Chân dung kẻ sĩ Nguyễn Du Qua bài “Thái Bình mại ca giả”

Tượng_đài_cụ_Nguyễn_Du.jpg

Lại Quảng Nam

Đại Nam chính biên liệt truyện ghi:

1-“Du là người ngạo nghễ tự phụ, mà bề ngoài tỏ ra kính cẩn, mỗi khi vào yết kiến sợ hãi như không nói được. Vua thường bảo rằng: “Nhà nước dùng người, chỉ cần người hiền, vốn không phân biệt nam bắc, ngươi cùng với Ngô Vị đã được đãi hậu, làm quan đến á khanh, nên biết thì phải nói, há nên do dự rụt rè chỉ cốt dạ vâng làm gì”.

2-“Đến khi bệnh kịch, không chịu uống thuốc, sai người nhà mở duỗi chân tay, nói đã lạnh cả, Du bảo rằng “tốt”, nói xong thì chết, không nói một câu nào đến việc sau khi chết”.

Phần I

Nguyễn Du trong vai trò người cầm đầu đoàn sứ giả nước Việt gồm 27 người đi sang Trung Quốc vào đầu thế kỷ thứ 19 đã viết bài này với một chủ đề nhất quán về đất nước và con người Trung Hoa. Đề tài này bàng bạc suốt trong danh tác chữ Hán, tập Bắc Hành Tạp Lục của ông. Nguyễn Du kiên trì tỏ thái độ không mấy hài lòng với tân triều bằng một thái độ tích cực phản đối về chính sách đội Hán lên đầu một cách tự nguyện của Gia Long. Bỏ chữ nôm, bỏ luật Hồng Đức của các triều đại trước, Gia long thật sự đã đưa đất nước này vào vòng nô lệ văn hóa mới. Chắc chắn sự lầm than và khốn nạn hiện nay và về mãi về sau của đất nước ta có sự góp phần nào đó bắt đầu từ tội ác đội Hán này. Ngày nào mà đất nước này còn lãnh hậu quả thì ngày ấy Gia Long còn bị lên án dài dài.

Khởi đầu tập Bắc Hành Tạp Lục là bài Long thành cầm giả ca, Nguyễn Du qua nhân vật Trang Tịch bày tỏ sự đau khổ khi kẻ sĩ bị mất nước, mất luôn tiếng nói của dân tộc mình, rồi tiếp đến là nhân vật Lý Thế Dân trong bài này. “Thái Bình mại ca giả”(2) gồm những lời tâm huyết của một nho sĩ nước Việt rằng “đừng nghe những gì mà thiên hạ chỉ dạy về Trung Hoa mà hãy nhìn tận mắt những gì mà tại đó”. Nguyễn Du viết “Chỉ đạo Trung Hoa tận ôn bão, Trung Hoa diệc hữu như thử nhân”, tạm dịch ý thơ, “Nghe thiên hạ chỉ dạy rằng “Trung Hoa no ấm cực kỳ, Trung Hoa cũng có người kỳ như ri”. Người kỳ như ri là ai vậy?. Đó là câu chuyện về nhân vật lịch sử có tên là Lý Thế Dân, người có công lớn nhất trong việc xây dựng đế chế Đại Đường Trung hoa ngày trước. Lý Thế Dân ra tay giết anh và em ruột của mình ngay khi vua cha của ông còn đang còn trị vì. Bài thơ “Thái Bình mại ca giả” tô đậm nét như một lời cảnh báo về văn hóa Trung Hoa cho tân triều.

Nguyễn Du trong vai trò một người khách tình cờ ngồi nhìn ra sông nước trên một thuyền tửu lâu neo đậu trên bờ sông thuộc thành phố cảng Thái Bình bên Tàu. Ông thấy gì?. Ông thấy một người hát rong tức ông mù bậc thầy (Thầy mù, cổ sư ) trong bài thơ dưới đây. Ông thày mù đã vắt sức ra đàn hát trong suốt gần hai tiếng đồng hồ cho mươi thực khách cùng nghe trên một bàn khác cùng thuyền. Việc xảy ra vào một đêm trăng sáng trên dòng sông có gió hiu hiu thổi. Nguyễn Du tiên sinh đã kể lại cho chúng ta nghe qua bài “Thái Bình mại ca giả” với tận đáy tâm tư mình. Một cây bút quá đổi thiên tài. Trong bài, ông đã kịp chèn câu “Phàm nhân nguyện tử bất nguyện bần, 凡人愿死不愿貧, tạm dịch thơ, Sống chi quá khổ chết thì sướng hơn hay Khổ quá cha, ước chết, _xong đời!, hay nói theo khẩu ngữ Quảng Nam, quê tôi, “Sống đà quá khổ chết thà sướng nu!”. Hàm ý nhắc nhở ông thầy mù hát rong về một thái độ sống. Đây không phải là lời gợi ý suông, nói là làm, kẻ sĩ Nguyễn Du là vậy. Thực tế cho thấy, cho dù Gia long đã thăng chức cho ông nhanh hơn nhiều người trong triều nhưng “Sống chi quá khổ chết thì sướng hơn” như một câu kinh nhật tụng cho mình và dân tộc mình, thế nên không có gì bất ngờ gặp lúc lâm trọng bệnh ông không màng uống thuốc và đã lặng lẽ mĩm cười đi vào cõi vĩnh hằng, cho dù chức vị trưởng đoàn đi sứ lần thứ hai đã lại dành cho ông. Ông đã quá chán cảnh làm sứ thần của một đất nước đang lấy chính sách đội Hán lên đầu, nay phải sang Hán để xin xỏ Hán ban cho quốc hiệu. Ô nhục!. Đại việt quốc hiệu ngàn năm không vinh quang sao mà còn phải đổi?.” Nghĩ mình phương diện quốc gia”(K), nay mình không còn được vinh quang như thời anh ruột mình (Nguyễn Nễ) hay anh vợ mình (Đoàn Nguyên Tuấn) làm trưởng đoàn đi sứ cho vua Quang Trung, sau chiến thắng Đống Đa làm nhà Thanh co vòi,chắn chắn tiên sinh đã được nghe kể lại. “Sống chi khổ nhục chết thì khôn hơn!”. Thái độ của một Kẻ sĩ lớn là vậy.

Phá thông lệ xưa nay về trình tự khi giới thiệu một bài cổ văn, laiquangnam xin giới thiệu bản dịch thơ trước và ước mong rằng qua đó muốn các bạn nhín chút thì giờ đọc lướt qua, cho dù các bạn thấy hài lòng hay không hài lòng với bản dịch, hoặc vì khó hiểu do chữ Nho mà Nguyễn Du dùng mà laiquangnam còn lúng túng, hay vì một lý do thầm kín nào đó, thì đó cũng là một động lực quá tốt khiến bạn hiền xoắn tay áo dịch thử. Như viên ngọc bị phủi bụi lâu ngày, một bản dịch thơ tiền nhân ta cho dù có dở đi chăng nữa, âu đó cũng là một giòng nước sạch làm trôi đi vết bẩn bám lâu ngày trên bề mặt một viên ngọc quý. Viên ngọc này sẽ mãi mãi long lanh, di sản văn học Việt nam ngày thêm giàu có. Cháu con ta còn có chút gì để lận lưng mà ngảnh mặt nhìn thiên hạ. Thế kỷ 21 rồi. Chậm quá rồi.

Tôi đảm bảo với bạn rằng với bài “Thái Bình mại ca giả” này, thơ Nguyễn Du không những mênh mông về chữ nghĩa, về bố cục tinh tế và mà còn rất lung linh huê dạng về ý tưởng trong dòng thơ tự sự sở trường của ông. Với tôi, nó hoàn toàn hơn, 100 lần hơn hẳn, đa phần các bản thơ Đường của Tàu tào lao mà tôi đã từng đọc đó đây qua sách vở đã xuất bản hay trên mạng internet trong hơn mươi năm qua. Cho dù là một dân tài tử trong cánh văn chương, laiquangnam cũng xin góp một bản dịch gọi là “khởi động “.

I-Bản dịch thơ quốc âm

“Thái Bình mại ca giả” 
(tạm dịch tiêu đề, Người hát rong tại thành phố Thái Bình, Trung Quốc )

1-Thái Bình có Thầy Mù, áo bố, 
Bé nắm tay rão rão mé sông . 
Ăn xin thành ngoại là ông!, 
Hát rong đổi chác, sáng cung lửa nồi.

5-Thuyền kia gọi, _có người mê hát, 
Dắt tận thuyền, cửa sổ mé trên. 
Trong khoang?, _” thuyền chửa lên đèn , 
Cơm thừa, canh mứa giăng giăng tứ bề.”

9-Mò mẫm mãi tìm về một góc, 
Đôi ba lần tay chắp cám ơn. 
So dây khớp giọng vuông tròn, 
Tay đàn, miệng hát xác hồn nhập vai.

13-Tiếng “người lạ”, nhíu mày, chả hiểu, 
Lanh lãnh hàn thanh điệu,_kỳ thay?, 
Nhà thuyền tinh ý thảo ngay, 
“_Thế Dân đòn độc, bằm thây Kiến Thành”

17-Chừng mươi người vây quanh nín lặng, 
Gió sông trăng vằng vặc hiu hiu. 
Trắng xóa mép, tay ỉu xìu, 
Xếp đàn, đứng dậy,_ bây nhiêu, thưa rồi.

21-Vắt sức chơi trống canh trên dưới, 
_Dăm sáu đồng! đếm vội, xếp phiền. 
Nâng tay, bé dẫn ra thuyền, 
Ông còn quay lại chúc liền ,_phước đa!

25-Nhác cám cảnh lòng Ta chua xót, 
Khổ quá cha, ước chết, _xong đời!. 
_Trung Hoa, cực ấm!, _khoa lời, 
Trung Hoa người ngợm ngời ngời, thế đây!

29-Huynh không thấy! _ sớm cung thuyền sứ, 
_Thuyền là thuyền!, ăm ắp thức ngon, 
Hành nhân dùng bữa, căng tròn, 
Cơm dư, mồi dở toòng..toòng!,_ đổ sông!.

(Lại Quảng Nam)

II –Bài học lịch sử qua một kinh nghiệm sống, Nguyễn Du ngầm nhắc…

“Sự biến Huyền vũ môn”; Câu chuyện Lý Thế Dân hạ độc thủ tàn sát anh và em ruột của mình. Nguyễn Du kín đáo chèn một sự thật lịch sử Trung Quốc vào bản đàn, từ câu 13 đến câu 18.

13-Tiếng “người lạ”, nhíu mày, chả hiểu, 
Lanh lãnh hàn thanh điệu,_kỳ thay?. 
Nhà thuyền tinh ý thảo ngay, 
“_Thế Dân đòn độc, bằm thây Kiến Thành”

17-Chừng mươi người vây quanh nín lặng, 
Gió sông trăng vằng vặc… hiu hiu…*(1)

© 16-此曲世民與建成, 16-Thử khúc Thế Dân dữ Kiến Thành, “_Thế Dân đòn độc, bằm thây Kiến Thành”

Ông thầy mù trong vai người hát rong đã vừa đánh đàn vừa hát tường thuật trong chừng một trống canh (tức chừng 120 phút), trong đó có nhắc hai nhân vật Thế Dân và Kiến Thành. Thế Dân là ai? và Kiến Thành là ai?. Nội dung bản đàn?.

Lịch sử Tàu viết về “Sự biến Huyền vũ môn” như sau, *sđd (9,10) ,

Họ là hai anh em ruột. Đều là con của Lý Uyên, người lập ra nhà Đường bên Trung hoa. Kiến Thành là con cả, Thế Dân là con thứ. Nguyên Lý Uyên là một viên quan thời nhà Tùy. Ông được giao cai quản địa phận thuộc tỉnh Sơn Tây ngày nay. Nhà Tùy mang quân xâm lược Cao ly một cách dai dẳng nhưng họ đã bị người Cao ly phản công quyết liệt dần họ tơi tả. Nhà Tùy tổn thất vô cùng nghiêm trọng, họ đã thấm đòn “Cao ly sâm”, họ thật sự kiệt quệ. Lý Thế Dân kịp khôn nhận ra cơ hội ngàn năm một thủa, bèn khuyên cha mình nên nhân cơ hội này tiến hành cướp ngôi ngay (ngày nay gọi là đảo chính). Họ đã thành công. Lý Uyên lập nên nhà Đường.

Sau khi lên ngôi, Lý Uyên trở thành Đường Cao Tổ. Ông phong cho người con trưởng nam là Lý Kiến Thành làm thái tử, người sẽ giữ ngai vàng sau này, người con thứ tên là Lý Thế Dân làm Tần Vương, và con út Lý Nguyên Cát làm Tề Vương.

Trong khi các anh mình được phân công cầm quân đánh giặc thì người con trai út cưng Lý Nguyên Cát hiền lành được sống tại kinh thành cùng với vua cha. Ông “cù “được người đẹp nổi tiếng sắc nước hương trời tại Kinh Thành Trường An có tên là Dương Khuê My và sau cùng đã rước nàng về làm cung Tề vương. Lý Thế Dân sau mấy lần chạm mặt em dâu y rất thèm muốn, mong sẽ ngày nào đó mình thực sự ôm ấp cô ta, nàng phải là của riêng chỉ dành cho mình. Vua cha Lý Uyên đâu hay lòng dạ ông con này, với ông sự vun bồi uy quyền cho người con trưởng, nay đang là thái tử là nỗi lo chính. Chính ông dắn dắt tạo điều kiện cho Kiến Thành tham gia chiến dịch và chỉ huy các trận đánh lớn. Thế Dân so bì, là tướng tài quá nhiều tham vọng, vả lại dưới tay có nhiều danh tướng dày dặn trận mạc như Tần Thúc Bảo và Uất Trì Cung, Trình giảo Kim khiến ông càng nung nấu chiếm đoạt ngôi vua. Ông luôn nghĩ đến công lao mình hãn mã của mình mà quên đi các chiến công của cha mình, anh mình. Ông luôn nghĩ, rằng lý ra mình phải làm vua mới đúng.

Nghi ngờ điều biến xảy ra, vào những năm 625, 626, Lý Uyên quyết định cắt giảm quyền lực của Lý Thế Dân, thuyên chuyển Trình giảo Kim, củng cố thêm sức mạnh cho Thái tử, người con trưởng nam thương yêu của mình; ông nghĩ, phải như thế thì mới mong sau này khi chính thức lên ngôi, Kiến Thành đủ oai phong để trị vì thiên hạ và sai khiến các em; ông đã chậm tay, lầm rồi!. Lý Thế Dân đâu chịu yên phận với tước Tần vương. Ông quyết định dành lấy ngai vàng một cách gấp rút. Nghĩ nát nước không một kế hoạch nào khả thi. Lý Thế Dân có người anh vợ tên là Trưởng Tôn Vô Kỵ. Ông anh này rất muốn em gái mình sớm trở thành mẫu nghi thiên hạ. Ông hiến cho Thế Dân một kế rất độc. Ông tâm tình với Thế Dân rằng:” Cha em đồn sức lo cho anh cả và rất cưng chú út; Em khó mong đạt mộng ước, càng để lâu càng khó cho em; nay binh quyền lớn lại ở trong tay Kiến Thành; làm sao mà em lên ngôi thiên tử cho đặng!”. Nhanh tay lên, người anh vợ lại dạy thêm rằng, Cha em hiện đang có hai người thiếp yêu một là Doãn Đức phi và hai là Trương Tiệp dư. Em cứ nhắm vào họ mà lập kế ly gián. Thế Dân vỡ lẽ. Ông tiến hành ngay. Bước một, ông làm cho cha ông cho dù không muốn vẫn không sao không hành động, buộc phải dứt bỏ lòng tin yêu với hai người con kia như trước nữa. Độc thiệt!. Đích thân ông đứng ra thưa với cha mình một chuyện mà không một người đàn ông trên thế gian này khi nghe qua mà không tức điên lên. Ghen tuông và bị cặm sừng! Ai cắm? đó là hai con trai cưng của mình. Lý Thế Dân tố rằng anh mình và em mình hè nhau “tù ti” với hai thiếp yêu của vua cha khi ông đau ốm hay khi đi vắng. Lý Uyên bị chạm nọc. Tức điên lên. Vừa ghen với hai con trai mình vừa vô cùng xấu hổ. Giận run. Lập tức ra lệnh triệu hồi khẩn cấp Kiến Thành đang ở mặt trận về cung gấp. Bốn bên một lời. Từ chiến trường trở về, Kiến Thành ghé lại thăm em mình và Nguyên Các cũng cho hay ông rằng chính ông cũng nhận được lệnh triệu tập như thế. Họ hoàn toàn không biết, lành dữ. Khi cá đã cắn câu, bước hai được ông thực hiện chu đáo; ngay khi biết Kiến Thành hiện đang có mặt tại kinh thành, ông liên lạc chặt chẻ với vua cha, ngày đêm thăm viếng ra chiều chia sẻ sự nhục nhã này cùng với “ông già”. Vào ngày thứ tư của tháng thứ sáu hiệu Vũ Đức, tức ngày mồng 2 tháng 7 năm 626, Lý Thế Dân bèn kín đáo tự tay bố trí trận địa phục binh với dàn cung thủ sừng sỏ trong đó có chính ông cũng là cung thủ, cùng với sự hổ trợ của hai tướng giỏi là Tần Thúc Bảo và Uất Trì Cung, họ phục binh tại ngay cửa Huyền Vũ, cửa ngõ dẫn vào cung cấm. Khi thái tử Lý Kiến Thành cùng em ung dung bước qua cửa này để vào bệ kiến vua cha, nào hay mình đang bước vào cửa tử; Lý Thế Dân đang chờ sẳn con mồi tại đó từ lâu bèn dương cung bắn chết ngay Lý Kiến Thành tại chỗ. Lý Nguyên Các chạy thoát chạy được một lúc. Cận vệ của Kiến Thành là hai tướng Phùng Dực, Phùng Lập xông vào nhưng đã trễ và cùng lúc bộ hạ của Nguyên Các là Tiết Vạn Triệt túa ra đánh trả. Trong lúc hỗn chiến thì tướng Uất trì Cung (tức là Uất Trì Kính Đức) của Thế Dân kịp chặt được đầu của Nguyên Các; biết hai nhân vật chủ chốt đã bị diệt; cả mừng, ngay lập tức Lý Thế Dân vội vã chạy vào cung bẩm báo với vua cha rằng, hai người kia sợ bị trừng phạt vì trong tội khi quân, cả hai đã ra tay manh động. Ông xin vua cha ra quân lệnh hỏa tốc buộc các binh sĩ của hai người này phải lập tức lui quân để không gây xôn xao trong lòng quân sĩ. Trong lúc quá bối rối, Lý Uyên răm rắp làm theo trước sự hối thúc và áp lực của các tướng lãnh, người của Thế Dân đang vây kín quanh ông. Quân lệnh được giao ngay cho Uất Trì Cung, ông này liền gom cùng lúc, hai tay xách hai cái đầu lâu đầy máu của hai anh em này và giơ cao cùng quân lệnh của nhà vua, truyền lui binh, nói to trước các bộ hạ của hai người. Thấy chủ tướng mình đã bị chết và có lệnh vua họ lui binh ngay lập tức. Mãi mấy ngày sau, Lý Uyên mới biết rõ sự thật. Hối hận thì đã muộn. Vua vừa tự xấu hổ, vừa ân hận bởi chung quy cũng vì hai cái “?” mà ra cả. Ông tự hài lòng với “trí khôn ” của mình, giết nó đi thì lấy ai nối dõi tông đường. Dòng họ Lý nhà ta sẽ không người kế nghiệp!. Bối rối tính hơn thiệt, hai tháng sau, Lý Uyên lặng lẽ bấm bụng và lòng đầy chán nản, ông rút lui vào hậu trường. Sống an phận cùng sự hài lòng với chức Thái thượng hoàng cùng miếng ngon và gái đẹp cung phụng cho ông không hề suy giảm, ông cho thế _ Cũng được!. “Khôn!” . Ông truyền ngôi lại cho Lý Thế Dân. Đạt sở nguyện, Lý Thế Dân liền ra tay cực kỳ tàn bạo ngay lập tức. Trừ hậu hoạn, tránh trả thù về sau, ông ra lệnh hành quyết cả nhà Kiến Thành và Nguyên Cát không chừa một ai, già trẻ lớn bé trong số đó có 5 người con trai của mỗi người, có cả cháu đích tôn của Lý Uyên. Lý Uyên ở đâu mà nín khe vậy?. Ông già “khôn!”. “?” . Tụi nó chính là cháu ruột vô tội của ông mà. Thây Kệ.

Lý Thế Dân không quên dặn dò thủ hạ kín đáo bảo vệ chiến lợi phẩm mà ông hằng mơ ước ngày đêm, người đẹp nổi tiếng tại thành Trừơng An ngày trước. Nàng Dương Khuê My, là vợ của em ruột mình, Lý Nguyên Cát, được mang về dinh Tần vương cho ông lập tức. Không chút chậm trễ, vậy là ngay cả khi chưa nhậm chức hoàng đế, ngay khi đang còn là Tần vương, ngay khi em ruột mình còn chưa khô nấm đất trên mồ, Lý Thế Dân đưa ngay bà này vào cung để được sớm tối “hủ hỉ “. Với thần kinh thép, cả hai người vui vẻ ngay trong đêm ấy. Lập tức bà trở thành là thiếp yêu của ông khi mà tang chồng chưa hết thời gian để nắng gió kịp làm khô đất trên mồ chồng. Không lâu sau đó, bà vợ lớn của Lý Thế Dân buồn rầu sinh bệnh mà chết. Sau khi em gái mình chết, ông anh vợ của Lý Thế Dân, Trưởng Tôn Vô Kỵ, cho dù là một trong ba đại thần của Đường Thái Tông (Lý Thế Dân) cũng bị buộc tội thắt cổ.

Gần cuối đời, Lý Thế Dân trực tiếp nhận quả báo, chính con trai ông là thái tử Lý Thừa Càn cũng muốn giết ông để mau được làm vua sống theo ý mình. Làm vua Tàu thích thật!. Ngẫm nghĩ mình đã bị trời quả báo nên ông không nỡ giết Càn, đày Càn đi Tứ Xuyên. Năm sau thì Càn chết.

Năm 649, Đường Thái Tông (Lý Thế Dân) mất hưởng dương 51 tuổi. Cha ông sống trong nỗi đau vì “?” mà ra cả. Chịu đựng dằn vặt lương tâm trong ròng rã mười năm (từ năm 626) đến năm 635 thì ông mất. Sức chịu đựng “đau đớn?” của “ông già khôn” Lý Uyên trước ông con quá quắt thật trong thời gian 10 năm khá dài thật đáng nể. Không biết trong giấc ngủ của mình ông có mơ thấy mười đứa cháu nội ông kêu khóc ra sao?, vợ ông héo úa ra sao?. Mỗi ngày ông có nghe tiếng khóc rấm rức khi bà nhang đèn cho bầy con cháu, không thấy sử Tàu viết. Giá mà!.

Đời Đường còn lắm chuyện dành gái. Bắt chước ông tổ mình, cháu chắt của Lý Thế Dân là Đường Minh Hoàng còn cướp vợ của con nữa là. Kinh thiệt!. Dương Quý Phi nguyên là nàng Thái Chân, vợ của con trai mình (*11). Chuyện nước Tàu Nguyễn Du nhắc cho chúng ta nhớ và thuộc lòng hai câu :

Trung Hoa, cực ấm!, _khoa lời, 
Trung Hoa người ngợm ngời ngời, thế đây! . 
  
 

III- Tham khảo và tâm tình

(1) Nguyên tác

聲音殊異不得辨 
但覺嘹喨殊可聽 
舟子寫字為余道

16-此曲世民與建成 
觀者十數並無語 
但見江風蕭蕭江月明

Phiên âm

Thanh âm thù dị bất đắc biện, 
Ðãn giác liêu lượng thù khả thính, 
Chu tử tả tự vị dư đạo

16-Thử khúc Thế Dân dữ Kiến Thành 
Quan giả thập số tịnh vô ngữ 
Ðãn kiến giang phong tiêu tiêu giang nguyệt minh.

© Liêu lượng 嘹喨, là tiếng la lanh lãnh, tiếng la rên trong cảnh chém giết ghê rợn.

© khả thính có nghĩa là “có thể nghe ra”, ngữ cảnh hơi nghi ngờ về nội dung bản đàn và lời hát, nhưng qua cách vào vai của Thầy mù, người hát rong bậc thầy, thì ông cảm nhận được nhưng chưa hiểu hết sự tinh hoa của khúc hát, kịp khi người nhà thuyền viết vội đôi ba chữ (bút đàm) thì ông “à ra thế “.

© Quan giả thập số tịnh vô ngữ, Ðãn kiến giang phong tiêu tiêu giang nguyệt minh =>Chừng mươi người vây quanh thinh lặng không nói lời nào, nhìn ra chỉ thấy gió hiu hiu thổi trên sông trăng, sóng lăn tăn rực sáng. Ngữ cảnh làm ra vẻ bàng quan, cố dấu cảm xúc mình, Nguyễn Du rơi nước mắt chăng?. Có, tại Câu thứ 25 trong nguyên tác .

2-bài thơ “Thái Bình mại ca giả” lấy từ sách

Nguyễn Thạch Giang,Trương Chính, Nguyễn Du cuộc đời và tác phẩm, NXB VHTT, Hanoi 2001

3-Ngày nay Google search là một phương tiện để tìm đến các kiến văn mà ta cần. Tại đó thường trang web như http://vi.wikipedia.org luôn đứng đầu sổ. Vào Google search cụm “Thái Bình mại ca giả” bạn sẽ thất vọng vô cùng. Đa phần các link dẫn đến cụm từ này là do ai đó nhắc tên tiêu đề mà thôi, chủ yếu họ khai thác hai câu 27, 28, “Chỉ đạo Trung Hoa tẫn ôn bão, Trung Hoa diệc hữu như thử nhân” => , “Trung Hoa, cực ấm!, _khoa lời, Trung Hoa người ngợm ngời ngời, thế đây!”

Việc khai thác câu thơ dẫn chứng mà không cho bạn hiền biết rõ tại sao có câu ấy, nó nằm trong ngữ cảnh nào đôi khi khiến thế hệ 1,5 tự hỏi “Vậy ra tiền nhân ta nói oan cho Tàu sao? ” Tôi thấy quá ít nếu không muốn nói hoàn toàn không thấy các bản dịch bài này trên mạng. Nếu có bản dịch thì bản dịch này cũng ít được người Việt quan tâm bởi nó đứng quá sâu trong danh sách Google search, đa phần bản dịch lại là của các nhà biên khảo, họ không phải là thi nhân nên lời thơ không mấy mượt mà. Kẹt cứng! trong khi đó thơ Đường thì ngược lại, quá nhiều thi nhân dịch.

Ngay cả bản dịch nghĩa thì cũng rất là hời hợt, nói chi đến phần dịch sang thơ quốc âm. Bạn vào thử hai link sau:một làhttp://vi.wikipedia.org/wiki/ThaiBinhMaiCaGia, bạn hoàn toàn không thấy bản dịch nghĩa mà chỉ có bản phiên âm,hai là http://vi.wikisource.org/wiki/ThaiBinhMaiCaGia có bản dịch nghĩa cũng khá hời hợt. Đáng buồn hơn khi mà mục kê sách, tư liệu tham khảo rất nghèo nàn. Đó là một sự bất thường của trang wikipedia. Khó mà càm ràm nhóm biên tập hai trang web cực quý này được. Người Việt mình rất đáng bị càm ràm. Tại sao vậy? Các thầy đội Hán (âm Trung eo) nhà ta có tấm lòng hay nội lực rất đáng ngờ.

4-Về văn bản , Bản trên chữ Hán trên wikipedia, tại câu 13, dùng từ “khắc thanh”…, ngôn ngữ xung khắc, trong khi bản của Hanoi ghi là “thanh âm kỳ dị”. Tôi dùng bản của Nguyễn Thạch Giang ,Trương Chính , Nguyễn Du cuộc đời và tác phẩm, NXB VHTT, Hanoi 2001

5-Bài thơ “Thái Bình mại ca giả” là một trong bốn danh tác bằng chữ Hán mà Nguyễn Du dùng thể tự sự ngoài dòng thất ngôn bát cú luật thi quen thuôc. Đó là các bài Long Thành Cầm Giả Ca, Sở Kiến Hành, Phản Chiêu Hồn nằm trong tập Bắc Hành Tạp Lục. Hai trong ba bài trên đã được laiquangnam giới thiệu trên Chim Việt Cành Nam hay trên http://www.art2all.net. Riêng bài bài Long thành cầm giả ca laiquangnam sẽ giới thiệu tiếp bởi nó chứa quá nhiều tư liệu sống về tâm tư Nguyễn Du. Các “thầy tiến sĩ ” tại một trường đại học SP đã làm nó ố đi khá nhiều trong các lời bình của mình.

6-Nếu bạn hiền đã đọc sơ qua tập này thì bạn hiền sẽ thấy Nguyễn Du là mĩa Tàu rất đậm nét trong rất nhiều bài. Tại sao ông lại mĩa Tàu?. Đơn giản vì ông là một kẻ sĩ. Ông là hậu duệ của người anh hùng Nguyễn Bật, một trong ba người khai quốc công thần theo Lê Lợi kháng Minh từ ngày đầu kháng Minh. Qua lịch sử sự xâm lăng dai dẳng của người Tàu với đất nước ta khiến lòng kẻ sĩ như Nguyễn Du vô cùng đau khổ. http://vi.wikipedia.org/wiki/BacHanhTapLuc

7-Trong suốt bài thơ, Nguyễn Du tiên sinh đã khinh bỉ văn hóa trên bàn ăn của người bản xứ qua cách hành xử từ mươi người Trung Hoa trong vai trò khán giả trong chiều chạng vạng và đêm đó. Nhân cách của họ quá tệ. Người hát rong này nhắc cho những con người Trung hoa nay có còn sáng mắt đương thời rằng, tuy quý vị có tiền thật đấy, nhưng văn hóa quý vị quá thấp, quá bủn xỉn khi chi trả tiền việc mua vui văn hóa. Ông thầy mù, người hát rong lịch sự và có tấm lòng hơn hẳn họ. Tại sao người lịch sự có tấm lòng lại phải sống khốn khổ như thế?. Kín đáo hơn, Nguyễn Du tự hỏi vì lẽ gì mà Gia long lại muốn Hán hóa phong tục tập quán của dân tộc mình để rồi đất nước này sẽ sản sinh ra nhiều con người như thế kia. Có thể Lý Thế Dân vĩ đại trong vai trò dựng nước nhưng lại là một tên bợm, tên đại lưu manh trong cách hành xử như một con người của y. Gia Long giống Lý Thế Dân bao nhiêu % trong sự nghiệp đại bợm của mình. Ngưu tầm ngưu! Bài học lâu ngấm quá! .

8- Người phàm thà chết chớ không thà sống trong cảnh nghèo (bần). Người Việt cay đắng đúc kết kinh nghiệm sống qua cụm từ “nghèo hèn”, “nghèo => hèn”. Vậy mà người Việt vẫn chịu sống cùng với nghèo mãi, có lẽ họ cố giữ đạo đức làm người của mình từ muôn đời nay chăng?. Người Tàu tại Việt nam thì sao?. Họ thủ kỹ câu này, dạy cho nhau và họ rất thực tế. Làm giàu trước đã, sau đó thì đội đèn nhang, dâng heo quay tạ ơn bà, ơn ông là tâm bình an. Chết thì rước thầy chùa tụng kinh Tịnh độ. Êm ru!. Khi qua đây họ là thực sự là những người tị nạn kinh tế. Đa phần trong số họ, đã bèn mọi cách làm giàu trước đã bất chấp đạo đức, việc xảy ra hàng ngày, hà rầm trên đất nước chúng ta. Buôn gian bán lận, hối lộ, dắt gái, dạy đàn ông thú chơi bời, nhất dạ đế vương, bịa thuốc đông y là thần dược trị được bá bệnh… Có lẽ Nguyễn Du cảnh giác chúng ta cẩn thận khi suy ngẫm câu này. Với người đạo đức như Nguyễn Du “Sống đà quá khổ chết thà sướng hơn” đã ám ông đến cuối đời; Sau nhiều năm cố giữ mình sống trong cảnh túng thiếu nhưng trong sạch, cho dù ông đã có nhiều cơ hội làm giàu nếu ông muốn, tuy nhiên lúc ấy ông phải phá vỡ đạo đức gia phong thì ông vẫn không sao làm được. Qua tập thơ Nam Trung Tạp ngâm làm vào lúc ông ra làm quan tại Phú Xuân. Tình cảnh ông nào có khác chi ông thầy mù hát hụt hơi mà chỉ được vài đồng bạc lẻ. Ra làm quan cũng lao tâm lao lực mà lương không đủ nuôi vợ con .Trong hai bài, bài Ngẫu hứng 2, có câu “Thập khẩu hài nhi thái sắc đồng”=> mười đứa con xanh như rau (đồng hao) và bài thứ hai tên là Ngẫu Đề “thập khẩu đề cơ Hoàng Lĩnh Bắc ” mười miệng khóc vì đói ăn tại phía bắc dãy Hoành Sơn (= đèo Ngang); kinh thành Huế cách quê nhà ông Hà Tỉnh một cái đèo Ngang, nơi đó vợ con ông phải tự mưu sinh lấy.. Tiên sinh tự hỏi vậy công khố đi đâu? .Gia long đã bòn rút cho triều đình, cho con cái dòng tôn thất; kẻ sĩ như ông cam chịu một hình thức nô lệ bị bóc lột thậm tệ. Lùng bùng kiếp sống hèn; ăn cơm chúa múa suốt ngày nghĩ đến con đói khát thì lòng người cha nào không tan nát.Bó tay. Làm liều thì không tự cho phép mình. “Sống đà quá khổ chết mà sướng hơn!” .Kẻ sĩ,con nhà giữ mình trong sạch chỉ đánh bóng cho chế độ mà thôi. Phí! .Hèn!.Khổn nạn! . Có lẽ Tiên Sinh đã thấm từ lời nguyện này thế nên lúc kinh Thành Huế có bệnh tả, bệnh đã có lắm người lành; nay tiên sinh lại đang là quan lớn vào hàng á khanh tại đương triều ,vào năm 1820, ông vướng bệnh. Ông mất? thì ra tiên sinh không màng uống thuốc và đã lặng lẽ ra đi. Có thể tiên sinh không muốn mình phải làm một ông đại sứ bất đắc dĩ và đầy ô nhục lần thứ hai mà ông không biết cách gì nói thẳng với Gialong rằng mình không muốn đảm nhận .”?”. Xong một đời người. Giá mà mình được khôn như đàn anh mình là La sơn Phu tử, khi được mời tham chính thì đặt điều kiện ” mọi người cùng lo cho tổ quốc”. Nhà vua phải thề “Tổ quốc không phải của riêng ai , của dòng tộc nào,hay bè đảng nào”. Tại sao lúc làm quan trong bối cảnh chiến tranh thời TâySơn(QT) mà anh ông (Nguyễn Nễ ) lại gởi được tiền cho ông xây lại nhà thờ tộc tại Tiên điền mà nay đất nước thái bình rồi mà ông không nuôi nổi vợ con sống cho ra người? . Luật Hồng Đức hay luật Thanh? Là luật tót nhất để mọi người Việt đều bị bắt buộc phải sống liêm sĩ, luật nào tạo cơ hội luồn lách, tạo thói hối lộ một cách bài bản lại được “người lạ” len vào đó mà làm khổ dân ta mãi. Quan trong sạch mà sống khổ là cách dìm mọi người dân Việt nghèo khó vào chỗ cùng khổ.

9&10 ) Lịch sử Tàu viết về “Sự biến Huyền vũ môn”, câu chuyện Lý Thế Dân, có hai nguồn chính :

http://vi.wikipedia.org/wiki/SuBienHuyenVuMon

http://phunutoday.vn/blog-nguoi-noi-tieng/chuyen-giet-em-doat-vo-

Tuy Lý Thế Dân khi lên làm vua có can thiệp sâu với giới viết sử nhằm hạ thấp và giảm nhẹ tình tiết “Sự biến Huyền vũ môn” đi khá nhiều, nhưng hoàn toàn không thành công. Do vậy chính sử Tàu nay có viết cũng không còn nguyên vẹn, nhưng thế cũng quá đủ cho chúng ta rồi .

11) Câu Chuyện cha cướp vợ của con ,mời các bạn xem bài Trường hận ca của Bạch cư Dị do laiquangnam đã dịch và giới thiệu tại trên chính trang web này. 

 

Phần II.

Giá trị lớn nhất của bài “Thái Bình mại ca giả” này là lời dạy của tiền nhân. “Đừng vội tin, hãy mở to mắt để thấy trước đã, thấy rồi hãy tin!.” Niềm an ủi duy nhất của Nguyễn Du là ông không chứng kiến cảnh ô nhục nước mất nhà tan như các thế hệ sau ông năm mươi năm sau và mãi tận sau này. Sau khi ông mất, các vì vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức cho dù cố đưa người đến tận vét đi vét lại cho kỳ hết số sách vở và trước tác của ông tại nhà sau khi ông qua đời, chiếm đoạt được các trang thơ nhật ký này, họ cũng không sao hiểu được những gì Nguyễn Du than thở và cảnh giác con cháu mình trong các bài thơ thuộc tập Bắc Hành Tạp Lục ấy. Có lẽ ngoài tài chẻ chữ Tàu mài ra và đốt uống, Thiệu Trị, Tự Đức chẳng mấy am hiểu ý câu thơ sâu xa của tiền nhân, một câu thôi của bài “Thái Bình mại ca giả” này, nói gì đến 131 bài trong tập này. Rằng đừng nghe người ta ” nổ ” về một đất nước Trung Hoa cực kỳ no ấm tốt đẹp nữa, hãy đọc thơ tôi để nhìn tận mắt sự thật về đất nước và con người Trung hoa trước đã, rước của nợ để rồi chết cả đám! Quả nhiên sau này vì mê chữ Hán, và lậm liều thuốc độc bọc đường này, qua thứ chữ hình tượng này, Thiệu Trị và Tự Đức bỏ bê việc triều chính, mãi lo đẽo chữ, họa thơ, đất nước ta lâm vào vòng nô lệ mới.

Là người cầm đầu phái bộ gồm 27 người đi sang Trung Quốc vào đầu thế kỷ thứ 19, trước khi Nguyễn Du ra đi, hẳn Gia Long và đám thuộc hạ gồm những người hoạch định chính sách quốc gia cùng ngồi bàn tiệc tiễn đưa bàn cách “giữ lễ” nhưng không được phép tỏ ra hèn nhục. Ai là người cầm tay “chỉ đạo” cho ông 5 Chữ Vàng “Trung hoa Tận ôn bảo ” và có lẽ “hắn” đã cho ông xem tập Sứ Yên thi tập, một tập thơ ghi lại những ngày hạnh phúc tại đất nước này như hắn(1808-09)?. Hắn chắn chắn là người đã từng hưởng ơn mua móc của Thanh triều và đã từng ngày đêm tổ chức cuộc tiếp đón đại quân của nhà Thanh kéo vào nước ta với lòng hớn hở. Hắn là ai và hắn đã giữ chức gì trong tân triều Gia Long? Sử sách còn dấu vết không? Dễ gì một người hậu duệ của người anh hùng Nguyễn Bật năm xưa lại cam tâm là “múa lưỡi ” để tiếng xấu lại muôn đời cho con cháu mình, như Đặng Dung trong bài Cảm Hoài năm xưa đã rủa những ai làm tay sai cho giặc gây tội ác với đồng bào mình, “tẩy binh vô lối kéo Ngân hà “. Nước sông Ngân đâu có đủ để rửa sạch được vết nhơ của đội quân Hán và bọn tay sai đã gây muôn ngàn khổ đau cho dân tộc này. Ngày nào dân tộc này còn ngước nhìn lên trời, còn nhìn thấy sông Ngân trắng xóa vắt ngang trời mỗi vào tháng 7 âm lịch mưa Ngâu, là ngày ấy tên tuổi họ còn bị nguyền rủa dài dài. Lịch sử là lịch sử, công tội phân minh. Là chứng nhân lịch sử trong đoạn nhiễu nhương nhất của dân tộc mình, Nguyễn Du hé cho ta thấy một phần nào tâm tư của một kẻ sĩ Bắc Hà.

Chạnh lòng chuyện cũ mồxanh (=mộ phần của tổ tiên ), Chớm thu sương tóc trắng nhanh mái đầu. Tiếng ConNhà, vất vả sâu, Dẫu thân không bệnh, lưng đau khom, vòng!. (Thu chí– Nguyễn Du) 

Trong số các bài ấy có 4 bài đáng đọc nhất cho dù bạn hiền lười biếng hay bận rộn tới đâu chăng nữa, đó là các bài Long thành cầm giả ca, “Thái Bình mại ca giả”, Sở kiến hành, và bài Phản chiêu hồn .    

Nay xin trở lại bài “Thái Bình mại ca giả” ..

I- Nguyên tác & phiên âm.

Ia-Nguyên tác

1. 太平瞽師粗布衣 
2. 小兒牽挽行江湄 
3. 云是城外老乞子 
4. 賣歌乞錢供晨炊

5. 鄰舟時有好音者 
6. 牽手引上船窗下 
7. 此時船中暗無燈 
8. 棄飯潑水殊狼藉

9. 摸索引身向坐隅 
10. 再三舉手稱多謝 
11. 手挽弦索口作聲 
12. 且彈且歌無暫停

13. 聲音殊異不得辨 
14. 但覺嘹喨殊可聽 
15. 舟子寫字為余道 
16. 此曲世民與建成

17. 觀者十數並無語 
18. 但見江風蕭蕭江月明 
19. 口噴白沫手酸縮 
20. 卻坐斂弦告終曲

21. 殫盡心力幾一更 
22. 所得銅錢僅五六 
23. 小兒引得下船來 
24. 猶且回顧禱多福

25. 我乍見之悲且辛 
26. 凡人愿死不愿貧 
27. 只道中華盡溫飽 
28. 中華亦有如此人

29. 君不見 使船朝來供頓例 
30. 一船一船盈肉米 
31. 行人飽食便棄餘 
32. 殘肴泠飯沉江底

Ib-Phiên âm

1. Thái Bình cổ sư thô bố y 
2. Tiểu nhi khiên vãn hành giang mi 
3. Vân thị thành ngoại lão khất tử 
4. Mại ca khất tiền cung thần xuy

5. Lân chu thời hữu hiếu âm giả 
6. Khiên thủ dẫn thướng thuyền song hạ 
7. Thử thời thuyền trung ám vô đăng 
8. Khí phạn bát thủy thù lang tạ

9. Mô sách dẫn thân hướng tọa ngung 
10. Tái tam cử thủ xưng đa tạ 
11. Thủ vãn huyền sách khẩu tác thanh 
12. Thả đàn thả ca vô tạm đình

13. Thanh âm thù dị bất đắc biện 
14. Ðãn giác liêu lượng thù khả thính 
15. Chu tử tả tự vị dư đạo 
16. Thử khúc Thế Dân dữ Kiến Thành

17. Quan giả thập số tịnh vô ngữ 
18. Ðãn kiến giang phong tiêu tiêu giang nguyệt minh 
19. Khẩu phún bạch mạt, thủ toan súc 
20. Khước tọa, liễm huyền, cáo chung khúc

21. Ðàn tận tâm lực cơ nhất canh 
22. Sở đắc đồng tiền cận ngũ lục 
23. Tiểu nhi dẫn đắc há thuyền lai 
24. Do thả hồi cố đảo đa phúc

25. Ngã sạ kiến chi, bi thả tân 
26. Phàm nhân nguyện tử bất nguyện bần 
27. Chỉ đạo Trung Hoa tận ôn bão 
28. Trung Hoa diệc hữu như thử nhân

29. Quân bất kiến, Sứ thuyền triêu lai cung đốn lệ 
30. Nhất thuyền, nhất thuyền doanh nhục mễ 
31. Hành nhân bão thực tiện khí dư 
32. Tàn hào lãnh phạn trầm giang để.

II-Tạm dịch nghĩa

Thành thật khai báo :

Do chữ nghĩa, cách hành văn, sự mô tả tỉ mỉ, bố cục quá khéo, thú thật cho dù cố gắng lắm mình cũng chỉ làm được chừng này. Biết đến đâu thưa thốt đến đó Tin rằng các bạn thuộc thế hệ 1,5 sẽ tiếp sức. Và tin rằng các bạn sẽ làm tốt hơn chúng tôi nhiều . Cám ơn và thương yêu các bạn.

1-Thành Thái Bình (Bên Tàu) có người mù tài hoa bậc thầy nhưng lại mặc áo vải bố thô ráp (*bố là thứ vải gai, dùng may quần cho người nghèo khó, mặc vào rất xót, có khi ngứa nữa, (* người già mù mà da dẻ nhăn nheo, mặc ba thứ này là một cực hình, mỗi lần giặt lại phải dùng nhiều sức, tay phải mạnh mới vắt nổi, rất lâu khô, tự mưu sinh, xã hội bất nhân, Nguyễn Du + một lần thương cảm) 2-Đứa trẻ dẫn đi dọc mé sông 3-Thì ra đó là ông già ăn xin ở ngoại thành.(* người già mù mà phải tự mưu sinh, xã hội bất nhân, Nguyễn Du + hai lần thương cảm) 4-Ông bán tiếng hát (mại ca) của mình xin tiền mà cung phụng cho cái bếp, nó được đốt lên vào buổi mờ mờ sáng ( *thần, tức là thời điểm vào lúc gà gáy, điều này cho thấy họ dậy rất sớm, ăn ba miếng rồi lội bộ từ ngoại thành lên thành phố). (Nguyễn Du +3 lần thương cảm, già cả cộng mù lòa mà còn phải sáng lo dậy từ sớm bửng, lộm cộm thổi lò nấu nướng. Ai đã từng ở miền trung quê tôi, trời tối thui, ẩm ướt, mưa thúi đất mà phải dùng ống tre làm ống thổi lửa, tro bay mù mịt mới nhận ra nỗi khổ, ngày nay bật một cái ga ào ào nói làm gì.

5- Thuyền bên kia có người thích nghe đàn hát. 6-Cầm tay ông lão bé dẫn lên thuyền, về mé phía dưới cánh cửa sổ (vị trí họ sẽ ngồi đàn hát ),7-Lúc này trong khoang thuyền tối om lại không có đèn (*có lẽ vào thời điểm nhá nhem, chạng vạng, trong bối cảnh này có thể mường tượng ông thầy mù từ sáng sớm tới chiều tối chưa ăn uống gì chăng? hay nếu đã ăn thì hẳn là hai ông cháu ăn bậy bạ cái gì đó, bởi câu 1 cho thấy bữa ăn chính của ông là lúc sáng rất sớm, họ đã đi bộ rão rão suốt ngày, 8-Cơm thừa canh cặn đổ ra rất là bừa bãi. (* cho thấy thái độ và cung cách ăn uống của thực khách “nước lạ”, bạn lạ gì một bàn nhậu nhiều “người lạ” ăn uống, họ rất bầy hầy trên bàn ăn, lý ra người hát rong đợi người nhà thuyền dọn chỗ sạch sẽ rồi thì mới hát hò; không biết với người chưa có hột cơm trong bụng từ sáng đến giờ trước cái bàn thừa thải thức ngon có khiến cho họ buồn lòng và tiếc rẻ chăng, hát hò trong bối cảnh mùi cơm thừa canh cặn này, hẳn không dễ chịu chút nào rồi, Nguyễn Du +bốn lần thương cảm, ác thiệt! Sao người của nhà thuyền hay kẻ ăn nhậu kia không xúm vô dọn lối đi cho ông lão mù lòa, sàn thuyền đánh bóng rất dễ vấp, trợt té .)

9- Ông mù mò mẫm tìm được chổ ngồi trong một góc.10-Đôi ba lần ông giơ tay chào cám ơn. (bậc thầy có khác, vui vẻ & lịch sự) 11-Tay so dây dây đàn, miệng cất tiếng hát. 12 Vừa đàn vừa ca không chút ngơi nghỉ.

13- Tiếng “người lạ ” (*người lạ = người Tàu, người không cùng nòi giống với mình; thù dị=khác hẳn) mình không làm sao hiểu được. 14-như thể có tiếng sắc lạnh lanh lãnh (liêu lượng), tiếng kêu la trong một cuộc chém giết, có thể nghe ra. 15-Nhà thuyền thảo vội vài chữ bảo rằng, 16-Khúc hát này nói về Thế Dân và Kiến Thành.

17- Khoảng mươi người nghe đều im lặng không nói lời nào 18-Chỉ thấy gió vi vu trên dòng sông đầy ánh sáng trăng (Nguyễn Du lơ đãng nhìn ra sông, dấu cảm xúc) 19- Miệng phun bọt trắng xóa, tay xịu lơ, tay giở lên không nổi (Nguyễn Du + lần thương cảm thứ năm )

20- Ông không còn ngồi nữa (*20a, khước tọa =có nghĩa là khom người đứng dậy) đi gom gọn đàn lại, rồi nói lời cáo từ rằng khúc hát đã hết.

21- Dốc tận sức lực ra đàn hát ước chừng một trống canh 22- Vậy mà được chưa tới năm sáu đồng bạc (* ý mỉa mai, bọn nhà giàu keo kiệt), (Nguyễn Du + thương cảm thứ sáu. Tiền ít quá, không tương xứng với sức lao động của ông già mù. Cuộc mua bán không tương thích.)

23- Đứa bé dẫn ông xuống thuyền (có nghĩa là rời ra khỏi thuyền, bởi tại câu 6 ông bước lên để vào thuyền (*có lẽ lên xuống thuyến ông cháu họ phải qua một cái thang nhỏ hay bước qua một tấm ván như ta thường thấy ở bến sông). 24- Ông còn quay đầu lại chúc họ nhiều điều phúc lành nữa (*với ông thế là tạm đủ? Nhưng với Nguyễn Du thì thấy không đủ, không tương xứng với công đàn hát được mô tả tại các câu 13 dến câu 21, nhất là hai câu 19&21 được viết khá kỹ).

25-Chợt thấy cảnh đấy ta cảm thấy chua xót tận cùng (*một lần nữa ta thấy tấm lòng của người thi nhân Việt, bài Sở kiến hành, rồi bài này . 26-Phàm con người ta ước mình được chết đi hơn là ước mình được sống trong cảnh nghèo hèn . 27- Nghe dạy (chỉ đạo, 27a mỉa ,người chỉ đạo cho ông trong chuyến đi này là ai vậy?) rằng ở Trung Hoa mọi người đều được hết sức ấm no (tận ôn bão = hàm nghĩa rất hạnh phúc), 28 -Trung Hoa cũng có người như thế này đây. (nói có sách mách có chứng, cụ thể, Nguyễn Du đã qua 6 lần thương cảm ).

29- Anh không thấy theo thông lệ mỗi sáng sớm thuyền của các đoàn sứ giả lại đến đây để tìm nguồn hàng cung cấp bổ sung cho bữa ăn sao. 30- Từng thuyền, từng thuyền giỏ chứa đầy thịt gạo. 31-Hành nhân ( người trong các đoàn sứ giả) ăn no, thừa thì vứt đi. 32- Đồ nhấm (mồi, thức ăn) thừa, cơm nguội đổ chìm xuống sông. (mỉaTrung Hoa, “thấy chưa!, như thế mới gọi là no đủ. Được ăn ngon, ăn dư, cơm nguội (không thèm hấp lại) mà đem đổ bỏ xuống sông.)

III- Đàng sau dòng chữ nghĩa bài thơ “Thái Bình mại ca giả” .

Ai “chỉ đạo”& “ban” cho Nguyễn Du “5 chữ vàng”, 
Trung Hoa tận ôn bão”?, Trung hoa ấm no cực kỳ!.

IIIa – Chân dung kẻ chỉ đạo.

Phải là một người mơ ước đón quân Tàu qua xứ ta với lòng hân hoan, kẻ đó đã từng được sang Tàu và được người Tàu xem họ là một hạt nhân gầy dựng chính sách quốc gia sau này, và Tàu đã dành cho họ hưởng nhiều lạc thú khi họ làm vai trò là một chánh khách Việt trên đất Tàu thì may ra. Có thật không?.

Xin thưa, trong dòng chính sử có ghi rành rành; Kẻ đó không ai xa lạ, đó là người ngày đêm nằm đợi sẵn tại biên giới Đại Việt để đón đoàn quân xâm lược của Tôn Sĩ Nghị tiến về kinh thành Thăng Long mở màn cho đợt xâm lược sau gần năm trăm năm vắng bóng quân Tàu trên đất nước ta (1428-1878). Chính kẻ đó được Lê Chiêu Thống, nhân danh vua nhà Hậu Lê (nhà cầm quyền hợp pháp của Đại Việt năm xưa) cử ra liên lạc với Tôn Sĩ Nghị trong suốt thời gian nước ta bị giặc Tàu chiếm đóng.

Tên hắn là gì?. Xin thưa hắn tên là Vũ Trinh. Nguyễn Du thua Hắn 7 tuổi. Hắn học giỏi vì nhờ cha hắn đã từng là một đại quan. Năm 17 tuổi, hắn đã đậu Hương Tiến và đã từng làm quan dưới triều Lê Chiêu Thống. Chính hắn và cha hắn đã khuyên Lê Chiêu Thống nên tin tưởng tuyệt đối vào Nguyễn Hữu Chỉnh nhằm cũng cố địa vị. Không lâu sau Nguyễn Hữu Chỉnh bị Tây Sơn giết. Lê Chiêu Thống chạy. Vũ Trinh và cha hắn tên là Thiều bán tài sản giúp Lê Chiêu Thống sống qua ngày. Chính Cha con hắn đã bày khôn dại cho Lê chiêu Thống, bởi lúc này Lê Chiêu Thống chỉ mới ngoài hai mươi, rằng ngay lập tức sai bọn Lê Quýnh sang nhà Thanh cầu quân viện; Vũ Trinh ngày đêm nằm tại núi Huyền Vũ mong chờ đại quân Thanh kéo sang ta. Khi quân của Tôn Sĩ Nghị đến Đại Việt, các văn võ cựu thần nhà Lê đều tránh mặt, không một ai chịu ra giúp kẻ thù truyền kiếp của dân tộc này. Họ sợ tiếng xấu mà muôn đời sau, con cháu họ không sao ngóc đầu lên nổi, không có trong dòng chính sử thì trong ca dao truyền khẩu, miệng lưỡi thế gian dễ gì né được. Lê Chiêu Thống mắc cở với Tôn Sĩ Nghị bởi trước sau chỉ thấy có mỗi một mình Vũ Trinh ra đón Hắn và làm lễ khao quân Thanh tại tuyến đầu này. Tôn Sĩ Nghị ngạc nhiên về lòng dân với nhà Hậu Lê khác với những gì mà Lê Quýnh khoác lác khi xin quân viện từ Càn Long.

Tôn Sĩ Nghị hỏi hắn về tình hình đất nước ta, Vũ Trinh thưa báo rất rành mạch, lại chỉ đường đi nước bước, cách hành sự, tự nguyện làm điểm chỉ viên và cuối cùng dẫn dắt quân Thanh đi tìm những người nho sĩ có thể chống quân Tàu sau này. Tôn Sĩ Nghị tấm tắc khen rằng Hắn là người ăn nói rất rành mạch. Lê Chiêu Thống hớn hở và liền cử Hắn làm Tham Tri lo việc chính sự giữa triều đình ông vói Tôn Sĩ Nghị. Quân Thanh làm nhiều điều càn dở tại Kinh thành Thăng Long. Phụ nữ Việt không dám ra đường.

Hoàng Lê Nhất Thống Chí viết: “Tuy vua Lê đã được phong Vương, nhưng giấy tờ đưa đi các nơi, đều dùng niên hiệu Càn Long. Vì có Nghị ở đấy nên không dám dùng niên hiệu Chiêu Thống. Ngày ngày sau buổi chầu, vua lại tới chờ ở doanh của Nghị để nghe truyền việc quân, việc nước. Vua cưỡi ngựa đi trước, Lê Quýnh cưỡi ngựa đi sau, quân lính hộ vệ chỉ vài chục người. Người trong kinh có kẻ không biết là vua. Hoặc có người biết, thì họ nói riêng với nhau rằng: Nước Nam ta từ khi có đế, có vương tới nay, chưa thấy bao giờ có ông vua luồn cúi đê hèn như thế. Tiếng là làm vua, nhưng niên hiệu thì viết là Càn Long, việc gì cũng do viên tổng đốc, có khác gì phụ thuộc vào Trung Quốc?”.

Ô nhục. Trách nhiệm của Hắn? Tại sao Hắn đã để nỗi ô nhục này xảy ra trên chính kinh thành Thăng Long?. Chừng đâu được vài tháng, người con yêu của đất Bình Định tên là Nguyễn Huệ giận căm gan tức tốc kéo quân ra Bắc dần quân Thanh một trận ra trò. Lê Chiêu Thống ôm chân Tôn sĩ Nghị chạy theo. Đến năm 1792 thì Chiêu Thống mất tại Tàu lúc này mới tròn 28 tuổi. Vũ Trinh trốn biệt. Giá như vua Quang Trung nhà mình đừng vì bận việc quân mà cho lệnh tróc nã bắt kẻ bẩn thỉu này thì quốc gia này đở được một tên Việt Gian làm thầy dùi cho chính sách đội Hán lên đầu về sau này của một tân triều.

Năm Nhâm Tuất, 1802, Gia Long thắng trận, cử đệ nhất công thần của mình là tướng tiền quân Nguyễn Văn Thành làm Tổng trấn Bắc thành. Vũ Trinh tự nguyện bò ra xin làm quan. Y được nhận ngay chức Thị trung học sĩ làm việc tại triều. Nguyễn Văn Thành chọn Hắn làm thầy dạy cho trai mình là Nguyễn Văn Thuyên. Năm 1809, Hắn được cử làm chánh sứ sang Yên Kinh (Bắc Kinh) dâng lễ cống và mừng thọ vua Thanh. Lúc này Càn long đã ban cho quốc hiệu với cái tên Việt nam, 1804. Việc đã rõ, Gia Long chỉ mơ được làm vua nước nhỏ Việt Nam nên lấy việc đội Hán và thờ Hán là “chuyện thường ngày của huyện”.

Gia Long chưa từng làm vua nước lớn Đại Việt (nước Việt lớn) vinh quang bao giờ. Trên đường đi sứ, lòng hớn hở, Hắn viết quyển “Sứ Yên thi tập” (Tập thơ đi sứ Yên Kinh, có lẽ không ngoài ngợi ca 5 chữ vàng mà hắn là người tiền nhiệm “chỉ đạo” cho Nguyễn Du ở trên. Trở về nước, Hắn được Gia Long phân công cùng với Tổng trấn Bắc Thành là Nguyễn Văn Thành gấp rút soạn bộ luật Gia Long (tức Hoàng Việt luật lệ). Hắn được thăng Hữu tham tri bộ Hình, 1813.

Năm 1815 bộ luật này với “công trình “copy paste” này (chép 388/389 điều) từ bộ luật của Thanh triều hoàn tất; Gia Long chấp thuận. Một bước lùi trong lịch sử dân tộc ta. Các quyền căn bản nhằm bảo vệ cho những ai dễ bị tổn thương được soạn ra với gần 400 điều độc đáo trong hơn 700 điều của nước Đại Việt ta được soạn ra từ thời Lê Lợi, Nguyễn Trãi kéo dài mãi đến tận đến đời Lê Thánh Tông và về sau này, nhằm bảo vệ cho người phụ nữ, cho người bị tàn tật, quyền được bảo vệ của trẻ em, quyền được bảo vệ của người già, quyền được bảo vệ của trẻ vị thành niên trong bộ luật Hồng Đức đều bị bãi bỏ. Xấu hổ! và rất đáng lên án cho những ai dựng luật cho quốc gia mà chỉ biết có mỗi “copy và paste”.

Năm 1816, khi đã thấy vững ngai vàng, đã có luật Thanh trong tay, Gia Long đặng chim bẻ ná, tránh kẻ thù tiềm ẩn cho con cháu mình, Gia Long tìm mọi cách giết cho bằng được đệ nhất công thần Nguyễn Văn Thành. Qua bài thơ chữ Hán của con ông Thành mà Vũ Trinh là thầy dạy, cha con Thành-Thuyên bị kết án tử hình. Hắn bị lột chức và bị đày vào Quảng Nam. Tại đây một phụ nữ Quảng Nam vô phước vì không biết nguồn gốc Hắn đã chịu làm vợ hắn, khiến quê ngoại bà bị xấu lây. Có lẽ tập “Sứ Yên thi tập” mà hắn đem theo vào cuối đời đã bị một người Quảng Nam nào đó xé bỏ”?”. Ba thứ ruồi bu này để chi cho chật nhà!.

Bạn thấy đó, chân dung của kẻ đội Hán lên đầu như thế đó?, cho dù là hắn đã có lần tìm đến và xưng mình là anh rễ của Nguyễn Du mà Nguyễn Du không biết đấy thôi. Cha mình có nhiều vợ quá làm sao mà biết mặt cho hết, Nguyễn Du làm thinh với ông anh rễ bất đắc dĩ này. Anh ruột ông, anh rễ ông là những quan đại thần theo phò Tây Sơn cùng thời với học trò “Ông Già” là La San Phu Tử Nguyễn Thiếp (1723-1804), người nhận giúp vị tướng trẻ có tấm lòng với dân tôc là danh tướng Nguyễn Huệ.

Làm sao mà Nguyễn Du nhìn mặt, tâm tình nói chuyện cho được với một Việt Gian. Hai khí phách khác nhau, cho dù về lãnh vực bằng cấp Nguyễn Du chỉ có cái tú tài lận lưng thua kém cái bằng cử nhân Hương Tiến của hắn khá xa. Không sao, bằng cấp là một chuyện, thi cử là một chuyện khác, hơn thua nhau là sức tự học, sức đọc và phương pháp làm việc kia mà. Nguyễn Du qua con đường tự học đã trở thành một bậc thầy vĩ đại trong nền văn chương Việt, trong khi muôn đời hắn chỉ là tác giả của vài ba tác phẩm chữ Hán vớ vẩn. Nguyễn Du chỉ không thèm nói mà thôi, ở đó mà cầm tay “Chỉ đạo” ” Trung Hoa tận ôn bão”. Thật nực cười!.

Nguyễn Du về sau biết rất rõ Gia Long sau khi Ông làm việc tại triều đình Huế. Người hết rước giặc Thái là quay sang rước giặc Tây, cứ như xoành xoạch. Đa phần tướng lãnh của Gia Long người Tàu rặt hay người có cha Tàu mẹ Việt, họ đi lại đầy trong hoàng cung. Nguyễn Du chạm mặt hàng ngày. Gia Long giao tiếp với họ hằng ngày lâu dài nên bị ảnh hưởng Tàu và ta không lấy làm lạ khi mà Gia Long lại quyết tâm đội Hán lên đầu sâu đến như vậy và cam tâm thà làm vua một nước nhỏ mà đời đời thế mà ấm hơn. Xây lăng tẩm, dời kinh đô, bỏ chữ Nôm, trả thù theo phong cách Tàu, giết trung thần, nhất nhất đều theo phong cách Tàu. Một vết ô nhục muôn đời trong chính sử, làm sao mà Nguyễn Du không nhận ra được, thế nên Nguyễn Du chèn câu “Phàm nhân nguyện tử bất nguyện bần, 凡人愿死不愿貧” tạm dịch thơ, Sống chi quá khổ chết thì sướng hơn hay Khổ quá cha, ước chết, _xong đời!, hay nói theo khẩu ngữ Quảng Nam, quê tôi, “Sống đà quá khổ chết mà sướng nu!”.

Có lẽ Nguyễn Du thấy lớp đàn anh mình, như La Sơn Phu tử, người học trò cưng của cha mình ngày xưa, trước khi về cộng tác với một tân triều bao giờ lớp này họ cũng đưa ra điều kiện tiên quyết để có thể cộng tác ” Rằng Ngài đội dân tộc này lên đầu hay Ngài đặt quyền lợi dòng họ, bè đảng mình lên đầu?”. La Sơn Phu tử đã làm thế với vị danh tướng trẻ có tên là Nguyễn Huệ.

Sau khi Gia Long lên có lẽ các đàn anh mình gồm những người được Tây sơn trọng dụng là La San Phu Tử Nguyễn Thiếp (1723-1804), anh ruột mình là Nguyễn Nễ, anh vợ mình là Đoàn Nguyên Tuấn (1750-mất sau 1802) họ đều đã dạn dày kinh nghiệm sống nên họ đã khéo léo từ chối lời mời của Gia Long mà không bị Gia long căm thù dè chừng. Họ đã tự bảo vệ mình, và có lẽ họ khéo né và đã giới thiệu chú em mình (Nguyễn Du ) có thể gánh vác được và chúng tôi nay đã già quá rồi. Nguyễn Du sau này có lẽ ngộ ra điều ấy và tự giận mình không đủ bề dày lịch sử như các ông anh, đã cộng tác với Nguyễn Ánh mà không đặt điều kiện tiên quyết; nghĩ mình đã hèn, thế nên ông trở nên ít nói khi ở kinh thành Huế.

Ông quyết lòng chết vào năm 1820, lúc này vai trò chánh sứ thêm một lần nữa đang chờ ông. Tại kinh thành, bịnh tả là bệnh truyền nhiễm, nhiều người bệnh cùng lúc đâu phải một mình ông, thuốc men nhiều, thầy thuốc giỏi tại sao ông chết nhanh vậy?. Chỉ có ông mới tự quyết định được sự sống chết của mình mà thôi. Ông đã từ chối cho cháu mình đổ thuốc. Thái độ thật đáng kính của một kẻ sĩ sau khi biết tận tim đen của một vì vua quá khiếp nhược với Tàu và đã cam tâm đội Hán lên đầu, chắc chắn chính sách này sẽ dẫn dân tộc này vào chỗ lầm than, mình nay là một “chính khách” khó qua miệng lưỡi thế gian. Chuộc sai lầm, Nguyễn Du viết Đoạn trường tân thanh, tân khúc nghe qua mà đứt ruột. Thật là minh triết. Một đại kẻ sĩ!

III –Tham khảo và tâm tình

Các bạn có thể đọc dòng chính sử từ nguồn vi-wikipedia. http://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%AA_Chi%C3%AAu_Th%E1%BB%91ng

1-.”Thái hậu đưa nguyên tử (con trai Chiêu Thống) đến yết kiến ở trong sân, gào khóc xin cứu viện. Bọn Sĩ Nghị tâu với vua Thanh rằng tự hoàng nhà Lê đương phải bôn ba, đối với đại nghĩa, ta nên cứu viện. Vả lại, An Nam là đất cũ của Trung Quốc, sau khi khôi phục nhà Lê, ta nhân đó, đặt lính thú để đóng giữ. Thế là vừa làm cho nhà Lê được tồn tại, vừa chiếm lấy được An Nam: thật là làm một chuyến mà được hai lợi.”. .

2- Năm 1804, vua Gia Khánh nhà Thanh cho phép đưa linh cữu vua Lê, thái hậu và con trai Chiêu Thống về nước. Ngày 13 tháng 8 năm 1804, Gia Long nhận lại đám người này, có một số được trọng dụng, hay học hành lại và thi cử đỗ đạt (bọn này đã bị Tàu hóa rồi, họ sẽ trở thành Việt gian cả thôi). Họ ra làm quan. Bọn người này vốn đã hèn mạt vì đã chịu để róc tóc đuôi Sam, trừ Lê Quýnh không chịu cắt tóc.

Đoàn người 300 người theo Lê Chiêu Thống chịu cắt tóc để trở thành người Thanh kia mà. Triều đình nào thì có kẻ viết sử như thế ấy. Một vương triều đốn mạt.

3- Không biết người Hanoi nay đang ở trong “Ngõ 124 Thụy Khuê (Tây Hồ, Hà Nội)” nhìn bọn dưới Trần Danh Án với con mắt nào?. Họ là trung thần của nhà Lê?. Họ là những kẻ tội đồ của dân Việt đến muôn đời ?. Có bao nhiêu người biết?

4- Tự Đức, vị vua giết anh, chính sử còn ghi. Vị vua này hèn với giặc ác với dân (đàn áp tàn khốc người dân, đa phần là dân nghèo không tiền đóng thuế thân bị buộc phải đi làm xâu cấn trừ, họ ăn đói để xây Khiêm Lăng, trong khi giặc Pháp đã chiếm một phần Nam Kỳ Lục Tỉnh), đã có lời phê về Chiêu Thống, đại ý nói:

“Nhà vua bị người ta lừa gạt, bị giám buộc ở quê người đất khách, đến nỗi lo buồn phẫn uất, ôm hận mà chết, thân dẫu chết, nhưng tâm không chết, kể cũng đáng thương! Vậy nên truy đặt tên thụy là Mẫn Đế”.

Nhắc Bạn Hiền một chút lịch sử rằng, chỉ 20 năm thôi dưới bóng quân Tàu (nhà Minh) mà đất nước ta đã tiêu tan gần 500 tinh hoa văn hóa Đại Việt. Tinh hoa Lý Trần, sách vở binh pháp do Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Phạm Ngũ Lão viết nay đều không còn. Lê Chiêu Thống là tên vua đầu tiên trong lịch sử nước ta rước Tàu vào tàn phá đất nước. Gia long cũng thế, nhưng lần này thì rước Tây. Đất nước dân tộc ư? Không có khái niệm này trong đầu những người Việt cướp chính đất nước mình như thế này. Sau này Tự Đức, một vì vua hèn với giặc và ác với dân (đàn áp dân vô tội bị xung công xây Khiêm lăng cho ông), Tự Đức có đủ khôn không khi công quỷ khô cạn, lính không đủ cơm ăn mà phải ngày đêm chống Pháp xâm lược, lệnh xuất tiền xây đền tưởng niệm cho vì vua bán nước và các trung thần của Lê Chiêu Thống. Tự Đức truy đặt tên thụy cho Lê Chiêu Thống là “Mẫn đế”. Thì ra ông cố nội ông cũng là thứ buôn dân bán nước thứ gộc. Ngưu tầm ngưu mã tầm mã!

5-Gia Long tin dùng Hắn ngay sau khi chiến thắng. Đến năm 1804 thì Gia Long tiếp nhận một đợt thứ hai “hèn nhân” do Lê Quýnh dẫn về, đoàn người khi đi theo Lê Chiêu Thống có gần 300 người đi theo lúc ban đầu, đa phần là người còn rất trẻ. Bọn này sau trở thành Việt Gian hết thảy, bọn chúng đã cắt tóc đuôi Sam.

6- Chân dung người học trò của cha Nguyễn Du, La San Phu Tử Nguyễn Thiếp http://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n_Thi%E1%BA%BFp.

“Năm 1791, vua Quang Trung lại cho mời ông vào Phú Xuân để bàn việc nước. Vì cảm thái độ chân tình ấy, nên lần này ông đã nhận lời (trước đó ông đã từ chối 3 lần). Đến gặp, ông đã dâng lên vua Quang Trung một bản tấu bàn về 3 vấn đề:

Một là “Quân đức” (đại ý khuyên vua nên theo đạo Thánh hiền để trị nước);

Hai là “Dân tâm” (đại ý khuyên vua nên dùng nhân chính để thu phục lòng người), và

Ba là “Học pháp” (đại ý khuyên vua chăm lo việc giáo dục). Tuy là ba, nhưng chúng có quan hệ mật thiết với nhau và đều lấy quan niệm “dân là gốc nước” làm cơ sở.

Nguyễn Thiếp viết: “Dân là gốc nước, gốc vững nước mới yên”.

Những lời tấu ấy được nhà vua nghe theo. Ngày 20 tháng 8 (1791), nhà vua ban chiếu lập “Sùng chính Thư viện” ở nơi ông ở ẩn và mời ông làm Viện trưởng . Kể từ đó, ông hết lòng chăm lo việc dịch sách chữ Hán ra chữ Nôm để dạy học và phổ biến trong dân. Chỉ trong hai năm, ông đã tổ chức dịch xong các sách: Tiểu học, Tứ thư, Kinh Thi, và chủ trì biên soạn xong hai bộ sách là Thi kinh giải âm và Ngũ kinh toát yếu diễn nghĩa.

Tháng 9 năm Nhâm Tý (1792), vua Quang Trung đột ngột băng hà, sự nghiệp của Nguyễn Thiếp đành dở dang.”


 

Nguồn bài đăng

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Twitter picture

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Twitter Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s