Vài ngộ nhận về Nho học

Kỳ Thanh

Kế thừa tinh hoa Nho học, hoàn toàn không có nghĩa là quay trở lại với xã hội ngày xưa. Xã hội “vương quyền chuyên chế” đã qua không bao giờ trở lại. Đoạn tuyệt với tư duy “ăn mày dĩ vãng”… không còn phù hợp với xã hội hiện tại. Nhưng những tư tưởng của Nho học vẫn là công cụ hữu ích cho quá trình phát triển xã hội ngày nay. Rất nhiều những lời dạy, chỉ dẫn của Khổng Mạnh; vẫn đúng, vẫn giá trị, đáng trân trọng trong đời sống xã hội đương đại…

Cần phân biệt rõ: Tư tưởng Nho Học của Khổng Mạnh thời Tiên Tần (trước năm 221 TCN), là đỉnh cao tư tưởng, tự do học thuật, là kim chỉ nam, phương châm của Nho gia.

Nhưng đến đời Hán, từ Đổng Trọng Thư (Hán Nho), Chu Hy (Tống Nho), Vương Dương Minh (Minh Nho) đã sửa đổi, thiên lệch, phiến diện tư tưởng Nho học của Khổng Mạnh thời Tiên Tần, với mục đích là phục vụ, cũng cố cho tầng lớp vương quyền chuyên chế. Tầng lớp cai trị đã lợi dụng (Hán, Tống, Minh Nho) để mị dân, đầu độc tư tưởng; hầu tiếp tục duy trì, được hưởng những đặc quyền, đặc lợi…(Giáo sư Đài Loan傅佩榮  Phó Bội Vinh论语的智慧与孔子的大道).

**

Vài hiểu lầm về Khổng Mạnh:

  • “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung.

            Phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu”.

Dịch: Vua xử thần chết, thần không chết là không trung.

          Cha xử con chết, con không chết là bất hiếu.

Chắc chắn không phải chủ trương của Nho học thời Tiên Tần, cũng không phải của Nho học Khổng Mạnh chính thống.

Theo “Cơ cấu Việt Nho” của GS Kim Định. Câu nói này là của thái tử Phù Tô (PT)扶苏 con trưởng của Tần Thuỷ Hoàng (TTH).

Xin giải thích rõ: Phù Tô bị đày lên phía bắc để xây Vạn Lí Trường Thành cùng với tướng Mông Điềm (MĐ) vì đã dám chống lại chủ trương đốt sách chôn học trò của vua cha. Khi TTH đi tuần du tới Cối Kê bị bịnh nặng sắp chết, trối lại là phải gọi PT về gấp để lên ngôi hoàng đế. Thái giám Triệu Cao bàn với Thừa tướng Lí Tư là nếu để PT lên ngôi thì hai người sẽ mất địa vị và có thể mất mạng, do đó họ sửa chiếu bắt PT phải chết, tướng MĐ cản PT đừng nghe lời chiếu giả, PT không nghe mới nói câu trên, do dại khờ mà PT mất mạng, cũng do dại khờ mà nhà Tần sau đó bị diệt vong.

Theo Luận ngữ, Khổng Tử dạy: “Quân quân, Thần thần, Phụ phụ, Tử tử” Dịch nghĩa: Vua phải ra vua, Tôi phải ra tôi, Cha phải ra cha, Con phải ra con.

Đó là chính danh, ai cũng làm tròn bổn phận của mình thì xã hội mới có trật tự, không có gì là mâu thuẫn cả.

Mạnh Tử dạy: “Dân vi quí, Xã tắc thứ chi, Quân vi khinh, thị cố đắc hồ, khâu dân nhi vi thiên tử民为贵社稷次之君为轻 是故得乎, 丘民而为天子. Dịch nghĩa: Dân quí nhất, kế đó là xã tắc, vua là nhẹ, có lòng dân rồi mới làm thiên tử được. Có lời nào biểu lộ dân chủ hơn? Chu Nguyên Chương (vị vua sáng lập ra triều Minh – TQ) đã từng loại bỏ bài vị của Mạnh Tử ra khỏi Thái Miếu và cấm sách về Mạnh Tử được lưu hành…

Mạnh Tử đã dạy:

– Vua xem bề tôi như chân tay, bề tôi sẽ coi vua như tâm phúc.

– Vua xem bề tôi như chó ngựa, bề tôi sẽ coi vua như người đi đường.

– Vua xem bề tôi như đất cỏ, bề tôi sẽ coi vua như giặc thù (Có thể giết vua như giết giặc).

Ngày xưa đi thi mà viết câu này thì: một là thi rớt, hai là mất đầu, ba là bị tru di tam tộc.

Có người hỏi Khổng Tử về chuyện Võ Vương giết vua Trụ. Ngài trả lời: Ta chỉ nghe Võ Vương giết một người tên Trụ chứ có nghe ai nói Võ Vương giết vua bao giờ đâu. Nghĩa là thiên tử mà vô đạo thì ai cũng có quyền lật đổ. Tuân Tử nói: Giết một tên vua tàn bạo, có khác gì giết một tên phu xe độc ác.

Những chuyện xấu xa mà chế độ vương quyền (vua chúa) để lại, không phải là sản phẩm do giáo dục của Khổng Mạnh tạo ra.

Ví dụ: Chuyện thượng tôn pháp luật của Mạnh Tử.

Đào Ứng hỏi Mạnh Tử : “Ông Thuấn làm thiên tử, ông Cao Dao coi bộ hình, cha ông Thuấn là Cổ Tẩu phạm tội giết người thì ông Cao Dao xử trí ra sao ? Mạnh Tử đáp: Cứ theo luật pháp mà thi hành (nghĩa là phải xử tử). Hỏi: Vậy vua Thuấn không ngăn cản được sao? Đáp: Kìa, vua Thuấn làm sao ngăn cản được. Pháp luật đã truyền lại thì phải thi hành.

  • Vị thế của phụ nữ

Luận ngữ – Dương HoáDuy nữ tử dữ * tiểu nhân vi nan dưỡng dã, cận chi tắc bất tôn, viễn chi tắc oán” 唯女子與 小人為難養也,近之則不遜,遠之則怨 .

Nhiều người hiểu sai, cố tình hay vô tình không biết đã dịch: “Duy phụ nữ và tiểu nhân là khó dạy bảo, gần thì vô lễ, xa thời oán hận”.

Có hai cách khác nhau để hiểu câu này một cách đúng đắn:

1/ Theo thuyết văn giải tự, chữ dữ (còn có nghĩa là kết giao, giao hảo) có ý là gả cho ai đó, là quan niệm chọn rể của Khổng Tử; do đó câu này phải dịch là: “Nếu mà gả con gái cho kẻ tiểu nhân thì khó mà dạy bảo được, gần con thì nó vô phép, xa con thì con oán hận”.

2/ Theo cách hiểu thứ hai thì “nữ tử女子” có nghĩa yếu đuối (nghĩa đen); mở rộng là người nội tâm yếu đuối, không cương trực (nghĩa bóng). Do đó phải dịch là: Những người nội tâm không cương trực, nham hiểm, nhân cách bỉ ổi, là người khó sống chung nhất, gần họ thì họ sẽ vô lễ, xa cách họ thì họ sẽ oán hận. Do đó, câu này không có ý gì miệt thị phụ nữ.

HIẾU  孝là nết tốt, đẹp của Khổng học; là ưu tiên, là nghĩa vụ, bổn phận mà mọi người phải tuân thủ suốt đời. Được thể hiện qua cuộc đời của cá nhân các ông (Khổng Mạnh). Đã là bậc quân tử, thử hỏi: ai lại dám cả gan gọi các bà mình, mẹ mình là tiểu nhân được? Cần khách quan mà nhìn nhận sự việc xảy ra trong bối cảnh lịch sử của nó…

Ghi chú: * Từ đôi (từ kép) 復合词hiếm thấy xuất hiện ở chữ Hán cổ.

Khoảng trước, sau công nguyên (thế kỷ I), khi Phật giáo thâm nhập vào Trung Quốc (đời Hán), đã bổ sung thêm vào kho tàng chữ Hán dạng phức hợp từ復合词 (gồm hai, ba hoặc bốn từ ghép lại tạo thành một ý nghĩa chung) bắt đầu được sử dụng và thịnh hành.

Chữ Hán cổ (tượng hình) với mỗi chữ đã có nghĩa (riêng, độc lập) và tùy thuộc vị trí trong câu. Ví dụ: khi nói đến con cái 子女 (tử nữ) theo đúng thứ tự “trai gái”, nếu ngược lại thì ý nghĩa có khác. Tương tự: âm dương 陰陽 theo thứ tự phù hợp với tính cách, xã hội nguyên thủy Mẫu Hệ (mà hình thành)… Chữ Hán cổ rất hiếm có hiện tượng “đảo ngữ”. Vì thế, việc dịch và hiểu chữ Hán cổ có khó khăn, vất vả…

Đến cuối thế kỷ 19, do ảnh hưởng và tiếp nhận của văn minh Âu Mỹ mà Hán ngữ mới có thêm văn phạm, ngữ pháp; giúp cho việc sử dụng chữ Hán ngày càng hoàn thiện và hiện đại…khắc phục được nhiều trở ngại, đã phổ thông hóa (普通 白话文), quần chúng hóa và mọi người đều có học, trình độ dân trí được nâng cao…

*

  • Hiểu đúng về “tam tòng”

Theo Wikipedia, vào giai đoạn sơ khai của Nho học, tam tòng chỉ dùng để xác định vị trí của người phụ nữ trong gia đình khi làm lễ trước bàn thờ.

– Ở nhà thì đứng sau lưng cha.

– Lấy chồng thì đứng sau lưng chồng

– Chồng chết đứng sau lưng con.

Đó là tài liệu sớm nhất nói về tam tòng theo kinh Lễ.

Chuyện tam tòng có gì đáng trách?

– Lúc con gái còn nhỏ thì tòng theo cha, bổn phận người cha là phụ từ, tử (nữ) hiếu 父慈子孝.

– Lúc có chồng, thì có lời dạy bổn phận người chồng phải đối với vợ tương kính như tân.

– Lúc chồng chết thì về ở với con, con phải hiếu thảo với mẹ; vì đạo Nho dạy Hiếu đứng đầu trăm nết tốt.

*

Trai ba thê bảy thiếp là để giải quyết vấn đề xã hội thời Xuân Thu – Chiến Quốc, chiến tranh triền miên, thây chết đầy đồng, tranh chấp hàng ngày, giết đi hàng triệu người trai, nạn gái thừa trai thiếu giải quyết ra sao?  Vì nhu cầu cần có nhiều nhân lực, tài lực cho cuộc chiến triền miên…

*

  • Cách dạy và học

Ngài dạy điều gì cũng để cho học-trò phải cố sức suy nghĩ, tự tìm tòi lấy, khi nào xem chừng đã gần hiểu được, nhưng còn chưa thông suốt được mọi lẽ, hoặc chưa diễn giải ra được cho rõ ràng, thì (khi ấy) Ngài mới chỉ bảo cho. Ngài nói rằng: Bất viết: như chi hà, như chi hà giả, ngô mạt như chi hà giã dĩ hỹ, 不曰:如 之 何,如 之 何 者,吾 末 如 之 何 也 已 矣. “Người nào không nói rằng: làm thế nào, làm thế nào, thì ta cũng chẳng làm thế nào được” (Luận-ngữ: Vệ Linh-công, XV).

Học trò của đức Khổng Tử là Tử Lộ tên Do hay nói những điều mình không biết, ngài dạy: “Do! Hối nhữ tri chi hồ, tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri dã”. 子曰:由!誨女 (= 汝) 知之乎!知之為知之,不知為不知,是知也。(為政篇第二) Dịch: Do! Ta thường chỉ cho con, cái cách biết: hễ cái gì con biết thì tự nhận là biết, cái con không biết thời tự nhận là không biết, ấy là biết vậy”.

Luận Ngữ論語: Tam nhân hành, tất hữu ngã sư yên, trạch kì thiện giả nhi tòng chi, kì bất thiện giả nhi cải chi. 三人行,必有我師焉,擇其善者而从之,其不善者而改之。Trong ba người cùng đi đường, nhất định có một người mà mình đáng học tập. Hãy lựa chọn ưu điểm của họ để tăng cường học tập, phát hiện ra nhược điểm của họ để loại bỏ, từ đó có thể sửa đổi mình, hoàn thiện nhân cách mình.

Khiêm tốn, hiếu học là tôn chỉ mà Khổng Tử đã truyền dạy cho học trò, xứng danh là Vạn Thế Sư Biểu 萬世師表 (khuôn mẫu cho vạn đời sau bắt chước). 

  • Câu “nhất tự vi sư, bán tự vi sư”

Theo “Thành ngữ điển cố Trung Quốc” do Lê Huy Tiêu dịch, câu “nhất tự vi sư, bán tự vi sư” chẳng dính líu gì với Khổng học, nó bắt nguồn từ đời Đường, có một nhà sư là Từ Kỉ ham làm thơ, làm được mấy câu thơ mai sớm:

Thôn trước trong tuyết dày

Đêm qua mấy cành hoa nở

Ông đem khoe cho bạn là Trịnh Cốc 鄭谷 (849-911) xem, ông này mới sửa lại thay vì mấy cành, không diễn tả được cái ý sớm thành ra “một cành hoa nở”. Từ đó người ta mới gọi ông Trịnh Cốc là thầy, một chữ cũng thầy, nửa chữ cũng thầy có giai thoại từ đó.

*

  • Học làm người

Luận Ngữ chương Lý nhân IV: Phụ mẫu tại, bất viễn du, du tất hữu phương 父母在,不遠游,游必有方。Cụ Trần Trọng Kim dịch và giảng: Khi cha mẹ còn, không làm điều gì cho cha mẹ buồn, không nên đi xa, có đi xa thì phải cho cha mẹ biết đi chỗ nào, để cha mẹ khỏi lo, nhỡ có việc gì, còn biết nơi mà tìm.

Tử viết: Sĩ nhi hoài cư, bất túc dĩ diệc sĩ hĩ. 子曰:士而怀居,不足以为士矣。Khổng Tử nói: Kẻ chỉ biết tìm cách được an nhàn thì không thể gọi là kẻ sĩ. Trong sách Khổng học đăng, cụ Phan Bội Châu giảng: “Nghĩa vụ loài người ở trên nghĩa vụ làm con, có khi phải đi làm việc quốc gia, không đóng cửa ở nhà mãi được”.

Ví dụ: để trở thành một công nhân viên chức có năng lực được dân tin yêu phải tuân thủ 8 điều mục nhỏ (bát điều mục), bao gồm: cách vật (tiếp cận và nhận thức sự vật), trí tri (đạt tri thức về sự vật), thành ý (làm cho ý của mình thành thực), chính tâm (làm cho tâm của mình được trung chính), tu thân (tu sửa thân mình), tề gia (xếp đặt mọi việc cho gia đình hài hòa), trị quốc [khiến cho nước (địa phương) được an trị], bình thiên hạ [khiến cho thiên hạ (mọi người) được yên bình]. Từ thiên tử (vua) cho đến kẻ thứ dân, tất cả đều lấy việc sửa mình làm gốc 1.

Itô Jinsai (1627 – 1705) nhận xét rằng: “… Khổng Tử là một nhà giáo dục có thể nói rất tân tiến ngay cả đối với quan điểm giáo dục của hiện nay (mặc dù ông đã sống cách đây trên hai ngàn năm). Có lẽ ông là người đầu tiên xem trọng việc học và việc có bạn bè để trao đổi ý kiến trong việc học và cùng làm việc tốt. Học thuyết ông thực dụng, tránh đề cập đến vấn đề trừu tượng khó hiểu như ít đề cập đến đạo của trời (Thiên Đạo), quỷ thần và không bao giờ nói đến bói toán… Mục đích học thuyết của ông là xây dựng một xã hội thái bình nên lấy nhân , tức tình thương yêu làm đầu. Học thuyết của ông lấy việc thực hành, áp dụng vào đời sống là chủ yếu không phải truy tìm triết lý cao xa…” (“Ngữ Mạnh Tự Nghĩa” của Itô Jinsai. Nguyễn Sơn Hùng dịch. Diễn Đàn Khai Phóng, tháng 02/2024).

*

  • Lập thân, giúp đời

Từ xưa đến nay, từ Đông sang Tây, niềm ao ước của con người…thật đơn giản: Với ý tưởng hài hòa, xã hội công bằng, mưu cầu hạnh phúc, xem trọng nhân quyền, cũng là tôn chỉ, mục tiêu mà các tôn giáo đều hướng đến… như Khổng Tử đã dạy: Lão giả an chi, bằng hữu tín chi, thiếu giả hoài chi. 子曰:老者安之,朋友信之,少者怀之 . Khổng tử nói: Người già được nuôi dưỡng đầy đủ, bạn bè tin cậy lẫn nhau, trẻ em được quan tâm chăm sóc. (Sách Luận Ngữ / Công Dã Tràng).

Kim chỉ nam làm người, không phân biệt màu da, sắc tộc, giai tầng xã hội (tuổi tác, giới tính) đều tự thực hiện và hoàn thiện…thì mọi người sống hòa mình với nhau, chiến tranh sẽ không còn cơ hội xảy đến với con người… Tử viết: Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân. 子曰: 己所不欲 ,勿施於人 . Khổng tử nói: Việc gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác. (Sách Luận Ngữ / Vệ Linh Công).

Tử viết: Phu nhân giả, kỷ dục lập nhi lập nhân, kỷ dục đạt nhi đạt nhân. 子曰:  夫仁者, 己欲立而立人, 己欲达而达人 . Khổng tử nói: Người có nhân (tâm) muốn thành người nhân đức thì cũng muốn người khác như mình, người có nhân (tâm) đã làm được việc gì cũng muốn người khác đạt như thế. (Sách Luận Ngữ / Ung Dã).

Nhờ có tu thân, SĨ phu (giới trí thức) sẽ hiểu giá trị của mình (dù ai không biết, không hiểu mình cũng không sao) nên tự (tu thân) trông cậy vào chính mình và chú trọng vào nhân nghĩa … Mạnh Tử viết: “Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất,” (Tức là: giàu sang mà không hoang dâm, nghèo hèn mà không đổi chí khí, gặp uy vũ không chịu khuất phục富貴不能淫, 貧賤不能移, 威武不能屈 …); vẫn đúng, vẫn giá trị xuyên suốt từ xưa đến nay. Là chân lý của nhân loại. Là phương châm cho việc giáo dục làm người từ Đông sang Tây.

Bậc cai trị phải có lòng nhân, tức là phải yêu thương dân, vui cái vui của dân và lo cái lo của dân. Thực ra là phải lo trước cái lo của dân và vui sau cái vui của dân. Bậc cai trị phải lấy dân làm gốc và phải tâm niệm lời của Mạnh Tử rằng: “Quý nhất là dân, sau đó là quốc gia, và thấp nhất là nguời cai trị.” (Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh 民為貴, 社稷次之 , 君為輕 ). Cho nên người cai trị phải mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân là CHÍNH, là ưu tiên, là trên hết (Sách Mạnh Tử / Tận Tâm hạ)

Will Durant (1885 – 1981) nhận xét về học thuyết, tư tưởng Khổng Tử: “…Không nên trách Khổng Tử về tất cả những nhược điểm ấy… Không ai lại đòi một triết gia phải suy tư cho hơn hai chục thế kỷ. Trong một đời người làm sao có thể tìm được con đường đưa tới tri thức cho hết thảy các đời sau. Mà rất ít người làm nhiệm vụ ấy một cách đầy đủ như Khổng Tử. Càng hiểu rõ ông, chúng ta càng ngạc nhiên rằng chỉ có một phần nhỏ trong đạo của ông là không hợp với khoa học, với những sự biến đổi do thời gian… Khi ta nhận thấy rằng ngay ở thời đại chúng ta, ông vẫn còn là người chỉ đường chắc chắn cho chúng ta thì chúng ta quên những lời đôi khi hơi nhàm của ông và đức độ quá hoàn toàn của ông làm cho ta có lúc chịu không nổi…” (Will Durant, Lịch sử văn minh Trung Hoa, Nguyễn Hiến Lê dịch. Nxb VHTT).

*

Với thiển ý, luôn lấy lời dạy “ôn cố tri tân温故知新” (hiểu rõ đời xưa, thông tỏ đời nay) làm phương châm cho việc học, là kim chỉ nam cho cuộc sống. Vận dụng các bài học giáo huấn và những kinh nghiệm của các bậc tiền bối để tự tu dưỡng.

Là kẻ hậu học, khiêm tốn nói lên vài nhận xét về Khổng Mạnh, mà tôi đã học và biết dựa trên sách vở, chớ chẳng dám nói điều gì mà không có dẫn chứng.

*


Ghi chú:

1 物格而后知至,知至而后意诚,意诚而后心正,心正而后身修,身修而后家齐,家齐而后国治,国治而后天下平。自天子以至于庶人,一是皆以修身为本。

Vật cách nhi hậu tri chí; tri chí nhi hậu ý thành; ý thành nhi hậu tâm chính; tâm chính nhi hậu thân tu; thân tu nhi hậu gia tề; gia tề nhi hậu quốc trị; quốc trị nhi hậu thiên hạ bình. Tự thiên tử dĩ chí ư thứ nhân, nhất thị giai dĩ tu thân vi bản. (Giáo sư Đài Loan傅佩榮  Phó Bội Vinh活出儒家风采).

***

Nguồn tham khảo:

Nho Giáo, Trần Trọng Kim, Trung Tâm Học Liệu xb, Saigon, 1971.

Khổng Học Đăng, Phan Bội Châu, Khai Trí xb, 1973.

Lịch sử văn minh Trung Hoa, Will Durant, Nguyễn Hiến Lê dịch. Nxb VHTT.

Con người trong cái nhìn của Nho giáo. Lê Anh Minh, 26/09/2017 Nghiên cứu lịch sử.

Những thành kiến về Khổng học.Tăng Quốc Kiệt, mùa đông 2022, fb Đàn chim Việt.

Ngữ Mạnh Tự Nghĩa, Itô Jinsai. Nguyễn Sơn Hùng dịch. Diễn Đàn Khai Phóng, tháng 02/2024.

活出儒家风采, Giáo sư Đài Loan傅佩榮  Phó Bội Vinh.

论语的智慧与孔子的大道, Giáo sư Đài Loan傅佩榮  Phó Bội Vinh.

物演通论, Học giả Trung Quốc王东岳 Vương Đông Nhạc.

Đầu năm Giáp Thìn 2024, Kỳ Thanh.

Bình luận về bài viết này