Xuân điều ủng vào cho thằng Diệu, thằng Dũng, thằng
Định là ngày mồng 8 tháng ni nói rằng binh Xiêm, binh Lào cùng Bắc Hà
đã trổ xuống đánh lấy xứ Vịnh [tức là Vinh sau này], nhẫn vào Ba Đồn, đóng
đồn đặng 18 cái. Còn xứ Thanh, cùng xứ Đông, xứ Đoài đều cùng dấy binh mà
mấy bữa rày hằng nhơn quân Bắc, quân Huế trốn vào, ta gọi mỗi đứa đều nói
như xuất nhất khẩu, nên ngoài xứ Vịnh ủng tắc lương đạo. Như lương xuống
thủy chở vào ngày trước đã hết, lương bộ cũng thiếu, nó cậy lương dân ăn cũng
chẳng đủ. Thế nó bây giờ chẳng khác “đê dương xúc phiên” [dê đực húc giậu]
tiến thối duy cốc, nên tính nó cùng nhau trên ấy hãm đã hai phen chẳng đặng.
Nay nó đem hết voi xuống dưới ni lại liều cô chú nhất trận ngõ đặng tuyền
sư cứu kỳ [kéo quân về cứu lấy] căn bổn. Dầu ta có đánh ắt là chúng nó ưng
thúc động binh. Hợp truyền nghi tất suất hùng tượng cùng viên quân đồng dữ
ngự lâm quân Tả đồn tướng sĩ mà xuống cùng ta dưới ni hội binh công thảo,
tảo kiến giải vi chi tích, cùng thu toàn tiệp chi công. Khâm tai đặc truyền”.
[Nguyên văn Hán Nôm].
Được m?nh truyền ấy, thần lo chỉnh đốn khởi hành. Lại có mật chỉ truyền
chọn viên quân tâm phúc, súng khí tinh nhuệ, đốc thúc xem giữ cho kỹ lưỡng
quân Tả đồn ngự lâm quân đến nơi đậu tàu bè để hầu việc binh, xong thần lại
trở về đồn Đồng Thị theo Nguyễn Văn Thành lo việc binh:
“Mật truyền Thần Sách quân Tri tượng chính Đô thống chế Xuyên Thanh
hầu khâm tri: Nghi phân phát tâm phúc viên quân đem hùng tượng đẳng thớt,
súng khí tinh nhuệ, đốc thúc cùng xem giữ quân đồn Tả cho tử tế đem xuống
dưới thủy cho gấp đặng tính viện binh, rồi thì a khanh tuyển các voi sấu nhược
[gầy yếu] để lại Chợ Gò cho quân canh giữ. Còn voi hầu cùng voi các cơ cùng
tượng binh quân thời a khanh tất suất theo đường Hà Nghiêu lên đồn Đồng
Thị tùng Khâm sai Chưởng Tiền quân phân ưu binh sự. Khâm tai đặc truyền”.
[Nguyên văn Hán Nôm].
Trước là Phó chi Tuấn thuộc hậu chi Tả đồn ngự lâm quân dẫn 100 người
đầu hàng ngụy, phó Vệ úy vệ Hùng Võ là Tốt truy đuổi bắt được tên Tuấn giải
nạp. Nguyễn Văn Thành đã chém để thị chúng. Lúc soạn biểu kính đệ bẩm lên
thời Chất Thiện hầu có nói phân bua với thần xin lấy bổn binh số quân cũ đi
theo đồn trú, nhưng sợ trong đồn có viên quân nhớ nhà bỏ về lại lụy đến mình.
Thần đem việc ấy trình, Nguyễn Văn Thành thuận cho đem bổn binh là viên
quân 3 đội thuộc vệ Hùng Oai hơn 150 người, khí giới đầy đủ theo Chất Thiện
hầu đồn trú. Đến nay có mật chỉ, thần liền làm gông ngắn bắt số quân Tả đồn
thúc lên đường.
Ngày 18, thần và viên quân Tả đồn, voi cùng lên đường. Đến ngày 25 đến
tại cửa biển Cù Mông, thần và Chất Thiện hầu xuống tàu ngự lạy chầu, được
chỉ sai viên quân Tả đồn đều xuống ghe Sai. Việc xong thần được Vương thượng
tận mặt ban chỉ dụ cho tiền 500 quan để lo ăn uống, tức tốc đem bổn binh trở
về đồn Đồng Thị, vì có Nguyễn Văn Thành dâng biểu bẩm rằng ngụy binh đang
công hãm hậu đồn. Bái mạng xong thần đem bổn binh ngày đêm lên đường,
đến ngày 27 về tới bổn đồn. Nguyễn Văn Thành thuật rõ như trước: “Ba ngày
hiền hầu ra đi thì ngụy binh công đồn rất gấp, đã có biểu gởi về hành tại. Và
thuộc viên là Cai cơ Núi trốn mà đầu hàng giặc. Lại thêm binh Xiêm ngầm sắp
sinh biến, cần dùng kế cho có quy củ nã bắt, nên đã có biểu đệ về hành tại”.
Ngày 29, Nguyễn Văn Thành triệu viên binh của Cao La Hâm răn dạy về
việc gây biến, chúng nó khấu đầu chịu tội. Liền sai Khâm sai Chưởng Hữu quân
Đức Thiện hầu giải về hành tại ở Cù Mông dâng nạp.
Tháng Tám, ngày 25 được ban cá tôm khô, chè xanh, cho viên quân các
đạo nội dinh, đã chia đủ. Sớm ngày 10 tháng Chín, Nguyễn Văn Thành bảo
rằng vâng mệnh lập tức đốc thúc bộ binh các đồn chia nhau công hãm đồn giặc.
Vệ Phấn Oai bổn binh công hãm đồn Cột Cờ Núi Chúa. Phó Vệ úy vệ ấy là Huệ
Đức hầu và hai viên Cai đội bị ngụy bắn súng chết. Giờ Tỵ, Nguyễn Văn Thành
thu quân về đồn.
Ngày 15, thần dâng biểu bẩm về hành tại ở cảng Vịnh Mú:
“Thần Sách quân Tri tượng chính Đô thống chế thần Nguyễn Đức Xuyên
khể thủ đốn thủ bách bái cẩn bẩm lạy đức Vương thượng muôn muôn năm cao
minh ngự lãm: Vả chúng tôi cúi xét xưa nay hổ phận tôi con, trộm nhờ thánh
đức nên chúng tôi bao nhiêu ngây dại lượng trên đều đã biết đặng. Chúng tôi
may nhờ chẳng bỏ, mới đặng danh phận nhường ni.
“Nay tới cơ hội ni trung hưng chi vận trời thực đã dành. Chúng tôi
ngay dạ trước tưởng thiên binh đại cử một phen, quyết đặng chẳng đến lâu
chầy. Cớ sao tới nay Tây tặc chi trì, vây thành Bình Định chưa mở, để lo cho
quân thượng.
“Chúng tôi rất hổ làm trai uổng nhờ cơm áo, tội khôn xiết kể. Nên chúng
tôi hằng thưa quan Tiền quân giục giã đánh đồn ni, hãm thành khác.
“Ai ngờ quân đồn Tả mông lòng phát lỡ cơ hội. Nhẫn qua tháng Bảy,
tháng Tám, chúng tôi hãy còn muốn tốc chiến. Chẳng qua là muốn giải vây
Bình Định cho sớm ngõ đặng đánh Huế, đánh Bắc cho yên. Chẳng phải là binh
ta kế cùng mà toan việc hãm đồn ấy. Ngày trước chúng tôi thời tưởng vậy, tốc
chiến là phải. Đến qua tháng Chín tới nay, ngây tưởng binh ta rất lợi tại hoãn
chiến, là vì Nam phong chi kỳ vị chí [kỳ gió Nam chưa tới], lợi tại hoãn chiến.
Chúng tôi dại dột điều đặng, điều mất xin cạn trí ngu, nghị rằng:
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (123) . 2015 – Lý lịch sự vụ của Nguyễn Đức Xuyên 53
“Thảng như thành Bình Định không lương giữ rất khó đặng đến tháng
Chín, nên chúng tôi tính kế cực chẳng đặng đã, mà đánh cầu may thời xong
đặng cùng chưa đặng cũng chưa quyết. Huống chi thành Bình Định yên như
bàn thạch, lương hướng đã đủ đến sang năm tháng Bảy, tháng Tám, thời đánh
lấy Huế, lấy Bắc có dư.
“Chúng tôi liệu tưởng thiên lý bất dung loạn thần tặc tử, buộc trói thằng
Diệu, thằng Dũng cùng cường binh ngạnh tốt tại xứ Quy Nhơn, ngõ giúp quân
thượng tung hoành thiên hạ cho dễ. Dám xin phải theo thiên ý kẻo lỡ sự cơ.
Phải cố gấp rút chia mà đánh cầu may cho nhọc lượng bề trên. Nên chúng
tôi dám xin sau từ 50 ngày nữa thời binh ta mới lợi. Vả qua từ tháng Giêng,
thủy [binh] ta thời khả dĩ vãng lai mới đặng lưỡng lợi. Như tính làm vậy
phải mật truyền cho quan Hậu quân rằng lượng trên tính việc lớn nên chậm,
chẳng phải gấp lo việc giải vây, khuyên khá vỗ ủy quân sĩ cho tử tế mà giữ
lấy thành, đừng có bội lòng, ngõ chờ công lớn. Như ngày rày, hàng binh viên
quân nào kỳ tâm bất trắc, cùng tàu hải chiếc nào đồi tệ đã bẩm, với quân ta
sấu nhược, khá lựa một ông quan cho tử tế, ngõ đem nó về Gia Định dĩ giảm
lương số.
“Lại định kỳ triệu tại quân binh cùng tăng điểm dân đinh, đồn điền phu
thuộc quân tạm vi binh dĩ tăng sinh lực, tịnh tận quét Phú Yên dân đinh dĩ
tăng thủy binh.
“Chúng tôi lại dám xin bẩm như ngày trước lượng trên sai Bích Thụy cùng
Lao Thành trực xuống đánh phá Nghệ An, ngõ cho thằng Dũng, thằng Diệu lo
ngoài ấy, phân binh về cứu thời ta dễ đặng thu công. Đến nay chưa đặng thành
hiệu là vì ta bất gia trọng binh, luống lấy làm hư, chưa lấy làm thực, thâm tiết
lậu sự cơ. Nên nó không làm giới ý, rất uổng công ta, chúng tôi rất tiếc.
“Chúng tôi dám xin như tượng binh chúng tôi dâng lại lượng trên chọn
đặt quan khác quản. Còn chúng tôi xin 20 thớt voi cùng bổn binh chúng tôi,
lại tăng bổ vệ Oai Võ, cùng tăng cấp vệ Hùng Võ, Hùng Oai, Phấn Oai cho đủ
số ba ngàn với mấy quân Thuận Hóa, Bắc Hà, Quy Nhơn tân hàng thêm đặng
cũng tốt, kẻo để nó vô dụng mà uổng. Qua đầu tháng Chạp sai chúng tôi ra cho
kịp Bích Thụy, ngõ hầu chúng tôi chiêu dụ Bắc Hà ứng nghĩa chi binh, công
thu Thanh-Nghệ, đánh vào Phú Xuân. Kỳ trong 3 tháng vô lao thánh toán, mà
thằng Dũng, thằng Diệu dầu chẳng đánh thời nó cũng hư.
“Bằng lượng trên lấy việc ấy làm “tư viễn” chẳng dung. Chúng tôi xin qua
tháng Hai cho chúng tôi xuống thủy đánh ra Thuận Hóa, Quảng Nam, Quảng
Nghĩa các xứ, đánh phá tuyệt lương. Còn đại thủy binh giữ cửa Chợ Giã, bộ
thời giữ Đồng Thị cho chắc. Như làm vậy dầu quan Hậu quân đem thành Bình
Định mà cho thằng Diệu, thằng Dũng thời hai đứa nó cũng khôn phép giữ đặng.
Chúng tôi xin kỳ trong hai tháng, thời đầu thằng Dũng, thằng Diệu ta cũng lấy
đặng. Dẫu việc ấy chẳng làm, cũng xin qua tháng Hai, chờ có thuận phong, thời
cũng êm trời, thủy thời đánh phá cửa Chợ Giã, bộ thời lựa chỗ hở đại chiến một
lần thời còn khá thủ thắng. Như tiết rày thời gió mưa, thời quân ta rét mướt,
tìm đường hóa hiểm mà đánh cầu may, chúng tôi rất tày lo nhiều nỗi.
54 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (123) . 2015 – Lý lịch sự vụ của Nguyễn Đức Xuyên
“Vả xứ ni là giặc nó vẫn đã làu thuộc hơn ta. Như ngày trước lật đật nó
chưa kịp quan phòng, cũng hãy còn nên đánh cầu may. Huống đến nay cầm
nhau đã 6, 7 tháng, chúng tôi e nó đã dự phòng các nẻo. Nếu ta chẳng cẩn thận
ắt cũng khó chịu.
“Lại dẫu ngày rày đã ắt đánh cầu may mà đặng một chỗ đường đất đi từ
một buổi thời ta cũng chẳng lợi, đường lương xa xôi, là vì nó tuy bỏ chỗ ấy, hãy
còn giữ chỗ khác đặng, thời nó cũng tất tử mà giữ, chớ không lẽ nó bỏ tàu hải
mà nó đi đâu cho đặng.
“Thảng như Vương thượng hữu ý, trên bộ nếu phải xin người năng qua
lại đi thám cho lắm ắt lậu ra nỏ biết. Xin hãy để dành ngày sau tính việc cho
dễ, nên chúng tôi tưởng vậy, quên mình ngây dại, mạo tội bẩm văn, dám xin
lượng trên đọc lãm. Dầu nên hư khôn dại, nhờ lượng thủ xá tha bắt, xin đừng
cho các quan thấy, ắt là chúng tôi thủ tử chi đạo, lại mang tội trở binh. Chúng
tôi thành hoàng thành khủng, bất thắng chiến lật chi chí [thực sợ hãi, run sợ
khôn xiết] cẩn bẩm”. [Nguyên văn Hán Nôm].
Ngày 21, Nguyễn Văn Thành được gián điệp về báo người Man đã theo
đường tắt tấn công mặt sau đại đồn của giặc. Bèn ủy Cai đội đội 9 vệ Hùng Võ
thuộc nội dinh là Luận Chính hầu, cùng với phái viên của Nguyễn Văn Thành
ngầm đi do thám xác nhận thực. Nguyễn Văn Thành dâng biểu về hành tại xin
chỉ định đoạt.
Mùa đông, tháng Mười, ngày 15, thần được chỉ truyền vì vùng Đồng Thị
núi khe ngăn chặn, cỏ liệu không đủ, nên chọn voi đực khỏe mạnh, để lại 20
thớt voi tại Đồng Thị để sung vào việc binh, còn bao nhiêu voi gầy yếu đem về
đồn La Hai nuôi dưỡng. Còn thớt voi nào quá yếu thì đem tới đồn Chợ Gò săn
sóc. Được lệnh truyền thần đã chọn lựa:
“Chỉ truyền Thần Sách quân Tri tượng chính Đô thống chế Xuyên Thanh
hầu khâm tri: Vả Đồng Thị địa phương sơn khê giao tạp, thảo liệu bất chu, mà
hùng tượng trên ấy mục dưỡng rất khó, nên nhiều thớt sấu nhược [gầy yếu] ăn
đất. Hợp truyền nên liệu tính trình dữ Khâm sai Chưởng Tiền quân Bình Tây
tướng quân Thành Tín hầu chọn những thớt voi mạnh tốt từ 20 thớt voi đủ dùng
tại đó, còn bao nhiêu thời đưa về đồn La Hai. Vả đồn ấy có Tiên Phong dinh
Khâm sai tổng nhung Cai cơ Tánh Thiện hầu ngõ đặng mục dưỡng cho tiện.
“Thảng như có thớt nào bệnh lắm thời khá đem xuống Chợ Gò mục
dưỡng, vốn hùng tượng binh dùng rất trọng, a khanh tua chí quan tâm. Khâm
tai đặc truyền”. [Nguyên văn Hán Nôm].
Tháng Mười Một, ngày 18, Thần Sách quân Tả dinh Đô thống chế Duyệt
Hòa hầu đem bổn binh đến Đồng Thị trấn giữ thay. Các đồn ấy trước do Nguyễn
Văn Thành chỉ huy, khi biết được có đường tắt để tấn công phía sau đồn giặc,
đã đem việc ấy dâng biểu tâu về. Đến nay được thuận, liền sai Duyệt Hòa hầu
đem binh đến trấn giữ thay các đồn Đồng Thị để tiện cho Nguyễn Văn Thành
đốc thúc các đạo bộ binh ngầm vượt đường tắt tấn công đồn giặc.
Ngày 19, giờ Thìn, Nguyễn Văn Thành đem bộ binh các đạo cùng với bổn
binh tượng của thần ngầm vượt qua đường tắt ở tây nam Núi Chúa.
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (123) . 2015 – Lý lịch sự vụ của Nguyễn Đức Xuyên 55
Ngày 20, giờ Dậu, binh trú đóng ở lưng chừng núi Suối Bọt. Đêm ấy trời
mưa, voi đực tên là Rạp bị chứng hàn phong chết ở đó.
Sớm ngày 21 tiến binh đối xứ Man Đát, hết lương, chỉ ăn khoai nướng
đỡ đói, áo quần thấm ướt, chỉ dùng lá cây che đỡ lạnh mà không dám dùng lửa
sấy khô.
Ngày 22, giờ Mùi, Nguyễn Văn Thành phát hiệu lệnh, các đạo binh nhất
tề đánh vào sau đồn đèo Nhà Cắp, đốt cháy đồn trại, ngụy binh đại loạn trốn
chạy. Ta truy kích, đến chiều tối mới thu quân, chiếm đóng đồn.
Sớm ngày 23, Nguyễn Văn Thành và các đạo binh tiến đến lũy ngang của
giặc tại Truông Cờ, đốc thúc đánh vào, ngụy binh đại bại trốn chạy. Bổn binh
voi của thần cùng với Duyệt Hòa hầu phá lũy, đốc thúc binh giữ đồn nhất tề
tiến đánh, đuổi đến truông Đồng Tuần. Binh tiền đạo của Nguyễn Văn Thành
và binh của Tiền dinh Đô thống chế Triệu Nghĩa hầu, phó Đô thống chế Hậu
Đức hầu, chánh Trưởng chi Tả tượng Kiên Đức hầu, chánh Vệ úy vệ Hùng Võ
Nghĩa Lý hầu bị ngụy Đô đốc Đức và ngụy Hữu đồn Chiêu thu binh tử chiến
phải lùi. Ngụy binh thừa thắng đuổi gấp. Ta mất voi đực tên Kèo Nhỏ thuộc cơ
Hữu tượng. Thần thấy tiền đạo thất lợi, liền đốc thúc bổn binh nghinh địch.
Hai tướng ngụy thua chạy, các đạo thu binh và truy đuổi bắt được 6 thớt voi đực
của địch. Xa trông thấy binh tượng của Nguyễn Văn Thành ở góc trái đường
liền dẫn binh cùng đuổi, đánh bại binh ngụy rồi trú đóng ở đồn Đồng Tuần.
Ngụy Đô đốc Thu và 28 tên bổn bộ ra quy hàng nơi cửa quân của Duyệt Hòa
hầu. Hỏi ra biết là người cũ, bèn ủy người đem tới chỗ thần, thần lại giải đến
nạp cho Nguyễn Văn Thành. Lúc đó tiến binh đồn trú ở Đồng Hoa, Đồng Dài.
Nguyễn Văn Thành ủy thần chia tượng binh phòng ngự để tiện cho bộ binh các
đạo làm đồn trại. Binh ngụy dựa thế hiểm yếu cố thủ. Hai bên giằng co công
hãm suốt ngày, nhưng vẫn chưa hạ được.
Tháng Chạp, ngày 15, Nguyễn Văn Thành sai binh của Phó tướng Tiền
quân Long Vân hầu tiến đánh đèo Đá Mài. Thần ủy chánh Vệ úy Trực Lý hầu,
vệ Hùng Dũng nội dinh cùng với 14 thớt voi đực theo sau tiếp ứng. Lúc đó thần
bị bệnh, Nguyễn Văn Thành cho thuốc thang và ủy Tham mưu Thái Hòa hầu
chẩn trị, và dâng biểu bẩm về hành tại.
Ngày 18, quản đội Tiểu sai là Huề Đức hầu đem nhân sâm vua ban tới,
thần dùng được tạm giảm. Thần đem ngu kiến nói với Huề Đức hầu về thay tâu
rằng: Thần vốn biết Duyệt Hòa hầu và Nguyễn Văn Thành bất hòa, xin triệu
Duyệt Hòa hầu về hành tại quản thủy binh phá đồn Thi Nại, đại sự ắt xong.
Nếu không thế thì thần nguyện xin đi. Còn Phước Lộc hầu [Tống Viết Phước]
tuy có xin đi nhưng chưa chắc điều khiển được các đạo, chỉ vì dũng cảm mà đi.
Ngày 21, ngụy binh chia nhau hãm đồn vệ Ngũ Thần thuộc Tả quân và
đồn Hữu chi tiền quân, đồn Long Võ tiền dinh với đường Đèo Lá cũng bị xung
kích, từ giờ Dần đến giờ Tỵ. Nguyễn Văn Thành ủy thần đem bổn binh và voi
chiến giữ đường sau lưng tấn công. Ngụy binh đại bại, bắt được binh tướng hơn
trăm người và khí giới về nạp. Hôm ấy, ngụy binh cũng chia đánh đồn Đá Mài,
56 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (123) . 2015 – Lý lịch sự vụ của Nguyễn Đức Xuyên
vây hãm đồn Hữu dinh rất gấp. Nguyễn Văn Thành sai Tham quân Tượng dinh
là Nguyên Đức hầu, chánh Vệ úy vệ Hùng Dũng là Trực Lý hầu, chánh Trưởng
chi chi An Võ là Uyên Thanh hầu cùng với 30 thớt voi đến tiếp chiến. Ngụy
binh đại bại trốn lui vào lũy nó. Ta thu quân.
Trong năm Canh Thân trên, nội dinh đánh trận, nội trong hai trận đã
được thưởng tiền cả thảy 1.618 quan và 30 chiếc áo chiến.
Tân Dậu, Cảnh Hưng năm 62 (1801): Mùa xuân, tháng Giêng, ngày
14, Nguyễn Văn Thành kiểm điểm số quân nội dinh bổn binh của thần có mặt
2.128 người, ngoài ra số đi sai phái và ốm đau các hạng 393 người.
Đêm 15, Nguyễn Văn Thành có mật tờ vâng mật chỉ đốc thúc bộ binh đến
đêm 16 phân binh chia đánh các đồn lũy giặc để tiện cho thủy binh đánh thủy
đồn giặc.
Ngày 17, Thánh thượng lấy được cảng Thi Nại. Nguyên trước, ngụy Tư đồ
Dũng quản thủy binh nhiều lần thua, thế cùng, nên lấy hai chiếc tàu lớn hiệu
là Định Quốc đậu chắn cửa khẩu cảng Thi Nại; sau đó lại đậu thêm các chiến
hạm chở binh khí. Ngụy Thiếu phó Diệu quản bộ binh đóng lũy đối diện, cho
là súng ống khí giới đã chở cũng đủ. Đến nay Vương thượng sai Thần Sách
quân Tả dinh Đô thống chế Duyệt Hòa hầu quản thủy quân Túc trực, nhân đêm
tối cỡi thuyền nhỏ đột nhập, dùng đèn chiến hỏa khí đốt cháy, làm binh ngụy
Dũng tan vỡ trốn lên bờ, [quân ta] lấy được đồn đất Quán Lạc và súng ống
nhiều không kể xiết.
Hôm đó Nguyễn Văn Thành và các đạo bộ binh nghe báo tin liền họp
mặt vui vẻ không gì hơn. Thần nói rằng: Giặc đã thất lợi đường thủy, tướng
sĩ rúng động, ta nhân thế tức thời bốn mặt công hãm. Nếu để dài ngày nó
sẽ họp binh thủy bộ, ta đánh thì nó đã vững sĩ khí, lẽ tất nhiên vậy. Nguyễn
Văn Thành cho lời ấy là đúng, bèn sớm 18 cho hãm đồn Cây Na, ngày 19
hãm đồn Phú Trung. Nguyên quan quân các đạo sai phái phải thối lui, đến
trung đạo, Nguyễn Văn Thành ủy thần kéo ra trận hữu tấn công. Bổn binh
của thần là Phó đội Thị tượng chi Điển Lễ hầu, Cai đội Trinh Vũ về hàng là
Hạch Đức hầu bắt được ngụy Đô đốc Hạch chém đầu, bắt được hai thớt voi
đực là voi Ngẫu và voi Tiêu. Các đạo cùng truy bắt được khí giới không kể
hết, và lấy lại được hai khẩu súng hỏa xa đã mất ngày trước của Tả quân phó
tướng Đắc Lộc hầu.
Ngày 30, giờ Thìn, Vương thượng lên đồn Cây Na xem xét các đồn lũy,
ban chỉ cấp cho các đạo bộ binh một tháng tiền và áo quần có sai biệt. Đêm ấy
Vương thượng trú tất ở đó.
Tháng Hai, ngày mồng 1, ngự giá thu quân về cảng Thi Nại. Hôm đó Cai
cơ Long vốn là thuộc viên của thần từ trong thành Quy Nhơn đem tin mật về
binh lương trong thành về báo, thần liền dẫn tới trình. Nguyễn Văn Thành
một mặt sai đội thị chiến về bẩm nhanh, một mặt sai Phó đội Muôn đến phố
Chợ Đê đợi đến giờ Tuất đốt 5 cây hỏa hổ và 3 ngôi nhà dân để báo tin cho
trong thành.
Ngày 11, kính được chỉ truyền xuống Tham quân nội dinh là Nguyên
Minh hầu cùng quân bản bộ về nhanh hành tại để có việc ở Quảng Nam. Hiềm
Nguyên Minh hầu bị bệnh không về ứng mệnh được:
“Chỉ truyền Tri tượng chính Đô thống chế Xuyên Thanh hầu khâm tri:
Hễ tránh thực đánh hư là binh gia thắng toán. Nay cơ khá hữu thừa, thế khả
hữu cử, nên tương hữu sự vu Quảng Nam. Vả Nguyên Minh hầu là sinh trưởng
xứ ấy, thời đâu là hiểm dị, đâu là yếu hại, với dân tình xu hướng làm sao thảy
đều thông biết.
“Hợp truyền nghi truyền hạ Nguyên Minh hầu tốc nghệ hành tại thính
hầu. Với Nguyên Minh hầu bản quân tên nào cư trú Quảng Nam mà theo
Nguyên Minh hầu ấy thời nay cũng giao Nguyên Minh hầu sở suất ngõ đặng
ứng tòng nhung vụ. Sự nghi hội ý thể dĩ hành chi. Khâm tai đặc truyền”.
[Nguyên văn Hán Nôm].
Vốn là năm ngoái ngày tháng Chín, thần có mật biểu bẩm về việc công
thủ nhưng chưa được truyền mệnh. Đến nay được truyền Nguyên Minh hầu đến
hành tại hầu vì sắp có việc ở Quảng Nam, mới biết là ý kiến ngu lậu nhiều chỗ
không kịp vậy. Bởi vì lúc đó thế lợi thủy của giặc chưa mất, nếu ta muốn cử sự
ở Thanh-Nghệ để vào Phú Xuân, binh chia ra ít chưa thể tất thắng được vậy.
Đến nay thế lợi thủy [của địch] đã mất, ta mới tăng binh ở Quảng Nam ra Phú
Xuân thì thực xoa tay vậy. Kiến thức ngu lậu có chỗ không kịp vậy, đến nay
mới hiểu hết.
Ngày 16, Nguyễn Văn Thành sai Đội trưởng đội 1 nội hầu là Đặc Tài hầu
đem Khâm sai Cai cơ Văn Đức hầu thuộc cơ Trung tượng và Vệ úy Luật Chính
hầu thuộc vệ Hùng Oai đến hành tại bẩm nạp. Trước là hai viên này cho rằng
thần nghiêm khắc làm cho rách việc, Nguyễn Văn Thành cho dẫn về bẩm nạp.
Thần có biểu bẩm xin tra xét như sau:
“Thần Sách quân Tri tượng chính Đô thống chế thần Xuyên Thanh hầu
khể thủ đốn thủ bách bái cẩn bẩm lạy đức Vương thượng muôn muôn năm ngự
lãm. Vả từ thuở chúng tôi trộm nhờ lượng trên quang cố tin nhậm chúng tôi, lấy
làm lòng dạ, chúng tôi hằng quyết một lòng đền nợ áo cơm. Chẳng nề sự mình
còn mất, đâu dám một mảy mà chẳng sợ lo. Vả Hùng Oai vệ chánh Vệ úy Luật
thời ngày trước đánh trận Truông Cờ với trận Bàu Tre, hai trận ấy Chánh vệ
Luật đều có úy súc [thụt lùi] bỏ quân mà chạy. Chúng tôi tưởng khi binh đương
chiến mà hiển tội chánh Vệ úy Luật, gởi tâu lượng trên thời lại thêm rối lượng
trên, chúng tôi có la thét chánh Vệ úy Luật một hai lời chớ có gia ngôn cho
trọng. Còn buổi trận Phú Trung mà bắt đặng Đô đốc Hạch, voi Ngẫu thời các
đạo thảy đều thối tẩu nên giặc chúng nó truy theo tới đạo trung quân, thời quan
Tiền quân và chúng tôi vượt lấy chịu đánh nên quân chi trung chúng tôi đâm Đô
đốc Hạch nhằm nhiều dấu trọng [thương] nên Đô đốc Hạch chạy không đặng.
Phó đội Điển cỡi voi Bích mới lại bắt Đô đốc Hạch với bắt voi Ngẫu đặng. Trận
ấy các đạo quan quân đều thấy [Phó đội] Điển khi hồi trận, mà Cai cơ Văn tự
xưng bắt đặng Đô đốc Hạch với voi Ngẫu nên chúng tôi có thét lác Cai cơ Văn
rằng giặc đánh sớm mai không đặng, đem giặc về cho quan điều bát với chúng
58 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (123) . 2015 – Lý lịch sự vụ của Nguyễn Đức Xuyên
tôi đánh mà lại tự xưng, tranh công với lính sao đặng, nên Cai cơ Văn có lòng
oán hận chúng tôi sao có yểm công, nên Cai cơ Văn cáo bệnh thuở ấy đến nay.
“Lại ngày trước chúng tôi gởi tấu xin áo quần cho quan các cơ thời lượng
trên ban áo quần ấy. Trên dạy chúng tôi phân phát cho quan các cơ, thời chúng
tôi phát cho Trưởng chi Nghiêm một cái áo tố [áo lụa], một cái quần nhiễu điều.
Cai cơ Văn thời chúng tôi tưởng người cựu theo vua cũng đã lâu ngày, mà trong
các quan thời Cai cơ Văn là quan đàn anh nên chúng tôi trọng đãi Cai cơ Văn
có hơn các quan. Vậy chúng tôi mới phát cho Cai cơ Văn một cái áo tố, còn quần
thời chúng tôi lấy cái quần hồ sa nhuộm điều của chúng tôi phát cho Cai cơ
Văn. Chúng tôi tưởng làm vậy cho khác các quan. Còn bao nhiêu áo quần thời
chúng tôi đều phân phát cho các quan. Chừng nay chánh Vệ úy Luật tự tỉnh
trong mình có tội e sau lượng trên ban thưởng tam quân, thời người nào có tội
cũng phải hành phạt, nên chánh Vệ úy Luật sợ sau mắc tội nên chánh Vệ úy
Luật thấy Cai cơ Văn có lòng oán hận chẳng phục chúng tôi. Nên chánh Vệ úy
Luật mới đồng mưu với Cai cơ Văn mà kiện chúng tôi. Thời chánh Vệ úy Luật
có mời Hùng Oai vệ phó Vệ úy Phượng, phó Vệ úy Thành lại nhà Cai cơ Văn mà
đồng mưu với hai người ấy. Nên phó Vệ úy Phượng có hỏi: Kiện quan Tri tượng
mà có đơn trạng chi không, cho tôi coi thử. Chánh vệ úy Luật với Cai cơ Văn
nói rằng: đã có đơn trạng trong lòng sẵn rồi, phải hỏi làm chi, chẳng ưng đồng
mưu thời thôi. Nên phó Vệ úy Phượng mới về. Phó Vệ úy Thành ngồi lại giả ý
đồng mưu với hai người ấy, nên phó Vệ úy Thành nghe đặng các việc, trình lại
với chúng tôi rằng: Chánh Vệ úy Luật nói tôi là thằng hát bội, làm tướng sao
nên. Lại nói chúng tôi ở không minh bạch, chẳng biết đãi người, chửi mắng các
quan, chánh Vệ úy mà coi chẳng bằng tên lính.
“Còn Cai cơ Văn nói rằng chúng tôi ăn ở tham ô, không lòng liêm khiết. Áo
quần vua ban cho các quan mà chúng tôi đổi lấy quần khác phát cho các quan.
“Lời phó Vệ úy Thành trình với chúng tôi thời vậy. Nên chúng tôi tưởng
khi đương binh chiến mà nhân tâm bất hòa, e khi hữu sự ắt cũng khó lòng, nên
chúng tôi chẳng dám làm thinh. Chúng tôi mới dẫn phó Vệ úy Thành đến thưa
với quan Tiền quân chúng tôi đòi chánh Vệ úy Luật với Cai cơ Văn chất vấn
sự do, thời chánh Vệ úy Luật, Cai cơ Văn chịu có đồng mưu mà kiện chúng tôi.
Dám lạy lượng trên xin cho người hỏi lại, như chúng tôi chịu tước triều đình
thống quản một dinh chẳng hay vỗ ủy lòng người, dạ có tham ô, ở không minh
bạch, thời chúng tôi cam chịu trọng tội, kẻo để vậy thị phi chẳng rõ, nghi hoặc
lòng người. Muôn lạy lượng trên cao minh thẩm xét. Chúng tôi chiến lật phất
thắng [run sợ khôn xiết]. Lạy đức Vương thượng muôn muôn năm”. [Nguyên
văn Hán Nôm].
Ngày 17, Giám quân Thần Sách Khiêm Hòa hầu vâng chỉ đến đồn Cây
Na hiệp với Nguyễn Văn Thành xét hỏi các lời khiếu tố của Văn Đức hầu, Luật
Chính hầu cùng các lời khai của thần rồi về tâu, được ban chỉ dụ: chánh Vệ úy
Luật, Cai cơ Văn việc khiếu tố chưa có đơn trạng, nhưng sai quan đến xét rõ thì
cũng là lời nói tiểu tiết. Hiềm vì đạo làm tướng cần nên khoan dung tỳ thuộc
để giúp việc nước cho xong. Vậy sai Khiêm Hòa hầu đến truyền cho thần vâng
theo, lại khiến thần dâng biểu án tội, lãnh hai viên ấy về đồn quản suất quân
mình sai bát. Khâm thử.
Thần bèn dâng biểu lãnh về, đối xử như xưa, ra sức đánh giặc, hai bên
chẳng e dè gì. Sau đến năm Nhâm Tuất xem công trạng, thần xin cho chánh Vệ
úy Luật được thăng làm Chưởng cơ lãnh trấn thủ trấn Sơn Nam Thượng kiêm
Quản cơ Ngũ kích tượng quân. Cai cơ Văn được thăng làm Khâm sai Chưởng
cơ quản 3 đội Tiền Hùng, Tả Hùng, Hữu Hùng tượng quân lưu trú Bắc thành.
Bởi đội ơn thánh thượng thông minh sáng suốt, biết đường coi sóc tướng sĩ mới
được bảo toàn vậy:
“Thần Sách quân Tri tượng chính Đô thống chế thần Nguyễn Đức Xuyên
khể thủ đốn thủ bách bái cẩn bẩm lạy đức Vương thượng muôn muôn năm
cao minh ngự lãm: Vả sự do chánh Vệ úy Luật cùng Cai cơ Văn thời chúng tôi
tưởng việc hai người ấy chẳng tâu đến lượng trên mà thưa với quan Tiền quân
chúng tôi chất vấn phân xử thời chúng tôi e hai người ấy lòng còn tức hận, chí
còn chẳng hòa, nên phải tâu đến lượng trên ngự tường phi thị. Chừng nay tội
hai người ấy lượng trên tức hạ khoan xá cho về với chúng tôi. Mà hai người ấy
chẳng muốn về, vì sợ chúng tôi e có chẳng dung nạp nữa lại phạm tội. Chúng
tôi ngây dại rất sợ rất lo, cúi dám đột nhàm [đường đột] muôn trông khoan xá
cho hai người ấy một phen về với chúng tôi, thực là dung chúng tôi vạn tội. Ngõ
kẻo hai người nói nghĩ là ở chúng tôi “xế trửu”,(1) bởi chúng tôi chẳng hay dung
cho nên phải tội. Thành hoàng thành khủng, phất thắng chiến lật chi chí bẩm
lạy Vương thượng muôn muôn năm”. [Nguyên văn Hán Nôm].
Ngày 28, giờ Tỵ, ngự giá tới đồn Cây Na xem xét các đồn lũy. Đêm ấy ngự
giá trú tất ở đó. Hôm sau ra ơn ban cá cho viên quân các đồn lũy. Giờ Tỵ, ngự
giá về cảng Thi Nại. Giờ Thân, Nguyễn Văn Thành sai thần tạm quản Tả đồn
ngự lâm quân và bổn bộ tượng binh đến phủ Phú Yên đánh giặc.
Trước là có tên lính Hạc thuộc đội 3 vệ Hùng Võ thất trận trốn về, cùng
với Giảng Trung bá thuộc đội Tiểu sai ở Phú Yên về cấp báo rằng: ngụy Đô đốc
Điềm đem khoảng 500 người và phụ nữ khoảng 50 người ngầm qua đèo Đá Mài
đánh vào phủ Phú Yên, đoạt đồn Chợ Gò. Liền sai thám thính rõ như thế, nên
cử thần tức thì chỉnh binh voi khởi hành vào thẳng phủ Phú Yên, sai viên quân
của Chánh vệ Cúc Hương hầu thuộc Tả vệ Hữu dinh Tuyển Phong (sau thần vì
không có người phụ tá, có diện tấu, vua thăng làm phó Đô thống chế Nội dinh)
làm hữu đạo đến đèo Răng Cưa qua đường Đồng Nghệ; và viên quân của Phó
tướng Tả đồn ngự lâm quân Lục, Cai cơ Vịnh, Cai cơ Ngữ làm trung đạo vào
đường đèo Vũng Lấm. Còn bổn binh voi của thần làm tả đạo vào đường Hà Bạc.
Các đạo đã dẫn binh thẳng tiến thu phục được phủ Phú Yên. Bọn giặc chạy
trốn đến La Hai. Thần liền chia binh truy kích. Giặc trốn chạy vào đồn. Thần
cho binh trở về đồn Chợ Gò giao cho Đô thống chế Trung dinh là Phước Lộc
hầu trấn giữ. Đã có tin báo thắng trận về, Nguyễn Văn Thành dâng biểu bẩm.
Tháng Ba, ngày mồng 4 nhận được tờ của Nguyễn Văn Thành gọi kéo
binh về. Thần liền ủy giao quân đau ốm và thương binh cho Tham mưu Hậu
quân là Kính Đức hầu lãnh trở về đường đèo Hố Lau, còn thần theo đường đèo
1 Xế trửu: giữ cánh tay lại.
Cù Mông kéo binh trở về. Cúc Hương hầu đi trước, đến xứ Đồn Chùa, đèo Con
Chim thì gặp giặc đánh vào đồn Tín Võ. Nguyễn Văn Thành sai Cúc Hương
hầu dẫn binh tiếp ứng.
Chiều mồng 6, bổn binh về tới đồn Cây Na, được Nguyễn Văn Thành
thuật lại bọn giặc phạm vào các đồn, ỷ là vì binh tượng của quý hầu ra ngoài
đó. Thần bảo là chưa rõ có như thế chăng.
“Khâm sai Chưởng Tiền quân quản chư đạo bộ binh Bình Tây tướng quân
đạt tờ vu Thần Sách quân Tri tượng chính Đô thống chế quý hầu chiếu tri: Do
nay có tiệp âm trì báo rằng quý hầu đề binh trực đáo, ngụy bối hội tẩu, đã thu
hoạch Phú Yên phủ, đại lược thời vậy. Nên phải đệ tờ, như thu hoạch y phủ thời
giao cho công đường quan quản hạt tuân hành công cán. Còn quý hầu tất thống
sở quản binh tòng Cù Mông điều lộ nhi hồi Cây Na đồn trú, ngõ đặng phân ưu
binh vụ. Giá ban nhung vụ tua khá gia tâm. Kim tờ”. [Nguyên văn Hán Nôm].
Ngày mồng 8, được Công đồng truyền xuống cho Tham quân Nội dinh là
Nguyên Minh hầu mau về hành tại nghe hầu, sắp có việc ở Quảng Nam:
“Công đồng truyền Thần Sách quân Tri tượng chính Đô thống chế Xuyên
Thanh hầu tuân tri: Vả Khâm sai Tham quân Nguyên Minh hầu là người sinh
trưởng xứ Quảng Nam, dầu trong dân tình hướng bối làm sao, địa tình hiểm dị
làm sao cũng đều tỏ biết. Huống nay binh ta đã thu Thăng Điện địa phương,
mà dân tâm xứ ấy rất là tưởng vọng triều đình uy đức. Lại thêm ứng nghĩa chi
binh thảy đều hưởng mộ nên phải sai người ấy ra tuyên dụ đức ý, ngõ đặng
bình định an tập.
“Hợp truyền nghi truyền hạ Nguyên Minh hầu lãnh suất bổn phân quân
nghệ hành tại thính hầu tiện sai tựu y xứ công cán.
“Truyền văn đệ đáo, tua tốc phụng hành. Tư truyền”. [Nguyên văn Hán Nôm].
Thần liền tuyên gọi Nguyên Minh hầu tuân rõ. Lúc ấy viên đó bệnh đã
hơi lành, liền dẫn bổn thuộc 10 tên đến hành tại bái hầu.
Ngày 13, vâng chọn voi đực hai thớt (voi Bích và voi Nhảy) đem đến hành
tại phụng hầu.
Ngày 14, vâng Công đồng truyền chọn chia voi đực và quân cỡi voi làm
hạng một, hai, ba để chuẩn bị đánh giặc, tiện cấp ban lương tiền cho quân cỡi
voi có sai biệt:
“Công đồng truyền Tri tượng chính Xuyên Thanh hầu tuân tri: Vả các thớt
voi chiến, tuy là nhiều con dũng đấu, song cũng có con khiếp nhược, mà quản
mục cũng có kẻ sở năng, có kẻ sở bất năng. Nếu để vậy hoặc khi ban tứ đã
chẳng tương tề, lại khi công trận, nhân tượng bất đắc tương xứng. Hợp truyền
nghi hạch thực chiến tượng mổ chích dũng đấu giả vi nhất đẳng, thứ giả vi nhị
đẳng, hựu thứ giả vi tam đẳng. Với chọn quản mục hễ dũng cảm thiện kỵ thời
cho nó cỡi nhất đẳng tượng, thứ dụng giả thời cỡi nhị đẳng tượng, hựu thứ dụng
giả cỡi tam đẳng tượng. Lại như tượng chích nào [mất 4 chữ] mà mục nào cỡi
khiến nó đặng thảy đều cứ hạng kê khai trì bẩm, ngõ đặng tùy hạng tăng ban
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (123) . 2015 – Lý lịch sự vụ của Nguyễn Đức Xuyên 61
tiền lương cho các hạng nài mục ấy, phòng khi chiến trận dĩ thu vạn toàn chi
công. Tư truyền”. [Nguyên văn Hán Nôm].
Vâng lời truyền, thần đã sức các tượng chi tuyển phân viên quân làm ba
hạng: nhất, nhì, ba bẩm nạp. Cộng được 270 viên, trong đó hạng nhất cỡi voi
102 người (Trưởng chi 5 viên, phó Trưởng chi 4 viên, Cai đội 10 viên, Phó đội
7 viên, Đội trưởng 26 viên, Ngũ trưởng 14 người, lính 36 người). Hạng nhì 79
viên nhân (Cai đội 3 viên, Phó đội 5 viên, Đội trưởng 13 viên, Ngũ trưởng 19
người, lính 39 người). Hạng ba 36 viên nhân (Đội trưởng 2 viên, Ngũ trưởng 9
người, lính 25 người).
Ngày 18, vâng Công đồng truyền về việc lấy ba hạng cỡi voi ban tứ cho
tiện nghi, lấy việc công trận mà thưởng để khuyến khích sĩ khí:
“Công đồng truyền Tri tượng chính Đô thống chế Xuyên Thanh hầu tuân
tri: Vả ngày trước có tờ truyền binh tuyển hùng tượng với các hạng cỡi viên
quân phân làm ba hạng, kê khai minh bạch trì bẩm nên đã định ban thưởng
tiền 500 quan. Song tưởng người thiện kỵ lại quen voi vừa, kẻ sảo thiện kỵ lại
quen voi hay. Vậy cứ theo bộ ấy ban tứ e chưa xác đáng. Hợp truyền nghi cứ
tiền số 500 quan mà liệu cho viên quân nào chẳng những cựu tân, hễ có công
trận nhiều ít, tài cỡi hay chăng thời tùy công, tùy tài mà định thưởng, như đáng
bao nhiêu cấp rồi ghi chú vào bổn bạ minh bạch, sai người phụng nạp, ngõ đặng
ban hành vụ tại quân bình, dĩ lệ sĩ khí. Tư truyền”. [Nguyên văn Hán Nôm].
Vâng việc ấy dâng bẩm sổ bô lên, nhưng việc bị bỏ chưa được truyền mệnh
có quân bình hay chưa.
Ngày 18, được chỉ tuyên triệu đến tàu Thụy thời đã thấy Tả dinh Đô
thống chế Duyệt Hòa hầu đến hầu. Được Vương thượng dụ rằng: Trẫm cử đại
binh thu phục Thuận Hóa, lưu Nguyễn Văn Thành cai quản thủy bộ chống cự ở
đây. Hiềm vì Nguyễn Văn Thành hay tự kiêu, phạt tỳ tướng. Nên khi đi, chọn
khanh ở lại tại đó tất nên giúp rập điều tốt mà sửa chữa điều xấu để cho xong
việc, thì dẫu không vì phúc của trẫm, thì cũng vì phúc của thiên hạ vậy.
Thần khấu đầu cảm tạ, tâu rằng:
“Theo tướng quân mà nhận mệnh, giải tỏ khí tiết của thần, ra sức khuyển
mã mà giúp nên vương sự, thần ngu muội quả đã có lời bàn, nay thực hành
thì không phục mệnh sao? Nếu sau này có lời gì thì thần xin chết mà không
oán trách”.
Vương thượng dạy: nhận chỉ mà vui vẻ như thế, thì trẫm khỏi lo lắng quan
tâm nữa. Bèn ban cho một chiếc ngự y nhiều lớp, dụ rằng hãy mặc vào ngay.
Lại ban cho một ly ngự tửu. Vương hậu lại ban cho một ly nữa. Và được ban dụ
rằng: “Từ nay về sau, khanh và trẫm dẫu xa nhau, mặc chiếc ngự y này như có
trẫm ở trong mình vậy”. Lúc đó thần bái tạ, mà bất giác chảy nước mắt. Ngày
hôm sau, từ tạ trước bệ trở về đồn.
Mùa hạ, tháng Tư, ngày 24, giờ Tỵ, Tiền quân Cai đội Trinh từ hành tại
về báo rằng ngự giá đã dẫn đại thủy binh ra cửa biển Thi Nại.
Tháng Năm, ngày 12, Ngũ trưởng đội Tiểu sai là Giao kính đem chỉ
truyền Nguyễn Văn Thành hội các quan tuyên dạy rằng ngày Mậu Dần, mồng
3, tháng Năm ngự giá đã thu phục thành Phú Xuân.
Ngày 18, giờ Thân, Ngũ trưởng Âm (đội) Hoàng Kiếm, Cai cơ Mẫn (đội)
Hầu Lái, Cai đội Tuân ở đội 4 dinh Phấn Dực phụng đem ngụy hoàng Cương,
phò mã Trị đến đồn. Nguyễn Văn Thành đưa đến các đồn giặc khiến bọn nó
xem nhận quả thực là ngụy hoàng tử và ngụy đại tướng quân chăng.
Ngày mồng 1, tháng Sáu, Nguyễn Văn Thành sai thần và Hậu dinh Đô
thống chế Tán Tự hầu đốc thúc đánh từ đồn của Tả quân phó tướng Long Vân
hầu ở đồng Mụ Hào, từ giờ Ngọ đến giờ Thân, lấy được địa phận Vân Thê, lính
giặc lui vào đồn tử thủ. Thần liền sức lập đồn vây lại; giành được chỗ trí súng
đại bác bắn vào.
Ngày mồng 3, Cai đội Thụy thuộc đội 9 vệ 2 dinh Phấn Dực, Tiền quân
Hầu Lái đội Đội trưởng Đạo ở Phú Xuân đem Tham lĩnh Ngoạn, Tham lĩnh
Tuân, Phó vệ Hiệu trở về đồn Đồng Sạ giải giao, Nguyễn Văn Thành ủy thần
lấy voi đánh chết.
Ngày mồng 4, giờ Dậu, Nguyễn Văn Thành bảo thần rằng gián điệp báo
tin binh giặc bỏ đồn Quán Lạc và bỏ lũy dài từ Suối Môn cho đến xứ Hố Lau,
chưa biết chạy về đâu.
Ngày mồng 5, Nguyễn Văn Thành ủy thần đến đồn Phó tướng Tiền quân
Long Vân hầu để tiện chỉnh binh chia đường, sức các đồn khiêu chiến để xét
hư thực. Nhân đó lập đại đồn hai vòng tại Quán Lạc để chuẩn bị đánh tập hậu
mặt xung yếu.
Giờ Thân, Hàn lâm viện Liêm Chính bá lại đem ngụy hoàng Cương, phò
mã Trị theo đường bộ về thành Gia Định.
Ngày mồng 8, Nguyễn Văn Thành chia sai thần và Hậu dinh Đô thống
chế Tán Tự hầu, Tả quân phó tướng Long Vân hầu chia đường công hãm đồn
giặc từ dưới chân núi Cồn Úc trở xuống tới bờ sông, lấy được ba cánh đồng Mụ
Hào, Cồn Úc, Trại Tre. Lúc đó Ốc nha Dong dẫn hơn 700 lính Xiêm trở về, bổ
lệ thuộc vào nội dinh điều khiển đánh giặc. Trận ấy, voi Vân thuộc chi Hữu
tượng bị đạn súng hỏa xa, trở về tới đồn thì chết.
Từ ngày mồng 1 đến ngày mồng 3 đã có biểu văn bẩm lên, được thưởng
cho quân nội dinh đánh trận Mụ Hào, Cồn Úc số tiền 1.214 phiến, dật (bạc hoa
tròn 744 phiến, bạc dật 218 dật):
“Thần Sách quân Tri tượng chính Đô thống chế thần Nguyễn Đức Xuyên
khể thủ đốn thủ bách bái cẩn bẩm lạy đức Vương thượng muôn muôn năm ngự
lãm: Vâng từ đức Vương thượng ngự giá thu phục Thuận Hóa kinh, chúng tôi
chẳng đặng theo hầu, rất hổ niềm cơm áo để nhọc lo cho quân thượng. Nhưng
mà chúng tôi ở trong ni, giặc nó kiên đồn thiết lũy, chúng tôi hằng lo cho đặng
nẻo mà đánh nó. Vậy mà không đường đất nào không có lũy nó, nên chúng tôi
quyết tưởng đánh nó thời phải hãm đồn mới đặng. Vừa ngày mồng 1 tháng Sáu,
ngụy Thiếu phó cùng Tư đồ thế nó được trường thành ác nên nó kéo binh dần
ém các đồn ta [độ] nửa lần [làn] súng kíp. Rồi nó đuổi hết các phần hở để quân
nó giữ lấy, rồi nó đem khại [tấm tre đan] đóng đồn áp tại Cây Na giữa đồng
Phú Xuân, cách đồn ta nửa lần súng kíp, để nó đặt súng lần bắn ép voi ta. Nên
quan điều bát sai các vệ đuổi nó, thời thế nó trọng binh đuổi chẳng đặng. Quan
điều bát bèn sai dinh vệ Hùng Võ chúng tôi vào đuổi chúng nó, thời đồn chúng
nó làm đã gần rồi, nên nó được hiểm. Vả binh bên ta qua đồn nó cách một cái
suối, nên qua xong phá nó chẳng đặng. Chúng tôi thấy vệ Hùng Võ rất nặng,
bèn xin quan điều bát sai voi cùng binh ra thêm áp đuổi nó đi kẻo hao binh vậy.
Chúng tôi sai vệ Hùng Oai cùng voi 15 thớt đi xuống phần hở tả quân đánh lên.
Còn Hùng Võ thì đánh qua ngang đồn nó cùng các dinh mới làm, trường khu
nhi tiến. Chúng nó khi ấy bèn bỏ phần hở tả quân cùng đồn mới làm ấy bèn vỡ
chạy về phần hở nó tạm trú cự địch. Nên Hùng Võ, Hùng Oai tượng binh cùng
các dinh nhất tề công phá thậm cấp.. Chúng nó tử thương rất nhiều. Nó chạy
cặp vào mặt chông đồn nó. Chúng tôi thấy các vệ đuổi nó đã lâu đường đất, nên
không cho đuổi nữa, điều về dàn quân giữ các phần hở tả quân. Vậy các vệ binh
ta đã được thế nhất đồng hiệp xạ, chúng nó tử thương chẳng khá xiết kể, vừa
đến giờ Dậu chúng nó vỡ chạy. Binh ta bắn đi nhiều, chúng nó lại tử thương
khắp nữa. Nó thối vào đồn chẳng dám ra, nên binh ta cuốc đồn mới nó ấy đi,
lại tăng làm một cái đồn khác giữ.
“Ngày mồng 2, Tư đồ nó lại cử đại binh qua Bàu Lạc, xuống Đá Bàn, cùng
xuống eo Lão Bến, qua đèo Hoa An làm đồn tại Cây Na, Suối Môn thẳng lên núi
Hố Lau. Thế nó hầu xuống Gò Xoài, Lò Thổi làm tiệt hậu binh ta. Quan điều
bát thấy vậy bèn tính cùng vệ Hùng Oai dinh chúng tôi với 15 thớt voi xuống
đón trước chúng nó tại Gò Xoài, với làm đồn Lò Thổi một phía kéo lại đầm Lò
Thổi, một phía kéo lại đồn hữu quân. Còn chúng tôi đem vệ Hùng Oai, vệ Phấn
Oai, cùng quản tiền quân Kiên Võ vệ, Địch Võ vệ cùng Tiền Dực quân 100 tên
với voi thẳng ra đánh cùng chúng nó tại Cây Na, Bàu Lạc. Chúng nó vỡ chạy,
mà chúng nó cậy thế có đồn nên chúng nó đều bắt đồn cố thủ. Nên chúng tôi
bèn tuyển binh tuyển voi. Vừa qua giờ Dậu, chúng tôi sai vào xông phá đồn, nên
chúng nó vỡ chạy. Chúng tôi lấy đặng đồn nó trời vừa tối, vả đường đất thời
hiểm nên không đuổi nữa. Chúng tôi bèn truyền lui về giữ lấy lũy cũ Đá Bàn.
Thời nội đêm ấy nó lại phân binh đắp lũy từ eo Lão Bến ngang qua đồng Bàu
Lạc nhẫn qua núi Hố Lau.
“Đến ngày mồng 3, lũy hư nó đắp đã gần rồi. Song chúng nó thấy thế bất
lợi bèn bỏ mà lui vậy.
“Quan điều bát bèn sai đóng đồn tại Suối Môn hai cái. Thời sai nguyên
vệ Phấn Oai dinh chúng tôi cùng Tiền Dực một trăm tên giữ lấy đồn ấy vậy.
Chúng tôi tưởng tiết ni khô hạn, ta thời hẹp đường đất khó nỗi cỏ voi nên phải
trình với quan điều bát xin lấy đồng Bà Hào cho tới Cồn Úc thời ta cầm voi mới
dễ phương cỏ nước vậy. Quan điều bát cũng ưng làm vậy, nên phân sai làm ba
đạo, sai chúng tôi quản lấy.
“Bước qua canh năm đêm mồng 7, phân sai vệ Hùng Võ cùng tiền quân
Tiệp Võ với 15 thớt voi đi ngã Cầu Ngói thẳng lên Sông Dinh. Còn tiền quân
tiên phong, tả quân đi ngả Cây Na đồng Phú Xuân đánh thẳng qua đồn nó tại
đồng Cồn Úc. Còn binh chúng tôi như vệ Hùng Dũng, vệ Phấn Oai, cùng hậu
quân đều bận giữ đồn, nên chúng tôi bắt Hùng Dũng, hậu quân mỗi vệ binh
tinh tráng 50 tên đi theo chúng tôi cùng nguyên vệ Hùng Oai. Còn Hậu dinh
Đô thống chế đi tả, Hữu dinh phó Đô thống đi hữu, Tả quân phó tướng đi đường
cái quan Cồn Úc. Vừa tan canh, ngó thấy hỏa hổ đạo binh Cầu Ngói tiên phát
lên, nên chúng tôi thân đốc tượng binh trường khu nhi tiến. Tặc binh hội tan.
Chúng nó bỏ đồn đồng Mụ Hào cùng đồng Cồn Úc, thẳng theo đường cái thảy
đều bỏ hết. Còn một cái đồn Chợ Tre dựa chân núi Cồn Úc thế nó đã gần chạy
nhưng mà quân ta đuổi đã xa đường rất mệt nên đuổi chẳng kịp voi. Vả hỏa xa
nó lại hiệp xạ nên voi ta bị trọng tích một thớt. Chúng tôi thấy vậy bèn truyền
giữ lấy đường đất đắp lũy hư từ cầu Lão Ngu cho đến Sông Dinh. Thời đồng Mụ
Hào, đồng Cồn Úc cùng đồng Trại Tre thảy đều về ta. Vả hai trận ấy như binh
chúng tôi thời vệ Hùng Võ, vệ Hùng Oai bị đạn cùng tử trận hao khiếm. Lại
như vệ Hùng Dũng quân số chẳng bao lăm. Vệ Phấn Oai thời cũng nhiều quân
bị bệnh nên khiếm số. Thảng đến khi hữu sự ứng tiếp người ta chẳng đặng bao
lăm, nên chúng tôi mạo tội dám xin đức Vương thượng ban quân tân hàng cho
chúng tôi thứ nào, từ năm sáu trăm ngõ cho chúng tôi phân cấp vào Hùng Võ,
Hùng Oai, Phấn Oai, Hùng Dũng bốn vệ ấy cho sung quân số ngõ khi ứng tiếp
các dinh cho dễ. Vả các dinh cũng đã lòng tin, các vệ ấy quen thuộc, theo [đánh
quân] ngụy lui tới vững vàng, chúng tôi chẳng dám man bẩm.
“Hai là ban Đô đốc Thu, Tham lĩnh Hiến quân số bao nhiêu cho vào cùng
chúng tôi thời chúng tôi cũng đặng nhờ. Bằng chẳng đặng như vậy, dám xin
như quân trong thành Bình Định về cùng ta đặng bao nhiêu, cho chúng tôi tạm
lãnh lấy để phòng hữu sự, rồi sau sẽ dâng lại. Chúng tôi dám chịu tội như thớt
voi Vân chịu trận bữa ấy, bị đạn trọng tích, về tới đồn thời nó vừa hạ thổ.
“Nay chúng tôi vâng dâng trình nội dinh viên quân số hai trận ấy nhược
can [bao nhiêu], cập bị đạn nhược can, chúng tôi chẳng dám điềm nhiên, rất lo
rất sợ mạo tội dám cụ bẩm văn:
“- Nội dinh Hùng Võ, Hùng Oai, Phấn Võ, Hùng Dũng tứ vệ viên quân số
1.319 viên nhân, nội bị tích [thương tích] 50 viên nhân, nội bị bệnh 94 viên
nhân, nội tử trận 13 viên nhân, chỉ tồn tinh tráng viên 1.162 viên quân”.
[Nguyên văn Hán Nôm].
Ngày 18, Gia Định thành Chánh quản Trường đà Bình Chính hầu, Cống
sĩ Hoàng Đức tử, Lợi Hòa tử dẫn đoàn thuyền lương và số binh của trấn thành
vào cảng Thi Nại, và có chánh Trưởng chi Đản Thành hầu thuộc cơ Trung
tượng Quảng Nam cùng 70 lính theo ghe đến đồn Cây Na.
Ngày 19, bộ thuộc của ngụy Đô đốc Ngũ là ngụy quán quân Điềm ngầm
xin hàng làm nội ứng. Nguyễn Văn Thành chọn sai 8 người lính vệ Kiên Võ, 4
lính vệ Tín Võ trung chi đi theo Điềm vào trước trong cửa lũy. Thần ủy Cai đội
đội 2 vệ Hùng Võ nội dinh là Nhiệm Tín hầu (sau làm Khâm sai Chưởng cơ,
Giám thành sứ) cùng với 50 lính nội vệ theo sau. Lúc đó, Nguyễn Văn Thành tư
cho Nhiệm Tín hầu, dặn rằng cốt phải theo quân ấy ngầm vào đồn nó, tức thời
phát hiệu lửa, bên ngoài thì có quân lính và vệ Địch Võ hậu chi, Tiên Phong
tiền chi, và lính Xiêm áp gần sẽ cùng tiếp ứng.
Bọn Nhiệm Tín hầu lãnh mệnh đi rồi, Nguyễn Văn Thành sai Tượng dinh
phó Đô thống chế Cúc Hương hầu đem binh voi và các đạo binh chờ thấy hiệu
lửa nhất tề xông vào. Lính giặc vỡ chạy. Lấy được các đồn của ngụy Ngũ, giăng
rộng hơn một dặm. Nguyễn Văn Thành và thần đốc thúc viên quân vào tiếp,
thấy ba người làm nội công của ngụy Điềm và 30 lính bắt được ra lạy ở dưới
đất. Nguyễn Văn Thành an ủi cho gắng theo vương sự; lấy được súng cán nhỏ
8 khẩu, 3 hòm thuốc đạn, Nguyễn Văn Thành sức các vệ chia đặt đồn từ đồn ta
cho đến các đồn lấy được, thông đường liên lạc với nhau để chống giữ.
Mùa thu, tháng Bảy, sớm mồng 4, Nguyễn Văn Thành ủy thần quản 3 vệ
Tiệp Võ, Địch Võ, Tuấn Võ, 2 hiệu Hậu chi và bổn binh voi công hãm đèo Hoa
An chiếm được đất và tiếp với Phó dinh Tín Nhiệm hầu thuộc Hữu dinh giáp
công lấy được đồn Lão Miễn, rồi sửa chữa đồn lũy, nhơn đó ủy cho binh Xiêm
của Ốc nha Dong đóng đồn tại đỉnh núi Sơn Trà chống giữ.
Ngày 20, Nguyễn Văn Thành bảo thần: Nay lương gạo bộ binh chi được
một tháng, nếu không có nữa thì làm sao? Thần nói rằng: cần xem tại các đạo
bộ binh có bao nhiêu, ngài cứ điểm thực sự, theo số viên binh mà chiếu phát.
Mỗi tháng mỗi viên nhân ăn gạo 30 bát lớn, ngoài lệ ấy ra, thì Tham luận,
Cai án, Biện lại, người tùy tùng đều ăn gạo 23 bát lớn, thì cũng đã giảm được
vậy. Nay dinh Phú Yên thu thóc thuế đã kề, huống binh giặc còn ngăn chặn
nơi quan yếu thường muốn vào xâm phạm, nên sai thêm viện binh và voi vào
đó. Một mặt để đủ phòng bị, một mặt để giảm số miệng ăn ở đây được chăng.
Nguyễn Văn Thành bảo được. Bèn sai các viên chánh phó Trưởng chi thuộc
Hậu tượng chi là Ngũ Đức hầu, Cảm Dũng hầu đem 42 viên quân nội chi và 29
thớt voi vào dinh Phú Yên theo Đô thống chế Hậu dinh Tán Tự hầu trấn giữ.
Ngày 24, được tăng bổ 10 đội quân Thuận Hóa, chia bổ vào các vệ nội dinh
bao nhiêu rồi dâng biểu bẩm:
“Thần Sách quân Tri tượng chính Đô thống chế thần Nguyễn Đức Xuyên
khể thủ đốn thủ bách bái cẩn bẩm lạy đức Vương thượng muôn muôn năm cao
minh ngự lãm. Do nay mông đức lượng trên ban hạ lưu cư Thuận Hóa quân 10
đội với ngụy Kiện Võ chi Trung tượng cơ 3 đội cộng số 640 người. Thời 13 đội
quân ấy, quan Tiền quân giao cho chúng tôi nên chúng tôi phân bổ 10 đội quân
Thuận Hóa cho các vệ đội.. Còn 3 đội quân Trung tượng cơ thời chúng tôi tuyển
chọn quân biết cỡi voi đặng 50 tên bổ vào nội dinh, còn bao nhiêu không biết
cỡi voi thời chúng tôi bổ vào vệ Hùng Dũng.
“Vả chúng tôi phân bổ quân cho các vệ, thời vệ Hùng Võ đặng số 532
người, vệ Hùng Oai đặng số 526 người, vệ Phấn Oai đặng số 525 người. Còn
vệ Hùng Dũng thời chúng tôi thúc lại còn đặng 6 đội, quân số đặng 317 người.
Nên chúng tôi có tu bẩm ngữ [làm lời bẩm] 4 vệ ấy tiến nạp lãm tường kỳ số.
“Còn như cờ đội vệ Hùng Võ, Hùng Oai, Phấn Oai lâu ngày cũng đã rách
vậy, chúng tôi lấy cờ 10 đội quân tân bổ phát cho vệ Hùng Võ. Còn Hùng Oai,
Phấn Oai hai vệ ấy còn thiếu cờ đội chưa đủ. Lại quân tân bổ nội dinh chúng
tôi thời chúng nó chưa có áo quần. Vậy nay chúng tôi sai người nội dinh Hùng
Võ vệ Cai đội đội 6 là Đức tương bẩm ngữ [đem lời bẩm của] nội dinh tựu hành
tại ghé bẩm. Muôn trông lượng trên ban hạ y quần cộng ngũ hành kỳ với cờ đội
40 lá. Lại xin phát cho Hùng Võ, Phấn Oai lãnh eo bài một nghìn tấm, đặng
phát cho quân tân bổ ấy phòng khi sai bát thảo tặc. Chúng tôi rất sợ rất lo, lạy
đức Vương thượng muôn muôn năm.
[Kê quân số các đội]
“- Hùng Võ vệ viên quân số 532 viên nhân (cựu viên quân 320, tân bổ 212).
“- Hùng Oai vệ viên quân số 526 viên nhân (cựu viên quân 401, tân
bổ 125).
“- Phấn Oai vệ viên quân số 525 viên nhân (cựu viên quân 433, tân bổ 92).
“- Hùng Dũng vệ viên quân số 317 viên nhân (cựu viên quân 178, tân
bổ 139).
“- Thị tượng Trung tượng chi viên quân số 319 viên nhân (cựu viên quân
312, tân bổ 7).
“- Thị tượng Tiền tượng chi viên quân số 411 viên nhân (cựu viên nhân
374, tân bổ 37).
“- Trung tượng chi nhị cơ viên quân số 610 viên nhân (cựu viên nhân 412,
tân bổ 198).
“- Tả tượng chi nhị cơ viên quân số 516 (đều là cựu viên quân).
“- Tiền tượng chi nhị cơ viên quân số 518 (cựu viên quân 515, tân bổ 3).
“- Hữu tượng chi nhị cơ viên quân số 516 (cựu viên quân 514, tân bổ 2).
“- Hậu tượng chi nhị cơ viên quân số 515 (cựu viên quân 412, tân bổ 103).
“Tổng cộng nội dinh viên quân số 2.268 người, trong đó cựu viên quân
1.650, tân bổ 618. Ngoài ra tân bổ các viên Đô ty, Quán quân, Hộ quân mới vào
đội ngũ, còn để ngoài hầu lái 15 viên và binh 6 tên nhỏ tuổi bổ vào đội ngũ không
được, cho theo các viên hầu lái, cộng 21 viên nhân”. [Nguyên văn Hán Nôm].
Ngày 22, Nguyễn Văn Thành sai Chánh quản Trung tượng cơ Cai đội
Ngoạn Ngọc hầu lãnh đem voi 18 thớt, lính Xiêm 18 đứa đến thành Diên
Khánh chăn nuôi. Vì số voi ấy gầy ốm và lính Xiêm ấy bị bệnh không kham
được, thần trình với Nguyễn Văn Thành sai trở về thành ấy để vừa làm hư
trương thanh thế chú ý đến gốc, vừa để giảm bớt lương tiền, lại tiện cỏ nước
nuôi nấng.
Ngày 27, Cai đội đội 3 vệ Hùng Võ nội dinh là Loan Đức hầu (sau làm
chánh Vệ úy vệ Hổ Oai) từ thành Gia Định đem số quân nội dinh lành bệnh đi
theo tàu Bạch Yến đến cửa Thi Nại. Thần theo nguyên tịch, bổ vào quân thứ
làm công vụ.
Tháng Tám, ngày mồng 2, bọn giặc dàn binh ở Sơn Trà, Sông Dinh các
nơi mà xâm phạm nặng vào 2 đồn Hoa An, Hoa Lộc. Nguyễn Văn Thành sai
viên quân 2 vệ Địch Võ, Tiệp Võ hậu chi tiền chi và Tượng dinh phó Đô thống
chế Cúc Hương hầu đem hai vệ Hùng Oai, Phấn Oai cùng voi tiếp chiến ở đèo
Hoa An; quân địch rút lui chiếm cứ đèo Hoa Lộc. Trận ấy nội dinh được thưởng
tiền 260 quan 5 mạch.
Ngày mồng 3, thần nghe ngụy Đô đốc Phong mới được giữ chức điều bát.
Thần lui về suy nghĩ, đem ngu kiến soạn biểu, dâng biểu điều trần các việc:
“Thần Sách quân Tri tượng chính Đô thống chế thần Nguyễn Đức Xuyên
khể thủ đốn thủ bách bái cẩn bẩm lạy đức Vương thượng muôn muôn năm cao
minh ngự lãm.
“Phận chúng tôi trót nết ngu muội chần chờ những nghĩa nặng chúa tôi,
dốc đền cơm áo. Nên hai năm nay theo hầu quan điều bát Thành quận công
chúng tôi đã rõ. Hiềm vì cách trở chẳng đặng theo hầu đỡ việc nước nhọc cho
quân thượng. Như thuở chúng tôi ở lính hầu điếu còn hơn bây giờ để cho quân
thượng, thân mạo thỉ thạch [dấn thân vào nơi tên đạn], thu phục Thuận Hóa
kinh. Chúng tôi rất hổ trong trời đất không cùng. Nhẫn đến ngụy Dũng, ngụy
Diệu cùng xúc hãy còn duy trì, nên chứng tôi hãy còn chưa đặng theo hầu quân
thượng tả hữu cho đành tấm lòng dạ.
“Luống để lo tư bề đều những phản trắc: mưu mô đại thần như Trung thư
Kỷ, gian giảo như Tham tri Tân. Dầu nhẫn các ngụy Đại đô đốc cũng chưa lấy
làm tất tin. Huống chi các văn võ ngụy thần, các trang giảo quyệt. Nó cùng
ngụy Huệ như cha với con. Nó cùng thằng Trát như thầy với bạn. Nó cùng ngụy
Dũng, ngụy Diệu như anh em ruột. Chúng nó thân tín cùng nhau dường ấy. Bao
giờ quan điều bát Thành quận công chúng tôi cùng chúng tôi bỏ quân thượng
mà theo đầu giặc cho đặng, thì nó mới quyết thực đầu, quân thượng không nghi
mới phải.
“Nay chúng nó bị chấp [bắt] mà quân thượng lại giao cho Binh Bộ Thận
Đức hầu quan phòng chúng nó. Vả Thận Đức hầu, danh tuy văn vật, lòng vốn
sơ lược thực thà, [mất 4 chữ] ai khéo nói dễ nghe thời Thận Đức hầu đều mắc.
Xưa nay chúng tôi đã biết. E khi Thận Đức hầu trúng chúng nó sở mãi [mua
chuộc]. Đã thực vì sự ấy, nên chúng tôi thức nhắp [lo lắng] lấy làm đại hoạn.
Nhưng mà rất sợ mang tội chẳng dám, chẳng nói.
“Nay chúng tôi lại trộm nghe Tả quân Đô thống chế Duyệt Hòa hầu, Tả
đồn Đô thống chế Chất Thiện hầu khen ngợi Đại đô đốc Phong, xin cho thay
quan Giám quân Quyền quận công điều bát Đèo Ngang nhất diện dĩ Bắc. Chúng
tôi càng thêm rất kinh rất hãi, hoảng hốt vô sở thố thủ túc [hoảng hốt đến nỗi
luống cuống chân tay], nên phải liều mình mạo tội cực ngôn.
“Vả Đô đốc Phong tình trạng khứ tựu vốn đã rõ biết. Lấy một sự riêng:
cho Cai cơ Hòa đến trước hành tại gần một tháng, mà nói rằng ngụy Diệu, ngụy
Chiêu không hay. Cũng không tờ chương chi qua cho Tả dinh biết trước. Rồi
lại rằng cơ sự bất mật mà đơn thân độc mã qua hàng, cam thọ Chất Thiện hầu
khu xử; chưa biết là lòng chi?
“Luận như ngày ấy thực có lòng xin hàng dẫu chẳng bắt đặng thằng
Chiêu, thời cũng tất suất bổn binh vô dĩ nhất suất mà qua mới phải. Vả người
68 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (123) . 2015 – Lý lịch sự vụ của Nguyễn Đức Xuyên
ấy là thân binh, ngụy Diệu thân tín, lại biệt xuất nhất diện, ngụy Chiêu chẳng
đặng chế ngự, dễ phương tiến thối, chẳng phải như các tướng ngụy Diệu quan
phòng mà khó liệu, nên phải đơn thân làm vậy.
“Lấy các tiết ấy, chúng tôi tưởng thấy Đô đốc Phong phi chân hàng đã
ắt, cớ sao mà Duyệt Hòa hầu không hay suy, lại dâng người ấy thay điều bát
Quyền quận công?
“Như Chất Thiện hầu thời chúng tôi không trách. Là vì Chất Thiện hầu
xưa nay bản thân cũng chưa ai tất tín, huống chi lại dâng Đô đốc Phong.
“Như một sự Chất Thiện hầu truy ngụy Trát, tuy thực là bất cập, song
thiên hạ còn tư nghị rằng Chất Thiện hầu bất nhẫn bách truy tàn hại cố chúa.
Người ta nghị vậy, kỳ lý tương cận.
“Vả ngày Chất Thiện hầu ở đồn Đồng Thị, những đầy tớ ruột, bộ khúc
thân, Chất Thiện hầu lấy làm tin thâm nhập cốt tủy, nó còn bỏ Chất Thiện
hầu, nó đạp đồn nó đi. Mà Chất Thiện hầu giữ cũng không đặng; lựa là tin Đô
đốc Phong bây giờ.
“Như Duyệt Hòa hầu tin ngụy Chiêu lâu ngày, lấy làm tâm phúc, ước đã
làm tâm phúc hay chưa, ước ngụy Chiêu đã lâu thế mà sao bây giờ hãy còn tin
Đô đốc Phong mà dâng thay Quyền quận công điều bát như vậy. Thời Chất
Thiện hầu đã dùng đặng Duyệt Hòa hầu, chứ chẳng phải Duyệt Hòa hầu dùng
đặng Chất Thiện hầu, mới ưng đồng biểu tiến cử Đô đốc Phong.
“Trong 2 năm nay, đức Vương thượng lao thân tiêu tứ mới thu đặng tông
xã. Nếu một phen khinh thính, chúng tôi e rằng mắc phải chúng nó âm đồ
phản trắc.
“Như thuở Đồng Thị chúa tôi gần nhau hãy còn dễ tính. Huống đương cơ
ni các phân nhất diện, viễn cách quan san, chúng tôi rất lấy làm quan hệ.
“Huống triều đình tự thuở bá vượt [phiêu dạt] nhẫn đến thu phục cố kinh,
dầu chư cựu tướng Vương thượng tuy bất tài, bất trí, mà tướng Tây Sơn tuy
hữu danh, hữu vọng, đến khi đương địch cùng nhau, chư tướng đều nhờ Vương
thượng chi phước, vốn không chịu thua chúng nó bao giờ.
“Đến nay quan Giám quân Quyền quận công dầu già lụt cũng là cố thần
trong thuở bá vượt, thực là phước tướng hữu công. Lẽ thời Duyệt Hòa hầu
thương chẳng xiết, nỡ nào lại dâng kẻ tân hàng thay quyền điều bát? Vậy thời
các tướng triều đình quân thượng không ai cho hay bằng Đô đốc Phong nên
mới làm vậy. Chúng tôi rất hổ, dầu nhẫn vâng quân thượng, ngoài ấy e nỗi một
mình quan Giám quân Quyền quận công, dưới không người phụ bật dĩ đương
Bắc phương nhất diện, mà quyết dùng Đại đô đốc Phong làm điều bát.
“Chúng tôi ngỡ dám đột nhàm [đường đột] tử tội bái bẩm, dám trông
xin như trong ni đã có quan điều bát chúng tôi mưu sự chu mật, dùng binh
đắc sách, xin để Phó dinh cùng binh chúng tôi lại hết, chúng tôi xin vệ Hùng
Võ, Hùng Oai trong hai vệ ấy quan quân chúng tôi về hầu. Ngoài ấy đã sẵn
voi Quảng Nam, voi Thuận Hóa cũng bằng voi trong ni. Lại cấp binh nào cho
chúng tôi cũng nên, ngõ sai chúng tôi tòng Giám quân Quyền quận công, văn
thời có Tán lý Thường Hiến hầu, ủy dĩ nhất diện công phá Bắc Hà dĩ thu toàn
bức. Như Vương thượng muốn trọng binh cho quan điều bát chúng tôi trong ni,
thì tăng sai Tiền dinh thêm nữa dĩ liệu công thủ. Như vậy thời binh ta trong
ngoài đều mạnh, kẻo voi ngoài ấy thời để không rất uổng; bằng sai thời không
người tất tín.
“Hay là Vương thượng cho Phấn Oai cùng Võ Oai hai vệ ấy về theo cùng
chúng tôi càng đặng việc lắm. Bằng chúng tôi về ngoài ấy làm việc mà làm
chẳng nên thời chúng tôi cam thọ quân chính, nhẫn đến thê noa, dĩ thường vọng
ngôn chi tội, chẳng dám ăn năn. Dám cụ bẩm văn”. [Nguyên văn Hán Nôm].
Hai ngày mồng 4, mồng 5 binh giặc phạm đến trên từ Núi Một đến đồn tả
quân, Xiêm binh, lũy ngang, Hoa Lộc, Đồng Dài, Núi Thơm, đến núi Sơn Trà;
dưới từ Sông Dinh đến Núi Một bốn mặt công hãm. Nguyễn Văn Thành và thần
chỉnh binh sách ứng, sức các đồn bắn súng. Binh địch phần nhiều tử thương.
Từ đó không dám tái phạm, chỉ đối lũy tử thủ.
Ngày mồng 5, thần dâng biểu xin sai Chánh chi Đản và quân số về Phú
Xuân kinh ứng hầu sai bát:
“Thần Sách quân Tri tượng chính Đô thống chế thần Nguyễn Đức Xuyên
khể thủ đốn thủ bách bái cẩn lạy đức Vương thượng muôn muôn năm cao minh
ngự lãm. Do nay Gia Định kinh lưu trấn quan đạt tờ ra cho chúng tôi rằng:
Ngày trước Cai cơ Chẩn đầu cáo chánh Trưởng chi Đản với các viên Cai đội có
lòng âm mưu tạo phản. Sự chưa phát giác không biết thế nào, phải câu chấp
chánh Trưởng chi Đản với các viên Cai đội. Chừng nay lưu trấn quan cứu vấn
xử tội chánh Trưởng chi Đản với các viên Cai đội thời không có gì là trọng. Vậy
đã dung xá cho các người ấy, nên lưu trấn quan tưởng ngoài ni cầm hoạch ngụy
tượng vả nhiều, mà chánh Trưởng chi Đản với các Cai đội ấy đã am tường cỡi
tượng, nên lưu trấn quan sai chánh Trưởng chi Đản củ suất các cơ Quảng Nam
lưu cư, cộng quân số 70 viên nhân tháp tòng lương tàu tựu binh trường giao cho
chúng tôi sai bát thảo tặc. Nên chúng tôi tưởng trong ni 5 tượng chi viên quân
sai bát cũng đủ mà ngoài ấy tượng số vả nhiều không ai coi giữ. Dám xin lượng
trên ban hạ, triệu chánh Trưởng chi Đản cùng bổn quân ấy hồi kinh phụng
thị ngõ nhờ ban tứ y quần sai vào tòng Tả dinh quản suất sai bát cỡi giữ công
tượng thảo tặc.
“Lại chúng tôi ngây dại lòng lo chẳng xiết, dám lạy đức Vương thượng, vả
tiết rày trời đã gần kỳ vũ lạo [mưa lụt], công tượng tại đồn nhiều thớt có bệnh
ăn đất, không ai biết thuốc liệu trị. Xin lượng trên đòi cựu y tượng tại kinh,
người nào thuộc biết thuốc voi, xin đòi hai tên cho quy lập nội ty lại mà sai vào
điều hộ công tượng.
“Chúng tôi ngây dại, rất sợ rất lo, cúi dám đột nhàm ngửa trông lượng cả
bao dung. Lạy đức Vương thượng muôn muôn năm”. [Nguyên văn Hán Nôm].
Ngày 15 có biểu bẩm về việc Hậu tượng chi chánh Trưởng chi Năm bắt
được voi Kèo Nhỏ thuộc chi Hữu tượng mất ở Truông Cờ:
“Thần Sách quân Tri tượng chính Đô thống chế thần Nguyễn Đức Xuyên
khể thủ đốn thủ bách bái cẩn bẩm lạy đức Vương thượng muôn muôn năm cao
minh ngự lãm.
“Do năm ngoái tháng 11, ngày 24 nội dinh chúng tôi giao công với ngụy
giặc tại Truông Cờ xứ. Thời trận ấy, Hữu tượng chi có thất lạc tượng thớt voi
Kèo Nhỏ về cơ hữu Quảng Nam. Thời ngày ấy chúng tôi có sai quân đi tìm hai,
ba ngày không đặng. Đến nay tháng Bảy, điều bát quan dạy chúng tôi sai voi
vào Phú Yên phủ tòng hậu dinh công phá ngụy giặc, nên chúng tôi sai Hậu
tượng chi chánh Trưởng chi Năm củ suất viên quân, cùng hùng tẫn tượng(1) 29
thớt vào Phú Yên phủ đồn trú tại xứ Chợ Gò.
“Chẳng ngờ qua tháng Tám, đêm mồng 2, canh tư thời quân nội dực đóng
đồn nơi tuần Đá Chẹt, quân canh ngoài truông bèn thấy một thớt voi đi tới, mà
quân canh trời tối chúng nó xem coi chẳng thực, nên chúng nó mới nói rằng
trâu đâm nhau ra đòi bắt. Thời thớt voi ấy đi quanh theo suối, cứ Chợ Gò chạy
xuống nơi chỗ đồn trú. Voi đứng trước cửa đồn nên quân canh ngoài đồn bèn
thấy không biết voi nào, mới chạy vào trình với chánh Trưởng chi Năm. Nên
chánh Trưởng chi Năm ra coi, thời thớt voi ấy hãy còn đứng đó. Bèn sai quân
mở cửa đồn đem voi ra dụ bắt. Thời voi ấy thấy voi trong đồn đi ra, nó bèn
chạy lại đi theo vào đồn. Nên chánh Trưởng chi Năm bảo quân nhảy lên buộc
bì nặc mà cỡi, thời nó cũng chịu theo phép cỡi, không có phá lặc. Đến sáng
ngày, quân coi lại vốn thực thớt voi Kèo Nhỏ cơ Hữu thất trận Truông Cờ, nay
nó trở về, không phải voi rừng, nên quan quân thảy đều mừng hết. Sự cũng dị
thường, việc chưa từng thấy. Chúng tôi chẳng dám điềm nhiên, cúi dám bẩm”.
[Nguyên văn Hán Nôm].
Ngày 21 được chỉ truyền lưu chánh Trưởng chi Đản theo thần sai bát
đánh giặc:
“Chỉ truyền Thần Sách quân Tri tượng chính Đô thống chế Xuyên Thanh
hầu khâm tri: Vả a khanh cụ biểu xin đòi chánh Trưởng chi Đản với các viên
Cai đội và quân Quảng Nam lưu cư sai đi theo Tả dinh sai bát nhung vụ. Việc
ấy a khanh liệu tính phải vậy là phải. Nhưng tưởng rày tiết thuộc Bắc phong,
nếu thôi triệu Trưởng chi Đản tịnh quân tựu kinh thời hành trình khiên trở,
tề tựu chẳng đăng. Vậy phải lưu Trưởng chi Đản với quân ở lại tòng a khanh
sai bát. Như ai nấy y phục rách rưới đã có Gia Định trong ấy chở ra, tua khá
trình cùng Khâm sai Chưởng Tiền quân Bình Tây đại tướng quân Thành quận
công mà lãnh lấy áo quần chiếu phát cho Trưởng chi Đản tịnh quân phục dụng,
để phân phối tòng các đội chi sai bát binh vụ. Khâm tai đặc truyền”. [Nguyên
văn Hán Nôm].
Tháng Chín, ngày mồng 2, Chưởng Hữu quân Đức Nhuận hầu sai Hữu mã
Sai Tài bá báo Gia Định thành lương đoàn vào cửa biển Thi Nại.
Lại nghe gián điệp báo bọn ngụy binh chỉnh ghe Sai và thuyền bè phạm
đường thủy. Canh ba đêm ấy, Nguyễn Văn Thành truyền hậu quân hữu chi giữ
đồn thay tiền chi. Còn quan quân tiền chi đến đồn Hoa An giữ thay cho quan
quân hậu chi trở về đồn Đồng Sạ, tiện theo Nguyễn Văn Thành ngày mai đến
1 Hùng tẫn tượng: hùng tượng là voi đực, tẫn tượng là voi cái.
đồn Thi Nại tiếp ứng, ủy thần đem các đồn bộ binh trấn giữ nhưng giặc không
dám phạm vào.
Chiều ngày mồng 3, Nguyễn Văn Thành trở về đồn Đồng Sạ.
Ngày 13, được chỉ truyền về việc thần nghe huyễn chuyện ngụy Phong,
và ủy thần theo Nguyễn Văn Thành, mỗi trận đều phải tâu thắng trận để đáp
lòng mong của bề trên. Kính tuân lời vua dạy: phàm lời vội vàng, ngày ngày sẽ
khắc phục mà không lầm lẫn như cũ:
“Chỉ truyền Thần Sách quân Tri tượng chính Đô thống chế Xuyên Thanh
hầu khâm tri: Hễ thập di cứu quá, tri vô bất ngôn là nhân thần chi phận [lượm
lặt sửa lỗi, biết thì không gì không nói là phận của người tôi]. Nay ngươi lo đến
việc ni, nói đặng lời ni, thượng biểu cực ngôn đắc thất, ta bỗng tụng chi hạ bất
thắng xưng tưởng [dâng biểu nói hết mọi điều được mất, ta cầm đọc xong, khen
ngợi không gì hơn].
“Những việc thằng Kỷ, thằng Tân, ta đã biết chúng nó tội tại bất xá, nên
ta lưu thằng Kỷ tại nội thành, tuy chẳng gông cùm, nhưng mà đã mật truyền
cho [quân] Túc trực nghiêm phòng canh giữ. Dầu nó lo thửa đào sinh cũng
không chỗ thoát. Còn thằng Tân, thời ngày ta tới Phú Xuân, nó đều theo chúng
phục yết thọ tội, thời ta cũng chẳng minh cân tội ác, nên nó cũng theo, hằng
ngày ứng hầu. Chẳng phải giao hai người ấy cho Binh Bộ Thận mà làm bỉ sở
mại [làm cho ông ta bị nó mua chuộc].
“Chỉ như thằng Lợi, thằng Quyền, thằng An ba đứa ấy, ta hãy gông cùm
lưu giam, vị cập xử trí. Số là ta tưởng từ ngày thu phục Phú Xuân nhẫn nay dầu
việc chi nên thưởng mà khuyên, việc chi nên phạt mà trừng, thảy đều cô trí vị
hạ luận cập [hãy còn để đó, chưa rảnh bàn đến].
“Chỉn hiềm Quy Nhơn chi sự vị tức tấu công với triều đình. Chư tướng hãy
còn cửu tại cương trường [ở lâu tại chiến trường], chưa đặng hội nghị, nên ta
biệt hữu cơ giam dĩ đãi [riêng giữ lại để đợi]. Đã hay ta đương thuở chiêu vong
nạp phản [chiêu nạp kẻ đầu hàng], hễ đặng người nào thực tâm quy hàng, kỳ
tài khả sử thời ta cũng dùng. Song tưởng chúng nó chi tài chi đức cũng chưa
cao xuất cho khỏi chư tướng ta. Huống ta sơ gặp, chúng nó tuy có tốt thành, mà
chúng nó cũng chưa lấy làm tâm phúc, nên nay khi giao tiếp chi tế, cũng đều
giả dĩ từ nhan, biệt hữu đề phòng chi đạo [khi giao thiệp, đều giả làm nét mặt
hiền từ, chứ riêng cũng đề phòng].
“Chí như Đô đốc Phong thời ngày quy hàng có đem quân gần 400 người,
tuy sự hữu khả nghi chi tích mà ta vi quan kỳ ý cũng có tình thực. Đến nay
dầu nó thực lòng hiệu thuận hay có giả ý quy hàng thời ta cũng có ý phòng
quan, khanh vật quải lự [chẳng phải âu lo] vậy. Ngày trước Tả dinh Duyệt có
ý bẩm cử người ấy cho ta lưu dùng mà thôi, vốn chẳng cử thay Quyền quận
công chi nhiệm.
“Còn Tả đồn Chất truy nhiếp nghịch Trát thời sự tích nan miễn phân
nghi [khó khỏi người ta ngờ việc]. Mà ta tính từ Phú Xuân dĩ chí Linh Giang,
lộ trình kinh tứ nhật. Thêm ngày ấy, quân ta tự sơ nhất chí, sơ tam nhật dạ
công kích, thủ bị bất đắc thiểu hưu nhất tức [mồng 1 tới, mồng 3 đêm ngày
công kích khiến cho không được nghỉ dẫu một hơi thở] nên truy nhiếp chi công
chẳng đặng tiến.
“Huống chúng nó là đứa đào sinh, đa tương kim ngọc mãi lộ dĩ thoát
[tung vàng ngọc ra đường để chạy thoát thân], vậy bất chung nhị nhật dĩ quá
Linh Giang. Thời khi ấy chẳng những một bộ binh chẳng kịp, dầu thủy binh
là phong phàm thuận tiện [thuận buồm xuôi gió] thời theo nó chẳng kịp vậy.
“Ta tưởng chúng hảo tất sát, chúng ác tất sát [điều tốt của chúng cũng xét,
điều xấu của chúng cũng xét] ngõ cho thần hạ được nhờ.
“Còn Bắc Hà chi sự, thời Nghệ An xứ Điển quân Trường cùng Lào binh
trực hạ thu thủ các trận thảy đều toàn thắng, nên ta đã dự sai Phấn Dực dinh
cùng Tuấn Võ hầu các quản Sai ghe vượt tựu Biện Sơn dữ Tham quân Thanh,
cùng hào mục xứ ấy ứng tiếp với Lào binh công thủ.
“Còn Quyền quận công hợp dữ Tán lý Thường cùng cứ Đèo Ngang trung lộ
đại trương thanh thế, dương vi tiến thảo chi ý mà xem ý chúng nó khả tiến tắc
tiến. Ấy đại lược binh tình ngoài ni thời vậy. Còn trong ấy ta đã tính sai Tiền
dinh Triệu quản ngũ vệ viên quân phân thừa Sai ghe vào trong ấy tòng Thành
quận công phân sai tiến thảo.
“Vả ngươi, ngoài là quân thần chi phận, trong cũng như phụ tử chi tình.
Mà ta ủy ngươi tòng Thành quận công thời ngươi biết thương ta, sợ ta nên hãy
bấy nay tận tâm tận lực cùng Thành quận công mỗi trận tâu tiệp. Mà ngươi
cùng ta biệt cửu [xa cách lâu ngày] thời lòng ta cũng thương nhớ. Song tưởng
trong ấy là đại quan hệ, mà có ngươi ta đã tin cậy thời phải lưu lại làm vũ dực
[lông cánh] Thành quận công, đồng tâm tảo trừ quốc tặc, ngõ đặng đề binh trực
tiến Phú Xuân, quân thần hội hiệp, hà khánh như chi [còn vui mừng nào hơn].
Nhĩ đương dụ ý dĩ hoạch ngã tâm [ngươi nên hiểu ý để thỏa lòng ta]. Khâm tai
đặc truyền”. [Nguyên văn Hán Nôm].
Ngày 22, thần đem số viên quân nội dinh ở binh trường tử trận, chết bệnh
bị lộ hình hài mà chia tiền mua chiếu bổ cấp táng. Từ đó đến năm Nhâm Tuất
cộng 200 chiếc chiếu, giá 218 quan, cấp táng cho viên binh tử trận, chết bệnh,
cộng 266 người.
Mùa đông tháng Mười, ngày mồng 9, Nguyễn Văn Thành hội các quan
bàn bạc công hãm đồn Lò Giấy, ủy thần trước hết đem binh tượng theo núi
Tam Thai đi vòng ra phía sau đồn giặc Lò Giấy, còn mình đem tượng binh từ
Cây Na đến mặt trước đồn Lò Giấy. Đều hẹn trống canh năm, các đồn bốn
mặt chỉnh binh đánh trống hãm lũy đến lúc y kỳ xông đánh, phá luôn một
dãy từ Lò Giấy đến sông Sơn Triều làm lũy trấn giữ. Ngụy Đô đốc Trí quy
hàng (sau làm Tả dinh phó Đô thống chế). Trận ấy nội dinh được chia thưởng
1.500 quan.
Ngày 12 thần vì Cai đội Sự cơ Trung tượng làm sai phương thuốc khiến
cho voi ngự là voi Chinh nhì bị hạ thổ, kính theo quân pháp xử chém để răn
chúng. Kính dâng biểu bẩm xin tội:
“Thần Sách quân Tri tượng chính Đô thống chế thần Nguyễn Đức Xuyên
khể thủ đốn thủ bách bái cẩn bẩm lạy đức Vương thượng muôn muôn năm cao
minh ngự lãm. Do tháng Chín thời thớt voi Chinh nhì, cơ Trung thị bị bệnh ăn
đất, mà chúng tôi có bảo Cai đội Sự lấy thuốc Cai cơ Văn mà cho nó ăn. Cai đội
Sự lại cố ý không lấy thuốc của Cai cơ Văn mà trước tự làm lấy thuốc mà cho
nó ăn. Lại không thưa với chúng tôi. Chẳng ngờ qua đến bữa 25, giờ Dậu, thớt
voi ấy bạo phát chướng khí, bụng quá căng, đái chẳng đặng, thuốc cỏ không ăn.
Nội bữa ấy đến giờ Dần thớt voi ấy bèn hạ thổ. Nên chúng tôi tưởng tuy nó là
loài súc vật, đương khi nước nhà hữu sự cũng lấy làm trọng dụng. Mà Cai đội
Sự, việc thuốc voi thời chưa đủ biết mà lại riêng làm lấy thuốc mà cho voi ăn,
nên thớt voi ấy bạo phát trọng chứng, chữa lại không đặng, vậy chúng tôi có
gởi đến quan điều bát chúng tôi xử tử Cai đội Sự dĩ trừng bất cẩn.
“Nguyên do thời vậy, chúng tôi chẳng dám điềm nhiên, khâm cụ bẩm văn,
muôn trông ngự lãm.
“Lại dám bẩm lượng trên: vả rày tiết thuộc đông thiên, thời lâm hàn lãnh,
hùng tượng cũng có một hai thớt bị bệnh ăn đất, xin lượng trên đòi y tượng
[hai] tên là Trí, Phủ Quý với trong nội ty năm người cụ bị dược pháp sai vào
trong ni ngõ đặng phòng khi liệu trị hùng tượng, kẻo trong ni một mình Cai cơ
Văn, y tượng diệu phương cũng chưa đủ biết. Chúng tôi rất sợ rất lo, cúi dám
bẩm văn, ngửa trông ngự lãm. Bẩm lạy đức Vương thượng muôn muôn năm”.
[Nguyên văn Hán Nôm].
Ngày 18, Nguyễn Văn Thành triệu viên quân và voi thuộc chi Hậu tượng
đến đồn Đồng Sạ vì có đoàn lương đem tới đồn sở cho đủ chu cấp.
Ngày 19, Nguyễn Văn Thành hội các quan bàn bạc để công hãm đồn ngụy
Đô đốc Hòa ở Phú Trung. Sớm ngày 20, Nguyễn Văn Thành đánh đồn Tháp
Cải. Thần làm trung đạo tiếp ứng, liền đốc thúc nội dinh binh tượng cùng quan
quân các đạo, nhân nhờ Cai đội Cúc Hương hầu (sau làm Tiền hùng tượng cơ
Chánh quản cơ) cỡi voi Hùm lội tới thẳng đánh voi ngụy là voi Sót, voi Long
phải chạy, đuổi dài từ núi Đất cho giáp Phủ Trung, thu được hơn 20 sở đồn
giặc. Nguyễn Văn Thành và thần thừa thắng đuổi tới Phủ Trung, ngụy Dũng
dẫn binh nghênh chiến. Quan quân các đạo nhất tề đánh giết đẩy lui. Ngụy
Đô đốc Diễm (sau làm chánh Trưởng chi) cỡi voi Kèo Nanh ra hàng. Chiều tối
thu quân về đồn. Thần ở đó làm binh tiếp ứng. Các dinh lập đồn tại chợ Phủ
Trung để chống giữ.
Trận ấy nội dinh được chia tiền thưởng 1.765 quan 3 mạch, trong đó thần
được thưởng 300 quan. Còn viên quân nội dinh được thưởng 1.465 quan 3 mạch.
Ngày 25 có biểu bẩm về việc Hữu dinh Tả quân sợ sệt:
“Thần Sách quân Tri tượng chính Đô thống chế thần Nguyễn Đức Xuyên
khể thủ đốn thủ bách bái cẩn bẩm lạy đức Vương thượng muôn muôn năm cao
minh ngự lãm. Vả từ rày Vương thượng thân chinh thu phục Phú Xuân kinh,
dạy chúng tôi ở lại trong ni theo quan điều bát chúng tôi, thời chúng tôi tưởng
ai cũng vậy, phận làm thần tử tua phải hết lòng hết sức đền nợ nước áo cơm
trả ơn Vương thượng. Dẫu hiểm nghèo, khó nhọc thời cũng phải cố gắng công
gắng sức mà lo cho đặng việc nước việc nhà, chẳng dám từ nan mới phải. Mà
các quan vâng mệnh Vương thượng ở lại trong ni theo quan điều bát chúng tôi,
thời các quan ai ai cũng muốn giữ mình cho sống, quên nghĩa chúa tôi. Dầu khi
quan điều bát chúng tôi thương nghị với các quan công phá chỗ nào, thời các
quan Tả dinh, Tả quân từ chánh phó Vệ úy nhẫn lên quan Chánh dinh, Phó
dinh, quan Chánh tướng, Phó tướng thảy đều bàn ra, nói rằng công phá chẳng
đặng. Không thấy một người nói cho cảm dũng mà phấn phát quân tâm. Còn
khi lâm địch, hễ ngó thấy giặc thời đã muốn chạy, không dám giao chiến, nên
chúng tôi tưởng giang sơn xã tắc mười phần đã đặng tám chín, còn một chút
Quy Nhơn đạn hoàn chi địa [vùng đất nhỏ như hòn đạn], dẫu ngụy tặc chúng
nó miễn cưỡng duy trì cũng chẳng đặng, mà các quan không ai liều mình ra sức
lo giúp nước nhà, nên chúng tôi dòm thấy xử sự làm vậy, lòng bảo chẳng đành,
cúi dám đột nhàm cụ tấu minh bạch”. [Nguyên văn Hán Nôm].
Ngày 27 tháng Mười Một, Nguyễn Văn Thành báo rằng 5 tên lính bếp
hậu quân ở trong thành Bình Định mang hài cốt Tánh quận công đến. Hỏi ra
thực bèn lo sắm quan tài, hội quan viên các đạo làm lễ điện. Đến ngày 4 tháng
Chạp, chôn cất tại đồn Thi Nại mà làm lễ cúng.
Ngày 13 tháng Chạp, Nguyễn Văn Thành hội các quan đến hầu, nói rằng
Cai đội Văn đội Tiểu sai kính đem chỉ dụ và áo ngự hàn 43 chiếc, thần được
triệu đến tuyên chỉ phát cho các quan.
Năm Tân Dậu trên, nội dinh đánh được 5 trận, đã được chia bạc thưởng
1.274 phiến dật (bạc hoa tròn 744 phiến, bạc nén 218 nén) và thực tiền là 3.525
quan 8 mạch (trong đó thưởng nội dinh tiền 3.225 quan, thần 300 quan).
Đến năm Nhâm Tuất, Nguyễn Văn Thành ghi công tâu tại thành Thăng
Long, thưởng nội dinh đệ nhất công. Căn cứ theo ngày tháng Tám năm ấy,
đếm tại chiến trường Quy Nhơn, viên quân nội dinh số 2.651 viên nhân, thưởng
vàng 5 hốt 7 lạng 5 tiền 2 phân 6 ly 7 hào, thưởng bạc 517 hốt 7 lạng 6 tiền 5
phân 2 ly 7 hào, thưởng tiền 1.723 quan 1 mạch 30 văn.
Nhâm Tuất, Gia Long năm đầu (1802): Mùa xuân, tháng Giêng, ngày
mồng 2. Ngay đêm Nguyễn Văn Thành hội các đạo bộ binh thương nghị chia
binh đánh đồn Kỳ Sơn. Thần quản viên quân, tượng thớt trung chi làm trung
quân. Tiền đạo Hùng Võ, Túc Oai viên quân theo Trung quân phó tướng Huệ
Trạch hầu. Phấn Oai, Quảng Nam tiền tượng hai chi viên binh làm trung
quân tiên phong. Hùng Dũng, Hùng Oai hai vệ, hậu tượng hai chi chia ra lệ
vào các đạo.
Ngày mồng 3, lúc canh ba, chia ba đạo tiến phát. Sớm mồng 4, theo hiệu
lửa bốn mặt công hãm. Lấy được 11 đồn. Quân truy kích tới mặt trước đồn
Kỳ Sơn.
Ngụy Diệu dẫn quân ở phía đồn xông đánh. Trung quân phó tướng Huệ
Trạch hầu bị tử trận. Ngụy Diệu thừa thắng kéo ra Kỳ Sơn đánh tập hậu. Lúc
đó, thần đang giao chiến với ngụy Thống tướng Đức ở Bàu Quăng. Thần ủy
Phấn Oai vệ Chánh vệ Đệ Khoa hầu và viên quân nội vệ, cùng chánh quản
tiền tượng chi chánh Trưởng chi Châu Quang hầu, Quảng Nam trung tượng chi
chánh Trưởng chi Đản Thành hầu, tiền tượng chi chánh Trưởng chi Nghiêm
Chính hầu, phó Trưởng chi Vi Quang hầu dàn đánh, đấu voi, đấu thương, ngụy
Đức bị thương thối lui. Tay phải thần cầm súng kíp, ngón tay vô danh và ngón
giữa bị trúng đạn, súng cầm bị lõm, làm hai ngón tay đau rách thịt.
Địch chạy rồi, bèn đến nói với Nguyễn Văn Thành biết. Thấy có Tiểu sai
Cai đội Thanh Quang hầu (sau làm thị nội Thống chế) ở đó. Thần xa trông thấy
lính của ngụy Diệu xông tới đánh tập hậu. Bèn lấy ống nhòm xem kỹ, liền nói
nhỏ với Nguyễn Văn Thành mau truyền cho viên quân Hữu dinh phó Đô thống
chế Tín Nhiệm hầu vội kéo về đồn Chùa. Nguyễn Văn Thành từ từ cản hậu, thu
binh. Lúc ngụy Diệu đánh tới, thì Nguyễn Văn Thành đã cỡi voi Nhảy lội qua
Sông Dinh rồi. Ngụy Diệu đánh vào thậm gấp. Thần vẫy tay cho Đản Thành
hầu đuổi theo ra sức nghinh địch. Địch hơi lùi, thần liền cho con voi mình cỡi
là voi Kèo Nanh nằm xuống để tiện cho Nguyễn Văn Thành leo nhanh lên, rồi
vừa đánh vừa lui về đồn hữu quân thu binh. Ngụy Diệu không dám đánh vào
nữa. Thần nói với Nguyễn Văn Thành nên về trước bản đồn, để mặc thần ở đó
chia đóng trong đồn. Đến nửa canh một, bèn triệt binh về đồn. Mới biết rằng
thân giữa rừng súng đạn, may mà không chết, ấy là do ơn vua che chở.
Ngày sau, lính ngụy đối lũy khiêu chiến. Quân tuần phòng đáp rằng: Nếu
bọn ngươi phạm tới, tất bị đánh liền, sao còn kiêu căng. Lính ngụy nói rằng:
Hôm qua nếu không có quan quân tượng đồn tiếp ứng thì bọn ta đã đuổi dài rồi.
Từ khi ra binh đến nay, trận này là thất lợi. Thần sợ bọn giặc lấy làm đắc
chí, thảng hoặc còn phạm lần nữa. Lũy mỏng hào cạn tất sẽ không giữ được.
Nên thường ngày tuần phòng, báo cho Nguyễn Văn Thành lo tu sửa, phòng bị.
Trận này, viên quân nội dinh chết trận 26 người (phó Vệ úy 1, Cai đội
4, Đội trưởng 8, từ Ngũ trưởng đến lính 13 người), được tiền thưởng 200 quan.
Ngày 11, giờ Thìn, Nguyễn Văn Thành vâng theo lệ xuất binh. Giờ Thân,
làm lễ tế các âm hồn. Ngày 12, thần dâng biểu bẩm về việc thất lợi ở lũy Kỳ
Sơn ngày mồng 4:
“Thần Sách quân Tri tượng chính Đô thống chế thần Nguyễn Đức Xuyên
khể thủ đốn thủ bách bái cẩn bẩm lạy đức Vương thượng muôn muôn năm cao
minh ngự lãm.
“Do tháng ni ngày mồng 4, quan điều bát chúng tôi phân sai các đạo nhất
tề tiến kích công hãm Kỳ Sơn(1) tặc đồn, thời trận ấy quan điều bát chúng tôi
sai Tiền quân phó tướng Huệ đem binh tiền quân với nội dinh chúng tôi, thời
Hùng Võ, Túc Oai 2 vệ, 9 tượng, 2 chi đi ngả Sông Dinh đánh lên Kỳ Sơn bên
phía Nước Mặn. Còn quan điều bát với chúng tôi đi ngả Sông Dinh đánh lên
phía Bàu Quăng, Đá Chẹt, giáp lại Kỳ Sơn, phân sai các đạo nhất tề công
hãm, sát thối ngụy binh, đoạt được Kỳ Sơn tặc đồn. Rồi qua đến giờ Mùi, giặc
ngụy chúng nó họp binh kéo xuống ngả Bàu Quăng, Đá Chẹt bên kia núi Kỳ
Sơn chịu đánh. Nên quan điều bát chúng tôi dạy đạo binh Phó tướng Huệ thời
chặn lấy phía núi Kỳ Sơn, bên kia ngả Nước Mặn, Cây Na, bọc chặn lấy đường
sau. Còn quan điều bát với chúng tôi lại đem binh qua bên ni núi Kỳ Sơn, phía
Bàu Quăng, Đá Chẹt, chịu đánh với ngụy binh. Thời chúng nó tử thương thậm
chúng, đánh không lại bèn vỡ chạy. Còn Phó tướng Huệ ở bên ấy sai binh tiền
quân lên núi Kỳ Sơn đánh với giặc ngụy, thời binh tiền quân chịu đánh không
lại, đành xuống. Nên Phó tướng Huệ mới sai Hùng Võ, Túc Oai kéo lên đánh
với tặc binh, chúng nó bèn chạy. Nên ngụy Diệu nó thấy binh nó bại tẩu, tận
cử binh tượng kéo xuống ngả Nước Mặn. Mà quan điều bát với chúng tôi thời
mắc đánh cùng ngụy tặc bên ni núi Kỳ Sơn không hay ngụy Diệu kéo xuống.
Mà Phó tướng Huệ thời ở bên ấy đã thấy ngụy binh kéo xuống, lại không sai
người báo tin cho quan điều bát với chúng tôi hay, ngõ đặng phân binh cự địch,
đã vậy đến khi ngụy binh chúng nó đánh hậu sau núi Kỳ Sơn, thời vệ Hùng
Võ, Túc Oai hãy còn ở trên núi Kỳ Sơn, mà voi thời ở dưới núi. Nên Hùng Võ,
Túc Oai có thưa với Phó tướng Huệ xin đem xuống mà theo chân voi, dẫu chịu
đánh với chúng nó cũng dễ, bằng ở trên ni ắt là chẳng lại, mà Phó tướng Huệ
lại chẳng nghe lời, không cho binh xuống. Đến khi ngụy binh chúng nó hỗn
chiến hợp công vây đánh Phó tướng Huệ, thời Hùng Võ, Túc Oai mắc đánh trên
núi Kỳ Sơn, trở xuống không đặng. Còn voi thời ở dưới núi, mà quân theo voi
thời ít, chịu đánh chẳng đặng, vậy bèn thối tẩu. Nên ngụy binh chúng nó đặng
thế đi sau, đánh qua bên ni núi Kỳ Sơn, thời quan điều bát với chúng tôi mới
hay; thời ngụy binh chúng nó hỗn tiến, tiền hậu bức cận, nên quan điều bát với
chúng tôi thố thủ bất cập [ra tay chẳng kịp], bèn phá đánh sát thối chúng nó,
mở ra mới đặng vậy.
1 Kỳ Sơn: núi ở huyện An Nhơn, Bình Định, cao 188m.
“Trận ấy nội dinh chúng tôi viên quân bị [thương] tích 253 viên nhân,
thất trận [thất lạc] 157 viên nhân, bị tử trận 26 viên nhân. Còn chiến tượng
đới [thương] tích 32 thớt, thất trận 6 thớt. Với sở thất [bị mất] khí giới thậm
nhiều. Chúng tôi chẳng dám điềm nhiên, cảm tu biểu bẩm văn. Ngửa trông
chúng tôi ngây dại rất sợ rất lo, mỗi trận giao công chẳng dám [mất 4 chữ].
“Trận ni bởi Phó tướng Huệ đã thấy ngụy binh kéo qua đánh hậu, cố ý
điềm nhiên không cho báo tin, vậy nên thất liễu cơ binh, tướng sĩ tổn hao.
Chúng tôi hoàng khủng phất thắng, cúi dám đột nhàm, ngửa cam chịu tội. Bái
bẩm đức Vương thượng muôn muôn năm”. [Nguyên văn Hán Nôm].
Ngày 15 giờ Mão, Nguyễn Văn Thành hội các quan làm lễ vọng bái lễ vạn
thọ [của vua Gia Long].
Ngày 16 thần sức nội dinh tuyển số đinh tráng cầm kích phân làm 3 đồn,
cộng số 536 người, trong đó trung đồn 191 người (Hùng Võ vệ 120, Hùng Dũng
vệ 71), tiền đồn 208 người (Phấn Oai vệ 108 người, Hùng Oai vệ 100 người), hậu
đồn 137 viên.
Ngày 17, Nguyễn Văn Thành dời đồn đến đóng ở Đồng Sẻ.
Ngày 19, Nguyễn Văn Thành hội các đạo quân đến lãnh lịch ban
năm mới.
Ngày 28, thần đem việc áo của lính cỡi voi bị rách và việc không có người
trị bệnh voi, soạn biểu dâng lên xin cấp thêm để dùng:
“Thần Sách quân Tri tượng chính Đô thống chế thần Nguyễn Đức Xuyên
khể thủ đốn thủ bách bái cẩn bẩm lạy đức Vương thượng muôn muôn năm cao
minh ngự lãm: Do nay quân trong các tượng chi binh trường nhật cửu, kinh
lịch phong sương, vậy nên bao nhiêu tích y mong đức lượng trên ban tứ năm
trước thời nay đã rách, muôn trông đức Vương thượng xin ban tích y ấy cho
chúng tôi một ít ngõ đặng phát cho quân các tượng chi cỡi tượng thảo tặc. Lại
ngày trước chúng tôi có biểu văn xin lương y tượng ty, vả lương y tượng tên là
Phủ Trí, Huyện Quý, như nay hai người ấy còn đó, dám xin lượng trên sai một
người cụ bị dược pháp vào trong ni phòng khi liệu trị hùng tượng, kẻo trong ni
tượng số vả nhiều, mà một mình chánh Trưởng chi Văn biết trong dược nghệ
hãy còn chưa đủ. Hoặc khi mắc trong chinh chiến lại không ai coi giữ việc ấy.
Chúng tôi rất sợ rất lo, bẩm lạy đức Vương thượng muôn muôn năm ngự lãm”.
[Nguyên văn Hán Nôm].
Ngày mồng 4 tháng Hai, Nguyễn Văn Thành sai quân hữu đồn công hãm
đồn Đồng Dẹp và đồn Núi Đất, quân trung đồn tiếp ứng quân tả đồn, đến đồn
Kỳ Sơn làm phòng ngự. Nguyễn Văn Thành và thần đến đồn Đồng Dẹp đốc
chiến. Phó vệ Quý vệ Lương Võ sợ hãi thối lui bị chém đầu thị chúng. Hai bên
giằng co. Đến giờ Thân thu quân về đồn.
Ngày mồng 5, Nguyễn Văn Thành ủy thần cầm tiền quân hữu đồn và bổn
binh voi đánh ngụy ở Núi Đất, thu được đất ấy, làm đồn trấn giữ.
Ngày mồng 6 kính được chỉ dụ rằng: nghĩa là quân thần, tình như phụ tử,
giao tiếp với người nên hài hòa vui vẻ, khiến cho các tướng sĩ đồng lòng. Kính
đọc xong, cảm xúc đội ơn, mà bất giác nước mắt chảy, mới nhớ rằng sau khi
thất lợi trận Kỳ Sơn, thần có nói với Nguyễn Văn Thành sức sửa sang hào lũy,
có phần nặng lời với đồng liêu nên đến thế chăng?
“Chỉ truyền Thần Sách quân Tri tượng chính Đô thống chế Xuyên Thanh
hầu khâm tri: Ta với ngươi nghĩa là quân thần, tình như phụ tử, dầu thuở gian
nan bá vượt thời ngươi theo ta không lìa chỉ xích [gang tấc]. Mà nay trên nhờ
có thiên tâm quyến hựu [lòng trời giúp đỡ], dưới nhờ có sĩ tốt đồng tâm, nên
tặc thế trong mười phần, đãng định đã đặng tám, chín, nên ngươi tưởng bàn
căn thố tiết [ra sức thi thố] chẳng từ nan.
“Huống nay còn một đảng Quy Nhơn nó cũng chỉ như hắc tử đạn hoàn dễ
làm thủ thắng. Vậy ngươi gấp ở công việc nên khi giao tế chi gian, ngươi tưởng
sao cho đặng việc kinh hành nên có nói một hai lời thời ai nấy lại nói rằng
ngươi là kẻ trảo nha ta, tâm phúc ta, lấy thế ta mà hống hách ai nấy. Tự hậu
dầu có việc chi, ngươi phải hòa nhan duyệt sắc [mặt mày vui vẻ] khiến cho anh
em vậy, sĩ tốt vậy, thảy đều đồng tâm hiệp lực dĩ chẩn bỉ hung. Như vậy thời
việc nước mới đặng, kẻo ta thiên lý vân dao [ngàn dặm xa cách] bất năng thể
tất. Khâm tai đặc truyền”. [Nguyên văn Hán Nôm].
Ngày 12 lại vâng thượng dụ, y như bản văn trên, chỉ khác ngày vậy. Kính
đọc càng thêm sợ hãi. Nhớ rằng thời đó đường bộ chưa thông, đường biển bất
trắc, mà chưa đầy tuần nhật lại kế tiếp phát trạm dịch bày tỏ tình trên thì
chưa biết thế nào.
Ngày 18, thần đem việc hai lần được chỉ dụ dặn dò giáo hối, dám lấy ngu
trung dâng biểu xin tội:
“Thần Sách quân Tri tượng chính Đô thống chế thần Nguyễn Đức Xuyên
khể thủ đốn thủ bách bái cẩn bẩm lạy đức Vương thượng muôn muôn năm cao
minh ngự lãm: Vả chúng tôi phận rất hèn hạ trộm nhờ quang cố trạc dùng
[chiếu cố cân nhắc] đến chức Đô thống chế, hằng kính lo cạn lòng ngay, hết
đạo làm tôi, trót đền nợ cơm áo chưa đặng. Nên từ lệnh sai chúng tôi theo quan
Tiền quân, dầu chúng tôi khôn dại phải chẳng [cũng như phải chăng] thời quan
Tiền quân đã tỏ. May nhờ có trót thương tin cậy vậy chúng tôi mới dám đột
nhàm sở sự, hoặc khi can đón việc gì cũng đặng vãn hồi thời có, vốn chưa từng
nhân khi thịnh nộ mà vội chỉ nhơn phi, lấy oai phúc bao giờ. Lại như chúng tôi
dại dạ, rất sợ Tây tặc cùng xúc, dầu đồn lũy ta tuy trăm chỗ kiên thực mà một
chỗ bê trễ thời cũng đến bại sự, nên chúng tôi tưởng tuy không phải phần đất
chúng tôi ở đồn lũy, nhưng việc là việc chung nhà nước, nào có riêng ai, nên
chúng tôi cũng hằng thăm các phần đất ấy, hoặc phần đất nào hào lũy muông
tuồng, chông ít hào nhỏ, thời chúng tôi lại thưa với quan Tiền quân xin truyền
tu bổ lại. Thời quan Tiền quân cũng có khi quở trách quan phân suất phần đất
ấy. Chúng tôi tưởng e chúng tôi thủ oán tại chỗ ấy. Vốn chúng tôi chưa từng
cậy thế quan Tiền quân có trót thương tín mà hống hách liêu hữu, dè siểm anh
em, lấy mình làm người sang trọng. Nay chúng tôi đắc tội phong thanh bay đến
thánh thông minh, may nhờ đức Vương thượng thiên địa phủ trùm, đã tha tội
chúng tôi. Lại hạnh mông ban hạ chỉ truyền, đinh ninh cáo dụ: ngoài là quân
thần, nội do phụ tử. Thật là tổ tông chúng tôi mông đức ư tuyền hạ [đội ơn đức
ở nơi chín suối] vô cùng, mà chúng tôi vạn tử vị thường kỳ tội [muôn chết chẳng
đền tội được], dám xin sau dầu thanh trừ nghịch đảng, chúng tôi đặng về chầu
chực, nhờ đức Vương thượng thanh vấn các quan lại, bằng chúng tôi có lý chi
cậy thế thân mà lẫm liệt hàng liêu hữu, chúng tôi nặng nhẹ một hai lời, thời
chúng tôi cam phận tử muôn đoạn, dĩ giới vi thần kiêu vọng chi tội. Chúng tôi
dại dột mạo muội dám cụ bẩm vân”. [Nguyên văn Hán Nôm].
Ngày 14 có dâng sổ, lúc đó vâng Công đồng truyền soạn sổ bộ từ năm
[mất 2 chữ] dĩ thượng đến năm Canh Thân, số người trận vong chết bệnh đệ
về hành tại kính nạp. Vâng theo, đã làm sổ bộ tất cả viên quân nội dinh trận
vong, chết bệnh từ Đội trưởng trở lên cộng 82 viên. Sau mong tùy thứ bậc sắc
tặng mỗi viên một đạo sắc, trong đó trận vong 40 người, chết bệnh 40 người,
bị xử 1 người, bị voi đánh chết 1 người.
Ngày 20, được chỉ truyền ban các vật:
“Chỉ truyền các vật cho Tri tượng chính Đô thống chế Xuyên Thanh hầu
vâng lãnh dùng việc binh: 1) Quế hảo hạng 1 cân; 2) Quế hạng nhất 4 cân;
3) Áo […] vàng 100 chiếc; 4) Trường thương 100 cây”.
Ngày 26, Nguyễn Văn Thành bảo thần có Khâm sai Chưởng Tả quân
Bình Tây tướng quân Duyệt quận công ủy Nội Trực vệ nhị đội Cai đội Quế Tài
hầu, Võ sai Cai đội Quảng Đức hầu mang tờ mật báo hẹn kỳ ứng binh bốn mặt
đánh phá lũy giặc, ủy thần ngày mai cử binh tượng đến đèo Phú Quý, Tả đồn
Trí Lược hầu và binh Xiêm đến đồn Núi Đất công hãm lũy giặc. Nguyễn Văn
Thành đem binh đến đồn Đồng Dẹp tiếp ứng, bốn mặt công hãm, binh giặc
đóng lũy tử thủ.
Tháng Ba, ngày mồng 4, Nguyễn Văn Thành sai các dinh binh qua Sông
Dinh, lên bờ đánh phá đồn giặc từ làng Đăng đến đồn Xương Cá cho tới đầu
núi Kỳ Sơn. Ủy quân Hậu dinh của Đô thống chế Tán Tự hầu lập đồn hai vòng
trấn giữ.
Ngày mồng 8, Nguyễn Văn Thành sai các đồn ngừa binh để dời hậu quân
làm một lớp đồn tại mặt tiền xứ Viên Làng. Tiền quân và nội dinh thần xây
đắp lũy. Ngụy Diệu sợ chặn đường sau bèn đem binh voi đến đánh, bị nội dinh
và các đồn đem súng hỏa xa chiếm gò cao đánh vào, bắn súng, binh voi nó tử
thương không kể xiết, về đêm, Đô đốc Thị đem quân bản bộ hơn 100 người
ra hàng.
Ngày 11, giờ Dậu, Nguyễn Văn Thành báo tin có gián điệp và thổ dân
đến trình rằng: ngụy Diệu, ngụy Dũng chỉnh binh thu thập khí giới, chừng ban
đêm sẽ đánh trốn lui.
Quả như vậy, đêm ấy đều bỏ đồn lũy mà trốn. Ngày hôm sau, Nguyễn Văn
Thành tức sai truy đuổi. Bọn Diệu, Dũng trốn ở núi phía tây qua đường nước Ai
Lao. Còn bao nhiêu đều bị bắt. Thành Quy Nhơn yên định.
Ngày 16, Nguyễn Văn Thành cùng quân dinh các đạo bộ binh đều tiến
đóng ở xứ cầu Lãnh Vạn. Thần đem bổn binh đóng ở xứ Lòi Lãnh.
Ngày 27, Nguyễn Văn Thành hội các quan, thân hành làm lễ tế âm hồn
chết trận.
Ngày 29, Nguyễn Văn Thành hội các quan dự tiệc mừng, yến ẩm xướng ca.
Đô thống chế Tả đồn ngự lâm quân Chất Thiện hầu từ biệt ra kinh Phú Xuân.
Mùa hạ, tháng Tư, ngày mồng 1, thần dâng biểu bẩm về số hàng binh 498
người do nội dinh các vệ cơ bắt được tâu về kinh Phú Xuân dâng nạp.
Ngày mồng 2, Nguyễn Văn Thành bảo thần vâng chỉ truyền, ủy Đô
thống chế Hậu dinh Tán Tự hầu trở về Gia Định kính rước quốc mẫu về kinh
Phú Xuân.
Ngày mồng 4, vâng chỉ triệu thần đem bổn binh tượng thớt về kinh Phú
Xuân hầu:
“Chỉ truyền Thần Sách quân Tri tượng chính Đô thống chế Xuyên Thanh
hầu khâm tri: Nay Quy Nhơn yên định, đã có chỉ truyền Khâm sai Chưởng Tiền
quân Bình Tây đại tướng quân Thành quận công án binh tại đất ấy, vỗ về lòng
dân, chế áp dư phỉ. Hợp truyền nên lưu 30 thớt voi đực tại trấn đó theo Thành
quận công làm việc quân, nội dinh và voi còn lại tất quản lấy về Phú Xuân kinh
vâng hầu. Nếu như Thành quận công vì việc quân có cầm giữ lại quân nội dinh
vệ nào theo trấn, khanh nên tuân theo mà lưu lại để lo việc trong trấn. Ngày chỉ
truyền tới, mau chóng tuân hành. Khâm tai đặc truyền.” [Nguyên văn Hán Nôm].
Vâng chỉ, thần chọn lưu lại các viên chánh, phó Trưởng chi của Chính
dinh Hậu tượng chi là Năm Lộc hầu, Cảm Dũng hầu dẫn viên quân nội chi và
30 thớt voi theo Nguyễn Văn Thành sai bát trấn giữ.
Ngày 15, thần chỉnh điểm 5 vệ nội dinh: Hùng Võ, Hùng Oai, Phấn Oai,
Hùng Dũng, An Võ, 9 tượng chi viên quân cũ mới gồm 2.566 người khởi hành,
đến ngày 20 đến kinh Phú Xuân. Được gặp Vương thượng ban dụ rằng: “Các
binh tướng từng theo thu phục được thành Phú Xuân, trẫm đã có chỉ ban cho
đồ trân ngọc từ kho của ngụy để dùng riêng. Ai có mặt, đã có sắc ban. Duy
viên quân của khanh từ lâu ở chiến trường Quy Nhơn, mới về, đặc ban cho
khanh lĩnh tiền 2.000 quan phát cho viên quân nội dinh chi dùng. Khanh và
viên quân nội dinh lại mới đến, không chỗ ở, đặc chỉ ban cho khanh ở nhà
ngụy Tư khấu Định, thuộc đất quan phòng tại làng Xuân Hòa và ban cho lấy
đất vườn nhà của ngụy Đại đô đốc, Đô úy cho các viên trông coi tượng cơ ở.
Khâm thử”.
Ngày mồng 1 tháng Năm, quần thần kính tôn thánh thượng lên ngôi
Hoàng đế, cải nguyên là Gia Long, ban chiếu đại xá. Lúc đó sai viên quân 3 vệ
Nghị Oai, Đằng Oai, Nghĩa Võ thuộc quân Thần Sách, gồm 1.400 người theo
nội dinh thần tiến đánh Bắc thành.
Ngày 21, thần chỉnh viên quân nội dinh, tượng thớt khởi hành.
Tháng Sáu, ngày 14, tới trấn Thanh Hoa, được sai lưu thần ở lại trấn
lãnh việc bắt bọn đầu sỏ ngụy là Diệu, Dũng, Thận, Đức và bè đảng gia quyến
cộng 38 tên giam giữ, cấp tiền gạo, đồ ăn để chờ phát lạc, trong đó nam 28 tên,
nữ 10 tên. Trước là ngụy Bảo Hưng Trát (tức Nguyễn Quang Toản) đến Bắc
thành, Vương thượng ban mệnh Khâm sai Chưởng Tả quân Bình Tây tướng
quân Duyệt quận công quản bộ binh, Khâm sai Chưởng Trung quân Bình Tây
đại tướng quân Quyền quận công quản thủy binh đánh ngụy Thiếu phó Diệu,
Tư đồ Dũng từ Quy Nhơn trốn lên thượng đạo ngầm ra Thanh Hoa theo đường
Quy Hợp. Hai vị tiến đánh bắt được đảng ngụy, giữ tại trấn Thanh Hoa. Bọn
ngụy Dũng, Diệu nghe thần vâng chiếu hội binh đến đó, xin được gặp mặt. Lúc
thần chưa đến trấn, đã có chỉ phát long bài giục đến nhanh gấp bái mạng, được
Vương thượng ban chỉ dụ: Diệu, Dũng xin gặp, khanh hãy đến để xem xin gặp
về chuyện gì. Khâm thử.
Thần đến thấy Diệu, Dũng, liền chia thượng hạ bảo ngồi. Dũng, Diệu hỏi
rằng: “Đây là quan Tri tượng chính chăng?” Thần đáp: “Phải”. Diệu nói: “Đã
cùng đối lũy kể đã 3 năm, và đã cùng chống cự, đấu voi kể trăm lần. Tuy gọi là
mệnh trời đã về, nhưng mưu tính của người cho được thái hòa cũng giống như
thế, nên dám xin một lần gặp vậy”.
Thần bảo rằng: “Ngày nay mới gặp ngụy công, lẽ ra phải phân thây, xẻ
thịt để đền cho tướng sĩ đã chết ở chiến trường, để thỏa lòng ta trong lúc chinh
chiến. Nhưng việc xuống đao đã có quân pháp, vì việc sống chết sau khi bắt
được là do hoàng thượng khu xử.
“Huống chi làm người bề tôi thì đều thờ chúa của mình, phải cúc cung tận
tụy, hết lòng chết rồi sau mới sống được. Lấy tấm lòng mà cùng soi xét thì cũng
như nhau. Nên há đem việc gặp gỡ mà bỉ thử làm sao cho được”.
Diệu, Dũng nghe nói khấu đầu mà rằng: “Lời nói của đại nhân tất có tấm
lòng của đại nhân. Cho nên mấy năm chinh chiến, công thủ, đánh thắng cho
đến nỗi chúng tôi bị bắt thực cũng phải vậy”.
Lúc đó có Duyệt quận công ở đó, thần từ giã đến hành tại đem việc tâu
lên. Hoàng thượng đã dạy: “Bọn nó lòng đã thành phục, trẫm lưu khanh tại trấn
Thanh Hoa xem xét đốc thúc canh giữ, chờ về sau triều đình bàn xét. Khâm thử”.
Ngày 16, được chiếu ban cho thần tước Xuyên quận công, làm Đốc trấn
Thanh Hoa, có Binh Bộ Hữu Tham tri Uyên Thanh hầu bàn bạc thi hành. Thần
bái mạng tại hành cung, chỉnh điểm một nửa binh voi để lại tại trấn để trấn
giữ, một nửa do khâm sai [mất mấy chữ] quản suất theo hầu ngự giá.
“Chiếu Khâm sai Thần Sách quân Chưởng Tượng dinh Xuyên quận công:
Hễ nay đại binh tiến tiễu trừ cốt cho nhân dân yên ổn, đặc ban khanh lãnh
chức Đốc trấn trấn Thanh Hoa chia sai đóng đồn giữ yên đạo tặc, vỗ yên địa
phương. Đến như các công vụ từ tụng, tiền lương, binh dân trong trấn sẽ có
Binh Bộ Hữu Tham tri Uyên Thanh hầu bàn bạc thi hành. Một phương nặng
nề đó, khanh cần gia ý vỗ yên ngăn ngừa, để tỏ rõ ân uy, làm cho đạo tặc yên
định. Khanh nên lưu ý. Khâm tai đặc chiếu”. [Nguyên văn Hán Nôm].
Lúc đó ban cho nội dinh bộ thuộc tuyên công các tượng cơ, ban quân công
lúc binh trường và lúc ở kinh Phú Xuân. Đến khi ấy, thần nhận tước quận công,
lãnh chức Đốc trấn trấn Thanh Hoa. Lúc ấy, thần đếm số viên quân nội dinh
lưu lại và số theo về tại hàng, thực số là 951 viên nhân. Nội dinh Khâm sai
phó Đô thống chế Cúc Hương hầu quản thực số tại hàng ứng theo hầu Vương
thượng ở thành Thăng Long là 1.613 viên nhân.
Thần ở lại trấn, cùng với Hiệp trấn Võ Danh Trung, Tham hiệp Tần Lĩnh
hầu Lê Đắc Tần lo việc trấn.
Cùng ngày, được ban đạo sắc màu đỏ thăng làm Khâm sai Chưởng Tượng
chính quận công.
“Sắc Thần Sách quân Khâm sai Chưởng Tượng dinh Đô thống chế Xuyên
Thanh hầu Nguyễn Đức Xuyên, tấm lòng hồ thỉ, ôm tài thao lược, gặp gỡ sáng
theo nhật nguyệt, chí gắng khuông phò, mở mang hội hợp sấm mây, lòng chăm
lo việc nước gian nan, gắng gỏi theo nghĩa phò vua, trải địch khá nhiều công lao
hãn mã, mấy mươi năm cơ đích tòng nhung, từng trải chân trời góc bể. Trăm
trận ngoài phất ngọn cờ mao, một mảnh nhung y giúp Bắc đỡ Nam dẹp yên
đảng ngụy. Báo đáp công lao bao thuở, nghĩa đất quyến cố, nên ban cho thăng
làm Khâm sai Chưởng Tượng chính Xuyên quận công, lãnh tượng dinh trong
ngoài, viên quân các chi tượng, cơ tượng để sai bát việc quân.
“Nếu hết lòng vâng theo ân sủng, dốc chí trung cần, làm kẻ tâm phúc phụ
bật, xứng với áo xiêm, thì núi sông thư son khoán sắt, muôn thuở dài lâu, dù
cho sông cạn núi mòn. Khâm sai cố sắc”. [Nguyên văn Hán Nôm].
Ngày 16, kính tuyên chiếu dụ các viên tượng mục trấn Thanh Hoa từ trước
có can phạm thì chẳng hỏi, nay phải kiểm thu khí giới nạp tại trấn quan, còn
thủ hạ nghĩa binh sẽ cho về làng cũ:
“Chiếu Thanh Hoa trấn tượng mục đẳng chu tri: Vừa qua Tây Sơn phiến
loạn, Lê tộ cáo chung, trong nước không còn thể thống. Các ngươi ôm lòng trung
phẫn, chẳng chịu cho ngụy đảng trói buộc, nhiều kẻ trốn ở sơn lâm, tụ họp đinh
tráng. Lại có kẻ giả danh trộm cướp. Kêu binh(1) lấy lương, mắc vào điều cấm của
quân luật, tự biết là không công trạng chưa biết về đâu. Sự tình đều đã tỏ tường.
“Nay giặc ngụy đã trừ hết, thiên hạ đã định yên. Kẻ trí thức thời há còn
chậm trễ ngắm trông. Nay đặc chiếu ban ra, kẻ nào can phạm từ trước thì đều
chẳng hỏi, thủ hạ nghĩa binh cũng cho giải tán về làng sinh sống. Còn hào mục,
ai có khẩu súng, khí giới công tư phải kiểm thúc đem đến đồn trấn sở tại nạp
lại, để tiện cho trấn quan dâng biểu chuyển tấu xem tường mà tùy tài thu dụng.
“Các ngươi phải nên xét kỹ cơ nghi, cẩn thận chớ có trễ tràng. Nếu
viên nào giữ riêng khí giới tại địa phương nào thì đã có quân luật. Khâm tai
đặc chiếu”. [Nguyên văn Hán Nôm].
Ngày 20, thần và Võ Danh Trung cùng Tham hiệp Lê Đắc Tần đem việc
Lê Đạt đến trấn nạp khí giới dâng biểu tấu đệ ra Bắc thành.
“Khâm sai Chưởng Tượng chính lãnh Đốc trấn Thanh Hoa thần Nguyễn
Đức Xuyên, Hiệp trấn thần Võ Danh Trung, Tham hiệp thần Lê Đắc Tần khể
thủ đốn thủ bách bái cẩn tấu lạy đức Vương thượng muôn muôn tuổi cao minh
ngự lãm: Anh em chúng tôi dại dột vâng ủy phụng hành trấn vụ, đêm ngày lo sợ
chẳng kham. Ngưỡng nhờ đức ý chiêu dụ hào mục ở bổn trấn, nên ngày 20, Lê
Đạt đem viên quân bộ thuộc 405 người và khí giới các hạng, hiện có tờ khai của
viên ấy đến trấn dinh dâng nạp. Còn thuộc viên là Lê Quyền, Lê Địch, chúng
tôi có hỏi, viên ấy nói rằng đã sai [mất 20 chữ] [ra vùng Lạc Thổ ở Thanh Hoa
ngoại trấn. Sự thể là vậy, kính xin tâu bẩm, trông xin ban cho xử trí cách nào,
chúng tôi ngõ đặng vâng theo. Chúng tôi dại dột, run sợ chẳng xiết, mong mỏi
đợi mệnh. Kính tâu. Hiện đã dâng nộp khí giới cộng là 183 chiếc: súng tay 18
khẩu] trường thương 27 cây, chiêng 1 cái, thanh la 2 cái, các hạng thuẫn 16 lá,
mác 5 cái, các hạng kiếm 17 cái, ghe Tiểu sai 5 chiếc, các hạng trống 5 chiếc
[mất mấy chữ] [súng và thuốc đạn 13 rương, súng hỏa hổ 11 khẩu]”.
Ngày 24, được chiếu ban rằng bọn Lê Đạt đã nạp khí giới vào kho xong
hãy sai các cán viên dẫn viên ấy đến hầu ở hành tại Bắc thành:
“Chiếu Thanh Hoa trấn Đốc trấn Khâm sai Chưởng Tượng dinh Xuyên quận
công, Hiệp trấn Binh Bộ Hữu Tham tri Uyên Thanh hầu, Tham tri Lại Bộ Thiêm
sự Tần Lĩnh hầu khâm tri: Nay có cụ biểu tâu việc Lê Đạt tận tương bộ viên quân
khí giới tựu trấn sở đẳng tình dĩ kinh đổng tất, thời chiếu ban hạ: Phàm bỉ bộ
khúc thủ hạ bao nhiêu thời cho nó các quy hương lý dĩ an sinh nghiệp. Như khí
giới các hạng thời thu lưu tại trấn sở. Còn như Lê Đạt cập viên mục đẳng thời
phải sai cán viên kinh dẫn nghệ Bắc thành hành tại bái yết. Chiếu văn ban đáo,
khâm phụng tuân cứ. Khâm tai đặc chiếu”. [Nguyên văn Hán Nôm].
Ngày 26, vâng Công đồng truyền nay chư quân theo việc Bắc chinh, nếu
có người bị bệnh đi tới trấn sở, nên chiếu phát lương hàng ngày và thang thuốc
điều trị cốt gia tâm bảo dưỡng để đúng với ý thương xót của triều đình:
“Công đồng truyền Thanh Hoa trấn trấn quan tuân tri: Hễ tư chư quân
hầu tòng Bắc chinh, gián hữu viên quân bị bệnh hậu hành, nhân thử hợp
truyền như viên quân ấy đã đi đến trấn sở bao nhiêu thời chiếu phát nhật lương
với thang thuốc điều trị. Còn viên quân bị bệnh hãy ở lại sau, chưa đến trấn
sở thời phải sai người tầm mích dịch đệ [tìm kiếm đem về] trấn sở, cùng nhất
1 Chỉ việc tụ tập binh lính.
thể cấp phát nhật lương với thang thuốc điều trị, vụ tại gia tâm bảo dưỡng, tỉ
đắc thuyên an, dĩ phó triều đình thể tuất quân tình chi ý. Hễ sau quân ấy đã
thuyên an đặng bao nhiêu, thời phó tờ cho nó tựu Thăng Long thành ứng tòng
quân thứ. Tư truyền”. [Nguyên văn Hán Nôm].
Ngày 28, thần dâng biểu tâu xin nghỉ việc trấn để tiện đến Thăng Long
kính hầu.
“Khâm sai Chưởng Tượng chính thần Nguyễn Đức Xuyên khể thủ đốn thủ
bách bái cẩn tấu lạy đức Vương thượng muôn muôn tuổi cao minh ngự lãm: Vả
chúng tôi phận hèn đức bạc, trí ít mưu không. Nay ngửa vâng ban hạ chiếu văn
cho chúng tôi Đốc trấn Thanh Hoa xứ, thời chúng tôi chiến lật chỉ khủng phất
kham [run sợ chỉ lo không nổi]. Chừng nay nghe quan Hữu dinh thừa thuận
phong thủy nghệ tựu hành tại phụng thị, muôn trông ban hạ cho quan Hữu
dinh chúng tôi thế lãnh Đốc trấn, xin cho chúng tôi quản lấy nội dinh viên
quân tượng chích theo hầu đức Vương thượng hôm sớm (mất 5 chữ). Kẻo chúng
tôi ngây dại, như việc lỵ chính lâm dân [chính trị chăm dân] chúng tôi thực
chưa từng biết. Chúng tôi rất sợ rất lo, cúi dám đột nhàm, ngửa trông ngự lãm.
Nay cẩn tấu”. [Nguyên văn Hán Nôm].
Mùa thu, tháng Bảy, ngày mồng 10, được Công đồng truyền kính lấy Thần
Sách quân Hữu dinh Đô thống chế Chương Ngọc hầu làm Đốc trấn trấn Thanh
Hoa, Hữu dinh phó Đô thống chế Dĩnh Đạt hầu làm Trấn thủ, Binh Bộ Tả
Tham tri Định Thành hầu làm Hiệp trấn. Vâng truyền hãy giao việc trấn, chọn
lấy ngụy đảng là bọn 5 tên Bàn, Diệu, Dũng, Đức, Thận đem về thành Thăng
Long giải nạp. Còn số ngụy đảng bao nhiêu giao Đô thống chế Hậu dinh Năng
Tài hầu canh giữ theo đoàn ghe về kinh Phú Xuân giam giữ. Còn thần nhanh
chóng ra thành Thăng Long kính hầu:
“Công đồng truyền Khâm sai Chưởng Tượng chính Xuyên quận công khâm
tri: Nay có ban sai Thần Sách quân Hữu dinh Đô thống chế Chương Ngọc hầu
làm Thanh Hoa trấn Đốc trấn, Hữu dinh phó Đô thống chế Dĩnh Đạt hầu hành
Trấn thủ sự, Binh Bộ Tả Tham tri Định Thành hầu hành Hiệp trấn sự. Khâm
thử. Hợp truyền hễ kiến Đốc trấn Chương Ngọc hầu tựu trấn, phàm trấn nội chư
công vụ tịnh nghi giao dữ Chương Ngọc hầu quản lãnh phụng hành. Hễ khanh
mỗ nhật tựu Thăng Long nghi tuyển thủ ngụy đảng nội đồ ngụy Bàn, ngụy Diệu,
ngụy Dũng, ngụy Đức, ngụy Thận, cộng ngũ danh, bát quân điều tòng tựu Thăng
Long thành giải nạp. Hiện tồn ngụy đảng nội đồ can danh tịnh nghi giao dữ
Hậu dinh Đô thống chế Năng Tài hầu nhận lãnh câu lưu, tòng ghe đoàn vượt
hồi Phú Xuân kinh giam giữ. Còn như nội dinh tượng chích bao nhiêu thời hãy
lưu lại Thanh Hoa trấn mục dưỡng. Hễ các việc ấy bố trí rồi thời khanh tấn tốc
tựu Thăng Long thành phụng thị. Tư truyền”. [Nguyên văn Hán Nôm].
Ngày 16 thần đã giữ lấy bọn đầu sỏ ngụy 5 tên, đợi ngày đem ra thành
Thăng Long. Còn bao nhiêu đều tống giao Đô thống chế Năng Tài hầu giam giữ,
từ Đô đốc trở xuống, nam nữ 17 tên, bệnh chết trong khi giam 2 tên.
Ngày 20 được Công đồng truyền khâm ban một quả ấn đồng Chưởng
Tượng chính và một hộp son. Còn đồng chương trước đó đã ban thì sai người
đệ về nạp ở hành tại:
“Công đồng truyền Khâm sai Chưởng Tượng chính Xuyên quận công tuân
tri: Nay có vâng ban thưởng Tượng chính đồng ấn một quả và ban mực son một
hộp. Khâm thử. Hợp truyền hễ ban ấn dùng mực son thì tiểu phương [ấn khắc
tên họ] và tên họ cũng cho dùng mực son. Như có dâng biểu văn thì nên điền
tên, dùng ấn đã ban ở chỗ ghi niên hiệu, ở ngoài bì cũng nên dùng ấn để cho
xác thuộc. Còn như các tờ sai, truyền văn về công vụ thì dùng ấn ở dưới các chữ
niên hiệu ngày tháng năm. Các tờ phó, tờ truyền, tờ sai trước đây có các dạng
chữ khắc thì đều bỏ hết, không được dùng lẫn lộn.
“Truyền văn tới nơi, cần phải tuân theo. Tư truyền. Lại truyền như đồng
chương cũ đã ban, nên sắc người đem về hành tại phụng nạp”. [Nguyên văn
Hán Nôm].
Vâng theo đó, thần ủy Khâm sai Cai cơ Đức Nhuận hầu đội 6 vệ Hùng Võ
và 15 tên quân hộ tòng đem đồng chương cũ ra Bắc thành phụng nạp.
Ngày 21, vâng Công đồng truyền ban sai Tả quân hữu đồn, Phó đồn Khâm
sai thuộc nội Cai cơ Thiêm Đức hầu đến trấn Quảng Ngãi chống ngăn giặc
Man. Nên cấp voi 15 thớt, và bọn quản mục đi theo, trước để phòng ngự địa
phương, sau để tiện đường sớm liệu.
“Công đồng truyền Khâm sai Chưởng Tượng chính Xuyên quận công tuân
tri: Nay vâng có ban sai Tả quân hữu đồn, Phó đồn Khâm sai thuộc nội Cai cơ
Thiêm Đức hầu đến phủ Quảng Nghĩa chống ngăn giặc phỉ. Khâm thử. Hợp
truyền hễ thấy Thiêm Đức hầu đến trình, khanh nên cấp 15 thớt voi và các
quản mục đi theo Thiêm Đức hầu đến phủ Quảng Nghĩa trước là phòng ngự địa
phương, sau là sớm phương toan liệu.
“Truyền văn sở đáo, tức tất tuân y. Tư truyền”. [Nguyên văn Hán Nôm].
Ngày […] được ban chiếu dạy: ở Bắc thành đã có đủ voi để ngăn giữ, nên
liệu bắt 30 thớt voi đực và các người quản mục theo Tánh Thiện hầu về thành
Diên Khánh cho tiện cỏ nước:
“Chiếu truyền Khâm sai Chưởng Tượng chính Xuyên quận công tuân tri:
Do nay ở Bắc thành án giữ đã có đủ voi để ngăn giữ, khanh chọn voi công 12
thớt cho Tánh Thiện hầu, và chọn voi đực mạnh khỏe 18 thớt và quản mục để
cấp cho [mất mấy chữ] [Tánh Thiện hầu đủ số 30 con, đặng Tánh Thiện hầu]
đem số voi ấy về thành Diên Khánh cho tiện phương thảo liệu, hoặc khanh
chọn lấy voi ngoài ni cũng được. Lại truyền cho các quản tượng Quy Nhơn chọn
lấy voi ở Quy Nhơn cho theo Tánh Thiện hầu vào Diên Khánh cho đặng cận
tiện cũng nên. Việc ấy mặc khanh tùy nghi liệu tính cho được thỏa đáng. Khâm
tai đặc truyền”. [Nguyên văn Hán Nôm].
Ngày 25, thần dâng biểu tâu đã kính phân sai voi công nuôi dưỡng ở các
trấn, và xin rút các viên của nội dinh vốn được sai giữ các phủ huyện, cửa biển
trở về quản suất bổn quân đến hành tại ứng hầu:
“Khâm sai Chưởng Tượng chính lãnh Thanh Hoa trấn Đốc trấn thần
Nguyễn Đức Xuyên khể thủ đốn thủ bách bái cẩn tấu lạy đức Vương thượng
muôn muôn năm cao minh ngự lãm: Vả ngày trước vâng có Công đồng sai điều
voi đực, voi cái tại thành Thăng Long trở về nuôi dưỡng tại các trấn, thời nay
chúng tôi đã phân sai voi ấy vào dinh Cầu Đồn mà hoạn dưỡng 49 thớt, thời vệ
Đằng Oai ở theo xem giữ. Chỉ tồn lưu dưỡng tại Thanh Hoa trấn 77 thớt ngõ
đặng tiện phương thảo liệu.
“Lại như ngày trước vâng lệnh trên ban sai chúng tôi phụng hành trấn vụ,
cùng ban cho nội dinh chúng tôi từ phó Vệ úy với các viên Cai đội, phó nhậm
các huyện, cùng chúng tôi phân sai nội dinh hầu lái các viên quyền thủ nội
trấn, các hải môn đồn thú dĩ ngự gian đồ. Chưng nay quan Hữu dinh chúng tôi
liệu sai nội dinh các viên thế nhậm các huyện ấy, cho các viên nội dinh chúng
tôi về theo chúng tôi ngõ đặng quản suất bổn quân tiện ư nhất thể tựu hành tại
phụng thị. Chúng tôi dại dột rất sợ rất lo, cúi dám đổng đạt. Muôn trông ngự
lãm. Cẩn tâu”. [Nguyên văn Hán Nôm].
Ngày 29, đã thấy Thiêm Đức hầu đến trình, liền sai Chánh dinh quản Tả
tượng chi chánh Trưởng chi Lượng Tín hầu quản suất viên quân nội chi và 15
thớt voi đực cái theo Thiêm Đức hầu..
Đến giờ Tuất, Tánh Thiện hầu đến trấn, thần chọn sai Tả tượng chi phó
Trưởng chi Dương Liễu hầu quản lãnh các viên Thị tượng chi Cai đội Phú
Nhuận hầu, Quảng Nam Trung tượng chi Cai đội Sơ Đức hầu cùng viên quân,
voi công 30 thớt theo hầu Tánh Thiện hầu đến trấn Bình Định, lại truyền Hậu
tượng chi chánh Trưởng chi Năm Lộc hầu, hễ ngày nào Dương Liễu hầu vào
đóng quân, tên nào quê tại trấn Bình Định thì để lại tại Bình Định theo Năm
Lộc hầu trấn đóng cho tiện gần quê quán.
Ngày 30, vâng Công đồng truyền về việc thần dâng biểu xin rút các viên
quân nội dinh của thần để lệ theo nhất thể đến thành Thăng Long:
“Công đồng truyền Khâm sai Chưởng Tượng chính lãnh Thanh Hoa trấn
Đốc trấn Xuyên quận công, Hiệp trấn Binh Bộ Tả Tham tri Uyên Thanh hầu,
Tham hiệp Lại Bộ Thiêm sự Tần Lĩnh hầu tuân tri: Do nay có Khâm sai Chưởng
Tượng chính lãnh Thanh Hoa trấn Đốc trấn Xuyên quận công có tâu rằng ngày
trước có vâng sai tượng dinh các viên tựu quản thủ trấn nội các huyện cập các
hải môn. Nay xin trừu hồi [lấy lại] các viên ấy, tiện ư nhất thể tựu hành tại
phụng thị. Việc ấy khâm mông duy ban y tấu nên đã có Công đồng truyền cho
Thần Sách quân Hữu dinh Đô thống chế Chương Ngọc hầu chọn sai Hữu dinh
các viên đến trấn nội các huyện, các hải môn thế nhậm. Tư nghi truyền hạ
Tượng dinh các viên bàn giao công vụ cho Hữu dinh các viên sở lãnh thế hành,
rồi thời Tượng dinh các viên lệ tòng Xuyên quận công nhất thể tựu Thăng Long
thành ứng hầu. Còn như việc Nội Trực vệ Cai đội Xuyên Quang hầu huyễn tróc
Võ Ngọc Trân, Tống Thị Xuyến, việc ấy là sự tại trấn nội, nghi tra cứu minh
bạch tòng công tài xử. Tư truyền”. [Nguyên văn Hán Nôm].
Ngày mồng 2 tháng Tám, đã bàn giao xong công việc trong trấn cho
Chương Ngọc hầu nhận lãnh. Thần quản nội dinh viên quân và khí giới đem
5 tên đầu sỏ giặc ra thành Thăng Long triều yết. Lúc đó có ngụy Đại đô đốc
Khương Hoàng Văn Khương, Đô đốc Tiến Phạm Đại Tiến là đầu mục quản
tượng của giặc, bị bệnh nặng trong khi giam giữ, thần sợ giao về Đô thống chế
Năng Tài hầu thì đường biển xa xôi, họ sẽ chết mà chưa kịp chịu hình, bèn dùng
voi đánh chết xé xác ở đồn Dương Xá, rồi khởi hành đến thành Thăng Long
vào hầu bái mạng tâu bày về việc xử Khương, Tiến. Kính được chỉ chuẩn y tấu.
Ngày mồng 6 vào hầu, được vua ban chỉ dụ nay Chưởng Thần Vũ quân
Khiêm quận công vì vợ qua đời, tâu xin về Phú Xuân trước lo liệu việc an táng,
khanh nên tạm quản quân ấy hỗ tòng theo hầu. Khâm thử.
“Chiếu Khâm sai Chưởng Tượng chính Xuyên quận công khâm tri: Do nay
chưởng Thần Vũ quân Khiêm quận công tâu xin về trước Phú Xuân kinh, ta
thuận theo lời xin, đặc chiếu ban khanh tạm quản viên quân Thần Vũ quân hỗ
tòng theo hầu sai bát việc quân. Khanh nên làm sáng tỏ quân luật, thao diễn
luyện tập dạy dỗ cho xứng với sự ủy thác. Khâm tri đặc chiếu”.
Ngày 24, kính vâng chiếu, thần đến trấn Sơn Nam Thượng, theo năm Dần,
Thân, thường làm sổ bộ y theo Công đồng đã định, luyện điểm 7 đinh lấy 1 lính:
“Chiếu Khâm sai Chưởng Tượng chính Xuyên quận công tức nay khâm
mạng đến Sơn Nam thượng trấn chiếu theo năm Dần, Thân thường hành bạ y
như Công đồng thể định, luyện điểm lính bổ thành cơ hiệu đội ngũ, làm sổ đệ
nạp. Việc binh dân quan trọng thiết yếu này nên gia ý phụng hành, để xứng sự
ủy thác. Khâm tai đặc chiếu”.
Ngày 28 tháng Chín, thần đến trấn Sơn Nam Thượng luyện điểm 7 đinh
lấy 1 lính lập thành cơ Ngũ Kích tượng quân. Binh đinh mỗi cơ 500 người,
chia thành 3 hiệu 10 đội. Mỗi cơ chọn bổ một viên chánh phó Quản cơ, 1 viên
Tham luận; mỗi hiệu 1 viên Trưởng chi, mỗi đội 1 viên Cai đội, 1 viên chánh
Đội trưởng, Phó đội. Ngày tháng 9 làm xong sổ bộ dâng nạp. Được hạ chiếu ban
cho các viên lãnh chia quân lưu thủ tại Sơn Nam thượng trấn và Thanh Bình
đạo theo công vụ. Và kính đặt 3 tượng cơ Bắc thành là Tiền Hùng, Tả Hùng,
Hữu Hùng cùng voi tại thành lưu thủ.
Ngày 28 tháng Chín, phụng đại giá rút quân về kinh Phú Xuân. Thần và
viên quân tượng thớt nội dinh theo hầu.
Mùa đông, tháng Mười, ngày 11 hộ tòng theo đường bộ đến xứ Động Hải
[Đồng Hới], tiếp có tin buồn thân phụ của thần ngày [mồng 5] tháng này đã
qua đời. Nhớ từ khi ở Gia Định cha con cùng theo quân nhà vua đánh giặc, đến
nay thiên hạ đại định thì phụ thân đã lâm bệnh nặng qua đời, cha con không
thể gặp nhau. Thần xin Vương thượng cho thần về trước, còn viên quân, voi nội
dinh theo hầu giá về kinh Phú Xuân.
Kính được vua ban phó: “Xuyên quận công hãy dẫn viên quân thủ hạ
về Phú Xuân trước. Còn hành trình thì ban cho dịch trạm khiêng vác 8 suất
chuyển đem để đi cho nhanh chóng. Và chiếu theo thực số lên đường lãnh lương
gạo nhật trình chi dùng. Nay phó”.
Ngày 14 thần về đến kinh. Ngày 16 ngự giá vào thành Phú Xuân. Thần
tuy chưa mặc đồ tang nhưng không dám triều bái. Ngày 23, thần dâng biểu xin
từ tạ để tiện đưa linh cữu thân phụ về thành Gia Định mai táng:
“Khâm sai Chưởng Tượng chính thần Nguyễn Đức Xuyên khể thủ đốn thủ
bách bái cẩn tấu lạy đức Vương thượng muôn muôn năm cao minh ngự lãm: Vả
chúng tôi từ thuở thanh niên xuất sĩ chịu tước triều đình cho nhẫn tới nay thời
chúng tôi phận hèn dại dột, dạ hằng lo nghĩa chúa tôi rất nặng, đạo cơm áo
thậm dày, ra sức liều mình trả đền chưa hết. Chừng nay tứ hải thanh bình, quần
hung tận diệt, mà chúng tôi lại trộm nhờ đức Vương thượng quang cố, chuẩn
ban gia tặng cho chúng tôi quận công chức. Lẽ thời chúng tôi hôm sớm tại kỳ tả
hữu vâng nhờ thanh hối [dạy dỗ] mới phải, đâu dám chối từ. Hiềm nỗi chúng tôi
chẳng may nhà lâm đại biến, lão phụ mệnh chung. Song cố hương lão phụ chúng
tôi thời tại làng Dương Nỗ, còn phần mộ ông bà cùng mẹ chúng tôi thì lưu táng
Gia Định. Muôn trông đức Vương thượng quảng suy nhân hiếu chi tâm, thùy
tình lân cập [rủ lòng xét thương tình cảnh], xin cho chúng tôi đệ tương linh cữu
lão phụ chúng tôi về Gia Định mai táng theo phần mộ ông bà chúng tôi, mãn
trong tang phục thời chúng tôi tựu kinh phụng thị. Cúi dám đột nhàm, phất
thắng chiến lật chi chí, phục hầu chỉ phán”. [Nguyên văn Hán Nôm].
Thần được gặp vua cho chỉ dụ: Nay thiên hạ đại định, trẫm muốn cùng
các khanh chung hưởng thái bình, khanh lâm cơn đại biến mà xin từ tạ rời xa,
trẫm vốn không muốn thế. Đặc chuẩn ban gia tặng cha thần làm Cai cơ, miễn
cho thần khỏi triều hạ, cứ ở nhà lo liệu việc tang. Nếu gặp khi việc nước có chỉ
tuyên triệu thì hãy mặc cát phục [quần áo thường] theo việc. Còn như người
chết được chôn cất là yên, khanh muốn hầu linh cữu về Gia Định thì sóng nước
đáng lo. Không như ở đây chọn cát địa an táng là được rồi. Khâm thử.
Thần bói được tốt, bèn táng tại quê là làng Dương Nỗ.
Ngày 25 tháng Mười Một, kính được chiếu ban cho thần chọn binh đinh
châu Thuận Chính làm sổ bộ dâng nạp; ban cho Tượng dinh quản lãnh. Vâng
theo chiếu thần thay tang phục, mặc triều phục đến châu đó chọn được hơn một
ngàn binh đinh, đặt làm 2 vệ Hùng Oai, Phấn Oai Tượng dinh, chọn viên bố
trí, làm sổ dâng nạp. Được vâng cho lệ theo Tượng dinh công vụ.
Quý Hợi, Gia Long năm thứ 2 (1803): Mùa xuân, tháng Giêng.
Định lương bổng hàng năm cho quan lại. Đặc ân cấp cho thần đồng niên
1.225 quan, 1.200 quan cho Vọng Các công thần, áo mùa xuân bằng sa đoạn
hình rồng bay, sô sa các hạng chi tiền 120 quan; tính chung đồng niên tiền
2.525 quan. Đồng niên bổng gạo 720 phương, thêm gạo về công thần Vọng Các
720 phương, cộng 1.440 phương gạo. Chiếu hàng tháng trích lãnh chi dùng.
Ngày 15 tháng Giêng nhuận, thần đem việc Bố Chính ngoại châu đến kỳ
điểm được 500 người, tâu xin chuẩn Nội dinh Khâm sai phó Đô thống chế thuộc
nội Chưởng cơ Cúc Hương hầu đến tận nơi chọn bổ vào đội ngũ.
Mường Lạc Hoàn đạo Cam Lộ vào cống 4 thớt voi đực, rồi xin được cống
hàng năm. Lúc đó thần được ban chỉ tiếp sứ giả về dinh khoản đãi, nói chuyện
an ủi lao nhọc, về sau phó về cho quan công đường dinh Quảng Đức cung đốn.
Tháng Hai, ngày 16, thần kính được chiếu ban lãnh chức Cai tào vụ.(1)
Vả việc mới định, lễ lệ thuế cảng hàng năm tuân theo thể định. Trong đó sức
Chính dinh Cai bạ Tri tào vụ Ý Mỹ hầu Trần Đại Đức ở Tào ty và Toàn Súng
thuyền viên quân vâng làm tào vụ, cung nạp thuế lệ:
“Chiếu Khâm sai Chưởng Tượng chính Xuyên quận công khâm tri: Thuế
lệ thương chánh là để sung vào việc nước và thông thương, nay đặc chuẩn ban
khanh làm Cai tào vụ. Từ rày về sau, phàm có thuyền buôn đến nước ta, như
vào cảng tại kinh và Quảng Nam, khanh nên sức cho khám xét thực đúng và
y thể chiếu thu lễ lệ, thuế cảng vâng nạp. Còn như trong từ Gia Định, ngoài
1 Tào vụ là cơ quan chuyên trách việc vận chuyển hàng hóa, vật liệu của nhà nước bằng thuyền,
kiểm soát và thu thuế tàu thuyền, đến năm 1852 đổi gọi là Ty Tào chính thuộc Bộ Hộ.
trấn Bắc thành các trấn, nếu có tàu buôn thì quan sở tại dâng biểu, ủy cho
khanh chuyển tâu, cho trấn quan khám thực, y thể đánh thu thuế lệ, soạn sổ
bộ đệ trình chuyển tâu phụng nạp. Hễ tất cả sự việc tàu buôn hãy nên quản
lãnh. Phàm quan lại lệnh sử tào ty các viên đều phải nghe lệnh sai bát công vụ.
Khanh hãy sức cho ty thuộc không được sách nhiễu để an ủi lòng người buôn
xa và sung vào thuế nhà nước. Khâm tai đặc chiếu”. [Nguyên văn Hán Nôm].
Tháng Ba, phụng xây dựng kinh đô tại Phú Xuân. Thần được sai chia đốc
thúc quân nội dinh và quân các dinh bổ vào xây đắp phần đất, cả thảy 5.882 người.
Mỗi tháng mỗi tên chiếu lãnh 1 quan tiền, 1 phương gạo chi dùng để theo việc.
Mùa hạ, tháng Năm, ngày mồng 1, Giáp Ngọ, giờ Dậu được vua tận mặt
ban thượng dụ:
“Nước nhà mới định, các nha nhân mối tệ của giặc, thả cho bổn thuộc hiếp
mua vật sản trong chợ, và chặn các con đường hiểm yếu cướp đoạt của cải của
người đi đường. Nay nước nhà cũng chỉ có dân mà thôi, làm như thế thời nhân
dân không ở yên được. Khanh nên lấy nội dinh từ chánh Vệ úy đến Phó đội,
ngầm đến các chợ tại kinh thành xem xét phàm tên nào giành giật mua hiếp
vật sản trong chợ, và cướp bóc của cải người đi đường, thì bất luận nặng nhẹ,
xét ra thực giải nạp lên, khanh tức thì dùng chính pháp để chúng sợ hãi. Khâm
thử”. [Nguyên văn Hán Nôm].
Đêm ấy thần vâng mệnh, ủy chánh Vệ úy vệ Kiên Dũng Đắc Lộc hầu Ngô
Văn Đắc, chánh Vệ úy vệ Hùng Dũng Sự Thành hầu Nguyễn Văn Sự, chánh Vệ
úy vệ Nghĩa Võ Trường Miên hầu Nguyễn Văn Trường [mất 10 chữ] [từ sáng
sớm đem các viên Cai đội, Phó đội xét kỹ] chợ kinh đô và chợ An Cựu [mất 15
chữ] [bắt được mấy tên lính và cai thuộc đội 5 tòng quân, vệ Nhì Thị trung,
dinh Túc Trực là Cai đội Mãi Nguyễn Văn Mãi người Gia Định, tên Nghệ Bùi
Văn Nghệ người Gia Định, tên Quơ Nguyễn Văn Quơ] người Thuận Hóa, nhân
lúc đêm khuya đi cướp bóc [mất 15 chữ] [Lại có Ngũ trưởng Tiềm đội Nội hầu,
các tên lính bếp là lính Phú, Môi, Hán và tên nô bộc Hạch phụ bếp đều thuộc
thủy quân đã mua ức hiếp hàng hóa ở chợ bị] bắt được quả tang liền chém. Được
một tháng, đường sá mới yên.
Ngày mồng 5 được ban chỉ dụ về việc sức cho dân địa phương biết hễ lính
lấy cỏ voi xâm phạm đến măng, tre thì tố cáo, trình nạp. Thần đã có truyền
văn cho quan công đường dinh Quảng Đức rõ:
“Khâm sai Chưởng Tượng chính Xuyên quận công lãnh Tượng dinh Cai
tào vụ truyền dữ Quảng Đức dinh công đường quan chiếu tri: Vả voi công tại
kinh theo hầu cũng vậy, cùng voi công nuôi dưỡng tại các nơi cũng vậy, thời
bổn tước đã đinh ninh nghiêm gia cấm tập. Chỉn e khi quân coi ấy cỡi [voi] đi
ra ngoài vào vườn của dân đạp phá vật hạng của dân. Tất cả tệ đoan đó khó
mà tố cáo, vậy phải truyền nên sức cho các xã thôn phường trong hạt biết rõ:
Hễ tự hậu các quân voi mà cỡi voi đi lấy cỏ đến dân thôn nào, như có xin những
lá chuối rách cùng chuối cây đã ăn trái rồi với những cành vông, các vật ấy là
vật vô dụng thời cho chúng cắt lấy để nuôi voi công. Còn như măng tre ấy là
vật hữu dụng, bằng chúng nó cố lấy thế voi mà chiếm lấy từ một cây tre, bẻ từ
một cây măng nhẫn lên, thời dân xã ấy cứ chặn bắt trong đặng một thớt voi
cho đặng một tên cùng tang vật đem nạp. Dầu tính thế chận bắt chẳng đặng
thời dân xã ấy cứ thớt voi ấy theo về cho đến từng sở mà bắt tên cỡi thớt voi
ấy cùng tang vật nhất thể đem tựu dinh tiền trình nạp, trị tội dĩ giới kỳ dư dĩ
ninh dân xã [trị tội để răn cấm, và dân làng được yên ổn]. Truyền văn nhất hạ,
vụ tại khả thừa hành. Tư truyền. [Nguyên văn Hán Nôm].
“Khi truyền văn tới, nên truyền khắp cho các xã trong hạt. Sao cho mỗi
xã một tờ để giữ làm bằng”. [Nguyên văn Hán Nôm].
[Truyền văn cho các Thị tượng nội quân].
“Khâm sai Chưởng Tượng chính Cai tào vụ quận công truyền cho các viên
chánh phó Vệ úy 3 vệ Thị tượng nội quân rõ: Nay bổn tước đã truyền xuống
các xã, hễ các quân voi mà cỡi voi đi lấy cỏ tới xã dân nào như có xin những lá
chuối rách cùng cây chuối đã ăn trái rồi với những cành vông, các vật ấy là vật
vô dụng thời cho cắt để nuôi công tượng. Còn như măng tre là vật hữu dụng,
nếu ỷ thế mà chiếm từ một cây tre, bẻ từ một cây măng, xã dân ấy chặn bắt
đặng điệu nạp tất can quân pháp. Vậy phải hợp truyền các các tường tri. Như
tư nhi hậu, chức việc vệ nào thời phải thân sức huấn giới quân vệ ấy nghe lấy
cho rõ: Hoặc cỡi voi đi lấy cỏ thời phải giữ gìn khuôn phép y như cách thức tờ
truyền. Hoặc khi hành thuyền đi lấy cỏ tới thôn dân nào cũng y cách thức làm
vậy. Bằng khi chiều tối về chẳng kịp, tính phương đình trú thì phải tựu tại
điếm canh mà trình với trùm trưởng xã ấy tường tri. Chẳng đặng thị dĩ quân
thế mà làm thinh, thời tội đồng gian luận. Giá thử đẳng sự, các các tuân y. Như
mạn pháp thị thường, tội tất liên cập. Tư truyền(1)”. [Nguyên văn Hán Nôm].
Ngày 21 tháng Tư, năm vệ nội dinh: Hùng Võ, Hùng Oai, Phấn Oai, Hùng
Dũng, Nghĩa Võ và quân theo quy hàng xây đắp đường quan xong xuôi, phân
làm ba phiên, gồm 2.804 người. Phiên một: 936 người, ngày 10 tháng Năm
đến phiên. Phiên hai: 934 người, mồng 10 tháng Sáu đến phiên. Phiên ba: 934
người, mồng 10 tháng Bảy đến phiên.
Tháng Sáu, ngày 25, vâng Công đồng truyền chọn lính châu Bố Chính
100 người, chia làm 2 đội [mất chữ] [sai 2 viên Cai đội và 2 viên Phó đội tới
kinh cho đúng kỳ hạn vào ngày 15 tháng Bảy để ứng điểm và sai khiến: Công
đồng truyền cho quan “Khâm sai Chưởng Tượng chánh Cai tào vụ quận công”
biết rõ: Nay phải lựa lấy các lính tân tuyển ở châu Bố Chánh thuộc các vệ của
Nội doanh cho đủ 100 tên, chia làm 2 đội, chuẩn bị nón dấu áo nghiệm quần
nghiệm, các thứ này phải đầy đủ. Lại phải lựa chọn 2 viên Cai đội quản lãnh 2
đội quân ấy cấp tốc tề tựu về kinh để cho đúng kỳ ứng điểm vào ngày 15 tháng
Bảy cho đủ số hầu sai khiến. Nay truyền].
Mùa thu, tháng Tám phụng đại giá Bắc tuần. Ngày mồng […] ngự giá đi
xem lũy Động Hải, nhân có Bắc sứ đến thành Thăng Long tấn tôn, đại giá bèn
ra Bắc. Lúc đó vâng chỉ dụ ủy thần coi sóc 5 dinh tại hàng là Thị Trung, Túc
Trực, Nội Trực, Thần Sách trung tiền tả hữu hậu, Tượng dinh Thị nội tả hữu
thuộc viên nội hầu các vệ, đội, thuyền phụng giữ quân luật khi đi đường. Cả
thảy viên quân gồm 1 vạn 6 ngàn 907 người, trừ viên chức và lính bếp 4.188
người, ngoài ra cầm nghi trượng và khí giới 12.719 người.
Mùa đông tháng Mười, đại giá đến thành Thăng Long.
1 Tất cả các việc trên, nhất nhất phải tuân theo. Nếu khinh nhờn coi thường phép quân, tội sẽ
liên lụy. Nay truyền.
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (123) . 2015