Vùng nguy hiểm :Cuộc xung đột đang đến với Trung Quốc- Bài 5

Hall Brands và Michael Beckley

Trần Quang Nghĩa dịch

4

Nguy Hiểm: Các Cường Quốc Đang Thất Thế

 Nhìn bề ngoài, Kaiser Wilhelm II có mọi lý do để lạc quan vào năm 1914. Một thế kỷ trước đó, nước Phổ – tiền thân của Đế chế Đức của Wilhelm – đã bị Napoléon đánh bại.  Vào những năm 1850, một nước Đức liên minh lỏng lẻo, như một nhà quan sát người Anh sau này đã nói, là một “nhóm các quốc gia tầm thường dưới sự cai trị của các ông vua con tầm thường”. Tuy nhiên, kể từ khi thống nhất các quốc gia đó vào năm 1871, Đức đã trở thành một cường quốc đang trên đà đi lên.

 Các nhà máy của nó đã phun ra sắt và thép, xóa bỏ vị trí dẫn đầu về kinh tế một thời không thể đánh bại được của Vương quốc Anh.  Đức xây dựng một đội quân vô song ở châu Âu;  lực lượng hải quân đang phát triển đe dọa uy thế tối cao của Anh trên biển.  Vào đầu những năm 1900, Đức là một cường quốc nặng ký của lục địa theo đuổi một “chính sách thế giới” táo bạo nhằm giành lấy các thuộc địa và quyền lực toàn cầu.  Nhà sử học A. J. P. Taylor đã viết: “Nước Đức vượt lên trên tất cả các quốc gia lục địa khác;  nó dường như được dành cho vị thế thống trị ở châu Âu và có lẽ xa hơn nữa.

 Tuy nhiên, Kaiser và các phụ tá của ông không cảm thấy tự tin.  Ở phương Đông, một kẻ thù – Nga – đang xây dựng quân đội, mở rộng hạm đội và rút ngắn thời gian cần thiết để chuẩn bị lực lượng cho chiến tranh.  Ở phương Tây, một kẻ thù khác—Pháp—đang mở rộng đáng kể lực lượng quân sự có thể đe dọa Đức.  Tệ hơn nữa, một đồng minh Pháp-Nga-Anh đã bao vây Đức, trong khi các đồng minh của Kaiser, ông phàn nàn, đang rơi rụng như trái cây thối.  Có lẽ thời gian không đứng về phía Berlin: Nếu Wilhelm không sớm lao đến sự vĩ đại, vị thế quân sự của Đức và hy vọng về một cường quốc thế giới có thể sụp đổ.

 Đức phải tấn công để “đánh bại kẻ thù trong khi chúng ta vẫn còn cơ hội chiến thắng”, Tổng tham mưu trưởng Helmuth von Moltke tuyên bố vào năm 1914, ngay cả khi điều đó có nghĩa là “kích động chiến tranh trong tương lai gần”. Khi một cuộc khủng hoảng ngoại giao nổ ra ở châu Âu vào mùa hè năm đó, chính quyền của Kaiser đã làm đúng như vậy—ra quyết định và chấp nhận rủi ro để biến vụ ám sát một hoàng tử Áo thành cuộc xung đột toàn cầu được gọi là Thế chiến I.  Nếu sự trỗi dậy của Đức đã mang lại cho nước này đủ điều kiện để phá vỡ sự cân bằng quyền lực, thì sự suy tàn sắp xảy ra của nước này đã thúc đẩy canh bạc hung hãn nhấn chìm châu Âu vào bóng tối.

 Kịch bản này phổ biến hơn bạn nghĩ.  Sự hiểu biết thông thường của các nhà khoa học chính trị cho rằng các cường quốc hoặc đang trỗi dậy hoặc đang suy tàn;  rằng các cường quốc đang trỗi dậy tiến lên trong khi các cường quốc đang suy tàn lùi lại;  và rằng những căng thẳng lớn nhất và những cuộc chiến tàn khốc nhất xảy ra khi một kẻ thách thức đang trỗi dậy vượt qua một siêu cường đã được công nhận—điều mà các học giả gọi là “sự chuyển đổi quyền lực”.  Thực tế phức tạp hơn

Một quốc gia có thể đang trỗi dậy và đang suy tàn cùng một lúc: Các quốc gia mà chúng ta coi là “các cường quốc đang trỗi dậy” thường trải qua tình trạng suy thoái kinh tế và bị bao vây chiến lược bởi các thế lực thù địch.  Chính là nỗi sợ hãi về tình trạng suy tàn phát sinh – chứ không phải sự lạc quan được tạo ra bởi sự đi lên vĩnh viễn – mới thường kích động hành vi mạo hiểm, hiếu chiến.  Khi tăng trưởng chậm lại, sự bành trướng đáng lo ngại thường theo sau.  Khi một quốc gia bị kẻ thù bao vây, quốc gia đó có thể thử đi những nước cờ liều lĩnh để phá vòng vây.  Quan trọng nhất, xung đột có thể xảy ra ngay cả khi không có “sự chuyển đổi bá quyền”: Cái bẫy thực sự có thể xuất hiện khi một kẻ thách thức đang trỗi dậy trước đó nhận ra rằng họ sẽ không vượt qua được kẻ thù của mình.  Khi cửa sổ của một cường quốc bất mãn bắt đầu đóng lại, khi các nhà lãnh đạo của nó lo sợ rằng họ không thể mang lại vinh quang như đã hứa với nhân dân mình, thì ngay cả một cú lao tới chiến thắng với xác suất thấp cũng có vẻ tốt hơn là một cú hạ bệ nhục nhã.

 Nói cách khác, lý do quỹ đạo của Trung Quốc đáng báo động không phải là vì nước này sẽ vượt qua Mỹ một cách chắc chắn.  Điều đáng báo động là một số cuộc chiến đẫm máu nhất trong lịch sử đã được bùng phát bởi các cường quốc theo chủ nghĩa xét lại khi tương lai của họ có vẻ không còn tươi sáng nữa.

 THUCYDIDES CÓ SAI KHÔNG?

 Sự hiểu biết hiện tại về nguyên nhân gây ra xung đột giữa các cường quốc được rút ra rất nhiều từ một trong những cuộc chiến sớm nhất được ghi nhận.  Trong biên niên sử về Đại chiến Peloponnesian giữa Athens và Sparta từ năm 431 đến 405 trước Công nguyên, Thucydides đã cung cấp cho chúng ta công thức cổ điển.  Sự trỗi dậy của Athens, một đế chế đang phát triển với lực lượng hải quân vô song, đã đe dọa Sparta, một cường quốc trên đất liền trước đây đã dẫn đầu thế giới Hy Lạp.  Người Sparta lo lắng theo dõi Athens lớn mạnh, trang bị vũ khí hùng hậu và lôi kéo các quốc gia khác vào quỹ đạo của mình.  Sparta nhận thấy ảnh hưởng của mình bị thử thách theo những cách ngày càng khó chấp nhận hơn.  Giữa một loạt các cuộc khủng hoảng leo thang, Sparta quyết tâm chiến đấu trước khi quá muộn—“ném toàn bộ lực lượng của mình vào thế lực thù địch, và phá vỡ nó, nếu có thể, bằng cách bắt đầu cuộc chiến hiện tại.” Cuộc đụng độ kinh hoàng xảy ra sau đó  tàn phá cả hai bên và chấm dứt thời kỳ hoàng kim của nền văn minh Hy Lạp.

 Thucydides được coi là cha đẻ của quy luật quan hệ quốc tế, và cách giải thích của ông về xung đột giữa các cường quốc vẫn là trọng tâm của quy luật đó.  Lý thuyết chuyển giao quyền lực cho rằng chiến tranh có thể xảy ra khi một quốc gia đang trỗi dậy đe dọa sẽ vượt qua một quốc gia đã vững vàng.  Khi kẻ thách thức lớn mạnh hơn, nó sẽ làm mất ổn định hệ thống hiện có.  Nó gây ra các trận thử sức với cường quốc đang trị vì.  Kết quả là một cơn lốc xoáy của sự thù địch.  “Chiến tranh rất có thể xảy ra,” một nhà khoa học chính trị viết, “trong thời kỳ khi khả năng quyền lực của một kẻ thách thức đang trỗi dậy và bất mãn bắt đầu tiệm cận với khả năng của quốc gia hiện đang dẫn đầu.”

 Vào năm 2015, Graham Allison của Đại học Harvard đã sử dụng trí tuệ của người xưa để giải thích tình trạng cạnh tranh hiện tại.  Trong suốt lịch sử, Allison lập luận, sự chuyển đổi quyền lực đã dẫn đến chiến tranh.  Nguy cơ này đặc biệt nghiêm trọng bởi vì Trung Quốc sẽ sớm trở thành “tay chơi lớn nhất trong lịch sử thế giới”. Nhiệm vụ của những thập kỷ tới sẽ là quản lý việc trỗi dậy của một quốc gia sẵn sàng thay thế nước Mỹ trong vai trò lãnh đạo thế giới mà không gây ra một thảm họa bạo lực nào trên đường đi.  Công thức đó, không có gì ngạc nhiên, đã hấp dẫn Tập Cận Bình, người từng viện dẫn “Bẫy Thucydides” khi kêu gọi Mỹ chấp nhận vai trò bá chủ của Trung Quốc ở châu Á và xa hơn nữa.

 Luận điểm của Thucydides có một sự thật cơ bản: Sự trỗi dậy của các cường quốc mới chắc chắn sẽ làm rung chuyển thế giới.  2.500 năm trước, Athens đã không trở thành mối đe dọa gần như vậy đối với Sparta nếu nó không trở thành một siêu cường hùng mạnh.  Washington và Bắc Kinh sẽ không rơi vào tình trạng kình địch nếu Trung Quốc vẫn là một quốc gia yếu kém, nghèo khó.  Các cường quốc đang trỗi dậy thường bành trướng ảnh hưởng của mình theo cách đe dọa các cường quốc đang trị vì.  Nhưng phép tính tạo ra chiến tranh không đơn giản như người ta tưởng.

 Để biết tại sao, hãy quay trở lại Chiến tranh Peloponnesian.  Donald Kagan, nhà sử học hiện đại hàng đầu về cuộc xung đột đó, chỉ ra rằng sự trỗi dậy của Athens có thể đã gây ra Chiến tranh Peloponnesian lần thứ nhất, diễn ra từ năm 460 đến năm 455 trước Công nguyên.  Nhưng cuộc chiến đó đã kết thúc trong một giải pháp hòa bình toàn diện.  Nguyên nhân của cuộc Đại chiến Peloponnesian (cuộc chiến mà Thucydides ghi chép lại) phức tạp hơn.  Athens, trong những năm trước cuộc xung đột đó, là một cường quốc đang trỗi dậy nhưng ảnh hưởng không còn mở rộng nữa.  Nó đã thực hiện các động thái thử nghiệm và cuối cùng phá vỡ hòa bình vì lo ngại đất nước  suy thoái nhanh chóng.

Nguyên nhân là do cuộc tranh chấp giữa một đồng minh của Spartan, Corinth, và một thế lực trung lập, Corcyra, về một nơi ít người biết đến có tên là Epidamnus.  Corinth sắp giành chiến thắng trong cuộc chiến đó và xáp nhập thêm hạm đội đáng gờm của Corcyra cho riêng mình.  Điều đó sẽ mang lại cho đồng minh của Corinth, Sparta, khả năng vô hiệu hóa lợi thế hải quân của Athens, cơ sở cho sức mạnh và sự thịnh vượng của nó.  Người Athens, Kagan viết, “đã bị đe dọa bởi một sự thay đổi tức thì chết người trong cán cân quyền lực.” Cơn ác mộng này đã đẩy Athens vào cuộc chiến giữa Corinth và Corcyra—và tạo ra một phản ứng dây chuyền tạo ra Đại chiến Peloponnesian.

 Có một manh mối ở đây để hiểu điều gì đã khiến các cường quốc tuyệt vọng.  Một quốc gia có sự giàu có và quyền lực tương đối đang tăng lên, có vị thế đang được cải thiện, chắc chắn sẽ mở rộng tầm nhìn địa chính trị của mình.  Nhưng nó cũng muốn trì hoãn một cuộc đối đầu đỉnh cao—để tránh gây ra quá sớm cơn thịnh nộ của bá quyền đang trị vì.  Một quốc gia như vậy có lẽ đã hành xử như Trung Quốc đã làm trong hai thập kỷ sau Chiến tranh Lạnh, bằng cách che giấu khả năng của mình và chờ đợi thời cơ.

 Bây giờ hãy tưởng tượng một kịch bản thay thế.  Một quốc gia không hài lòng đã và đang xây dựng quyền lực và củng cố tham vọng của mình.  Các nhà lãnh đạo của nó đã khơi dậy chủ nghĩa dân tộc mãnh liệt;  họ đã hứa với nhân dân rằng những hành động xúc phạm tổ quốc họ trong quá khứ sẽ được rửa hận và những hy sinh to lớn sẽ được đền đáp.  Nhưng sau đó, đất nước đã qua khỏi đỉnh cao, có lẽ vì nền kinh tế của nó bị chững lại, có lẽ vì nó đụng phải một liên minh các đối thủ quyết tâm ngăn cản sự trỗi dậy của mình.  Một cánh cửa cơ hội bây giờ bắt đầu đóng lại;  một cửa sổ dễ bị tổn thương xuất hiện.  Trong trường hợp này, một cường quốc theo chủ nghĩa xét lại có thể hành xử hung hăng hơn, thậm chí là không thể đoán trước, bởi vì họ cảm thấy thôi thúc phải giành lấy những gì họ có thể trước khi quá muộn.

 Đó là khả năng đáng lo ngại mà Hoa Kỳ phải đối mặt với Trung Quốc ngày nay – và đó là khả năng đã xảy ra nhiều lần trong quá khứ.

 ĐÂM ĐẦU VÀO TƯỜNG

 Hãy bắt đầu với suy thoái kinh tế: Điều gì xảy ra khi các nước đang phát triển nhanh bị đình trệ nghiêm trọng?  Để trả lời câu hỏi này, chúng tôi đã xem xét mọi trường hợp trong suốt 150 năm qua, trong đó GDP bình quân đầu người của một cường quốc tăng nhanh ít nhất gấp đôi so với mức trung bình của thế giới trong 7 năm và sau đó chậm lại ít nhất 50% trong 7 năm tiếp theo. Đây là những quốc gia từng bay vút lên rồi lại rơi xuống đất.  Họ thường hạ cánh khó khăn.

 Hầu hết các quốc gia đang phát triển bị đình trệ trong suốt 150 năm qua đã cố gắng phục hồi nền kinh tế của mình thông qua các chính sách trọng thương—việc sử dụng quyền lực nhà nước để phong tỏa thị trường và tài nguyên—và mở rộng quốc tế.  Họ thẳng tay đàn áp trong nước và mở rộng phạm vi ảnh hưởng ra nước ngoài.  Họ xây dựng quân đội của mình và sử dụng chúng một cách quyết đoán hơn.  Trong nhiều trường hợp, hành vi này đã thúc đẩy căng thẳng giữa các cường quốc.  Trong một số trường hợp, nó gây ra các cuộc chiến tranh lớn.

 Tại sao các cường quốc vấp ngã lại có vấn đề như vậy?  Logic rất đơn giản.  Kỷ nguyên tăng trưởng nhanh chóng thúc đẩy tham vọng của một quốc gia, nâng cao kỳ vọng của người dân và khiến các đối thủ của nó lo lắng.  Trong thời kỳ bùng nổ kinh tế kéo dài, các doanh nghiệp được hưởng lợi nhuận khổng lồ và người dân đã quen với cuộc sống sung túc.  Đất nước đạt được sức mạnh và uy tín quốc tế lớn hơn.  Các nhà lãnh đạo nuôi dưỡng những kỳ vọng này, hứa hẹn với mọi người một tương lai thịnh vượng và vĩ đại.  Sau đó, sự trì trệ gây nguy hiểm cho mọi thứ.

 Tăng trưởng chậm lại khiến các nhà lãnh đạo khó giữ cho mọi người hạnh phúc và sung túc hơn.  Kinh tế kém hiệu quả làm suy yếu đất nước và giúp các đối thủ của nó chiếm thế thượng phong.  Lo sợ tình trạng bất ổn, các nhà lãnh đạo đàn áp những người bất đồng chính kiến ​​trong nước.  Họ trở nên quyết tâm khôi phục sự phát triển mạnh mẽ hơn và ngăn chặn những kẻ săn mồi ngoại lai.  Bành trướng có vẻ giống như một lối thoát hiểm—một cách để giành lấy những nguồn của cải mới, tập hợp nhân dân xung quanh các nhà lãnh đạo của mình và ngăn chặn các mối đe dọa đang rình rập.

 Nhiều quốc gia đã đi theo con đường này, bao gồm cả một số quốc gia mà bạn có thể không ngờ tới.  Nước Pháp dân chủ, một trong những đồng minh NATO chủ chốt của Mỹ, đã có một thời kỳ bùng nổ lâu dài sau Thế chiến thứ hai nhưng đã lụi tàn vào những năm 1970.  Paris phản ứng bằng cách cố gắng xây dựng lại phạm vi ảnh hưởng kinh tế cũ của mình ở châu Phi, triển khai 14.000 quân tại các thuộc địa cũ và thực hiện hàng chục cuộc can thiệp quân sự suốt hai thập kỷ sau.  Nhật Bản dân chủ thậm chí còn phát triển nhanh hơn trong những năm 1950 và 1960 trước khi suy thoái vào những năm 1970. Tokyo đã phản ứng bằng cách tăng cường đầu tư vào Đông Nam Á, với hy vọng thiết lập một miền địa kinh tế và bằng cách giúp các công ty Nhật Bản chiếm thị phần toàn cầu trong các ngành công nghiệp then chốt và đảm bảo quyền tiếp cận các nguồn tài nguyên quan trọng như dầu mỏ.  Trong trường hợp này, Nhật Bản không trở nên hung hăng về mặt quân sự, nhưng họ đã phát triển một lực lượng hải quân hùng mạnh để bảo vệ các khoản đầu tư và tuyến đường biển của mình.

Ngay cả nước Mỹ cũng từng tham gia vào quá trình bành trướng đầy lo lắng.  Vào những năm 1880, giai đoạn tăng trưởng kinh tế kéo dài sau Nội chiến đã kết thúc, và những năm 1890 chứng kiến ​​sự hoảng loạn tài chính tàn khốc và suy thoái kéo dài.  Tỷ lệ thất nghiệp toàn quốc trung bình gần 12 phần trăm từ năm 1894 đến năm 1898. Các cuộc đình công, bế xưởng và các trận chiến lao động khác trở nên thường xuyên và đẫm máu. Bị bao vây bởi xung đột trong nước, các quan chức Mỹ cũng lo lắng rằng đất nước này dễ bị tổn thương trước các đế chế lớn của châu Âu đang ăn mòn toàn cầu  .  Châu Phi và Châu Á đã bị nuốt chửng;  Tây bán cầu có thể là tiếp theo.  “Các đối thủ duy nhất của chúng ta trong hòa bình cũng như kẻ thù trong chiến tranh sẽ được tìm thấy ở ngay trước cửa nhà chúng ta,” Ngoại trưởng Richard Olney cảnh báo.

 Washington đã không nhẹ nhàng chấp nhận số phận này.  Chính phủ đàn áp thô bạo các cuộc đình công trong nước và tăng thuế quan đối với hàng hóa nước ngoài trong khi tham gia vào việc mở rộng toàn cầu. Hoa Kỳ đẩy mạnh đầu tư và xuất khẩu vào các thị trường mới ở Mỹ Latinh và Đông Á trong khi vẫn giữ thị trường trong nước tương đối đóng cửa đối với hàng hóa châu Âu. Mỹ đã xây dựng một lực lượng hải quân hùng hậu và chiếm giữ các điểm chiến lược quan trọng như Puerto Rico, Philippines và tuyến đường Kênh đào Panama.  Nó cũng đã tham chiến chống lại Tây Ban Nha, gửi quân đến Trung Quốc và khẳng định quyền ngăn cản các cường quốc nước ngoài bén mảng đến Tây bán cầu.  “Hoa Kỳ .  .  .  đứng đối mặt với một tình thế lớn lao nhất mà một dân tộc có thể đương đầu,” một người theo chủ nghĩa bành trướng hàng đầu đã viết.  “Nó phải bảo vệ các lối ra mậu dịch của mình, nếu không sẽ có nguy cơ bị ngạt thở.”

 May mắn thay, đây là những trường hợp cường điệu hóa nỗi lo lắng.  Trong mỗi trường hợp, các thể chế dân chủ đóng vai trò là bộ giảm chấn cho những thôi thúc gây hấn và căng thẳng nội bộ.  Trong mỗi trường hợp này, đất nước vẫn có một nền kinh tế tương đối cởi mở, năng động, có thể cạnh tranh trên thị trường nước ngoài.  Những đặc điểm này khiến việc khôi phục tăng trưởng trở nên dễ dàng hơn bằng cách thúc đẩy đổi mới và thương mại hòa bình, thay vì sử dụng sự xâm lược quân sự toàn diện để tạo ra một khối kinh tế khép kín. Cuối cùng, bởi vì Nhật Bản và Pháp thời hậu chiến sống trong một trật tự thế giới tương đối lành mạnh do Washington lãnh đạo, họ có nhu cầu – hoặc khả năng – hạn chế để có thể dấn thân vào các hình thức bành trướng theo chủ nghĩa trọng thương tồi tệ nhất.

 Nhưng điều gì sẽ xảy ra khi tình trạng trì trệ tấn công các chế độ độc đoán thiếu tính hợp pháp dân chủ và tập trung vào chủ nghĩa dân tộc lộng hành?  Nền kinh tế của ai không cạnh tranh, do nhà nước kiểm soát dựa vào mạng lưới tư bản thân hữu kiếm lợi từ chủ nghĩa trọng thương?  Đó là khi các quốc gia chỉ đơn giản là lấn sâu vào thị trường nước ngoài và chiếm đoạt các nguồn tài nguyên quan trọng, ngay cả khi điều đó có nghĩa là gây bất ổn chính trị thế giới.

 Hãy xem xét nước Nga đế quốc.  Đất nước đó đã tận hưởng sự bùng nổ kinh tế từ cuối những năm 1880 đến đầu thế kỷ.  Sản lượng công nghiệp tăng gấp đôi, sản lượng sắt thép, dầu thô, than đá tăng gấp ba.  Tuy nhiên, đến năm 1900, một cuộc suy thoái sâu sắc đang diễn ra.  Nông dân lục soát điền trang, công nhân phá hủy đường sắt và nhà máy, hàng chục quan chức cấp cao bị ám sát.  Các nhà cầm quyền Nga lo sợ rằng sự lạc hậu về công nghệ của nước này sẽ khiến nước này lâm vào tình trạng bị các quốc gia tiên tiến hơn “cầm tù về mặt công nghệ ”.

 Một chính phủ chuyên chế sợ hãi đã đàn áp khốc liệt: Đến năm 1905, 70 phần trăm đế chế nằm trong tình trạng thiết quân luật và hơn 10.000 người đã bị xử tử.  Quân đội Nga bành trướng, với cả ngân sách hải quân và trọng tải của hạm đội tăng gần 40% từ năm 1901 đến 1905. Các ngân hàng và ngành công nghiệp do chính phủ kiểm soát trở thành công cụ mở rộng kinh tế.  Petersburg đã nỗ lực tăng cường ảnh hưởng của mình ở Đông Á, tìm kiếm các thuộc địa ở Triều Tiên và cử 170.000 binh sĩ đến chiếm Mãn Châu.  Tuy nhiên, những động thái này đã phản tác dụng: Họ chống lại Nhật Bản, và bị nước này đánh bại trong cuộc chiến tranh giữa các cường quốc đầu tiên của thế kỷ XX.

Một thế kỷ sau, nước Nga của Vladimir Putin trở nên hiếu chiến trong hoàn cảnh tương tự. Sau khi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và giá dầu mỏ sụt giảm đã chấm dứt quá trình tăng trưởng nhờ dầu khí, Putin cần những cách thức mới để củng cố vị thế của Nga, chống đỡ nền kinh tế phụ thuộc vào tài nguyên của nước này, và ngăn chặn những thách thức đối với sự cai trị của ông ta.  Ông ta hình sự hóa bất đồng chính kiến, sát hại những kẻ thách thức chính trị, và đẩy nước Nga tiến sâu hơn vào chế độ chuyên chế;  ông đã tăng cường chủ nghĩa dân tộc và tư tưởng bài ngoại đối với kẻ thù nước ngoài. Putin đã tìm cách tạo ra một khối kinh tế Á-Âu lấy Nga làm trung tâm—“một cộng đồng đế quốc mới,” một người cổ vũ đã gọi nó như vậy.  Ông triển khai các doanh nghiệp nhà nước, chẳng hạn như gã khổng lồ dầu mỏ Rosneft, và lính đánh thuê được chính phủ hậu thuẫn làm công cụ quyền lực nhà nước ở các khu vực hải ngoại.  Chưa hết,, Nga đã cắt xẻo các phần lãnh thổ hai nước láng giềng (Georgia và Ukraine) đang cố gắng thoát khỏi quỹ đạo của mình, đồng thời can thiệp vào cuộc nội chiến ở Syria.  “Chúng ta cần một cuộc chiến nhỏ thắng lợi,” một bộ trưởng Nga đã lập luận (dại dột) vào năm 1904. Sa hoàng của thế kỷ 21 của Nga biết rõ mưu mẹo đó.

 Thật vậy, sự xâm lược của Nga ở Ukraine thể hiện động lực của quyền lực đỉnh cao đang hoạt động.  Vào đầu những năm 2010, EU đã đe dọa tầm nhìn của Putin về một khối Á-Âu bằng cách cung cấp cho Ukraine một hiệp định thương mại tự do toàn diện, hiệp định này ngăn cấm nhiều sản phẩm của Nga. Thỏa thuận này cũng kêu gọi đưa Ukraine vào chính sách an ninh và quốc phòng chung của EU, một động thái mà các nhà lãnh đạo Nga xem như một con dốc trượt đến tư cách thành viên NATO.

 Nga gây áp lực mạnh mẽ để Ukraine từ chối thỏa thuận của EU, và vào tháng 11 năm 2013, Moscow dường như đã đạt được các mục tiêu của mình khi tổng thống Ukraine lúc đó, Victor Yanukovych, hủy bỏ thỏa thuận. Nhưng quyết định đó đã gây ra các cuộc biểu tình ở Kyiv và cuối cùng buộc Yanukovych phải chạy sang Nga.  Các quan chức Nga cảnh báo rằng Ukraine sắp bị chia đôi, rằng EU sẽ nuốt chửng phần phía tây của đất nước, rằng Nga sẽ mất các hợp đồng khí đốt với Ukraine và căn cứ hải quân ở Crimea, và rằng sự hỗn loạn có thể châm ngòi cho tình trạng bất ổn ở trong nước. Đối mặt với một Ukraine nghiêng về phương Tây và những hậu quả có thể xảy ra sau đó, Putin đã chọn sử dụng thành quả của quá trình xây dựng quân đội kéo dài nhiều năm để thay vào đó xắn tay sinh thiết đất nước đó.  Nga sáp nhập Crimea và kích động các cuộc nổi dậy ở miền đông Ukraine vào năm 2014, một tình trạng thù địch công khai kéo dài cho đến khi Nga tiến hành một cuộc xâm lược toàn diện—đại diện cho cuộc xung đột quân sự giữa các quốc gia lớn nhất ở châu Âu kể từ Thế chiến II—vào năm 2022.

 Sự trì trệ kinh tế thậm chí còn giúp giải thích một số hành vi bạo lực, gây rối triệt để nhất mà thế giới từng chứng kiến.  Trong những năm 1920, Nhật Bản và Đức đã phát triển nhanh chóng trước khi đụng phải bức tường.  Trong thời kỳ Đại suy thoái, cả hai quốc gia đều tiến hành các cuộc bành trướng điên cuồng được thúc đẩy bởi các hệ tư tưởng độc hại cũng như mong muốn chiếm đoạt đất đai, tài nguyên và các tài sản khác trước khi kẻ thù—nhiều người trong số đó do họ tự tạo ra—có thể xông vào đánh bại.

 Tất cả những trường hợp này đều phức tạp: Không bao giờ có một yếu tố duy nhất đẩy một quốc gia vào chiến tranh.  Tuy nhiên, có một mô hình rõ ràng.  Nếu tốc độ tăng trưởng nhanh mang lại cho các quốc gia khả năng hành động táo bạo, thì tình trạng trì trệ có thể tạo động lực mạnh mẽ cho các hình thức bành trướng và hiếu chiến liều lĩnh.  Đó là lý do tại sao trình tự nguy hiểm nhất trong chính trị quốc tế là một giai đoạn đi lên kéo dài, theo sau là viễn cảnh suy giảm nghiêm trọng.  Chúng ta thấy điều gì đó tương tự khi nhìn vào cách các cường quốc theo chủ nghĩa xét lại đối phó với thách thức thứ hai: bao vây địa chính trị.  Một số canh bạc thảm khốc nhất trong lịch sử đã xảy ra khi các cường quốc một thời đang trỗi dậy bỗng kết luận rằng con đường đến với vinh quang của họ sắp bị chặn lại.

 CÀNG SỚM CÀNG TỐT: ĐỨC VÀ CHIẾN TRANH THẾ GIỚI I

 Đế quốc Đức là ví dụ trong sách giáo khoa.  Sự cạnh tranh Anh-Đức vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 thường được coi là điềm báo trước cho cuộc cạnh tranh giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc: Cả hai đều là trường hợp của một cường quốc chuyên quyền đang trỗi dậy nhanh chóng thách thức siêu cường tự do đương thời.  Nhưng tiền lệ đáng ngại hơn có thể là thế này: Chiến tranh xảy ra khi một nước Đức đang suy yếu, bị dồn vào chân tường nhận ra rằng họ không thể vượt qua các đối thủ của mình nếu không đánh nhau.

Chiến tranh thế giới thứ nhất đã đánh dấu sự kết thúc tai hại cho một kỷ nguyên đi lên đáng chú ý của Đức.  Giữa năm 1864 và 1871, Wilhelm I và “thủ tướng sắt” của ông ta, Otto von Bismarck, đã tạo nên Đế chế Đức thông qua các cuộc chiến ngắn, được dàn dựng xuất sắc chống lại Đan Mạch, Áo-Hungary và Pháp.  Nhà nước thống nhất nhanh chóng trở thành một gã khổng lồ công nghiệp.  Đến năm 1910, Đức có nền kinh tế hàng đầu châu Âu;  đến năm 1914, nó sản xuất gấp đôi lượng thép so với nước Anh và có gấp đôi số dặm đường ray.  Chi tiêu quốc phòng tăng gần gấp năm lần từ năm 1880 đến năm 1914;  Berlin sớm chỉ huy một đội quân đáng sợ nhất châu Âu, và các xưởng đóng tàu của nó đang xây dựng một lực lượng hải quân có thể bám sát gót chân của Anh.  Nhìn lại quá khứ, nhà sử học Paul Kennedy đã nghi ngờ liệu sức mạnh tương đối của “hai quốc gia láng giềng bất kỳ có bao giờ thay đổi nhiều trong suốt một đời người như đã xảy ra ở đây giữa Anh và Đức hay không.”  Kể từ Napoleon châu Âu chưa bao giờ chứng kiến một quốc gia có tiềm năng thống trị trên đất liền trong khi cũng tranh giành quyền tối cao trên biển.

 Tuy nhiên, sự trỗi dậy của Đức luôn bấp bênh bởi vì quốc gia đó có những kẻ thù tiềm ẩn xung quanh.  Vị trí của nó ở trung tâm của một lục địa đông đúc mang lại ảnh hưởng to lớn nhưng đảm bảo sự ghen tị của các quốc gia dọc theo hai bên sườn của nó.  Hơn nữa, nước Đức đã trỗi dậy vào thời điểm mà nhiều thuộc địa béo bở của thế giới đã bị chiếm hữu hoặc đang bị các đế chế lâu đời nuốt chửng nhưng không muốn chia sẻ.  Vì vậy, ngay cả một nước Đức đang trỗi dậy mạnh mẽ cũng phải bước đi cẩn thận, kẻo nó sẽ kích động cái mà Bismarck gọi là “cơn ác mộng của các liên minh” – sự thù địch tổng hợp của các quốc gia có thể xé tan nó.

 Cho đến những năm 1890, Đức đã chơi trò chơi này một cách điêu luyện.  Trong các cuộc chiến tranh thống nhất, Bismarck đã khéo léo ngăn chặn kẻ thù của nước Đức tập hợp lại.  Ông từ chối hành quân đến Vienna sau khi Phổ đánh đuổi Áo-Hungary vào năm 1866, vì sợ biến một đối thủ bị thương thành kẻ thù lâu dài;  ông đã khéo léo khiêu khích Pháp phát động cuộc chiến vào năm 1870. Sau khi thống nhất, Bismarck đã thao túng nền chính trị liên minh phức tạp của châu Âu và hạn chế tham vọng toàn cầu của Đức nhằm giữ cho đế chế mới không bị bao vây.  Ông giải thích: “Bản đồ châu Phi của tôi ở đây là châu Âu,” ông giải thích: Thay vì biến mình thành mục tiêu của các đối thủ đế quốc ở châu Âu, Đức khiến các đối thủ cạnh tranh của mình chống lại nhau bằng cách khuyến khích họ bành trướng ra nước ngoài.

 Tuy nhiên, chiến lược “ẩn mình chờ thời” ở thế kỷ 19 này đã không tồn tại lâu, bởi vì bản thân Bismarck cũng không tồn tại lâu.  Thủ tướng bị Wilhelm II sa thải vào năm 1890. Dưới thời Wilhelm II, Đức trở nên ít lúng túng hơn trong việc theo đuổi quá trình bành trướng châu Âu và toàn cầu.  Nó bắt tay vào một “chính sách thế giới” nhằm mang lại thị trường, tài nguyên và một đế chế ở nước ngoài ngang bằng với các đối thủ của mình.  Nó đã hình dung ra một khối Trung Âu do Đức thống trị sẽ mang lại an ninh kinh tế và một nền tảng để thể hiện sức mạnh toàn cầu.  “Những ngày mà người Đức ban cho nước láng giềng trái đất, nước kia  biển cả và dành riêng cho mình bầu trời, nơi học thuyết thuần túy ngự trị—những ngày đó đã qua,” ngoại trưởng kiêm thủ tướng tương lai Bernhard von Bülow tuyên bố vào năm 1897: Đức sẽ tuyên bố “vị trí của mình “dưới ánh mặt trời.”

 Chính sách đó đe dọa để lại bóng tối cho người khác. Cuộc tìm kiếm những lợi ích của đế quốc ở Châu Phi, Cận Đông, Thái Bình Dương và Tây Bán cầu đã lôi kéo Đức vào hàng với London, Paris, St. Petersburg và Washington.  Sức mạnh to lớn của quân đội Đức đã gây ra mối nguy hiểm chết người cho một nước Pháp vẫn đang sôi sục.  Có lẽ quan trọng nhất, Berlin đã xây dựng một “hạm đội liều mạng” sừng s gồm các thiết giáp hạm nhằm ngăn chặn Hải quân Hoàng gia được ca ngợi và do đó giúp Đức rảnh tay ở châu Âu và trên toàn cầu.  Bismarck đã kiên quyết trấn an các quốc gia khác rằng Đức sẽ tôn trọng trật tự hiện có.  Nhà ngoại giao người Anh Eyre Crowe viết: Hành động của những người kế nhiệm ông đã làm dấy lên nghi ngờ rằng Berlin có ý định phá vỡ trật tự đó—để tìm kiếm “quyền bá chủ chính trị nói chung và uy thế hàng hải, đe dọa nền độc lập của các nước láng giềng và cuối cùng là sự tồn tại của nước Anh”.

Do đó, Đức bắt đầu mở rộng vòng vây mà Bismarck đã lo sợ.  Năm 1894, Pháp và Nga kết thúc liên minh quân sự nhằm vào Berlin.  Nước Anh đã dồn hết sức lực vào việc duy trì một hạm đội thiết giáp hạm chưa từng có và bố trí chúng gần Đức.  Đô đốc Jackie Fisher nhận xét: “Đức giữ toàn bộ hạm đội của mình luôn tập trung trong vòng vài giờ so với Anh.  “Vì vậy, chúng ta phải giữ cho một hạm đội mạnh gấp đôi hạm đội của Đức luôn tập trung cách Đức vài giờ đồng hồ.” Tai hại hơn, sự quyết đoán của Berlin đã khiến London phải giải quyết tranh chấp với các đối thủ khác của mình—Pháp, Nga, Nhật Bản, Hoa Kỳ—  để tập trung vào mối đe dọa trên Biển Bắc.  Đức đã kích hoạt những lo lắng có thể biến vị trí địa lý của châu Âu thành một cái bẫy chết người.  Đức phải đối mặt, theo cách diễn đạt của Bülow, một “vòng vây các cường quốc” đang tìm cách “cô lập và làm tê liệt nó.”

 Nó cũng phải đối mặt với tình hình kinh tế bị ngăn chặn. Sự phát triển công nghiệp của Đức đương nhiên đã kích thích sự bất an ở những nơi khác.  “Ở mọi nơi trên thế giới, họ đang thay thế các thương nhân người Anh,” tờ Saturday Review cảnh báo vào năm 1875, “và ngay cả ở Anh, họ cũng đang chiếm giữ toàn bộ các chi nhánh và thậm chí cả các trung tâm thương mại làm của riêng mình.” Khi hành vi của Đức trở nên táo tợn hơn, các đối thủ của nó đã tung ra các mức thuế bảo hộ và bắt đầu củng cố đế chế của mình để chống lại thách thức đang nổi lên.  Kaiser dự đoán rằng người Anh sẽ “tiêu diệt” ngành công nghiệp của Đức.  Nước Đức phải “ngăn chặn cái ác bằng cách xây dựng một hạm đội mạnh.” 

 Phản ứng của Berlin là cố gắng phá vỡ vòng vây – thay vào đó lạithông qua các chiến thuật củng cố nó.  Khi Đức kích động một cuộc xung đột đế quốc với Pháp về Ma-rốc vào năm 1905, với hy vọng chứng tỏ rằng hiệp định Anh-Pháp gần đây là vô dụng, điều đó chỉ đơn giản chứng tỏ hai nước cần nhau đến mức nào—và đẩy nhanh tiến độ hình thành Hiệp định Bộ ba liên kết Paris,  London và St. Petersburg.  Khi Berlin sử dụng các biện pháp đe dọa cưỡng chế chống lại Nga trong các cuộc khủng hoảng ở vùng Balkan đầy biến động năm 1908–1909 và 1912–1913, chính phủ của Sa hoàng Nicholas II đã kết luận rằng họ phải đứng vững trong tương lai.  Và khi Đức khuấy động một cuộc tranh chấp thuộc địa khác ở Ma-rốc vào năm 1911, nước này đã đưa ra những lời cảnh báo rõ ràng rằng Anh không tìm kiếm hòa bình “bằng bất cứ giá nào”.  Thủ tướng Theobald von Bethmann-Hollweg (người kế nhiệm Bülow) than thở, xu hướng là “thách thức mọi người, ngáng đường mọi người và thực sự, trong suốt quá trình này, không làm suy yếu ai cả.” Trong khi đó, các cuộc khủng hoảng lặp đi lặp lại đã biến châu Âu thành một nhà kính địa chính trị.  Nỗi sợ hãi về chiến tranh đang gia tăng ở tất cả các bên.

 Không có gì minh họa tốt vòng luẩn quẩn này hơn là các kế hoạch chiến tranh của Đức.  Để đối phó với mối đe dọa của một cuộc chiến trên hai mặt trận chống lại Pháp và Nga, Bộ Tổng tham mưu đã phát triển Kế hoạch Schlieffen, trong đó hình dung ra một đòn chớp nhoáng chống lại Pháp để các lực lượng của Đức sau đó có thể xoay trục để ngăn chặn các đội quân Nga đang di chuyển chậm chạp ở phía Đông.  Tuy nhiên, cách duy nhất để đánh bại Pháp một cách nhanh chóng là vượt qua các công sự kiên cố ở biên giới Pháp-Đức bằng cách cắt xuyên qua nước Bỉ trung lập.  Động thái đó có thể đưa nước Anh vào bất kỳ cuộc chiến tranh châu Âu nào, bởi vì London không thể dung thứ cho một kẻ thù thống trị các quốc gia thấp ngay bên kia đại dương.  Đó là một tình huống ngớ ngẩn: Đức vốn có quá nhiều kẻ thù lại tạo ra những kế hoạch quân sự rủi ro cao và có khả năng tạo ra nhiều hơn thế. Kế hoạch Schlieffen cũng khiến Đức trở nên quá nhạy cảm với những thay đổi nhỏ trong cán cân quân sự, điều này sẽ phá hỏng thời điểm tinh tế và kế hoạch cần thiết  .

 Và những thay đổi lớn đang đến.  Năm 1912, Nga chấp thuận mở rộng hạm đội Baltic;  năm 1913, nó bắt đầu tăng cường quân số lên 470.000 người.  Với sự hỗ trợ tài chính của Pháp, Nga cũng đang mở rộng và hiện đại hóa các tuyến đường sắt của mình: Nhờ vậy thời gian huy động quân sẽ sớm giảm từ sáu tuần xuống còn hai tuần.  Pháp đã thông qua luật cưỡng bách quân dịch mới, bằng cách kéo dài thời hạn phục vụ từ hai năm lên ba năm, đe dọa sẽ phủ định lợi thế về số lượng mà dân số đông hơn của Đức mang lại.  Vương quốc Anh tuyên bố mình sẽ đóng hai thiết giáp hạm cho mỗi chiếc ở Berlin. Đức vẫn là cường quốc quân sự hàng đầu của châu Âu.  Nhưng đến năm 1916–1917, nó bị liên minh kẻ thù vượt qua mặt một cách vô vọng.  “Tôi tin rằng chiến tranh là không thể tránh khỏi và: càng sớm càng tốt,” Moltke tuyên bố vào cuối năm 1912: Tốt nhất là chiến đấu ngay bây giờ hơn là chịu đựng sự ngột ngạt từ từ hoặc bị hủy diệt hoàn toàn.

Có rất nhiều nguyên nhân cho thuyết định mệnh.  Sự cô lập của Đức đã khiến nước này ngày càng phải dựa dẫm nhiều hơn vào đồng minh chính của mình là Áo-Hungary.  Tuy nhiên, đế chế đa quốc gia đó đang bị xé nát bởi căng thẳng sắc tộc và bị thách thức bởi một Serbia do Nga hậu thuẫn ở Balkan.  Các đồng minh tiềm năng khác, chẳng hạn như Ý và Đế chế Ottoman, đang mờ dần.  Chẳng bao lâu nữa, nước Đức có thể hoàn toàn đơn độc.

 Áp lực kinh tế cũng ngày càng gia tăng.  Trước Chiến tranh thế giới thứ nhất, Nga đã tăng trưởng gần 10% hàng năm, có nghĩa là Đức đang mất dần vị thế.  London đang ngăn Đức tiếp cận nguồn dầu mà hải quân nước này cần ở Ba Tư, trong khi Pháp đang cản trở hoạt động xuất khẩu quặng sắt quan trọng.  Các nhà xuất khẩu Đức đã hóa đá khi Nga phát động một cuộc chiến thuế quan làm tê liệt.  Nước Đức, nhà công nghiệp Walther Rathenau nhận xét vào năm 1913, đã hoàn toàn phó thác số phận cho “thị trường thế giới”. Kẻ thù của nó có thể bóp nghẹt thị trường và các nguồn lực mà nước Đức cần để phát triển trong một thế giới tranh chấp khốc liệt.

 Ở trong nước cũng không hơn, điều kiện rất dễ cháy bùng.  Cánh tả xã hội chủ nghĩa đang tiến lên khi các cuộc đình công lao động gia tăng.  Uy tín của Kaiser và quân đội Đức đang suy giảm, và hệ thống chính trị chuyên quyền đang trong tình trạng căng thẳng.  Chính quyền đã khơi dậy niềm đam mê dân tộc chủ nghĩa nhưng giờ đây nó có nguy cơ gây thất vọng;  nó đã hứa hẹn những chiến thắng không thành hiện thực.  Ngay cả việc gia tăng đàn áp cũng không thể ổn định tình hình: Các phụ tá của kaiser bắt đầu kết luận một cuộc chiến thắng lợi ngắn ngủi là cách cuối cùng để tập hợp dân chúng ủng hộ một chế độ đang suy yếu.  Bethmann-Hollweg nói: “Tôi cần một “lời tuyên chiến vì những lý do chính trị nội bộ.

 Kết quả là một tâm trạng bây giờ hoặc không bao giờ.  Berlin phải sớm tấn công để làm tê liệt nước Pháp với tư cách là một cường quốc, đẩy Nga lùi lại một thế hệ, và tạo ra một lãnh thổ rộng lớn—một khối Trung Âu trải dài từ Tây Âu đến Ukraine, cũng như các thuộc địa mới ở xa—nó đang bị từ chối.  Nó phải khai thác cánh cửa cơ hội đang đóng lại mà sức mạnh quân sự của nó vẫn còn tạo ra trước khi một cánh cửa dễ bị tổn thương mở rộng.  Một trong những nhà ngoại giao của Đức đã châm biếm: “Nếu chúng ta không tạo ra một cuộc chiến tranh, thì chắc chắn không ai khác sẽ làm như vậy.”  Bismarck đã từng so sánh chiến tranh phòng ngừa với việc tự sát vì sợ chết.  Tuy nhiên, đây là rủi ro mà các nhà lãnh đạo Đức sẵn sàng chấp nhận.

 Cơ hội nảy sinh sau khi những người gốc Serbia ám sát Franz Ferdinand, người thừa kế ngai vàng Áo-Hung, vào ngày 28 tháng 6 năm 1914. Ban đầu, có vẻ như một cuộc chiến tranh toàn cầu sẽ không nổ ra: Nhiều nhà lãnh đạo châu Âu mắc kẹt trong kế hoạch nghỉ hè của họ.  Tuy nhiên sau này, khi các quan chức Đức thẳng thắn hơn thừa nhận, Berlin đã không làm gì trong cuộc khủng hoảng tiếp theo để ngăn chặn một cuộc chiến tranh lớn – trong khi lại làm nhiều việc để gây ra một cuộc chiến tranh lớn.

 Thời cơ đến đúng lúc: Vị thế quân sự của Đức có thể không bao giờ tốt như trước nữa.  Diễn biến của cuộc khủng hoảng rất thuận lợi: Áo-Hung đang phẫn nộ chắc chắn sẽ liên kết với Đức. Thực tế là cuộc tranh cãi đã bắt đầu ở một góc tương đối xa xôi của châu Âu mang đến một tia hy vọng chết người, được khuyến khích bởi sự do dự ban đầu của London, rằng Đại  Anh có thể đứng bên lề.  Chính trị cũng có vẻ hứa hẹn: Chính quyền có thể khơi dậy lòng nhiệt thành yêu nước bằng cách mô tả cuộc đụng độ như một cuộc chiến cần thiết chống lại những kẻ săn mồi đang cận kề để tiêu diệt mình.  Vì vậy, Berlin lần đầu tiên phát hành “chi phiếu trắng” (tức chi phiếu đã được Đức ký nhận, nhưng số tiền người nhận muốn báo nhiêu thì ghi vào) cho Áo-Hungary, thúc đẩy nước này đè bẹp Serbia và cam kết hỗ trợ nước này ngay cả khi có nguy cơ xảy ra chiến tranh với Nga và Pháp.  Khi cuộc khủng hoảng leo thang, chính quyền Đức đã làm chệch hướng các cơ hội giải quyết hòa bình, trong khi quân đội chuẩn bị thực hiện Kế hoạch Schlieffen bất chấp những nguy hiểm rõ ràng.  “Cuộc chiến này sẽ biến thành một cuộc chiến tranh thế giới trong đó nước Anh cũng sẽ can thiệp,” Moltke thừa nhận – nhưng giải pháp thay thế là Đức bị kiềm chế và tham vọng của nước này bị dập tắt.

Vào phút cuối, Kaiser lúng túng, lo sợ về một thảm họa lớn.  Nhưng cuối cùng, ông đã thúc đẩy thay vì làm gián đoạn thời gian phức tạp của Kế hoạch Schlieffen – trì hoãn thông báo công khai về việc huy động quân của Đức vừa đủ để có vẻ như Nga đã quyết định tham chiến trước.  “Chính phủ đã rất thành công trong việc làm cho chúng ta có vẻ như là kẻ bị tấn công,” một quan chức quân đội viết.  Điều xảy ra sau đó không phải là chiến thắng thống nhất mà Wilhelm tìm kiếm, mà là một trận chiến kéo dài 4 năm đã phá hủy chế độ của ông ta, lật đổ các đế chế và đưa thế giới vào lò sát sinh hàng loạt của thời đại công nghiệp.  “Lạy Chúa, vâng, theo một nghĩa nào đó, đó là một cuộc chiến phòng ngừa,” Bethmann-Hollweg thừa nhận vào năm 1915, vốn bị thúc đẩy bởi niềm tin rằng “chiến tranh hiện nay vẫn có thể xảy ra mà không có thất bại, nhưng không phải trong hai năm!”

 Chiến tranh thế giới thứ nhất, giống như mọi cuộc chiến, có nhiều nguyên nhân.  Nhưng về gốc rễ, đó là một cuộc chiến tranh phòng ngừa của Đức, được phát động vì chính phủ của Kaiser không thấy có cách nào khác để thoát khỏi cái bẫy mà chính họ đã giăng ra.  Đức là một cường quốc theo chủ nghĩa xét lại mà sự trỗi dậy của họ đã bị cản trở bởi tác động ngược từ các thiết kế của chính họ.  Vì vậy, họ đã đánh cuộc và mất tất cả trong một cuộc đọ sức – như Moltke đã dự đoán đúng – sẽ “hủy diệt nền văn minh của gần như toàn bộ châu Âu trong nhiều thập kỷ tới.”

 “NHẮM MẮT VÀ NHẢY”: NHẬT BẢN VÀ THẾ CHIẾN II

 Trong một số trường hợp, suy thoái kinh tế khiến các cường quốc đả kích thay vì chấp nhận một trạng thái bình thường mới đáng thất vọng.  Ở những trường hợp khác, các quốc gia theo chủ nghĩa bành trướng kích động sự ngăn chặn của chính họ và sau đó phá sản.  Đế quốc Nhật Bản đã trải qua cả hai sự năng động trong những năm 1920 và 1930.  Điều gì xảy ra sau đó là một cuộc chiến tranh Thái Bình Dương khủng khiếp trong Thế chiến II.

 Trong hơn nửa thế kỷ sau cuộc Duy tân Minh Trị năm 1868, Nhật Bản đã vươn lên một cách ấn tượng.  Việc tạo ra một nền kinh tế hiện đại và một quân đội hùng mạnh đã cho phép Nhật Bản đánh bại nhà Thanh trong một cuộc chiến, đánh bại Nga hoàng trong một cuộc chiến khác, và tích lũy các đặc quyền thuộc địa ở Đài Loan, Hàn Quốc và Trung Quốc.  Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, Nhật Bản đã chiếm giữ các khu vực của Đức ở Trung Quốc và Thái Bình Dương.  Tuy nhiên, Nhật Bản hầu như không phải là một quốc gia bất hảo siêu hiếu chiến.  Nó liên minh với Vương quốc Anh từ 1902 đến 1923;  nó chấp nhận ảnh hưởng của Mỹ ở Philippines để đổi lấy việc Washington ủng hộ quyền kiểm soát của Nhật Bản đối với Triều Tiên.  Trong suốt thời gian đó, nền kinh tế Nhật Bản đã tăng trưởng với tốc độ 6,1% hàng năm từ năm 1904 đến năm 1919. Giá trị xuất khẩu của Nhật Bản đã tăng gấp ba lần trong Thế chiến I.

 Vào những năm 1920, Nhật Bản trông giống như một bên liên quan có trách nhiệm.  Quyền bầu cử được mở rộng và hệ thống chính trị trở nên dân chủ hơn.  Chính phủ Nhật Bản đã ký một loạt các hiệp ước, được gọi là Hệ thống Washington, trong đó nước này cùng với Mỹ, Anh và các nước khác tạo ra sự cân bằng ổn định về sức mạnh hải quân, cam kết tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Trung Quốc, đồng thời từ bỏ sự bành trướng đơn phương ở Châu Á-Thái Bình Dương.  Năm 1923, Franklin D. Roosevelt nhận xét rằng Mỹ và Nhật Bản “không có một lý do chính đáng nào .  .  .  để đánh nhau.” Và chừng nào nền kinh tế toàn cầu còn hoạt động tương đối tốt đối với Nhật Bản, thì có lý do chính đáng để không gây ra quá nhiều rắc rối.  Ngoại trưởng Nhật Bản Kijūrō Shidehara giải thích rằng Nhật Bản cần “thị trường lớn của Trung Quốc”.  Nhưng nếu nó theo đuổi “sự bành trướng lãnh thổ” được một số quan chức quân sự cổ vũ, nó sẽ “chỉ phá hủy sự hợp tác quốc tế.”

 Rắc rối bắt đầu khi sự thịnh vượng kết thúc.  Tăng trưởng của Nhật Bản giảm xuống còn 1,8 phần trăm hàng năm trong những năm 1920. Một trận động đất lớn và sự sụp đổ ngân hàng đã làm rung chuyển nền kinh tế.  Việc Mỹ tăng thuế quan đã đánh bại xuất khẩu lụa của Nhật Bản.  Sau đó, cuộc Đại khủng hoảng xảy ra.  Thị trường đóng cửa và xuất khẩu của Nhật Bản giảm 50% chỉ trong một năm. Hơn 2,6 triệu công dân bị mất việc làm; một số không ít nông dân phải bán con gái của họ. Những ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa vô chính phủ gia tăng nhanh chóng.  “Thất nghiệp đang gia tăng hàng ngày.  Gia đình đang tan vỡ.  Người chết đói tràn ngập đường phố,” một quan chức chính phủ viết. Trên hết, việc toàn cầu chuyển sang chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch khiến việc theo đuổi hội nhập của Nhật Bản có vẻ viển vông—và khiến cho việc tìm kiếm sự bành trướng và tự cấp tự túc trở nên hấp dẫn hơn.  Ngoại trưởng tương lai Yosuke Matsuoka nhận xét: “Cuộc chiến kinh tế trên thế giới đang có xu hướng tạo ra các khối kinh tế lớn hơn”.  Một nước Nhật “nghẹt thở” cần “không gian giúp chúng tôi thở được.”

Suy thoái khiến Nhật Bản đặc biệt nhạy cảm với những thay đổi ở Trung Quốc.  Vào cuối những năm 1920, một phong trào dân tộc chủ nghĩa dưới thời Tưởng Giới Thạch đã bắt đầu tấn công các đặc quyền kinh tế của Nhật Bản và tranh giành ảnh hưởng của nước này.  Quân đội do Liên Xô huấn luyện của Tưởng đang hành quân.  Đồng thời, các đối thủ khác cũng rình mò: Liên Xô gửi 100.000 quân để chiếm lại một tuyến đường sắt quan trọng đã bị một lãnh chúa Mãn Châu chiếm giữ, sau đó đạt được một thỏa thuận cho phép hàng hóa của họ, chứ không phải của Nhật Bản, đi qua khu vực miễn thuế.  80% đầu tư kinh doanh ở nước ngoài của Nhật Bản là ở Trung Quốc.  Tokyo dựa vào Mãn Châu để có 40% thương mại và các nguồn tài nguyên quan trọng như than đá, sắt và ngũ cốc. Khu vực này là một vùng đệm quan trọng chống lại sự xâm lấn của nước ngoài.  Khi Nhật Bản trì trệ, các cường quốc khác dường như sẵn sàng tấn công.

 Câu trả lời của Tokyo là chủ nghĩa phát xít trong nước và bạo lực ở nước ngoài.  Từ cuối những năm 1920 trở đi, quân đội đã từng bước tiến hành một cuộc đảo chính, trong khi những kẻ quá khích theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan đã sát hại các thủ tướng và các quan chức khác bị coi là không đủ yêu nước.  Chính quyền đặt sự bất đồng chính kiến ​​ngoài vòng pháp luật, bỏ tù những kẻ chỉ trích và xây dựng một nhà nước cảnh sát toàn diện.  Nó tăng cường kiểm soát các ngân hàng và các ngành công nghiệp để khai thác các nguồn lực của quốc gia cho sự cạnh tranh.  Một phe quân sự đang lên rao giảng về sự cần thiết của “chiến tranh toàn diện” và bắt đầu huy động xã hội tham gia xung đột. Đến năm 1941, một nhà quan sát phương Tây đã viết, Nhật Bản đã đi “một chặng đường dài trên con đường trở thành nhà nước độc tài”. 

 Nó cũng đã trở thành một kẻ xâm lược hàng loạt.  Quân đội nắm quyền kiểm soát Mãn Châu vào năm 1931, biến nó thành một quốc gia bù nhìn của Nhật Bản.  Năm 1932–1933, quân đội Nhật Bản tiến sâu hơn xuống bờ biển Trung Quốc và vào sâu trong nội địa.  Năm 1934, Tokyo tuyên bố Đông Á là lãnh thổ độc quyền của mình—một Học thuyết Monroe đảo ngược mà như, Đại sứ Hoa Kỳ Joseph Grew đã viết, “đặt Trung Quốc vào tình trạng dưới sự giám hộ của Nhật Bản.”  Rút khỏi các hiệp ước Washington, Nhật Bản cũng bắt đầu xây dựng lực lượng quân sự đại quy mô với các tàu sân bay, thiết giáp hạm quái vật và máy bay chiến đấu tối tân.  Và đến năm 1936, các quan chức Nhật Bản đã vạch ra kế hoạch cho một đế chế châu Á rộng lớn nhằm biến Nhật Bản thành một siêu cường bằng cách mang lại cho nước này nhiều nguồn tài nguyên, thị trường và không gian địa chính trị.

 Theo kế hoạch này, Mãn Châu sẽ được phát triển và những vùng đất rộng lớn của Trung Quốc sẽ bị chiếm giữ.  Nhật Bản sẽ chiếm các thuộc địa của châu Âu ở Đông Nam Á giàu dầu mỏ, cao su và các tài nguyên khác;  nó sẽ tuyên bố chủ quyền đối với các đảo chiến lược trên khắp tây và trung tâm Thái Bình Dương.  Tất cả những điều này đòi hỏi phải chuẩn bị cho chiến tranh với những quốc gia chắc chắn sẽ chống lại sự thống trị của Nhật Bản đối với một khu vực rộng lớn và quan trọng như vậy—Liên Xô, Vương quốc Anh và Mỹ. Trừ khi Nhật Bản đạt được những gì họ yêu cầu, thủ tướng Nhật Bản Fumimaro Konoye đã viết trước đó, nó phải “phá hủy hiện trạng để tự bảo tồn.”

 Konoye là người giữ lời.  Năm 1937, Nhật Bản phát động một cuộc chiến tranh quy mô lớn và tàn bạo ở Trung Quốc, sử dụng tới 800.000 quân nhằm buộc Tưởng phải khuất phục.  Năm 1938, Konoye tuyên bố thành lập “Trật tự mới”, một châu Á do Nhật Bản thống trị, trong đó mọi con đường đều dẫn đến Tokyo.  Chính phủ của Konoye đặt đất nước vào tình thế chiến tranh để hỗ trợ dự án đế quốc đang mở rộng này, đồng thời liên minh với các cường quốc phát xít khác—Đức Quốc xã và Ý—cũng đang  tìm kiếm các đế chế của riêng họ.  “Kỷ nguyên dân chủ đã kết thúc,” Matsuoka tuyên bố.  “Chủ nghĩa toàn trị.  .  .  sẽ kiểm soát thế giới.”

 Tuy nhiên, chiến tranh trên những vùng đất rộng lớn của Trung Quốc đã trở thành một vũng lầy: Ngay cả trước trận Trân Châu Cảng, các lực lượng Nhật Bản đã phải trả giá bằng máu với 600.000 thương vong. Nó gây ra tình trạng thiếu lương thực và những hy sinh vô bờ khác đối với một bộ phận dân cư kiên cường.  Ngược lại, việc bành trướng cũng khiến Tokyo phụ thuộc nhiều hơn vào những kẻ thù tiềm năng của mình để có nguồn lực duy trì hoạt động của cỗ máy chiến tranh.  Trước Chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản “nhập khẩu 80% dầu mỏ, 90% xăng, 74% sắt vụn và 60% máy công cụ” từ Mỹ. “Chúng tôi đang đặt mục tiêu chấm dứt 70 năm  phụ thuộc vào Anh và Mỹ về mặt thương mại và kinh tế,” các quan chức quân đội đã tuyên bố—nhưng một cuộc chiến tranh dai dẳng ở Trung Quốc đã có tác dụng ngược lại.

Chiến tranh với Trung Quốc đồng thời đặt mục tiêu vào lưng Nhật Bản.  Cuộc tấn công vào Mãn Châu và miền bắc Trung Quốc cuối cùng đã kích động một cuộc chiến tranh ngắn ngủi nhưng đầy trừng phạt với Liên Xô, trong đó Hồng quân của Stalin đã tấn công Tập đoàn quân số 6 của Nhật Bản.  Sự hung ác của Nhật Bản ở Trung Quốc và cái nhìn thèm muốn đối với Đông Nam Á đã khiến Vương quốc Anh và các cường quốc châu Âu khác xa lánh.  Và trong khi Hoa Kỳ đã phản ứng yếu ớt trước cuộc chinh phục Mãn Châu, thì sự táo bạo trong nỗ lực thống trị khu vực của Nhật Bản và nỗi kinh hoàng tột độ của cuộc chiến ở Trung Quốc—đánh bom khủng bố, cố ý thảm sát và hãm hiếp dân thường, sử dụng vũ khí sinh học—bắt đầu lan rộng.  biến Washington thành kẻ thù.

 FDR tuyên bố: “Triều đại khủng bố và tình trạng vô luật pháp quốc tế hiện nay đã đe dọa đến “chính nền tảng của nền văn minh”. Đến năm 1940, Hoa Kỳ thả nổi tài chính cho chính phủ Tưởng và hạn chế xuất khẩu vật liệu hàng không, xăng có chỉ số octan cao, kim loại phế liệu, và các loại hàng hóa khác đi Nhật Bản.  Nỗ lực đối phó với các mối đe dọa ở châu Âu và châu Á đã biến Hoa Kỳ thành một siêu cường quân sự.  Năm đó, Hải quân Hoa Kỳ đã đặt hàng 9 thiết giáp hạm, 11 tàu sân bay, 8 tàu tuần dương hạng nặng, 31 tàu tuần dương hạng nhẹ và 181 tàu khu trục.  FDR đặt mục tiêu sản xuất 50.000 máy bay/năm;  Quốc hội đã tăng nhân lực được ủy quyền cho Quân đội Hoa Kỳ lên gần 1 triệu người. Và khi Nhật Bản ký Hiệp ước Ba bên với Ý và Đức, đồng thời chiếm đóng miền bắc Đông Dương thuộc Pháp vào tháng 9 năm 1940, các quan chức Hoa Kỳ kết luận rằng Tokyo đã giao kèo với bọn xã hội đen thấp hèn.  những tên man rợ đã phá hủy thế giới.

 Đến thời điểm này, một chiếc thòng lọng chiến lược đã thắt chặt quanh cổ Nhật Bản.  Xét về mặt “chiến tranh toàn diện”, Nhật Bản phải tiếp tục đẩy mạnh—đặc biệt là vào Đông Dương và Đông Ấn thuộc Hà Lan—để xây dựng đế chế tự cung tự cấp của mình.  Tuy nhiên, làm như vậy có nghĩa là tiến tới chiến tranh với Anh và Mỹ, một quốc gia có nền kinh tế lớn gấp mười hai lần Nhật Bản. Hoa Kỳ có thể bóp nghẹt Nhật Bản bằng cách cắt đứt các chuyến vận chuyển dầu cung cấp nhiên liệu cho quân đội và hải quân của nước này;  Mỹ có thể huy động sức mạnh quân sự vô song.  Đô đốc Isoroku Yamamoto cảnh báo: “Bất kỳ ai từng chứng kiến ​​các nhà máy ô tô ở Detroit và các mỏ dầu ở Texas đều biết rằng Nhật Bản thiếu sức mạnh quốc gia để chạy đua hải quân với Mỹ”.  Giống như nước Đức của Wilhelm, Nhật Bản đã tự dồn mình vào thế bí: Sự bành trướng đã dẫn đến sự cô lập – một sự cô lập chỉ có thể vượt qua bằng một cuộc rút lui nhục nhã—rút lui khỏi Trung Quốc và từ bỏ Trật tự Mới—hoặc bằng cách liều lĩnh đánh cược mọi thứ để giành chiến thắng.

 Điều làm cho quyết định lựa chọn đặt cược trở nên hấp dẫn hơn là vào cuối năm 1940 và 1941, Nhật Bản đã có một khoảng thời gian hẹp về cơ hội quân sự. Trận chiến chớp nhoáng của Đức ở Tây Âu đã phá vỡ nước Pháp và khiến Anh phải chiến đấu để giành lấy sự sống của mình, tạo ra “cơ hội ngàn năm có một” ở Đông Nam Á. Tổng thống Mỹ Roosevelt đã bị phân tâm bởi cuộc chiến không tuyên bố với Hitler để giành quyền kiểm soát Đại Tây Dương.  Hiệp ước không xâm lược của Nhật Bản với Liên Xô vào tháng 4 năm 1941, sau đó là cuộc xâm lược của Hitler vào nước này vào tháng 6, đã tạm thời vô hiệu hóa bất kỳ mối đe dọa nào từ phía bắc.  Ít nhất, Nhật Bản vẫn dẫn đầu về quân sự nhờ tái vũ trang sớm: Nước này sở hữu 10 tàu sân bay so với 3 chiếc mà lực lượng Anh-Mỹ có trên toàn bộ Thái Bình Dương. Câu hỏi đặt ra là cửa sổ sẽ mở trong bao lâu.

 Câu trả lời đến vào nửa cuối năm 1941. Sau khi các lực lượng Nhật tiến vào miền nam Đông Dương, Tổng thống Roosevelt đã áp đặt lệnh cấm vận dầu mỏ hoàn toàn, đe dọa các tàu và máy bay Nhật chạy bằng khói.  Các nhà lãnh đạo của nước này tin rằng Nhật Bản “giống như cá trong ao mà nước đang dần bị rút cạn”. Mỹ đang củng cố hệ thống phòng thủ của mình ở Philippines bằng máy bay ném bom B-17 và máy bay chiến đấu P-40.  Các cuộc đàm phán quân sự giữa Mỹ, Anh và Hà Lan, đồng thời phối hợp với các biện pháp trừng phạt kinh tế của họ khiến người Nhật lo sợ rằng vòng vây thắt chặt mình gần như đã hoàn tất.  Và với việc Mỹ đẩy mạnh tái vũ trang, đến năm 1942–1943, Hải quân Mỹ sẽ có “trọng tải gấp bốn lần và sức mạnh không quân gấp bốn lần so với Nhật Bản.” Vào thời điểm đó, Nhật Bản sẽ không còn nuôi hy vọng bá chủ ở châu Á.  Các nhà lãnh đạo của đất nước sẽ mất hết uy tín: Tất cả máu mà quốc gia đã đổ ra, tất cả những hy sinh thiếu thốn mà nó phải chịu đựng, sẽ là vô ích.  Các nhà lãnh đạo Nhật kết luận, Mỹ sẽ “yêu sách ngày càng nhiều nhượng bộ, và cuối cùng đế chế của chúng ta sẽ nằm phủ phục dưới chân Mỹ.”

Vào mùa thu năm 1941, chính quyền Nhật Bản quyết định chiếm Đông Ấn thuộc Hà Lan, Philippines và các vùng lãnh thổ khác từ Singapore đến trung tâm Thái Bình Dương, mặc dù điều này đồng nghĩa với chiến tranh với Anh và Mỹ.  Rất ít quan chức Nhật Bản tin rằng đất nước có thể giành chiến thắng trong một cuộc đấu tranh tổng lực.  “Chúng tôi có thể mang đến cho các bạn một màn trình diễn cuồng nhiệt trong sáu tháng đến một năm, nhưng nếu chiến tranh kéo dài đến hai hoặc ba năm, tôi không thể tự tin về kết quả,” Yamamoto dự đoán. Nhưng họ sợ rằng lựa chọn khác đi sẽ là sự suy thoái thê thảm, sẽ khiến Nhật Bản bất lực trước kẻ thù của mình.  Và họ hy vọng rằng một loạt đòn sấm sét có thể làm Hoa Kỳ mất tinh thần đến mức có thể đàm phán hòa bình thay vì tiếp tục chiến đấu.  Trong trường hợp tốt nhất, chiến tranh sẽ mang đến những rủi ro khủng khiếp;  tệ nhất, nó có thể gây ra sự hủy diệt quốc gia.  Nhưng đôi khi, Hideki Tojo, vị tướng cuối cùng đã lãnh đạo Nhật Bản tham chiến, nói, “người ta phải thu đủ can đảm, nhắm mắt lại và nhảy.”

 Đây là nguồn gốc của cuộc tấn công bất ngờ vào Trân Châu Cảng.  Nếu chiến tranh là không thể tránh khỏi, thì tại sao không tranh thủ thêm lợi thế quân sự tạm thời—và thêm thời gian để chuẩn bị cho các cuộc chinh phạt mới của Nhật Bản—bằng cách tàn phá Hạm đội Thái Bình Dương của Hoa Kỳ?  Điều trớ trêu là cuộc tấn công quá tàn khốc và, trong con mắt của người Mỹ, quá phản trắc, nó khiến nước này buộc phải tiêu diệt Nhật Bản bằng bất cứ giá nào.  “Người Nhật,” một nghị sĩ nổi giận, “đã trở nên hung hãn, điên cuồng, và bằng cuộc tấn công vô cớ, họ đã đưa quân đội, hải quân và quốc gia đến chỗ tự sát.”

 Chiến tranh thế giới thứ hai đã chứng tỏ Nhật Bản gần như tự sát.  Tuy nhiên, nguyên nhân không phải là sự điên rồ mà là sự tuyệt vọng của một đất nước mà những giấc mơ theo chủ nghĩa xét lại sắp tan thành mây khói.  Nhật Bản đã rơi vào thế giằng co trong một thập kỷ.  Nó trở nên nguy hiểm nhất khi nhận ra rằng thời gian không còn nhiều.

 Các nhà sử học thường coi nước Đức trước Thế chiến thứ nhất và Nhật Bản trước Thế chiến thứ hai là những quốc gia đang trỗi dậy.  Nhật Bản đã đi từ thế yếu sang thế mạnh trong những thập kỷ sau năm 1868;  đế chế của họ đã phát triển nhanh chóng trong những năm 1930.  Đức là một đối thủ đáng gờm hơn rất nhiều vào năm 1914 so với năm 1871. Cả hai nước đã vươn lên đủ xa, đủ nhanh để thách thức cơ bản hiện trạng toàn cầu.

 Tuy nhiên, vào thời điểm cao trào, các nhà lãnh đạo đế quốc Đức và đế quốc Nhật Bản không cảm thấy như họ đang tiến lên.  Tình trạng trì trệ, bị bao vây hoặc một sự kết hợp nào đó thuyết phục họ rằng khoảnh khắc của họ đang trôi đi.  Một cường quốc theo chủ nghĩa xét lại bắt đầu lo sợ về tương lai có thể hành động bốc đồng hơn một cường quốc nghĩ rằng ngày mai sẽ tốt hơn hôm nay.  Đó là cái bẫy thực sự mà chúng ta nên lo lắng – cái bẫy trong đó một siêu cường đầy tham vọng đạt đến đỉnh cao và sau đó từ chối gánh chịu những hậu quả đau đớn của việc tụt dốc.

 Các nhà lãnh đạo Trung Quốc ngày nay sẽ tức giận khi nghe ĐCSTQ bị so sánh với đế quốc Đức, chứ đừng nói đến đế quốc Nhật Bản.  Công bằng mà nói, Trung Quốc đã không bắt tay vào bất cứ điều gì giống như hành động xâm lược quân sự mà Nhật Bản đã gây ra trong một thập kỷ trước Thế chiến II.

 Nhưng đừng thoải mái quá.  Đế quốc Đức cũng đã không tiến hành một cuộc chiến tranh lớn trong bốn thập kỷ sau năm 1871, nhưng vào năm 1914, nó đã làm nhiều việc để đẩy thế giới vào một thảm họa ở quy mô gần như không thể tưởng tượng được.  Thế chiến thứ nhất là “cơn đại hồng thủy .  .  .  một cơn co giật của tự nhiên,” David Lloyd George của Anh nói, “một trận động đất đang làm rung chuyển chính những tảng đá của cuộc sống châu Âu.” Khi các cường quốc theo chủ nghĩa xét lại nhìn thấy “chữ viết trên tường” (một thành ngữ có nghĩa dấu hiệu cho biết một tai họa thảm khốc sắp xảy ra,  dựa theo một câu chuyện trong Kinh Thánh: ND), mọi thứ có thể trở nên tồi tệ nhanh chóng — với những hậu quả dường như không thể tưởng tượng được trước đó không lâu.

 Đây là một lý do khác để lo ngại: Giống như Nhật Bản, Trung Quốc hội đủ các điều kiện gây lo ngại.  Nó đang đối phó với tình trạng suy thoái kinh tế kéo dài sẽ cực kỳ khó thoát ra.  Nó đang gặp phải một vòng vây các đối thủ đang hành động, mặc dù chỉ từng chút một, để cản trở bước tiến của Bắc Kinh.  Trung Quốc cũng có một hệ thống chuyên chế và một mô hình kinh tế khiến cho việc bành trướng theo chủ nghĩa trọng thương trở nên hấp dẫn hơn.  Kỳ vọng thương mại của nó đang trở nên rõ ràng tiêu cực.  Và đúng là Trung Quốc đã và đang tham gia vào các hoạt động tập luyện – củng cố quân đội, tìm kiếm phạm vi ảnh hưởng, nỗ lực kiểm soát các công nghệ và tài nguyên quan trọng – điều chúng ta mong đợi từ một quốc gia ở vị thế của nó.  Nếu có một công thức gây hấn của một quốc gia đã trỗi dậy đáng kể nhưng hiện đang phải vật lộn đối phó với tình trạng trì trệ và bị bao vây, thì Trung Quốc có tất cả các nguyên liệu quan trọng.  Vì vậy, bây giờ chúng ta hãy xem xét kỹ những động thái mà một Trung Quốc hiếu chiến hơn có thể thực hiện.

Bình luận về bài viết này