Tại sao có chữ “Tông’ trong miếu hiệu của các vị vua Việt Nam

 

h.3.hoangdebaodai

Hoàng đế Bảo Đại (1926-1945). Ảnh Hué Cité Impériale du VietNam, Ed. Abbeville NY 1995

Huỳnh Thiệu Phong

Việt Nam có lịch sử hình thành từ rất sớm. Trải qua tiến trình lịch sử ấy, dưới thời phong kiến, các vị vua của các triều đại đều tồn tại rất nhiều tên gọi kể từ khi sinh ra, lên ngôi, trị vì, qua đời… Sự phức tạp ấy đã tạo ra rất nhiều khó khăn cho những người muốn tìm hiểu lịch sử nước nhà khi tra cứu tài liệu. Một trong những khó khăn khi đề cập đến các vị vua đó chính là miếu hiệu. Một triều đại sẽ có ít nhất là vài vị cho đến vài chục vị vua; điều này đồng nghĩa với việc sẽ có tương đương vài hoặc vài chục miếu hiệu. Nếu không phải là những nhà nghiên cứu Sử học chuyên nghiệp, có lẽ thật khó để ta có thể ghi nhớ hết những vị vua đó. Một trong những đặc điểm dễ nhận biết nhất và để phân biệt với các tên gọi khác của các vị vua chính là trong miếu hiệu sẽ tồn tại thành tố “Tông” hoặc “Tổ”. Vì đâu lại có thành tố “tông” hoặc “tổ” trong miếu hiệu của các vị vua ?

Từ góc độ của một người không chuyên, tôi chỉ dám xem đây là cách hiểu thiển cận nhưng vì đam mê nên đành thử sức, tìm ra câu trả lời cho vấn đề này. Bài viết này sẽ góp phần giải quyết hai vấn đề: Một là phân biệt các khái niệm Niên hiệu – Tôn hiệu – Thụy hiệu – Miếu hiệu, trên cơ sở đó, bài viết sẽ lý giải nguyên nhân và ý nghĩa chữ thành tố “tông” hoặc “tổ” trong thụy hiệu của các vị vua.

Như vậy, vấn đề thứ nhất cần giải quyết chính là ta cần hiểu được ý nghĩa của các khái niệm Niên hiệu – Tôn hiệu – Thụy hiệu. Thực ra, đây không phải là một thao tác thừa mà thay vào đó, việc minh định các khái niệm đó sẽ có liên quan trực tiếp đến việc hình thành Miếu hiệu.

Khi một hoàng tử được sinh ra, vua hoặc hoàng tộc sẽ đặt tên cho vị hoàng tử đó theo nguyên tắc của dòng họ hoặc theo sở thích. Tên gọi đó được gọi cho đến khi hoàng tử chính thức lên ngôi vua. Tên gọi đó được gọi là tên húy (húy danh). Đây là tên gọi mà bất kỳ ai cũng không được phép gọi tên; do vậy mà thuật ngữ “kỵ húy” đã hình thành. Thực ra, nói một cách chính xác hơn thì tên húy là tên gọi mà những người ở vị trí xã hội thấp hơn không được phép gọi những người ở vị trí cao hơn chứ không nhất thiết là chỉ kỵ húy tên vua, bởi vì bên cạnh việc kỵ húy tên vua còn phải kỵ húy tên hoàng tử, tên hoàng hậu, tên của những người trong hoàng tộc. Ví dụ điển hình nhất cho trường hợp này chính là bà Hồ Thị Hoa – vợ của vua Minh Mạng, sau khi bà mất đi thì tất cả địa danh có yếu tố “hoa” điều bị đọc trại đi hoặc dùng từ thay thế (bông, ba, huê, …).

Về niên hiệu, đây là danh xưng của hoàng đế khi lên ngôi. Mục đích của việc đặt niên hiệu là để xác lập khoảng thời gian trị vì của mình. Ví dụ: Lý Công Uẩn khi lên ngôi lấy niên hiệu là Thuận Thiên, Nguyễn Ánh khi lên ngôi lấy niên hiệu là Gia Long, Nguyễn Phúc Đảm khi lên ngôi lấy niên hiệu là Minh Mạng… Sau này, trong các tài liệu Sử học, người ta thường ghi “Niên hiệu + năm thứ “x”” thay vì gọi năm chính xác. Cách gọi này có ưu điểm là cho ta biết sự kiện đó xảy ra dưới triều đại nào nhưng nhược điểm là gây khó khăn cho những người không nắm rõ lịch sử. Ví dụ người ta có thể nói: “Năm Minh Mạng thứ 6” thay vì nói “năm 1825”, hay thay vì nói “năm 1856” thì người ta có thể nói “Tự Đức năm thứ 8”…

Tuy nhiên, về vấn đề niên hiệu của các vị vua ở Việt Nam, cần lưu ý có hai vấn đề đáng quan tâm:

+ Thứ nhất, đối với niên hiệu, trong lịch sử Việt Nam duy nhất có triều đình nhà Nguyễn là triều đại mà các vị vua chỉ sử dụng duy nhất một niên hiệu cho mình trong suốt thời gian trị vị. Cụ thể:

Stt Húy danh Niên hiệu
1 Nguyễn (Phúc) Ánh Gia Long
2 Nguyễn Phúc Đảm Minh Mạng
3 Nguyễn Phúc Miên Tông Thiệu Trị
4 Nguyễn Phúc Hồng Nhậm Tự Đức
5 Nguyễn Phúc Ưng Chân Dục Đức
6 Nguyễn Phúc Hồng Dật Hiệp Hòa
7 Nguyễn Phúc Ưng Đăng Kiến Phúc
8 Nguyễn Phúc Ưng Lịch Hàm Nghi
9 Nguyễn Phúc Ưng Kỷ Đồng Khánh
10 Nguyễn Phúc Bửu Lân Thành Thái
11 Nguyễn Phúc Vĩnh San Duy Tân
12 Nguyễn Phúc Bửu Đảo Khải Định
13 Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy Bảo Đại

+ Thứ hai, các nguồn sử liệu khi đề cập đến một vị vua thì sử dụng miếu hiệu, tuy nhiên, đối với nhà Nguyễn thì cá biệt sử dụng niên hiệu. Nói cách khác, lẽ ra cần phải gọi là “Thế Tổ Cao Hoàng Đế” hay “Thái Tổ Nhân Hoàng Đế” để gọi Nguyễn Ánh hay Nguyễn Phúc Đảm thì họ lại sử dụng niên hiệu để gọi. Lý giải điều này, tôi cho rằng có lẽ gọi niên hiệu để ngắn gọn và vì đặc điểm các vua nhà Nguyễn không có ai sử dụng hơn một niên hiệu, do đó không cần quan tâm đến việc nhầm lẫn.

          Trong khi đó, với các triều đại phong kiến trước đó, rất nhiều vị vua đã cho thay đổi niên hiệu không dưới hai lần trong suốt giai đoạn trị vì. Có ý kiến cho rằng việc thay đổi niên hiệu thường xảy ra khi đất nước có nạn đói kém, mất mùa hay thảm họa; vua quan niệm rằng mình đang bị ông trời trừng phạt và do vậy, việc thay đổi niên hiệu là một động thái thể hiện sự ăn năn của mình. Về điều này, một số tài liệu sử học được biên soạn theo phương thức lịch đại sẽ cho ta thấy rất rõ. Trong phạm vi bài viết ngắn này, tôi không có tham vọng thống kê vì vấn đề dung lượng và thời gian chi phối.

          Về tôn hiệu, đây là tên gọi ít phổ biến hơn so với niên hiệu, miếu hiệu, thụy hiệu. Có thể hiểu tôn hiệu là tên gọi tôn kính dành cho những người tôn quý. Những người thường được đặt tôn hiệu sẽ là những vị Thái Thượng hoàng (cha của vua), Hoàng Thái hậu (mẹ của vua). Sở dĩ tôi nói ít phổ biến hơn bởi lẽ thường thì sau khi tiên đế băng hà thì hoàng thái tử mới lên ngôi. Và khi mà tiên đế băng hà rồi thì khi đó, tên gọi được vị vua kế nhiệm đặt sẽ gọi là miếu hiệu chứ không còn là tôn hiệu. Nói tóm lại, tôn hiệu là danh xưng mà vua dùng để gọi cho những người bao gồm cha, mẹ của mình khi còn sống.

          Đặc điểm để nhận diện tôn hiệu bao gồm 2 vấn đề: (1) Tôn hiệu thường sử dụng chữ Hán với dung lượng rất dài – (2) Tôn hiệu trong các triều đại Việt Nam tồn tại nhiều nhất dưới triều Trần. Về đặc điểm thứ hai, ta thấy triều Trần là triều đại phong kiến đầu tiên bắt đầu thiết lập chế độ Thái Thượng Hoàng và do vậy, tất yếu là tôn hiệu xuất hiện dưới triều Trần rất phổ biến. Chẳng hạn như “Hiển Nghiêu Thánh Thọ Thái thượng hoàng đế” (Trần Thái Tông), “Hiến Nghiêu Quang Thánh Thái thượng hoàng đế” (Trần Nhân Tông), …

          Như vậy, nếu tiên đế đã băng hà thì vị vua kế vị sẽ đặt thụy hiệu cho tiên đế của mình. Thụy hiệu hay còn gọi là “tên hèm” trong dân gian. Lịch sử Việt Nam ghi nhận một số trường hợp vua sau khi mất không có thụy hiệu. Nguyên nhân của việc một số vị vua không có thụy hiệu thuộc các trường hợp: Các vị vua cướp ngôi của nhau, triều đại sau cướp ngôi của triều đại trước hoặc vị vua đó mất trong chiến tranh. Tiêu biểu cho những trường hợp này là những vị vua: Nguyễn Quang Toản, Mạc Mậu Hợp, Lê Long Đĩnh, …

          Thụy hiệu là tên gọi được đặt cho vua khi vừa mất, sau khi hoàn tất các thủ tục mai táng, vị vua tiếp theo của triều đại đó (thường là hoàng thái tử sau khi lên ngôi) sẽ đặt tên cho vị vua trước (tiên đế). Tên gọi này được gọi là Miếu hiệu. Các tài liệu sử học hiện nay hầu như đều thống nhất cách ghi chép các đời vua bằng cách sử dụng miếu hiệu. Như vậy, có thể hiểu miếu hiệu chính là tên gọi của vị vua sau đặt cho vị vua trước của một triều đại nào đó. Như đã đề cập, cách nhận diện dễ dàng nhất để phân biệt Miếu hiệu với các khái niệm Niên hiệu – Tôn hiệu – Thụy hiệu chính là tồn tại thành tố “Tông” hoặc “Tổ” trong danh xưng của các vị vua. Tuy nhiên, cũng chính vì quy luật định danh miếu hiệu như vậy cũng đã gây ra không ít khó khăn cho những thế hệ sau nhớ được từng vị vua. Vấn đề đặt ra là chữ “Tổ” hay chữ “Tông” trong miếu hiệu của các vị vua là từ đâu mà ra ?

          Có thể nói, phương thức đặt ra các niên hiệu, tôn hiệu, thụy hiệu, miếu hiệu trong các triều đại phong kiến ở Việt Nam hầu như chịu ảnh hưởng tuyệt đối từ phong kiến Trung Hoa. Phương thức đặt tên như vậy từ phong kiến Trung Hoa ảnh hưởng hầu như ở tất cả các quốc gia trong khu vực (chẳng hạn như Nhật Bản, Triều Tiên, Hàn Quốc) chứ không riêng gì ở Việt Nam. Tôi nhấn mạnh đến yếu tố ảnh hưởng này bởi lẽ xét ở góc độ lịch sử, phong kiến Trung Hoa mà theo huyền sử thì vua Nghiêu truyền ngôi chua vua Thuấn, vua Thuấn truyền ngôi cho vua Vũ, nhưng sau đó vua Vũ lại truyền ngôi cho con trai của mình. Đây là cơ sở để thay đổi nguyên tắc từ “truyền tử” chứ không còn “truyền hiền”. Tông (tôn) pháp chính là yếu tố tiên quyết trong việc xét người nối ngôi. Cũng cần nói thêm rằng, việc sử dụng thành tố “Tông” hay Tôn” trong miếu hiệu các vua Việt Nam đều tương đồng nhau, sở dĩ có sự khác biệt là vì kỵ húy với tên của vua Thiệu Trị (Nguyễn Phúc Miên Tông”.

          Có thể hiểu tông pháp là chế độ kế thừa theo dòng tộc, huyết thống nam giới. Từ đây cho phép tôi đặt ra giải thuyết liệu chăng chữ “Tông” trong miếu hiệu của các vua phải chăng để làm nổi bật tính “chính thống”, theo đúng tông pháp của dòng tộc ? Mặt khác, trong hệ thống triều đình ngày xưa có một cơ quan gọi là “Tông nhân phủ”. Đây là cơ quan chịu trách nhiệm xét huyết thống, phả hệ trong hoàng tộc.

          Đó là về chữ “Tông”, còn về chữ “Tổ” thì như thế nào ? “Tổ” là thành tố thường xuất hiện trong miếu hiệu của những vị vua sáng lập triều đại. Kể từ vị vua thứ hai trở về sau mới sử dụng chữ “Tông”. Ví dụ như đối với triều Lý, Lý Công Uẩn là vị vua sáng lập nên miếu hiệu là Lý Thái Tổ, sau đó lần lượt là các vị vua: Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông, Lý Thần Tông, … Tuy nhiên, cũng tương tự như Niên hiệu – Tôn hiệu – Thụy hiệu, miếu hiệu cũng có trường hợp ngoại lệ là vị vua khai sáng triều đại không sử dụng thành tố “Tổ”, đó là trường hợp của Trần Cảnh – Trần Thái Tông. Lý giải điều này, ta cần hiểu rằng Trần Thừa – cha của Trần Cảnh không ở ngôi ngày nào nhưng sau khi lên ngôi vẫn được Trần Cảnh kính trọng mà đặt tên cho miếu hiệu là Trần Thái Tổ. Và cũng cần lưu ý, Trần Thừa là vị Thái Thượng hoàng chưa ở ngôi ngày nào.

          Miếu hiệu của các vị vua từ thời Nguyễn trở về trước (đặc biệt là dưới triều đại Lê – Lý – Trần) thường được dùng để gọi trong các nguồn Sử liệu hiện nay. Tuy nhiên, nhà Nguyễn lại là trường hợp ngoại lệ khi miếu hiệu của các vị vua Nguyễn khá dài và không còn tuân theo nguyên tắc bao hàm thành tố “Tông” trong miếu hiệu nữa. Do đó, thay vì sử dụng miếu hiệu để gọi tên các vị vua, các Sử gia lại sử dụng niên hiệu để gọi tên các vị vua. Chính điều này đôi lúc đã dẫn đến sự sai lệch trong cách hiểu miếu hiệu của các vua nhà Nguyễn.

          Bên trên là vài nét sơ lược về cách sử dụng Niên hiệu – Tôn hiệu – Thụy hiệu – Miếu hiệu của các vị vua trong lịch sử Việt Nam. Tác giả đã cố gắng hệ thống một cách ngắn gọn nhất những đặc điểm cũng như phương thức gọi tên các vị vua. Thực tế hiện nay cho thấy, rất nhiều người sử dụng lẫn lộn cách gọi những tên gọi ấy của các vị vua. Trong số những tên gọi đó, tôi đặc biệt lưu tâm đến miếu hiệu vì ẩn trong nó là sự hiện diện của thành tố “Tổ” và “Tông”. Có lẽ, trong thời gian tới rất cần những công trình khoa học nghiêm túc can thiệp vào việc nghiên cứu các loại tên gọi của các vị vua Việt Nam, đặc biệt là dưới góc độ ngôn ngữ học.

          Xuất phát từ nhu cầu học hỏi và trang bị kiến thức, tôi thử đặt vấn đề về nội dung của bài viết để thử khả năng của bản thân. Song, vì năng lực bản thân là hữu hạn nên đành tạm dừng tại đây và mong nhận được những đóng góp của người đọc !

                                                                                                             H.T.P   

Sài Gòn, 18.06.2016

20 thoughts on “Tại sao có chữ “Tông’ trong miếu hiệu của các vị vua Việt Nam

    • 1. Tác giả chưa phân biệt rõ ràng giữa Thụy hiệu và Miếu hiệu.
      Tất cả các vua khi băng hà đều được gọi bằng một tên duy nhất là Đại hành hoàng đế (cái này ông Ngô Sĩ Liên nói khi bàn về tên gọi Lê Đại Hành của Lê Hoàn) Thụy hiệu là tên được triều thần dâng tặng cho vua lúc ang táng dựa vào việc làm của vua lúc sống. Miếu hiệu là tên của vua khi đưa vào thái miếu để thờ cúng.
      2. Trần Cảnh kính trọng cha nên cho Trần Thừa miếu hiệu là Trần Thái Tổ ?
      Có lẽ tác giả chưa nắm được hệ thống hành chính – quyền lực của nhà Trần. Đối với nhà Trần thì Thái thượng hoàng mới chính là vua, có quyền tuyệt đối. Hoàng đế chỉ là vua tập sự, tập làm vua cho quen cách điều hành đất nước (cái này cũng là nhận xét của Ngô sử gia đấy nhé). Mọi quyết sách đều do Thái thượng hoàng ban ra hoặc do vua ban sau khi được sự chấp thuận của Thái thượng hoàng. Vậy Thái thượng hoàng mới là vua đúng nghĩa. Nói Trần Thừa chưa làm vua ngày nào là không đúng.
      Tuy nhiên, sau khi mất thì Trần Thừa được đặt miếu hiệu là Huy Tông, sau này mới truy tôn là Thái tổ.

      Thích

  1. Hình như cái này ta học theo Tàu sao đó quý huynh. Không chỉ ta mà Triều Tiên cũng vậy. Vua đầu thời Triều Tiên (dòng họ Lee) là Lý Thành Quế (Lee Seong-gye) có miếu hiệu là Teajo (Thái tổ), về sau là tông hết, Jeongjong (Định tông), Taejong (Thái tông). Chỉ riêng thời nhà Minh bên Tàu, vua đầu Chu Nguyên Chương là Minh Thái tổ, vua tiếp theo Chu Lệ là Minh Thành tổ (cũng tổ luôn), thì em không hiểu tại sao.

    Thích

  2. Có 2 hạt sạn:
    1. Dục Đức không phải niên hiệu của Ưng Chân mà là tên nhà học của ông. Ông lên ngôi chưa kịp đặt niên hiệu đã bị phế.
    2. Việc gọi các vua nhà Nguyễn theo Niên hiệu chứ không theo miếu hiệu không phải do các vua nhà Nguyễn chỉ có một niên hiệu. Lý do chính là phép gọi vua bằng miếu hiệu thường do các sử gia các triều đại thay thế gọi. Nhà Nguyễn (giống nhà Thanh ở Trung Quốc) là triều đại cuối cùng nên các vua không bị gọi bằng miếu hiệu nữa.

    Thích

  3. Có mấy việc cần bàn thêm:
    * Thứ nhất, Lê Hoàn lẽ ra phải có miếu hiệu là (Tiền) Lê Thái tổ nhưng ông vua này phải mang một cái tên rất nhục nhã cho đến tận ngày nay là Lê Đại Hành, nguyên nhân là do Lê Long Đĩnh (Ngọa Triều) cương quyết không chịu thờ cha trong Thái Miếu mà chỉ thờ anh mình (Lê Long Việt giành được quyền lực, tha chết cho Long Đĩnh và lên ngôi, nhưng mới làm vua được ba ngày thì bị Long Đĩnh giết chết để cướp ngôi. Long Việt là vị vua duy nhất được thờ ở Thái Miếu của nhà Tiền Lê với miếu hiệu là Lê Trung tông). Tại sao Long Đĩnh lại không chịu thờ cha mình?
    * Thứ hai, Trần Cảnh được Lý Chiêu hoàng nhường ngôi khi còn rất nhỏ tuổi nên cha là Trần Thừa phải nhiếp chính. Ông này thực sự điều hành triều đình trong một thời gian khá dài, nên, Trần Cảnh đặt miếu hiệu cho cha là Thái tổ chứ không phải chỉ là kính trọng thôi đâu.
    * Thứ ba, Chu Nguyên Chương có miếu hiệu là Minh Thái tổ là đương nhiên, nhưng ông con Chu Đệ/Lệ vẫn có miếu hiệu là Minh Thành tổ thì có phải ông này không phải là con đích thực của Chu Nguyên Chương hay không?

    Thích

    • chưa biết truy tôn thế nào sao biết là Tiền Lê Thái Tổ ạ, nhiều triều đại ở VN và TQ vua sáng lập triều đại chưa chắc đã đc truy tôn là Thái Tổ ví dụ Trần Thái Tông Trần Cảnh, Nguyễn Thế Tổ Nguyễn Ánh (Gia Long). Bên TQ thì cái này nhiều. Con về Lê Đại Hành các sử gia dùng tên này để gọi ông vì khi hoàng đế, hoàng hậu qua đời thì đc gọi là Đại Hành hoàng đế, Đại Hành Hoàng hậu. Vì Lê Hoàn không đc truy tôn miếu hiệu và thụy hiệu nên người ta dùng Đại Hành là tên hiệu của ông sau các ghi chép sau này.

      Thích

      • Mọi vấn đề về tên gọi đều chuẩn rồi, chỉ còn việc này là cần phải thảo luận thôi, đó là, tại sao Lê Long Đĩnh không chịu đưa cha vào thờ trong nhà Thái Miếu!?

        Thích

      • Việc tại sao Lê Long Đĩnh không đưa vua Lê Đạo Hành thờ tại thái miếu, cái này phải xem xét nhiều vấn đề. Phải xem nhà Lý lên ngôi như thế nào, tại sao lại gọi Lê Long Đỉnh là Ngoạ triều mà k có thuỵ hiệu hay miếu hiệu gì. Việc lên của Lý Công Uẩn là do phe phật giáo dựng lên, để có sự chính thống thì phải nói xấu về Lê Long Đỉnh, phải đổ tiếng ác cho ông, thì việc lên ngôi của Lý Công Uẩn mới chính danh ngôn thuận. Các sử liêu về triều tiền Lê thì viết vào thời Lý nên nhiều thông tin sẽ k khách quan. Mọi người về Hoa Lư thì xem mọi người thờ phụng Lê Long Đỉnh rất nhiều nơi chứ không phải 1 nơi, vậy nếu 1 người bạo ngược ác nghịch như thế sao chết lại đc người dân lập miếu thờ nhiều nơi vậy. Chúng ta nên xem xét vấn đề này, việc thông tin về triều Tiền Lê và Lê Long Đình chúng ta cần phải tìm kiếm thêm nhiều tài liệu

        Thích

      • Nên nhớ miếu hiệu cũng là do đời vua sau truy tôn cho đời vua trước. Nên trường hợp của Chu Đệ, ban đầu được con tôn là Thái Tông (khá hợp lý) nhưng đến một đời vua cháu (mình không nhớ) thì được tôn lại là Thành Tổ, có thể vì các đời sau cho rằng ông vừa có công phò tá cha khai triều, vừa là người mở đầu cho nhiều thể chế mới sau Thái Tổ nên mới tôn ông là như vậy. Trong tài liệu cả 2 tên Thái Tông hay Thành Tổ đều được sử dụng như nhau.

        Thích

      • Ngoài ra Khang Hy cũng được tôn là Thánh Tổ, tuy ông không phải hoàng đế đầu tiên của nhà Thanh ở Trung Quốc, có lẽ vì công trạng của ông lớn và là người xác lập vị thế chính danh vững chắc của nhà Thanh.

        Thích

      • Bổ sung.
        * Long Đĩnh giết anh cùng mẹ là Long Việt để cướp ngôi, nhưng sau khi lên ngôi thì lập Thái Miếu và đưa anh vào thờ với miếu hiệu Trung tông Hoàng đế và lại không chịu đưa cha (Lê Hoàn) vào thờ. Nên tìm rõ nguyên nhân của sự kiện này.
        * Trước khi mất có 3 tháng, Long Đĩnh còn đem quân đi dẹp loạn ở châu Hoàn Đường, vì thế, cái thuyết “Ngọa triều” là do sử sách ở tk 17&18 bịa đặt nên. Cũng cần phải suy nghĩ xem tại sao trong khoảng thời gian này lại xuất hiện khá nhiều ngụy sử ảnh hưởng tới tận bây giờ!?

        Thích

  4. Tôi đọc bài của tác giả, có một số vấn đề xin bàn một chút.
    Thứ nhất, niên hiệu không phải là danh xưng của một ông vua, mà 2 từ “HOÀNG ĐẾ” mới chính là danh xưng của vua, vì vua có thể là “Hoàng Đế” hoặc là”Vương”, “Đại Vương”. Không phải ông vua nào cũng dám xưng Hoàng Đế, ví dụ như các chúa Nguyễn, khi Vũ Vương xưng vương, đặt triều đình, thiết bách quan nhưng cũng chỉ xưng “Vương” chứ không phải là Hoàng Đế, hay Nguyễn Ánh trong những tháng năm chống lại nhà Tây Sơn cũng chỉ xưng “Vương”, đến khi tiêu diệt nhà Tây Sơn mới xưng Hoàng Đế.
    Thành tố “Tổ”, hay “Tông” có nguyên tắc hẳn hoi, Tổ thường đặt cho vị vua sáng lập triều đại và có công trạng “Khai Quốc” thật sự, cũng có khi được dùng truy tôn cho cha ông của Hoàng Đế. Không hẳn cứ là người sáng lập triều đại thì sẽ được đặt”Tổ”, Trung QUốc có Tây Hạ Cảnh Tông Lý Nguyên Hạo, sáng lập nhà Tây Hạ nhưng cũng chỉ được “Tông”, và không hẳn là vua kế vị về sau thì được đặt “Tông”, mà là người có công trạng đặt biệt cũng được đặt “Tổ”, như Hán Thế Tổ Quang Vũ Hoàng Đế Lưu Tú, có công khôi phục nhà Hán, Tào Ngụy Liệt Tổ Minh Hoàng Đế Tào Duệ, cha ông là KHai Quốc Hoàng Đế nhà Tào Ngụy – Tào Phi là Cao Tổ Văn Đế, nhưng ông có công chống các cuộc bắc phạt của Khổng Minh nên được đời sau tôn miếu hiệu là “Tổ”.
    Minh Thành Tổ Chu Đệ lúc đầu có miếu hiệu là Thái Tông, về sau được con cháu đổi là Thành Tổ đó ông có công củng cố nhà Mình, tạo bước đột phá về sức mạnh của nhà Mình.
    Thành Tố “Tổ”, Tông có thể từ câu “Tổ tông”, ý muốn nói đến người khai sáng và người kế thừa phát triển mà người ta thường nói liệt tổ, liệt tông. Thời Tam Đại ở Trung Quốc, triều đình Trung Ương được gọi là “Tổ” quốc, các nước chư hầu thì gọi là “Tông” quốc. Ví dụ một người nước Tề thời xuân thu – chiến quốc thì nhà Chu là “Tổ quốc” của họ, con nước Tề là”Tông quốc của họ.

    Thích

    • Riêng về Minh Thành tổ Chu Đệ/Lệ có thể còn có nguyên do khác.
      * Có thể Chu Đệ không phải là con Chu Nguyên Chương, theo truyền thuyết thì Chu Nguyên Chương rất khoái nạp phi vốn là thiếp của các đối thủ, trong các bà phi này có bà là thiếp của Nguyên Thuận đế đã mang thai khi Chu Nguyên Chương cướp về. Chu Đệ khi làm vua đã làm trái di huấn của cha (không được đánh chiếm các nước nhỏ – “bất chinh chư di quốc” gồm 15 nước, trong đó có Đại Việt), lại còn cho viết lại lịch sử Trung Hoa (Vĩnh Lạc đại điển), trong đó biến Trung nguyên là lịch sử khai phá của các bộ lạc hungnô và tiênty chứ không phải là lịch sử của người hoahạ.
      * Có thể trước khi mất, Chu Đệ “có nguyện vọng” lấy miếu hiệu là Thành tổ, nhưng sợ lòng dân không yên nên triều sau phải lấy miếu hiệu khác (Thái tông) để bịt miệng thiên hạ chăng!?

      Thích

      • Bạn nên nghiên cứu kỹ vấn đề miếu hiệu của bài viết trên đi rồi sẽ biết. Miếu hiệu là do đời sau đặt cho đời trước. Chu Đệ khi còn sống không thể tự đặt miếu hiệu Thành Tổ hay Thái Tông cho mình được. Còn như theo ý bạn cứ khăng khăng Chu Đệ không phải con của Chu Nguyên Chương không biết lấy từ nguồn sử liệu nào mà cứ lặp đi lặp lại hoài. Bạn không thấy mâu thuẫn sao khi bạn cho rằng Chu Đệ được triều sau lấy miếu hiệu Thái Tông là vì sợ lòng người không yên và để bịt miệng thiên hạ. Nếu cho Chu Đệ chọn thì ông sẽ chọn miếu hiệu là Thái Tông chứ không phải Thành Tổ, vì cha ruột ông là Chu Nguyên Chương có miếu hiệu là Thái Tổ, ông là người kế thừa hoàng vị nên có miếu hiệu là Thái Tông sẽ vô cùng hợp lý. Ở bình luận trên bạn nói Chu Đệ có miếu hiệu là Thành Tổ có thể là không phải con của Chu Nguyên Chương, ở đây bạn lại cho rằng ông muốn lấy Thành Tổ nhưng sợ lòng người không yên. Vậy thì nếu Chu Đệ lấy hiệu là Thành Tổ chẳng khác nào như ý bạn nói Chu Đệ thừa nhận không phải con của Chu Nguyên Chương. Bạn nên đọc hết các bài viết về đế vương Trung Quốc bạn sẽ thấy có nhiều triều đại có rất nhiều hoàng đế có miếu hiệu là Tổ như nhà Bắc Ngụy, các quốc gia thời ngũ hồ thập lục quốc, thời Nam Bắc Triều….thậm chí có triều đại chỉ có hoàng đế miếu hiệu Tổ mà không có Tông…

        Thích

  5. Minh Thành tổ là con dòng thứ và là người cướp ngôi của cháu mình là dòng tông trưởng cho nên con cháu đời sau mới suy tôn lên là Minh Thành Tổ
    Minh Mạng không có Truyền ngôi lại cho vua Thiệu Trị mà truyền ngôi lại cho người con nuôi , làm vua được có 7 ngày thì bị Thiệu Trị cướp ngôi và bị nhốt vào ngục và bị tra khảo về nơi cất giữ các kho báu của 2 triều trước. Chỉ hơn nửa tháng sau vị vua này qua đời .=》 Hầu như tất cả điều không biết vị vua này .
    Sắp tới đây người ta viện cớ trùng tu lại Thái Miếu nơi thờ 9 vị Chúa Nguyên để mà khai quật 9 cái hầm có tổng diện tích là hơn 934 m vuông để tìm kho báu của Gia Long và Minh Mạng ( họ đã dò tìm được 9 cái hầm bí mật ấy, nhưng theo tôi thì chắc cũng không phải là những hầm chứa vàng , vì hầm chứa vàng ở chỗ khác. Vì năm Giáp ngọ 1834 vua Minh Mạng có chôn cất 10 hầm bạc = 100,000 hốc bạc và 2 hầm vàng và tiền bằng vàng, nhưng trước kia mới tình cờ phát hiện ra 2 hầm bạc mà thôi ! )
    Phú Tiên – TN :10/ 08/2021

    Thích

Nhận xét về võ văn quang Hủy trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s