
Lần đầu tiên 15 làng nghề truyền thống xuất hiện tại hội Bát Tràng 2017 – Báo Lao Động
TS Nguyễn Thu Hiền
Lò nung là cơ sở vật chất- kỹ thuật quan trọng nhất của nghề gốm. Ở Bát Tràng trước đây có nhiều loại hình lò với những đặc điểm, công dụng, ứng với việc sản xuất gốm ở mỗi giai đoạn lịch sử, song có một công thức chung về kích thước, vận dụng tốt các nguyên tắc vật lý trong việc xây cất nên tạo ra kỹ thuật tối ưu so với các loại lò gốm cổ ở nước ta trước đây.
Lò ếch [1] đây là loại lò gốm được xem là cổ nhất nước ta, xuất hiện vào khoảng thế kỷ XVII, có dáng như một con ếch nằm, dài khoảng 7 mét, bề ngang chỗ phình rộng nhất khoảng 3-4 mét, cửa lò rộng khoảng 1m20 và cao 1 mét. Đáy lò phẳng, nằm ngang. Vòm lò chỗ cao nhất khoảng 2- 2,70 mét. Bên hông có một cửa ngách rộng khoảng 1mét, cao1,20 mét để người thợ gốm chồng lò và dỡ sản phẩm. Phía sau của gáy lò có ba ống khói thẳng đứng cao khoảng 3 – 3,5 mét. Lò được dựng bằng gạch dân dụng (trừ vòm lò). Mặt bên trong và sàn được gia cố bằng một lớp đất sét mầu hồng ở làng Vạn Lộc hoặc Đáp Cầu, dày khoảng 6 mét. Một bầu lò được chia ra 5 khu vực để xếp sản phẩm gọi là: hàng dàn, hàng gáy, hàng giữa, hàng chuột chạy và hàng mặt.
Đây là loại lò được cấu trúc nhằm tăng dần nhiệt độ bên trong, dung tích chứa sản phẩm và đặc biệt là hệ thống thông khói kết hợp với việc giữ nhiệt và điều hòa nhiệt trong lò. Loại nguyên liệu chính để sử dụng trong loại lò này là đất được lấy ở 72 gò Bạch Thổ, nhiên liệu chính là dùng cỏ, rơm rạ hay củi để đốt. Trong quá trình vận hành người thợ đã thấy nhược điểm của lớp đất gia cố và thay vào đó bằng lớp gạch mộc và vữa ghép bằng loại đất làm gạch. Phát hiện ngẫu nhiên này đã tạo ra những viên gạch Bát Tràng nổi tiếng.
Lò đàn, được xây dựng với những cấu kiện hoàn chỉnh và có tính năng giữ nhiệt cao. Loại lò này xuất hiện vào khoảng thế kỷ XVIII, có bề rộng 4 mét, bầu lò sâu 9 mét, ngang 2,5 mét, cao 2,6 mét, thiết kế theo kiểu cuốn tò vò. Bên trong chia ra 10 bích bằng nhau, phân cách nhau bằng 2 nống (cột). Cửa lò rộng 0,9 mét, cao 1,2 mét để người thợ vào chồng lò và dỡ lò. Gáy lò là những buồng thu khí qua ba cửa hẹp. Khói thoát ra từ bích đậu theo hai ống thu dần tới miệng. Hông lò kéo dài và ôm lấy buồng thu khói nhằm để giữ nhiệt cho lò khi nung. Lớp vách trong ghép bằng gạch Bát Tràng, lớp vách ngoài xây bằng gạch dân dụng. Mặt dưới của cật lò gần như phẳng, còn mặt trên khum vòng lên tựa như con thuyền úp. Cật lò được tạo bằng hỗn hợp đất sét Cổ Điển với gạch chín vỡ hoặc gốm vỡ nghiền nhỏ. Hai bên cật, từ bích 2 đến bích 9 ứng với khoảng giữa mỗi bích có 2 cửa nhỏ hình tròn đường kính khoảng 0,2 mét gọi là các lỗ dòi để ném nguyên liệu vào trong. Riêng bích đậu, lỗ dòi rộng hơn nửa mét. Do dùng củi để đốt nên nhiệt độ lò đàn có thể đạt được từ 1250 -1300 độ.
Lò bầu hay lò rồng, loại lò này được xây dựng vào khoảng những năm 30 của thế kỷ XX. Lò có cấu tạo nhiều bầu, thường có 5-7 hay 10 bầu tùy theo nhu cầu. Bầu có vòm cuốn liên tiếp vuông góc với trục tiêu, trông như năm, bảy mảnh vỏ sò úp với nhau. Vòm cuốn lò dùng loại gạch chịu lửa. Độ nghiêng của trục lò so với phương nằm ngang từ 12-15 độ. Lò bầu có thể tích khoảng 50-70m3 . Nhiệt độ của lò có thể đạt 1300 0C.
Ưu điểm nổi trội của lò là có thể điều khiển chế độ nhiệt thích hợp theo yêu cầu của quá trình biến đổi hóa lý phức tạp và cho phép nung được những sản phẩm lớn và có chất lượng cao. Lò sử dụng nhiên liệu chính là củi để nung gốm.
Lò hộp hay lò đứng, xuất hiện vào khoảng năm 1975, lò được xây bằng gạch chịu lửa, cao khoảng 5 mét, rộng 0,9 mét. Kết cấu lò đơn giản, dáng hình hộp, đứng nên gọi là lò hộp hay lò đứng. Lò có hai cửa ở hai đầu, chiếm ít diện tích và chi phí thấp, thích hợp cho các gia đình sản xuất nhỏ. Nhiệt độ trung bình có thể đạt đến 12500C, nhiên liệu chủ yếu để đốt lò là củi và than.
Có thể nói, lò gốm ở Bát Tràng vận dụng nguyên lý “Hỏa thăng thượng” (lửa bốc lên) và “Hỏa sinh phong” (có lửa ắt sinh thành gió) để lửa được cháy đều và thông khói; song có một số điểm khác biệt:
Thứ nhất, lò nung tuy có thể tích và diện tích lớn nhưng không chia ra thành nhiều ngăn nhỏ, nên nhiệt lửa lan tỏa đều, làm cho men chảy, sản phẩm chín đều.
Thứ hai, lò nung được cấu tạo để khi đun không phải cào bớt tro hay các phần xỉ ở than ra; mà cứ tra củi liên tục, lửa luôn cháy đều, tro bốc ra theo khói, không còn đọng lại trong lò.
Thứ ba, lò ở Bát Tràng không xây theo kiểu cuốn tò vò. Xung quanh 4 mặt xây 2 lớp vách lò, cao độ 3 – 4 mét, lớp vách trong xây bằng đất thó, vách ngoài xây gạch với vôi hồ như một bức tường thường. Hai vách (ở hai mặt bên và mặt hậu) cách nhau 2 mét, bên trong đổ đầy đất. Riêng khoảng vách ở mặt tiền có khoảng cách ở hai bên rộng, rồi hẹp dần, đến khoảng giữa của mặt tiền thì hai lần vách này sát liền vào nhau, tạo khoảng trống khoảng vài mét, đây là cửa để người thợ vào và đồng thời cho củi vào lò.
Khi đất đổ đầy và ngang bằng ngọn tường của hai vách lò, lấy đầm đầm kỹ cho chặt và phẳng mặt rồi lát gạch thoai thoải để khi trời mưa nước không bao giờ chảy vào trong cật lò, xuống cửa lò. Phần có lát gạch chạy xung quanh này gọi là “Vét lò”.
Thứ tư, phía trên nóc gọi là cật lò, có dáng hình mui luyện, được đổ bằng thứ đất làm gạch, dày 35 cm, rộng 12 mét, dài 40 mét.
Thứ năm, bậc lên lò khá cao, thường từ trên dưới 30 bậc, mỗi bậc rộng độ 35 cm, dài gần 2 mét, cao bằng 2 thân gạch (tức chiều dày của hai viên gạch, khoảng 15 cm) xây sát vào vách lò theo chiều từ hướng mặt tiền lò đi lên vét lò. Bậc xây này giúp cho việc đi đứng lên xuống rất thoải mái, người gồng gánh nặng từ dưới đi lên không bị chồn chân và mỏi gối.
Một lò gốm ở Bát Tràng có diện tích tối thiểu trên 1000 m2 (gồm lò 500 m2, cùng nơi xếp các đồ phơ, sản phẩm, củi đun, đá hộc, gạch chồng lò…). Nền lò thường cao, để khi trời mưa to, nước không tràn vào lò, vào mùa mưa, nước không ngập.
Với kiểu cấu tạo trên, lò gốm ở Bát Tràng đạt hiệu quả cao khi nung sản phẩm; dù lò đang ở nhiệt độ cao, người đi bên ngoài vẫn không cảm thấy nóng.

Một số sản phẩm của làng nghề gốm Bát Tràng. Niên đại: Thế kỷ 20. Nguồn: Nhà sưu tập Vũ Tấn- Bảo tàng cổ vật Tràng An. © Nguyễn Thu Hiền
Dù hiện nay, những loại hình lò này đã không còn được người làng Bát Tràng sử dụng để nung gốm nhưng chúng đã hoàn thành rất tốt sứ mệnh lịch sử của mình nhờ những ưu điểm vượt trội trên. Từ những lò nung truyền thống này, gốm Bát Tràng đã có mặt ở rất nhiều nơi trong nước và nước ngoài, đưa tên tuổi của làng nghề sản xuất gốm Bát Tràng xứng danh là làng nghề truyền thống của Thủ đô và cả nước.
Tài liệu tham khảo
- Bùi Xuân Đính (Chủ biên), Bát Tràng- Làng nghề, làng văn, Nxb. Hà Nội, 2013.
- Đỗ Thị Hảo, Quê gốm Bát Tràng, Hà Nội, 1989.
[1] Dựa theo phần viết của Nguyễn Quag Ngọc trong cuốn Gốm Bát Tràng- Thế kỷ XIV-XIX (đã dẫn). Tuy nhiên trong tùy bút Đời Tôi, cụ VũVăn Giần không chép loại lò này. Có thể đây là loại lò người Bát Tràng đã không còn sử dụng từ lâu.