Có phải người Trung Quốc là Viêm Hoàng Tử Tôn?

Tượng nữ thần Hồng Sơn phục nguyên có da sáng của chủng Mông Cổ phương Bắc

Hà Văn Thùy

Lịch sử phương Đông có bí ẩn lớn là chuyện người Trung Quốc tự nhận là Viêm Hoàng tử tôn, tức là con cháu của Viêm Đế và Hoàng Đế. Điều này tạo ra sự kiện duy nhất trên thế giới là một dân tộc có tổ kép là hai người đàn ông. Hai đực rựa làm sao sinh ra con cháu? Đã tốn nhiều giấy mực nhằm giải thích điều này nhưng cho đến nay vẫn chưa thông!

Chúng tôi thử đưa ra một cách lý giải.

Muốn làm việc này phải đi tới tận cùng quá trình hình thành sân cư Đông Á để biết Hoàng Đế là ai, Viêm Đế là ai và người Trung Quốc là ai, ngõ hầu từ đó tìm ra mối quan hệ giữa các chủ thể này.

 Khoa học nhân loại thế kỷ mới xác nhận rằng, 70.000 năm trước, người di cư gồm haplogroup M (Australoid) và haplogroup N (Mongoloid) từ châu Phi theo ven Ấn Độ Dương đi tới Việt Nam. Tại Việt Nam, đại bộ phận họ gặp gỡ, hòa huyết sinh ra người Việt cổ mã di truyền Australoid. Trong khi đó một nhóm nhỏ khoảng vài trăm người Mongoloid đi lên Tây Bắc Việt Nam và dừng lại sống biệt lập trong vùng giá lạnh. Vì vậy, suốt thời đồ đá, không thấy người Mongoloid xuất hiện trên đất Việt Nam. (1)

Khoảng 40.000 năm trước, nhờ khí hậu được cải thiện, người Việt cổ đi lên chiếm lĩnh Hoa lục. Trong khi đó, người Mongoloid theo hành lang Ba Thục đi lên đất Mông Cổ. Sống săn hái ở đây cho tới khi kỷ Băng hà kết thúc, họ chuyển sang thuần hóa dê, cừu, bò… thực hành kinh tế du mục. Về cộng đồng người Mongoloid ở Bắc Á này, cho tới nay vẫn bị hiểu lầm là từ châu Phi di cư tới theo con đường phía Bắc. Nhưng chúng tôi khẳng định họ từ Việt Nam đi lên.

Khoảng 7000 năm trước, người Lạc Việt chủng Indonesian nhóm đa số trong người Việt cổ, đem cây lúa, cây kê, gà, chó, lợn lên xây dựng kinh tế nông nghiệp tại Cao nguyên Hoàng Thổ phía Nam Hoàng Hà. Tại đây họ gặp gỡ, hòa huyết với người Mông Cổ du mục, chủ nhân văn hóa Hồng Sơn trên bờ Bắc, sinh ra chủng người mới, được gọi là Mongoloid phương Nam (South Mongoloid). Sau này được nhân học gọi là người Việt hiện đại. Người Việt hiện đại đem nguồn gen Mongoloid chuyển hóa di truyền người Việt cổ Australoid sang chủng Mongoloid phương Nam. Khoảng 5000 năm TCN, người Việt hiện đại trở thành chủ thể dân cư lưu vực Hoàng Hà.(1)

Khoảng 6500 năm TCN, tại Hà Nam ngày nay xuất hiện vị vua và là vị tổ huyền thoại đầu tiên, có tên tuổi của người Việt là Phục Hy – Nữ Oa. Trong nhiều công tích của cụ tổ, lớn nhất là hoàn thành trước tác Kinh Dịch, công trình văn hóa vĩ đại. Xin nhắc lại là của người Việt vì lúc này người Hán chưa ra đời. Một nghìn năm sau Phục Hy, vị vua huyền thoại thứ hai là Thần Nông xuất hiện. Ngoài công tích lớn dạy dân trồng ngũ cốc, biết dùng cây cỏ làm thuốc chữa bệnh…, ông còn lập ra nhà nước đầu tiên ở Đông Á. Truyền thuyết nói, khoảng năm 3300 TCN, từ An Huy, Thần Nông đi xuống vùng Thái Hồ cửa sông Chiết Giang xây dựng kinh đô Lương Chử của nhà nước Thần Nông. Sau 80 năm khai quật và nghiên cứu văn hóa Lương Chử, năm 2016 khảo cổ học Trung Quốc khẳng định, nhà nước Lương Chử được thành lập năm 3300 TCN. Chính đó là nhà nước Thần Nông trong huyền thoại. Nhà nước Thần Nông tồn tại được 1000 năm, tới năm 2300 TCN, nước biển dâng, nhấn chìm kinh đô Lương Chử. Con cháu Thần Nông dời đô về Thành Đầu Sơn Tây Bắc Hồ Động Đình, đổi tên thành nước Văn Lang. Tại đây truyền thuyết ghi, Đế Minh sinh ra Đế Nghi. Đế Nghi sinh ra Đế Lai và Kinh Dương Vương. Lúc này nhà nước Thần Nông gồm toàn bộ Đông Á được Đế Nghi chia đôi cho hai con. Lưu vực Hoàng Hà được gọi là Thần Nông Bắc do Đế Lai trị vì. Lưu vực Dương Tử được gọi là Thần Nông Nam thuộc quyền Kinh Dương Vương.

Thời gian này, người Mông Cổ phương Bắc sống ở phía Bắc Hoàng Hà thường xuyên cướp phá phía Nam. Trên bờ Nam Hoàng hà, nhiều trận chiến ác liệt xảy ra. Năm 2698 TCN, liên quân Mông Cổ du mục do bộ tộc Hiên Viên dẫn đầu, đánh vào Trác Lộc. Quân Việt thua, Đế Du Võng cùng dũng tướng Si Vưu hy sinh. Sau chiến thắng, quân Mông Cổ chiếm đất của người Việt, lập nhà nước Hoàng Đế. Tuy chiến thắng nhưng do số quân ít, mặt khác, do người Việt chống trả mãnh liệt cùng với sự tàn phá của lũ lụt sông Hoàng Hà nên Hoàng Đế không đóng đô tại đồng bằng miền Trung mà kéo về khu vực Tây Bắc, thuộc Sơn Tây, Thiểm Tây lập đô. Khảo cổ học đã phát hiện ở đây vị trí đóng đô cũng như lăng mộ của Hoàng Đế. Xâm lăng Nam Hoàng Hà là cuộc chiến khốc liệt và dai dẳng, để lại dư âm mãi về sau. Cuốn sách Kỳ môn độn giáp đại toàn thư của Trương Tử Phòng và Gia Cát Lượng có câu: Tích nhật Hoàng Đế chiến Si Vưu Trác Lộc kinh kim vị nhược hưu (Ngày xưa Hoàng Đế đánh nhau với si Vưu, trận Trác Lộc tới nay còn chưa dứt) nói về cuộc chiến này. Đánh mãi không thắng (đánh mười trận thì chín trận không thắng) Hoàng Đế nghe lời mưu thần, dùng văn hóa phương Nam phủ dụ người Việt đồng thời thực hành chính sách khoan hòa, không giết hại hay bắt người làm nô lệ, cho cày cấy trên ruộng của mình, chỉ phải đi lính và mức thuế thích hợp. Dân coi miếng ăn là trời (dân dĩ thực vi thiên) nên quy thuận và ủng hộ chính quyền. Nhờ vậy Hoàng Đế xây dựng được nhà nước mạnh.

Xuống Nam Hoàng Hà, đội quân của Hoàng Đế bỏ phương thức du mục lại đồng cỏ phía Bắc, một bộ phận làm lính, làm quan cai trị, đi buôn. Đa số học cách làm ruộng và sống chan hòa với người Việt. Do chung sống nên diễn ra kết hôn Việt Mông và lớp người lai Mông – Việt ra đời. Ta biết, người Mông Cổ du mục thuộc chủng Mongoloid phương Bắc (North Mongoloid) có nước da trắng sáng như người thuộc văn hóa Hồng Sơn vùng Nội Mông. Trong khi đó, người phía Nam thuộc chủng Mongoloid phương Nam, có nước da ngăm đen như da của đồng bào Tây Nguyên hiện nay. Vì vậy, người Mông Cổ gọi người Việt bản thổ là lê dân với nghĩa là dân đen, dân có màu da đen. Người Mông Cổ xâm nhập cùng con cháu họ hình thành tầng lớp riêng, có nước da sáng hơn, tự nhận là Hoa Hạ.

Nhận đặc quyền từ cha ông thống trị cộng với bản tính năng động, sáng tạo và quyết đoán do nếp tư duy phân tích của tổ tiên du mục, họ trở nên thành phần ưu tú. Đần dần thay thế cha ông Mông Cổ lãnh đạo xã hội, đưa lại nhiều thành tựu kinh tế văn hóa rực rỡ thời Nghiêu, Thuấn, Vũ, làm nên thời Hoàng Kim trong lịch sử Trung Hoa.

Như đã nói ở trên, số lượng người Mông Cổ ít trong khi người Việt quá đông nên chỉ sau vài thế hệ, dân cư nhà nước Hoàng Đế không còn người Mông Cổ mà tất cả là Việt, sắc da nhọ nhọ như nhau. Thí dụ như trong phả hệ của Hoàng Đế thì ông và con ông Chuyên Húc có nước da trắng. Nhưng tới cháu ông là Đế Khốc thi da đen như con chim cốc nên được đặt tên Đế Khốc. Hậu duệ của ông ngày càng được Việt hóa, có nghĩa là sắc da ngày thêm đậm. Ta có thể thấy rằng, sau một số thế hệ, lớp người da trắng được gọi là Hoa Hạ không còn mà mọi người màu da ngăm như nhau. Nhưng do vinh quang của Hoa Hạ trong quá khứ nên ai cũng muốn nhận là Hoa Hạ.

Ngay từ khi hình thành, một cách tự nhiên, cộng đồng Hoa Hạ nhận Hoàng Đế là tổ. Điều đó là phù hợp. Nhưng rồi có nhiều con cháu của Viêm Đế ăn theo, thấy người sang bắt quàng làm họ, biết máu mình chẳng có gram “Hoàng Đế” nào cũng nhận là Hoa Hạ để được chen chân vào hàng quý tộc. Vì vậy nảy nòi đám Hoa Hạ dỏm ngày một đông! Khốn nỗi, mỗi họ chỉ có một ông tổ. Một khi nhận Hoàng Đế làm tổ đương nhiên phải bỏ Viêm Đế. Theo thời gian, lũ lượt kẻ vì hám lợi đã bỏ tổ tiên Viêm Đế để theo ông tổ nhận vơ. Nhưng rồi đến một ngày nào đó, có những người từng đổi họ, nổi lòng trắc ẩn: vì chữ danh, vì mối lợi, mình trở thành kẻ lạc loài phản tổ, chối bỏ cội nguồn máu huyết! Những người cùng nỗi lòng đã gặp nhau và nghĩ: làm sao vẫn nhận tổ Hoàng Đế mà không bỏ tổ Viêm Đế? Sau nhiều suy nghĩ, bàn thảo, họ đưa ra phương án: tạo ra vị tổ kép cả Viêm Đế lẫn Hoàng Đế. Vậy là họ dùng quyền năng sáng tạo huyền thoại, thỉnh Cụ Viêm Đế xuyên không 500 năm từ quá khứ về ngồi cùng mâm với Hoàng Đế để họ khấn vái làm tổ tiên! Từ đó họ chế tác ra vị tổ kép Viêm-Hoàng rồi tự nhận là Viêm Hoàng tử tôn! Nhận thấy cách làm hay, vừa hợp thức hóa ông tổ nhận vơ Hoàng Đế oai phong vừa giữ được ông tổ máu huyết Viêm Đế nên người người nô nức theo. Viêm Hoàng tử tôn chẳng mấy chốc trở nên con đàn cháu đống. Họ rất tâm đắc về sáng kiến của mình chế tác ra vị tố kép đủ sức bao chứa toàn bộ dân Trung Quốc, làm thỏa mãn tất cả mọi người. Vì vậy, lần đầu tiên trên thế giới, vị tổ kép ra đời. Một trò ảo thuật biến tất cả mọi người dân Trung Quốc thành con cháu Viêm Hoàng!

Đọc tới đây hẳn không ít người còn nghi vấn: ngoài việc truy về nguồn gốc như đã trình bày thì có chứng cứ nào cụ thể để nói Hoàng Đế và người của ông thuộc chủng Mông Cổ phương Bắc?

Ta thấy, mặc dù thời gian đã lùi xa khiến nhiều điều bị xóa mờ nhưng vẫn còn không ít dấu vết:

  1. Trước hết ở trận Trác Lộc. Đứng về chiến thuật, thì vị trí của Trác Lộc ngay sát bờ Hoàng Hà. Nếu Si Vưu và Hoàng Đế là hai bộ tộc của cùng chủng tộc thì khi đánh nhau, họ sẽ đưa vào bên trong nội đồng mà không kéo nhau ra bờ sông. Trận đánh Trác Lộc chứng tỏ người bờ Nam đã lập phòng tuyến để ngăn quân xâm lăng vượt sông tiến đánh. Mặt khác, nếu là chiến tranh trong nội bộ người Việt thì mỗi bên không thể tập hợp lực lượng đông đến thế và cũng không khốc liệt đến thế.
  2. Thứ hai là con người. Truyền thuyết nói về cộng đồng người Hoa Hạ xuất hiện sau trận đánh là cộng đồng có màu da sáng hơn so với dân bản địa. Nhiều thư tịch ghi rằng, người Hoa Hạ gọi người Việt bản địa là lê dân, chỉ những người có nước da đen. Ngay trong phả hệ của Hoàng Đế cho thấy, Hoàng Đế và Chuyên Húc da trắng nhưng sau đó, Đế Khốc da đen. Đến ông Tiết tổ nhà Thương, ông Tắc tổ nhà Chu càng đen thêm. Đó là do các vị hòa trộn máu với người Việt bản địa nên nước da chuyển theo màu da bản địa.

iii. Về ngôn ngữ. Người Nam Hoàng Hà là người Lạc Việt nên nói tiếng Việt theo ngữ pháp Việt mà ta vẫn gọi là nói xuôi với thành phần chính đứng trước, thành phần phụ đứng sau. Thí dụ nói: Tôi đi trước, thịt gà… Nhưng người dân trong nhà nước Hoàng Đế mà sau này là người Hán nói khác: thành phần chính đứng sau, thành phần phụ đứng trước. Thí dụ : Tôi trước đi, gà thịt… Đó là nói theo ngữ pháp Mông Cổ. Hiện tượng này chỉ xảy ra khi người Mông Cổ thống trị, bắt buộc người dân nói theo cách nói của họ. Do vậy tiếng nói của người Hoa Hạ xấu đi. Vào thời Xuân Thu, Khổng Tử phải kêu gọi dân chúng nói theo nhã ngữ là tiếng nói thanh nhã của miền Nam. Tương tự như vậy, người Nguyên, người Thanh bắt người Trung Quốc nói theo họ khiến cho tiếng Trung Quốc trở nên xấu xí.

Với những chứng cứ vừa dẫn đủ để tin rằng Hoàng Đế và quân của ông là người Mông Cổ phương Bắc đánh chiếm Nam Hoàng Hà.

Kết luận.

Hoàng Đế dẫn đội quân xâm lăng chiếm lưu vực Hoàng Hà. Do đường lối cai trị khôn khéo, ông được người Việt tuân phục và đạt nhiều thành công, mở ra thời đại Hoàng kim trong lịch sử. Người Trung Quốc đã quy cho ông rất nhiều công lao to lớn trong đó có những điều mà ông không thể làm được. Theo lệ công quy vu trưởng thì đó cũng bình thường. Nhưng việc nhận Hoàng Đế làm tổ là có vấn đề. Theo ý nghĩa thông thường thì tổ tiên, dòng dõi chỉ gồm những người cùng huyết thống. Việc suy tôn một kẻ ngoại tộc xâm lược vào chiếm đất, giết dân thành tổ tiên của cả một dân tộc, loại bỏ những vị tổ máu huyết là điều chưa từng có trong lịch sử thế giới. Phải chăng đó là biệt lệ chỉ có ở người Trung Hoa? Việc chế tác ra tổ kép Viêm Hoàng dẫn tới hệ lụy sau:

  1. Dù công trạng tới mấy nhưng là ngoại tộc thì không thể là tổ của một dòng họ đã có. Nhận Hoàng Để làm tổ, người Trung Quốc làm rối loạn cương thường, mắc tội nhận giặc làm cha.
  2. Nhận Hoàng Đế làm tổ mặc nhiên truất phế các vị tổ tiềm nhiệm, xúc phạm sự tôn nghiêm thiêng liêng của đòng giống.
  3. Rút ngắn lịch sử dân tộc Trung Hoa ra đời 7000 năm trước tại làng Bán Pha Thiểm Tây, chỉ còn 4700 năm, từ trận Trác Lộc, quá trẻ so với các dân tộc phương Đông.
  4. Với khoảng 20.000 người vào Nam Hoàng Hà năm 2698 (chúng tôi phỏng đoán), nhóm quân Mông Cổ quá nhỏ so với khối người khổng lồ hậu duệ của Viêm Đế. Đến nay gen của họ dường như biến mất khỏi cộng đồng dân tộc Trung Hoa, vốn là người Việt. Một vị tổ đích thực phải có bộ gen trường tồn trong cộng đồng dân tộc của mình. Hoàng Đế không có điều này nên chỉ còn là ông tổ ảo! Huyết thống là thiêng liêng, không thể đánh tráo, hay lừa đảo. Việc nhận Hoàng Đế làm tổ đã tạo nên vấn nạn về cội nguồn nhức nhối của dân tộc Trung Hoa.

                                                                        Sài Gòn, ngày 8. 10. 2023


Tài liệu tham khảo:

  1. Hà Văn Thùy. Tiền sử người Việt. NXB Hồng Đức. HN, 2020

21 thoughts on “Có phải người Trung Quốc là Viêm Hoàng Tử Tôn?

  1. Khoảng 7000 năm trước, người Lạc Việt chủng Indonesian nhóm đa số trong người Việt cổ, đem cây lúa, cây kê, gà, chó, lợn lên xây dựng kinh tế nông nghiệp tại Cao nguyên Hoàng Thổ phía Nam Hoàng Hà. Tại đây họ gặp gỡ, hòa huyết với người Mông Cổ du mục, chủ nhân văn hóa Hồng Sơn trên bờ Bắc, sinh ra chủng người mới, được gọi là Mongoloid phương Nam (South Mongoloid). Sau này được nhân học gọi là người Việt hiện đại.
    Vậy người Việt hiện đại ngày nay có được sinh ra ở Trung Quốc, người Lạc Việt chủng Indonesian hòa huyết với người Mông Cổ du mục, vậy người Việt hiện đại là con cháu của người Mông Cổ du mục vì người Việt hiện đại ngày nay được xếp vào Đại chủng Mongoloid, tức là người Mông Cổ Du Mục theo tác giả bài viết. Vậy người Việt hiện đại và người Lạc Việt chủng Indonesian có quan hệ gì không khi họ là chủng Indonesian, người Việt hiện đại là chủng Mongoloid. Hậu duệ và chủ nhân thực sự của người Lạc Việt chủng Indonesian là người Nam Đảo, malai thì có vẻ đúng hơn vì họ thuộc chủng Indonesian, hoặc có thể là thổ dân Châu Úc mới chính là hậu duệ trực tiếp của Lạc Việt chủng Indonesian.
    Kiểu này lịch sử Thế giới phải viết lại hết, không chỉ riêng các nước Đông Á. Ôi trời ơi, tôi đang viết gì đây trời, cuối cùng ta là ai?

    Thích

  2. Xin chào Chính sử
    Đúng như bạn nói, sang thế kỷ XXI, sử của mọi dân tộc đều phải viết lại.
    Những điều bạn nói đã diễn ra như sau. 70.000 năm trước, chủng Australoid và Mongoloid từ châu Phi di cư tới VN. Trên đất VN, họ gặp gỡ, hòa huyết sinh ra người Việt cổ chủng Lạc Việt Indonesian, Melanesian, Negrito. Trong khi đó, có những nhóm nhỏ Mongoloid đi lên Tây Bắc VN và sống biệt lập ở đó. 40.000 năm trước, người Việt cổ đi lên Hoa lục và sống săn hái ở đây! Trong khi đó người Mongoloid từ Tây Bắc đi lên đất Mông Cổ.
    7000 năm trước, tại làng Bán Pha tỉnh Thiểm Tây, người Việt cổ Indonesian gặp gỡ, hòa huyết với người Mông Cổ du mục sinh ra người Mongoloid phương Nam, được gọi là người Việt hiện đại. Người Việt hiện đại hòa huyết với người Việt cổ để chuyển hóa di truyền người Việt cổ sang người Việt hiện đại và tăng nhân số trở thành chủ lực của lưu vực Hoàng Hà. Khoảng 4000 năm trước, người Việt hiện đại đi xuống Nam Dương tử và VN, hòa huyết với người Viêt cổ tại chỗ để chuyển hóa di truyền người Việt cổ thành người Việt hiện đại. Như vậy, người Việt hiện đại là con cháu của người Việt cổ.
    Người Nam Đảo, Mã Lai chủng Indonesian là do người Việt cổ Indonesian từ Việt Nam di cư ra Sundaland 50.000 năm trước sinh ra.

    Những điều này tôi đã trình bày kỹ trong cuốn Tiền sử người Việt, NXB Hồng Đức năm 2020. Cần tìm hiểu thêm xin bạn đọc cuốn đó. Cảm ơn bạn đã đọc một cách nghiêm túc.

    Thích

  3. Chào bạn Chánh,
    Truyền thuyết thì nhiều. Nhưng truyền thuyết được biết nhiều nhất là Thần Nông Viêm Đế vị tổ của phương Đông. Trong khi đó, Đế Du Võng là cháu của Đế Lai, cũng là cháu nhiều đời của Thần Nông. Ông cùng anh hùng Si Vưu đánh trận Trác Lộc và hy sinh năm 2698 TCN.

    Thích

  4. Chào bạn Hieu Tran Dinh,
    Trong bài viết, tôi đã trình bày cụ thể. Nếu bạn thấy sai chỗ nào xin làm ơn chỉ ra cụ thể, tôi mới biết đường sửa chữa, còn nói mơ hồ như thế thì xin thua. Cảm ơn bạn.

    Thích

  5. Trả lời bạn Chính sử.
    Nếu bạn hiểu thế này thì sẽ không bị rối:
    – Người Lạc Việt chủng Indonesian là một nhóm người thuộc chủng Indonesian. Nhóm người này (Lạc Việt chủng Indonesian ) cư trú trên một địa bàn rộng lớn, trong đó có vùng Bắc Bộ Việt Nam hiện nay.
    – Chủng Indonesian còn bao gồm nhiều nhóm người; những nhóm người này về sau trở thành các sắc dân Mã Lai hiện đại, Indonesian hiện đại và các sác dân Tây Nguyên Việt Nam hiện đại.
    – Người chủng Indonesian (còn gọi là chủng Mã Lai cổ) tạo nên nền văn hoá Hoà Bình.
    – Chủng Indonesian là kết quả lai giống (hoà huyết) giữa đại chủng Australoid và đại chủng Mongoloid với tính Australoid ngang bằng với tính Mongoloid.
    – Kết quả lai giống (hoà huyết) giữa đại chủng Australoid và đại chủng Mongoloid còn sinh ra các chủng: Melanesian, Negrito. Chủng Negrito có tính Australoid nhiều hơn so với tính Mongoloid.
    – Người Việt hiện đại là kết quả lai giống (hoà huyết) giữa chủng Indonesian với (đại) chủng Mongoloid. Đây là sự lai giống lần thứ 2 (có thể là lần thứ n). Điều này làm tăng tính Mongoloid nhiều hơn so với tính Australoid. Do đó người Việt hiện đại được liệt vào đại chủng Mongoloid, cụ thể hơn là chủng Mongoloid Phương Nam.
    – Thổ dân Châu Úc hiện đại chính là chủng Negrito.
    – Thổ dân Châu Úc hiện đại thuộc đại chủng Australoid (dịch ra tiếng Việt là chủng Châu Úc).

    Thích

    • Như vậy người Việt hiện đại là hậu duệ của Người Lạc Việt chủng Indonesian hay là hậu duệ của (đại) chủng Mongoloid? Người Da đen lai với người da vàng, sinh ra người da vàng (có tý huyết của người da Đen) liệu có thể gọi là hậu duệ người da Đen không? Người Nam Mỹ hiện đại họ là hậu duệ của người Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha da trắng hay là hậu duệ của người Da đỏ bản địa? bởi vì trong dòng máu của họ đều có tý huyết hoặc nhiều huyết của người Da đỏ bản địa.
      Nếu nói vậy các sắc dân Mã Lai hiện đại, Indonesian hiện đại và các sắc dân Tây Nguyên Việt Nam hiện đại mới là hậu duệ trực tiếp của người Lạc Việt. Còn người Việt hiện đại là người Trung Quốc vì sinh ra ở Trung Quốc bằng cách lai giống (hoà huyết) giữa chủng Indonesian với (đại) chủng Mongoloid. Tức là Người Lạc Việt chủng Indonesian lai giống với người Mongoloid mới sinh ra người Việt hiện đại. Còn Người Lạc Việt chủng Indonesian sau này là sắc dân Mã Lai hiện đại, Indonesian hiện đại và các sắc dân Tây Nguyên Việt Nam hiện đại.

      Thích

  6. Tác giả ghi:
    “Tại đây truyền thuyết ghi, Đế Minh sinh ra Đế Nghi. Đế Nghi sinh ra Đế Lai và Kinh Dương Vương. Lúc này nhà nước Thần Nông gồm toàn bộ Đông Á được Đế Nghi chia đôi cho hai con. Lưu vực Hoàng Hà được gọi là Thần Nông Bắc do Đế Lai trị vì. Lưu vực Dương Tử được gọi là Thần Nông Nam thuộc quyền Kinh Dương Vương”
    Điều này không khớp với kiến thức, ghi nhận của đại đa số.
    Theo đó, Đế Minh sinh Đế Nghi và Lộc Tục. Đế Minh giao cho Đế Nghi cai quản một nửa giang sơn ở phía Bắc, giao cho Lộc Tục cai quản nửa giang sơn ở phía Nam. Lộc Tục xưng vương là Kinh Dương Vương. Đế Nghi sinh Đế Lai. Đế Lai sinh Âu Cơ. Kinh Dương Vương sinh Sùng Lãm. Sùng Lãm nối ngôi cha, xưng là Lạc Long Quân.

    Thích

  7. Tác giả viết:
    “Thời gian này, người Mông Cổ phương Bắc sống ở phía Bắc Hoàng Hà thường xuyên cướp phá phía Nam. Trên bờ Nam Hoàng hà, nhiều trận chiến ác liệt xảy ra. Năm 2698 TCN, liên quân Mông Cổ du mục do bộ tộc Hiên Viên dẫn đầu, đánh vào Trác Lộc. “
    Xin tranh luận như sau:
    – Hiên Viên không thuộc bộ tộc người Mông Cổ.
    – Thị tộc của Hiên Viên có gốc gác trước đó là nhóm người Nhục Chi từ miền Tân Cương (ngày nay), qua ngả Cam Túc, Ninh Hạ mà vào Thiểm Tây (Trung Hoa). Trong quá trình đó (tính bằng ngàn năm) có lai giống với người Mông Cổ và nhiễm văn hoá Mông Cổ. Tuy nhiên họ vẫn khác với Mông Cổ, họ biết trồng kê và ăn bánh nướng; người Mông Cổ không trồng trọt. Họ không giống người Việt, họ không trồng lúa nước, không ăn cơm như người Việt. Gọi tắt nhóm người này là thị tộc Hiên Viên cho gọn, mặc dù Hiên Viên còn chưa ra đời.
    – Thị tộc Hiên Viên từ từ tiến đến từ phía Tây, phía thượng nguồn sông Hoàng Hà xuống hạ lưu sông Hoàng Hà.
    – Hiên Viên không tiến từ phía Bắc xuống phía Nam sông Hoàng Hà để chiếm đất của Xi Vưu, Cửu Lê. Trác Lộc, Zhangjiakou, là địa danh thuộc Hà Bắc Hebei, Trung Hoa, nằm trên bờ Bắc của sông Hoàng Hà. Do đó nói Hiên Viên từ phía Bắc, vượt sông Hoàng Hà, tiến vào bờ Nam, đánh vào Trác Lộc là chưa chính xác.

    Thích

  8. Tác giả nói:
    “Theo ý nghĩa thông thường thì tổ tiên, dòng dõi chỉ gồm những người cùng huyết thống. Việc suy tôn một kẻ ngoại tộc . . . Nhận Hoàng Để làm tổ, người Trung Quốc . . . mắc tội nhận giặc làm cha”
    Xin có vài suy nghĩ khác như sau:
    1. “Huyết thống”, theo ngôn ngữ hiện đại, có nghĩa là bộ gene. “Cùng huyết thống” có nghĩa là cùng bộ gene đặc trưng nào đó.
    2. Nếu hiểu “tổ tiên” theo nghĩa hẹp trong một dòng họ, thị tộc thì thuộc tính “cùng huyêt thống” như tác giả nói là đúng. Nhưng “tổ tiên” theo nghĩa rộng trên một dân tộc, quốc gia thì không còn đúng nữa.
    Người Việt Nam ta hiện nay có mấy người cùng bộ gene với quốc tổ Hùng Vương?
    3. Hiên Viên là người có công đặt nền móng cho nhà nước phong kiến Trung Hoa.
    Hiên Viên có sáng kiến áp dụng hành vi “chăn dắt” theo lối sống du mục của người Mông Cổ thành hành vi “cai trị” của nhà nước phong kiến.
    Có một sự tương đồng rất lớn giữa hành vi “chăn dắt” và hành vi “cai trị”. Hành vi “chăn dắt” và hành vi “cai trị” chỉ khác nhau ở đối tượng và không gian của chúng mà thôi. Thay vì chăn dắt dê, ngựa, . . . giờ chuyển sang chăn dắt con người và gọi khác đi là cai trị.
    Hiên Viên dựa vào người của thị tộc mình mà cai trị số đông (hơn nhiều lần) dân chúng Cửu Lê còn ở lại lưu vực sông Hoàng Hà. Việc cai trị này lâu dần cũng hình thành xã hội, nhà nước phong kiến Hoa Hạ tại lưu vực sông Hoàng Hà. Trong xã hội phong kiến đó có những kẻ cai trị và những kẻ bị trị; kẻ bị trị phải lao động sản xuất ra của cải vật chất cho toàn xã hội và phải phục tùng kẻ cai trị.
    Sau Hiên Viên, nhà (nước phong kiến) Hạ hình thành. Và người ta bắt đầu viết sử. Thường người ta sẽ viết sử một cách trung thực nhất, nhưng dù sao đi nữa, sử ít nhiều cũng bị ảnh hưởng bởi kẻ thống trị và được viết để ca ngợi những hình mẫu có lợi cho việc thống trị. Hiên Viên hoàn hảo để làm hình mẫu đó. Thời đó, tại vùng lưu vực sông Hoàng Hà, cương vực của nhà Hạ, tỷ lệ những người “cùng huyết thống” với Hiên Viên chắc là nhiều hơn Trung Hoa thời hiện đại này rất nhiều, nên việc suy tôn Hiên Viên làm ông tổ thì cũng là lẽ tự nhiên.
    Trải qua các triều đại Hạ, Thương, Chu, Tần, Hán, Tấn, Tuỳ, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh, đến thời nay, tại Trung Hoa, người Trung Hoa tiếp nối suy tôn Hiên Viên làm ông tổ, cho dù cái “cùng huyết thống” kia có phai nhạt nhiều.
    4. Việc nhận, suy tôn tổ tiên của người Trung Hoa, người Việt ta không nên miệt thị mà chửi họ là “nhận giặc làm cha”; và người nghiên cứu sử lại càng không nên.

    Thích

  9. Xưa nay truyền thuyết vẫn nói ông tổ người Việt là Hùng vương. Nhưng nếu xét kỹ, Hùng vương là con của Lạc Long Quân Sùng Lãm, Lạc Long Quân là con của Kinh Dương Vương Lộc Tục, Kinh Dương Vương là con của Đế Minh, rồi Đế Minh lại là cháu ba đời của Viêm Đế (Thần Nông). Vậy tổ tiên có tên xa xôi nhất của người Việt là Viêm Đế (tạm bỏ qua Phục Hy vì quan hệ huyết thống chưa rõ ràng).
    Như vậy ở đây có vấn đề là người Trung quốc đã nhận bừa Viêm Đế, vốn là tổ tiên xa xôi của người Việt, làm tổ tiên của mình.

    Thích

  10. Có một điều tôi muốn nói với mọi người rằng, khi ý thức dân tộc càng phát triển, các dân tộc ở Đông Á lúc nào cũng cho rằng nguồn gốc văn minh là do dân tộc mình sáng tạo ra. Ở Việt Nam cũng có nhưng chủ yếu mang tính nghiệp dư, đa số lấy nghiên cứu, khảo cổ, lập luận suông của người khác rồi giả định, đi đến khẳng định văn minh Đông Á, thậm chí là cuội nguồn văn minh TG là do dân tộc mình sáng tạo ra. Người Triều Tiên (Hàn) cũng vậy, tại Hàn Quốc thậm chí có cả một hội đồng to lớn gồm có nhiều giáo sư uy tín nghiên cứu và khẳng định với nhiều bằng chứng hết sức thuyết phục cho rằng chính người Hàn là tổ tiên của các dân tộc Châu Á bao gồm người Hán, Việt, Oa (Nhật), Da đỏ Châu Mỹ… Kinh dịch, bát quái, Đông y đều do người Triều Tiên sáng tạo ra… ngày 3/2/2008 01 Giáo sư Hàn Quốc tuyên bố chữ Hán là do người Hàn Quốc phát minh. Chẳng những tranh giành quyền sáng chế chữ Hán mà người Hàn Quốc triển khai một loạt hành động tranh giành thành tựu văn hóa của Trung Quốc, như họ báo cáo Liên Hợp Quốc rằng “Kỹ thuật in chữ rời” là do Hàn Quốc phát minh, Tết Đoan Ngọ là di sản văn hóa của Hàn Quốc; Khổng Tử, người đẹp Tây Thi, thầy thuốc Lý Thời Chân… là người Hàn Quốc, Y học cổ Trung Hoa (Trung Y) cũng do người Hàn Quốc phát minh.
    Chúng ta hãy nhìn lại người Nhật, khi bị người Trung Quốc cho rằng họ đang sử dụng văn hóa Trung Quốc, người Nhật không phủ định mà thừa nhận và họ còn nói: đúng là họ ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc nhưng văn hóa Trung Quốc là người Hán tạo ra, còn phát triển và đưa ra Thế Giới là do người Nhật, người Nhật phát triển Văn hóa Trung Quốc trở nên hiện đại và người Trung Quốc, người Việt Nam, người Triều Tiên tiếp thu và sử dụng.
    Cuối thế kỷ 19, trong quá trình giao lưu với phương Tây, người Nhật thấy việc dùng các từ ngữ văn ngôn của Hán ngữ TQ khó có thể biểu đạt được các khái niệm mới của văn hóa phương Tây. Vì thế một số học giả Nhật đã vận dụng vốn hiểu biết sâu sắc chữ Hán, tiến hành cải tạo từ ngũ cũ và tạo ra nhiều từ ngữ mới không có trong Hán ngữ, hoặc có nhưng với ý nghĩa khác, để thể hiện các khái niệm mới, sự vật mới chưa từng có trong văn hóa TQ. Ví dụ các từ hy vọng, trường hợp, phương châm, quyền uy, chi bộ, tôn giáo, dẫn độ, thủ tục, chủ nghĩa, văn minh, tư bản, cộng sản, câu lạc bộ…. tổng cộng ngót nghìn từ ngữ ngày nay người TQ quen dùng đều là do người Nhật tạo ra. Đặc biệt là chữ CỘNG HÒA, người Nhật đã dùng khái niệm CỘNG HÒA thời nhà Tây Chu để dịch chữ Republic….

    Thích

  11. Thưa quý vị, trước hết cần biết người Việt Nam, Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản là ai?
    Sang thế kỷ XXI, di truyền học chỉ rõ: 70.000 năm trước, hai đại chủng Australois và Mongoloid từ châu Phi di cư tới VN. Tại VN họ gặp gỡ sinh ra người Việt cổ mã di truyền Australoid. Trong khi đó, một nhóm nhỏ (ước khoảng 300) người Mongoloid đi lên sống biệt lập tại Tây Bắc VN. 40.000 năm trước, do trời ấm lên, người từ VN đi lên chiếm lĩnh Hoa lục. Riêng chủng Mongoloid đi lên đất Mông Cổ.
    Năm 2001 phát hiện tại hang Điền Nguyên Chu Khẩu Điếm những mảnh xương chân người. Năm 2013, dùng phương tiện hiện đại nhất, khoa học khám phá, đó là người đàn ông từ Hòa Bình VN tới. Ông là tổ tiên người Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bàn và là thủy tổ người bản địa châu Mỹ.
    Khoảng 7000 năm trước, tại làng Bán Pha Thiểm Tây, người Việt cổ chủng Indonesian gặp gỡ hòa huyết với người Mông Cổ phương Băc, sinh ra người Mông Cổ phương Nam, được gọi là người Viêt hiện đại, là tổ chung của các dân tộc Đông Á. Đấy là điều khẳng định, không thể thay đổi.
    Người Mông Cổ phương Nam tăng nhân số, chiếm lĩnh lưu vực Hoàng Hà từ 7000 nam trước. Như vậy, Phục Hy-Nữ Oa là vị tổ đầu tiên (có tên tuổi) của người Việt hiện đại, chủng Mongoloid phương Nam. Thần Nông là vị tổ thưa hai.
    Người Lạc Việt chủng Indonesian sống ở Nam Hoàng Hà. Năm 2698 TCN, Hoàng Đế chiếm đồng bằng miền Trung Hoàng Hà. Một bộ phận người Lạc Việt chạy xuống phía Nam và tới VN, hòa huyết với người Việt cổ để thành người Việt hiện đại. Người Việt còn ở lại Trong Nguồn trở thành người của nhà nước Hoàng Đế. Khi Lưu Bang xưng vương ở đất này, họ thành người Hán.
    Xin nói gon mấy điều. Cần hiểu thêm. xin quý vị đọc cuốn Tiền sử người Việt NXB Hồng Đức, H, 2020.

    Thích

  12. Xin nói thêm một chút để rõ về họ hàng thế thứ các dân tộc phương Đông.
    40000 năm trước, người Hòa Bình đi lên Bắc TQ để sinh ra tổ tiên người TQ, Triều Tiên, Nhật Bàn và thủy tổ người bản địa châu Mỹ. Người Việt hiện đại sống khắp lưu vực Hoàng Hà. Khoảng 4000 năm trước, di cư xuống Bắc VN, mang nguồn gen Mongoloiod hòa huyết với người Việt cổ Indonesian để sinh ra người VN hiện đại. Do người Indonesian là gốc của tộc Việt nên có chỉ số đa dạng sinh học cao nhất. Vì vậy, khi hòa huyết với người từ phía Bắc về, tạo nên người Việt hiện đại có đa dạng sinh học cao nhất tức già nhất trong chủng Mongoloid phương Nam. Xin các bạn đừng lạ khi đám người vong bản thờ giặc làm tổ nay lại khuyên tổ tiên 30000 năm trước của mình “lãng từ hồi đầu”

    Thích

  13. Tâm tư (của tác giả) lo sợ đại bộ phận quần chúng nhân dân tin vào luận thuyết “lãng tử hồi đầu” của người Trung Quốc là có thể hiểu và thông cảm được.
    Người Trung Quốc dựng lên luận điệu “lãng tử hồi đầu” nhằm thuyết phục dàn lãnh đạo Việt Nam làm thân với Trung Quốc hơn và xa rời “bọn tư bản đế quốc mà đầu xỏ là Mỹ đế” (hà hà). Đây là luận thuyết mang động cơ chính trị được lồng ghép dưới cái áo lịch sử, chủng tộc.
    Cái áo lịch sử, chủng tộc ở đây chính là lịch sử của các dân tộc Bách Việt và chủng Mongoloid Phương Nam.
    Trong đám dân Bách Việt mà người Hán gọi có dân tộc Lạc Việt mà sau này trở thành dân Việt hiện đại ngày nay. Ngoài ra, còn nhiều “dân tộc Việt” khác trong nhóm Bách Việt kia còn ở lại trên đất Trung Quốc hiện nay mà nhiều nhất là ở Quảng Đông và Quảng Tây. Về mặt gene thì các nhóm dân Bách Việt (bao gồm Lạc Việt) thực sự cùng bộ gene đặc trưng. Những “dân tộc Việt” kia đã về với mẫu quốc là Trung Hoa rồi, đã là thần dân quy phục “Thiên Tử” rồi thì đứa con “dân Việt” lạc loài, ngoan cố, lêu lổng đang ở An Nam kia cũng nên quay đầu về mà quy tụ đi thôi.
    Đó là luận thuyết “lãng tử hồi đầu” mà nhà cầm quyền hiện nay tại Trung Quốc đang sử dụng như một chiêu bài để khuyến dụ Việt Nam.
    Ngoài ra, Người Trung Hoa còn một thứ thuyết mạnh hơn, bạo lực hơn, và được truyền từ đời này qua đời khác (từ Hiên Viên tới . . . Mao Trạch Đông, Tập Cận Bình, . . .) trong người Hán và sẽ áp dụng cho bất kể kẻ nào sống dưới gầm trời này: Thuyết Thiên Mệnh.
    Nhưng mỗi người dân Việt đều hiểu rằng, chúng ta không xuất phát từ người Hán, chúng ta là chúng ta, chúng ta sống cả ngàn đời nay, trước cả người Hán. Chúng ta đã bị người Hán xâm thực cả về lãnh thổ, văn hoá và con người. Chúng ta là nhóm người Việt còn sót lại, tồn tại mong manh trước gã láng giềng to lớn, hung hăng, tham lam. Chúng ta đau xót, thương tiếc cho những người anh em Bách Việt đã bị người Hán nuốt chửng mà không làm gì được. Chúng ta không phải là một lãng tử (đứa con hoang đàng) nhà Hán mà phải hồi đầu Trung Quốc. Chúng ta là một dân tộc đang kiên cường, cố gắng thoát khỏi nạn tiêu chủng để bảo vệ văn hoá của cha ông, nên độc lập của đất nước, dân tộc. Chúng ta đã từng có một lịch sử huy hoàng, và cũng không kém bi ai.
    Đại đa số dân đen (như tôi) miễn nhiễm với Thuyết Thiên Mệnh, luận điệu “lãng tử hồi đầu”, nhưng nhóm nhỏ ở phía trên cùng thì không chắc.

    Thích

  14. Phục Hy, Nữ Oa, Hoàng Đế và Thần Nông,… cho đến cà Nghiêu Thuấn, Đại Vũ chỉ là huyền thoại để “ca ngợi” thời hoàng kim nguyên thủy trong tưởng tượng để lập thuyết. Chư tử cứ đặt ý riêng vào miệng các “thánh nhân” đó. Thiên hà ngôn tai ! Chẳng ai biết đâu mà mò. Khổng tử nói thế này, Trang tử nói thế kia, Mặc tử nói thế nọ… Ai tin thì tôn sùng; ai không tin đành làm ngơ vì không thể dựa vào đâu mà phản bác. Rồi ngàn đời sau, thiên hạ tha hồ luận thuyết thế này thế nọ thế kia…

    Thích

Gửi phản hồi cho Hà Văn Thùy Hủy trả lời