Trích “Thiên Quốc này chẳng Thái Bình“
Tác giả Đào Đoản Phòng
Đỗ Trung Thành dịch
Sáng suốt và ngu si, tiến bộ và lạc hậu.
Trong thời kỳ cực thịnh của Thái Bình Thiên Quốc, rất nhiều quan viên, văn nhân cùng thời bên phía Thanh triều đều không hẹn mà cùng chỉ ra, Dương Tú Thanh mới là đầu não của quân Thái Bình, chỉ cần trừ được ông ta, đại sự về cơ bản có thể ngã ngũ được.
Lý Tú Thành nói Dương Tú Thanh “mọi việc đều nghiêm chỉnh”, Hồng Nhân Can cũng thán phục ông “kỷ luật nghiêm minh”. Cho dù quân Thái Bình xuất thân từ Quảng Tây, chân ướt chân ráo tới mảnh đất giàu có Giang Nam, lại đối mặt với việc chiến đấu sinh tử trên chiến tuyến dọc ngang ngàn dặm, với cả núi công việc trên các phương diện nhân sự, dân chính, kinh tế mà hầu như tất cả sự vụ đều phải báo cáo về Đông điện. Dương Tú Thanh có một ê-kip rất lớn, chỉ thượng thư lục bộ đã có hơn 72 người, trên bọn họ còn có những đại thần lấy thân phận “hầu tướng” giải quyết công việc, dưới bọn họ thì có thừa tuyên và đủ loại quan đồng chức, mỗi người đảm nhiệm một phương diện chức trách, còn ông thì nắm toàn cục và kịp thời phát ra mệnh lệnh.
Từ những tài liệu còn lưu lại có thể thấy, tốc độ phản ứng của ông là rất nhanh: năm 1854, Yến Vương Tần Nhật Cương tuần sát đường thủy ở Hồ Bắc, nửa đường nhận được tin Vũ Xương thất thủ, Tương quân đã sắp đông hạ, bèn đóng giữ tại nơi hiểm yếu là trấn Điền Gia, núi Bán Bích, và báo cáo quân tình lên Dương Tú Thanh. Ngày mùng 6 tháng 10 Thiên lịch năm đó, ông ta nhận được “bè gỗ có thể đổ nước” mà Dương Tú Thanh cho người ngược dòng gửi tới. Loại bè gỗ này sau khi lắp đặt ụ pháo có thể trấn giữ miệng hẻm núi, sau này trong những trận thủy chiến như núi Bán Bích, Hồ Khẩu đều phát huy tác dụng to lớn. Từ tài liệu có thể thấy, ngày 26 tháng 9, Tần Nhật Cương tới trấn Điền Gia, bè gỗ của Dương Tú Thanh ngày 15 tháng 9 đã xuất phát rồi, so với phản ứng của Tần Nhật Cương ở tiền tuyến còn nhanh hơn 11 ngày. Chính sự “nhanh” này khiến cho chiếc bè gỗ di chuyển chậm chạp đã tới nơi trước khi thủy sư Tương quân tới miệng hẻm núi 10 ngày (ngày 16 tháng 10). Bởi liệu địch cơ tiền, khi thủy sư Tương quân đánh tới, Tần Nhật Cương không những đã vũ trang tốt cho bè gỗ Thiên Kinh gửi tới mà còn theo mẫu chế tạo được ba chiếc.
Dương Tú Thanh trước giờ chưa trực tiếp chỉ huy bất cứ chiến dịch nào, nhưng nhãn quang chiến lược của ông lại cực kỳ nhạy bén. Khi chiến dịch Bắc phạt gặp bất lợi, quân Tây chinh lại sa vào cuộc chiến cù cưa ở Hồ Bắc, An Huy, ba nơi là Thiên Kinh, Trấn Giang, Qua Châu bị vây, ông nhận thức được rõ ràng rằng, chỉ có thu nhỏ binh lực, tập trung lực lượng đánh tiêu diệt, mới có hi vọng xoay chuyển thế cục, mà chiến trường duy nhất có thể điều động để xây dựng thành binh lực cơ động thì chỉ có ở Hoản Bắc, lấy An Khánh làm trung tâm và Giang Tây, nơi đã hạ được 42 huyện, 8 phủ, lại thu nạp được lực lượng lớn “cờ hoa”. Vậy là ông trước tiên điều quân của 5 thừa tướng ở Hoản Bắc là Trần Ngọc Thành, Lý Tú Thành, Đồ Chấn Hưng, Trần Sĩ Chương, Chu Thắng Khôn đi cứu viện Trấn Giang, tiếp đó lại mật lệnh cho quân của Thạch Đạt Khai từ Giang Tây về cứu Thiên Kinh. Khi 5 vị thừa tướng dưới sự chỉ huy của Tần Nhật Cương chuyển chiến Giang Nam, Giang Bắc, lần lượt giải vây cho Trấn Giang, Qua Châu, đánh phá đại doanh Giang Bắc, tiêu diệt quân Thanh của Cát Nhĩ Kháng Khả, khi đã mệt mỏi không chịu nổi về đến ngoại vi phía đông thành Nam Kinh, xin vào thành nghỉ ngơi, ông ý thức được chủ lực quân Thanh – binh lực của đại doanh Giang Nam đã bị phân tán, bèn quyết đoán hạ nghiêm lệnh “không phá đại doanh Giang Nam thì không cho phép vào thành”, cuối cùng đã khơi gợi được sức chiến đấu của quân Tần Nhật Cương, với sự phối hợp của quân Thạch Đạt Khai, đã về tới ngoại vi phía nam thành Thiên Kinh, nhất cử đánh phá đại doanh Giang Nam, ép chết chủ tướng quân Thanh Hướng Vinh, tạo lên đỉnh cao quân sự của Thái Bình Thiên Quốc.
Chính sách bị chỉ trích nhiều nhất của Thái Bình Thiên Quốc là chính sách tôn giáo cực đoan, tiêu hủy thư tịch, phủ định văn hóa, lịch sử cổ đại. Người thúc đẩy mạnh mẽ nhất chính sách này, chính là bản thân giáo chủ tự phong Hồng Tú Toàn. So với người xuất thân thư sinh Hồng Tú Toàn thì kẻ một chữ bẻ đôi không biết như Dương Tú Thanh lại hiểu được tầm quan trọng của văn hóa. Theo “Sở khấu kỷ lược” ghi chép, ông từng tại Vũ Xương “y phục chỉnh tề bái thánh” thông qua việc bái tế miếu Khổng Tử để ước thúc hành vi đốt sách của quân Thái Bình. Tuy rằng không có bằng chứng chứng thực, nhưng sự thực là trên con đường chinh chiến mấy ngàn dặm từ Quảng Tây đến Vũ Xương của quân Thái Bình, chùa miếu tượng Phật bị phá hủy vô số, trong đó chỉ có một ngôi Văn Miếu ở Sâm Châu được chứng thực là bị quân Thái Bình phá hủy vốn là căn cứ của quân Thanh. Đến Thiên Kinh rồi, tư tưởng tôn giáo cực đoan của Hồng Tú Toàn bùng phát dữ dội, không chỉ xóa đi những chương cú Nho gia trong những trước tác của mình, mà còn cấm đọc những tác phẩm Nho gia kinh điển như thập tam kinh và các loại kinh sử tử tập (cách phân loại sách vở thời xưa: kinh điển, lịch sử, chư tử, văn tập), thậm chí những đế vương thời cổ như Đường Thái Tông, Minh Thái Tổ đều bị biếm làm “hầu”. Với vấn đề này thì Dương Tú Thanh lại không cho là vậy. Ngày 27 tháng giêng năm thứ tư Giáp Dần (1854), ông thác Thiên Phụ hạ phàm, cùng với nữ chủ bạ của Đông điện, tài nữ Phó Thiện Tường hợp diễn một vở Song Hoàng đặc sắc (một người biểu diễn động tác, người kia ở bên trong sân khấu hát hoặc nói). Thiên Phụ của Thượng đế giáo mồm niệm “tự cổ anh hùng bất đắc trừ, lưu truyền toàn kháo tứ trung thư”, và thông qua miệng của nữ quan Phó Thiện Tường, cũng là người đọc sách, nói “danh tải giản biên, đâu mục rữa như cây cỏ, lẽ nào có thể hủy sách, khiến cho danh tiếng bị mai một”, buộc Hồng Tú Toàn phải hủy bỏ lệnh cấm đọc sách, lưu trữ sách, và thành lập “nha sửa sách”, tuyên bố sửa chữa cổ thư rồi sẽ xuất bản. Tuy nhiên do Hồng Tú Toàn tâm lý bất phục, “sửa sách xuất bản” trở thành công trình dang dở nổi tiếng của Thái Bình Thiên Quốc, trong thời gian 11 năm chỉ ra được một cuốn “võ lược”, nhưng tầm nhìn xa trông rộng của Dương Tú Thanh so với sự cấp tiến hoang tưởng của Hồng Tú Toàn, có thể nói cao thấp đã rõ. Càng hiếm có là, một kẻ không biết lấy một chữ như Dương Tú Thanh khi ngăn cản Hồng Tú Toàn phủ nhận toàn bộ cổ nhân và văn hóa điển tịch cổ xưa, lại có thể trích dẫn kinh điển, nói ra những câu “mệnh trời gọi là tính, phát triển theo tính gọi là đạo” (Lễ kí, trung dung) và “phục dịch cha mẹ có thể tận tâm kiệt lực, phục vụ quân chủ, có thể hi sinh tính mạng” (Luận ngữ, học nhi đệ nhất), thực khiến cho người ta thán phục mãi không thôi. Những người xuất thân đọc sách như Trương Khiêm, Chung Vạn Trí, Kim Lăng tài nữ Phó Thiện Tường lại vui vẻ dốc lòng phục vụ, thậm chí hi sinh tính mạng vì “lão nhà quê thô kệch” này, cũng đâu phải không có nguyên nhân.
Về phương diện nội chính, Dương Tú Thanh cũng rất có tài biến thông. Khi mới tới Kim Lăng, Thái Bình Thiên Quốc đưa ra “điều lệ đối đãi với bách tính”, dựa vào những điều lệ của giáo hội Cơ đốc giáo thời cổ được ghi chép trong “Thánh kinh” để quy định rằng “không cần tiền lương”, “tất cả những gì có được đều thuộc về Thượng đế”, định thực hiện chế độ tập trung đất đai, tài sản, khi ông phát hiện “lệnh này đã không có người làm, cho nên không thể thực hiện được”, bèn quyết đoán cùng Vi Xương Huy, Thạch Đạt Khai liên danh thượng tấu, sửa thành chính sách giảm nhẹ thuế khóa, lao dịch truyền thống “giao lương nộp thuế như cũ”; Ông phái quân Tây chinh, dự định ban đầu chỉ là “cho bọn yêu ma (quân Thanh) sợ hãi bỏ chạy, thu lấy lương thực”, để trưng tập lương thực, quân nhu cho quân dân vùng Thiên Kinh, Trấn Giang, Qua Châu nên ban đầu chỉ phái đi Lại Hán Anh với hơn ngàn người đánh đâu thắng đó, các quận huyện ở An Huy, Giang Tây, Hồ Bắc đều dễ dàng lấy được, ông lập tức thay đổi chiến lược, tăng cường các danh tướng như Thạch Tường Trinh, Tăng Thiên Dưỡng, Hồ Dĩ Hoảng, Lâm Khởi Dung, Vi Tuấn để mở rộng chiến quả, thiết lập một khu vực chiếm đóng tương đối ổn định, trở thành nền tảng vững chắc để Thái Bình Thiên Quốc có thể chống đỡ lâu dài, chuyển nguy thành an trong giai đoạn giữa và cuối. Đối với các loại mưu kế của gián điệp Thanh đình, ông cũng kịp thời tỉnh ngộ, người đương thời Trương Hiểu Thu có ghi lại, Thanh đình sợ hãi uy danh của đại tướng La Đại Cương, từng sử dụng kế phản gián, muốn mượn tay Dương Tú Thanh trừ khử viên “cự khấu” này, kết quả là bị Dương Tú Thanh nhìn thấu; Điệp báo viên xuất sắc nhất, kiên định nhất của Thanh đình là Trương Kế Canh sau khi bị bắt, cố ý vu cáo rất nhiều quan lại trung thành của Thái Bình Thiên Quốc, nói bọn họ đồng mưu với mình, ý đồ muốn kéo người chết cùng, tuy rằng Dương Tú Thanh ban đầu trúng kế, nhưng rất nhanh chóng tỉnh ngộ, biểu thị “đâu có đạo lý những huynh đệ cũ đều là phản tặc, những huynh đệ mới không có đồng mưu”, hạ lệnh không tiếp tục hỏi cung nữa và nhanh chóng xử tử Trương Kế Canh.
Dương Tú Thanh không phải là không phạm sai lầm, sau khi định đô Thiên Kinh, ông bất chấp truy binh của Hướng Vinh ở bên ngoài thành, đưa hai vạn đại quân tinh nhuệ nhất vào chiến dịch tự sát “tảo bắc” (công đánh Bắc Kinh), dẫn tới binh lực Tây chinh thiếu hụt, xung quanh Thiên Kinh sa vào khổ chiến, mà quân tảo bắc cũng hoàn toàn bị tiêu diệt. Quân Tây chinh sau khi đánh hạ Hán Khẩu, Hán Dương chưa thể xác minh được tình hình thực tế là trong thành Vũ Xương đã trống không, để mặc bộ đội đánh thành chần chừ bên ngoài mấy tháng trời, tạo cơ hội cho Tương quân có thời gian tổ chức, quân Thanh ở Kinh Châu ung dung bố phòng. Nhưng ông luôn có thể từ trong sai lầm rút ra được bài học, và cố gắng hết sức để khắc phục, do đó trước năm 1856, tức là khoảng thời gian ông chủ chính, quân Thái Bình tuy rằng có lúc thăng lúc trầm, nhưng tình hình nhìn chung vẫn là đi lên.
Nhưng trên một số phương diện, Dương Tú Thanh lại tỏ ra vụng về, thô bạo.
Vũ Xương là tỉnh thành đầu tiên mà Thái Bình Thiên Quốc công hạ được, sau khi phá thành quân kỷ nghiêm minh, không đụng đến cây kim sợi chỉ, trái ngược hẳn với quân Thanh giữ thành trước đó, khiến cho đại đa số bách tính trong thành cảm thấy yên lòng. Dưới sự cảm hóa của cáo thị “cống nạp tức là an dân” của Dương Tú Thanh, dân chúng ùn ùn “tiến nạp” để đổi lấy sự cho phép của quân Thái Bình, trật tự xã hội được ổn định. Nhưng chẳng bao lâu sau, quân Thái Bình bỏ thành đông hạ, Dương Tú Thanh lại nuốt lời, cưỡng ép bách tính toàn thành phải nhập doanh lên thuyền, chia tách gia đình, biên chế vào nam doanh, nữ doanh, tài vật thì nhập vào Thánh khố và chuyển đi hết, khiến thành Vũ Xương rộng lớn như thế trở thành một tòa thành trống. Những người dân bị cưỡng bức nhập doanh này không có sức chiến đấu, những người già yếu, phụ nữ trẻ em trong đó sau khi tới Thiên Kinh càng trở thành gánh nặng, dẫn tới thiếu hụt lương thực, buộc quân Thái Bình phải thường xuyên chiến đấu vì lương thực. Không ít người trong số họ nhanh chóng bỏ trốn, một số phụ nữ và trẻ em thì trong cuộc chiến cù cưa sau này bị Dương Tú Thanh mượn cớ “ra ngoài thành cắt lúa” để đuổi ra ngoài thành. Điều này khác gì ngầm thừa nhận sai lầm ban đầu của mình, cách làm này không làm dư dả thêm quốc lực nhưng đủ để tổn hại đến danh tiếng của Thái Bình Thiên Quốc, thực là ngu không ai bằng.
Tại Thiên Kinh, Trấn Giang và các thành thị quân Thái Bình chiếm giữ lâu dài, ông đều hạ lệnh cấm buôn bán trong thành, đuổi thương nhân ra “phố mua bán” ở bên ngoài thành, đồng thời già trẻ nam nữ trong thành đều bị biên chế vào các doanh khác nhau làm binh lính, tạp dịch, hoặc làm việc trong các công xưởng, công thương nghiệp trong thành đều bị quốc hữu hóa, thậm chí ngay cả quán trà, vườn rau cũng không ngoại lệ. Rất rõ ràng, con người xuất thân ở miền núi Quảng Tây như Dương Tú Thanh đã không có khả năng và cũng không kiên nhẫn để xử lý những công việc lặt vặt rườm rà của thành thị Giang Nam, chỉ lấy nhu cầu quân sự và sự thuận tiện trong quản lý làm điểm xuất phát, biến “thành Nam Kinh thành một trại lính khổng lồ” (lời của sứ giả nước Anh John Bowring). Tất nhiên, cách làm này trên phương diện quân sự quả thực cũng thu được một số tiện ích, như ở thành Thiên Kinh, cho đến giây phút cuối cùng, gián điệp, nội ứng cũng không phát huy được tác dụng như mong đợi, nhưng với một vương triều mới nổi muốn “tranh toàn bộ lãnh thổ Trung Quốc” thì việc phung phí của trời ở Giang Nam cẩm tú, mảnh đất văn vật hưng thịnh, công thương nghiệp phát đạt như vậy thực là lợi bất cập hại.
Nói tới đây không thể không nhắc tới vụ tranh cãi nổi tiếng về việc định đô.
Đầu năm 1853, quân Thái Bình ở Vũ Xương thảo luận hướng tiến quân tiếp theo, Hồng Tú Toàn muốn tiến lấy Hà Nam, Dương Tú Thanh dùng sức bác lời chúng, dẫn đầu toàn quân theo dòng đông hạ đánh lấy Nam Kinh. Nhưng cho tới lúc này, Hồng Tú Toàn vẫn muốn chia binh trấn thủ Giang Nam, còn tự mình vẫn muốn rời đô về Hà Nam. Dương Tú Thanh nghe theo kiến nghị của một viên thủy thủ già, lấy lý do “Hà Nam nước nhỏ mà không lương” để phủ quyết kế hoạch thiên đô, đặt thủ độ tại Nam Kinh, và tổ chức các học giả xuất bản văn tập “kiến Thiên Kinh vu Kim Lăng luận”, ý đồ lấy đó để áp đảo triệt để những ý kiến khác về vấn đề định đô.
Nhiều học giả nổi tiếng như tiên sinh Giản Hựu Văn, tiên sinh Vương Khánh Thành đều cho rằng hành động này là thất sách, lý do là khi đó Thanh triều chưa sắp xếp ổn định, phương bắc trống rỗng, quân Thái Bình nên “hạ được một thành thì bỏ một thành”, đánh thẳng tới Bắc Kinh, hoặc chia quân giữ Giang Nam, chủ lực tiến đánh trung nguyên, và cho rằng sau khi ý kiến định đô ở Nam Kinh của Đông Vương chiếm thế thượng phong thì chiến lược của quân Thái Bình do đó có xu hướng gìn giữ, mất đi dũng khí và quyết tâm tranh thiên hạ với Thanh đình.
Nhưng sự thực, quân Thái Bình không vì định đô Kim Lăng mà mất đi sự chú ý với Hoa Bắc. Xét một cách khách quan, hai vạn quân Bắc phạt quả thật là không đủ để đẩy Thanh đình vào chỗ chết, nhưng lại đã là bộ đội tinh nhuệ nhất của quân Thái Bình. Toàn bộ 9 cơ quân đều là binh lính cũ trong số 5 phiên hiệu, thống binh chủ tướng Lâm Phượng Tường, Lý Khai Phương, Cát Văn Nguyên đã chiếm một nửa trong số toàn bộ sáu vị Chính phó thừa tướng lúc đó. Quân Thái Bình khi đó từ miền núi xa xôi nhất lộ đánh tới các đô thành đông nam, đặc biệt là quãng đường chinh chiến mấy ngàn dặm từ Vũ Xương tới Kim Lăng với thế không thể cản, đối với cuộc khởi nghĩa nông dân thiếu kinh nghiệm, lịch duyệt không phong phú (bao gồm cả Dương Tú Thanh) mà nói, việc so sánh phán đoán sức mạnh địch ta không chính xác và sinh ra tâm lý khinh địch là điều hết sức bình thường, nhưng không thể vì thế mà chỉ trích họ coi nhẹ Hoa Bắc và nghiêng về đông nam.
Sau khi Bắc phạt thất bại, quân Thái Bình cũng không vì thế mà mất đi niềm tin tranh đoạt cả nước. Những câu từ kiểu như “thề giết Bát kỳ để yên cửu châu”, “tranh thiên hạ với Thanh đình” không phải là hiếm trong các văn thư bố cáo đối nội đối ngoại của quan lại Thiên Quốc các cấp. Hồng Nhân Can mới tới Thiên Kinh không được bao lâu cũng liên danh bố cáo “Tru yêu hịch văn”, và tự soạn bản thảo Bắc phạt, để kêu gọi cổ vũ xuất sư tảo bắc, tiêu diệt Thanh đình. Bản thân Thiên Vương khi phúc đáp những người nước ngoài mạo hiểm muốn cùng phân chia cương thổ cũng nói rất rõ, “Ta tranh Trung Quốc, muốn toàn lãnh thổ”. Năm 1860 từng lệnh cho Trung Vương xuất sư Bắc phạt, cho tới năm thứ 12 Nhâm Tuất (1862), Tương quân đã áp sát Vũ Hoa Đài, vẫn lệnh cho Trung Vương “tiến bắc đánh nam”, tranh đoạt phương Bắc. Thậm chí sau khi Thiên Kinh thất thủ, dư đảng của Uông Hải Dương rút về Nam Dương Hương Phúc Kiến, cũng vẫn viết chữ lớn trên vách “Trần Đàm Hồ Liêu định diệt Thanh”. Tuy rằng những ý tưởng Bắc tiến này chưa chắc là thực tế, thậm chí có một số việc triển khai hoàn toàn là sai lầm và mang lại những tổn thất nặng nề cho Thiên Quốc, nhưng cũng đủ để chứng minh, trên đến Thiên Vương, dưới tới quan binh bình thường đều không vì định đô Thiên Kinh mà buông bỏ lý tưởng tranh đoạt thiên hạ với Thanh đình.
Không chỉ có vậy, sau khi chiếm lĩnh Nam Kinh, bất luận là tác chiến lưu động hay chia quân trấn thủ Giang Nam, “lấy Hà Nam làm nghiệp”, đều có những khó khăn khó có thể khắc phục được.
Quân Thái Bình sau khi chiếm Kim Lăng hiệu xưng trăm vạn, lính chiến đấu bất quá hơn chục vạn, tinh nhuệ lại càng ít, nếu như chia quân trấn thủ, chủ lực bắc thượng nhiều nhất là tám chín vạn người, để lại ở Giang Nam quá nhiều thì chủ lực đơn mỏng, để lại quá ít thì hậu phương bất ổn. Trong lịch sử các cánh quân nông dân Bắc phạt, người chia quân lưu lại trấn giữ đa phần không thể bền vững, như Lư Tuần đánh Kiến Khang, đại bản doanh Quảng Châu bị thủy quân Tấn đánh úp; Hoàng Sào đánh Trường An, Lỗ Cảnh Nhân ở lại giữ Lĩnh Nam chỉ có thể giữ được một tòa thành Liên Châu, quân Thái Bình nếu như phân chia lực lượng, rất khó để không đi vào vết xe đổ của tiền nhân.
Vậy thì toàn quân bắc thượng, tác chiến lưu động thì như thế nào?
Trên thực tế quân Bắc phạt với binh lực đơn mỏng nhất lộ đánh tới được Thiên Tân là có những điều kiện đặc biệt của nó, đó là mấy vạn nhân mã này đều là những bộ đội tinh nhuệ, dạn dày trận mạc, sức chiến đấu tương đối mạnh, và không có gia quyến liên lụy, vợ con những quan binh cốt cán đều ở Thiên Kinh, nơi tương đối an toàn, tướng sĩ không phải lo lắng về hậu phương, chuyển chiến tiến thoái đều rất linh hoạt, thuận tiện; Còn nếu toàn quân bắc tiến, tất phải dìu già dắt trẻ, mang theo nồi niêu chum vại, nhân lực tuy đông nhưng ngược lại sẽ mất đi tính cơ động, tính linh hoạt cần có của chiến lược. Quân Thái Bình từ Kim Điền đến Vĩnh An, từ bến Soa Y đến Sâm Châu, nhiều lần dùng dằng luẩn quẩn, bó chân bó tay, chính là bởi “toàn quân hành động”, mà tiến binh thần tốc từ Vũ Xương đến Kim Lăng, là vì có vạn lý Trường Giang, thuyền bè nghìn chiếc, có thể bố trí ổn thỏa phụ nữ và trẻ em cùng đồ quân nhu, binh sĩ có thể thay nhau nghỉ ngơi để đảm bảo sức chiến đấu, nâng cao hiệu quả cuộc hành quân của mấy chục vạn quân Thái Bình già trẻ hỗn tạp. Còn toàn quân Bắc thượng trung nguyên, sẽ không có được sự thuận tiện về giao thông đường thủy, muốn lập lại kỳ tích trên, gần như là điều không thể.
Còn nữa, đó chính là vấn đề lương thảo.
Dương Tú Thanh lo lắng “nước nhỏ mà không lương” không phải là không có lý. Hoài Bắc, Hà Nam, khi đó đất cằn người đông, lương thực vốn đã không đủ ăn, do đó mới có chuyện đâu đâu cũng thấy Niệm quân, Phúc đảng đi “thu hoạch”. Kể từ sau khi Biện Thủy bị tắc thời đầu nhà Nguyên, tào vận bị cắt đứt, chỉ dựa vào vận chuyển đường bộ, không thể nào giải quyết được vấn đề cơm áo của mấy chục vạn dân, binh, phụ nữ và trẻ em – Trên thực tế, quân dân Thiên Kinh, nơi thuyền bè thuận lợi, là nơi biển lúa vựa cá của vùng Hồ Quảng Giang Nam, còn có lúc phải lâm vào cảnh phải ăn cháo, huống hồ là “lấy Hà Nam làm nhà”?
Phải thấy rằng, Thiên Vương từ đầu đến cuối kiên trì thiên đô Hà Nam, quyết tâm đó được xây dựng trên nền tảng “Thiên phụ Thiên huynh phù hộ”, chứ không phải được xây dựng trên nền tảng phân tích lý tính từ thế cục và chiến cục – Sự phân tích lý tính này bị coi nhẹ bởi vị “chân mệnh thiên tử” “ngủ ngon cũng có được giang sơn”, ở lỳ trong cung không chịu ra ngoài, không thích chính vụ. Những quyết sách được đưa ra theo cách này khó tránh khỏi việc kèm theo sự mù quáng và nguy cơ rất lớn. Dương Tú Thanh trên thực tế là người đứng đầu Thái Bình Thiên Quốc, đương nhiên không thể giống như giáo chủ Hồng Tú Toàn, cả ngày hỏi Thiên phụ Thiên huynh đáp án. Phải biết rằng, cả Thái Bình Thiên Quốc hiểu rõ nhất “Thiên phụ thánh chỉ” là chuyện gì, có lẽ chính là Dương Tú Thanh.
Còn có người cho rằng, định đô Thiên Kinh dẫn tới nội bộ quân Thái Bình mâu thuẫn trầm trọng, thượng tầng sinh hoạt hủ bại để cuối cùng dẫn tới thảm họa Thiên Kinh sự biến. Nhưng đây đều là bởi các lãnh tụ say sưa trong thắng lợi và lòng ích kỷ tạo nên, chứ chẳng liên quan gì tới bản thân việc định đô. Định đô Thiên Kinh, có thể giống như Lưu Bang, Chu Nguyên Chương lựa chọn chính xác chiến lược, cuối cùng giành được giang sơn; Toàn quân Bắc thượng, cũng có thể giống như Đỗ Lạc Chu, Trạch Nhượng nảy sinh tranh chấp nội bộ, chém giết nhau. Hơn nữa, nếu như việc tranh chấp nội bộ năm 1856 không phải diễn ra trong nội thành Thiên Kinh được phòng vệ nghiêm ngặt mà là trên chiến trường tác chiến lưu động thì tổn thất chỉ có thể càng lớn hơn. Bản thân chính quyền Thái Bình Thiên Quốc cũng rất có khả năng không thể duy trì được đến 8 năm sau sự kiện Thiên Kinh sự biến.
Từ đó có thể thấy, cho dù sau khi định đô Thiên Kinh, các lãnh tụ của Thái Bình Thiên Quốc, bao gồm cả Dương Tú Thanh trong đó, đã mắc hết sai lầm này đến sai lầm khác, cuối cùng đã chôn vùi đi cục diện tốt đẹp, nhưng đây không phải là sai lầm từ bản thân việc định đô, chỉ xét trên vấn đề định đô thì sự lựa chọn của Dương Tú Thanh, không nghi ngờ gì nữa là cao hơn Hồng Tú Toàn một bậc.
Ông ta là một con người đầy mâu thuẫn.
La Nhĩ Cương tiên sinh từng phê bình Dương Tú Thanh dùng người không khách quan, lí do là phong quan không công bằng, hồ sơ phong hầu thời kỳ đầu còn tra xét được, bao gồm cả truy phong cũng chỉ có 19 vị, trong đó được gọi là “Đông đảng” lại đã chiếm 1/3 như thân thích của ông là Lô Hiền Bạt, anh rể Hoàng Duy Giang, con của chị (em) gái Lâm Đại Cơ, bác sĩ riêng Lý Tuấn Lương, cho tới những người thân tín như Phó Học Hiền, Cát Thành Tử; Ngoài ra, phần lớn những thuộc quan của ông như Lý Thọ Xuân, Hầu Khiêm Phương, Lâm Tích Bảo bất quá là kiểm điểm hoặc chức ngang kiểm điêm, nhưng lại nắm giữ triều chính, có thể khiến hầu tước, thừa tướng quan cao hơn bọn họ rất nhiều, thậm chí cả mấy vị vương gia cũng phải hãi hùng khiếp vía.
Nhưng những lời nói Dương Tú Thanh dùng người công bằng cũng rất nhiều. Lý Tú Thành và Hồng Nhân Can có thể nói là kẻ thù chính trị tuyệt đối, ý kiến của họ trên rất nhiều vấn đề chính trị hoàn toàn không đồng nhất, nhưng với vấn đề dùng người của Dương Tú Thanh thì lại trăm miệng một lời thừa nhận. Lý Tú Thành so sánh cách dùng người của Dương Tú Thanh với việc loạn phong của Hồng Tú Toàn, đưa ra kết luận Dương “nhân tâm phục”, còn Hồng Nhân Can thì khi phê bình hiện tượng lạm phong quan tước đã cảm khái về “kỷ luật nghiêm minh” thời Dương Tú Thanh. Không chỉ bọn họ, Trương Đức Kiên bên phía Thanh đình cũng thừa nhận trong “Tặc tình hối toản”, Dương Tú Thanh giỏi tuyển chọn “người có tài năng để giao việc”, hơn nữa “dùng ân để trói buộc”, giỏi “lung lạc lòng người”
Như đã nói ở trên, Dương Tú Thanh đích thực là có tư tâm, hoặc dứt khoát nói, trong thời đại phong kiến, phàm là kẻ dùng người đều có tư tâm, quan trọng ở chỗ, sự chiếu cố, thiên vị “người của mình” của Dương Tú Thanh vẫn là có chừng mực nhất định, phương diện đề bạt, trọng dụng đại quan, vẫn phần lớn dựa trên phương diện năng lực, tư cách là chính. Ví dụ như ông không muốn để Thạch Đạt Khai ở An Huy, Giang Tây quá lâu, nhưng người thay thế Thạch Đạt Khai là Tần Nhật Cương, Vi Xương Huy cũng không phải là người thuộc đảng của Đông đảng, mà là những nhân vật trên tư cách hơi thấp hoặc hơi cao hơn Thạch Đạt Khai, chí ít là bề ngoài thấy đó là sự sắp xếp nhân sự bình thường, mà người bị thay thế là Thạch Đạt Khai vẫn được trọng dụng ở những phương diện khác. Có lúc khi ông xử lý vụ án có phần thiên vị người của mình, nghe được những lời nói không hay thì kịp thời bổ cứu, ví dụ như đầu năm 1854, Lô Hiền Bạt và Trần Tông Dương cùng bị bắt vì ở cùng phòng với vợ, vi phạm lệnh vợ chồng ở riêng của Dương Tú Thanh, kết quả vợ chồng Trần Tông Dương bị xử tử, còn Lô Hiền Bạt chỉ bị cách chức. Việc này có lẽ dẫn đến nhiều lời dị nghị, 17 ngày sau Dương Tú Thanh thác Thiên Phụ hạ phàm, để nữ quan đánh mình 50 gậy trước mọi người. Tuy rằng khí lực và lá gan của nữ quan có lẽ là rất nhỏ, 50 gậy này e rằng ngay cả bị sưng cũng chưa chắc, nhưng có thể có được thái độ phản tỉnh như vậy, cũng đã là điều không dễ dàng rồi, so với “chỉ có thần tử sai, vua không sai” của Hồng Tú Toàn thì tốt hơn nhiều. Càng huống hồ, nếu gạt tiền đề “vợ chồng ở cùng nhau có phạm tội hay không” sang một bên, Lô Hiền Bạt chỉ bí mật hẹn hò với vợ vài lần, còn vợ chồng Trần Tông Dương để che giấu lại muốn dụ dỗ gian dâm một nữ quan khác biết rõ nội tình của họ, xử phạt có nặng có nhẹ, cũng không thể hoàn toàn nói là thiên vị.
Không chỉ như vậy, có một số điều thiên vị là do thể chế nó sinh ra như vậy, không thể hoàn toàn cho là lỗi của Dương Tú Thanh. Ví dụ như chuyện phong hầu, nhưng kẻ như Hoàng Duy Giang, Lâm Đại Cơ trèo lên đầu La Đại Cương đương nhiên là chuyện nực cười, nhưng Lô Hiền Bạt là trợ thủ số một của Phùng Vân Sơn trong việc “chế lễ tác nhạc” được phong hầu cũng là xứng đáng; Lý Tuấn Lương sau khi định đô Thiên Kinh đương nhiên trở thành người phụ trách “phòng khám riêng của Đông Vương”, nhưng về tư cách ông ta lại có thừa. Ngay từ những ngày đầu khởi nghĩa Kim Điền, khi quân Thái Bình chỉ có 5 cơ quân, ông đã xếp danh quân trưởng Trung quân số một. Năm quân trưởng sớm nhất này hiện nay có thể tra ra tên họ của 4 người, ngoại trừ Hậu quân trưởng Hoàng Thành Đức ốm chết khi ở Quảng Tây ra hai người khác là Tả quân trưởng Tăng Cẩm Khiêm, Hữu quân trưởng Chu Tích Côn đều đã được phong hầu. Nhìn từ điểm này thì phong Lý Tuấn Lương tước hầu cũng không có gì là quá vô lý cả. Hơn nữa ông trọng dụng quan lại thuộc Đông điện quản lý triều chính, để những người này bao trùm lên cả những vương hầu cố nhiên là có nhiều tai hại, nhưng là triều chính thời kỳ đầu của Thái Bình Thiên Quôc thực tế nằm trong tay Đông Vương, Hồng Tú Toàn không đích thân xử lý chính vụ, do đó lục bộ của phủ Đông Vương trên thực tế trở thành nơi xử lý triều chính, những quan lại như thượng thư lục bộ, thừa tuyên của Đông điện đương nhiên cũng có thể trên triều vụ đưa ra mệnh lệnh. Có điều chỉ hạn chế ở triều chính trung ương, một khi “ngoại phóng”, đặc quyền của quan lại Đông điện thì không thể so với quan hệ cấp trên dưới truyền thống, như nhị thượng thư bộ Hộ Đông điện Hầu Dụ Khoan vốn xuất thân đầu bếp, năm 1854 xuất tuần An Huy, Hồ Bắc cũng phải phục tùng sự chỉ huy của Tần Nhật Cương, Thạch Đạt Khai; Thừa tuyên Đông điện như Hoàng Văn Kim, Hồ Đỉnh Văn, Đồ Chấn Hưng khi xuất binh An Huy, Giang Tây cũng phải tiếp nhận sự điều khiển của Hồ Dĩ Hoảng, Thạch Đạt Khai, Tần Nhật Cương; Điện tả nhất kiểm điểm Lâm Tích Bảo, ở thành Thiên Kinh uy phong ngời ngời, sau khi ngoại phòng chỉ có thể chỉ huy một bộ phận quân giữ Tiểu Trì Khẩu Giang Tây, chẳng khác gì những kiểm điểm mới ngoài 36 người cũ đã được biên chế. Một số người trong số bọn họ tuy được ngoại phóng sau khi Dương Tú Thanh thất thế, nhiều người khác (như Hầu Dục Khoan, Hoàng Văn Kim) lại được phái ra ngoài làm việc khi Đông Vương còn hiệu lệnh cả nước, nhưng không có quyền hành gì đặc biệt, có thể thấy việc “trọng dụng quan lại Đông điện” của Dương Tú Thanh ở mức độ rất lớn là bởi thể chế “Đông Vương phụ trách chế” nó sinh ra như vậy.
Sở dĩ Dương Tú Thanh có thể khiến các nhân vật của Thái Bình Thiên Quốc dưới Hồng Tú toàn kính nể, sợ hãi, Thiên Phụ hạ phàm chỉ là một biểu tượng. Dẫu sao Quảng Tây là thế giới của thuật đuổi tà, người có sở trường này nhiều vô số kể; Huống hồ ở trên đã nói, luận về trình độ biểu diễn đồng cốt, Dương Tú Thanh kém xa Tiêu Triều Quý; Cái tài của ông không nằm ở chỗ diễn vai Thiên Phụ, mà nằm ở chỗ sẽ để Thiên Phụ nói ra những bí mật lớn nhỏ trong lòng người khác, mà còn “soi vào sự riêng tư, không gì là không trúng”. Sau khi sự kiện Chu Tích Năng bị “Thiên Phụ” phanh phui ra ánh sáng, không những các tướng sĩ cùng đồng thanh tán tụng “Thiên Phụ hoàng thượng đế không gì là không biết, không chỗ nào là không có mặt”, ngay cả vợ của Chu Tích Năng là Thái Vãn Muội sắp bị xử tử cũng thở dài “chuyện hôm nay đúng là do trời làm” – một “Thiên Phụ” “không gì là không biết, không chỗ nào là không có mặt”, dường như có đôi mắt vạn năng suốt 24 giờ theo dõi ngươi, có thể không khiến người ta kính sợ hay sao?
Ông có thể làm được tới điểm này, thứ dựa vào đương nhiên không phải là thần lực gì mà là tai mắt và gián điệp, theo như cách nói của Trương Đức Kiên là “dùng nhiều tâm phúc, bố trí khắp nơi để dò la tin tức”. Chính vì có mạng lưới gián điệp rộng lớn và chi tiết này, ông mới có thể luôn nắm vững mọi việc trong triều, trong quân, sau đó hoặc đưa lên “Thiên Phụ” hoặc trực tiếp dùng quyền uy của Đông Vương để đưa ra phản ứng. “Tai mắt” này nhắm vào không chỉ là đại sự quân chính, có lúc thậm chí là những chuyện cực kỳ nhỏ nhặt, ví dụ như Lý Thọ Xuân, Tăng Thủy Nguyên từng là tâm phúc của ông, nghe lén được một nữ quan cằn nhắn nói “nếu như Đông Vương thăng thiên, các ngươi làm quan cũng khó”, đã không phản bác cũng không báo cáo, sau khi bị tai mắt tố giác, cuối cùng bị “Thiên Phụ” đưa lên “tiểu thiên đường” hưởng phúc.
Hệ thống điệp báo cá nhân vặt vãnh, bí mật này có ưu điểm là thông tin vừa nhiều vừa nhanh, có thể cho phép Dương Tú Thanh nhanh chóng phản ứng, kịp thời loại bỏ những mối nguy cơ uy hiếp mình. Ông sau khi biết bộ tướng của Vi Xương Huy là Trương Tử Bằng kích động thủy quân, “lòng người tản mát” đã nhanh chóng công khai đánh phạt Trương Tử Bằng và Vi Xương Huy, gia phòng chủ tướng thủy quân Khang Chính Tài, để ổn định thủy quân không sinh biến, cho đến chuyện Lô Hiền Bạt đã đề cập ở trên đều thể hiện giá trị của hệ thống điệp báo; Sự kiện Chu Tích Năng tuy đầy rẫy nghi vấn, nhiều yếu tố phi thực tế, nhưng cũng đích thực gây chấn động trong quân Thái Bình suốt một thời gian dài, bảo đảm được địa vị nòng cốt của ông trong quân Thái Bình.
Nhưng tác dụng phụ lớn nhất của hệ thống điệp báo cá nhân là “tin tức tràn lan”, phần lớn những thông tin được tải lên là “tin vịt”, thật giả lẫn lộn, trong đó có một số là do quân Thanh cố ý tung ra, do là hệ thống bí mật, là thật hay giả đều dựa vào sự phán đoán của cá nhân Dương Tú Thanh, như vậy rất dễ nảy sinh vấn đề. Ví dụ như vụ án gián điệp của quân Thanh lớn nhất trong thành Thiên Kinh – sau khi vụ án Trương Kế Canh bị phá, bản thân Trương cố ý chỉ ra một số lớn “lão tặc Quảng Tây” là đồng bọn, bên phía nhà Thanh cũng cố tình nửa kín nửa hở, đánh lừa dư luận, Dương Tú Thanh không nắm được nội dung chính cuối cùng đại khai sát giới, đem Trương Kế Canh và rất nhiều “tử đảng” không phân rõ trắng đen nhất loạt xử tử, đợi đến khi phản tỉnh “lẽ đâu những kẻ đồng mưu đều là huynh đệ cũ” thì rất nhiều người không đáng giết đã đầu lìa khỏi cổ từ lâu rồi. Theo như ghi chép của người đương thời trong thành Thiên Kinh là Trương Hiểu Thu thì ngay đến cả danh tướng La Đại Cương cũng suýt chút nữa trở thành vật hi sinh của kế phản gián này của quân Thanh cũng bởi sự tai hại của hệ thống điệp báo này, may mà Dương Tú Thanh lần này cũng coi là tỉnh lại kịp thời.
Viết tới đây thì không thể không hỏi một vấn đề rất rối – Nhân duyên của Dương Tú Thanh rốt cuộc thế nào? Nếu nói nhân duyên không tốt, tại sao nhiều nhân vật lớn của Thái Bình Thiên Quốc vốn không hợp nhau, sau này lại trăm miệng một lời hoài niệm ông, thậm chí ngay cả Hồng Tú Toàn, người đẩy ông vào chỗ chết cũng không ngoại lệ? Nếu nói nhân duyên tốt, tại sao Hồng Tú Toàn muốn giết ông, rất nhiều quan lại văn võ vẫn chịu sự chỉ huy của ông lại cùng tán đồng (ít nhất là không phản đối)? Hệ thống điệp báo mà ông tin cậy nhất, không những không phát giác ra âm mưu lớn như vậy của đối phương, thậm chí ngày cả tin tức quan trọng là Vi Xương Huy, Tần Nhật Cương đem quân vào thành, cũng không phản hồi kịp thời?
Ở trên đã đề cập, quyền thần, đại tướng triều Tùy là Dương Tố là người nghiêm khắc, tướng sĩ dưới quyền cho dù phạm một lỗi nhỏ cũng bị trừng phạt nghiêm khắc, thậm chí còn dẫn tới đại họa sát thân, nhưng chỉ cần lập công thì có thể được phá lệ trọng dụng, sẽ không bị thể chế quan liêu hoặc cận thần của hoàng đế áp chế, vùi dập, do đó rất nhiều người tài một mặt nơm nớp lo sợ, mặt khác lại tranh giành để tụ tập bên canh Dương Tố, sự huyền bí nằm ở tám chữ “tín thưởng tất phạt, nhân tận kỳ tài” (thưởng phạt phân minh, mọi người đều có thể phát huy hết năng lực của mình). Dương Tú Thanh khiến người ta vừa sợ vừa kính, điều mấu chốt nằm ở đây.
Nhưng một con người như vậy, có thể nhận được sự kính trọng, sợ hãi từ người khác nhưng lại rất khó có được sự tin tưởng tự đáy lòng từ cấp trên và sự thân cận của cấp dưới. Chính khách thất bại thời Xuân Thu là Hồ Xạ Cô từng nhận xét về kẻ thù chính trị của mình là Triệu Thuẫn, rằng vị lão huynh này giống như mặt trời giữa mùa hè, ánh sáng tỏa khắp nơi, nhưng mọi người đều bị chiếu đến mức hận không thể núp tránh. Tùy Dạng Đế Dương Quảng sau khi Dương Tố chết rồi cũng thẳng thắn nói rằng, nếu vị quyền thần này sống thêm vài năm nữa, e rằng mình cũng đành phải nổi sát cơ. Dương Tú Thanh không chỉ giống như Triệu Thuẫn, Dương Tố, thao túng triều chính, độc nắm đại quyền mà còn giả thần giả quỷ, thường đóng vai bố của Hồng Tú Toàn. Trong những cuốn sách được viết trước khi Thiên Kinh sự biến xảy ra như “Tặc tình hối toản”, “Kim Lăng tạp ký”, “Kim Lăng quý giáp sự ký lược”, các tác giả đều nhìn ra Dương Tú Thanh uy hiếp đến địa vị của Hồng Tú Toàn; Thậm chí ngay từ năm 1855 một Hoa kiều vô danh đọc được cuốn “Thái Bình lễ chế” tại thư viện Luân Đôn cũng nhìn ra điểm này. Người đương sự Hồng Tú Toàn lại không phải là tượng gỗ hay kẻ ngốc thật sự, có thể nhìn ra hay không? Dương Tú Thanh cao cao tại thượng, ân uy khó lường, người bên cạnh được tính là có tài năng nổi trội như Thạch Đạt Khai mà nghe thấy “Thiên Phụ hạ phàm” còn sợ toát mồ hôi, đã không biết bí mật nào của mình bị Dương Tú Thanh phát hiện, cũng không biết những thông tin nào rõ ràng là không đáng tin cậy mà Dương Tú Thanh tin, càng không biết việc “Thiên Phụ hạ phàm” với mình là phúc hay họa, ít nói, gật đầu nhiều đã thành một cách tự vệ theo bản năng, lại thêm vào truyền thống “quân thần”, có thể nói, một khi Hồng Tú Toàn nổi sát cơ, còn Dương Tú Thanh lại chẳng ý thức được thì kết quả của sự biến Thiên Kinh dường như đã được định trước.
Nhưng một khi mặt trời buông xuống, cái lạnh và bóng tối lại sẽ khiến những người không còn sợ “Thiên Phụ trừng phạt” lại nhớ tới hơi ấm của mặt trời. Lý Tú Thành tám năm sau vẫn hoài niệm Dương Tú Thanh không thôi, nhưng nếu Đông Vương thật sự còn sống đến năm 1864, ông ta e rằng sẽ nói khác. Thậm chí Hồng Tú Toàn cũng không ngoại lệ, ông ta muốn giết Đông Vương là sự thật, nhưng giết rồi lại phải tưởng nhớ, tưởng niệm, cũng không hoàn toàn là quyền thuật chính trị, “ta và ngươi không có Đông Vương thì không thể có ngày hôm nay”, có lẽ là câu nói phát đi tự đáy lòng – Dẫu rằng Dương Tú Thanh sống khiến ông ta rất khó chịu, nhưng khi Đông Vương thực sự không còn, phải đối mặt với cục diện u ám, trong ngoài khó khăn dồn dập, thực sự khiến “Thiên Vương chuyên chế” lúng ta lúng túng, cảm thấy rất vất vả.
Những chuyện xảy ra trong năm 1856.
Bất luận là đối với Thái Bình Thiên Quốc hay với Dương Tú Thanh, năm 1856 hay năm Hàm Phong thứ 6, năm thứ 6 Bính Thìn của Thái Bình Thiên Quốc, đều là một năm đầy kịch tính và là bước ngoặt, là một năm từ cực thịnh mà suy, đại hỷ đại bi.
Đầu năm, tình thế của Thái Bình Thiên Quốc còn tương đối tế nhị: quân tảo bắc đã bị tiêu diệt từ lâu, việc tiêu diệt Thanh triều tạm thời không thể thực hiện; chiến trường An Huy trở thành cục diện giằng co, An Khánh vững như bàn thạch, nhưng Vu Hồ đánh lâu không hạ được, Lư Châu (Hợp Phì) được rồi lại mất; Thủy sư Tương quân do thất bại ở trận Hồ Khẩu năm ngoái, bị cắt thành hai bộ phận ở Trường Giang và ở trong hồ, nguyên khí đại tổn thương, nhưng thủy sư quân Thái Bình trước sau bị tổn thất gần vạn chiếc thuyền bè, bổ xung khó khăn, ưu thế trên mặt nước đã bị thủy sư thuyền Hồng Đan được Thanh triều tăng cường từ Quảng Đông chiếm mất; Tình thế ở Giang Tây thì rất tốt, Dực Vương Thạch Đạt Khai chiếm được 8 phủ, 42 châu huyện, tiếp nhận được mấy vạn quân “cờ hoa” tinh nhuệ của Thiên địa hội, vây chặt Tăng Quốc Phiên ở Nam Xương. Nhưng Hồ Bắc lại bị Tương quân của Hồ Lâm Dực phản công chiếm mất thế thượng phong, tam trấn Vũ Hán dần dần cũng trở thành cô thành; Ngoại vi Thiên Kinh và Thượng Hải, Tiểu đao hội khởi nghĩa đã thất bại, Dương Châu cũng mất đã lâu, Trấn Giang, Qua Châu bị quân Thanh vây khốn trùng trùng, thậm chí ngay cả Thiên Kinh cũng bị hai đại doanh Giang Nam, Giang Bắc bao vây.
Xuất hiện chiến cục giằng co như vậy, mấu chốt nằm ở chỗ song phương đều khó có thể tập trung binh lực với ưu thế tuyệt đối đủ để áp đảo triệt để đối phương tại bất kỳ một chiến trường nào, đành phải dây dưa trên mọi chiến trường. So với phía quân Thanh, quân Thái Bình về cơ bản ở vào trạng thái tác chiến nội tuyến nên hiển nhiên càng bị động, do đó đương nhiên là khó khăn hơn trong việc tập hợp một lực lượng cơ động có sức chiến đấu tương đối để đưa vào mặt trận then chốt nhất, để từ đó phá vỡ thế cân bằng.
Nhưng vào đầu năm 1856, Dương Tú Thanh dường như đã tìm ra được lực lượng cơ động này và cũng tìm ra điểm đột phá để đặt lực lượng này vào.
Lực lượng này chính là quân của Trần Ngọc Thành, Lý Tú Thành, Đồ Chấn Hưng, Trần Sĩ Chương, Chu Thắng Khôn đang hoạt động ở Hoản Bắc. 5 người này đều là chiến tướng thế hệ mới, trưởng thành qua nhiều trận chiến kể từ sau khi định đô năm 1853. Quân do họ chỉ huy tương đối có sức chiến đấu; Lại hợp nhất với Niệm quân của Lý Chiêu Thọ mới vừa theo về, đội Niệm quân này kỷ luật không tốt nhưng sức chiến đấu rất mạnh mẽ. Phía Thanh triều khi đó cho rằng, cánh quân Thái Bình này tập kết tại Hoản Bắc, là để thu hồi Lư Châu; Không thể nói ban đầu Dương Tú Thanh không có ý này, nhưng theo diễn biến của chiến cục, ông đã tìm được cho lực lượng cơ động hiếm có này một chiến trường thích hợp hơn: Trấn Giang.
Cho dù Lư Châu cũng rất quan trọng, nhưng công đánh Lư Châu, chỉ có thể thu hút quân địa phương ở An Huy, Hà Nam và một bộ phận binh lực của đại doanh Giang Bắc; So ra, Trấn Giang và Qua Châu ở Giang Bắc là nơi hợp lưu của sông đào Vận Hà với Trường Giang, cũng là cánh cửa lớn phía đông của Thiên Kinh, đối với đôi bên Thanh, Thái đều rất quan trọng. Tòa thành này vốn do La Đại Cương trấn giữ, nhưng chủ lực đã bị điều đi phản công Vu Hồ, bản thân La cũng bị thương rồi mất, chỉ còn lại một số ít binh lực tử thủ dưới sự chỉ huy của Ngô Như Hiếu, bị quân của tuần phủ Giang Tô Cát Nhĩ Kháng Khả khải hoàn từ Thượng Hải cùng với viện binh của đại doanh Giang Nam bao vây tới mức giọt nước cũng không lọt. Nếu không tăng viện thì việc thất thủ chỉ là vấn đề thời gian. Nhưng chính vì nơi này vô cùng quan trọng, một khi quân Thái Bình có động thái lớn, đại doanh Giang Nam. Giang Bắc của quân Thanh sẽ ắt phải cùng nhau hành động, đến khi đó rất có thể sẽ xuất hiện chiến cơ có lợi cho quân Thái Bình.
Tháng 2 năm 1856, quân Thái Bình ở Hoản Bắc lặng lẽ vượt sông từ phía tây Thiên Kinh, qua Thê Hà, Long Đàm, vòng qua thành Thiên Kinh và đại doanh Giang Nam, đánh thẳng tới Trấn Giang. 5 viên tướng lĩnh của cánh quân này đều là thừa tướng, cấp bậc của họ đã vượt qua quân tảo bắc (3 thừa tướng, 1 kiểm điểm) và viện quân tảo bắc (3 thừa tướng), không chỉ vậy, Dương Tú Thanh còn đặc biệt phái Đỉnh Thiên Yến Tần Nhật Cương vừa mới phục chức làm chỉ huy thống nhất. Có thể nói, đây là đội hình mạnh nhất của quân Thái Bình được phái đi trên một hướng chiến dịch kể từ khi định đô Thiên Kinh đến nay.
Thế trận lớn như vậy, Thanh triều đương nhiên không dám sơ suất, phó soái Dư Vạn Thanh vốn vây đánh Trấn Giang bỏ vây chặn đánh, mãnh tướng số một của đại doanh Giang Nam là Trương Quốc Lương cũng cũng truy đuổi từ đông lộ, hai cánh quân đầy sinh lực khổ chiến hơn một tháng ở những nơi như Thương Đầu, Hạ Thục, Cao Tư ở Cú Dung, cuối cùng nhờ vào chiếc thuyền của Trần Ngọc Thành xông vào Trấn Giang, quân Thái Bình trong ngoài giáp công, đánh phá được quân vây thành của Cát Nhĩ Kháng Khả, và đánh lui được quân tăng viện của Trương Quốc Lương.
Bước tiếp theo nằm ngoài dự liệu của các tướng lĩnh Thanh đình: Quân Thái Bình không khải hoàn, cũng không truy quét tàn quân địch ở ngoại vi Trấn Giang, mà tiến thẳng sang sông Trường Giang, đổ bộ vào Qua Châu, cứ điểm duy nhất của quân Thái Bình ở Giang Bắc, sau đó đánh tới Dương Châu, nơi trú đóng của đại doanh Giang Bắc, chủ tướng đại doanh Giang Bắc là Thác Minh A trở tay không kịp, bại liền hai trận, đành phải bỏ thành Dương Châu và hai cứ điểm đã xây dựng nhiều năm là Thổ Kiều và Tam Xá Hà, theo hướng tây nam rút về vùng miếu Tưởng Vương.
Quân Thái Bình đánh bại Cát Nhĩ Kháng Khả, Trương Quốc Lương vào ngày 2 tháng 4, ngay đêm đó vượt sông, ngày 3 phá Thổ Kiều, ngày 5 phá Dương Châu, rất rõ ràng, đây là chiến dịch đã được Dương Tú Thanh trù hoạch từ trước, nếu không thì điều động binh lực, chuẩn bị thuyền bè đều không thể nào thuận buồm xuôi gió như vậy được.
Kế hoạch tiếp theo, Dương Tú Thanh dường như tính không tốt, ông phái một cánh quân vượt sông chiếm lĩnh Giang Phố, mà cùng lúc này, quân Thái Bình của Tần Nhật Cương đã chia ra để Chu Thắng Khôn giữ doanh trại cũ Thương Đầu của quân Thanh ở Giang Nam, để Ngô Như Hiếu về Trấn Giang, chủ lực thì men sông đông tiến, trung tuần tháng 4 chiếm lĩnh Phố Khẩu.
Rất nhiều sử sách quân sự đều cho rằng, Dương Tú Thanh có ý định để quân của Tần Nhật Cương khải hoàn vượt sông từ Giang Phố, Phố Khẩu, nhưng xem xét kỹ lưỡng thì có thể phát hiện không phải là như vậy.
Sau khi chiếm lĩnh Giang Phố, Phố Khẩu, quân của Tần Nhật Cương đã hội quân với quân tiếp viện của Thiên Kinh, từ ngày 16 chiếm Phố Khẩu, đến ngày 22 thất thủ, thời gian kéo dài 6 ngày, đủ để toàn quân vượt sông đến Hạ Quan trở về Thiên Kinh, nhưng quân của Tần Nhật Cương lại án binh bất động tại chỗ cũ, nói họ muốn từ Phố Khẩu về kinh là không hợp lý, nói bọn họ sau này do đường vượt sông bị cắt mà bị ép phải quay về hướng đông thì lại càng không thông.
Chúng ta hãy xem xem lúc đó quân Thanh làm gì.
Ngày 6 đến ngày 10 tháng 4, quân chủ lực của đại doanh Giang Nam Trương Quốc Lương, quân chủ lực của tỉnh Giang Tô Cát Nhĩ Kháng Khả vẫn bận tác chiến với quân của Chu Thắng Khôn ở Thương Đầu, cuối cùng Chu Thắng Khôn tử trận, tàn quân do anh trai là Chu Thắng Phú chỉ huy rút vào thành Trấn Giang. Ngày 16, được tin đại doanh Giang Bắc gặp bất lợi, Phố Khẩu thất thủ, chủ tướng đại doanh Giang Nam Hướng Vinh bị Hàm Phong thúc ép, vội điều quân của Trương Quốc Lương vượt sông. Quân chủ lực của đại doanh Giang Nam quả nhiên không phải tay mơ, từ ngày 22 đến ngày 27 tháng 4 trước sau đã thu hồi được Phố Khẩu, Giang Phố.
Cho dù xem ra tình thế không tồi nhưng quân của Trương Quốc Lương và Cát Nhĩ Kháng Khả vốn ở chung một chỗ đã bị tách ra, quân tinh nhuệ nhất là của quân của Trương cũng đã rất mệt mỏi, còn quân Tần Nhật Cương lại có được 10 ngày nghỉ ngơi quý giá. Không chỉ như vậy, ngày 8 tháng 4, cũng chính là ngày thứ 3 sau khi quân của Tần Nhật Cương chiếm lĩnh Dương Châu, khoảng 3 vạn quân Thái Bình của Thạch Đạt Khai ở Giang Tây chia làm ba lộ tiến vào Hoản Nam, bắt đầu áp sát ngoại vi Thiên Kinh, và trực tiếp đe doạ Ninh Quốc, căn cứ hậu phương của đại doanh Giang Nam. Động thái này không chỉ khiến quân Thanh phân tán và mệt mỏi thêm (quân của Trương Quốc Lương do Ninh Quốc cáo cấp nên đành phải vội vã vượt sông tăng viện ngay trong ngày thu hồi Giang Phố), còn khiến quân Thái Bình càng tập trung binh lực hơn cho chiến trường chính là Thiên Kinh – Trấn Giang. Rất rõ ràng, đây lại là một kế hoạch rất tường tận cho một chiến dịch lớn, mục tiêu cuối cùng của chiến dịch là giải quyết Hướng Vinh, đội quân Thanh chủ lực đã truy đuổi từ Quảng Tây tới Thiên Kinh cũng là đại doanh Giang Nam, mà có thể chơi một ván cờ lớn như vậy không ai khác chỉ có thể là Dương Tú Thanh, người nắm đại quyền quân chính của Thái Bình Thiên Quốc.
Cuối tháng 4, quân của Tần Nhật Cương bắt đầu tiến về hướng đông, không gặp quá nhiều trở ngại nhưng lại đi vòng vèo, mãi tới ngày 27 tháng 5 mới từ Qua Châu vượt sông, quay về Kim Sơn bên ngoài thành Trấn Giang. Còn trong thời gian này, quân của Thạch Đạt Khai liên tục hạ được phủ Thái Bình, phủ Ninh Quốc, tiến quân tới cứ điểm quan trọng Mạt Lăng Quan ở thành nam Thiên Kinh, ép Hướng Vinh phải để Trương Quốc Lương mang trọng binh chống lại, vô cùng mệt mỏi. Quân của Cát Nhĩ Kháng Khả ở ngoại vi thành Trấn Giang trở nên đơn độc.
Ngày 1 tháng 6, Tần Nhật Cương, Ngô Như Hiếu tấn công dữ dội Cát Nhĩ Kháng Khả, đang cố thủ núi Yên Đôn ở Cao Tư. Trải qua liên tục mấy ngày chiến đấu, lần lượt phá quân của Cát Nhĩ Kháng Khả, Hổ Tung Lâm, Dư Vạn Thanh, giết chết phó đô thống Bát kỳ Băng Khoát, tri phủ Giang Ninh Lưu Tồn Hậu, buộc Cát Nhĩ Kháng Khả phải tự sát, ngày 13 tháng 6 quay về ngoại ô Thiên Kinh.
Tần Nhật Cương có lẽ không biết kế hoạch tổng thể của Dương Tú Thanh, họ cho rằng nhiệm vụ cứu viện Trấn Giang đã hoàn thành vượt chỉ tiêu, quân đội chiến đấu hơn 4 tháng đã kiệt sức, nên trở về Thiên Kinh nghỉ ngơi. Không ngờ Dương Tú Thanh bất ngờ hạ xuống đầu họ một đạo nghiêm lệnh: đánh phá đại doanh Giang Nam, nếu không thì không cho phép về thành.
Lúc này Lật Thủy, một trọng trấn bên ngoài thành Thiên Kinh đã bị Thạch Đạt Khai công hạ, quân Thái Bình trong thành Thiên Kinh cũng đã xuất thành hạ trại, vốn bao vây Thiên Kinh, đại doanh Giang Nam lúc này lại trở thành con cờ chết khi quân Thái Bình bao vây ngược trở lại, các cánh quân bạn đều đã bại trận, các cứ điểm cũng mất phần lớn, quân chủ lực Trương Quốc Lương từ lâu đã như cung mạnh hết đà. Trong mắt Tần Nhật Cương, việc không cho phép về thành có thể là quá đáng, nhưng với Dương Tú Thanh thì e rằng là điều tính sẵn trong lòng từ lâu rồi.
Ngày 20 tháng 6, Tần Nhật Cương, Thạch Đạt Khai cùng quân Thái Bình của thành Thiên Kinh chia làm 4 lộ tấn công dữ dội đại doanh Giang Nam, chỉ trong một ngày đêm đánh bại toàn quân của Hướng Vinh, hôm sau Hướng Vinh buộc phải bỏ địa bàn Hiếu Lăng Vệ và khu vực trọng yếu Cú Dung, lui về giữ Đan Dương. Dương Tú Thanh lập tức phái Tần Nhật Cương truy kích Hướng Vinh, Thạch Đạt Khai quay về tăng viện cho Vũ Xương, Bắc Vương Vi Xương Huy tiến quân vào Giang Tây. Ngày 9 tháng 8, Hướng Vinh căm phẫn buồn bực mà chết trong thành Đan Dương. Thái Bình Thiên Quốc đạt tới đỉnh cao thế nước và sức mạnh quân sự.
Nhưng đỉnh cao này chỉ duy trì được không đầy một tháng: Cuối tháng 8, quân Thái Bình vốn chỉ gặp thất bại nhỏ ở Đan Dương, Kim Đàn lại buông bỏ thế công, đến mức quân Thanh khoác lác rằng họ đã bắn chết được chủ soái quân Thái Bình Tần Nhật Cương. Cùng lúc này, hai cánh quân Thái Bình ở Giang Tây, Hồ Bắc cũng đột nhiên hành động chậm chạp.
Chân tướng rất mau chóng được vạch trần trước thiên hạ: Dương Tú Thanh đã chết, chết trong sự biến Thiên Kinh ngày 2 tháng 9 năm 1856.
Về sự biến Thiên Kinh, ghi chép của các bên có sự khác biệt rất lớn.
“Kim Lăng tĩnh nạn ký lược”, “Kim Lăng tục ký” đều nói Dương Tú Thanh ngang ngược đến mức Hồng Tú Toàn không nhịn nổi bèn mật lệnh cho Vi Xương Huy, Thạch Đạt Khai, Tần Nhật Cương nghĩ cách trừ khử Dương Tú Thanh. Những ghi chép này cùng với cung từ của Lý Tú Thành đều cho rằng, Dương Tú Thanh ép Hồng Tú Toàn phong mình làm “vạn tuế”, dẫn tới họa sát thân, nhưng lại không giống với mấy vị khác, Lý Tú Thành khi đó đang ở tiền tuyến Cú Dung, Kim Đàn kiên trì cho rằng Hồng Tú Toàn không tham gia âm mưu bí mật này, đó là kết quả của cuộc tính toán “đồng tâm nhất trí” của ba người Thạch Đạt Khai, Vi Xương Huy, Tần Nhật Cương; Thạch Đạt Khai, bị một số người cho rằng có tham gia cuộc họp bí mật giết Dương nhưng khi sự việc xảy ra lại ở tận Hồ Bắc thì nói rằng, Dương Tú Thanh tính tình cao ngạo, Hồng Tú Toàn vì muốn chọc giận Vi Xương Huy ra tay, cố ý gia phong Dương Tú Thanh làm vạn tuế, kết quả là quả nhiên Vi Xương Huy nổi giận, giết chết Dương Tú Thanh.
Ghi chép của các nhà đều nói có chuyện “phong vạn tuế”, chỉ là có hai phiên bản là Dương Tú Thanh ép phong và Hồng Tú Toàn cố ý gia phong. Phiên bản có cuộc họp bí mật giết Dương thì càng nhiều, có phiên bản cho là do Hồng Tú Toàn chủ trì, Vi Xương Huy, Thạch Đạt Khai,Tần Nhật Cương tham dự, cũng có phiên bản nói Hồng Tú Toàn và Thạch Đạt Khai không trực tiếp tham dự. Người ghi chép lại thì có người đương thời (như Địch Phù đạo nhân) cũng có người đời sau được đánh giá là tương đối nghiêm cẩn (như Lý Tân); Cũng có người bên phía quân Thái Bình, cũng có người ngoại quốc dựa vào khẩu thuật của người mục kích để viết lại (như 3 bài báo dựa vào khẩu thuật của người lính đánh thuê người Ireland mà viết lại còn lưu truyền tới ngày nay). Nhưng sự kiện mà các nhà ghi chép lại khác nhau một trời một vực, vậy thì, chân tướng sự thật rốt cục là thế nào?
Dương Tú Thanh “tính tình cao ngạo” hiển nhiên là điều không phải nghi ngờ, ông ta có dục vọng quyền lực mãnh liệt, chèn ép Hồng Tú Toàn đủ kiểu, cũng là sự thật không cần tranh cãi, nhưng ông ta có ép phong “vạn tuế” hay không, cách nói hiện nay kỳ thực đều đến từ một nguồn tin – Hồng Tú Toàn.
Duy nhất chép ngày “ép phong” là Lý Tân trong “trung hưng biệt ký”, nói ngày 16 tháng 7 năm thứ 6 Bính Thìn của Thái Bình Thiên Quốc (ngày 22 tháng 8 năm 1856 sau công nguyên, ngầy 22 tháng 7 năm Hàm Phong thứ 6) ép phong, ngày 17 tháng 8 năm thứ 6 Bính Thìn là ngày sinh nhật của Dương Tú Thanh sẽ chính thức gia phong. Nhưng bản thân Lý Tân trong ghi chép của mình có nói ông ta vào năm Đồng Trị thứ 6 (năm 1867 sau công nguyên) mới 13 tuổi (kỳ thực tuổi thật phải là 12). “Trung hưng biệt ký” xuất bản vào năm Tuyên Thống thứ 2 tức là trước Thanh triều diệt vong 1 năm (năm 1910 sau công nguyên). Khi Thiên Kinh sự biến xảy ra, con người sinh ra và lớn lên tại Nam Kinh này mới chỉ có 2 hoặc 3 tuổi, rất hiển nhiên, ghi chép của ông ta không thể là tư liệu chính. Mà những ghi chép khác đều trực tiếp hoặc gián tiếp đến từ câu từ của Hồng Tú Toàn sau khi Dương Tú Thanh đã chết. Chỉ có thể nói, Dương Tú Thanh có phong vạn tuế hay không, là chủ động ép phong hay là Hồng Tú Toàn cố ý gia phong, vẫn là câu đố chưa có lời giải.
Có hay không cuộc họp bí mật, Hồng Tú Toàn có tham gia cuộc họp đó hay không, vấn đề này Lý Tú Thành và Thạch Đạt Khai có sự bất đồng. Nhưng từ việc Vi Xương Huy, Tần Nhật Cương gần như đồng thời bí mật hồi kinh, lãnh tụ triều thần Trần Thừa Dung đích thân tiếp ứng, cho đến Dương Tú Thanh “không gì không biết, không gì không thể” lại chẳng chút phòng bị có thể đoán định, Hồng Tú Toàn chính là chủ mưu giết Dương Tú Thanh, không có sự điều độ của ông ta, những người này cho dù có gan giết Dương Tú Thanh cũng không dám liên kết với nhau, hành động cùng lúc, càng không thể giấu giếm thành công như vậy, dưới mí mắt của Dương Tú Thanh mà mài sắc đồ đao.
Lý Tú Thành khi đó không theo Tần Nhật Cương hồi kinh, trong cả quá trình sự việc đều không ở hiện trường, cách nói của ông ta hiển nhiên là phiên bản của Hồng Tú Toàn, không phải Hồng Tú Toàn chủ mưu cũng chả có gì là lạ. Thạch Đạt Khai phủ nhận sự tồn tại của cuộc họp bí mật thì có hai khả năng, hoặc là ông ta trước khi sự việc đã bị loại khỏi cuộc họp, hoặc là ông ta vì giữ danh tiếng của mình mà dứt khoát phủ nhận. Thuận tiện đề một câu, trong “Thiên phụ thánh chỉ”, điều cuối cùng của “bộ Dương Tú Thanh ngữ lục” này có ghi ngày mùng 9 tháng 7 năm thứ 6 Thái Bình Thiên Quốc (ngày 15 tháng 8 năm 1856, ngày 15 tháng 7 năm Hàm Phong thứ 6), tức là 18 ngày trước khi Dương Tú Thanh bị giết, nói “Tần Nhật Cương giúp yêu, Trần Thừa Dung giúp yêu, đã phóng hỏa thiêu liên thành, chưa có cứu”, sau khi được phát hiện đã được rất nhiều người phân tích nghiêm túc hoặc cho rằng có thể lấy đó làm phán đoán người chịu trách nhiệm sự kiện, hoặc cho rằng đây là chứng cứ Dương Tú Thanh đả kích, ép hại hai người Tần, Trần. Nhưng phải thấy rằng, bộ “ngữ lục” này là do Hồng Tú Toàn nóng lòng che đậy sự kiện, đã minh oan cho Dương Tú Thanh nên chủ trì xuất bản vào hai năm sau khi sự việc xảy ra, nếu nói câu “lời trời” này do Dương Tú Thanh nói ra, thì chi bằng nói “Hồng Tú Toàn muốn Dương Tú Thanh nói vậy”, ý là muốn giữ danh tiếng cho Thiên Vương mà thôi.
Sau khi gạn lọc, chân tướng của sự biến Thiên Kinh đã rất rõ ràng: Người bị cưỡng đoạt quyền lực Hồng Tú Toàn đã không chịu nổi việc Dương Tú Thanh động tí là “Thiên phụ hà phàm” uy hiếp tới địa vị của mình, ngoài mặt thì tiếp tục tôn sùng nhưng ngầm mật bàn cùng với mấy đại quan viên trong triều như Vi Xương Huy, Tần Nhật Cương, Trần Thừa Dung (có thể còn có cả Thạch Đạt Khai), nhân lúc Thái Bình Thiên Quốc giành được thắng lợi lớn chưa từng có, Dương Tú Thanh đắc chí mãn ý phòng bị lơi lỏng, lợi dụng Trần Thừa Dung nắm giữ chìa khóa cửa thành, lặng lẽ triệu Vi Xương Huy, Tần Nhật Cương và thân binh tâm phúc của họ về Thiên Kinh, dùng thủ đoạn tập kích bất ngờ giết chết toàn gia Dương Tú Thanh và rất nhiều thân tín.
Theo như “Kim Lăng tục ký”, Vi Xương Huy đích thân chỉ huy hành động tập kích phủ Đông Vương, bị giết tại chỗ bao gồm cha con Đông Vương, gia đinh 27 người, “ngụy vương nương 54 người” và thị nữ khác “bị bắt vào phục vụ và bị cưỡng bức đến mang thai”. Những ghi chép sau đó tuy rằng mỗi người mỗi ý, miêu tả sinh động như thật, như “khổ nhục kế” “Hồng môn yến” và nội chiến Đông điện – Bắc điện đều chưa chắc đã là sự thật. Nhưng từng nhóm cốt cán, trọng thần của Thái Bình Thiên Quốc chết trong trận này là xác thực không còn nghi ngờ gì nữa. Có thể xác nhận bị giết trong sự kiện này bao gồm Bổ Thiên Hầu Lý Tuấn Lương, Trợ Thiên Hầu Lưu Thiệu Đình, Dực Thiên Hầu Cát Thành Tử, Phù Thiên Hầu Phó Học Hiền, nhị thượng thư sử bộ Đông điện Hầu Khiêm Phương; Khả năng chết trong sự kiện này còn có rất nhiều người như Tiền Trấn Quốc Hầu Lô Hiền Bạt. “Kim Lăng tĩnh nạn ký lược” viết cốt cán của Thái Bình Thiên Quốc bị Vi Xương Huy giết trong sự biến Thiên Kinh là hơn 2 vạn người, khả năng là phóng đại, ví như khi đó Dương Tú Thanh quá sơ ý, họ Dương quốc tông phái tới các nơi cầm quân, có ghi lại bị giết, chỉ có nhất loạt ở An Khánh (kẻ xúi giục là Trương Triều Tước thân cận của Hồng Tú Toàn); Còn “Kim Lăng tục ký” ghi, có một số lớn người của Đông điện xuất chinh bị điều về xử tử. Nhưng từ sử liệu có thể thấy, không chỉ những người thuộc Đông điện nhưng quan hệ tương đối sơ lược như Thừa tuyên Đông điện Hoàng Văn Kim, Hồ Đỉnh Văn mà cả những người có quan hệ mật thiết với Dương Tú Thanh như anh em Lý Thọ Huy, Lý Thọ Xuân, thậm chí là Lâm Tích Bảo, người mà “dân rất căm phẫn” đều tránh được đại nạn, nhưng rất nhiều quan, triều thần thuộc Đông điện và gia thuộc của họ bị hại. Một loạt các sự kiện liên tiếp xảy ra sau đó như Vi Xương Huy giết chết cả nhà Thạch Đạt Khai, Hồng Tú Toàn dùng thủ đoạn cũ ám toán Vi Xương Huy, dưới áp lực “dẹp nạn” của Thạch Đạt Khai, xử tử Tần Nhật Cương và Trần Thừa Dung. Thời kỳ toàn thịnh của Thái Bình Thiên Quốc vừa mới bắt đầu liền im bặt, Dương Tú Thanh, người vừa đạt được đỉnh cao cá nhân cũng chết oan chết uổng như vậy.
Hồng Tú Toàn kéo cờ hiệu “con thứ của Thiên Phụ”, “chân chủ trời sinh” mà làm nên sự nghiệp, “người phát ngôn của Thiên Phụ” Dương Tú Thanh này là nền tảng tất cả hào quang của ông ta, bất luận là xuất phát từ nguyên nhân gì thì hậu quả của việc tự tay đập vỡ vầng hào quang này chỉ có thể là “giang sơn đánh không thông”, từ đó mất đi sự huyền bí và sức hiệu triệu, sa vào thế cô gia quả nhân.
Còn Dương Tú Thanh, con người khoe khoang thông minh lanh lợi, biết rõ “Thiên Phụ” là giả, lại say sưa trong thứ ảo thuật chính trị rẻ tiền thành công 100% này, đã không muốn giao trả quyền cho Hồng Tú Toàn, phân chia quyền lực cho chư vương và đại thần, lại không chịu dứt khoát mặt dày soán vị, ở cục diện bối rối không tiến không lùi lại thêm “tính tình cao ngạo”, cuối cùng khiến trên đến Hồng Tú Toàn, dưới đến các quần thần ai cũng cảnh giác dè chừng. Nhân vật số một của Thái Bình Thiên Quốc tai mắt rất nhiều, thần thông quảng đại, dựa vào hệ thống tình báo phát triển để chèo chống địa vị của mình, cuối cùng lại chết trong một cuộc tập kích lén lút mà không biết, thật là điều vô cùng châm biếm.
Dương Tú Thanh là người xa xỉ phô trương. Nghe nói ngay cả bồn rửa mặt cũng bằng vàng, khi ra ngoài luôn mang theo đội nghi trượng siêu cấp như đội múa đèn rồng; Kiệu ngồi và giường ngủ nghe nói làm bằng thủy tinh, có thể trữ nước nuôi cá vàng; Còn thuyết “Đông Vương háo sắc”, cũng chẳng phải là giả, từ số lượng “vương nương” khi ông ta bị giết và những vương nương ngoài biên chế tuẫn táng, cùng với việc coi trọng việc dán cáo thị khắp nơi tìm đại phu trị mắt thì có thể thấy, ông do “dục vọng quá độ” dẫn tới bệnh mắt tái phát, lời đồn một mắt bị mù là có độ tin cậy rất cao. Có điều đối với một chính trị gia thì xa xỉ hoặc háo sắc đều không tính là lỗi lầm lớn nhất, bản thân là trụ cột nắm quân chính của một nước, lại từ đầu tới cuối không thể xây dựng một hệ thống chính trị, luật pháp ổn định đáp ứng được trình độ của thời đại, thưởng phạt tùy ý, văn võ bất phân, hệ thống thương nghiệp thành thị bình thường bị phá vỡ, thậm chí cuộc sống gia đình thành thị cũng một dạo bị cưỡng ép ngắt quãng; Trong khi đó, mấy vị “thần nhân” Hồng, Dương lại có thể ôm thê ẵm thiếp, ngồi hưởng phú quý. Một chính quyền như vậy bất luận thế nào cũng là dị dạng, bất bình thường, cho dù nhất thời đắc thế, cuối cùng cũng khó mà bền vững được.
Dương Tú Thanh tuyệt đối không phải là kẻ bảo thủ cố chấp, ông cũng từng hoặc kịp thời, hoặc không kịp thời điều chỉnh các loại chính sách, như thay đổi “ruộng đất trong thiên hạ đều là ruộng đất của Thiên Vương” thành giao lương nộp thuế theo lệ cũ, sửa vợ chồng ly tán thành vợ chồng đoàn tụ, sửa đổi chính sách văn hóa, sửa đổi những chiến lược quân sự nóng vội, từ đó đảo ngược được tình thế của chiến cục Tây chinh và đánh bại đại doanh Giang Nam, Giang Bắc. Nhưng sự mâu thuẫn gay gắt giữa ông và Hồng Tú Toàn, cuối cùng dẫn tới sự biến Thiên Kinh bùng nổ khi đang ở đỉnh cao của sự nghiệp, khiến ông không còn bất cứ cơ hội nào để sửa chữa, người nắm đại quyền sau đó là Hồng Tú Toàn tính tình cố chấp, tàn bạo thì chỉ có hơn chứ không kém Dương Tú Thanh, nhưng tài năng, tấm lòng và tầm nhìn lại thua xa Dương, “thần khúc” Thái Bình Thiên Quốc cũng đương nhiên chỉ có thể ngày càng cao siêu ít người hiểu, chẳng ai lắng nghe.
Từ Đông nghiệt đến Đông thăng.
Dương Tú Thanh chết rồi bị biếm gọi là “Đông nghiệt”, nhưng xu thế “ma quỷ hóa” này rất nhanh chóng bị ngừng lại. Cùng với việc giết người của Vi Xương Huy, Thạch Đạt Khai kéo cờ hiệu “báo thù cho Dương Tú Thanh” “bình loạn” về Kinh phụ chính, vấn đề đánh giá Dương Tú Thanh dường như bị bỏ lửng đó, đã không có sự tiếp tục hạ thấp giá trị cũng không có những lời minh oan. Những người trực hệ Đông Vương như Dương Phụ Thanh, Dương Nghi Thanh vẫn phiêu bạt khắp nơi, không dám về triều.
Nhưng xu thế này mấy năm sau đã bị đảo ngược với sự ra đi của Thạch Đạt Khai và những thất bại trong việc bổ nhiệm người thân của Hồng Tú Toàn. Tháng 11 năm 1858, đặc sứ nước Anh là James Bruce dẫn đội tàu tiến vào sông Trường Giang, Hồng Tú Toàn trong chiếu thư gửi người này đã thuật lại thần thoại Đông Vương thay Thiên Phụ truyền lời, và dùng lời nói hàm hồ chiếu lệ “kỳ chí triều quan tao hãm hại, gia gia thánh chỉ tổng thành hình” (ý nói thời gian Đông Vương chuộc bệnh chống yêu đã hết, ý chỉ của Thượng đế triệu ông ta về trời đã được thi hành) để trả lời (hoặc dứt khoát nói là đùn đẩy) về trách nhiệm trong việc giết chết Dương Tú Thanh, gắn ghép chắp vá cái chết của ông với một lần “Thiên Phụ hạ phàm” vào ngày 27 tháng 8 năm thứ 5 Ất Vinh (1855), và lần đầu tiên khiến người ta chú ý là thừa nhận rõ ràng, Dương Tú Thanh là con thứ 3 của Thượng đế, là em cùng cha cùng mẹ với mình và Jesu; Ngày mùng 7 tháng 10 Thiên lịch năm sau, Hồng Tú Toàn ban bố chiếu thư, tuyên bố lấy ngày mùng 3 tháng 3 hàng năm là “Gia giáng tiết” (Ngày Thượng đế xuống trần), để kỷ niệm lần đầu “Thiên Phụ hạ phàm” của Dương Tú Thanh; Ngày 27 tháng 7 hàng năm là “Đông Vương thăng thiên tiết”, để kỷ niệm ngày Dương Tú Thanh “thăng thiên”. Ngày 13 tháng 9 năm thứ 10 Canh Thân (năm 1860), lấy danh nghĩa Ấu Thiên Vương gia phong Dương Khánh Thiện, bá phụ của Dương Tú Thanh “tước đống nam (địa vị đãi ngộ ngang với Phùng Vân Sơn)”; Ngày 31, đồng ý xây dựng “Chính cửu trùng Thiên đình” cho Dương Tú Thanh; Ngày 27 tháng 12, tuyên bố từ nay “nội ngoại bản chương” chỉ cho phép đóng dấu cá nhân của Ấu Đông Vương, Can Vương Hồng Nhân Can và “hết thảy kim ấn” đều không được phép dùng. Ngày 21 tháng 2 năm sau “vĩnh định ấn hàm”, Đông Vương nhận được hàm tước dài tới 37 chữ “Truyền Thiên Phụ Thượng Chủ Hoàng Thượng Đế Chân Thần Chân Thánh Chỉ Thánh Thần Thượng Đế Chi Phong Lôi Khuyên Ủy Sư Hậu Sư Tả Phụ Chính Quân Sư Đỉnh Thiên Phù Triều Cương Đông Vương”, có thể nói là hiển hách vô cùng, thậm chí Dương Tú Thanh sinh tiền, cũng chưa thể leo lên “đỉnh cao thần – người” đường hoàng như vậy.
Đúng như sự phân tích mổ xẻ của tiên sinh Vương Khánh Thành, Thái Bình Thiên Quốc là quốc gia thần quyền, Hồng Tú Toàn là quân vương giáo chủ, cơ sở quân quyền của nó, ngoại trừ giấc ảo mộng lên trời của bản thân Hồng Tú Toàn trong thời gian đầu ra, thì chủ yếu dựa vào Dương Tú Thanh, Tiêu Triều Quý, đặc biệt là “người phát ngôn của Thiên Phụ” Dương Tú Thanh, thậm chí ảo mộng của Hồng Tú Toàn cũng phải dựa vào “Thiên Phụ Thiên Huynh” mở miệng chứng thực mới có sức thuyết phục, cho dù bọn họ mượn đặc quyền này để chơi đùa Hồng Tú Toàn trong lòng bàn tay, cưỡng đoạt đại quyền quân chính, nhưng cũng xác thực để địa vị Thiên Vương của Hồng Tú Toàn có được vầng hào quang thần thánh, không có vầng hào quang này, cái gọi là “Thiên Vương, Ấu Thiên Vương” sẽ khuyết đi lý do thống trị thiên hạ, Thượng đế giáo của Hồng Tú Toàn cũng khó mà vo cho tròn. Vì vậy, cho dù trong lòng Hồng Tú Toàn có thống hận, sợ hãi Dương Tú Thanh đến đâu, cuối cùng vẫn cứ phải minh oan cho ông ta, hoàn trả cả gốc lẫn lời những phong hiệu thần thánh từng bị ông tước đoạt.
Không chỉ như vậy, sau năm 1858, một người đã chết như Dương Tú Thanh tuy rằng trên danh nghĩa là có con trai, có rất nhiều huynh đệ, nhưng Ấu Thiên Vương Dương Thiên Hựu thực chất là Hồng Thiên Hựu, con trai của Hồng Tú Toàn, thậm chí sau khi được cho Dương Tú Thanh làm thừa tự thì ngay cả họ cũng không đổi hoàn toàn, được Hồng Tú Toàn gọi là “Thiên Hựu tử điệt” – nửa là con, nửa là cháu; Còn những người như Dương Phụ Thanh trên thực tế không phải là ruột thịt của Đông Vương, tuy rằng chức quan không thấp, nhưng trong hệ thống quân chính thời kỳ sau, địa vị luôn ở bên lề. Dương Phụ Thanh tuy là Trung quân chủ tướng, Phụ Vương và quân sư, được xem là một trong số những nhân vật quan tước hiển hách thời kỳ sau, nhưng chức quan cao như vậy lại ngay cả mảnh đất cắm dùi cũng không có, cũng chưa từng nhận được ân điển về triều phụ chính. Với một “Thiên đệ” như vậy thì đương nhiên là có gia phong, ca tụng thế nào cũng chẳng có chút rủi ro chính trị. Chính vì như vậy, “người kế tục Đông Vương”“Thiên Hựu tử điệt” không tới 10 tuổi, lần đầu tiên xuất hiện trong chiếu thư ngày 27 tháng 4 năm thứ 11 Tân Dậu (năm 1861) luôn khệnh khạng đứng đầu đại thần quyền quý, và trong “triều thiên triều chủ đồ” có lẽ được ban hành cùng năm hoặc muộn hơn một chút, xếp hạng 10 vị quyền quý hàng đầu của Thái Bình Thiên Quốc là “Gia ca trẫm ấu quang minh đông tây trưởng thứ”, trong đó “Gia ca” lần lượt là Thượng đế, Jesu, thuộc về thần; “trẫm ấu” là Hồng Tú Toàn, Hồng Thiên Quý Phúc, thuộc về quân, “quang minh” chính là con thứ ba Hồng Thiên Quang, con thứ tư Hồng Thiên Minh của Hồng Tú Toàn, Đông Vương hiển hách xếp vị trí thứ sáu sau những người kể trên, trước người cháu ngoại sinh trên danh nghĩa của Hồng Tú Toàn là Tây Vương Tiêu Hữu Hòa và hai người anh Vương trưởng huynh Hồng Nhân Phát, Vương thứ huynh Hồng Nhân Đạt. Nhìn bề ngoài là tôn sùng Dương Tú Thanh, trên thực tế lại là “vở kịch của nhà ta”: người được gọi là “Ấu Đông Vương”, vốn là ngũ đệ của Hồng Thiên Quang, Hồng Thiên Minh, xếp ngay sau hai người Quang Minh, thực không thể thích hợp hơn.
Có bia miệng ghi chép rằng, Dương Bính Chiếu, con trai của Dương Tú Thanh được Vương Xuân Kiều, một nghệ nhân kể chuyện và là hội chúng Thiên địa hội cùng em họ Dương Tú Thanh là nữ quan Đông điện Dương Thủy Kiều cứu thoát, sau này đổi tên là Đồ Bính Chiêu, mai danh ẩn tính, định cư ở Tiêu Sơn, Hàng Châu, con cháu mãi tới thời Dân quốc do sự công bố của Dương Thủy Kiều mới biết chuyện này. Trong sử liệu và trong quan thư của Thái Bình Thiên Quốc đều có ghi chép về Dương Thủy Kiều, mà Dương Tú Thanh thích kết nạp nhân sĩ Thiên địa hội cũng là sự thật (trong quốc tông họ Dương mà ông kết bái thì có đến mấy người có lai lịch từ Thiên địa hội), cho dù chuyện này thật giả khó phân, nhưng rất nhiều đầu mối đều có thể ăn khớp với sự thật lịch sử, độ tin cậy cũng có một số.
Có chuyên gia chất vấn, Hàng Châu từng hai lần bị quân Thái Bình chiếm đóng, khi đó Vương Xuân Kiều vẫn còn sống, vì sao không mang Dương Bính Chiếu “về đội”? Và lấy đó để suy luận rằng “câu chuyện do người sau hư cấu”. Người viết cho rằng, chi tiết này không những không thể chứng minh câu chuyện là hư cấu, thậm chí còn có thể cho thấy câu chuyện này có thể thực sự là thật – Hồng Tú Toàn tuyên dương Dương Tú Thanh đã “thăng thiên”, nói cho cùng là để củng cố hoàng vị của bản thân; Trọng dụng Ấu Đông Vương của trần gian là do vị “Dương Thiên Hựu” này trên thực tế là “Hồng Thiên Hựu”, nếu như không bằng không cớ nhảy ra một Dương Bính Chiếu là cốt nhục của Đông Vương để phá rối, lẽ nào không phải làm hỏng đại sự ư? Có lẽ nếu thật sự có chuyện Vương Xuân Kiều, Dương Thủy Kiều che giấu Dương Bính Chiếu thì với kinh nghiệm từng làm nữ quan Đông điện, là Dương trưởng muội, thậm chí đảm nhiệm nữ quân sư trực ban phủ Thiên Vương của Dương Thủy Kiều, bọn họ không những không dám lộ diện, ngược lại còn tìm cơ hội chuyển nhà, để tránh cho vị Dương Bính Chiếu, người khó khăn lắm mới nhặt lại được cái mạng, trở thành phiên bản của “thái tử triều Sùng Trinh” chạy thoát đến Nam Kinh vào thời Minh mạt Thanh sơ khiến cho Hoằng Quang đế lúng túng.
Cảnh trong phim Thái Bình Thiên Quốc do Trung Quốc sản xuất
(Hết)