
Ảnh: bản đồ chính trị khu vực Kurdistan ở Iraq. Vùng Tây Bắc do đảng KDP cánh hữu nắm, còn đảng PUK cánh tả nắm phần Đông Nam.
Đăng Phạm
1/ Lịch sử người Kurd ở Iraq đến năm 1991.
Lịch sử người Kurd ở Iraq thay đổi theo từng giai đoạn của chính đất nước Iraq. Đất nước Iraq từ lúc độc lập đến năm 1991 trải qua 3 giai đoạn: thời quân chủ, thời Cộng sản, và thời Saddam Hussein.
Thời kỳ quân chủ của Iraq bắt đầu từ năm 1932 khi người Anh trao trả độc lập cho vua Iraq. Trước đó khi thế chiến 1 kết thúc, các nước thắng trận đã dự tính cắt lãnh thổ đế quốc Ottoman thua trận để làm một quốc gia cho người Kurd. Không chấp nhận điều này, những người dân tộc chủ nghĩa Thổ Nhĩ Kỳ, liên kết chặt chẽ với những người Bolshevik Nga đã tiến hành một cuộc chiến tranh để giữ lại những lãnh thổ này, và họ đã chiến thắng. Giấc mộng về một nhà nước người Kurd từ đó bị bỏ dở. Năm 1932, Vua Iraq cũng theo gương người Thổ, đòi người Anh phải giữ vùng Kurdistan của người Kurd ở lại Iraq. Sợ mang tiếng ”đế quốc chia cắt Iraq”, người Anh đồng ý.
Chính quyền quân chủ Iraq trong thời kỳ cầm quyền đã đàn áp các dân tộc thiểu số, không chỉ người Kurd, mà còn người Ba Tư, Yazidi,… Nhiều lãnh đạo người Kurd vì thế đã phải lưu vong, và nhiều người trong số họ chạy đến Liên Xô. Trong nhiều năm, tư tưởng Cộng sản thâm nhập vào các lãnh đạo ly khai người Kurd, mà nổi tiếng nhất là anh hùng dân tộc Kurd Mustafa Barzani.
Mustafa Barzani và Stalin năm 1952
Năm 1946, giấc mộng độc lập của người Kurd tiến một bước dài. Quân đội Liên Xô lợi dụng việc chiếm đóng Iran trong chiến tranh thế giới 2, sau khi hết chiến tranh không chịu rút quân mà đưa các lãnh đạo ly khai người Kurd về Iran, thành lập cộng hòa Mahabad ly khai. Tuy vậy, do sự chống trả quyết liệt của Iran và sức ép của cộng đồng quốc tế, Liên Xô chấp nhận bỏ rơi người Kurd, đổi lại tài nguyên dầu mỏ của Iran. Người Kurd lần thứ 2 trong lịch sử bị phản bội, lần trước bởi người Anh.
Đến năm 1958, một sự kiện xảy ra làm rung chuyển toàn Trung Đông. Những sĩ quan Cộng sản trong quân đội Iraq, nhằm ngày Phá ngục Bát-xti trong Cách mạng Pháp để tiến hành cuộc cách mạng lật đổ chế độ quân chủ Iraq. Iraq từ đó bước vào thời kỳ Cộng sản, do Thủ tướng Karim Qasim đứng đầu, thiết lập quan hệ thân thiết với Liên Xô. Do vậy, sau khi cách mạng Iraq thành công, các lãnh đạo dân tộc người Kurd từ Liên Xô, bao gồm cả Mustafa Barzani đã ồ ạt trở về Iraq. Dưới sự trung gian của Liên Xô, Mustafa Barzani đã ký kết với Karim Qasim thỏa thuận trao quyền tự trị cho người Kurd, tuy vẫn còn sơ sài. Lãnh thổ người Kurd lúc đó gọi chung là ”Vùng Kurdistan”.
Tuy nhiên, chỉ 5 năm sau, cách mạng Iraq bị phá tan tành. Đảng Ba’ath theo chủ nghĩa Xã hội dân tộc Arab, trong một cuộc cách mạng nhằm tháng lễ Ramadan, đã lật đổ chính quyền Đảng Cộng sản Iraq. Saddam Hussein lúc này từ Ai Cập trở về, vươn lên làm lãnh đạo đảng Ba’ath. Từ năm 1963 đến 1970, chính quyền Ba’ath Iraq thực hiện chiến dịch khủng bố, truy quét, nhổ tận gốc các chi bộ Đảng Cộng sản Iraq. Hàng vạn đảng viên Cộng sản Iraq bị sát hại, cơ sở bị phá hủy trên toàn lãnh thổ Iraq, những người sống sót phải xuống lòng đất hoạt động (bạn nào muốn tìm hiểu các thành phố ngầm này thì đến thành phố Sadr ở Baghdad). Tuy nhiên, có một khu vực duy nhất mà chính quyền Ba’ath không thể đụng tới: vùng người Kurd, do thỏa thuận với chính phủ Cộng sản Iraq còn hiệu lực. Nhiều người Cộng sản Iraq lợi dụng việc đó đã chạy lên vùng người Kurd lánh nạn. Việc tồn tại một vùng người Kurd mà lại có thiên hướng thân Cộng sản ngay cạnh trở thành mối nguy với chính quyền Iraq.
Để dẹp bỏ mối nguy này, năm 1965 quân đội Iraq đã tiến hành tấn công vào lãnh thổ người Kurd. Giúp sức với họ, quân đội Syria (cũng là đảng Ba’ath cầm quyền) đã gửi quân đến giúp tấn công người Kurd. Tuy nhiên, lúc này Liên Xô vẫn còn hỗ trợ rất mạnh cho người Kurd, và mối quan hệ của Liên Xô với Iraq lúc này đang lạnh nhạt sau khi Iraq lật đổ Đảng Cộng sản. Do đó, cuộc chiến lần thứ Nhất trở thành thảm họa với quân Iraq. Cuộc phiêu lưu quân sự của họ kết thúc năm 1970, với hơn 10.000 binh sĩ Iraq thiệt mạng, không thu được thắng lợi nào. Tháng 3 năm 1970, họ buộc phải ký thỏa thuận đình chiến, tiếp tục duy trì quyền tự trị cho người Kurd.
Tuy vậy, Iraq không chịu từ bỏ. Năm 1972 họ ký kết thỏa thuận hợp tác toàn diện với Liên Xô, gián tiếp buộc Liên Xô phải từ bỏ hỗ trợ người Kurd. Người Kurd lần thứ 2 bị Liên Xô phản bội. Đến năm 1974, Iraq nối lại chiến tranh, tấn công người Kurd để mở đầu chiến tranh Kurd -Iraq lần 2, dù nhiều người coi 2 cuộc chiến chỉ là một, bị gián đoạn bởi hiệp ước 1970. Không còn sự chống lưng của Liên Xô, người Kurd đã thua trận lần này. Năm 1975, chính phủ người Kurd chịu hạ vũ khí đầu hàng, từ bỏ quyền tự trị. Iraq thắng trận, sáp nhập đất của người Kurd, gọi là ”tỉnh Kurdistan” – tỉnh thứ 18 của nước này. Nhưng một số tay súng cực tả của người Kurd vẫn không chịu buông súng, thành lập nên nhóm gọi là PUK, lùi về vùng biên giới Iran kháng chiến.
Sau khi bị sáp nhập, số phận của người Kurd chưa lấy gì làm thảm hại. Họ chỉ thảm hại sau khi chiến tranh Iraq-Iran bùng nổ năm 1980. Trong cuộc chiến này, do cho rằng người Kurd tiếp tay cho Iran, chính phủ Saddam Hussein đã thực hiện chiến dịch ”Diệt chủng Anfal” nhằm triệt tiêu gốc rễ người Kurd ở vùng Kurdistan. Hơn 180.000 người Kurd bị chết, hơn 1 triệu người bị đưa đi di dời. Thậm chí họ còn nhiều lần bị tấn công bằng vũ khí hóa học, tiêu biểu là vụ thảm sát Halabjia năm 1988 giết chết 5000 người.
Nhưng đến năm 1991, các sự kiện liên tiếp nổ ra đã làm thay đổi tình hình. Iraq xâm lược Kuwait và bị Liên quân đánh bại trong chiến tranh Vùng Vịnh. Sau đó, người Shia phối hợp với những người Cộng sản Iraq tiến hành cuộc nổi dậy lớn nhất lịch sử đất nước, bao trùm miền Nam Iraq. Nhân tình hình đó, người Kurd ở phía Bắc đã thừa cơ tiến hành nổi dậy, định giành lại quyền tự chủ. Bị kẹp giữa 2 mặt trận, Saddam Hussein đã giảng hòa với người Kurd đề dồn sức dập tắt cuộc nổi dậy của người Shia ở miền Nam. Hết năm đó, cuộc nổi dậy bị dập tắt, và Saddam Hussein đã chấp nhận cho người Kurd tự chủ trở lại. Từ năm 1991, Tỉnh Kurdistan bị giải thế, chuyển thành ”Khu tự trị Kurdistan”.
2/ Chia rẽ trong người Kurd và cuộc nội chiến năm 1997.
Như đã nói ở trên, sau khi đầu hàng năm 1974, người Kurd đã bị chia rẽ thành 2 phái khác nhau, gọi là KDP và PUK.
KDP – viết tắt của Đảng dân chủ người Kurd (Kurdistan Democratic Party) – đặc trưng là một đảng theo chủ nghĩa dân tộc và thế tục. Sau năm 1974, phái KDP theo đường lối chủ hòa, chấp nhận sống chung với người Iraq. Do tư tưởng chống Cộng và thế tục của mình, KDP được chính quyền Saddam Hussein lẫn chính quyền nước láng giềng Thổ Nhĩ Kỳ ủng hộ, coi là một ”chế độ an toàn” cho Kurdistan. Vào năm 1995, KDP đứng đầu bởi Masoud Barzani – con trai anh hùng dân tộc Mustafa Barzani.
PUK – viết tắt của Liên minh yêu nước người Kurd (Patriotic Union of Kurdistan) – thì lại là một phái cực tả và thân Hồi giáo. Sau năm 1974, những người này không chịu buông vũ khí đầu hàng Iraq, do lo sợ sẽ bị thủ tiêu như người Cộng sản ở Iraq. Vì vậy, họ lui sâu về biên giới Iran, nhờ sự tiếp sức của Iran mà duy trì chiến đấu. Sau cách mạng Hồi giáo năm 1979, Iran tăng cường mạnh mẽ sự hỗ trợ cho người KDP. Chính sự hỗ trợ này khiến Saddam Hussein tin rằng người Kurd bắt tay với Iran chống lại ông, và đã trả thù tàn bạo người Kurd. Và điều quan trọng ở đây, là PUK liên hệ rất mật thiết với PKK – Đảng Công nhân người Kurd bị coi là khủng bố ở Thổ Nhĩ Kỳ. Năm 1995, đứng đầu PUK là Jalal Talabani – người sau này trở thành Tổng thống Iraq, và là người Kurd duy nhất từng làm điều này.
Uy tín của 2 phái KDP và PUK trong người Kurd là như nhau. Vì vậy năm 1991 sau khi giành lại quyền tự chủ, người Kurd đã không thể có một chính quyền đoàn kết giữa những người cánh hữu và cánh tả, giữa thế tục và Hồi giáo. Nguy hiểm ở chỗ, Thổ Nhĩ Kỳ nhận ra sự có mặt của PKK trong lãnh thổ Iraq, và ngược lại, PUK đã xâm nhập lãnh thổ Thổ Nhĩ Kỳ. Cho rằng tình trạng phân lập ở Kurdistan có thể gây nguy hại đến vùng biên Thổ Nhĩ Kỳ, chính quyền Ankara đã tăng cường hỗ trợ, gây áp lực cho phái KDP thân hữu và thế tục ở Kurdistan phải tiêu diệt PUK. Cùng ý nghĩ này, Saddam Hussein cũng muốn tiêu diệt PUK để loại trừ tận gốc mối nguy Cộng sản với chế độ của đảng Ba’ath.
Năm 1996, do sự phân lập không thể giải quyết, quốc hội và chính quyền người Kurd ở Khu tự trị Kurdistan bị tê liệt và đóng băng hoạt động. Sau đó, các nhóm vũ trang ủng hộ KDP và PUK đã chiến đấu dữ đội tranh giành thủ đô Erbil. Cuộc giao tranh ở Erbil mùa hè năm 1996 làm 5.000 người chết và hàng trăm nghìn người phải di dời. Cuối cùng, với sự hỗ trợ từ lực lượng quân đội Iraq của Saddam Hussein, phe KDP đã giành được thủ đô Erbil. Do nghĩ là KDP đã chiến thắng, Saddam Hussein cho quân đội rút về, ký thỏa thuận chính thức công nhận Khu tự trị Kurdistan của người Kurd.
Tuy vậy, đến tháng 10 năm đó, được cho là có sự hỗ trợ của lực lượng Iran, phe PUK đã phản công, bất ngờ chiếm được thành phố lớn thứ 2 của người Kurd là Sulaymaniyah ở phía Đông Nam. Từ đây, khu vực Kurdistan bị phân chia: vùng Tây Bắc có thủ đô Erbil do KDP kiểm soát, còn vùng Đông Nam do PUK kiểm soát, thủ phủ đặt tại Sulaymaniyah.
Đến đây, vấn đề duy nhất còn lại là vùng biên giới Thổ Nhĩ Kỳ. Nhiều chiến binh PUK vẫn còn trụ lại biên giới, thường xuyên qua lại giữa Kurdistan và Thổ Nhĩ Kỳ để hỗ trợ PKK tấn công nước Thổ. Để dẹp tận gốc các chiến binh PUK ở biên giới, năm 1997 Thổ Nhĩ Kỳ tiến hành 2 chiến dịch: Operation Hammer tháng 7/1997 và Operation Dawn 9/1997. Trong 2 chiến dịch đó, quân đội Thổ Nhĩ Kỳ đã triển khai hàng vạn binh sĩ cùng vũ khí hạng nặng, phối hợp cùng KDP tấn công PUK. Kết thúc 2 chiến dịch, hơn 150 lính Thổ và 200 lính KDP thiệt mạng, tiêu diệt hơn 3.000 tay súng PUK. Kết quả là gần như quét sạch được khu vực biên giới Thổ Nhĩ Kỳ, chia cắt PUK và PKK.
Cuối cùng, đến tháng 8/1998 với sự trung gian của Mỹ và Iran, các phe người Kurd đã ký kết thỏa thuận đoàn kết, chấp nhận ngừng bắn và giữ nguyên lãnh thổ kiểm soát hiện tại. KDP cánh hữu kiểm soát vùng Tây Bắc và thủ đô Erbil, giáp giới Thổ Nhĩ Kỳ. PUK cánh tảkiểm soát vùng Đông Nam, thủ phủ tại thành phố Sulaymaniyah, trong đó có thỏa thuận ”không được tiếp cận biên giới Thổ Nhĩ Kỳ”. Sau thỏa thuận, hơn 100.000 người Kurd đã di chuyển trong lãnh thổ để đi đến khu vực mà phe họ ủng hộ kiểm soát.
Cho đến ngày nay, dù không chính thức nhưng sự phân lập trong khu vực người Kurd ở Iraq vẫn rất rõ. Những người cánh hữu và thế tục thường tập trung ở Tây Bắc, còn Đông Nam là thành trì của những người cánh tả. Trong nội bộ người Kurd, phe Tây Bắc có ưu thế hơn, khi Tổng thống và các chức vụ cao cấp thường rơi vào tay gia tộc Barzani, với Massoud Barzani – con trai anh hùng Mustafa Barzani làm Tổng thống. Nhưng PUK lại là phe có người Kurd duy nhất được làm Tổng thống Iraq – Jalal Talabani từ năm 2005 đến 2014.
Nói tóm lại, khu tự trị người Kurd ở Iraq được thành lập là món quà của Saddam Hussein ban cho họ để cầu hòa năm 1991, và chính thức được công nhận sau khi Saddam Hussein nghĩ rằng người Kurd đã đánh bại được phe cánh tả năm 1997. Đến nay người Kurd riêng ở Iraq còn bị chia rẽ giữa 2 đảng phái chính trị. Người Kurd ở các nước khác nhau còn bị chia rẽ hơn nữa. Do đó, giấc mộng độc lập và thống nhất của họ vẫn còn rất xa nếu không hàn gắn được những chia rẽ này.