Đỗ Ngọc Giao
16-Aug-2022
Bài này nêu lên một số kết quả khảo cứu của học giả phương Tây trong quãng vài chục năm gần đây, mong đem lại những hiểu biết đúng đắn cho người Việt muốn tìm hiểu kinh Dịch.
1. Những bổn kinh xưa
Người ta tưởng rằng kinh [Châu] Dịch bên Tàu có một bổn truyền tới ngày nay mà thôi, nhưng không phải vậy. Năm 1973 ở Mawangdui 馬王堆, Hồ Nam, trong mộ của Li Kang, tể tướng xứ Trường Sa thời trào Hán, chôn năm 168 BCE, người ta tìm ra hai cuốn lụa chép một bổn kinh Dịch có nhiều chỗ khác với bổn truyền. Năm 1994 trong một tiệm đồ cổ ở Hongkong, người ta tìm ra một bộ tài liệu chép trên thẻ tre, gồm cả một bổn kinh Dịch, còn dính bùn, dường như đào trộm trong mộ ở đâu chẳng rõ, về sau được viện bảo tàng Thượng Hải mua lại.
Dưới đây chúng tôi giới thiệu sơ qua hai bổn kinh nói trên; độc giả cần tìm hiểu thêm thì vui lòng coi tài liệu trích dẫn đã công bố trên internet.
1.1. Bổn kinh ở Mawangdui
Tài liệu trích dẫn: Shaughnessy.[1]
Tên quẻ
Bổn kinh ở Mawangdui (viết tắt ‘bổn MWD’), có lẽ đã chép hồi năm 190 BCE, gồm 64 quẻ xếp theo thứ tự khác với bổn truyền và có 33 quẻ mang tên khác với bổn truyền, đánh dấu Tô Đậm bên dưới.
bổn MWD bổn truyền
- Kiện Kiền
- Phụ Bĩ
- Duyện Độn
- Lễ Lý
- Tụng Tụng
- Đồng Nhơn Đồng Nhơn
- Vô Mạnh Vô Vọng
- Cẩu Cấu
- Căn Cấn
- Thái Súc Đại Súc
- Bác Bác
- Tổn Tổn
- Mông Mông
- Bà Bí
- Di Di
- Cá Cổ
- Cám Khảm
- Nhu Nhu
- Tỷ Tỷ
- Kiển Kiển
- Tiết Tiết
- Ký Tế Ký Tế
- Truân Truân
- Tỉnh Tỉnh
- Thần Chấn
- Thái Tráng Đại Tráng
- Dư Dự
- Thiểu Quá Tiểu Quá
- Quy Muội Quy Muội
- Giải Giải
- Phong Phong
- Hằng Hằng
- Xuyên Khôn
- Thái Thái
- Khiêm Khiêm
- Lâm Lâm
- Sư Sư
- Minh Di Minh Di
- Phục Phục
- Đăng Thăng
- Đoạt Đoài
- Quyết Quái
- Tốt Tụy
- Khâm Hàm
- Khốn Khốn
- Lặc Cách
- Tùy Tùy
- Thái Quá Đại Quá
- La Ly
- Đại Hữu Đại Hữu
- Tấn Tấn
- Lữ Lữ
- Quai Khuê
- Vị Tế Vị Tế
- Phệ Hạp Phệ Hạp
- Đỉnh Đỉnh
- Toán Tốn
- Thiểu Thục Tiểu Súc
- Quan Quan
- Tiệm Tiệm
- Trung Phục Trung Phu
- Hoán Hoán
- Gia Nhơn Gia Nhơn
- Ích Ích
Thứ tự các quẻ
Bổn MWD có một quy tắc hẳn hoi để xếp quẻ, đó là 64 quẻ [6 hào] sẽ đi theo thứ tự của 8 quẻ [3 hào] ở trên và 8 quẻ [3 hào] ở dưới mà tạo nên từng quẻ, như bảng sau.
Kiền | Cấn | Khảm | Chấn | Khôn | Đoài | Ly | Tốn | |
Kiền | 1 | 10 | 18 | 26 | 34 | 42 | 50 | 58 |
Khôn | 2 | 11 | 19 | 27 | 33 | 43 | 51 | 59 |
Cấn | 3 | 9 | 20 | 28 | 35 | 44 | 52 | 60 |
Đoài | 4 | 12 | 21 | 29 | 36 | 41 | 53 | 61 |
Khảm | 5 | 13 | 17 | 30 | 37 | 45 | 54 | 62 |
Ly | 6 | 14 | 22 | 31 | 38 | 46 | 49 | 63 |
Chấn | 7 | 15 | 23 | 25 | 39 | 47 | 55 | 64 |
Tốn | 8 | 16 | 24 | 32 | 40 | 48 | 56 | 57 |
Ở bảng trên,
- quẻ 1 (Kiện) = Kiền trên + Kiền dưới
- quẻ 2 (Phụ) = Kiền trên + Khôn dưới
- …
- quẻ 63 (Gia Nhơn) = Tốn trên + Ly dưới
- quẻ 64 (Ích) = Tốn trên + Chấn dưới.
Ý nghĩa các quẻ
Dưới đây là lời thoán của 10 cặp quẻ để làm thí dụ, dòng trên là bổn MWD, dòng dưới là bổn truyền.[2]
Cặp 1
- Kiện (1): 鍵元亨利貞
- Kiền (1): 乾元亨利貞
Cặp 1 giống hệt nhau, đều cho cái ý để bói là ‘có lợi’.
Cặp 2
- Phụ (2): 婦之非人不利君子貞大往小來
- Bĩ (12): 否之匪人不利君子貞大往小來
Cặp 2 khác nhau một chữ, nhưng vẫn cho cái ý để bói là ‘không có lợi’.
Cặp 3
- Duyện (3): 掾亨小利貞
- Độn (33): 遯亨小利貞
Cặp 3 giống hệt nhau, đều cho cái ý để bói là ‘có lợi nhỏ’.
Cặp 4
- Đồng Nhơn (6): 同人于野亨利涉大川利君子貞
- Đồng Nhơn (13): 同人于野亨利涉大川利君子貞
Cặp 4 giống hệt nhau, đều cho cái ý để bói là ‘có lợi’.
Cặp 5
- Căn (9): 根其北不濩其身行其庭不見其人无咎
- Cấn (52): 艮其背不獲其身行其庭不見其人无咎
Cặp 5 khác nhau hai chữ, nhưng vẫn cho cái ý để bói là ‘không có lỗi’.
Cặp 6
- Đăng (40): 登元亨利見大人勿恤南正吉
- Thăng (46): 升元亨用見大人勿恤南征吉
Cặp 6 khác nhau hai chữ, nhưng vẫn cho cái ý để bói là ‘lành’ (kiết).
Cặp 7
- Đoạt (41): 奪亨小利貞
- Đoài (58): 兌亨利貞
Ở cặp 7, quẻ Đoạt cho cái ý để bói là ‘có lợi nhỏ’ còn quẻ Đoài cho cái ý để bói là ‘có lợi’.
Cặp 8
- Đại Hữu (50): 大有元亨
- Đại Hữu (14): 大有元亨
Cặp 8 giống hệt nhau, đều cho cái ý để bói là ‘tốt’.
Cặp 9
- Hoán (62): 渙亨王叚于廟利涉大川利貞
- Hoán (59): 渙亨王假有廟利涉大川利貞
Cặp 9 khác nhau một chữ, nhưng vẫn cho cái ý để bói là ‘tốt’.
Cặp 10
- Gia Nhơn (63): 家人利女貞
- Gia Nhơn (37): 家人利女貞
Cặp 10 giống hệt nhau, đều cho cái ý để bói là ‘đàn bà có lợi’.
1.2. Bổn kinh ở viện bảo tàng Thượng Hải
Tài liệu trích dẫn: Shaughnessy.[3]
Tên quẻ
Bổn kinh ở viện bảo tàng Thượng Hải (viết tắt ‘bổn SH’), được cho là xưa hơn bổn MWD trên một thế kỷ, đã bị hư quá nửa, còn lại 34 quẻ, mà một số lời thoán cũng bị mất. Quẻ xếp theo thứ tự giống với bổn truyền, như ở dưới. Có một số quẻ mang tên khác với bổn truyền, đánh Đậm, và một số quẻ mang tên xưa mà nay không có ‘font’, đánh dấu Z.
bổn MWD bổn truyền
- Mang Mông
- Nhũ Nhu
- Tụng Tụng
- Táp Sư
- Tỷ Tỷ
- Đại Hữu Đại Hữu
- Z Khiêm
- Dư Dự
- Z Tùy
- Cổ Cổ
- Phục Phục
- 25. Vô vong Vô vọng
- Z Đại Súc
- Di Di
- Khâm Hàm
- Hằng Hằng
- Z Độn
- Quý Khuê
- Kiết Kiển
- Giải Giải
- Quái Quái
- Khấu Cấu
- Z Tụy
- Khốn Khốn
- Tỉnh Tỉnh
- Cách Cách
- Cấn Cấn
- Tiệm Tiệm
- Phong Phong
- Z Lữ
- Hoán Hoán
- Z Tiểu Quá
- Ký Tế Ký Tế
- Vị Tế Vị Tế
Ý nghĩa các quẻ
Dưới đây là lời thoán của 3 cặp quẻ, dòng trên là bổn SH, dòng dưới là bổn truyền.2
Cặp 1
- Táp (7): 帀貞丈人吉亡咎
- Sư (7): 師貞丈人吉无咎
Cặp 1 giống hệt nhau, đều cho cái ý để bói là ‘không có lỗi’.
Cặp 2
- Quý (38): 楑 少事吉
- Khuê (38): 睽小事吉
Cặp 2 giống hệt nhau, đều cho cái ý để bói là ‘chuyện nhỏ thì lành’.
Cặp 3
- Khấu (44): 敂女藏勿用取女
- Cấu (44): 姤女壯勿用取女
Cặp 3 khác nhau một chữ, nhưng vẫn cho cái ý để bói là ‘đừng dùng đàn bà’.
1.3. Nhận xét
Một số quẻ có cái tên chẳng-oai-chút-nào:
- bổn MWD: Kiện (then cửa), Phụ (đàn bà), Cẩu (con chó), Đoạt (giựt lấy), Lặc (dây cột hàm ngựa),…
- bổn SH: Mang (con chó), Nhũ (vú đàn bà),…
Một số quẻ trong cả hai bổn MWD và SH có lời thoán khác chút xíu so với bổn truyền nhưng vẫn giữ nguyên cái ý để bói.
Từ đó, ta nêu giả thiết như sau:
- Hai bổn MWD, SH và bổn truyền của kinh Dịch đều chép lại từ một bổn xưa, kể lại bằng cách truyền khẩu, nên mới xảy ra chuyện ‘tam sao thất bổn’ ở tên quẻ: Kiện/Kiền, Phụ/Bĩ, Mang/Mông,,…
- Lời thoán và lời tượng của một số quẻ cũng bị ‘tam sao thất bổn’, nhưng cái ý để bói thì vẫn giữ nguyên bởi vì 64 quẻ ban đầu đặt ra ắt là dùng để bói mà thôi.
Dù vậy, thứ tự 64 quẻ ban đầu là như ở trong bổn SH, bổn MWD hoặc bổn truyền thì ta không rõ.
[1] I ching, the classic of changes, trans and ed Edward L. Shaughnessy (1996).
[2] Nguyễn Hiến Lê (1979) Kinh Dịch, đạo của người quân tử.
[3] Edward L. Shaughnessy (2014) Unearthing the Changes.