Lý Thế Dân
Tại Bảo tàng Trung ương các lực lượng vũ trang Nga (khu Dostoyevskaya, Moskva) tập hợp rất nhiều công trình nghiên cứu của các sử gia, nhà nghiên cứu về lịch sử, khoa học quân sự. Đặc biệt thú vị với những người yêu văn học Nga là các tài liệu trưng bày tại đây cho biết về nhiều nhân vật đời thật là hình mẫu của các vai chính trong tiểu thuyết và phim ảnh Liên Xô và LB Nga. Các tóm tắt tiểu sử và chi tiết đời thực cho người xem nhiều thông tin, kiến thức để hiểu hơn về nền văn học Nga. Dưới đây là các hình ảnh và chú thích từ Bảo tàng Trung ương các lực lượng vũ trang Nga, Moskva.
Pavel Vasilevich Makarov (1897-1970) (thứ ba từ trái sang). Gia đình nhân viên đường sắt. Tham gia Thế Chiến thứ I, lon chuẩn úy. Năm 1919 ông bị bắt làm tù binh gần Melitopol, nhưng tự xưng mình là sĩ quan, tham gia Bạch vệ với lon thượng úy, sau đó trở thành trợ tá cho tướng V.Z. Mai-Maevsky Tư lệnh Quân đoàn Tình nguyện. Năm 1920 ông bị Bạch vệ bắt nhưng trốn thoát. Năm 1927 viết cuốn “Trợ tá cho tướng Mai-Maevsky”. Trong Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại ông tham gia chi đội du kích ở Krym, được trao Huân chương “Cờ Đỏ”. Năm 1969, ông được vinh danh trong phim truyền hình 5 tập “Адъютант его превосходительства” (Người trợ tá xuất sắc).
Tham mưu trưởng Sư đoàn Markov, tướng N.S. Timanovsky, bên toa tàu của ban tham mưu. Đứng cạnh là chuẩn tướng V.Z. Mai-Maevsky và P.V. Makarov. Bên cạnh là chiếc kính lúp của P.V.Makarov.
Tại đây, ta cũng tìm thấy hình mẫu ngoài đời của các nhân vật trong “Sông Đông êm đềm” của Mikhail Aleksandrovich Sholokhov là Grigory Melekhov và Pavel Kudinov.
Kharlampy Vasilevich Ermakov (1891-1927). Sinh tại trấn Veshensky (tỉnh Rostov). Gia đình cô-dắc nghèo. Tham gia Thế Chiến I, nhận đủ 4 hạng huy chương chữ thập Thánh Georgy. Khởi đầu Nội chiến ủng hộ Ủy ban quân sự cách mạng sông Đông của F.G. Podchenkov và tham gia chống Chi đội Bạch vệ của V.M. Chernetsov. Sau khi bị thương, ông trở về nhà. Vào khởi đầu cuộc nổi loạn Veshensky tháng 2/1919 ông tham gia chống Hồng quân, được giao chỉ huy Sư đoàn Thượng sông Đông số 1. Sau khi hợp nhất với Quân đoàn Bạch vệ sông Đông, ông được phong đại úy (yesaul) và giao chỉ huy một trung đoàn. Tham gia cùng Quân đoàn sông Đông tấn công thành phố Tsaritsyn (sau là Stalingrad, và nay có tên là Volgagrad). Tháng 3/1920 gần Novorossiysk ông chạy sang phe Hồng quân, chỉ huy Trung đoàn Kỵ binh số 3 (gồm toàn lính cô-dắc cựu Bạch vệ) thuộc Tập đoàn quân Kỵ binh số 1 (do S.M. Budionnyi chỉ huy). Tham gia các chiến trường Ba Lan, Krym và đánh Makhno. Được thưởng thanh gươm và đồng hồ vẻ vang. Nhà văn M.A. Sholokhov viết rằng, S.M. Budionnyi có quen biết ông và kể về ông như một người đặc biệt dũng cảm. Mùa hè 1921 ông là tham mưu trưởng Sư đoàn Cô-dắc 14 Hồng quân. Tháng 1/1923 bị thải khỏi quân đội vì “là cựu Bạch vệ”, trở về nhà và bị bắt. Sau một năm rưỡi bị điều tra, mùa hè 1924 được thả. Làm việc trong nông trang tập thể. Làm quen với M.A. Sholokhov. Là hình mẫu của nhân vật Grigory Melekhov trong tiểu thuyết “Sông Đông êm đềm”. Tháng 2/1927 lại bị bắt vì “tuyên truyền chống Xô viết và tham gia chống chính quyền Xô viết trong thời gian nổi loạn Veshensky”. Theo bản án của ủy ban hành pháp OGPU bị xử bắn ngày 17/6/1927. Được phục hồi danh dự năm 1989.
Pavel Nazarevich Kudinov (1891-1967). Gia đình cô-dắc nghèo trấn Veshensky. Tham gia Thế Chiến thứ I, nhận đủ 4 hạng Huân chương Georgy, trung úy cô-dắc (khorunzyi). Tham gia cuộc nổi loạn Veshensky. Tháng 2/1919 được bầu làm tổng tư lệnh Quân đội Nổi loạn (15-30 ngàn người). Dẫn quân hợp nhất với Quân đoàn sông Đông tháng 6/1919. Được thăng đại úy (yesaul), phục vụ quân đoàn tướng Guselshchikov. Tháng 11/1920 lưu vong qua Istambul, Hy Lạp, rồi Bulgaria. Thành lập “Liên minh cô-dắc dân tộc”, bị nghi ngờ là điệp viên của tình báo Xô viết. Tháng 11/1944 bị cơ quan “SMESH” bắt ở Bulgaria. Bị án 10 năm đi trại. Sau khi được thả năm 1955 muốn trở về Veshensky, nhưng không được công nhận là công dân Liên Xô và phải về Bulgaria. Làm việc trong nông trang, sống nghèo khổ. Thường đi bộ dọc đường sắt và nhìn theo các đoàn tàu từ Liên Xô. Tháng 10/1967 bị tàu hỏa đâm chết.
Một anh hùng Nội chiến Xô viết khác có tên trong nhiều sách vở, phim ảnh là Kochubey.
I.A. Kochubey cùng vợ là Agrippina Ivanovna Sementsova. Trấn Aleksandro-Nevsky, 1913.
Ivan Antonovich Kochubey (1893-1919). Sinh tại trấn Georgievsky (hiện là hạt (kray) Stavropolsky) trong gia đình cô-dắc nghèo. Tham gia Thế Chiến thứ I, thuộc Chi đội biệt kích của A. Shkuro (Quân đoàn tướng Baratov ở Ba Tư). Được trao 3 Chữ thập thánh Georgy. Đầu 1918 tổ chức chi đội du kích Đỏ ở Kuban. Chỉ huy trung đoàn rồi lữ đoàn kỵ binh trong Quân đoàn 11. Cuối 1918 lữ đoàn bọc hậu cho Quân đoàn 11 rút lui ở Astrakhan, giúp nó không bị tiêu diệt hoàn toàn.
Đai lưng (пояс) kiểu Kavkaz của Lữ đoàn trưởng (kombrig) I.A. Kochubey. Tặng cho em trai Ilya năm 1917, sau khi người em trở về từ Ba Tư. Người em đã trao lại cho Nhà thiếu nhi thành phố Budenovsk (vốn là nhà thờ Svyatoi Krest trước Cách Mạng). Năm 1960 đại biểu nhà thiếu nhi tới Moskva và trao đai lưng lại cho Bảo tàng.
Bộ tiểu thuyết “Con đường đau khổ” (Хождение по мукам) của nhà văn Aleksey Nikolaevich Tolstoy không chỉ phủ trên một không gian rộng gần khắp nửa đế quốc Nga, mà còn chứa vô số nhân vật lịch sử đầy cá tính có thể tìm thấy ở Bảo tàng này như nhà độc tài cách mạng Ivan Sorokin, chỉ huy Hồng quân Dmitri Zhloba hay nhà cách mạng vô chính phủ Nestor Ivanovich Makhno.
Ivan Lukich Sorokin (1884-1918). Sinh tại trại Petropavlovsky, hạt (kray) Krasnodar. Gia đình cô-dắc. Tham gia Thế Chiến thứ I, đại úy (yesaul). Đầu 1918 tổ chức chi đội cô-dắc Đỏ đầu tiên ở Kuban. Cùng với A.I. Avtonomov lãnh đạo cuộc phòng thủ Ekaterinodar mùa đông 1918. Từ tháng 8/1918 là tổng tư lệnh (glavkom) Quân đội Đỏ ở Bắc Kavkaz (từ 10/1918 – Quân đoàn 11). Xung đột với lãnh đạo nước Cộng hòa Bắc Kavkaz. Khi được biết về kế hoạch loại mình khỏi chức tổng tư lệnh, ngày 21/10/1918 đã ra lệnh bắt giam họ. Các tù nhân bị ông bắt đã bị nhóm áp giải giết chết ở Pyatigorsk trong lúc đang áp tải về nhà tù. Đại hội Xô viết bất thường số 2 của Bắc Kavkaz đã đặt Sorokin ra khỏi vòng pháp luật. Bị bắt và giết chết ở Stavropol bởi trung đoàn trưởng Sư đoàn Taman I.T. Vyslenko. Sau Nội chiến, A.I. Denikin đã đánh giá cao năng lực chiến đấu của Sorokin
Dmitri Petrovich Zhloba (1887-1938). Gia đình nông dân. Tham gia Thế Chiến I, hạ sĩ quan. Trong Nội chiến là chỉ huy trưởng trung đoàn rồi lữ đoàn. Tháng 9-10/1918 tham mưu trưởng sư đoàn, từ đó chỉ huy cuộc hành quân từ Nevinomyssk về Tsaritsyn. Qua chặng đường 800 km, sư đoàn đánh vào hậu phương quân Bạch vệ và đến được Tsaritsyn. Ngay sáu đó, Zhloba được Moskva giao nhiệm vụ phải “cứu lấy “Astrakhan. Tại đấy, tháng 12/1918 ông bị bắt (tham mưu trưởng của ông bị xử bắn) nhưng mau chóng được thả ra. Ông chỉ đạo việc thành lập chi đội du kích để hoạt động trong hậu phương Bạch vệ. Tháng 2 – 7/1920 tư lệnh Quân đoàn Kỵ binh số 1. Sau khi thất bại ở Bắc Tavria tháng 3/1920 ông bị cách chức và thay thế bằng Oka I. Gorodovikov. Tháng 3/1921 chỉ huy Sư đoàn số 18 vượt đèo núi để chiếm Batumi. Từ tháng 6/1922 làm công tác kinh tế, phụ trách công tác thương binh xã hội và chăm sóc trẻ em, đứng đầu «Кубрисострой» (Ủy ban kế hoạch vùng). Bị đàn áp, ngày 10/06/1938 bị xử bắn ở Krasnodar vì “là kẻ cầm đầu tổ chức nhóm phiến quân ở Kuban”. Phục hồi danh dự năm 1956.
Trong ảnh là Sư trưởng (начальник) Sư đoàn Xô viết Ukraina Zadneprov số 1 P.E. Dybenko và tư lệnh (командир) Lữ đoàn Zadneprov số 3 N.I. Makhno. Mùa xuân 1919.
Nestor Ivanovich Makhno (1888-1934). Sinh tại Gulyaipol, huyện Aleksandrovsky (nay là Zaporozhe) tỉnh Ekaterinoslav (nay là Dnepropetrovsk) trong gia đình nông dân. Từ 1906 tham gia phong trào cách mạng, vô chính phủ. Tham gia khủng bố và sung công “bọn tư sản”. Năm 1910 bị kết án xử bắn, chuyển thành tù chung thân. Ngồi trong nhà tù Butyrka, nhiễm bệnh lao. 1917 về quê, thành lập hội đồng cách mạng ở Gulyaipol. 1918 chiến đấu chống quân xâm lược Đức, quân của P.P. Skoropadsky, sau đó là quân Petlyura. Tháng 2/1919 liên minh với phía cộng sản để đánh quân A.I. Denikin. Tháng 6/1919 lữ đoàn của Makhno, mất hết vũ khí nặng, không nhận được lương thực và đạn dược, rút khỏi mặt trận. Theo lệnh của L.D. Trotsky loại “bố già” (батька) này khỏi vòng pháp luật. Mùa thu 1919 Makhno bị quân Bạch vệ bao vây ở vùng Uman, tuy nhiên thoát được và tiến hành đột kích vào hậu phương địch, trong 11 ngày di chuyển 600 km. Quân nổi loạn (повстанцев – tức quân Makhno) chiếm được Melitopol, Berdyansk và Maryupol, phá hủy tất cả kho tàng hậu cần và trang thiết bị cho cuộc tấn công sắp tới vào Moskva của quân A.I. Denikin. Mùa thu 1920 khi quân của P.N. Vrangel tấn công, quân Đỏ lại đề nghị liên minh với “bố già”. Bộ phận tinh nhuệ nhất của kỵ binh Makhno chấp nhận tham gia cuộc giải phóng Krym. Trong trận đánh gần Ishun và hẻm (balka) Karpov, đơn vị này đã đánh tan lực lượng xung kích của Bạch vệ là Quân đoàn Kỵ binh của I.G. Barbovich. Sau chiến thắng, các chỉ huy quân Makhno được triệu tập tới bộ chỉ huy Hồng quân và bị bắn chết, nhưng phần lớn lực lượng chiến đấu đã tập hợp lại và rút khỏi Krym. Họ vượt qua vùng Bắc Tavria và phá hủy gần như tất cả ở đó. “Bố già” chỉ đạo chiến tranh không khoan nhượng với “bọn liên minh” (soyuzniki), gây cho họ (tức Hồng quân) thiệt hại khổng lồ. Để chống lại ông, Hồng quân buộc phải ném vào một lực lượng lớn hơn dưới sự chỉ huy của M.V. Frunze. Nhưng chỉ sau khi áp dụng chính sách “Cộng sản thời chiến” và chính sách Tân Kinh tế (NEP) thì cuộc nổi loạn nông dân mới suy yếu đi. Mùa hè 1921 “bố già” cùng số quân còn lại (78 người) vượt qua biên giới Romania. Sống ở Ba Lan, Đức, và từ 1925 ở Paris. Làm thợ mộc (плотников) trong nhà hát, bệnh tật và nghèo đói. Ngày 6/7/1934 qua đời vì lao xương. Chôn trong hầm cốt (колумбарии) ở nghĩa trang Pere-Lachaise.
Ngoài đời có một sĩ quan Nga đặc biệt trở thành hình mẫu nhân vật trong hai tiểu thuyết Nga là “Con đường đau khổ” của A. Tolstoy và “Nghệ nhân và Margarita” của M. Bulgakov.
E.A. Shilovsky cùng các con trai Evgeny (1921-1957) và Sergey (1926-1977).
Evgeny Aleksandrovich Shilovsky (1889-1952). Sinh tại làng Savinka (nay thuộc tỉnh Ryazan). Gia đình quý tộc. Tham gia Thế Chiến I, đại úy. Được trao Thanh gươm Thánh Georgy. Tham gia Nội chiến – tham mưu trưởng TĐQ 16. Từ 1921 giảng dạy tại Học viện Quân sự Hồng quân. Từ 1928 tham mưu trưởng Quân khu Moskva. Từ 1931 tham mưu trưởng Học viện Không quân mang tên N.E. Zhukovsky. Từ 1/1937 là tham mưu trưởng Học viện Ban tham mưu, giáo sư, komdiv, trung tướng (1940). Qua đời vì đau tim tại văn phòng làm việc ngày 27/5/1952. Chôn tại nghĩa trang Novodevichy.
Đời tư: 1921 lấy E.S. Niurenberg-Neelova. 1932 ly dị. 1936 lấy M.A. Tolstaya (1911-1988), con gái nhà văn A.N. Tolstoy. 1937 sinh con gái Marina. Nguyên mẫu nhân vật Vadim Roshchin trong “Con đường đau khổ” của A.N. Tolstoy và người chồng đầu của Margarita trong “Master và Margarita” của M.A. Bulgakov.
Bảo tàng cung cấp nhiều thông tin thú vị về M.A. Bulgakov và các nhân vật của ông.
Elena Sergeevna Bulgkova (Niurenberg, Neelova, Shilovskaya) (1893-1970). Sinh tại Riga trong gia đình nhà báo. 1918 lập gia đình với sĩ quan Yu. M. Neelov, con trai của nghệ sĩ nổi tiếng và nhà vô chính phủ Mamont Dalsky. 1921 ly dị và lấy E.A. Shilovsky. Sinh hai con trai – Evgeny và Sergey. 1929 quen với M.A. Bulgakov. 1932 lấy ông, ly dị Shilovsky. Là nàng thơ, thư ký và người viết tiểu sử của nhà văn vĩ đại. Là nguyên mẫu nhân vật Margarita trong tiểu thuyết “Master và Margarita”. Tiểu thuyết được xuất bản lần đầu 1966, nhờ sự quên mình và trung thành
Mikhail Afanasevich Bulgakov (1891-1940). Sinh tại Kiev trong gia đình giáo sư Học viện thần học. Trong Thế Chiến I là bác sĩ tiền tuyến. 1918-1920 là bác sĩ trong quân đội Ukraina, sau đó trong trung đoàn cô-dắc Bạch vệ. Từ 1921 bắt đầu hoạt động sáng tạo văn học. 1926 ở МХАТ (Nhà hát nghệ thuật hàn lâm Moskva – Московский художественный акаде-
мический театр) biểu diễn vở kịch “Những ngày của anh em Turbin” mà I.V. Stalin đã xem tới 14 lần. 1929 làm quen với E.S. Shilovskaya, lấy bà năm 1932 (vợ thứ ba và cuối cùng của ông). Tác giả tiểu thuyết “Nghệ nhân và Margarita” (1929-1940), “Bạch vệ” (1922-1924), truyện ngắn “Trái tim chó” (1925), kịch “Trốn chạy” (1926-1928), “Ivan Vasilevich” (1936). 10/3/1940 qua đời vì bệnh thận di truyền.
Bia mộ M.A. Bulgakov trong nghĩa trang Novodevichy: E.S. Bulgakova năm 1940 phát hiện ra trong xưởng của nghĩa trang Novodevichy tấm đá bia mộ N.V. Gogol, bị vứt bỏ sau khi người ta dời văn hào vĩ đại sang nghĩa trang Donskoy. Bà mua lại nó và đặt nó lên mộ M.A. Bulgakov. Tại đó khắc dòng chữ “Thầy ơi, hãy che phủ tôi bằng cái áo gang thép của thầy”.
Bảo tàng cũng chứa thông tin về các tác phẩm nổi tiếng ở Nga nhưng chưa được dịch ra tiếng Việt như các truyện ngắn của nhà văn gốc Do Thái Isaak Babel (bị đàn áp và xử bắn năm 1940) hay về một tác phẩm từng được nhà văn Ngô Tất Tố dịch ra từ bán tiếng Pháp nhưng sớm bị quên lãng.
Yepifan Iovich Kovtyukh (1890-1938). Sinh tại làng Baturino (nay thuộc tỉnh Kherson). Gia đình nông dân. Tham gia Thế Chiến thứ I tại Phương diện quân Kavkaz, thượng úy, trọn bộ 4 huy chương chữ thập Thánh Georgy. Từ mùa xuân 1918 tham gia RKKA. Tháng 7-8/1918 lãnh đạo phòng thủ Ekaterinodar. Tháng 8-10/1918 chỉ huy chi đội dẫn đầu của Quân đoàn Taman, chiến đấu anh dũng để hợp nhất với Hồng quân Bắc Kavkaz. Từ tháng 10-12/1918 tư lệnh Quân đoàn Taman. Từ tháng 9/1919-3/1920 tham mưu trưởng Sư 48, sau đó là Sư 50. Tháng 8/1920 lãnh đạo chiến dịch chống cuộc đổ quân của tướng Ulagay vào Kuban. Được trao ba Huân chương Cờ Đỏ. Quân đoàn trưởng (Komkor) 1935. Là hình mẫu cho nhân vật chính trong tiểu thuyết “Cơn lũ thép” (Железный поток) của nhà văn Aleksandr Serafimovich (tiểu thuyết này được nhà văn Ngô Tất Tố dịch năm 1946 với tên “Suối Thép”). Bị đàn áp, bị xử bắn ngày 29/7/1938. Được phục hồi danh dự năm 1956.
- Bia tưởng niệm “Mishka Yaponchik” tại nơi ông bị giết.
2. Moishe-Yakov Volfovich Vinnitsky (biệt danh “Mishka Yaponchik” – Misa-người-Nhật) (1891-1919). Gia đình người đánh xe. Năm 1907 vì tội giết một hiến binh nên bị 12 năm tù. Trong tù làm quen với G.I. Kotovsky. Năm 1917 tập hợp băng đảng, trở thành một trong những tay anh chị nổi bật nhất giới tội phạm ở Odessa. Trong cuốn “Những truyện ngắn Odessa” I.E. Babel có viết về nhận vật tên “Benia Krik” phỏng theo ông. Trong thời kỳ nước ngoài can thiệp, ông làm quen với giới hoạt động bí mật phe Đỏ. Tháng 5/1919 thành lập “Trung đoàn Cách mạng Xô viết mang tên Lenin số 54” từ đám tội phạm, vô chính phủ và sinh viên. Trung đoàn nằm trong thành phần lữ đoàn của G.I. Kotovsky (thuộc Sư đoàn Bộ binh 45 của I.E. Yakir). Sau trận đánh đầu tiên sau khi chiếm được đoàn vận tải địch, đám tội phạm quyết định quay về Odessa. Ngày 4/08/1919 người chỉ huy bị Hồng quân xử bắn tại Voznesensk vì tội đào ngũ, cướp bóc và trộm cắp có vũ trang.
3. Isaak Emmanuilovich Babel (1894-1940). Sinh tại Odessa. 1917-1924 làm việc trong Cheka (Ủy ban Đặc biệt chống phản cách mạng và phá hoại toàn Nga). Tham gia Tập đoàn quân Kỵ binh số 1 làm phóng viên của tạp chí “Người Kỵ binh Đỏ”. Nổi tiếng vì là tác giả các tập truyện ngắn “Конармия” (về TĐQ Kỵ binh Hồng quân của S.M. Budionnyi) (1923-1925) và “Các truyện ngắn Odessa” (Одесские рассказы) về giới tội phạm Odessa (1921-1924). Bị đàn áp, bị bắn ngày 27/1/1940. Phục hồi danh dự năm 1954.
Nikolai Aleksandrovich Shchors (1895-1919). Sinh tại Snovsk tỉnh Chernigov trong gia đình thợ máy đường sắt. Belorus. Tốt nghiệp học viện quân y. Tham gia Thế Chiến thứ I, thiếu úy. Mùa xuân 1918 dẫn dắt chi đội du kích chống quân can thiệp nước ngoài. Mùa thu 1918 thành lập Trung đoàn mang tên I. Bogun, sau đó chỉ huy lữ đoàn, từ tháng 3/1919 – chỉ huy Sư đoàn Xô viết Ukraina số 1 (sau là Sư đoàn Bộ binh 44) thuộc TĐQ 12. Xuất sắc trong chiến đấu chống quân Petlyura và Ba Lan. Ngày 30/8/1919 trong trận đánh gần Korosten, ông qua đời vì trúng đạn vào đầu. Do sợ quân Petlyura tới gần, vợ ông là Fruma Efimovna Khaikina đưa thi hài ông về chôn ở quê bà là Samara. Ngày 14/9/1919 Shchors được chôn ở Samara. Năm 1926 nghĩa trang này đóng cửa, và trong thời gian này bia mộ bị thất lạc. 1936-1939, sau khi bài hát về ông trở nên nổi tiếng và bộ phim “Shchors” ra đời, NKVD cho tìm bia mộ nhưng không tìm ra. Năm 1949, lãnh đạo Ukraina đề nghị Hội đồng Bộ trưởng RFSFR (CHXHCN LB Nga) cho tìm kiếm người anh hùng nhân kỷ niệm 30 năm ông hy sinh. Theo ký ức của Khaikina và những người tham gia, người ta phát hiện ra mộ ông, tiến hành khai quật và khám nghiệm. Khám nghiệm thi hài Shchors cho thấy, sư đoàn trưởng chết vì đạn súng lục ổ quay hoặc súng trường, trúng vào phía sau bên phải. Có thể do Shchors quay đầu lại, hoặc do đạn bật văng phải. Việc xác định khoảng cách đạn bắn đã không thành công. Các sử gia thiên về khả năng Shchors bị giết bởi P.S. Tankhil-Tankhilevich, thanh tra của Hội đồng Quân sự Cách mạng TĐQ 12, theo lệnh của ủy viên Hội đồng Quân sự Cách mạng TĐQ 12 là P.I. Aralov với sự cho phép của L.D. Trotsky, người nghi ngờ vị sư đoàn trưởng là phản quốc, phạm tội và có quan điểm thân kulak, dân tộc chủ nghĩa và bất tuân lệnh.
Sau Nội chiến, tên tuổi Shchors xuất hiện trong nhiều phim truyện, phim tài liệu, tiểu thuyết Xô viết. Năm 1939, đạo diễn Xô viết nổi tiếng Aleksandr Dovzhenko đã làm bộ phim “Shchors” đoạt Giải thưởng Quốc gia Liên Xô năm 1941. Nhạc sĩ Matvey Blanter (tác giả bài hát “Katyusha”) là tác giả bài hát Xô viết nổi tiếng “Bài hát về Shchors”.
- Matvey Isaakovich Blanter (1903-1990). Sinh tại thị trấn Pochep tỉnh Bryansk trong gia đình thương gia. Viết nhạc các bài “Bài hát về Shchors – Песня о Щорсе” (1936), “Katyusha – Катюша” (1938), “Moia liubimaya – Моя любимая” (1942), “Trong khu rừng tiền tuyến – ” (1943), “Cô gái cô-dắc mắt huyền” (1966)
- Mikhail Semenovich Golodnyi (Epshtein) (1903-1949). Sinh tại Bakhmut (Artemovsk) tỉnh Donetsk trong gia đình công nhân. Tham gia Nội chiến. Tác giả phần lời một số bài hát nổi tiếng của Blanter. Trong Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại là phóng viên tạp chí chiến trường. Qua đời 20/1/1949 do tai nạn ô tô.
clip bài “Cô gái cô-dắc mắt huyền”:
https://www.youtube.com/watch?v=3scgW-aghr4
Chuyển từ điện ảnh Liên Xô qua điện ảnh Nga đương đại, năm 2008 ở Nga sản xuất bộ phim “Admiral” về đô đốc Kolchak. Thông tin về Kolchak và những người thân của ông được Bảo tảng cung cấp khá chi tiết.
Đô đốc A.V. Kolchak cùng A.V. Timiriova và các bạn của bà. Phía sau là chánh tùy viên quân sự Anh ở Nga, tướng Noks. Omsk, 1919.
Aleksandr Vasilevich Kolchak (1873-1920). Gia đình sĩ quan. Đô đốc (1918). Nhà quân sự, nhà khoa học, nhà nghiên cứu Bắc Cực. Từ 1916 tư lệnh Hạm đội Hắc Hải. 1917 đại sứ công tác tại Mỹ. 10/1918 tổ chức chế độ độc tài quân sự ở Sibiri với tên gọi “Chính phủ Lâm thời Nga”. Sau khi thất bại bị quân Bolshevik Tiệp bắt. Bị bắn gần Irkutsk ngày 7/2/1920
Anna Vasilevna Timiriova (Safonova) (1893-1975). Sinh tại Kislovodsk trong gia đình nhạc trưởng Vasily Ilyich Safonov. Từ 1911 lấy sĩ quan hải quân Sergey Nikolayevich Timiriov. 1914 sinh con trai Vladimir. Từ cuối 1918 ly hôn. 1918-1920 là vợ ngoài giá thú của A.V. Kolchak, làm phiên dịch trong Chính phủ Lâm thời. Tình nguyện chịu bị bắt chung với đô đốc tháng 1/1920. Được thả theo lệnh ân xá tháng 10/1920. 5/1921 bị bắt lại, được thả mùa hè 1922. Lấy kỹ sư xây dựng V.K. Kniper. 1925 đi đày tới Tarus trong 3 năm. Năm 1935 lại bị đi đày. Năm 1938 con trai bà là Vladimir bị bắt và bị bắn. Năm 1939 bà bị kết án 8 năm tù trong trại lao động Karagand. 1945 được thả nhưng không được về Moskva, sống ở thị trấn Zavidovo. 1949 lại bị bắt và bị đày đến Yeniseisk. Được thả 1956, sống ở Rybinsk. Phục hồi danh dự 1960, về Moskva. Cố vấn về các nghi thức quý tộc cho bộ phim “Chiến tranh và Hòa bình” (đạo diễn Sergey Bondarchuk thực hiện năm 1965). Qua đời năm 1975, chôn tại nghĩa trang Vaganka. Tổng thời gian bị tù, đi trại và đi đày là 25 năm. Hình ảnh về Timiriova đã được đưa vào bộ phim “Admiral” (2008).
Boris Appolinarevich Gerasimov (1896-1970). Sinh tại Ekaterinburg. Cha là kỹ sư – qua đời khi đang tham gia đoàn thám hiểm địa lý. Tốt nghiệp Học viện phổ thông và quân sự (реальное и военное училице). Tham gia Thế Chiến I, chỉ huy trinh sát bộ binh, đại úy. Hè 1918 thành lập đại đội lấy từ sinh viên, nhập vào Trung đoàn Xạ thủ Sơn cước Ekaterinburg số 25. Nổi bật trong trận đánh chiếm Nizhny Tagil. Đô đốc Kolchak cho Trung đoàn mang tên mình (đơn vị duy nhất được vinh dự này). Mùa xuân 1919 khi chiếm Buguruslan được phong đại tá, được trao Huân chương Thánh Georgy hạng 4. Trong cuộc rút lui mùa đông 1920 bị nhiễm thương hàn và rối loạn thần kinh ở Irkutsk, vì thế không bị quân Đỏ bắn chết. Vợ là ca sĩ opera, đưa ông ra khỏi viện tâm thần, thu xếp được làm soloist trong Nhà hát Opera Irkutsk. 1921 bị Cheka bắt, nhưng thả ra sau nửa năm. 1923 được mời hát ở Phòng thu âm opera Moskva mang tên Stanislavsky. Đầu thập niên 1930s vợ ông đi lấy người khác. 1932 lấy vợ lần nữa, sinh được hai con. Có thể do liên tục đổi chỗ ở và nơi làm việc mà ông thoát khỏi thời kỳ Đàn áp. Trong thời gian chiến tranh sống cùng gia đình ở Uriupinsk. 1944 đến làm ở Nhà hát Hài kịch Stalingrad. Qua đời 1970. Em trai – Sergey Appolinarevich Gerasimov là đạo diễn điện ảnh xuất sắc của Liên Xô.
A.V. Timiriova và con trai Vladimir.
Vladimir Sergeevich Timiriov (1914-1938). Sinh tại Petrograd. Cha là S.N. Timiriov sĩ quan liên lạc của Ban chỉ huy Hạm đội Baltic. Mẹ là A.V. Timiriova. Lớn lên cùng bà ở Kislovodsk. Mẹ đến giữa các vụ bắt bớ. Học ở Học viện Kiến trúc Moskva. Là họa sĩ tài năng. 1934 thực hiện cuộc triển lãm màu nước đầu tiên. 1935 có triển lãm “Biển Caspi”. Bị bắt 22/3/1938. Bị tội có thư từ với cha ruột lưu vong, là “con dượng” của A.V. Kolchak, và là gián điệp của tình báo Đức – đi vẽ tranh ở Caspi để do thám công nghiệp đánh cá. 17/5/1938 bị bắn ở pháp trường Butovka.
Lướt qua Bảo tàng, những có những hình ảnh, chú thích gợi nhớ về một thời.
Chính ủy đơn vị quân y của Sư đoàn Thép số 24, L. Dashevskaya, và em trai Piotr. Dòng chữ: “Gửi em trai Petrukha yêu quý, để kỷ niệm thời gian chúng ta cùng làm việc và chiến đấu ở Sư đoàn Thép. Em và chị đã cùng sống qua thời thơ ấu khốn khổ. Nhưng tuổi thanh niên của chúng ta thật tươi đẹp. Ngọn gió hạnh phúc CMT10 đã đưa chúng ta cùng Sư đoàn Thép tới thảo nguyên Orenburg. Chẳng phải em đã tìm thấy, trong cơn bão lửa trên thảo nguyên Orenburg những vuốt ve âu yếm của mẹ hiền của chị em mình hay sao. Lika – Petka. Orenburg, 2/1919”
Những câu từ rất quen thuộc trong bút giấy một thời.
1. Mũ lông papakha của G.A. Gorbachiov.
2. Đồng hồ quả quýt của G.A. Gorbachiov. Mặt lưng có dòng chữ: “Средневолжский КИК tặng chiến sĩ Cách Mạng, đồng chí Gorbachiov G.A. chỉ huy chi đội Chapaev. 1932”.
Bảo tàng nhận từ công dân T.A. Stenur năm 1954.
Средневолжский КИК – Ban kiểm soát công ty nước ngoài miền trung Volga.
3. Bao da đựng súng ngắn kiểu Nagan 1895. Của Vasily Ivanovich Chapaev Sư trưởng Sư đoàn Bộ binh 25.
4. Thanh gươm kiểu Kavkaz của V.I. Chapaev.
Trên chuôi có dấu của nhà máy “Medunov” và của hoàng đế Nikolai II.
Mùa hè 1919 được Chapaev tặng cho kombrig (lữ đoàn trưởng) I.S. Kutiakov vì chiến đấu anh dũng ở Buguruslan. Khi komkor (quân đoàn trưởng) Kutiakov bị bắt năm 1937, thanh gươm được một nhân viên NKVD giữ. Theo yêu cầu của Bảo tàng và lệnh giải quyết của chủ tịch KGB I.A. Serov, thanh gươm được tìm thấy năm 1953 tại thành phố Samarkand.
5. Áo lông burka của V.I. Chapaev.
Sau khi Chapaev mất, đồ đạc của ông được trao lại cho I.S. Kutiakov. Sau khi quân đoàn trường (komkor) Kutiakov bị bắt 1937 đồ đạc của ông trao lại cho P.V. Panteleev. Bảo tàng nhận về 1955.
6. Thanh gươm katana, cuối tk 19 – đầu tk 20, Nhật Bản. Của chỉ huy Trung đoàn Ivanovo-Voznesensk thuộc Sư Bộ binh 25 Vladimir Mikhailovich Mukhin. Quà của tư lệnh Lực lượng Hồng quân Ukraina và Krym M.V. Frunze.
Vladimir Mikhailovich Mukhin (1897-1957). Trung đoàn trưởng Trung đoàn Ivanovo-Voznesensk 220 Sư đoàn Bộ binh 25. Sau là lữ đoàn trưởng, tư lệnh quân quản vùng tăng cường. 10/1937 bị bắt. 10/1939 được thả. Giảng dạy tại Học viện mang tên Frunze, thiếu tướng.
- Dmitri Andreevich Furmanov (1891-1926). Sinh tại tỉnh Kostroma trong gia đình nông dân. Tốt nghiệp trung học và toàn khóa Khoa Triết Đại học Moskva. Tham gia Thế Chiến I, y tá, chuẩn úy. 1917 vào Đảng Eser, sau đó vào phe vô chính phủ, mùa hè 1918 vào Đảng CS LX. Làm việc ở Ivanovo-Voznesensk. Đầu 1919, cùng với M.V. Frunze, chuyển tới PDQ Đông. Chính ủy Sư Bộ binh 25. 30/6/1919 có cãi vã với V.I. Chapaev, chuyển sang làm phó trưởng ban chính trị PDQ Turkestan. Từ 8/1920 chính ủy Chi đội đổ bộ ở Kuban, được trao Huân chương Cờ Đỏ. 1923 viết tiểu thuyết “Chapaev”. Qua đời vì viêm màng não 1926.
Anna Nikitichna Furmanova (Steshenko) (1899-1941). Tham gia Thế Chiến I, dì phước trong đoàn tàu bệnh xá, tại đó quen với người sau là chồng mình D.A. Furmanov. Mùa xuân 1919 đi cùng chồng ra mặt trận, tại đó làm phó ban tuyên truyền văn hóa Xô viết Sư Bộ binh 25. 1926 sau khi Furmanov chết, lấy anh hùng Nội chiến người Hungary là Laiosha Gavro (bị bắn 1938). Qua đời 1941 vì ung thư. - Huân chương “Cờ Đỏ” CHXHCN LB Nga của D.A. Furmanov. Được vợ ông trao lại Bảo tàng năm 1928.
- Súng ngắn 6,35 mm kiểu Walter 1920. Germany. HĐQSCM tặng thưởng trưởng ban chính trị Sư đoàn Bộ binh 25 Anna Nikitichna Furmanova.
Pegaleya Efimovna Kameshkertseva (giữa) và các con của V.I. Chapaev: Aleksandr (trái), Arkady (đứng), Klavdia (phải). Ngồi bên trái là con gái cả Vera của V.I. Chapaev.
Ngồi giữa là chính ủy lữ đoàn của Sư đoàn Chapaev, Gavriil Afanasevich Gorbachiov (1890-1939). Nuôi các con của V.I. Chapaev sau khi ông chết. Bên trái là Aleksandr Chapaev (1910-1985), tham gia Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại, thiếu tướng pháo binh. Bên phải là Arkady Chapaev (1914-1939), phi công, hy sinh khi bay thử nghiệm. Bên phải là Klavdia Chapaev (1912-1999), công tác Đảng. Ngồi trên tay Gorbachiov là Artur con trai Klavdia. Đứng sau là người nhà của Gorbachiov và A.D. Mikhailov chiến sĩ Sư đoàn Chapaev.
Nghệ sĩ Nhân dân CHXHCNLB Nga Illarion Nikolaevich Pevtsov (1879-1934) trong vai đại tá Borodin trong phim “Chapaev”.
Đạo diễn phim “Chapapev” (1934) “anh em Vasiliev”
– Georgy Nikolaevich Vasiliev (1899-1946).
– Sergey Nikolaevich Vasiliev (1900-1959).
Boris Andreevich Babochkin (1904-1975) trong vai V.I. Chapaev. Sinh tại Saratov trong gia đình nhân viên đường sắt. 15 tuổi tình nguyện gia nhập Hồng quân. Chiến đấu tại ban chính trị TĐQ 4. Với vai Chapaev được phong danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân CHXHCNLB Nga (1935). 1941 được nhận Giải thưởng Stalin hạng 1.
Ivan Andreevich Shestopalov. Trưởng ban OGPU huyện Garm (Гармский округ thuộc Tadjikistan). 1931 đóng giả làm Ibragim-bek, chỉ huy phòng thủ pháo đài ở thị xã huyện lị Dzhirgatal, huyện Garm. Pháo đài bị bao vây bởi quân phỉ Basmachi của tên Agzam Khodiev, trước là cảnh sát trưởng Garm đã bị kết án lập băng nhóm cướp bóc. Khi tìm cách thoát khỏi pháo đài đến tiệm làm bánh để lấy bột mì cho trẻ em và thương binh, Shestopalov đã giết chết tên xạ thủ bắn tỉa. Để giúp đỡ những người bị bao vây, người ta gửi tới hai kỵ đội và một chiếc máy bay, tấn công bọn Basmachi bằng hỏa lực súng máy và lựu đạn. Nhóm phỉ tan rã, thủ lĩnh chết. Các chi tiết đó đã được đưa vào tiểu thuyết “Dzhura” (1953) của Georgii Tushkan.
Bộ phim 6 tập làm từ tiểu thuyết “Dzhura”. Trong phim “Dzhura” mô tả cuộc tấn công của Liên Xô vào Tân Cương, có sự sát cánh của các đơn vị Bạch vệ Nga bên cạnh các đơn vị OGPU Liên Xô.
Demyan Bedny (Efim Alekseevich Pridvorov): 1883-1945. Sinh tại làng Gubovka (nay thuộc tỉnh Kirovograd). Gia đình nông dân. Tham gia Thế Chiến I, Huy chương “Can Đảm”. Trong Nội chiến làm công tác tuyên truyền kích động (agitatsion) trong Hồng quân. 1923 là người đầu tiên trong số các nhà văn được trao Huân chương Cờ Đỏ. 1938 bị tước Đảng tịch và gạch khỏi Hội Nhà văn vì “mục ruỗng về mặt đạo đức”. 1956 được khôi phục Đảng tịch sau khi mất.
- Kirill Prokofievich Orlovsky (1895-1968). Sinh tại làng Kyshkovichi (nay thuộc tỉnh Mogiliov). Tham gia Nội chiến, du kích. 1921-1925 cầm đầu chi đội du kích lớn ở Poles, tiêu diệt hơn 100 hiến binh (жандарм) và kẻ ủng hộ Ba Lan. Tham gia Nội chiến ở TBN. Từ 3/1941 đến 6/1942 đi bảo vệ tuyến đường bí mật “Z” ở Tân Cương. 1942-1943 chỉ huy chi đội “Sokoly” (Những chú chim ưng) ở tỉnh Baranovichi. Trong một chiến dịch của chi đội, ông bị thương nặng, tay phải bị cưa cụt tới vai còn bàn tay trái bị cụt 4 ngón. Anh hùng Liên Xô (1943). Trung tá An ninh Quốc gia. Từ 1945 chủ tịch nông trang tập thể “Рассвет” (Bình Minh) ở tỉnh Mogiliov – nông trang triệu phú đầu tiên sau chiến tranh ở Liên Xô. Anh hùng Lao động XHCN (1958). Là hình mẫu cho vai chính trong phim điện ảnh “Chủ tịch” (Председатель).
- Orlovsky K.P. thập niên 1960s.
- M.A. Ulianov trong vai chủ tịch.
Mikhail Nikiforovich Akhutin (1898-1948). Sinh tại Cherepovets. Tiến sĩ y khoa, giáo sư, một trong những người sáng lập nền phẫu thuật dã chiến quân sự Xô viết. Bác sĩ giải phẫu trưởng trong trận hồ Khasan, tại cuộc xung đột ở Khalkhin-Gol và trong Chiến tranh Xô-Phần (TĐQ 8). Là hình mẫu đời thật của nhân vật bác sĩ quân y Apukhtin trong tiểu thuyết “Các đồng chí trong vòng vây” (Товарищи по оружию) của K. Simonov. 1940-1941 giám đốc Học viện Quân y mang tên S.M. Kirov. Trong Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại là bác sĩ giải phẫu trưởng tại các PDQ Bryansk, PDQ Pribaltic 2 và PDQ Ukraina 1.
Từ 1945 là trung tướng quân y, phó Bác sĩ giải phẫu trưởng của Hồng quân.
Tiểu thuyết “Các đồng chí trong vòng vây” của Konstantin Mikhailovich Simonov viết về cuộc xung đột vũ trang Nga-Nhật năm 1939 và riêng về các sự kiện tại Khalkhin-Gol. Trong các trận đánh ác liệt với quân phiệt Nhật Bản, tài năng lãnh đạo quân sự của G.K. Zhukov đã thể hiện, những đặc điểm được nhà văn thể hiện trong hình ảnh của một chỉ huy. Thoạt đầu, tiểu thuyết này được tác giả dự định là phần đầu tiên của tiểu thuyết bộ ba về cuộc chiến. Chính tác phẩm này lần đầu tiên giới thiệu cho người đọc một số nhân vật trong bộ ba tiểu thuyết “Những người sống và những người chết” về Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại.
Trên đây là một số lượm lặt trên đường, xin được chia sẻ./.