
tranh minh hoạ của Phan Thanh nam
Trần Thanh Ái
Cách nay vừa đúng 240 năm, vào những ngày đầu xuân Canh Tý 1780, Nguyễn Ánh được triều đình tôn lên làm vua khi bước sang tuổi 19. Về sự kiện này, Quốc Sử Quán triều Nguyễn có ghi trong Đại Nam thực lục như sau:
“Năm Canh Tý, lại năm thứ 1 [1780] (Lê – Cảnh Hưng năm thứ 41, Thanh – Càn Long năm thứ 45, năm ấy vua mới lên ngôi nên lại chép năm thứ 1) mùa xuân, tháng giêng, ngày Quý mão[1], vua lên ngôi vương. Khi vua mới quyền coi quốc chính, quần thần đều khuyên lên ngôi. Vua cho rằng thù nước chưa trả xong, nhún nhường không chịu, quần thần hai ba lần nài xin, vua mới theo, lên ngôi vương ở Sài Gòn.” (Quốc Sử Quán triều Nguyễn, 2002, tr. 208)
Sự kiện này được xem là một động thái nhằm tạo sự chính danh cho cuộc chiến tranh chống lại anh em nhà Tây Sơn, để dễ bề huy động sự ủng hộ của nhân dân xứ Đàng Trong. Nguyễn Ánh là hậu duệ duy nhất còn sót lại của nhà Nguyễn, sau khi thoát khỏi một cách ngoạn mục sự truy diệt của quân Nguyễn Huệ ở sông Khoa (Khoa giang)[2] năm Đinh Dậu (1777). Trước khi lên ngôi, Nguyễn Ánh đã lập được một số thành tích quân sự đáng kể, mà quan trọng nhất là việc đánh chiếm lại được Gia Định, dẫn đến danh xưng Đại Nguyên soái vào tháng Giêng năm Mậu Tuất (1778).
Một sự trùng hợp khá thú vị mà mãi sau này người ta mới biết được: trong đất liền, khi triều đình đang chuẩn bị các thủ tục lên ngôi vua của Nguyễn Ánh thì ở Côn Đảo xảy ra một sự kiện trên lĩnh vực bang giao quốc tế. Sự kiện này tuy nhỏ nhưng ẩn chứa nhiều ý nghĩa, thậm chí có thể nó còn chứa đựng những bí mật mà có lẽ mãi mãi sẽ không bao giờ được giải mã. Đó là cuộc “chạm trán” ngoài dự kiến giữa đoàn thám hiểm người Anh ghé vào đảo và thuộc cấp của Giám mục Adran, mà sử sách Việt quen gọi là Bá Đa Lộc[3], xảy ra vào đầu năm 1780. Điều đặc biệt trong sự kiện này, không chỉ là sự xuất hiện của tên tuổi nhà truyền giáo Bá Đa Lộc, mà còn là sự hợp thức hóa thân phận của Bá Đa Lộc với cách là đại quan trướng Nguyễn Ánh vừa lên ngôi. Hơn thế nữa, sự kiện này lại xảy ra trên hòn đảo tiền tiêu đã bao phen nằm trong kế hoạch chinh phục của nhiều cường quốc hàng hải châu Âu, đặc biệt là Pháp và Anh.
Bá Đa Lộc phụng mệnh Đức Vua
Đại Nam Liệt truyện, bộ sách ghi tiểu sử các vua quan trong triều, có nhắc đến nhưng rất sơ lược sự hiện diện của Bá Đa Lộc trong sự kiện Nguyễn Ánh lên ngôi năm 1780: “Năm Canh Tý (1780), Thế Tổ Cao Hoàng đế lên ngôi Vương ở Gia Định, Đa Lộc đến yết kiến xin cố sức giúp việc, vua nhận lời”. Thế nhưng theo tài liệu của các nhà thám hiểm người Anh, trước đó mấy tháng, người ta thấy Bá Đa Lộc đã “điều binh khiển tướng” để thực hiện một chiến dịch đón tiếp quân cứu viện đầu tiên trong cuộc chiến đương đầu với quân Tây Sơn.
Đó là ngày 21 tháng 1 năm 1780, tức ngày Ất Sửu 15 tháng Chạp năm Kỷ Hợi. Đoàn thuyền gồm chiếc HMS Resolution trọng tải 462 tấn và chiếc HMS Discovery trọng tải 395 tấn của nhà thám hiểm J. Cook[4] ghé lại Côn Đảo để tìm kiếm lương thực và nước ngọt. Sau khi đã bắn pháo hiệu thông báo đoàn thuyền cập bến mà không thấy ai xuất hiện, một nhóm nhỏ đổ bộ lên đảo để tìm hiểu tình hình. Ngày hôm sau vẫn không thấy một bóng người nào xuất hiện, và thế là đích thân thuyền trưởng J. Gore và thuyền trưởng J. King lên đảo. Họ gặp một người dân có những hành vi bí ẩn và thái độ lạ lùng khiến họ phải chú ý: khi trò chuyện cùng đoàn thám hiểm, chốc chốc nhân vật này lại chạy vào gian nhà trong trước khi trả lời, như thể để nhận sự chỉ bảo phải trả lời như thế nào. Cuối cùng thì anh ta mang ra một mẫu giấy trên đó có mấy dòng chữ bằng tiếng Pháp:
“Peter Joseph George[5], Giám mục Adran, Đại diện Tông tòa xứ Đàng Trong vv.,
Viên quan nhỏ mang tờ giấy này được Triều đình phái đến Côn Đảo để chờ đợi và tiếp đón mọi tàu thuyền châu Âu có lộ trình cập bến ở đây. Vì vậy, thuyền trưởng có thể tin tưởng ở anh ta, hoặc để cập thuyền vào bến, hoặc để chuyển tin tức mà ông ta cho là cần thiết.
Làm tại Sài Gòn ngày 10 tháng 8 năm 1779.” (Cook J. & King J. 1784, tr.264)
Sau khi thông báo mục đích ôn hòa của cuộc viếng thăm để trấn an người tiếp chuyện, họ trở về thuyền. Khoảng 5 giờ chiều cùng ngày, một chiếc thuyền nhỏ chở 6 người chèo về hướng đoàn thuyền thám hiểm. Một người đàn ông đến gặp thuyền trưởng Gore: ông ta có gương mặt dễ nhìn, dáng vẻ lương thiện và lịch sự, chắc hẳn rằng ông ta không phải là cư dân ở đây, mà là từ nơi khác đến. Ông ta cho biết ông chính là viên quan được giám mục xác nhận trên tờ giấy mà thuyền trưởng Gore đã đọc sáng nay. Viên quan này tự giới thiệu là người theo đạo Thiên chúa, có tên thánh là Luco[6], và đã ra đảo từ tháng 8 năm 1779 để đón tàu Pháp đưa về xứ Đàng Trong. Khi biết các vị khách không mong đợi này là người Anh, và cũng biết là nước Anh và Pháp đang có chiến tranh với nhau, viên quan này cho biết rằng nhiệm vụ của ông là hướng dẫn bất cứ tàu thuyền nào muốn buôn bán với xứ Đàng Trong. Đoạn ông chìa ra một bức thư có niêm phong và nài nỉ thuyền trưởng Anh đọc: thư này cũng do chính Giám mục Adran viết cùng ngày tháng với mảnh giấy giới thiệu khi sáng:
“Kính gửi quý vị thuyền trưởng các tàu thuyền châu Âu sẽ thả neo ở Côn Đảo,
Nhiều tin tức gần đây đến từ châu Âu cho phép chúng tôi mong rằng nay mai một con thuyền sẽ đến xứ Đàng Trong, vì thế chúng tôi đã bẩm tấu Triều đình quyết định cử đến Côn Đảo viên quan mang thư này để chờ thuyền đến. Nếu thuyền này thả neo ở đó, thuyền trưởng có thể báo tin cho chúng tôi qua trung gian người mang thư này, hoặc cũng có thể tin tưởng anh ta để đưa thuyền vào một cảng an toàn của xứ Đàng Trong, cách Côn Đảo một ngày đường. Nếu quý vị muốn ở lại Côn Đảo cho đến khi viên sứ giả trở lại thì chúng tôi sẽ gửi người phiên dịch và những hỗ trợ khác không liệt kê được ra đây, vì không phải lúc cung cấp thêm nhiều chi tiết mà thuyền trưởng có thể quan tâm đến.” (Cook J. & King J., 1784, tr.267-268)
Đoàn thuyền thám hiểm của James Cook: chiếc HMS Resolution và HMS Discovery.
Qua trao đổi với Luco, và sau khi đọc thư, thuyền trưởng tàu Anh nghĩ rằng anh ta đang chờ đợi một tàu Pháp đến. Anh ta suy đoán rằng có lẽ tàu Pháp đang bỏ neo ở Tirnon[7] và sắp giương buồm đến đây, nhưng anh ta vẫn sẳn sàng làm hoa tiêu cho tàu Anh. Thuyền trưởng tàu Anh không khai thác được gì từ anh ta về mục đích cụ thể của con tàu Pháp sắp cập bến đó. Đó là con tàu nào? Có phải đó chính là chiếc tàu đồng mà Mạn-hòe chỉ huy trong trận thủy chiến ở Ngã bảy cửa biển Cần Giờ năm 1782, hay là một con tàu khác? Mạn-hòe đến Việt Nam từ lúc nào? Bá Đa Lộc đã chiêu mộ Mạn-hòe lúc nào? Ông đã lên kế hoạch cầu viện hải quân từ khi nào, và ông đã liên lạc với những ai? Các câu hỏi này vẫn còn bỏ ngõ. Tuy nhiên, điều chắc chắn là kế hoạch này đã có sự chuẩn bị trước ngày 10 tháng 8 năm 1779 khá lâu, đủ lâu để có sự bàn bạc thống nhất giữa Nguyễn Ánh và Bá Đa Lộc và thời gian thư từ qua lại giữa vị Giám mục với một đối tác nào đó ở nước ngoài! Tóm lại, “sự kiện Côn Đảo năm 1780” hé lộ cho chúng ta biết là vào thời điểm đó Bá Đa Lộc đã nhận được sự tin tưởng cao độ của Nguyễn Ánh, với nhiệm vụ cụ thể là liên lạc với nước ngoài để tìm cầu viện, cùng với hệ thống thuộc cấp được tổ chức và hoạt động khá hữu hiệu của ông.
Trong thư đề ngày 26 tháng 7 năm 1779, Bá Đa Lộc kể lại một chi tiết về vai trò trung gian của ông giữa triều đình Nguyễn Ánh và các thương nhân đến từ Macao trong vụ mua bán vũ khí:
“Hai chiếc tàu từ Macao đến Bassac trong năm nay để buôn bán… Một người Trung Hoa đưa ý kiến với ông lớn ở Xứ Cochinchine cho ông ta biết rằng tàu chứa đầy đại bác, diêm tiêu, lưu hoàng và các thứ khí giới, đạn dược khác. Ông quan mà tôi rất quen đó đương hết sức cần các thứ hàng hóa này, vội vã bắt tôi viết thư cho các quan coi tàu yêu cầu họ bán cho ông hết hay một phần. Hay nếu có thể, họ đem tàu giúp xứ Cochinchine: đổi lại, họ được hưởng quyền ghé bến và những quyền lợi khác nữa.” (Launay A., 1925b, tr. 74-75, dẫn theo Tạ Chí Đại Trường 1973, tr.106)
Một bằng chứng khác về nhiệm vụ liên lạc với nước ngoài của ông là tháng 4 năm 1780, ông có nhận một bức thư của toàn quyền Macao (không rõ thời gian viết) nhờ cậy ông làm trung gian nhận thư của Nguyễn Ánh gửi cho toàn quyền thành Goa (lúc ấy đang là thuộc địa của Bồ Đào Nha). Nhưng việc không thành vì lúc ấy ông đang ở Campuchia, như sau này ông đã thuật lại trong thư đề ngày 8 tháng 7 năm 1785 gửi Thượng viện Macao:
“Tháng 4 năm 1780, tôi có nhận được một bức thư của ông Francisco-Xavier de Castro, lúc ấy là toàn quyền Macao, trong đó ông ấy nhờ tôi nhận giúp xin??? thư của vua xứ Đàng Trong viết một lá thư gửi Toàn quyền Thành Goa, với những điều kiện thuận lợi cho việc buôn bán của xứ ông, và đổi lại ông ấy sẽ cung cấp mọi thứ cần thiết để nhà vua chiếm lại ngai vàng. Tôi nhận được thư này lúc tôi đang ẩn náo ở vương quốc Campuchia, nên không thể thỏa mãn yêu cầu của ông ta.” (Cadière L., 1926, tr.28)
Qua các ghi chép ngắn gọn như trên, chúng ta cũng có thể hình dung ra những hoạt động của Bá Đa Lộc trong những ngày đầu Nguyễn Ánh xưng vương.
Tầm nhìn Bá Đa Lộc
Việc cử người ra trực ở Côn Đảo cho thấy Bá Đa Lộc hiểu rõ vị trí chiến lược của đảo này trên vùng biển Việt Nam, mặc dù ông chưa hề đặt chân lên đó, và cũng chỉ mới hai chuyến đi ngang Côn Đảo bằng đường biển, lần đầu vào cuối tháng 9 – đầu tháng 10 năm 1766, lần sau vào tháng 3 năm 1775, theo lộ trình Pondichéry (Ấn Độ) – Ma Cao – Hà Tiên để nhận nhiệm vụ truyền giáo ở Hà Tiên. A. Faure, nhà viết tiểu sử Bá Đa Lộc, đã tiết lộ nhiều thông tin liên quan đến quãng thời gian Bá Đa Lộc dời trường dòng về Pondichéry:
“Trong khoảng thời gian bốn năm ở Pondichéry, Pigneau de Béhaine chắc chắn đã hiểu được tầm quan trọng của xứ Đàng Trong đối với quyền lợi của Pháp ở Viễn Đông. Thư từ của Dupleix, của Poivre, các câu trả lời của các bộ trưởng và quan điểm của họ về các vấn đề phương Đông, tất cả những thông tin ấy đã mang đến cho ông niềm xác tín rằng một ngày nào đó nước Pháp sẽ được mời gọi đóng một vai trò quan trọng ở miền đất châu Á này.” (Faure A. 1891, tr. 32)
Thật vậy, từ lâu phương Tây đã biết tầm quan trọng của Côn Đảo trên tuyến đường hàng hải biển Đông nước ta, và Ấn Độ là trạm dừng chân của mọi tàu thuyền từ Âu sang Á, ở đó mọi tin tức thời sự liên quan đến hai châu lục này được lan truyền rất nhanh chóng. Vả lại, ngay từ thế kỷ XVII, nhiều nhà hàng hải đã ghi nhận vị trí đắt địa của Côn Đảo trong thời chiến cũng như trong thời bình: Fernão Pires de Andrade (Bồ Đào Nha, 1516), Jan Huyghen van Linschoten (Hà Lan, 1596), Véret (Pháp, 1686), Dampier (Anh, 1687) đã từng lưu ý đến vị trí yết hầu của tuyến hàng hải nối liền các cảng Trung Hoa, Nhật bản và các eo biển đi Ấn Độ dương để sang châu Âu. Và cũng đã từng có không ít kế hoạch chiếm hữu được vạch ra tỉ mỉ, thậm chí đã có hai cuộc chiếm đóng thực sự, của Anh từ năm 1702 đến 1705[8] và của Pháp từ cuối năm 1720 đến tháng 6 năm 1722 nhưng đều thất bại.
Chắc chắn rằng những thông tin ấy không thể thoát khỏi tầm mắt của Bá Đa Lộc. Vì thế, ông hiểu rõ những thuận lợi cũng như những chướng ngại ở Côn Đảo, và do đó ông phải biết sẽ chuẩn bị những thứ gì cho tàu thuyền sẽ cập bến. Đoàn thám hiểm người Anh có những quan sát thực địa và so sánh thú vị với những mô tả của W. Dampier về Côn Đảo trong thế kỷ XVII và của kỹ sư người Pháp Dedier[9] mà họ đã đọc được. Theo họ, động thực vật trên đảo lúc này phong phú hơn trước nhiều: đã có nhiều trâu, thậm chí theo lời những người dẫn đường là có nhiều đàn trâu, nhiều heo cúi, nhiều mảnh ruộng lúa, nhiều vườn chuối, dưa, cam, lựu, bưởi… Từ những quan sát này, họ suy luận là có lẽ Giám mục Bá Đa Lộc đã chuẩn bị những thứ ấy để tiếp tế lương thực thực phẩm tươi sống cho tàu thuyền Pháp sắp đến xứ Đàng Trong:
“Theo những gì chúng tôi vừa nói về Giám mục Adran, chắc hẳn rằng hòn đảo phải mang ơn người Pháp về những đổi thay này, có lẽ được đưa đến đây nhằm mục đích biến hòn đảo trở thành một nơi hữu ích hơn cho việc tiếp tế thực phẩm tươi sống cho các tàu thuyền của họ đi xứ Đàng Trong hoặc đi Campuchia. Nếu ngày xưa hoặc nếu hôm nay họ có kế hoạch đặt cơ sở trên vùng này, thì chắc chắn rằng Côn Đảo sẽ rất thích hợp cho mục tiêu ấy, và cho cả việc quấy nhiễu việc giao thương của kẻ thù của họ khi có chiến tranh xảy ra.” (Cook J. & King J. 1784, tr. 275)
Có thể họ đã cường điệu khi cho rằng nhóm người Pháp do Bá Đa Lộc đứng đầu đã mang lại sự cải thiện về cây trồng vật nuôi, nhưng chắc là không phải hoàn toàn vô cớ. Tuy mới ra đảo được 5 tháng (từ tháng 8 năm 1779 đến tháng 1 năm 1780), nhưng nhóm tiền tiêu của Luco cũng có thể trồng hoa màu ngắn ngày như dưa, chuối… Nhưng để có được thành quả về chăn nuôi hay trồng những cây dài ngày như cam, lựu, bưởi… thì cần phải có nhiều thời gian hơn thế. Cũng không thể cho rằng đó là thành quả của hai đoàn thám hiểm người Pháp[10] đã từng đến trước đây vào các năm 1720-1722 bởi vì đoàn này gặp rất nhiều khốn đốn đến độ nhiều người phải bỏ mạng do thời tiết khắc nghiệt gây ra. Vì vậy đó chỉ có thể là thành quả của người dân sống trên đảo từ hơn 100 năm: theo ghi nhận của D. F. Navarette vào năm 1669 và Véret[11] năm 1686, ngay từ thế kỷ XVII người Việt và Campuchia đã có mặt trên đảo, và thường tới lui giữa Côn Đảo và đất liền theo mùa gió thổi để trao đổi sản vật địa phương mà họ thu hoạch được. Cứ thế năm này qua năm khác, từng bước họ cải tạo đất đai trên đảo để có thể trồng trọt và chăn nuôi, để giảm dần sự lệ thuộc vào nguồn cung cấp của đất liền, phòng khi những lúc biển động thuyền bè không vào được. Hay là Luco đã cung cấp cho đoàn thám hiểm nhiều thông tin khác mà các nhà thám hiểm người Anh không tiết lộ trong bộ hồi ký của họ? Tưởng cũng nên nhắc lại là từ năm 1764, Giám mục Canathe đã gợi ý thành lập một thương trạm tại Côn Đảo (Duteil J.-P. 1998, tr. 286), và tháng 7 năm 1768, đích thân ông cùng với linh mục Levavasseur đã đến Bãi Xàu, sau đó lại ra một làng ven biển (có lẽ đó là Mỹ Thạnh), tìm thuê người đưa ra Côn Đảo để tìm nơi xây dựng chủng viện. Linh mục Levavasseur mô tả nơi đó như sau: “nơi mà chỉ có người Hoa và người Việt sinh sống, và cũng là nơi mà dân Côn Đảo đến mua lương thực dự trữ khi có tàu thuyền nước ngoài đến nằm chờ gió mùa” (Levavasseur, 1821, tr. 224-225). Nhưng cuối cùng không ai dám nhận lời vì sợ viên quan người xứ Đàng Trong cai quản Côn Đảo trừng phạt. Liệu sau lần đó đã có nhà truyền giáo nào đặt chân lên đảo để thực hiện ý định đó chưa? Chúng ta chưa thấy tài liệu nào trả lời chính xác câu hỏi đó, vì thế cũng chưa thể cho rằng nhờ người Pháp mà vật nuôi ở Côn Đảo phong phú hơn.
- Faure cho rằng hành động của Bá Đa Lộc nằm trong tính toán nhìn xa trông rộng của vị Giám mục, nhằm loại bỏ người Anh ra khỏi cuộc chạy đua tranh giành ảnh hưởng ở mảnh đất ven biển Đông. Ông viết:
“Những tài liệu này [tức giấy xác nhận và bức thư] không chỉ chứng tỏ ảnh hưởng to lớn mà Giám mục Adran có được trong nội bộ xứ Đàng Trong, mà còn cho thấy sự chu đáo của ông nhằm loại bỏ sự can thiệp của người Anh đã xuất hiện trên mặt trận ngoại giao, và nhằm đặt hoạt động của ông dựa trên sự tài trợ và giúp đỡ của nước Pháp. Thật vậy, mọi người đều thấy rằng ông đang chờ đợi một tàu chiến sẽ tham gia vào cuộc giao tranh sắp xảy ra xung quanh Sài Gòn.” (Faure A., 1791, tr. 40)
Nhận xét của Faure trên đây có ám chỉ đến một sự kiện có thật liên quan đến sự dòm ngó của người Anh, xảy ra vào năm 1778 và đã được chính người trong cuộc viết ra và xuất bản năm 1802 trong tạp chí The Asiatic Annual Register 1801. Đó là chuyến công cán đột xuất đến xứ Đàng Trong của Chapman, một nhà ngoại giao người Anh đóng ở Bengale tiếp theo một sự cố hy hữu: sau khi quân chúa Trịnh tràn xuống phương Nam chiếm Phú Xuân, linh mục Lorico[12] cùng hai quan nhà Nguyễn[13] chạỵ xuống Đà Nẵng để tìm đường vào Nam theo chân Duệ Tông. Ba người gặp con thuyền Rumbold của người Anh và nhận ra đó là chỗ quen biết với linh mục Lorico, trước đây thuyền của họ bị nạn và ông đã từng giúp họ sửa sang. Vì thế cả ba được họ cho quá giang vào Đồng Nai. Nhưng hôm ấy thời tiết quá xấu khiến cho họ không kịp nhận ra bến đậu nên đi quá xa, và đành đi thẳng và đến Calcutta vào tháng 2 năm 1778. Sự kiện này đã gây xôn xao trong giới chính trị và quân sự phương Tây đóng ở Ấn Độ, nhưng hơn ai hết, phía Pháp dành một sự quan tâm đặc biệt. Ngày 15 tháng 2 năm 1778, Chevalier, tư lệnh vùng Chandernagor viết một bức thư gửi De Bellecombe, toàn quyền Pondichéry, lúc ấy hai địa phương này là nhượng địa của Pháp, trong đó có đoạn như sau:
“Thưa ông, xét dưới mọi góc độ, đối với chúng ta, vụ này phải được xem là vụ có tầm quan trọng cao độ và liên quan đặc biệt đến chính sách của chúng ta, vì tất cả những hệ lụy mà nó có thể dẫn đến từ một dân tộc hùng mạnh, năng động và dám làm như là người Anh. Thật vậy, ta không thể giấu diếm rằng nếu họ gửi cứu viện đến xứ Đàng Trong thì chẳng mấy chốc họ sẽ làm chủ cả đất nước như họ đã từng làm ở Bengale và phần còn lại của lãnh thổ của họ ở Ấn Độ. Sau đó, họ sẽ mở rộng dễ dàng lãnh địa của họ sang Xiêm rồi đến xứ Đàng Ngoài. Cứ thế mà họ sẽ xây dựng một đế chế mới, mà với vị trí, nguồn lợi và đất đai phì nhiêu nó sẽ đem đến cho họ một nguồn tài nguyên phong phú và sức mạnh khác, thậm chí ai biết được điều mà họ có thể làm đối với Trung Hoa, nơi mà các kho tàng vô tận chỉ khơi dậy lòng tham của họ.” (Gaudart M., 1937, tr. 369)
Nhưng người Anh đã nhanh tay hơn: khi nắm bắt được sự việc, viên toàn quyền Anh đã cho thuyền Jenny đưa hai quan người Việt về nước, và cử Chapman đi trên một con thuyền khác, tên là Amazon. Khi đến cảng Bãi Xàu, họ nhận được tin là vua xứ Đàng Trong đã bị giết, và quân Tây Sơn đã làm chủ cả xứ Đàng Trong. Họ bèn đi thẳng ra Qui Nhơn và được Nguyễn Nhạc tiếp đãi cùng với nhiều hứa hẹn.
Thái độ của các nhà truyền giáo về sự cộng tác với Nguyễn Ánh
Sự cộng tác với Nguyễn Ánh đã khiến giám mục Bá Đa Lộc gặp không ít rắc rối từ phía một số nhà truyền giáo phương Tây, nhất là những người thuộc dòng tu khác không thuộc Hội Truyền giáo hải ngoại ở Paris (Société des Missions étrangères de Paris). Ông đã bị tố cáo lên cả Tòa Thánh La Mã (Louvet L.-E. 1885) về các mối quan hệ của ông với Nguyễn Ánh, mà người ta cho là đã vi phạm Huấn dụ 1659[14] liên quan đến điều cấm thứ 10 là không được tham gia vào chuyện chính trị tại nơi truyền giáo:
“Sự thân mật của Giám mục Bá Đa Lộc với Nguyễn Ánh đã khơi dậy nơi những người không quen biết giám mục mà lại thích chê trách hơn là tìm hiểu, nỗi lo sợ là vị đại diện tông tòa quên nhiệm vụ tông đồ của mình; thậm chí người ta còn tố cáo ông tham gia chiến tranh và tham mưu cho các sĩ quan về nghệ thuật quân sự.” (Launay A. 1925a, tr. 137)
Thật ra, sự hiềm khích này không phải chỉ xuất hiện khi Giám mục Bá Đa Lộc giúp đỡ Nguyễn Ánh, mà nó đã âm ỉ từ lâu. Ngay sau khi đặt chân đến Hà Tiên được 9 tháng, thì ngày 8 tháng 1 năm 1768, Bá Đa Lộc bị đóng gông tại Hà Tiên hơn 2 tháng do lời tố cáo của các tu sĩ thuộc dòng Phanxicô. Sự việc này được Giám mục Piguel tiết lộ trong một bức thư đề ngày 22 tháng 6 năm 1770 và Silvestre ghi lại như sau:
“Phya-Thac, từ khi biết là Châu-Si-Sang tẩu thoát về phía Hà Tiên, đã viết thư cho Mạc-Tôn để nhờ ông bắt sống hay là giết chết vị hoàng tử này. Kèm theo thư là nhiều món quà choáng ngợp, trong đó hai khẩu đại bác châu Âu; ông ta còn hứa hẹn nhiều quà cáp hơn nữa nếu giao kẻ đào tẩu cho ông ta. Từ trước đến giờ chưa từng nhìn thấy khẩu đại bác nào có nòng to đến thế, và cũng muốn có thêm nhiều khẩu khác, và cũng vì lo ngại cho chính số phận của mình, nên vị phó vương Hà Tiên ra lệnh lùng sụt khắp hang cùng ngõ hẹp. Các tu sĩ dòng Phanxicô vội vàng tố cáo các cha người Pháp ở chủng viện Hòn Đất, kết tội họ đã che giấu hoàng tử Xiêm nhiều ngày trong chủng viện, và sau đó đã cho người đưa ông ta vào đất Campuchia.” (Silvestre J., 1895, tr. 402)
Mặc dù gặp nhiều trở lực từ nhiều phía, nhưng Bá Đa Lộc không chùn bước, vì ngoài sự kiên định của người truyền bá đức tin, ông còn thấy nghĩa vụ công dân của ông, được Faure tóm tắt như sau:
“Ông cảm thấy, ông linh cảm rằng đây là cơ hội tốt để cắm những chiếc cột mốc và ông không do dự; và ông càng ít do dự hơn khi mà ông nhận thấy rằng đạo Thiên Chúa có thể hưởng được rất nhiều từ những thành quả mà các nhà truyền giáo đơn độc có thể đạt được. Sau này người ta sẽ trách móc ông đã làm chính trị thay vì chỉ chăm lo cho tôn giáo. Ứng xử của ông trước hết là cách ứng xử của một người yêu nước; lịch sử không thể quở trách cách ứng xử ấy.” (Faure A. 1891, tr. 32)
Thái độ của triều đình nhà Nguyễn đối với Bá Đa Lộc
Không chỉ gặp rắc rối từ phía một số nhà truyền giáo châu Âu, Bá Đa Lộc còn phải đối diện với sự thiếu thiện cảm của các quan trong triều đình nhà Nguyễn, ngay từ thời còn chống Tây Sơn và cả đến khi đã giành được vương quyền. Đại Nam Liệt truyện có ghi vụ lấn lướt của một ông quan người Việt đối với Bá Đa Lộc:
“Mùa đông năm Đinh Tỵ (1797), ông [Hoàng tử Cảnh] thay Nguyễn Văn Thành trấn thủ Diên Khánh, Bá Đa Lộc, Tống Viết Phước đều lệ thuộc theo cùng. Viết Phước từng lấy lời nói đè lấn Bá Đa Lộc, vua nghe thấy, dụ ông rằng: nhân hậu tất nên quả quyết, mới nên việc ngươi trấn giữ Diên Khánh, việc ở ngoài cửa kinh thành trở ra đều phải trông coi cả; từ phó tướng trỏ xuống, ai không theo lệnh thì chém đầu để nghiêm tướng lệnh. Viết Phước sợ không dám nói nữa.” (Quốc Sử Quán, 2006)
Trầm trọng hơn nữa, có quan còn dâng cả sớ lên vua xin chém đầu Bá Đa Lộc vì cho rằng ông kiêu ngạo và dùng đạo Thiên chúa “để lừa ngu dân”. Trong phần ghi tiểu sử Trần Đại Luật, Đại Nam Liệt truyện còn ghi lại sự kiện này như sau:
“thấy người Tây là Bá Đa Lộc kiêu ngạo, [Trần Đại Luật] dâng một sớ nói: “Cái hại về đạo Phật Lão tệ hơn đạo Dương Mặc, mà cái hại về đạo Gia Tô lại tệ hơn đạo Phật Lão, nên trị mối dị đoan thánh nhân răn về hại ấy, giữ về tà đạo, tiên vương bảo tất phải giết, là rất ghét về loạn chính, dối dân để họa về sau. Nay Đa Lộc mang giáo Thiên Chúa để lừa ngu dân, không có tình thân cha con, nghĩa lớn vua tôi, lại tự cậy là bảo hộ Đông cung có chút công lao, sinh lòng kiêu ngạo, không sợ hãi gì, nay như thế, ngày khác lại như thế nào, kẻ ấy mà không giết, sao gọi là pháp luật được. Tôi xin thanh gươm của vua dùng chém đầu hắn treo ở cửa chợ, để tạ cả nước mà bỏ được sự mê hoặc của mọi người”. (Quốc Sử Quán, 2006)
Riêng về sự cộng tác của Bá Đa Lộc với Nguyễn Ánh trong cuộc chiến tranh giành vương quyền, bộ chính sử nhà Nguyễn Đại Nam thực lục đã không nói gì về Bá Đa Lộc trong giai đoạn từ khi Nguyễn Ánh bôn ba lần đầu ở Vịnh Thái Lan năm 1777 đến khi thu nạp ông vào guồng máy chiến tranh trong những năm đầu chống quân Tây Sơn. Lần đầu tiên tên của ông được nhắc đến trong bộ sử này là khi nói về Màn Hòe[15] tử trận vào năm “Nhâm dần năm thứ ba”, tức 1782:
“Tháng 3 [Nhâm Dần, năm thứ ba, tức 1782], giặc Tây Sơn Nguyễn Văn Nhạc và Nguyễn Văn Huệ vào đánh phá. […] Giặc nhân gió mạnh xông thẳng tới. Quân ta phải lùi. Một mình Cai cơ là Màn Hòe đi tàu tây cố sức đánh rất lâu. Giặc đổ quân bao vây bốn mặt, ném hỏa khí đốt tàu, Màn Hòe bị chết. (Màn Hòe là người Phú Lãng Sa, Bá Đa Lộc giới thiệu là người dùng được, vua trao cho chức Khâm sai cai cơ, coi đội Trung Khuông, sau được tặng là Hiệu nghĩa công thần phụ quốc thượng tướng quân).” (Quốc sử quán triều Nguyễn, 2002, tr. 211-212)
Còn Đại Nam liệt truyện, bộ sách ghi tiểu sử các vua quan trong triều thì có nhắc đến một cách sơ lược sự hiện diện của Bá Đa Lộc trong sự kiện lên ngôi năm 1780: “Năm Canh Tý (1780), Thế Tổ Cao Hoàng đế lên ngôi Vương ở Gia Định, Đa Lộc đến yết kiến xin cố sức giúp việc, vua nhận lời.” Cách ghi như thế chẳng những không cho thấy vai trò của Bá Đa Lộc hiện đang đảm trách, mà còn có thể khiến người đọc hiểu đây là lần đầu tiên Bá Đa Lộc đến yết kiến Nguyễn Ánh (bởi các chữ “xin cố sức giúp việc”, “vua nhận lời”. Có thể các đại thần phụ trách biên soạn không ai có mặt bên cạnh nhà vua trong giai đoạn nói trên (hai quan tổng tài phụ trách biên soạn Đại Nam Thực lục và Đại Nam Liệt truyện là Vũ Xuân Cẩn sinh năm 1772, Trương Đăng Quế sinh năm 1793), nên họ không có dịp mục kích những sự việc đương thời. Nhưng cũng có thể sự lạnh nhạt này xuất phát từ nhiều lý do khác, trong số đó có cả sự thiếu thiện cảm của các quan người Việt như vừa nói ở trên.
*
* *
Chỉ cần quan sát sự việc đã xảy ra ở Côn Đảo ngày 21 tháng 1 năm 1780 cũng có thể biết vai trò của Bá Đa Lộc trong triều đình còn non trẻ của Nguyễn Ánh lúc bấy giờ, và có thể kết luận chắc chắn rằng trước khi lên ngôi, Nguyễn Ánh đã có nhiều dịp tiếp xúc với Bá Đa Lộc, đã đặt niềm tin nơi ông và đã giao nhiều trọng trách. Thế nhưng trong các thư từ của ông, chúng ta ít khi thấy ông nhắc đến các hoạt động của mình. Giải thích về sự im lặng này của Bá Đa Lộc, Maybon cho rằng:
“Nếu Giám mục không nói gì về chuyện này, đó là do tính tình kín đáo tự nhiên của ông, và đó cũng là do thận trọng, vì các nhà truyền giáo bị cấm dính líu vào chuyện chính trị của nơi mà họ phải thực hiện mục vụ, mặc dù ý đồ của họ hoàn toàn trong sáng, Pigneau không muốn tạo điều kiện cho những kẻ vu khống có hội sử dụng trò thâm hiểm của họ” (Maybon Ch. 1920, tr.205)
Và như mọi người đã biết, mặc dù bị tố cáo, bị lên án, bị đố kỵ, Giám mục Bá Đa Lộc đã không lùi bước; ông còn dấn thân sâu hơn nữa vào con đường mà ông đã chọn, và đi theo nó đến cuối cuộc đời: đó là song hành với Nguyễn Ánh để khôi phục sự trị vì của nhà Nguyễn trên đất Đại Việt.
(Đã đăng trong tạp chí Xưa & Nay số tháng 1 năm 2020)
Tài liệu tham khảo
Cadière L., 1926. Nguyễn Ánh et la mission, Documents inédits. Tạp chí Bulletin des Amis de Vieux Hue, số 1 Janvier-Mars 1926.
Chapman Ch. 1802. A Narrative of a Voyage to Cochin China. Trong tạp chí The Asiatic Annual Register for the year 1801. London: J. Debrett, Piccadilly and T. Cadell Jun. & W. Davies, Strand. Tr.62-84.
Cook J. & King J. 1784. A voyage to the Pacific Ocean: Undertaken by Command of His Majesty, for Making Discoveries in the Northern Hemisphere Performed under the Direction of
Captains COOK, CLERKE, and GORE, In the Years 1776, 1777, 1778, 1779, 1780. Volume 4. London, Printed for John Stockdale, Scatcherd and Whitaker, John Fielding and John Hardy.
Cook J. & King J. 1785. Troisième voyage de Cook. Voyage à l’Océan Pacifique. Tome 4, (M. Demeunier dịch từ tiếng Anh). Paris: Hôtel de Thou.
Duteil J.-P., 1998. Entre deux États en révolution : Pierre-Joseph Pigneaux de Béhaine, la France et le Dai-Viêt. Tạp chí Revue d’histoire de l’Église de France, Quyển 84, n°213, pp. 283-297.
Faure A. 1891. Mgr Pigneau de Béhaine Evêque d’Adran. Paris: Challamel Editeur.
Gaudart M., 1937. Les archives de Pondichéry et les entreprises de la Compagnie française des Indes en Indochine, au XVIIIe siècle. Trong Bulletin des Amis du Vieux Hue, Octobre-Décembre 1937.
Launay A. 1925a. Histoire de la Mission de Cochinchine 1658-1823. Tome 2. Paris: Anciennes Maisons Charles Douniol et Retaux.
Launay, A. 1925b. Histoire de la Mission de Cochinchine 1658-1823, Tome 3: Documents Historiques III: 1771-1823. Paris: Anciennes Maisons Charles Douniol et Retaux.
Levavasseur N.-J., 1821. Abrégé du journal de M. Levavasseur, missionnaire apostolique au Camboge, pendant les années 1768, 1769 et 1770. Trong Nouvelles Lettres édifiantes des Missions de la Chine et des Indes Orientales, T. 6. Paris: Imprimeur Le Clere.
Louvet L.-E. 1885. La Cochinchine religieuse, Tome 1. Paris: Ernest Leroux.
Maybon Ch.-B., 1920. Histoire moderne du pays d’Annam. Paris: Plon.
Quốc sử quán triều Nguyễn, 2002. Đại Nam thực lục, Tập Một. Hà Nội: Nxb Giáo dục.
Quốc sử quán triều Nguyễn, 2006. Đại Nam Liệt truyện, Tập Một. Huế: Nxb Thuận hóa.
Silvestre J., 1895. Politique française dans l’Indo-Chine. Trong tạp chí Annales de l’École libre des sciences politiques, số 4 năm thứ 10.
Tạ Chí Đại Trường, 1973. Lịch sử nội chiến ở Việt Nam. Sài Gòn: Nxb Văn Sử học.
Chú thích:
[1] Nhằm ngày 24 tháng Giêng năm Canh Tý, hoặc ngày 28 tháng 2 năm 1780 (tính theo thuật toán được Hồ Ngọc Đức lập trình sẵn trên trang http://www.informatik.uni-leipzig.de/~duc/amlich/ )
[2] Tức sông Ông Đốc ngày nay. A. Faure (1891, tr. 31) ghi sai là “làng Kao Giang” (“village de Kaogiang”).
[3] Tên ông là Pierre-Joseph-Georges Pigneau de Béhaine, người Pháp. Adran là tên một giáo phận cổ ở Trung Đông bị mất vào tay dị giáo. Để tưởng nhớ, Giáo hội La Mã đã đặt ra chức danh Giám mục in partibus (tiếng Việt gọi là Giám mục hiệu tòa, để phân biệt với giám mục chính tòa) để phong cho các nhà truyền giáo hoạt động ở những nơi chưa thành lập giáo hội. Vì giám mục hiệu tòa chịu sự lãnh đạo trực tiếp từ La Mã, do đó họ thường được giao thêm nhiệm vụ “đại diện tông tòa” (vicaire apostolique).
[4] Đây là chuyến thám hiểm Thái Bình dương từ năm 1776 đến 1780 ban đầu do thuyền trưởng J. Cook chỉ huy. Sau khi ông qua đời ngày 14/2/1779 thì thuyền trưởng Clerke tiếp nối. Clerke chết ngày 3/8/1779 thì thuyền trưởng Gore kế tục chỉ huy đoàn. Đoàn ghé Côn Đảo từ ngày 21 đến ngày 28 tháng 1 năm 1780.
[5] Cook & King chuyển sang tiếng Anh từ tên tiếng Pháp Pierre-Joseph-Georges.
[6] M. Demeunier chuyển sang tiếng Pháp là Luc (Cook J. & King J., 1785, tr. 441).
[7] Trên tuyến hàng hải đi từ châu Âu qua phương Đông không có địa danh nào có tên như thế. Có lẽ đây là chữ Turon (Đà Nẵng) mà bản viết tay không rõ nét khiến thợ xếp chữ đọc nhầm là Tirnon?
[8] Sách Đại Nam thực lục ghi là 1702 đến 1703. Chúng tôi đã tìm ra bằng chứng cho thấy là cuộc tấn công vào quân Anh trên Côn Đảo diễn ra vào đêm 2 rạng sang ngày 3 tháng 3 năm 1705 (Xem bài cùng tác giả “Ai tổ chức tấn công thương điếm Anh ở Côn Đảo năm 1705?” đã đăng trên tạp chí Xưa & Nay, số tháng 9 năm 2019).
[9] Nhiều tài liệu viết là Deidier hoặc Didier. Về chuyến đi Côn Đảo của kỹ sư này, xem “Người Pháp đổ bộ lên Côn Đảo” trong tạp chí Xưa & Nay số tháng 10 năm 2019.
[10] Nguyên văn của câu nhận xét của Cook và King là: “it is probable, that the island is indebted to the French for these inprovements”. Chữ “the French” có thể hiểu là người Pháp nói chung. Bản dịch sang tiếng Pháp cũng viết là “les Français”.
[11] Xem bài cùng tác giả “Ai tổ chức tấn công thương điếm Anh ở Côn Đảo năm 1705?” đã đăng trên tạp chí Xưa & Nay, số tháng 9 năm 2019.
[12] Linh mục người Bồ Đào Nha, tên chính xác là João Loureiro. Ông vừa là nhà toán học, thực vật học và bác sĩ phục vụ dưới thời chúa Nguyễn từ 1742-1778. Ông đã biên soạn bộ sách Hệ thực vật xứ Đàng Trong bằng tiếng latinh (Flora Cochinchinensis).
[13] Tài liệu không ghi tên hai vị quan này, chỉ nói là bà con thông gia với chúa Nguyễn. Quốc sử quán triều Nguyễn cũng không ghi sự kiện này nên chúng ta cũng không có thông tin cụ thể hơn.
[14] Tên đầy đủ là Instructio Vicariorum Apostolicorum ad regna Sinarum, Tonchini et Cocincinae proficiscentium 1659 nghĩa là Huấn dụ các đại diện tông toà đi các nước Trung Quốc, Đàng Ngoài và Đàng Trong năm 1659.
[15] Đại Nam liệt truyện ghi là Mạn Hòe (mục “Bá Đa Lộc”).
Chúc mừng: Ngày càng nhiều tác giả tin tưởng gửi bài cho nghiencuulichsu.
Nghiencuulichsu được đánh giá như một tạp chí khoa học về Lịch Sử.
Đề nghị: Bài nào tác giả gửi đăng trực tiếp, nên có ghi chú: Tác giả gửi cho NCLS
ThíchThích
Vâng, xin cảm ơn ông
ThíchThích
Các bài không do tác giả gởi mà do NCLS sưu tầm về đều có chú thích/ghi nguồn , bài không ghi Nguồn tức là bài đã gởi trực tiếp đến NCLS!
ThíchĐã thích bởi 1 người
Add nên chọn ra các bài hay và sắp xếp thành chương và đưa ra dạng sách PDF cho người đọc.
ThíchĐã thích bởi 1 người