Hall Brands và Michael Beckley
Trần Quang Nghĩa dịch
Những thảm họa địa chính trị lớn nhất xảy ra ở điểm giao nhau giữa tham vọng và tuyệt vọng. Trung Quốc của Tập Cận Bình sẽ sớm được thúc đẩy bởi cả hai.
Chúng tôi sẽ giải thích nguyên nhân của sự tuyệt vọng đó—nền kinh tế đang chậm lại và cảm giác bị bao vây và suy thoái ngày càng tăng. Nhưng trước tiên, chúng ta cần vạch ra tầm vĩ đại của những tham vọng đó – điều mà Trung Quốc của Tập Cận Bình đang cố gắng đạt được. Thật khó để hiểu được sự sụp đổ của Trung Quốc sẽ nặng nề như thế nào nếu không hiểu những tầm cao mà Bắc Kinh nhắm tới. Và những đỉnh cao đó là rất lớn, bởi vì Đảng Cộng sản Trung Quốc đang thực hiện một dự án vĩ đại nhằm viết lại các quy tắc của trật tự toàn cầu ở châu Á và xa hơn nữa. Trung Quốc không muốn trở thành một siêu cường – một trong nhiều cực trong hệ thống quốc tế. Nó muốn trở thành siêu cường – mặt trời địa chính trị mà hệ thống xoay quanh.
Tập đã tuyên bố như vậy vào tháng 10 năm 2017, mặc dù bằng ngôn ngữ không rõ ràng mà các cường quốc theo chủ nghĩa xét lại thường sử dụng để che giấu ý định của họ. Dịp này là Đại hội lần thứ 19 của Đảng Cộng sản Trung Quốc, một cuộc họp định kỳ 5 năm một lần mà các nhà cầm quyền Trung Quốc sử dụng để chào mừng những thành tựu và xem trước các kế hoạch của họ. Tập Cận Bình đã làm cho đại hội này trở nên đáng nhớ bằng cách đưa “Tư tưởng Tập Cận Bình” vào hiến pháp Trung Quốc, loại bỏ những người kế nhiệm tiềm năng và củng cố vị thế của ông với tư cách là nhà lãnh đạo thống trị nhất của đất nước kể từ thời Mao Trạch Đông. Và khi Tập Cận Bình củng cố quyền lực ở trong nước, ông ta ám chỉ—trong một bài phát biểu kéo dài hơn ba giờ đồng hồ—rằng Bắc Kinh đã sẵn sàng làm thay đổi cán cân quyền lực ở nước ngoài.
Dưới sự lãnh đạo của ĐCSTQ, ông Tập tuyên bố, Trung Quốc “đã đứng lên, trở nên giàu có và đang trở nên hùng mạnh.” Một quốc gia mà phương Tây từng hy vọng sẽ noi theo tấm gương dân chủ của mình giờ đây đang “mở đường cho các nước đang phát triển khác” noi theo. Bắc Kinh đã tiến gần hơn đến “sân khấu trung tâm” trong các vấn đề thế giới. Vào dịp kỷ niệm 100 năm Cộng hòa Nhân dân vào năm 2049, Trung Quốc sẽ “trở thành một nhà lãnh đạo toàn cầu” về “sức mạnh quốc gia tổng hợp và ảnh hưởng quốc tế”; nó sẽ xây dựng một trật tự thế giới “ổn định” hơn trong đó “công cuộc trẻ hóa quốc gia” của Trung Quốc có thể hoàn toàn đạt được.
Những lời của Tập Cận Bình có thể có vẻ quá khích đối với người quan sát chưa qua đào tạo. Nhưng khán giả của ông là các bộ máy Đảng Cộng sản sẽ hiểu những gì họ đang nghe – một tuyên bố rằng Trung Quốc hiện là một cường quốc có khả năng gây ra thách thức toàn cầu đối với Hoa Kỳ. Bản thân ông Tập đã nói thẳng điều đó trong một bài phát biểu ít được công khai hơn nhiều năm trước đó. Ông ta giải thích rằng con đường phía trước sẽ rất khó khăn và việc đi đến đó sẽ đòi hỏi “sự quyết tâm chiến lược cao độ”. Tuy nhiên, đích đến không còn nghi ngờ gì nữa: Trung Quốc sẽ xây dựng “một chủ nghĩa xã hội ưu việt hơn chủ nghĩa tư bản” và đảm bảo một “tương lai nơi chúng ta sẽ giành được thế chủ động và có vị trí thống trị.”
Giờ đây, khó có thể bỏ sót tham vọng đó trong những gì các quan chức ĐCSTQ đang nói. Nó thậm chí còn rõ ràng hơn trong những gì ĐCSTQ đang làm, từ chương trình đóng tàu hải quân nổi tiếng thế giới cho đến nỗ lực tái tạo địa lý chiến lược của Á-Âu. Đại chiến lược của Trung Quốc liên quan đến việc theo đuổi các mục tiêu gần nhà, chẳng hạn như củng cố quyền lực của ĐCSTQ và giành lại những phần lãnh thổ của Trung Quốc đã bị xé toạc khi đất nước còn yếu. Nó cũng bao gồm các mục tiêu mở rộng hơn, chẳng hạn như tạo ra một phạm vi ảnh hưởng trong khu vực và cạnh tranh sức mạnh của Mỹ trên quy mô toàn cầu. Chương trình nghị sự của ĐCSTQ pha trộn ý thức về vận mệnh lịch sử của Trung Quốc với sự nhấn mạnh vào các công cụ quyền lực hiện đại của thế kỷ 21. Nó bắt nguồn từ những tham vọng địa chính trị vô hạn vốn từng thúc đẩy rất nhiều cường quốc và những bất an vô độ đang hoành hành chế độ độc tài của Trung Quốc.
Mặc dù nỗ lực sắp xếp lại thế giới của Trung Quốc có trước Tập Cận Bình, nhưng nó đã tăng tốc đáng kể trong những năm gần đây. Ngày nay, các quan chức ĐCSTQ bề ngoài thể hiện mọi niềm tin rằng một Trung Quốc đang trỗi dậy đang làm lu mờ một nước Mỹ đang suy tàn. Tuy nhiên, trong thâm tâm, các nhà lãnh đạo Bắc Kinh đang lo lắng rằng giấc mơ Trung Hoa có thể vẫn mãi là giắc mơ.
TRUNG QUỐC MUỐN GÌ
Nhận ra những gì Trung Quốc muốn có thể khó khăn, bởi vì các quốc gia muốn đảo ngược hiện trạng có mọi lý do để che giấu mục tiêu của họ. Hơn nữa, ĐCSTQ là một đảng độc tài bí hiểm không cảm thấy chút ân hận khi lừa dối người ngoài hoặc thậm chí cả đồng bào và đồng chí mình. Kết quả là, đại chiến lược của Trung Quốc – khái niệm tổng thể của nước này về những gì họ đang cố gắng đạt được – thường được tìm thấy nhiều hơn trong sự đồng thuận sơ bộ giữa các tầng lớp tinh hoa hơn là trong các kế hoạch chi tiết, từng bước cho tương lai. Tuy nhiên, nếu một người nhìn đủ kỹ, có nhiều bằng chứng cho thấy ĐCSTQ đang theo đuổi một đại chiến lược đa tầng, kiên quyết với bốn mục tiêu chính.
Việc ĐCSTQ đang ở vị thế tìm kiếm bất kỳ mục tiêu nào trong số này là một sự tôn vinh đối với sự thay đổi lớn nhất trong nền chính trị toàn cầu trong nửa thế kỷ qua – sự nổi lên của Trung Quốc như một cường quốc. Khi được thành lập vào năm 1949, Cộng hòa Nhân dân là một quốc gia lạc hậu về công nghệ, nghèo đói – “một trại tế bần mênh mông,” chiến lược gia người Mỹ George Kennan viết, “mà không ai chịu trách nhiệm.” Khi Mao Trạch Đông qua đời năm 1976, đất nước vẫn còn kém phát triển. Tuy nhiên, theo thời gian, sự kết hợp giữa may mắn và những cải cách kinh tế được khai sáng đã đưa Trung Quốc từ tình trạng trì trệ xã hội chủ nghĩa sang chủ nghĩa tư bản chuyên chế nhộn nhịp. Kết quả tăng trưởng thật đáng kinh ngạc: Tổng sản phẩm quốc nội thực tế đã tăng gấp 37 lần từ năm 1978 đến năm 2018. Ngày nay, Trung Quốc có nền kinh tế lớn nhất thế giới (được đo bằng sức mua tương đương), sản lượng sản xuất, thặng dư thương mại và dự trữ tài chính. Năm 2018, Trung Quốc là đối tác thương mại hàng đầu của 128 quốc gia. Tất cả những điều đó có nghĩa là các nhà lãnh đạo Trung Quốc có thể ấp ủ một số giấc mơ rất lớn.
Thứ nhất, ĐCSTQ có tham vọng vĩnh cửu của mọi chế độ chuyên quyền—duy trì sự kìm kẹp quyền lực sắt thép của nó. Trung Quốc không phải là thứ mà người Mỹ sẽ coi là một quốc gia bình thường có lợi ích quốc gia thông qua các cuộc tranh luận và bầu cử công khai. Trung Quốc có các cuộc tranh luận chính trị, nhưng chúng chỉ diễn ra trong một quốc gia độc đảng, trong đó quyền tối cao của ĐCSTQ được ghi vào hiến pháp. Kể từ năm 1949, chính quyền Trung Quốc luôn tự cho mình là bị nhốt trong cuộc đấu tranh với kẻ thù trong và ngoài nước. Các nhà lãnh đạo của nó bị ám ảnh bởi sự sụp đổ của Liên Xô, sự sụp đổ của một nhà nước xã hội chủ nghĩa vĩ đại khác. Họ biết rằng sự sụp đổ của hệ thống do ĐCSTQ lãnh đạo sẽ là một thảm họa, và có thể gây tử vong cho cá nhân họ. Một nhà Trung Quốc học viết, kết quả là đặc tính có tổng bằng không được tóm tắt trong công thức trần trụi, “Ngươi-Chết, Ta-Sống.”
Trong chính trị Trung Quốc, hoang tưởng là một đức tính tốt hơn là một tật xấu. Như Ôn Gia Bảo, khi đó là người đứng đầu chính phủ Trung Quốc, đã từng nói: “Suy nghĩ về lý do tại sao nguy hiểm rình rập sẽ đảm bảo an ninh cho mọi người. Suy nghĩ về lý do tại sao hỗn loạn xảy ra sẽ đảm bảo hòa bình cho mọi người. Suy nghĩ về lý do tại sao một đất nước sụp đổ sẽ đảm bảo sự sống còn của mọi người.” Trong lịch sử, ĐCSTQ đã trải qua những bước tiến dài – đẩy đất nước vào cảnh điên loạn trong Cách mạng Văn hóa, giết hại hàng trăm hoặc có lẽ hàng nghìn công dân của chính họ trong các cuộc biểu tình tại Quảng trường Thiên An Môn năm 1989— để thi thố sức mạnh của mình. Và mục tiêu duy trì quyền lực của ĐCSTQ là cốt lõi của mọi quyết định quan trọng. Mục đích cơ bản của Tập Cận Bình, một quan chức giải thích vào năm 2017, là “đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong mọi khía cạnh của cuộc sống.”
Thứ hai, ĐCSTQ muốn khôi phục lại toàn vẹn Trung Quốc bằng cách lấy lại các vùng lãnh thổ đã mất trong thời kỳ nội chiến và ngoại xâm trước đó. Mục tiêu này cũng đã có từ nhiều thập kỷ trước: ĐCSTQ đã chiếm giữ và sáp nhập Tây Tạng ngay sau khi lên nắm quyền ở Trung Quốc. Ngày nay, bản đồ Trung Quốc của Tập Cận Bình bao gồm một Hồng Kông được sáp nhập hoàn toàn vào nhà nước do ĐCSTQ lãnh đạo (một quá trình gần như hoàn tất) và một Đài Loan đã được đưa trở lại dưới sự kiểm soát của CHND Trung Hoa. Tình trạng bất thường của hòn đảo tự trị đó không thể “truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác,” Tập đã nói: Bắc Kinh không thể mãi chờ đợi cái tỉnh lỵ phản bội của mình quay trở lại.
Ở những nơi khác dọc theo khu vực ngoại vi của mình, ĐCSTQ có những tranh chấp biên giới nổi cộm với các quốc gia từ Ấn Độ đến Nhật Bản. Bắc Kinh cũng tuyên bố khoảng 90% diện tích Biển Đông—một trong những tuyến đường thủy quan trọng nhất về mặt thương mại của thế giới—là sở hữu chủ quyền của mình. Các quan chức Trung Quốc nói rằng không có chỗ cho sự thỏa hiệp về những vấn đề này. “Chúng ta không thể để mất dù chỉ một tấc lãnh thổ do tổ tiên để lại,” Tập nói với Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ James Mattis vào năm 2018, đồng thời hào phóng nói thêm, “Cái gì là của người khác thì chúng ta không muốn chút nào.”
Vì các yêu sách của Trung Quốc ở Biển Hoa Đông và Biển Đông kéo dài hàng trăm dặm tính từ biên giới của họ, nên khó có thể phân biệt “các vấn đề chủ quyền” này với một chiến dịch lớn hơn nhằm đạt được quyền làm chủ ở Đông Á.
Mục tiêu thứ ba của ĐCSTQ là tạo ra “Châu Á cho người Châu Á”, một phạm vi ảnh hưởng trong khu vực mà Trung Quốc chiếm ưu thế tối cao bởi vì các chủ thể bên ngoài, đặc biệt là Mỹ, bị đẩy ra bên lề.
Bắc Kinh có lẽ không hình dung ra kiểu thống trị vật chất hoàn toàn mà Liên Xô từng thực hiện ở Đông Âu trong Chiến tranh Lạnh. Nó có thể không tung hoành quân sự trên khắp châu Á. Thay vào đó, ĐCSTQ hình dung ra việc sử dụng kết hợp giữa thu hút và ép buộc để đảm bảo rằng các nền kinh tế hàng hải châu Á hướng về Bắc Kinh chứ không phải Washington, rằng các cường quốc nhỏ hơn sẽ tôn trọng ĐCSTQ một cách thích hợp và rằng Mỹ không còn có các liên minh, khu vực quân sự. sự hiện diện, hoặc ảnh hưởng cần thiết để tạo ra vấn đề cho Trung Quốc ngay tại sân trước của mình. Như Zbigniew Brzezinski từng viết, “một phạm vi ảnh hưởng của Trung Quốc có thể được định nghĩa là một phạm vi trong đó câu hỏi đầu tiên ở các thủ đô khác nhau là, ‘Quan điểm của Bắc Kinh về vấn đề này là gì?’”
Lần gần nhất mà Tập Cận Bình tuyên bố công khai tham vọng này là vào năm 2014, khi ông nói rằng “người dân châu Á sẽ điều hành các công việc của châu Á, giải quyết các vấn đề của châu Á và duy trì an ninh của châu Á” – một cách nói uyển chuyển cho một tình huống mà Mỹ bị đuổi ra khỏi một khu vực mà sau đó không có cách nào chống lại sức mạnh của Trung Quốc. Các quan chức khác đã nói rõ hơn. Năm 2010, Ngoại trưởng Trung Quốc Dương Khiết Trì nói với 10 quốc gia Đông Nam Á rằng họ phải chiều theo ý muốn của Bắc Kinh vì “Trung Quốc là một nước lớn còn các bạn là nước nhỏ, và đó là sự thật.”
Tuy nhiên, Bắc Kinh muốn nhiều hơn quyền bá chủ khu vực, và mục tiêu thứ tư trong chiến lược của họ tập trung vào việc đạt được quyền lực toàn cầu và cuối cùng là vị thế bá chủ toàn cầu. Các phương tiện truyền thông nhà nước và các quan chức của đảng đã giải thích rằng một Trung Quốc ngày càng hùng mạnh không thể thoải mái sống trong một hệ thống do Hoa Kỳ lãnh đạo. Fu Ying, một quan chức chính sách đối ngoại hàng đầu, đã viết vào năm 2016 rằng hệ thống đó là một “bộ đồ không còn phù hợp nữa”. Tập đã nói về việc tạo ra một “cộng đồng vận mệnh chung” toàn cầu tiến tới “thiên hạ nhất gia” và ắt hẳn tuân theo sự chỉ đạo của bố già ĐCSTQ. Tân Hoa Xã, cơ quan thông tấn nhà nước của CHND Trung Hoa, không giấu giếm về việc ai sẽ định hình các vấn đề toàn cầu sau khi sự trẻ hóa quốc gia Trung Quốc đạt được: “Vào năm 2050, hai thế kỷ sau Chiến tranh nha phiến, cuộc chiến đã nhấn chìm ‘Trung Vương quốc’ vào thời kỳ bị tổn thương và hổ nhục, Trung Quốc chuẩn bị lấy lại sức mạnh của mình và trở lại vị trí hàng đầu thế giới.” Cuộc đấu tranh để “trở thành số 1 thế giới. . . là một ‘chiến tranh nhân dân’,” tờ báo dân tộc chủ nghĩa Hoàn Cầu Thời Báo, tuyên bố. “Nó sẽ cuồn cuộn và hùng vĩ như một dòng sông lớn. Nó sẽ là một cơn sóng thủy triều không thể ngăn cản.”
Có thể hiểu được là chế độ này đã không đưa ra bất kỳ kế hoạch chi tiết nào cho trật tự thế giới mang đặc điểm Trung Quốc. Cho đến vài năm trước, các quan chức ĐCSTQ đã cẩn thận tránh gợi ý rằng Trung Quốc có thể thách thức, chứ chưa nói đến việc vượt qua Hoa Kỳ. Nhưng các bài phát biểu của Tập Cận Bình, sách trắng của chính phủ và các nguồn khác cho thấy ít nghi ngờ rằng Bắc Kinh đang phấn đấu để có một quân đội đẳng cấp thế giới có thể triển khai sức mạnh trên toàn cầu và để thống trị các ngành công nghiệp công nghệ cao nhằm tạo ra sức mạnh kinh tế và quân sự. Trong một thế giới mà Trung Quốc là trung tâm, mạng lưới liên minh toàn cầu của Mỹ sẽ bị suy yếu và vô hiệu hóa; Bắc Kinh sẽ thực hiện vai trò lãnh đạo toàn cầu thông qua các mối quan hệ chiến lược và các thể chế quốc tế của riêng mình theo ý mình muốn. Ít nhất, các quốc gia có hình thức chính quyền độc đoán sẽ được bảo vệ và thậm chí được hưởng đặc quyền trong thời đại Trung Quốc lên ngôi, và lúc mà thời kỳ dân chủ thống trị kết thúc.
Học giả Nadège Rolland viết: Bắc Kinh có thể không có ý định “thống trị thế giới” hoàn toàn. “Khẳng định vị trí thống trị của mình trong một thế giới nơi mà ảnh hưởng của các nền dân chủ tự do phương Tây đã giảm xuống mức tối thiểu, và nơi mà một phần lớn thế giới thuộc khu vực ảnh hưởng của Trung Quốc, là đủ.” Một nhà Trung Quốc học khác, Liza Tobin, đưa ra một quan điểm đánh giá rõ ràng về “cộng đồng vận mệnh chung” của Tập: “Mạng lưới quan hệ đối tác toàn cầu lấy Trung Quốc làm trung tâm sẽ thay thế hệ thống liên minh hiệp ước của Hoa Kỳ, cộng đồng quốc tế sẽ coi mô hình quản trị độc đoán của Bắc Kinh là một sự thay thế ưu việt hơn cho nền dân chủ bầu cử phương Tây và thế giới sẽ ghi công Đảng Cộng sản Trung Quốc vì đã phát triển một con đường mới dẫn đến hòa bình, thịnh vượng và hiện đại mà các quốc gia khác có thể noi theo.”
Như những đánh giá này chỉ ra, bốn lớp trong đại chiến lược của Trung Quốc đều đi cùng nhau. ĐCSTQ lập luận rằng chỉ dưới sự lãnh đạo của mình, Trung Quốc mới có thể đạt được “sự trẻ hóa quốc gia” được chờ đợi từ lâu. Ngược lại, việc tìm kiếm quyền lực khu vực và toàn cầu sẽ củng cố quyền lực của ĐCSTQ trong nước. Nhiệm vụ này có thể mang lại tính hợp pháp bằng cách khơi dậy chủ nghĩa dân tộc của Trung Quốc vào thời điểm mà hệ tư tưởng ban đầu của chế độ – chủ nghĩa xã hội – đã bị từ bỏ. Nó có thể mang lại uy tín, trong nước cũng như toàn cầu, cho những người cai trị Trung Quốc. Và nó có thể trao cho Trung Quốc khả năng, thứ mà họ đang sử dụng một cách hung hăng, để bịt miệng những người quốc tế chỉ trích và tạo ra các quy tắc toàn cầu để bảo vệ một nhà nước chuyên chế.
Do đó, đại chiến lược của Trung Quốc bao hàm nhiều điều hơn là sự phòng thủ được quan niệm một cách hạn hẹp đối với đất nước và chế độ cầm quyền của nó. Những mục tiêu đó được liên kết chặt chẽ với việc theo đuổi một sự thay đổi mang tính thời đại trong các quy tắc khu vực và toàn cầu của con đường—loại con đường xảy ra khi một bá chủ sụp đổ và một bá chủ khác trỗi dậy. Henry Kissinger viết: “Các đế chế không quan tâm đến việc hoạt động trong một hệ thống quốc tế. Họ khao khát trở thành hệ thống quốc tế.” Đó là tham vọng cuối cùng của nghệ thuật quản lý nhà nước Trung Quốc ngày nay.
BẰNG CHỨNG TRONG CÁC CHÍNH SÁCH
Cách đây không lâu, nhiều quan chức Mỹ sẽ thấy đánh giá này là đáng báo động. Cuối năm 2016, Tổng thống Obama đã lập luận rằng Mỹ nên ủng hộ một “Trung Quốc đang trỗi dậy, thành công” có thể chia sẻ một cách xây dựng gánh nặng của vai trò lãnh đạo trong một thế giới phức tạp. Gần đây, quan điểm của Mỹ đã trở nên u ám, nhưng ý kiến cho rằng Bắc Kinh đang cố gắng tạo ra một thực tế hoàn toàn khác ở châu Á và thế giới vẫn còn mời gọi sự hoài nghi trong một số khu vực. Than ôi, bằng chứng là ở những gì Trung Quốc đang làm.
Trước hết là có sự tăng cường không ngừng lực lượng quân sự. Chi tiêu quân sự được điều chỉnh theo lạm phát của Trung Quốc đã tăng gấp 10 lần từ năm 1990 đến năm 2020, một tốc độ mở rộng bền vững chưa từng có trong lịch sử hiện đại. QGPNDTQ đã sử dụng ngân sách đó để chế tạo vũ khí, từ tên lửa đạn đạo chống hạm đến tàu ngầm tấn công yên tĩnh, cần thiết để ngăn chặn các tàu và máy bay của Mỹ ở phía tây Thái Bình Dương—và để Bắc Kinh tự tung tự tác chiếm lại Đài Loan hoặc một kẻ thù khác gần đó. Bắc Kinh hiện chiếm hơn một nửa chi tiêu quân sự của châu Á; nước này sử dụng lực lượng tên lửa đạn đạo, lực lượng hải quân tính theo số lượng tàu, và hệ thống phòng không tích hợp lớn nhất thế giới. Các lực lượng Trung Quốc đang chuẩn bị cho “các cuộc chiến ngắn, sắc bén” chống lại Mỹ và các đồng minh trong khu vực; họ đang chạy đua để hoàn thành những cải cách cho phép ĐCSTQ chinh phục Đài Loan. Trong khi đó, QGPNDTQ cũng đã bắt đầu mở rộng nhanh chóng kho vũ khí hạt nhân của mình và phát triển các phương tiện vận chuyển tinh vi hơn; Bắc Kinh đang trên đà trở thành một đối thủ hạt nhân chính thức của Hoa Kỳ vào những năm 2030. Và Trung Quốc đang chế tạo tàu sân bay, mua lại các căn cứ ở nước ngoài và phát triển khả năng triển khai sức mạnh ra Ấn Độ Dương và cuối cùng là trên toàn thế giới. Một thống kê đáng chú ý: từ năm 2014 đến 2018, Bắc Kinh đã hạ thủy nhiều tàu hơn tổng số tàu của toàn bộ hạm đội Anh, Ấn Độ, Tây Ban Nha, Đài Loan và Đức cộng lại.
Việc tăng cường quân sự chỉ là một cách biến tham vọng của Bắc Kinh thành hành động. Trong hơn một thập kỷ qua, Bắc Kinh đã sử dụng biện pháp cưỡng chế nhiều mặt để tăng cường kiểm soát Biển Đông; đáng chú ý nhất là bằng cách xây dựng các đảo nhân tạo và sau đó đặt các căn cứ không quân, tên lửa và các khả năng quân sự khác lên trên chúng. Nước này đã giành quyền kiểm soát các thực thể tranh chấp từ Philippines và đưa giàn khoan dầu, đội tàu đánh cá và lực lượng dân quân biển gần như chính thức vào vùng đặc quyền kinh tế của các nước láng giềng. (Tàu Trung Quốc cũng đã đổ những đống phân người gần các rạn san hô và thực thể đang tranh chấp, khiến một chuyên gia môi trường phải thốt lên: “Trung Quốc, đừng có ỉa ở Trường Sa nữa.”) “Chúng tôi không muốn cãi nhau với các bạn,” Tập nói với các Tổng thống Philippines năm 2017. “Nhưng nếu bạn ép buộc vấn đề này, chúng tôi sẽ tiến hành chiến tranh.” Nhìn xa hơn, QGPNDTQ đã thử nghiệm khả năng phòng thủ trên không và hải quân của Nhật Bản xung quanh quần đảo Senkaku đang tranh chấp ở Biển Hoa Đông, quấy rối quân đội Ấn Độ ở dãy Himalaya, và đe dọa Đài Loan. Hòn đảo đó “sẽ không có cơ hội” nếu Trung Quốc xâm lược, các quan chức QGPNDTQ đã chế nhạo.
Táo bạo hơn nữa là Sáng kiến Vành đai và Con đường (VĐCĐ), một canh bạc về thương mại, cơ sở hạ tầng và đầu tư mở rộng toàn cầu mà Tập gọi là “dự án của thế kỷ”. VĐCĐ có nhiều khía cạnh và động cơ, một số trong đó tương đối tầm thường. Nhưng cốt lõi chiến lược của nó, VĐCĐ là một nỗ lực trị giá 1 nghìn tỷ đô la để biến trung tâm lịch sử của Á-Âu thành một không gian địa chính trị hướng về Bắc Kinh.
Trung Quốc đang sử dụng các dự án cơ sở hạ tầng, các khoản vay và thương mại để đảm bảo tài nguyên, thị trường và ảnh hưởng từ Đông Nam Á đến Nam Âu. Nó đang xây dựng các tuyến đường bộ để ngăn Hải quân Hoa Kỳ can thiệp vào các chuyến vận chuyển dầu và thực phẩm quan trọng trong thời chiến. Nó đang sử dụng các dự án phát triển để tạo ra ảnh hưởng lớn hơn dọc theo biên giới đất liền dài của Trung Quốc ở Trung Á. Và nó đang giành được quyền tiếp cận các cảng và các cơ sở khác, sẽ giúp Trung Quốc tiếp cận tốt hơn với Ấn Độ Dương và mở rộng phạm vi chiến lược của QGPNDTQ. Do đó, các công cụ của VĐCĐ bao gồm mọi thứ, từ các doanh nghiệp nhà nước đến lực lượng hải quân đang phát triển của Trung Quốc. Tham vọng cơ bản dường như là biến vùng đất rộng lớn nhất thế giới thành nền tảng cho sự phô trương sức mạnh của Trung Quốc. Học giả Daniel Markey viết: “Việc tiếp cận các nguồn tài nguyên, thị trường và cảng của Á-Âu có thể biến Trung Quốc từ một cường quốc Đông Á thành một siêu cường toàn cầu.
Điểm mấu chốt đối với VĐCĐ—và mọi thứ khác mà Trung Quốc đang làm—là việc theo đuổi ưu thế công nghệ. ĐCSTQ từ lâu đã tìm cách đẩy nhanh sự trỗi dậy của Trung Quốc bằng một chương trình đẳng cấp thế giới về lấy cắp tài sản trí tuệ, ép buộc chuyển giao công nghệ và gián điệp thương mại. Thông qua dự án Con đường Tơ lụa Kỹ thuật số, Bắc Kinh hiện đang cố gắng định vị các công ty như Huawei và ZTE là nhà cung cấp cơ sở hạ tầng viễn thông và thiết bị giám sát tiên tiến hàng đầu thế giới. Trong năm 2018, riêng Huawei tuyên bố đang thực hiện hơn 700 dự án “thành phố an toàn” công nghệ cao tại hơn 100 quốc gia. Thông qua một số công ty tương tự, Trung Quốc đang tìm cách xây dựng hoặc mua cáp quang và trung tâm dữ liệu tạo nên hệ thống dây vật lý của Internet—một phiên bản hiện đại của sức mạnh mà Vương quốc Anh từng sử dụng thông qua mạng lưới cáp điện báo dưới biển—và để hút sạch dữ liệu của thế giới cho Bắc Kinh khai thác. Cơ bản của tất cả những điều này là “Made in China 2025”, bao gồm các khoản đầu tư mang tính thời đại vào các công nghệ then chốt—trí tuệ nhân tạo, điện toán lượng tử và các công nghệ khác—sẽ định hình cán cân sức mạnh kinh tế và quân sự trong tương lai. “Trong tình hình cạnh tranh quân sự quốc tế ngày càng khốc liệt,” Tập đã tuyên bố, “chỉ những người đổi mới mới chiến thắng.”
ĐCSTQ cũng đang định vị Trung Quốc là một siêu cường thể chế. Nước Mỹ từ lâu đã vượt lên trên sức nặng đáng kể của mình bằng cách sử dụng quyền lực thông qua một mạng lưới rộng lớn các tổ chức quốc tế, chẳng hạn như Quỹ Tiền tệ Quốc tế hoặc Ngân hàng Thế giới. Bắc Kinh đã học được bài học, theo đuổi một chiến lược dài hạn, có tính toán để xây dựng ảnh hưởng trong Tổ chức Y tế Thế giới, Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc và các tổ chức khác bằng cách sử dụng đòn bẩy kinh tế và đưa công dân của mình vào các vị trí có thẩm quyền. Tương tự như vậy, Trung Quốc đã đóng vai trò hàng đầu trong các cơ quan giải quyết các vấn đề phức tạp nhưng quan trọng như điều tiết các công nghệ mới và quản lý Internet. Trong những trường hợp khác, Trung Quốc đã xây dựng các thể chế của riêng mình, chẳng hạn như Ngân hàng Đầu tư Cơ sở Hạ tầng Châu Á, để biến mình thành trung tâm của quản trị toàn cầu. Cơ quan báo chí nhà nước của ĐCSTQ giải thích rằng tranh giành ảnh hưởng trong các thể chế của thế giới là cách Trung Quốc sẽ “tạo ra một môi trường thuận lợi” cho sự trỗi dậy của một “quốc gia xã hội chủ nghĩa hiện đại và vĩ đại”.
Sau đó là cuộc tấn công ý thức hệ. Bắc Kinh có thể không phải là một chế độ Mác-xít mà Mác đã tiên tri, cuồng tín truyền bá mô hình chính trị của mình đến tận cùng trái đất. Nhưng các chính sách của nó – bán các hệ thống giám sát tiên tiến, đào tạo các quan chức nước ngoài về nghệ thuật đàn áp, hậu thuẫn các bạo chúa đang chiến đấu ở những nơi xa xôi như Châu Phi và Nam Mỹ – chắc chắn sẽ biến thế giới thành một nơi chuyên quyền hơn. Trên trường quốc tế, Trung Quốc vặn vẹo các khái niệm về nhân quyền để nhấn mạnh đến phát triển kinh tế hơn là tự do chính trị; nó ủng hộ các quan niệm về chủ quyền nhằm bảo vệ các nhà độc tài khỏi bị các nhà dân chủ tọc mạch. Và Bắc Kinh đã từ bỏ bất kỳ sự khiêm tốn nào mà họ từng có về việc rao bán gói sản phẩm chủ nghĩa tư bản độc tài của mình ra nước ngoài. Tập Cận Bình đã dự đoán vào năm 2013 rằng “sự ưu việt của hệ thống xã hội chủ nghĩa của chúng ta sẽ ngày càng rõ ràng là điều không thể tránh khỏi. Chắc chắn, con đường của chúng ta sẽ trở nên rộng lớn hơn; tất yếu, con đường phát triển của nước ta sẽ ngày càng có ảnh hưởng lớn hơn đối với thế giới.”
Cuối cùng, Trung Quốc đã đưa ra các chính sách của mình bằng cách phát triển khả năng cưỡng chế toàn cầu. “Chúng tôi chiêu đãi bạn bè bằng rượu ngon, nhưng đối với kẻ thù của chúng tôi, chúng tôi chiêu đãi bằng súng đạn,” một nhà ngoại giao Trung Quốc khoe khoang. Khi Hàn Quốc đồng ý đặt hệ thống radar phòng thủ tên lửa của Mỹ vào năm 2016, Trung Quốc đã đáp trả bằng một chiến dịch trừng phạt kinh tế kéo dài. Khi giải Nobel Hòa bình được trao cho một nhà bất đồng chính kiến Trung Quốc vào năm 2010, Bắc Kinh đã tấn công Na Uy bằng những lời chỉ trích dữ dội và các hình phạt thương mại. Các quốc gia từ Úc đến Litva cũng chịu chung số phận. Rõ ràng, sự ép buộc này chỉ là bộ mặt công khai của một cuộc tấn công sâu sắc hơn, nham hiểm hơn—một cuộc tấn công sử dụng hối lộ, các khoản đóng góp chính trị được giấu kín, thông tin sai lệch và thậm chí cả các thành viên của cộng đồng người Hoa hải ngoại để bóp méo các cuộc tranh luận công khai trong các xã hội dân chủ. Ông Tập đã nói rằng những kỹ thuật này là “vũ khí ma thuật” của Trung Quốc, được sử dụng để gieo rắc bất đồng ở các quốc gia đối địch và tạo điều kiện thuận lợi cho con đường trở thành bá chủ của Bắc Kinh. Đồng thời, Trung Quốc đang ra sức áp dụng luật lệ riêng của mình ngày càng tăng – và bắt cóc hoặc cưỡng bách hồi hương những người bất đồng chính kiến- tại những xứ rất xa đường biên giới của mình.
Chúng ta có thể tiếp tục bàn về những điều mà Trung Quốc đang làm để thay đổi thế giới. Nhưng điểm cơ bản sẽ không thay đổi: chiến lược của Trung Quốc quả là “vĩ đại” theo mọi nghĩa của từ này. Nó kết hợp những hiểu biết sâu sắc về địa chính trị của Alfred Thayer Mahan, người đã lập luận rằng các cường quốc phải xây dựng lực lượng hải quân vượt đại dương và thống trị những con sóng, với những hiểu biết của Halford Mackinder, người đã phổ biến ý tưởng rằng “vùng trung tâm” Á-Âu có thể trở thành một pháo đài địa chính trị không thể tấn công nếu bị kiểm soát bởi một diễn viên duy nhất. Chiến lược đó nhắm đến sự vượt trội tại các khu vực xung quanh Trung Quốc như một bàn đạp cho ảnh hưởng toàn cầu; nó sử dụng vô số công cụ để đạt được vô số mục đích quân sự, kinh tế, ngoại giao và ý thức hệ. Chiến lược của Trung Quốc cũng vĩ đại theo một cách cuối cùng: Nó đòi hỏi sự cạnh tranh gay gắt, có thể là đối đầu, với Hoa Kỳ.
VẤN ĐỀ NƯỚC MỸ CỦA TRUNG QUỐC
Người Mỹ có thể ngạc nhiên khi thấy rằng các nhà lãnh đạo Trung Quốc coi Hoa Kỳ là một quốc gia thù địch, nguy hiểm và lúc nào cũng muốn kìm hãm các nước khác. Vào năm 2010, ngoại trưởng Mỹ khi đó là Hillary Clinton đã chế giễu ý kiến cho rằng nước Mỹ “có khuynh hướng kiềm chế Trung Quốc”. Bà chỉ ra rằng “Trung Quốc đã trải qua sự tăng trưởng và phát triển ngoạn mục” trong trật tự thế giới của Mỹ. Tuy nhiên, ngay cả khi Trung Quốc đã, theo nhiều cách, phát triển mạnh mẽ trong Pax Americana (Hòa bình của Mỹ), các nhà lãnh đạo Trung Quốc từ lâu vẫn nơm nớp rằng Washington đe dọa gần như mọi thứ mà ĐCSTQ mong muốn.
Lịch sử phủ bóng đen hùng vĩ. Các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc không thể không chú ý rằng Hoa Kỳ có thành tích xuất sắc trong việc tiêu diệt những kẻ thách thức toàn cầu sừng sõ nhất của mình—đế quốc Đức, đế quốc Nhật Bản, Đức Quốc xã, Liên Xô—cũng như một loạt các đối thủ nhỏ hơn. “Nhà xác của nền chính trị toàn cầu chất đầy xác chết của các nước xã hội chủ nghĩa,” một quan chức QGPNDTQ nhận xét vào năm 2014, và Mỹ đã đặt nhiều xác trong vào đó. Các quan chức Trung Quốc cũng không thể quên rằng Hoa Kỳ sẵn sàng làm thất bại mọi âm mưu của ĐCSTQ.
Từ Mao đến Tập, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã coi Hoa Kỳ là mối đe dọa đối với ưu thế chính trị của ĐCSTQ. Khi Mỹ và Trung Quốc công khai là kẻ thù của nhau trong thời kỳ đầu Chiến tranh Lạnh, Washington vừa tài trợ cho quân khởi nghĩa Tây Tạng chiến đấu chống lại chế độ đó, vừa ủng hộ Tưởng Giới Thạch của Đài Loan và tuyên bố ông ta là nhà cai trị hợp pháp của Trung Quốc. Trong những thập kỷ gần đây, các nhà lãnh đạo Mỹ đã nhấn mạnh rằng họ chúc Trung Quốc những điều tốt đẹp. Nhưng họ cũng đã tuyên bố, như Tổng thống Bill Clinton đã nói, rằng mô hình chính trị độc tài của đất nước Trung Quốc đặt nó “vào mặt trái của lịch sử.” Sau vụ thảm sát Thiên An Môn, và để đối phó với sự tàn bạo của ĐCSTQ đối với người Duy Ngô Nhĩ gần đây, Hoa Kỳ thậm chí còn dẫn đầu liên minh các quốc gia áp đặt các biện pháp trừng phạt kinh tế đối với Trung Quốc. Một nhà lãnh đạo Trung Quốc giải thích rằng ĐCSTQ nhìn thấu thủ đoạn bịp bợm này: “Mỹ chưa bao giờ từ bỏ ý định lật đổ hệ thống xã hội chủ nghĩa.”
Ngay cả khi Hoa Kỳ không theo đuổi âm mưu nào nhằm làm suy yếu các nhà độc tài, nó không thể không đe dọa họ. Chính sự tồn tại của nước Mỹ đóng vai trò là ngọn hải đăng hy vọng cho những người bất đồng chính kiến đang sống trong các chế độ toàn trị. Các đảng viên ĐCSTQ chắc chắn nhận thấy rằng những người biểu tình ở Hồng Kông đã giương cao cờ Mỹ khi phản đối việc áp đặt chế độ độc tài vào năm 2019–2020, giống như những người biểu tình ở Quảng trường Thiên An Môn đã dựng lên một bản sao khổng lồ của Tượng Nữ thần Tự do ba mươi năm trước. Họ hét lên giận dữ khi các tổ chức tin tức Mỹ công bố các bản phơi bày chi tiết các tội ác và tham nhũng của quan chức ở Bắc Kinh. Những thứ mà người Mỹ coi là vô thưởng vô phạt — chẳng hạn như hoạt động của các tổ chức phi chính phủ tập trung vào nhân quyền và trách nhiệm giải trình của chính phủ—có vẻ như là những mối đe dọa lật đổ đối với một ĐCSTQ vốn không nhận ra giới hạn nào đối với quyền lực của mình. Nước Mỹ đơn giản là không thể ngừng đe dọa ĐCSTQ trừ khi nó bằng cách nào đó không còn là chính nó nữa—một nền dân chủ tự do quan tâm đến số phận của tự do trên thế giới. Chẳng có gì ngạc nhiên, như học giả Trung Quốc có ảnh hưởng Wang Jisi đã viết vào năm 2012, rằng chế độ này nuôi dưỡng “một niềm tin mạnh mẽ và vững chắc rằng Hoa Kỳ có những âm mưu nham hiểm nhằm phá hoại giới lãnh đạo Cộng sản và biến Trung Quốc thành một nước chư hầu của họ.”
Hoa Kỳ cản trở con đường trở nên vĩ đại của Trung Quốc theo những cách khác. ĐCSTQ không thể khiến Trung Quốc trở lại nguyên vẹn nếu không thu hồi Đài Loan, nhưng Mỹ bảo vệ hòn đảo đó khỏi áp lực của Bắc Kinh.l—thông qua bán vũ khí, hỗ trợ ngoại giao và lời hứa ngầm về viện trợ quân sự. Tương tự, hải quân Mỹ và những lời kêu gọi tự do hàng hải của nước này cản trở nỗ lực thống trị của Trung Quốc ở Biển Đông; Các liên minh quân sự và quan hệ đối tác an ninh của Hoa Kỳ ở châu Á mang lại cho các nước nhỏ hơn tính táo bạo để chống lại sức mạnh của Trung Quốc. Việt Nam, Philippines và Nhật Bản, theo nhận xét của một quan chức quân đội Trung Quốc, là “ba con chó săn của Hoa Kỳ ở châu Á.” Washington duy trì một quân đội có năng lực toàn cầu và sừng sộ khi Trung Quốc cố gắng phát triển một thứ gì đó tương tự, đồng thời sử dụng sức mạnh của mình để định hình quan điểm quốc tế về cách các quốc gia nên hành xử như thế nào và loại hệ thống chính trị nào là hợp pháp nhất. Bắc Kinh phải “phá vỡ lợi thế đạo đức của phương Tây,” một nhà phân tích Trung Quốc lưu ý, điều đó xuất phát từ việc xác định chính phủ nào là “tốt và xấu”. Hầu như ở đâu giới tinh hoa của ĐCSTQ nhìn vào, sức mạnh của Mỹ đều là rào cản đối với sức mạnh của Trung Quốc.
Rõ ràng, Trung Quốc không bác bỏ mọi khía cạnh của trật tự do Mỹ lãnh đạo: ĐCSTQ đã khai thác một cách xuất sắc khả năng tiếp cận nền kinh tế toàn cầu mở và các lực lượng quân sự của họ đã tham gia vào các nhiệm vụ gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc. Nhưng các nhà lãnh đạo Trung Quốc dù sao cũng đánh giá cao hơn nhiều người Mỹ rằng có một điều gì đó đối lập về cơ bản trong mối quan hệ này: ĐCSTQ không thể thành công trong việc tạo ra các thỏa thuận phản ánh lợi ích và giá trị của chính mình mà không làm suy yếu, phân mảnh và cuối cùng là thay thế trật tự hiện tại. Như Wang Jisi viết, “Nhiều người trong giới tinh hoa chính trị Trung Quốc . . . nghi ngờ rằng chính Hoa Kỳ, chứ không phải Trung Quốc, đang ‘đi ngược lại lịch sử.’” Họ hiểu rằng “sự trỗi dậy của Trung Quốc . . . hẳn được Mỹ coi là thách thức lớn đối với vị thế siêu cường của mình.”
Ngay cả vào những thời điểm mà Bắc Kinh và Washington có vẻ thân thiện, các nhà lãnh đạo Trung Quốc vẫn nuôi dưỡng những quan điểm cực kỳ khó hiểu về sức mạnh của Hoa Kỳ. Đặng Tiểu Bình, người có những cải cách kinh tế dựa trên thị trường và công nghệ của Mỹ, lập luận rằng Washington đang tiến hành một “Chiến tranh thế giới thứ ba không khói thuốc súng” để lật đổ ĐCSTQ. Vào năm 2014, hai chính khách nổi tiếng của phương Tây đã báo cáo một niềm tin phổ biến ở Bắc Kinh là chính sách đối với Trung Quốc của Mỹ xoay quanh 5 mục tiêu: “cô lập Trung Quốc, kiềm chế Trung Quốc, làm suy yếu Trung Quốc, chia rẽ nội bộ Trung Quốc và phá hoại vai trò lãnh đạo của Trung Quốc.” Những nhận thức này dẫn đến niềm tin rằng việc thực hiện ước mơ của Trung Quốc cuối cùng sẽ cần đến một thử thách về sức mạnh. Năm 2019, ông Tập cho biết ĐCSTQ phải đối mặt với một “cuộc trường chinh mới” trong quan hệ với Mỹ – một cuộc đấu tranh nguy hiểm để giành quyền tối cao và sự sống còn.
Tập đã đúng khi cho rằng các quốc gia đang trong quá trình xung đột. Đại chiến lược của ĐCSTQ đang đe dọa lợi ích đã được tuyên bố từ lâu của Mỹ trong việc ngăn chặn bất kỳ thế lực thù địch nào kiểm soát Đông Á và Tây Thái Bình Dương. Chiến lược đó đang kích hoạt nỗi sợ hãi lâu đời không kém của Mỹ rằng một đối thủ giành được ưu thế trên vùng đất Á-Âu có thể thách thức Hoa Kỳ trên toàn thế giới. Ngay từ năm 2002, Andrew Marshall, giám đốc huyền thoại của Văn phòng Đánh giá Mạng của Lầu Năm Góc, đã lập luận rằng nước Mỹ phải chuẩn bị “cho một cuộc cạnh tranh dài hạn . . . để có được ảnh hưởng và vị trí trong lục địa Á-Âu và Vành đai Thái Bình Dương.” Động lực của Trung Quốc để giành ưu thế về công nghệ cũng không kém phần đáng ngại: Một thế giới trong đó chế độ chuyên chế kỹ trị chiếm ưu thế có thể không phải là một thế giới mà nền dân chủ được đảm bảo.
Lý do cơ bản khiến quan hệ Hoa Kỳ-Trung Quốc ngày nay trở nên căng thẳng là do ĐCSTQ đang cố gắng định hình thế kỷ tiếp theo theo các mưu toan đe dọa lật đổ những gì Mỹ đã đạt được trong thế kỷ qua. Điều này đặt ra một câu hỏi sâu sắc hơn: Tại sao Bắc Kinh lại quyết tâm sửa đổi cơ bản hệ thống, ngay cả khi làm như vậy dẫn đến một sự cạnh tranh nguy hiểm với Hoa Kỳ?
NGUỒN GỐC HÀNH VI CỦA TRUNG QUỐC
Câu trả lời liên quan đến địa chính trị, lịch sử và hệ tư tưởng. Theo một cách nào đó, nỗ lực giành vị trí bá chủ của Trung Quốc là một chương mới trong câu chuyện lâu đời nhất của thế giới. Các quốc gia đang trỗi dậy thường tìm kiếm ảnh hưởng, sự nễ phục và quyền lực lớn hơn. Những sự sỉ nhục từng có thể chịu đựng được khi quốc gia yếu kém lại trở nên không thể chịu đựng được khi quốc gia đó trở nên hùng mạnh; và nó cũng phát hiện ra những lợi ích sống còn ở những nơi mà trước đây đơn giản là nằm ngoài tầm với của mình. Vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, một nước Đức đang trỗi dậy đã đòi hỏi điều đó; sau Nội chiến, một nước Mỹ đang đi lên về kinh tế đã hất cẳng các đối thủ của mình ra khỏi Tây bán cầu và bắt đầu tung sức mạnh của mình ra toàn cầu. Như học giả hiện thực vĩ đại Nicholas Spykman đã viết, “Số trường hợp trong đó một trạng thái năng động mạnh đã ngừng bành trướng… . . hoặc đã đặt ra những giới hạn khiêm tốn cho mục tiêu quyền lực của nó thực sự là rất ít.”
Từ quan điểm này, điều bất thường duy nhất về Trung Quốc là mức độ năng động của nó. Không có quốc gia nào trong thời kỳ hiện đại phát triển nhanh như vậy trong một thời gian dài. Không một quốc gia nào trong kỷ nguyên hiện đại chứng kiến khả năng thay đổi thế giới của mình mở rộng một cách đáng kinh ngạc như vậy. Trong trường hợp này, luôn khó có khả năng Trung Quốc sẽ vui vẻ hòa nhập vào thế giới của Hoa Kỳ, bởi vì làm như vậy sẽ đòi hỏi phải chấp nhận các thỏa thuận — chẳng hạn như việc Hoa Kỳ bảo vệ Đài Loan và các liên minh quân sự của Hoa Kỳ dàn trận dọc theo vùng biển ngoại vi của Trung Quốc — mà không cường quốc nào có thể chịu đựng mãi mãi . Không thể tránh khỏi việc Bắc Kinh muốn chinh phục khu vực ngoại vi địa chính trị của mình, như Mỹ đã làm trong quá trình vươn lên thành cường quốc toàn cầu; lan rộng ảnh hưởng của mình đến các vùng xa xôi; và làm cho thế giới phù hợp với mong muốn của Trung Quốc. “Tất nhiên, một Trung Quốc đang trỗi dậy sẽ thách thức quyền tối cao của Mỹ,” thủ tướng Singapore vĩ đại Lý Quang Diệu nhận xét. “Làm sao họ có thể không khao khát trở thành số một châu Á và kịp thời là số một thế giới?”
Tuy nhiên, Trung Quốc không đơn giản bị lay chuyển bởi logic lạnh lùng của địa chính trị. Nó cũng vươn tới vinh quang như một vấn đề của vận mệnh lịch sử. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc tự coi mình là người thừa kế của một nhà nước Trung Quốc từng là một siêu cường trong phần lớn lịch sử được ghi chép lại. Hàng loạt đế quốc Trung Hoa xem mình thay trời thống lĩnh “thiên hạ”; bắt mọi quốc gia nhỏ hơn dọc theo ngoại vi đế quốc phải tuân mệnh. “Lịch sử này,” nhà quan sát châu Á kỳ cựu Michael Schuman viết, “đã nuôi dưỡng ở người Trung Quốc niềm tin vững chắc về vai trò của họ và đất nước của họ trong thế giới ngày nay, và mãi mãi về sau.”
Theo quan điểm của Bắc Kinh, một thế giới do Mỹ lãnh đạo trong đó Trung Quốc là cường quốc hạng hai không phải là chuẩn mực lịch sử mà là một ngoại lệ hết sức khó chịu. Trật tự đó được tạo ra sau Thế chiến II, vào giai đoạn cuối của “thế kỷ nhục nhã”, trong đó một Trung Quốc bị chia cắt bị các thế lực ngoại bang hung hãn cướp bóc. Nhiệm vụ của ĐCSTQ là thiết lập lịch sử bằng cách đưa Trung Quốc trở lại đỉnh cao. “Kể từ Chiến tranh Nha phiến vào những năm 1840, người dân Trung Quốc từ lâu đã ấp ủ giấc mơ hiện thực hóa sự phục hưng vĩ đại của quốc gia,” ông Tập phát biểu vào năm 2014. Dưới sự cai trị của ĐCSTQ, Trung Quốc “sẽ không bao giờ dung thứ cho việc bị bất kỳ quốc gia nào bắt nạt nữa.” Khi ông Tập viện dẫn ý tưởng về một “cộng đồng vận mệnh chung” do ĐCSTQ lãnh đạo, khi ông nói về việc tái tạo một thế giới mà Bắc Kinh nhận được sự tôn trọng thích đáng của nó, ông đang truyền đạt niềm tin sâu xa này rằng quyền tối cao của Trung Quốc là trật tự tự nhiên của mọi thứ.
Ít nhất, có mệnh lệnh ý thức hệ. Một Trung Quốc mạnh mẽ, kiêu hãnh vẫn có thể gây ra vấn đề cho Washington ngay cả khi nó là một nền dân chủ tự do. Nhưng thực tế là đất nước được cai trị bởi những kẻ chuyên quyền ra sức đàn áp tàn nhẫn chủ nghĩa tự do trong nước đã thúc đẩy chủ nghĩa xét lại của Trung Quốc trên toàn cầu. Một nhà nước chuyên chế sâu sắc không bao giờ có thể cảm thấy an toàn trong ách cai trị của mình khi nó không nhận được sự đồng ý tự nguyện của những người bị cai trị; nó không hề có thể cảm thấy an toàn trong một thế giới do các nền dân chủ thống trị vì các chuẩn mực tự do quốc tế thách thức các thông lệ phi tự do trong nước. Học giả Trung Quốc Minxin Pei viết: “Các chế độ chuyên quyền đơn giản là không có khả năng thực hành chủ nghĩa tự do ở nước ngoài trong khi vẫn duy trì chủ nghĩa độc tài ở trong nước.”
Đây không phải là cường điệu. Tài liệu khét tiếng số 9, một chỉ thị chính trị được ban hành ngay từ đầu nhiệm kỳ chủ tịch của Tập Cận Bình, cho thấy ĐCSTQ coi trật tự thế giới tự do vốn dĩ là mối đe dọa: “Các thế lực phương Tây thù địch với Trung Quốc và những người bất đồng chính kiến trong nước vẫn không ngừng xâm nhập vào lĩnh vực ý thức hệ.” Sự bất an thường trực, xuyên thấu của một chế độ chuyên quyền có những hệ lụy mạnh mẽ đối với nghệ thuật lãnh đạo của Trung Quốc. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc cảm thấy bắt buộc phải làm cho các chuẩn mực và thể chế quốc tế trở nên thân thiện hơn với chế độ phi tự do. Họ tìm cách đẩy những ảnh hưởng tự do nguy hiểm ra khỏi biên giới Trung Quốc. Họ phải giành quyền lực quốc tế từ một siêu cường dân chủ có thành tích lịch sử lâu dài đưa các chế độ chuyên quyền đến chỗ diệt vong. Và khi một Trung Quốc độc đoán trở nên hùng mạnh, chắc chắn nước này sẽ tìm cách củng cố các lực lượng của chủ nghĩa phi tự do ở nước ngoài như một cách để tăng cường ảnh hưởng và khẳng định mô hình của chính mình.
Không có gì bất thường về điều này. Khi Mỹ trở thành một cường quốc thế giới, nó đã tạo nên một thế giới thân thiện với các giá trị dân chủ. Khi Liên Xô kiểm soát Đông Âu, nó đã áp đặt các chế độ Cộng sản. Trong các cuộc cạnh tranh giữa các cường quốc kể từ thời cổ đại, sự chia rẽ về ý thức hệ đã làm trầm trọng thêm sự chia rẽ về địa chính trị: Sự khác biệt trong cách chính phủ nhìn công dân của họ tạo ra sự khác biệt sâu sắc trong cách chính phủ đó nhìn thế giới.
Trung Quốc là một quốc gia theo chủ nghĩa xét lại điển hình, một đế chế đang cố gắng giành lại vị trí ấp ủ của mình trên thế giới, và một chế độ chuyên quyền có sự quyết đoán bắt nguồn từ sự bất an không ngừng của nó. Đó là một sự kết hợp mạnh mẽ và không ổn định.
KHÔNG LÚC NÀO NHƯ LÚC NÀY
Tất cả điều này có nghĩa là các nguồn gốc hành vi của Trung Quốc không bị ràng buộc với bất kỳ nhà lãnh đạo nào. Mỹ có vấn đề về Trung Quốc, không phải vấn đề về Tập Cận Bình. Dự án xét lại của ĐCSTQ đã bắt đầu trước khi Tập nhậm chức; nó có nguồn gốc sâu xa từ bản chất của chính trị quốc tế và bản chất của chế độ Trung Quốc. Tuy nhiên, thách thức của Trung Quốc chắc chắn đã trở nên gay gắt hơn theo thời gian.
Ngay từ cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990, các nhà lãnh đạo ĐCSTQ đã hiểu rằng kế hoạch bá quyền của họ đối với Trung Quốc cuối cùng sẽ xung đột với vị thế hàng đầu của Mỹ trên thế giới. Tuy nhiên, Đặng thấy rằng thật ngu ngốc, nếu không muốn nói là tự sát, để xa lánh siêu cường duy nhất của thế giới khi Trung Quốc đang rất cần một môi trường quốc tế yên bình và khả năng tiếp cận nền kinh tế toàn cầu. “Chúng ta sẽ không đóng bất kỳ cánh cửa nào,” Đặng nhận xét; “bài học lớn nhất của chúng ta trong quá khứ là không được tự cô lập mình khỏi thế giới.” Đây là nguồn gốc Đặng đưa ra khẩu hiệu rằng Trung Quốc phải “che giấu khả năng của mình và chờ đợi thời cơ” – nước này phải tránh đối đầu và tìm ra những cách khôn khéo để làm xói mòn quyền lực Mỹ, cho đến khi nó phát triển đủ mạnh để bắt đầu khẳng định mình một cách công khai hơn. Một khi Trung Quốc đạt đến “cấp độ của các nước phát triển,” Đặng đã giải thích, “sức mạnh của Trung Quốc và vai trò của nó trên thế giới sẽ hoàn toàn khác.”
Trong những năm 1990, Trung Quốc đã thực hành chính sách trấn an với Washington, cam kết rằng nước này sẽ không bao giờ tìm kiếm “sự bành trướng hoặc quyền bá chủ”. Bắc Kinh đã xây dựng các mối quan hệ thương mại và tài chính sâu sắc với Hoa Kỳ, như một cách để thúc đẩy sự phát triển của chính họ và khiến Mỹ sẽ phải chịu nhiều đau đớn hơn nếu muốn cô lập Trung Quốc. Nó theo đuổi một cuộc tấn công ngoại giao quyến rũ với các nước láng giềng châu Á, với hy vọng lôi kéo họ tránh xa bất kỳ liên minh nào mà Mỹ có thể cố gắng tập hợp. Đồng thời, QGPNDTQ bắt đầu lặng lẽ chuẩn bị cho xung đột bằng cách phát triển các khả năng cần thiết để kềm giữ quân đội Hoa Kỳ có trình độ công nghệ cao. Bắc Kinh thậm chí còn tăng cường quan hệ với các tổ chức khu vực, chẳng hạn như Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), để moi móc họ từ bên trong và đảm bảo rằng họ không thể chuyển hướng sang mục tiêu chống Trung Quốc. Học giả Trung Quốc Yan Xuetong thừa nhận rằng mục tiêu tổng thể là để “ngăn cản Hoa Kỳ tập trung vào việc kiềm chế sự trỗi dậy của Trung Quốc với tư cách là một siêu cường toàn cầu”. Trung Quốc sẽ trỗi dậy một cách lén lút.
Nghệ thuật cai trị của Trung Quốc dần trở nên kém tinh tế hơn theo thời gian. Các cuộc chiến sau sự kiện 11/9 của Mỹ ở Trung Đông đã tạo ra cái mà các nhà lãnh đạo Trung Quốc gọi là “thời kỳ cơ hội chiến lược” bằng cách lôi kéo Washington tham gia vào các cuộc xung đột ở xa Thái Bình Dương. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008–2009 sau đó đã thuyết phục nhiều nhà phân tích Trung Quốc—như một quan chức Mỹ đã lưu ý—“rằng Hoa Kỳ đang suy tàn hoặc bị phân tâm hoặc cả hai.” Đáp lại, Hồ Cẩm Đào và sau đó là Tập Cận Bình bắt đầu phóng chiếu ảnh hưởng của Trung Quốc một cách công khai hơn. Nhiệm vụ kiểm soát Biển Đông và kêu gọi Washington áp dụng “mô hình quan hệ siêu cường mới” hàm ý chấp nhận ưu thế của Trung Quốc ở châu Á đều diễn ra trong giai đoạn này. Bắc Kinh thậm chí còn loại bỏ chiến lược “ẩn mình chờ đợi” để ủng hộ phương châm “phấn đấu đạt thành tích” của Tập Cận Bình. Yan nhận xét: “Trong quá khứ, chúng tôi phải giấu nhẹm vì chúng tôi yếu trong khi các quốc gia khác mạnh. Hiện nay . . . chúng tôi đang cho các nước láng giềng thấy rằng chúng tôi mạnh còn các bạn thì yếu.”
Sự thay đổi lại tăng tốc sau năm 2016. Cuộc bầu cử của Donald Trump, cuộc khủng hoảng của Liên minh châu Âu sau quyết định của Anh rời khỏi khối vào năm 2016 và những gián đoạn khác đã tạo ra sự hỗn loạn lớn trong trật tự hiện có. Các quan chức Trung Quốc bắt đầu nói chuyện cởi mở về khả năng chuyển đổi lịch sử ra khỏi quyền lãnh đạo của Mỹ. Bắc Kinh đã tấn công các tổ chức quốc tế, trong việc thúc đẩy Vành đai và Còn đường và Con đường Tơ lụa Kỹ thuật số, trong việc cố gắng chia rẽ giữa Mỹ và các đồng minh của Mỹ, đồng thời trừng phạt các quốc gia không hài lòng với họ. Trung Quốc cũng dần dần đưa ra những tuyên bố ít ngụy trang hơn về ý định vượt qua Hoa Kỳ. “Không thế lực nào có thể làm lung lay địa vị của tổ quốc vĩ đại của chúng ta,” Tập nói vào năm 2019. “Không thế lực nào có thể ngăn cản bước tiến của người dân Trung Quốc và đất nước Trung Quốc.”
Tất cả điều này là khúc dạo đầu cho COVID-19. Một cuộc khủng hoảng toàn cầu ban đầu dường như đã đánh gục Mỹ, trong khi Trung Quốc lấy lại vị thế tương đối nhanh chóng, đã tạo cơ hội cho Bắc Kinh tiến lên trên nhiều mặt. Nó đã làm như vậy bằng cách gia tăng áp lực quân sự lên Đài Loan, phá hủy những dấu tích cuối cùng của quyền tự trị chính trị của Hồng Kông, leo thang – đôi khi là sử dụng bạo lực – tranh chấp với nhiều nước láng giềng cùng một lúc, và tham gia vào chính sách ngoại giao “chiến lang” siêu hung hăng chống lại các quốc gia tỏ ra nghi ngờ về hành vi của ĐCSTQ. Và khi tình trạng hỗn loạn ở Mỹ ngày càng sâu sắc vào cuối năm 2020 và đầu năm 2021, với cuộc bầu cử tổng thống gây tranh cãi và cuộc tấn công của phe nổi dậy vào Quốc hội, sự mài mòn trong chính sách của Trung Quốc gần như trở nên hữu hình. Khi các quan chức Hoa Kỳ và Trung Quốc gặp nhau vào tháng 3 năm 2021, Dương Khiết Trì đã công khai chế giễu ý tưởng rằng Washington có thể nói chuyện với Bắc Kinh trên một “thế mạnh”. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc, theo đánh giá của cộng đồng tình báo Hoa Kỳ, tin tưởng rằng một “sự chuyển dời địa chính trị mang tính thời đại” đang diễn ra.
Đó chắc chắn là quan điểm mà giới chóp bu thể hiện. “Phương Đông đang trỗi dậy và phương Tây đang suy tàn,” Tập tuyên bố vào tháng giêng: Kỷ nguyên bá quyền của Mỹ đã kết thúc, và thời đại quyền lực của Trung Quốc đã đến.
Đây là Trung Quốc mà Mỹ và thế giới giờ đây đã quen thuộc – một Trung Quốc có vẻ đang đi lên, cực kỳ tự tin và quyết tâm giành lấy một phần ảnh hưởng vượt trội ở hầu hết mọi nơi. Một đất nước đang tiến lên nhanh trong khi một nước Mỹ bối rối, chia rẽ đang chùn bước. Nhưng đôi khi thật khó để không tự hỏi liệu Tập và các cộng sự của ông ta có sôi nổi như vẻ ngoài của họ hay không.
Các nhà phân tích cẩn thận về chính trị Trung Quốc phát hiện ra sự lo lắng tiềm ẩn trong các báo cáo và tuyên bố của chính phủ. Các chủ đề về sự lạc quan có giới hạn được trộn lẫn với “những lời lẽ thận trọng và sự bất an sâu sắc”. Tập thừa nhận, ngay cả khi ông ta ca ngợi sức mạnh của Bắc Kinh, rằng có nhiều lĩnh vực mà “phương Tây mạnh và phương Đông yếu”. Ông ấy đã cảnh báo, ngay cả sau khi COVID-19 bùng phát, về “các thử nghiệm và rủi ro sắp xảy ra”. Ông tuyên bố rằng Trung Quốc phải tự biến mình thành “bất khả chiến bại” để đảm bảo rằng “không ai có thể đánh bại chúng ta hoặc bóp cổ chúng ta đến chết”. Và ông khuyên các cán bộ của mình chuẩn bị cho một cuộc đấu tranh khốc liệt phía trước.
Tập không sai khi lo lắng. Nếu xem xét kỹ hơn, hóa ra còn có một Trung Quốc khác, một Trung Quốc bị bao vây bởi các vấn đề đang gia tăng trong nước và số kẻ thù gia tăng ở nước ngoài. Bất kể những người tuyên truyền của họ có thể nói gì, Trung Quốc này sẽ phấn đấu mạnh mẽ để vượt qua Mỹ trong thời gian dài. Và chính ngay lý do đó, Trung Quốc thực sự có thể nguy hiểm hơn trong tương lai gần.