Truy sát Bin Laden: Cuộc săn lùng 10 năm từ ngày 11/9 đến Abbottabad (Bài 12)

Peter l. Bergen

Trần Quang Nghĩa dịch

11 CÁC PHƯƠNG ÁN HÀNH ĐỘNG

THÁNG 12 NĂM 2010, giám đốc CIA Leon Panetta một lần nữa thông báo với Tổng thống Obama về nỗ lực “thu thập” ở Abbottabad, trình bày các video về khu nhà và tường thuật  những gì các nhân viên tại thực địa quan sát được. Mặc dù vẫn còn chưa chắc chắn ai đang sống trong khu nhà – tại một thời điếm Obama nói, “Theo tất cả những gì chúng ta biết thì đây có thể là một thủ lĩnh tôn giáo nào đó của đạo Hồi đang trốn tránh bà vợ của mình” – sự quan tâm của tổng thống lúc này đã được khơi dậy rất nhiều. Obama nói, “Tôi muốn nghe phản hồi của ông, Giám đốc Panetta, khi tôi trở về sau kỳ nghỉ. Hãy đảm bảo rằng chúng ta giật bẫy sập này càng nhanh càng tốt. Nếu ông ấy ở đó thì thời gian là điều quan trọng nhất.” Sau đó, Tổng thống Obama lên đường đi nghỉ Giáng sinh như thường lệ ở Hawaii.

Obama nhớ lại rằng lúc đó mình muốn có một bức tranh thậm chí còn sắc nét hơn về những gì đang xảy ra ở khu nhà Abbottabad và ai là người sống ở đó: “Nếu chúng tôi định thực hiện bất kỳ hình thức tấn công nào vào khu nhà này … chúng tôi phải đảm bảo rằng chúng tôi biết mình đang nói về điều gì.”

Cuối tháng 1 năm 2011, các quan chức CIA ngạc nhiên phát hiện ra rằng một chiến binh người  Indonesia tên là Umar Patek, một trong những kẻ âm mưu trong vụ đánh bom Bali năm 2002, gần đây đã xuất hiện ở Abbottabad và đã bị lực lượng an ninh Pakistan bắt giữ ở đó. Patek đã đến Abbottabad để gặp ai đó ở vòng ngoài của al- Qaeda đang làm việc tại bưu điện thành phố. Cắt nghĩa việc này sao đây? Suy cho cùng, các thủ lĩnh của al-Qaeda đã trả hàng chục nghìn đô la cho nhóm chủ mưu ở Bali. Các nhà phân tích đã thảo luận qua lại về lý do tại sao Patek lại chọn đi từ Đông Nam Á đến Abbottabad, một thành phố tương đối ít người biết đến ở Pakistan. Cuối cùng họ kết luận rằng đó chỉ là một trong những sự trùng hợp kỳ lạ trong cuộc sống.

Cùng tháng đó, nhà phân tích John của CIA, người đã có lúc tin tưởng đến mức 90% rằng bin Laden đang ở trong khu nhà,  kết luận rằng thông tin tình báo đã đạt đến đỉnh điểm. Anh đến gặp Panetta và nói, “Chúng ta phải hành động ngay bây giờ. Abu Ahmed al- Kuwaiti có thể không có mặt ở đó vào tháng tới. Tình báo sẽ không khá hơn chút nào.” Panetta sau đó đến gặp tổng thống và nói với ông rằng một trong những người theo dõi bin Laden hàng đầu của mình đã nói, “Hoặc chúng ta cần phải hành động nếu không thông tin tình báo đặc biệt này có thể bốc hơi.” Obama nói với Panetta, “Tôi muốn có các lựa chọn chống lại khu nhà này.”

Vào khoảng thời gian này, Cơ quan Tình báo Không gian Địa lý Quốc gia đã sử dụng hoạt động trinh sát từng chi tiết của khu nhà để tạo ra một tệp thiết kế có sự hỗ trợ của máy tính (CAD) mà các kỹ sư sử dụng để vẽ bản thiết kế. Từ tệp CAD đó, một mô hình 4 x 4 bộ của khu nhà nghi ngờ là nơi ẩn náu của bin Laden đã được xây dựng chính xác đến tận cái cây cuối cùng. Mô hình này thậm chí còn bao gồm hai chiếc ô tô đồ chơi nhỏ tượng trưng cho chiếc Jeep màu trắng với lốp dự phòng và chiếc xe tải màu đỏ mà người Kuwait và em trai y đã lái. Mô hình này đã trở thành chỗ dựa quan trọng tại CIA và Nhà Trắng trong các cuộc thảo luận về việc ai đang sống trong khu nhà và tại vị trí nào, và sau đó là để thảo luận về việc lập kế hoạch cho các lựa chọn quân sự khác nhau. Tướng James Cartwright, khi đó là phó chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân, nhớ lại: “Đó là một phương tiện tốt khi chúng tôi lên kế hoạch cho nhiều phương án khác nhau để sau đó ngồi lại với mô hình đó và nói . . . ‘Đây là cách chúng tôi sẽ đến đây; đây là điều sẽ xảy ra ở sân này hoặc ngôi nhà này… Đây là cách chúng tôi sẽ có nhiều cách tiếp cận tòa nhà mà chúng tôi nghĩ  mục tiêu đang ở.’ “…

Obama yêu cầu CIA nghiên cứu một số phương án cụ thể về những việc cần làm đối với khu nhà Abbottabad. Bây giờ khả năng hành động quân sự đã xuất hiện, Panetta và quan chức cấp cao của Lầu Năm Góc Michael Vickers quyết định đưa một người khác vào vòng bí mật. Vào cuối tháng 1, Vickers gọi điện cho Phó đô đốc William McRaven ở Afghanistan, người đã điều hành JSOC trong ba năm qua. Vickers và McRaven đã biết nhau ba thập niên và đã làm việc tích cực cùng nhau trong bốn năm qua, vì Vickers là giám sát dân sự của JSOC.

Ở Iraq, McRaven đã lãnh đạo Lực lượng Đặc nhiệm 121 bí mật, truy tìm Saddam Hussein vào tháng 12 năm 2003. Phần lớn công trạng công khai cho việc bắt giữ Saddam Hussein là  dành cho các đơn vị quân đội chính quy, nhưng chính các lực lượng Tác chiến Đặc biệt dưới quyền chỉ huy của Raven mói làm hầu hết công việc truy lùng nhà độc tài trước đây của Iraq.

Khi Chiến tranh Iraq bắt đầu tàn lụi vào năm 2009, David Petraeus, chỉ huy toàn bộ mặt trận Afghanistan-Pakistan, đã yêu cầu McRaven chuyển trọng tâm của mình từ Iraq sang Afghanistan. Mùa hè năm 2009, McRaven chuyển tổng hành dinh từ Iraq tới Afghanistan, tăng quân số ở đó lên gấp ba lần, và tăng đáng kể mức độ hỗ trợ trên không và các hoạt động tình báo. Kết quả là, các nhiệm vụ Tác chiến Đặc biệt ở Afghanistan đã tăng từ 200 lần một năm vào năm 2008 lên hơn 2.000 lần một năm vào năm 2010.

Trong nhiệm kỳ của McRaven tại JSOC, tỷ lệ “trúng số” – tỷ lệ các nhiệm vụ trong đó lực lượng Tác chiến Đặc biệt bắt được hoặc tiêu diệt được mục tiêu  ở Afghanistan hoặc Iraq – đã tăng vọt từ 35% lên hơn 80%. Mức độ trừng phạt mà JSOC gây cho Taliban có thể được đo bằng thực tế là, trong thời kỳ này, độ tuổi trung bình của giới chi huy Taliban ở Afghanistan giảm từ 35 xuống còn 25.

McRaven là một người Texas mắt xanh, tóc đen, vạm vỡ, ở độ tuổi ngoài 50. Trong tiếp xúc cá nhân, vừa tu Rip It – một loại đồ uống chứa nhiều caffein phổ biến với lính Mỹ ở Afghanistan – vừa phát ngôn, ông nói ra những đoạn có suy nghĩ chín chắn, nhưng cũng thỉnh thoảng pha thêm gia vị vào bài phát biểu của mình bằng những từ  chết tiệt, cũng như những lời chửi thề cay cú hơn. Một đồng nghiệp dày dặn kinh nghiệm chiến đấu cho biết McRaven khiến anh nhớ đến siêu anh hùng truyện tranh Captain America, trong khi một người khác nói rằng ông “được coi là chiến binh SEAL thông minh nhất thế giới từng sống.” Ông ấy có thể chất rắn chắc, giàu lòng trắc ẩn và có thể đâm dao xuyên qua xương sườn của bạn trong tích tắc.” Ngay cả khi là đô đốc ba sao, McRaven đã cùng đồng đội của mình thực hiện các nhiệm vụ giật-và-vồ khoảng một tháng một lần ở Afghanistan.

Vào tháng 1 năm 2011, McRaven đến thăm trụ sở CIA, nơi ông được giới thiệu tóm tắt bởi Michael Morell, cũng như người đứng đầu Phòng Hoạt động Đặc biệt, một lực lượng bán quân sự nhỏ và tinh nhuệ trong Cơ quan, cùng các quan chức từ Trung tâm Chống khủng bố. McRaven có thể thấy ngay là để san bằng khu nhà cỡ khu nhà Abbottabad, phải cần thả đến khoảng 20 quả bom 2.000 cân vào mục tiêu. Và không có gì đảm bảo rằng bom sẽ rơi với độ chính xác 100% tại một thành phố có quy mô vừa phải của Pakistan. Một cuộc đột kích của Tác chiến Đặc biệt là cách tiếp cận quân sự chắc chắn hơn,  ông tin thế. Nhưng ông nói với các đồng nghiệp rằng mình không muốn bắt ép ai phải chấp nhận ý tưởng này – tốt hơn hết để họ tự đưa ra quyết định này, theo thời gian.

“Thứ nhất, xin chúc mừng các anh đã có được đầu mối tốt như vậy,” McRaven nói. “Thứ hai, đây là một cuộc đột kích tương đối đơn giản theo quan điểm của JSOC. Chúng tôi đã thực hiện mười, mười hai, mười bốn lần một đêm. Điều khiến cuộc đột kích này trở nên phức tạp là nó nằm trong phạm vi 150 dặm bên trong Pakistan, và việc đến đó về mặt hậu cần, sau đó là chính sách giải thích về cuộc đột kích, là yếu tố phức tạp. Tôi muốn suy nghĩ về nó một chút, nhưng bản năng của tôi mách bảo là nên cử một thành viên dày dặn kinh nghiệm của một đơn vị đặc biệt đến làm việc trực tiếp với các anh, anh ta sẽ đến CIA hàng ngày và về cơ bản bắt đầu vạch kế hoạch và đưa ra một số lựa chọn.”

McRaven đã đưa ra một số tên người sẽ chịu trách nhiệm về tác chiến trên thực địa. Về người chỉ huy đội SEAL cụ thể mà ông ấy thích, ông nói, “Anh ta là một người điều hành có kinh nghiệm. Họ sẽ đổ bộ vào khu nhà và nếu có điều gì đó không ổn, họ sẽ phải ứng biến, thay đổi kế hoạch, đổi sang kế hoạch B, hoặc luồn lách để thoát khỏi tình thế khó khăn.”

McRaven giao nhiệm vụ cho đại úy hải quân phát thảo các kịch bản cho một số kiểu tấn công vào khu nhà được mệnh danh là Khu phức hợp Abbottabad 1 (AC1). Việc lập kế hoạch cho hoạt động đã được thực hiện tại CIA, bởi vì đây sẽ là một hoạt động bí mật, “có thể phủ nhận”, trong đó chuỗi chỉ huy chạy từ tổng thống đến Panetta và sau đó đến McRaven, thay vì thông qua cơ cấu quân sự thông thường. Các quan chức CIA đề cập đến AC1 với mật mã “Thành phố Atlantic” [Đây là thành phố Mỹ nơi có nhiều sòng bài nhất, chỉ sau Las Vegas: ND] khi họ gửi email cho nhau, gật đầu trước thực tế rằng toàn bộ hoạt động này giống như một canh bạc.

Trong một văn phòng không có biển hiệu ở tầng một nhà máy in của CIA, viên đại úy hải quân dán lên tường các bức ảnh vệ tinh và các bản đồ địa hình của khu nhà Abbottabad và bắt đầu lên kế hoạch tấn công AC1, cùng với chỉ huy Biệt Đội Đỏ của Đội Seal 6. McRaven sau đó đã bổ sung thêm nửa tá nhà lập kế hoạch khác để suy nghĩ về các phương án trên không và mặt đất cho cuộc tấn công. Một kế hoạch là đổ bộ một đội SEAL theo cách nào đó bên ngoài Abbottabad và đi bộ đến khu nhà. Tuy nhiên, quy mô của Abbottabad và khả năng bị phát hiện hoặc lực lượng mệt mỏi sau một chặng đường dài tới mục tiêu đã khiến kế hoạch đó bị hủy bỏ.

McRaven đã viết cuốn sách về Tác chiến Đặc biệt theo đúng nghĩa đen. Ông đã giúp xây dựng chương trình giảng dạy về Tác chiến Đặc biệt tại Trường Hải quân Sau đại học ở Monterey, California, và sau khi nhận công việc tại Nhà Trắng của Bush chỉ vài tuần sau vụ 11/9, ông đã trở thành một trong những tác giả chính của chiến lược chống khủng bố của chính quyền Bush.  Cuốn sách Tác chiến Đặc biệt xuất bản năm 1996 của McRaven là sự mổ xẻ rõ ràng về tám hoạt động mang tính quyết định, từ việc lực lượng Anh sử dụng tàu ngầm hạng trung để gây thiệt hại nặng nề cho Tirpitz, một thiết giáp hạm chủ chốt của Đức Quốc xã, vào năm 1943; đến cuộc giải cứu nhà độc tài người Ý Benito Mussolini của Đức Quốc xã cùng năm khỏi những kẻ bắt giữ chống Phát xít; đến cuộc đột kích ở Entebbe năm 1976 đã giải phóng con tin người Israel bị bọn  khủng bố Palestine bắt giữ ở Uganda.

Trong quá trình biên soạn tác phẩm của mình, McRaven đã phỏng vấn nhiều thành viên chủ chốt trong các cuộc đột kích mà ông đã kiểm tra và đích thân đến các hiện trường diễn ra chiến dịch. Sau khi điều tra cẩn thận từng cuộc đột kích, ông xác định được sáu nguyên tắc đã làm nên thành công cho các hoạt động này: tính lặp lại, tính bất ngờ, tính bảo mật, tốc độ, tính đơn giản và mục đích. Sự lặp lại có nghĩa là những buổi diễn tập thường xuyên và thực tế để sự “ma sát” của trận chiến thực tế giảm thiểu. Tính bất ngờ có nghĩa là khiến kẻ thù hoàn toàn mất cảnh giác; Lực lượng giải cứu Mussolini của Đức Quốc xã đã hạ cánh tàu lượn xuống một ngọn núi gần khách sạn nơi thủ lĩnh Phát xít đang bị giam giữ và giải cứu ông ta mà không cần bắn một phát súng nào. Tất nhiên, tính bảo mật có nghĩa là giới hạn thông tin về hoạt động trong một chu vi nhỏ hẹp. Tốc độ “hơn hẳn tương đối” so với kẻ thù cần phải đạt được trong vài phút đầu tiên của cuộc tấn công và toàn bộ nhiệm vụ phải hoàn thành trong nửa giờ. Tính đơn giản đảm bảo rằng hoạt động được mọi binh sĩ liên quan hiểu rõ –  “giải thoát con tin”  tại Entebbe – và mục đích có nghĩa là mọi chiến binh đều quyết tâm tận lực thực hiện nhiệm vụ.

Có rất nhiều nhân vật anh hùng trong cuốn sách của McRaven, nhưng ngôi sao chính là Jonathan Netanyahu (anh trai của chính trị gia Israel Benjamin Netanyahu,  thủ tướng Israel đương nhiệm), người chỉ huy cuộc đột kích vào Entebbe. Là một sĩ quan đọc Machiavelli (nhà triết học, ngoại giao thời Phục hưng Ý, được coi là cha đẻ của khoa học chính trị hiện đại: ND) để thư giãn và một người yêu nước Israel nồng nàn, Netanyahu gánh chịu trách nhiệm hoàn toàn cho binh sĩ  và sứ mệnh của mình, đồng thời tham gia vào những chi tiết nhỏ nhất của bất kỳ hoạt động nào. Vào thời điểm của cuộc đột kích Entebbe hầu như không thể tưởng tượng được rằng một lực lượng sẽ bay hơn bảy giờ đồng hồ từ Israel đến Uganda để tiến hành chiến dịch giải cứu. Thêm yếu tố bất ngờ, lính biệt kích Israel đổ bộ xuống sân bay Entebbe mặc quân phục Uganda, và phần tử tấn công dẫn đầu lái chiếc Mercedes cùng loại với xe Mercedes do các tướng lĩnh Uganda lái. Kể từ thời điểm chiếc máy bay vận tải đầu tiên của Israel hạ cánh xuống Entebbe, lực lượng biệt kích chỉ mất ba phút để bảo vệ con tin, nhưng Jonathan Netanyahu đã bị tử thương trong vụ tấn công.

Khi McRaven lên kế hoạch tấn công vào khu nhà Abbottabad, kế hoạch của ông ta đã phản ảnh sâu sắc các nguyên tắc chính mà ông ta đã đề ra  trong Tác chiến Đặc biệt Đó là một kế hoạch đơn giản, được che giấu cẩn thận, được luyện tập thuần thục, được thực hiện một cách bất ngờ, nhanh chóng và có mục đích.

Phương án McRaven không phải là kế hoạch “động lực” (cách nói của Lầu Năm Góc là “gây chết người”) duy nhất mà đội ngũ quốc gia của Obama đã xem xét nghiêm túc về mặt an ninh. Có nên sử dụng máy bay ném bom B-2 tiêu diệt khu nhà này không? Hay có thể một cuộc tấn công bằng máy bay không người lái là một lựa chọn tốt hơn? Và liệu hoạt động này có nên cho người Pakistan hợp tác dưới hình thức nào đó? Vào cuối tháng 2, khi tất cả các lựa chọn nghiêm túc này đều được xem xét, Vickers quyết định đã đến lúc mời nhà tư tưởng chính sách hàng đầu của Lầu Năm Góc, Michèle Flournoy, cho ý kiến bởi vì mỗi lựa chọn quân sự đều chứa đựng những hàm ý chính sách, nhiều trong số đó rất khó hiểu.

Với tư cách là thứ trưởng phụ trách chính sách, Flournoy là người phụ nữ cấp cao nhất từng phục vụ tại Lầu Năm Góc và thường được nhắc đến là người phụ nữ đầu tiên có khả năng được bổ nhiệm làm bộ trưởng quốc phòng. Một bà mẹ ba con với bằng tốt nghiệp về quan hệ quốc tế tại Balliol College, Oxford và có lịch sử lâu dài làm việc về các vấn đề an ninh quốc gia nặng ký như Đánh giá Chính sách Phòng thủ Tứ niên của Lầu Năm Góc, Flournoy xuất hiện lịch lãm trong những trang phục cắt may khéo léo và đeo ngọc trai. Bà ăn nói thận trọng, không hề có chút khoa trương và là hình mẫu điển hình của những quan chức “không gây kịch tính” mà Obama thích hiện diện quanh mình.

Vấn đề rắc rối nhất mà Flournoy phải suy nghĩ là làm sao đối phó với chính quyền Pakistan. Suy cho cùng, dù đó là một cuộc đột kích của SEAL, một cuộc ném bom hay một cuộc tấn công bằng máy bay không người lái, tất cả những hành động đều là những vi phạm nghiêm trọng đối với chủ quyền của một quốc gia, ít nhất trên danh nghĩa, là một đồng minh thân cận của Mỹ. Có một loạt các lựa chọn cần xem xét với người Pakistan: bạn có thể cung cấp đầu mối cho họ về khu nhà Abbottabad và họ sẽ trở thành đối tác trong các bước tiếp theo; bạn có thể báo trước với họ về kế hoạch tấn công, nhưng quá muộn để họ có thể can thiệp; bạn có thể báo với họ vào thời điểm thi hành; hoặc có thể báo tin cho họ sau đó. Mặt tiêu cực của việc lôi kéo người Pakistan vào cuộc là, căn cứ vào thập niên hợp tác với họ trong các hoạt động chống lại al-Qaeda và Taliban, dường như thông tin nhạy cảm dễ bị rò rỉ

“Chúng tôi đã có một cuộc tranh luận nghiêm túc, một tập hợp các ưu và nhược điểm của việc cần phải báo bao nhiêu với người Pakistan hoặc có nên hợp tác với họ làm việc này. Các lựa chọn đã bị loại bỏ không nhẹ nhàng chút nào. Điều đó nói lên rằng chúng tôi đã có số khá lớn trải nghiệm với họ, cho thấy họ có một số vấn đề hoạt động bảo mật nội bộ bị thách thức,” Flournoy nói.

Vấn đề giải quyết với người Pakistan rất phức tạp bởi thực tế là mối quan hệ Mỹ-Pakistan – chưa bao giờ nồng ấm – hiện đang ở mức thấp nhất. Liên minh Mỹ-Pakistan luôn phức tạp, có nhiều lời buộc tội từ cả hai phía. Người Pakistan cảm thấy rằng Hoa Kỳ chỉ là một “người bạn cơ hội” sử dụng họ như một công cụ – dù là để đánh bại Liên Xô ở Afghanistan vào những năm 1980 hay gần đây hơn là đánh bại al-Qaeda – chỉ để bỏ rơi họ khi họ không còn mục đích sử dụng. Về phần mình, các nhà hoạch định chính sách Mỹ nhận thức sâu sắc rằng Pakistan là nơi trú ẩn cho các nhóm chiến binh giết lính Mỹ ở Afghanistan – những nhóm được hưởng sự hỗ trợ nào đó từ các phần tử trong quân đội Pakistan.

Ngay khi bức tranh tình báo tại khu phức hợp Abbottabad bắt đầu trở nên sắc nét hơn, tình trạng mất lòng tin giữa Mỹ và Pakistan trở nên tồi tệ hơn đáng kể khi Raymond Davis, một công dân Mỹ, giết chết hai người Pakistan tại thành phố Lahore nhộn nhịp vào ngày 25 tháng 1 năm 2011. Chính phủ Mỹ sau đó đã đưa ra một số khẳng định khác nhau và sai lầm về nghề nghiệp của Davis, nhưng qua  vài tuần sau đó, thật rõ ràng một cách đau đớn khi nhận ra rằng Davis cơ bắp – người đã bình thản bắn hai người Pakistan mà anh ta cho là đang trấn lột mình vào giữa ban ngày, trước sự chứng kiến ​​của nhiều nhân chứng – thực ra là một nhà thầu của CIA. Điều này dường như xác nhận mọi thuyết âm mưu của người Pakistan về việc đất nước họ tràn ngập các điệp viên CIA, và nhiều người Pakistan, bao gồm cả một số chính trị gia, đã kêu gọi xử tử Davis. Căng thẳng nghiêm trọng giữa Hoa Kỳ và Pakistan sau vụ việc này càng làm giảm thêm cơ hội vốn đã mong manh rằng chính phủ Hoa Kỳ sẽ thông báo cho chính phủ hoặc quân đội Pakistan về những gì họ mới biết được về nơi trú ẩn của thủ lĩnh al-Qaeda.

Một điểm cần cân nhắc nữa là nỗ lực chiến tranh của Mỹ ở  Afghanistan phụ thuộc rất nhiều vào nguồn cung cấp qua Pakistan; vào đầu năm 2011, khoảng 3/4 tổng nguồn cung cấp của NATO và Mỹ, bao gồm thực phẩm, nhiên liệu và thiết bị, phải quá cảnh qua Pakistan. Pakistan cũng cho phép sử dụng không phận của mình cho 300 đến 400 chuyến bay mỗi ngày tới Afghanistan bởi máy bay Mỹ cung cấp cho 100.000 lính Mỹ đóng ở đó.

Nhận thức được thực tế rằng người Pakistan có thể quyết định đóng cửa các tuyến đường tiếp tế quan trọng này, Flournoy đã nỗ lực củng cố cái mà Lầu Năm Góc gọi là Mạng lưới Phân phối phía Bắc, một loạt các thỏa thuận hậu cần nối các cảng trên Biển Baltic với Afghanistan thông qua các nước láng giềng Trung Á và Nga. “Vì vậy đã có một sự thúc đẩy lớn với những lá thư của tổng thống, người người ra nước ngoài, ký các thỏa thuận mới, sắp xếp mọi thứ vào đúng vị trí, chỉ để đảm bảo rằng chúng tôi được hỗ trợ tốt như có thể bởi mạng lưới đó,” Flournoy nói. Trong bài phát biểu tại St. Petersburg vào ngày 21 tháng 3, Bộ trưởng Quốc phòng Robert Gates đã cam kết rằng Hoa Kỳ và Nga sẽ hợp tác cùng nhau để mở rộng Mạng lưới Phân phối phía Bắc tới Afghanistan. Những thỏa thuận mới này một phần đóng vai trò bảo hiểm chống lại bất kỳ hậu quả nào có thể xảy ra từ chiến dịch Abbottabad chỉ được một số ít người ở Lầu Năm Góc biết.

Ngoại trưởng Hillary Clinton, người thường giải quyết ổn thỏa mọi việc với người Pakistan mỗi khi xảy ra một trong những cuộc khủng hoảng thường xuyên trong mối quan hệ Mỹ-Pakistan, đã nói rõ rằng việc giữ gìn mối quan hệ đó không phải là ưu tiên hàng đầu khi xét việc bắt bin Laden. Clinton nói: “Tôi không muốn bỏ lỡ cơ hội. Tôi không muốn một Tora Bora khác, nơi mà chúng tôi đã suy nghĩ quá nhiều và lại phản ứng thiếu sót. Và tôi nhớ có lúc một trong những người thuyết trình đã nói, ‘Điều này sẽ bị coi là vi phạm trắng trợn danh dự quốc gia của người Pakistan’, và lúc đó tôi đã bùng nổ và nói, ‘Còn danh dự quốc gia của chúng ta thì sao? Và còn việc truy đuổi kẻ đã giết 3,000 người vô tội thì sao?”

Lúc này Obama đang thúc đẩy các phương án hành động thực sự (viết tắt là COA) chống lại khu phức hợp, thay vì chỉ thu thập thông tin tình báo bổ sung. Quan chức Hội đồng An ninh Quốc gia Nicholas Rasmussen nhớ lại Obama đã “quyết định rằng khả năng câu chuyện này bị rò rỉ bằng cách nào đó có tầm quan trọng lớn đến mức chúng ta cần phải tăng tốc nỗ lực giải quyết vấn đề này. Và sau đó Panetta thêm vào cảm nhận rằng tình báo sẽ  chẳng thu được nhiều thành quả hơn bao nhiêu trong ba hoặc bốn tháng tới. Chúng ta có thể tin tưởng vào các kết luận của CIA thêm một chút, nhưng chỉ một chút thôi. Không có bất kỳ nỗ lực phát triển nào đang tiến hành có thể cung cấp cho chúng ta bức ảnh Polaroid của bin Laden.” (Mặc dù CIA chưa bao giờ có được ảnh của bin Laden, nhưng các sĩ quan đã có được ảnh của em trai người Kuwait.)

Vào một buổi tối thứ sáu cuối tháng Hai – thời điểm thích hợp cho một cuộc họp kín đáo – một nhóm ô tô Suburban đen trờ tới trụ sở CIA mang theo Đô đốc McRaven, Mike Vickers và Tướng Cartwright. Cartwright, một thủy quân lục chiến trầm lắng, một phi công có hiểu biết sâu sắc và yêu thích công nghệ, đã được một số người thân cận Obama quý mến trong cuộc thảo luận về “sự gia tăng” lực lượng Hoa Kỳ tại Afghanistan vào mùa thu năm 2009, khi ông đi ngược lại sự đồng thuận phổ biến giữa Gates, Mullen và Petraeus, tất cả đều muốn triển khai quân quy mô lớn gồm 40 nghìn binh sĩ cho chiến dịch chống nổi dậy. Cartwright đã làm việc với Joe Biden và Tony Blinken để phác thảo kế hoạch cho một đội quân chỉ gồm 20 nghìn lực lượng bổ sung vào Afghanistan sẽ thực hiện sứ mệnh “chống khủng bố cộng”, thay vì một chiến dịch chống nổi dậy toàn diện. Obama cuối cùng đã chia đôi sự khác biệt và ủy quyền cho ba mươi nghìn binh sĩ tham gia cuộc đột kích, nhưng sự độc lập được cho là của Cartwright đối với người đứng đầu Lầu Năm Góc đã khiến ông có tiếng nói mạnh mẽ trong các hội đồng chiến tranh của Obama.

McRaven, Cartwright và Vickers có mặt tại trụ sở chính để cùng Panetta xem xét các phương án hành động khả thi cho Abbottabad. Bên bánh sandwich và nước ngọt, ngồi quanh chiếc bàn gỗ lớn trong phòng họp của giám đốc, với mô hình khu nhà trước mặt, họ thảo luận về bức tranh tình báo với một nhóm nhỏ các quan chức của Trung tâm Chống Khủng bố. Sau đó, nhóm nói về bốn COA có thể xảy ra: một cuộc ném bom do máy bay ném bom B-2 thực hiện, một cuộc đột kích của Lực lượng Đặc biệt sẽ được thực hiện mà không thông báo cho người Pakistan, một cuộc tấn công bằng máy bay không người lái và một hoạt động phối hợp với người Pakistan. McRaven giải thích rằng một cuộc tấn công của Tác chiến Đặc biệt vào khu nhà của bin Laden sẽ tương đối dễ dàng. Điều có vẻ khó khăn là đối phó với phản ứng của Pakistan đối với cuộc đột kích, dù trên mặt đất hay trên không.

Sau cuộc họp, vốn là buổi tổng duyệt cuối cùng trước khi đến cuộc thảo luận chi tiết với tổng thống trong khoảng hai tuần nữa, Panetta, Michael Morell và Jeremy Bash lui về văn phòng của Panetta. Panetta bỗng phấn chấn. Rót cho mỗi người một ly scotch, ông ta nói, “Tôi nghĩ người của chúng ta đã phát triển được bốn lựa chọn thực sự tốt. Không có lựa chọn nào là hoàn hảo, tất cả đều thực sự khó khăn, nhưng chúng ta phải tiếp tục duy trì điều này. Chúng ta có để thực sự có được nhiều thông tin hơn và chúng ta thực sự phải đưa ra những lựa chọn này, bởi vì tôi không thể tưởng tượng được rằng đến cuối cùng chúng ta lại không làm gì đó về vấn đề này.”

VÀO NGÀY 14 THÁNG 3 NĂM  2011, nội các chiến tranh của Obama tập trung tại Nhà Trắng để báo cáo với tổng thống. Các phương án hành động được trình bày với Obama bằng miệng cũng như dưới dạng bản ghi nhớ và đồ họa bao gồm vụ ném bom do máy bay ném bom B-2 thực hiện, một cuộc tấn công bằng máy bay không người lái, phương án đột kích và một số loại hoạt động song phương với người Pakistan.

Cuộc tấn công của B-2 có một số điểm hấp dẫn. Bất kỳ ai ở trong khu nhà hoặc ở bất kỳ đường hầm nào có thể có bên dưới đều bị giết chết, và không có lực lượng Mỹ nào gặp rủi ro. Nhưng một cuộc đột kích của B-2 cũng có nhược điểm đáng kể. Để phá hủy khu phức hợp trải dài trên diện tích một mẫu Anh, sẽ cần một tải trọng lớn của bom. Tướng Cartwright đã chỉ ra rằng sức mạnh của bom sẽ giống như một trận động đất ở khu vực. Lực nén như vậy sẽ chắc chắn phát sinh thương vong dân sự không chỉ số phụ nữ và trẻ em được biết sống trong khu nhà mà còn cả những người nhà lân cận. Và tất nhiên sẽ không có bằng chứng về cái chết của bin Laden, vì tất cả bằng chứng DNA sẽ biến mất trong cuộc không kích, cùng với đó là mọi bằng chứng cho thấy ông ta đã sống ở đó.

Phương án ném bom B-2 đã làm dấy lên cuộc tranh luận. Theo Tony Blinken, “Một số người nói, ‘Bằng chứng DNA không phải là điều quan trọng nhất. Nếu bin Laden ở đó, và chúng tôi biết chắc điều đó, và chúng tôi có thể tiêu diệt hắn, thì việc loại bỏ hắn dứt khoát khỏi chiến trường mới là điều đáng quan tâm.” Nhưng một số người cảm thấy rằng một nửa nếu không muốn nói là hơn nữa thành công mà chúng ta đạt được sẽ là việc cho thế giới biết rằng bin Laden đã ra đi, và bạn phải chứng minh được điều đó, hoặc ít nhất có đủ bằng chứng để xua tan hầu hết những nghi ngờ và thuyết âm mưu.”

Một cách để hạn chế số thương vong dân sự là thả một quả bom nhỏ trực tiếp xuống khu nhà, nhưng một quả bom có ​​trọng tải nhỏ có thể không thực sự giết chết được bin Laden. Và vì CIA không có cách nào để nhìn vào bên trong khu nhà nên cũng có khả năng bin Laden có thể trú ẩn trong một căn hầm ẩn bên dưới tòa nhà, hoặc thậm chí trốn thoát qua một đường hầm để sống thêm một lần nữa. Sử dụng hình ảnh nhiệt, Cơ quan Tình báo Không gian Địa lý Quốc gia đã kết luận rằng mực nước ngầm xung quanh khu phức hợp Abbottabad khá cao. Thật vậy, những dòng suối lớn chảy qua khu vực lân cận nơi có khu phức hợp. Do mực nước ngầm cao, các nhà phân tích đã loại bỏ ý kiến ​​cho rằng bin Laden có thể trốn thoát qua đường hầm, nhưng họ lo ngại rằng ông ta có thể có một loại phòng hoặc hầm an toàn nào đó trong nhà.

Những người ủng hộ phương án đột kích, bao gồm cả Panetta, đã chỉ ra rằng việc gửi lính SEAL đến cũng rất mạo hiểm, nhưng nếu họ đột kích vào khu nhà và không tìm thấy bin Laden, thì vẫn có một cơ hội khá tốt rằng họ có thể rời đi và không ai biết về hoạt động này. Và ngay cả khi một số ít người trong và xung quanh khu nhà phát hiện ra điều đó thì hoạt động này vẫn có thể bị phủ nhận. Và, trong mọi trường hợp, bất cứ ai sống trong khu nhà đó sẽ không gây ra tiếng xấu trong công luận, vì rõ ràng ông ta đang cố gắng giữ kín danh tính của mình. Một cuộc tấn công bằng trực thăng của Tác chiến Đặc biệt nếu không bắt được bin Laden sẽ không vi phạm chủ quyền của Pakistan vì nó sẽ không bao giờ được công bố, trong khi một cuộc tấn công ném bom sẽ là một sự kiện rất công khai, vì vậy bất kỳ cơ hội phủ nhận hợp lý cho hoạt đồng đều bị bỏ ngoài tai.

Một lựa chọn khác là điều khiển máy bay không người lái Predator hoặc Reaper bay qua khu nhà nghi ngờ có bin Laden và bắn một tên lửa nhỏ hoặc thả một quả bom nhỏ xuống đó. Tướng Cartwright, vị tướng được Obama yêu thích, đang thúc đẩy cách tiếp cận này. Ý tưởng là sử dụng một loại đạn rất nhỏ để bắn trúng “người rảo bước” bí ẩn mà các vệ tinh Mỹ nhìn thấy khi y đi dạo hàng ngày. Một cuộc tấn công như vậy đòi hỏi độ chính xác rất cao và có nguy cơ máy bay không người lái bắn trượt mục tiêu, như các cuộc tấn công bằng máy bay không người lái khác nhằm vào các mục tiêu có giá trị cao đã từng thực hiện trước đây, nhưng nguy cơ thương vong dân sự thấp hơn nhiều và phản ứng từ phía Pakistan có thể sẽ thấp hơn so với một cuộc không kích thông thường. Vẫn còn vấn đề chứng minh bin Laden đã chết, nhưng chắc chắn sẽ có những cuộc “huyên thuyên” tiếp theo về hành vi “tử vì đạo” của bin Laden trong giới lãnh đạo al-Qaeda, mà các vệ tinh của Mỹ có thể thu được. Và al-Qaeda hầu như luôn xác nhận cái chết của các thủ lĩnh họ trong các thông cáo báo chí, bởi vì họ luôn vui mừng thông báo một trong những “chiến binh tử đạo” của họ qua đời.

Đô đốc Mike Mullen, cố vấn quân sự hàng đầu của Obama, đã tỏ ra nghi ngờ về việc sử dụng loại đạn cỡ nhỏ ngay khi chủ đề này được đưa ra. Ông nói: “Theo quan điểm của tôi, đó là một hệ thống chưa được thử nghiệm. Tôi nghĩ chúng ta đã đặt hy vọng đôi khi còn quá sớm vào những công nghệ mới tinh vi, nhưng lại không hoạt động tốt”. Thay vào đó Mullen ủng hộ cuộc đột kích.

Michèle Flournoy cũng là một trong những người đề xướng cuộc đột kích, bởi vì “bằng chứng gián tiếp tại một điểm nào đó gần choáng ngợp ở chỗ rất khó giải thích khu nhà này và sự hiện diện của một số cá nhân mà không có sự hiện diện của bin Laden. Nó không hợp lý. Thứ hai, tôi cảm thấy rằng từ quan điểm mang tính biểu tượng và chiến lược, việc bắt sống hoặc tiêu diệt Osama bin Laden sẽ có tác động rất mạnh mẽ đối với al-Qaeda cao hơn mọi tổn thất mà chúng đã phải gánh chịu. Thứ ba, chúng ta kỳ vọng rằng sẽ tịch thu được một kho thông tin tình báo có thể giúp chúng tôi hiểu rõ hơn về mạng lưới và tạo ra nhiều cơ hội hơn để hành động chống lại ban lãnh đạo nòng cốt nếu chúng ta đi vào khu nhà.”

Tại cuộc họp ngày 14 tháng 3, Đô đốc McRaven đã trình bày phương án đột kích, nói thẳng với Obama rằng: “Thưa ngài Tổng thống, chúng tôi chưa thử nghiệm kỹ lưỡng điều này và chúng tôi không biết liệu chúng tôi có thể làm được hay không, nhưng khi làm được, tôi sẽ quay lại với ngài và sẽ nói thẳng với ngài.”

Obama hỏi: “Anh cần bao nhiêu thời gian?”

McRaven cho biết mình cần ba tuần để diễn tập kỹ lưỡng nhiệm vụ.

Obama nhận xét: “Vậy thì tốt hơn hết là bạn nên khởi động.”

Các quan chức trong cuộc họp đã đồng ý rằng đội tấn công trực thăng vận là một lựa chọn mạo hiểm. Liệu máy bay trực thăng có bị phát hiện trong không phận Pakistan? Và người Pakistan sẽ làm gì nếu phát hiện ra họ? Ngoài ra còn có các vấn đề về tiếp nhiên liệu, vì trực thăng không thể tiếp cận mục tiêu, bay lượn, hạ cánh, cất cánh và quay trở lại Afghanistan. Khả năng địa điểm tiếp nhiên liệu bị phát hiện là bao nhiêu? Khi Black Hawk bay qua khu nhà, những rủi ro tiềm ẩn đối với chúng là gì?

Cartwright đã đề cập đến một máy bay trực thăng tàng hình đang thử nghiệm, tránh được  radar sẽ giúp giảm khả năng bị người Pakistan phát hiện ra cuộc đột kích, nhưng bình luận của ông không nhận được nhiều quan tâm vào thời điểm đó. Khi cuộc họp kết thúc, nhiều người tham gia tin rằng Obama đang nghiêng về việc ném bom khu nhà bằng máy bay ném bom B-2. Hillary Clinton nhớ lại, “Mọi người rời khỏi các cuộc họp đó hoàn toàn kiệt sức vì những hậu quả và những khó khăn mà chúng tôi phải giải quyết.”

Vào ngày 16 tháng 3, Raymond Davis, nhà thầu CIA, người đã giết hai người Pakistan hai tháng trước đó, đã được thả ra khỏi nhà tù sau một thỏa thuận tài tình trong đó Chính phủ Hoa Kỳ chi trả 2 triệu USD “tiền máu” được đạo Hồi thừa nhận cho gia đình hai nạn nhân. Đây là một diễn tiến có ý nghĩa cho nhóm nhỏ ở Nhà Trắng đang lên kế hoạch cho chiến dịch Abbottabad, bởi vì đã có lo ngại rằng Davis, người đã bị căm ghét sâu sắc ở Pakistan, có thể cuối cùng bị giết chết trong phòng giam theo sau bất kỳ kiểu tấn công của Mỹ nào vào Abbottabad. Bây giờ Davis đã là một người tự do, thế là đã bớt đi một trở ngại cho hoạt động tấn công Abbottabad.

Vào thời điểm diễn ra cuộc gặp tiếp theo của các “nhân vật chính” với Obama tại Nhà Trắng, vào ngày 29 tháng 3, phương án ném bom B-2 phần lớn đã bị loại bỏ. Khi các nhà lập kế hoạch của Lầu Năm Góc đánh giá cần những gì để phá hủy khu nhà rộng 1 mẫu Anh, họ nhận thấy rằng cần phải thả 32 quả bom nặng 2.000 cân. Điều này không chỉ hủy diệt mọi bằng chứng DNA mà còn là một cuộc không kích dữ dội vào một thành phố đông đúc, xóa sổ khu phức hợp có hơn 20 cư dân và phá hủy một tòa nhà khác gần đó. Bom cũng có thể không đến đúng mục tiêu, và giết chết thêm nhiều thường dân. Tổng thống lo ngại về con số thương vong dân sự có thể xảy ra và sự thiếu chắc chắn về việc tiêu diệt bin Laden. Ngoài ra còn có phản ứng giận dữ của Pakistan mà một cuộc tấn công như vậy chắc chắn sẽ gây ra cần phải được cân nhắc và sẽ không có “việc khai thác hiện trường nhạy cảm”, đó là cách CIA nói đến việc kiểm tra đối với máy tính, điện thoại di động và rác bỏ túi tại hiện trường thường được thực hiện sau một cuộc đột kích để bắt giữ hoặc tiêu diệt một mục tiêu có giá trị cao.

Thứ còn lại trên bàn là một đòn giải phẫu  của một loại vũ khí “rình rập” như máy bay không người lái, phương án tấn công bằng trực thăng và cách tiếp cận chờ xem nhằm cố gắng thu thập thông tin tình báo chính xác hơn. Trong cuộc gặp này, Obama đã hỏi McRaven những câu hỏi như “Nếu có một phòng an toàn trong khu nhà thì sao?” “Nếu bin Laden không có ở đó thì sao?” “Làm thế nào bạn có thể đưa bin Laden ra khỏi khu nhà, dù sống hay chết?” “Nếu trực thăng gặp vấn đề về máy móc thì sao?” “Điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta gặp phải sự kháng cự ở khu nhà?”

Trong suốt  quá trình lập kế hoạch đó, Bộ trưởng Quốc phòng Robert Gates luôn là một  người hoài nghi nhất trong số các cố vấn của tổng thống. Tiếng nói của ông có trọng lượng vì ông đã từng làm việc cho sáu tổng thống Mỹ; ông đã làm việc cho Hội đồng An ninh Quốc gia của Nixon khi Obama mới 13 tuổi. Và Gates đã có đủ kinh nghiệm từ nhiệm kỳ giám đốc CIA của mình để biết rằng bạn có thể gặp một tình huống khá rõ ràng mà vẫn sai. Trong trường hợp có một cuộc tấn công mặt đất vào khu phức hợp Abbottabad, ông cũng lo ngại về mức độ rủi ro cho lực lượng Hoa Kỳ và cho mối quan hệ của Mỹ với Pakistan. Trên hết, Gates lo ngại về việc tái diễn Chiến dịch Móng Vuốt Đại Bàng, nỗ lực thất bại năm 1980 nhằm giải thoát 52 con tin người Mỹ bị giữ trong đại sứ quán Mỹ ở Tehran trong Cách mạng Iran. Chiến dịch giải cứu thất bại là yếu tố chính đưa Jimmy Carter trở thành tổng thống một nhiệm kỳ. Móng Vuốt Đại Bàng là điều mà Gates đã trải qua một cách chi tiết đến tột cùng khi ông còn làm trợ lý điều hành cho giám đốc CIA lúc đó là Stansfield Turner. Khi thảm họa xảy ra ở Iran vào ngày 24 tháng 4 năm 1980, Gates đã ở cùng Turner cả đêm, đi lại giữa CIA và Nhà Trắng. Gates nhớ lại: “Cuối cùng chúng tôi rời Nhà Trắng vào khoảng 1h30 sáng… Tôi đã phải lái xe một quãng đường dài và buồn bã về nhà.”

Giờ đây, hơn ba thập niên sau, một tổng thống khác của Đảng Dân chủ đang cân nhắc việc đặt cược nhiệm kỳ tổng thống của mình vào tình thế nguy hiểm bằng một cuộc tấn công trực thăng vận ở bên kia thế giới tại một quốc gia mà nhiều người trong Nhà Trắng cùng lắm coi là một đồng minh dối trá. Gates liên tục gây sức ép trong các cuộc họp ở Nhà Trắng khi kế hoạch tiếp tục, “Điều gì xảy ra nếu các anh  gặp tai nạn trực thăng?” “Điều gì sẽ xảy ra nếu người Pakistan phản ứng nhanh hơn chúng ta nghĩ?” “Điều gì sẽ xảy ra nếu mọi người bị ghìm chặt trong khu nhà?” Flournoy nói rằng Gates “không uống Kool-Aid (thức uống giải khát phổ thông của Mỹ). Ông ấy liên tục đặt những câu hỏi khó.”

Khi cuộc tấn công bằng trực thăng của lực lượng SEAL trở nên hợp lý hơn, Flournoy nói rằng bất kỳ cơ hội nào để người Pakistan nhận được cảnh báo ngày càng trở nên xa vời: “Mặc dù cả hai chúng tôi đều có chung lợi ích trong việc bắt bin Laden, mối lo ngại của họ về việc Hoa Kỳ băng qua biên giới để làm điều đó với một cuộc đột kích có thể tạo ra đủ mâu thuẫn khiến chúng ta có thể không nhận được sự hỗ trợ như mong muốn. Suy cho cùng, đây là một mục tiêu quan trọng và có một lợi ích sống còn đang bị đe dọa, cũng như nguy cơ người Pakistan mất quyền kiểm soát thông tin hoặc chọn cách phản đối nó vì những lo ngại về chủ quyền – điều đó quá lớn. Và quyết định được đưa ra là đơn phương tiến hành, nhưng sẽ báo cho họ biết trong thời gian sớm nhất có thể!”

Bây giờ quyết định đã được đưa ra là không cho người Pakistan vào bất kỳ khía cạnh nào của chiến dịch này. Obama và nhóm của ông phải suy nghĩ cách tốt nhất để đối phó với bất kỳ phản ứng nào của họ, đặc biệt là trên thực địa ở Abbottabad, nếu tổng thống bật đèn xanh cho cuộc đột kích. Một quan chức chính quyền cấp cao giải thích: “McRaven, trong một số cuộc họp báo cáo sớm nhất, rất nhạy cảm với ý tưởng rằng chúng tôi không muốn tạo ra, vì thiếu một từ hay hơn, một cơn bão cứt với người Pakistan nếu không cần thiết.” Vì vậy, nếu điều này có thể được thực hiện theo cách không gây ra thương vong cho người Pakistan, dù là dân thường hay lực lượng an ninh, thì đó là giải pháp tối ưu.”

McRaven ban đầu đưa ra một kế hoạch tấn công mà SEAL sẽ tránh được bất kỳ cuộc đọ súng nào với người Pakistan trừ khi điều đó thực sự cần thiết. Nếu lực lượng Pakistan thực sự xuất hiện tại khu nhà, đề xuất của McRaven là lực lượng SEAL sẽ thiết lập một vành đai phòng thủ và giữ chân họ. Trong khi đó, các quan chức cấp cao của Hoa Kỳ sẽ giải thích cho những người đồng cấp Pakistan về tình huống tình báo liên quan đến bin Laden và lý do cuộc đột kích diễn ra, với hy vọng rằng lực lượng SEAL cuối cùng sẽ có thể rời đi mà không bị cản trở thêm.

Trong kịch bản mà sau khi lực lượng SEAL bị bao vây trong khu phức hợp Abbottabad bởi binh sĩ Pakistan thù địch, đội an ninh quốc gia của Obama đã thảo luận xem ai sẽ là người tốt nhất để thực hiện cuộc gọi giải thích tình hình cho nhân vật quyền lực nhất ở Pakistan, tổng tham mưu trưởng quân đội, Tướng Ashfaq Parvez Kayani. Khi cuộc thảo luận này diễn ra mà không có giải pháp dứt khoát, rõ ràng là Obama không hề thoải mái với kịch bản này. Ông chỉ thị cho McRaven: “Điều quan trọng nhất là bảo vệ lực lượng của chúng ta chứ không phải để làm cho người Pakistan hài lòng”. “Tôi muốn anh phải lập kế hoạch xử lý một tình huống để tìm cách thoát ra. Anh phải có khả năng đối mặt trước sự phản đối kịch liệt của người Pakistan mà vẫn thoát ra được an toàn cùng với tất cả người của mình.”

Sự cố Raymond Davis đã giúp định hình suy nghĩ của những người đang cân nhắc phương án đột kích. Điều gì sẽ xảy ra nếu thay vì một nhà thầu CIA phải ngồi tù, bạn lại có khoảng hai chục chiến sĩ SEAL của Hải quân bị Pakistan giam giữ vì họ không có đủ hỏa lực để tìm đường thoát thân?

Obama không đi sâu vào chi tiết chiến thuật về nơi đặt trực thăng Chinook chở lực lượng dự phòng, cũng như không đề cập phải bổ sung thêm bao nhiêu lính SEAL cho lực lượng tấn công; ông ta chỉ nói với McRaven rằng lực lượng này phải có khả năng chiến đấu để thoát ra. “Đó là một sự thay đổi cơ bản, bởi vì Bill McRaven nghĩ rằng mình đang mang lại những gì mọi người mong muốn, đó là cách tiếp cận ‘đừng làm phiền lòng người Pakistan’,” một quan chức chính quyền cấp cao cho biết. McRaven quay lại bàn giấy  và trở ra với nhiều cách khác nhau có thể bảo vệ đội tấn công, đặc biệt có lực lượng phản ứng nhanh được triển khai sâu vào Pakistan, thay vì trực thăng đóng tại biên giới Afghanistan-Pakistan như kế hoạch trước đó. Mullen nói, “Obama là người đã đưa Chinook-47 vào. Ông ấy là người đã nói, ‘Không có đủ quân dự phòng.’”

Mullen, người đã đến thăm Pakistan 27 lần khi ông còn là chủ tịch Bộ tham mưu Liên quân, đã nhiều lần nói với người đồng cấp của mình, Tướng Kayani, “Nếu chúng tôi biết mình có thể tìm thấy Số Một hoặc Số Hai thì chúng tôi sẽ tóm chúng. Chấm hết. Và chúng tôi sẽ đơn phương tóm chúng. Chấm hết.”

Vào ngày 11 tháng 4, Panetta gặp Trung tướng Ahmad Shuja Pasha, người đứng đầu cơ quan tình báo quân sự đầy quyền lực của Pakistan, ISI, tại trụ sở CIA. Pasha đã tạo dựng mối quan hệ cá nhân với Panetta – gọi ông ta bằng tên, Leon, và từng mời ông ta đến nhà ăn tối với vợ khi Panetta đến thăm Pakistan. Lần này Pasha đã phàn nàn gay gắt về mức độ hoạt động của CIA đang diễn ra ở Pakistan, mà vụ Raymond Davis là nổi bật. Pasha nói, “Anh có quá nhiều nhân viên CIA ở đất nước tôi, và tôi không quan tâm họ là nhân viên an ninh hay nhân viên phụ trách tình huống hay nhà phân tích. Có quá nhiều người.” Pasha gọi cuộc gặp là một “trận võ mồm.” Panetta mô tả nó bằng những từ ngữ nhẹ nhàng hơn, nhưng nó củng cố quyết tâm của ông là giữ cho người Pakistan đứng ngoài cuộc đột kích bin Laden, và nó làm tăng áp lực lên Cơ quan phải hành động nhanh chóng vì rõ ràng là ISI hiện đang bắt đầu trấn áp các hoạt động của CIA ở Pakistan.

Trong khi Nhà Trắng tiếp tục tranh luận về các phương án hành động khác nhau trong suốt 5 ngày  đầu tháng 4, Đội SEAL từ Biệt Đội Đỏ DevGru bắt đầu hoạt động diễn tập trên mô hình khu nhà mục tiêu với quy mô thực tế tại một cơ sở bí mật nằm sâu trong rừng Bắc Carolina. Họ luyện tập trên một bản sao rộng một mẫu Anh của khu nhà Abbottabad, nhanh chóng nhảy từ trực thăng Black Hawks (Diều hâu Đen) xuống sân của khu nhà và mái của tòa nhà chính. Những buổi diễn tập này được quan sát bởi tổng chỉ huy Tác chiến Đặc biệt, Đô đốc Eric Olson, một người nói tiếng Ả Rập chín chắn và cựu lực lượng Hải quân SEAL, và bởi Mike Vickers từ Lầu Năm Góc, Đô đốc McRaven và Jeremy Bash của CIA. Cuộc diễn tập diễn ra vào ban ngày và không bao gồm bài tập lái trực thăng tới Abbottabad mà chỉ tập trung vào những gì đội SEAL sẽ làm “tại mục tiêu”.

Cuộc đột kích sẽ sử dụng các máy bay trực thăng “tàng hình” mà Cartwright đã đề xuất sử dụng, khiến chúng ít nhiều trở nên vô hình trước radar Pakistan. Tuy nhiên, một trong những nhược điểm chính của cuộc đột kích là cư dân trong khu nhà có thể bị bất ngờ trước âm thanh của những chiếc trực thăng đang đến gần. Ngay cả với các thiết bị khử tiếng ồn trên trực thăng tàng hình Black Hawk, chúng vẫn phát ra âm thanh rất lớn khi chúng bay ở khu vực lân cận. Bằng cách sử dụng đồng hồ bấm giờ, những  quan sát viên nhận thấy rằng họ có thể nghe thấy “chỉ dấu âm thanh” của trực thăng khi máy bay cách mục tiêu khoảng một phút. McRaven đã lưu ý rằng thời gian có thể kéo dài khoảng hai phút vì điều kiện gió sẽ ảnh hưởng đến cách âm thanh truyền đi.

Trong buổi diễn tập, hai chiếc trực thăng bay về phía bản sao tòa nhà, thả các chiến sĩ SEAL trong 90 giây và nhanh chóng biến mất. Một cách có phương pháp, SEAL  luyện tập cách càn quét khu nhà và khi họ đã hoàn thành, khoảng mười phút sau, trực thăng lại lao vào đón họ.

Trong thập niên kể từ vụ 11/9, lực lượng SEAL đã thực hiện hàng trăm cuộc “phá hủy” tòa nhà trong môi trường thù địch và đã gặp phải khá nhiều loại bất ngờ có thể xảy ra: phụ nữ có vũ trang, những tên mặc áo khoác tự sát giấu dưới bộ đồ ngủ, quân nổi dậy ẩn náu trong các “hố nhện” và thậm chí cả những tòa nhà gài đầy đủ chất nổ. Lực lượng SEAL phải biết rằng mình có thể gặp bất kỳ  loại đe dọa nào tại khu phức hợp Abbottabad. Kết quả là, cái được gọi là “phương án McRaven” liên tục được thử nghiệm mô phỏng, một quy trình chính thức của SEAL nhằm xác định những sai sót tiềm ẩn trong kế hoạch. Michèle Flournoy nhớ lại: “McRaven có một bản sao lưu cho mọi lỗi có thể xảy ra, một bản sao lưu cho lỗi của bản sao lưu và một bản sao lưu cho lỗi của bản sao lưu dự phòng. Đó là một tập hợp các kế hoạch nhiều lớp”.

Khi các chiến sĩ SEAL trong đội tấn công cuối cùng được thông báo mục tiêu của họ là ai, họ reo hò vang dội; không có sự mơ hồ về mục đích, sứ mệnh, hoặc  cam kết của những con người đảm nhận nó.

Các đội SEAL lại diễn tập trong một tuần vào giữa tháng 4, trên vùng sa mạc cao ở Nevada, nơi mô phỏng các điều kiện nắng nóng và độ cao 4000 bộ của Abbottabad. Lần này họ diễn tập toàn bộ sứ mệnh từ khi cất cánh vào ban đêm cho đến khi trở về căn cứ hơn ba giờ sau đó. Một lần nữa, Olson, McRaven, Vickers và Bash lại quan sát buổi diễn tập, lần này có sự tham gia của Đô đốc Mullen. Những quan sát viên được đưa vào một nhà chứa máy bay, nơi lực lượng SEAL thuyết trình màn diễn tập sắp tới của mình trên mô hình bìa cứng của khu nhà. Các đội SEAL sau đó đã bay đi bằng trực thăng trong khoảng một giờ. Khi họ quay trở lại, những khách quan sát đã ra ngoài, hiện đã đeo kính dạ hành, theo dõi họ khi họ tấn công khu nhà. Trong cuộc diễn tập này, điều kiện gió buộc trực thăng phải tiếp cận mục tiêu từ một hướng bất ngờ. Điều này nhắc nhở những người quan sát rằng dù cuộc tấn công có được diễn tập bao nhiêu lần thì ngay giờ phút hành động vẫn có khi phải đưa ra một số quyết định ứng biến. Các cuộc diễn tập cũng cho thấy toàn bộ hoạt động trên bộ có thể được tiến hành trong vòng chưa đầy ba mươi phút – khoảng thời gian mà Lầu Năm Góc đã xác định rằng SEAL sẽ được hưởng trước khi bị lực lượng an ninh Pakistan xuất hiện can thiệp.

Mullen rất tin tưởng vào McRaven, người mà ông đã biết từ khi viên sĩ quan trẻ còn là đại úy hải quân một thập niên trước. Vào thời điểm đó, McRaven đã nhận được nhiều lời khen ngợi về công việc của mình tại Nhà Trắng của Bush. Với tư cách là Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân,  trong những chuyến viếng thăm thường xuyên đến Afghanistan, Mullen luôn nhớ ghé thăm trung tâm điều hành JSOC tại Căn cứ Không quân Bagram, ngoại ô Kabul, thường vào khoảng nửa đêm, khi các nhiệm vụ của SEAL đang diễn ra sôi nổi. Do đó, Mullen có mức độ tin cậy cao vào các kỹ năng của SEAL, điều này đã được khẳng định lại khi ông quan sát buổi diễn tập của họ về cuộc đột kích Abbottabad. Mullen giải thích: “Nếu tôi định cử ai đó đến để chết, thì tôi muốn biết càng nhiều về chuyện đó càng tốt. Tôi cũng có cơ hội nhìn thẳng vào mắt những người chiến sĩ đó. Từng người một. Cá nhân tôi tôi cũng cảm thấy có nghĩa vụ phải tìm hiểu nhiều nhất có thể. Vì vậy, khi bạn ngồi quanh bàn với tổng thống, tôi có thể nói, ‘Tôi có sự tự tin và đây là lý do. Đây là những gì tôi đã xem. Đây là những thông tin chi tiết.’ “

Sau buổi diễn tập, McRaven tới Nhà Trắng để trình bày với Obama và các cố vấn an ninh quốc gia hàng đầu của ông đánh giá của ông về tính hợp lý của sứ mệnh. Tony Blinken nói về McRaven, “Trước hết, việc anh ấy được chọn làm trung tâm sẽ giúp ích rất nhiều. Anh ấy trông và nghe có vẻ phù hợp với vai trò, vì vậy anh ấy khơi dậy sự tự tin, nhưng bạn cũng có ấn tượng rất mạnh mẽ rằng đây không phải là một anh chàng khoác lác hoặc khoa trương. Đây là một anh chàng sẽ đưa ra đánh giá rất trung thực của mình, và vì vậy, anh ấy nhận rất nhiều sự tín nhiệm và điều đó cũng tạo ra sự yên tâm rất lớn. Và về cơ bản những gì McRaven nói với chúng tôi là sau khi họ lập mô hình này, thao dượt và diễn tập với nó, anh ấy nói, ‘Chúng tôi có thể đảm đương việc này.’ “

Tại một thời điểm, khi đang phác thảo cuộc đột kích Abbottabad bằng trực thăng cho Obama và nội các chiến tranh của ông, McRaven nói: “Xét về độ khó, so với những gì chúng tôi vẫn làm hàng đêm ở Afghanistan, những gì chúng tôi đã làm ở Iraq, đây không phải là một trong những nhiệm vụ khó khăn nhất về mặt kỹ thuật. Phần khó khăn là vấn đề chủ quyền với Pakistan và việc bay trong thời gian dài trên không phận Pakistan.”

Khi kế hoạch đột kích bắt đầu thành hình, các quan chức Nhà Trắng phải suy nghĩ xem điều gì sẽ xảy ra nếu bin Laden bị bắt. Vì bin Laden đã nhiều lần nói rằng y thà chết như một “tử vì đạo” còn hơn bị Mỹ bắt giữ nên kịch bản này được coi là khá khó xảy ra. Năm 2004, cựu vệ sĩ của bin Laden, Abu Jandal, đã nói với tờ báo Al-Quds Al-Arabi, “Sheikh Osama đưa cho tôi một khẩu súng lục…. Khẩu súng lục chỉ có hai viên đạn, cho tôi dùng để giết Sheikh Osama trong trường hợp chúng tôi bị bao vây hoặc ông sắp rơi vào tay kẻ thù để khỏi bị bắt sống.” …. Y sẽ trở thành một vị tử đạo chứ không phải một kẻ bị giam cầm, và máu của y sẽ trở thành ngọn hải đăng khơi dậy lòng nhiệt huyết và quyết tâm của những người theo y.” Trong một đoạn băng đăng lên các trang web Hồi giáo hai năm sau đó, bin Laden khẳng định sẵn sàng tử vì đạo: “Tôi đã thề chỉ sống tự do. Dù có thấy vị đắng của cái chết, tôi cũng không muốn chết mà bị sỉ nhục hoặc bị lừa dối.” Tuy nhiên, nếu bin Laden chịu đầu hàng thực sự, thì theo các quy tắc giao chiến mà SEAL tuân thủ  y sẽ phải bị bắt giam.

Trong trường hợp điều đó xảy ra, người ta đã sắp xếp một nhóm thẩm vấn những tù binh có giá trị cao, bao gồm luật sư, thông dịch viên và những người thẩm vấn có kinh nghiệm, túc trực tại Căn cứ Không quân Bagram ở Afghanistan. Cùng với bin Laden, nhóm này sẽ bay tới tàu sân bay USS Carl Vinson, đang di chuyển ngoài khơi bờ biển Pakistan trên Biển Ả Rập, nơi thủ lĩnh của al-Qaeda sau đó sẽ bị thẩm vấn trong một khoảng thời gian không xác định.

Các nhân vật chính đã gặp lại tổng thống vào ngày 12 và 19 tháng 4. Panetta nói với Obama rằng cộng đồng tình báo đã đạt đến điểm thu hoạch giảm dần đối với những gì họ có thể biết được về khu nhà. Họ nhìn thấy “kẻ rảo bước ” hầu như mỗi ngày nhưng không thể nói chắc chắn đó là bin Laden. Nhưng nếu cố gắng đạt được sự chắc chắn hơn bằng cách sử dụng một người do thám đến gần khu nhà sẽ làm gia tăng đáng kể nguy cơ bị phát hiện. Tony Blinken nói, “Luôn có sự căng thẳng giữa việc muốn biết chắc chắn sự hiện diện của bin Laden với nguy cơ đẩy giới hạn của sự bảo mật đến mức tổn hại đến những gì chúng tôi đang làm.” Tại cuộc họp ngày 19 tháng 4, Tổng thống Obama đã đưa ra quyết định tạm thời về cuộc đột kích của SEAL. Tổng thống hỏi McRaven anh ta cần báo trước bao lâu để bắt đầu chiến dịch McRaven trả lời: “Tôi cần bốn giờ.” Obama nói: “Tôi sẽ cho anh 24 giờ.” Một số quan chức chính quyền cấp trên coi đây là dấu hiệu cho thấy Obama hiện đang nghiêng về việc thực hiện cuộc đột kích.

Tại Nhà Trắng, bí mật cao độ tiếp tục bao trùm kế hoạch  Abbottabad; không quá chục quan chức biết về nó. Ben Rhodes, cố vấn truyền thông chiến lược của Obama, đã nhận thấy rằng trong những tháng qua đã có một loạt cuộc họp diễn ra tại Phòng Tình huống, chủ đề của chúng không được liệt kê trong bản kê khai, và các camera thường bật trong phòng  đã bị tắt. “Tôi không phải là người duy nhất để ý đến loạt cuộc họp này, nhưng không ai muốn nói về điều đó, đúng không, bởi vì bạn không muốn nói về cuộc họp mà bạn không được mời tham gia,” Rhodes nhớ lại. Trong nhiều tháng đã có 24 cuộc họp liên ngành để thảo luận về bức tranh tình báo đang chín muồi tại khu nhà Abbottabad. Những cuộc thảo luận này được mô tả trên lịch những người tham dự là “không phải cuộc họp.” Không có “nhân viên cấp hai” nào có thể tham dự và không có bản ghi nhớ “đọc trước” nào được chuẩn bị, mặc dù chúng là thông lệ cho các cuộc họp các nhân viên an ninh quốc gia.của tổng thống

Đến giữa tháng 4, để phát triển và luyện tập các phương án hành động khác nhau, tập thể những người biết về chiến dịch bin Laden ngày càng phình to, mặc dù tình báo đã từng được phân ngăn tối mật và nhiều người tham gia chỉ  được thông báo vài chi tiết. John Brennan, trợ lý đứng đầu chống khủng bố và cựu giám đốc trạm CIA  của Obama ở Ả Rập Saudi, bắt đầu lập kế hoạch cho khả năng tình báo bin Laden có thể bị rò rỉ, điều đó có nghĩa là phải cho  Rhodes biết chiến dịch bí mật. Rhodes sẽ có thể can thiệp với báo chí nếu điều đó trở nên cần thiết. Rhodes nhớ lại, “Trước đây tôi đã phải nói chuyện với các biên tập viên báo chí, ‘Xin đừng đăng bài này, và đây là lý do.’ Và Brennan cần ai đó biết cách làm điều đó trong trường hợp nó bị rò rỉ.”

Vào ngày 11/9, Rhodes, khi đó mới ngoài 20 tuổi, đang làm việc ở Brooklyn và chứng kiến toàn bộ các tòa tháp của Trung tâm Thương mại Thế giới đang sụp đổ. Anh nhớ lại khoảnh khắc Brennan kể tóm tắt cho anh nghe về vụ bin Laden: “Tôi cảm nhận được sức nặng to lớn của thông tin tôi được biết. Khi bạn làm công việc này, bạn biết được rất nhiều bí mật, nhưng việc này lại khác. Suy cho cùng, đây là Osama bin Laden, và bạn lo lắng về điều đó, bạn hào hứng về điều đó, bạn lo sợ về điều đó. Bạn có khuynh hướng muốn thảo luận điều đó với mọi người, nhưng bạn thực sự phải cảnh giác cao độ để bảo vệ thông tin này.”

Brennan, Rasmussen, thuộc Ủy ban An ninh Quốc gia nhân viên NSC, và McDonough, phó cố vấn an ninh quốc gia của Obama, đã phát triển một “cẩm nang” cho các kịch bản khác nhau có thể xảy ra trước hoặc sau cuộc đột kích

Họ bắt đầu biên soạn nó vài tuần trước khi tổng thống đưa ra quyết định cuối cùng về những việc cần làm ở Abbottabad, bởi vì từ trước đến nay ông đã hướng dẫn họ bằng cách nói, “Hãy tiếp tục chuẩn bị. Tôi chưa đưa ra quyết định, nhưng vẫn tiếp tục thực hiện tất cả các lựa chọn. Và hãy phát triển chúng đầy đủ.” Họ nhận thức được rằng một khi chiến dịch Abbottabad được tiến hành, họ sẽ phải có khả năng chuyển đổi các phương án ngay lập tức và có sẵn các phương án được cân nhắc kỹ lưỡng cho tất cả các hoạt động ngoại giao và tuyên bố công khai cho bất kỳ một trong nhiều tình huống có thể xảy ra ở Abbottabad.

Họ yêu cầu Rhodes giúp họ suy nghĩ về thông điệp chiến lược phù hợp với từng tình huống đó.

Đầu tiên là việc lực lượng SEAL tiến vào khu nhà và hoạt động tương đối sạch sẽ và bắt được bin Laden. Việc đưa ra thông điệp tình huống xảy ra không quá phức tạp.

Kịch bản thứ hai là lực lượng SEAL tiến vào, bin Laden không có ở đó và họ rời đi một cách gọn gàng. Trong trường hợp này, sẽ không có thông điệp nào cả, vì quan điểm của chính quyền Obama là không nói gì, và hy vọng người Pakistan cũng sẽ không nói bất cứ điều gì

Kịch bản thứ ba là lực lượng SEAL tìm thấy bin Laden nhưng lại chạm trán với quân đội Pakistan hoặc rất nhiều dân thường thiệt mạng. Hoặc thậm chí tệ hơn, có đọ súng và thương vong dân thường và bin Laden lại không có mặt ở đó. Điều này sẽ gây ra sự phẫn nộ trong thế giới Hồi giáo và phản ứng chính trị dữ dội ở trong nước. Rhodes nói, “Vì vậy, đối với tất cả các lựa chọn liên quan đến việc ông ta không có mặt ở đó, khi không thể phủ nhận được, rất nhiều công việc đã được xem xét: Chúng tôi sẽ phải giải thích cách chúng tôi nghĩ rằng điều này là đủ tốt để tiến hành? Vì vậy, chúng tôi phải đưa ra một phiên bản rất công khai về tình hình tình báo của mình, bởi vì chúng tôi sẽ phải giải thích tại sao chúng tôi lại chấp nhận rủi ro đáng kinh ngạc này ngay cả khi ông ta không có ở đó.”

Rhodes bắt đầu làm việc với phát ngôn viên CIA George Little, “người truyền tin” khác duy nhất được đọc thông tin tình báo của Abbottabad, để chuẩn bị một phiên bản không thuộc loại mật về vụ bin Laden có thể được cung cấp cho giới truyền thông và công chúng nếu hoạt động ở Abbottabad không cần che giấu nữa. Little, một sĩ quan tình báo cao ráo và đeo kính cận, có bằng tiến sĩ về quan hệ quốc tế , đã soạn thảo một tài liệu dài 66 trang bao gồm các sơ đồ của khu nhà.

Vào giữa tháng 4, John Brennan gọi cho Mike Leiter, giám đốc Trung tâm Chống Khủng bố Quốc gia (NCTC), qua đường dây hội nghị trực tuyến an toàn từ Nhà Trắng và nói, “Mike, chúng tôi muốn ai đó đến và báo cáo cho anh về khu nhà nơi chúng tôi nghĩ có thể là bin Laden.”

“Tôi có thể kể cho ai biết nữa đây?” Leiter hỏi Brennan, che giấu sự khó chịu vì ông chưa được thông báo về diễn biến này sớm hơn.

“Không một ai.”

“Vậy anh tìm tôi làm gì?” Leiter hỏi.

“Tôi chủ yếu muốn anh nghĩ về những mối đe dọa đối với đất nước có thể xảy ra nếu một cuộc đột kích thành công,” Brennan nói.

Mike Leiter là một cựu công tố viên liên bang và phi công hải quân thẳng thắn, nhanh nhẹn. Khi theo học tại Trường Luật Harvard, ông là chủ tịch của Tạp chí Luật Harvard, một vị trí mà Barack Obama đã nắm giữ vài năm trước đó. Trước khi điều hành NCTC, Leiter đã làm việc cho ủy ban quốc hội chuyên kiểm tra sự cố tình báo xung quanh vấn đề vũ khí hủy diệt hàng loạt ở Iraq và đã viết phần lớn báo cáo cuối cùng về vụ đó. Kinh nghiệm đào sâu vào những thất bại của tình báo dẫn đến Chiến tranh Iraq đã làm xám xịt phản ứng của Leiter đối với thông tin tình báo về bin Laden.

“Tôi đã chứng kiến ​​đủ thất bại trên thế giới này nên tôi không còn hào hứng nữa,” ông nói. Ông vẫn còn nhớ khi các quan chức của Cơ quan nói với Obama rằng họ đã bị dồn ép như thế nào để ráng có được đầu mối thực sự về Ayman al-Zawahiri, và hóa ra đó lại là một điệp viên hai mang của al-Qaeda/kẻ đánh bom liều chết, đã giết bảy nhân viên CIA

Sau khi Leiter đã được thông báo đầy đủ, trực giác mách bảo ông rằng có khả năng cao là bin Laden đang sống trong khu nhà này, nhưng có những khía cạnh của tình huống khiến ông băn khoăn. Thật khó hiểu khi không có người bảo vệ ở khu nhà. Và một số phụ nữ và trẻ em sống ở đó thỉnh thoảng đi khắp Pakistan trong thời gian dài để thăm các thành viên trong gia đình. Khi phụ nữ và trẻ em đi từ Abbottabad, họ mang theo điện thoại di động, điều này dường như vi phạm nghiêm trọng các quy tắc  an ninh nghiêm ngặt. của bin Laden.

Trong suy nghĩ của Leiter, vụ bin Laden không hề là một “cú úp rổ”. Leiter cũng không bị thuyết phục bởi mức độ thường xuyên được tuyên bố về những điều xảy ra hoặc không xảy ra tại khu nhà. Một số quan chức nói rằng không có liên lạc qua điện thoại trong và ngoài khu nhà, nhưng khi bạn đi sâu vào chi tiết vụ án, NSA đã tìm thấy những chiếc điện thoại di động mới tại khu nhà. Và Leiter cũng lo ngại về những khoảng trống trong “phạm vi bao phủ” của khu phức hợp. Không có con mắt nào quan sát khu nhà 24/7, hoặc bởi các đặc vụ Pakistan tại thực địa hoặc bởi các vệ tinh do thám ở trên cao.

Vào thứ Bảy, ngày 23 tháng 4, Leiter đến Nhà Trắng để gặp Brennan, liệt kê những lỗ hổng mà mình nhìn thấy và đề nghị ông thành lập một red-team (đội kiểm tra bảo mật hệ thống ngăn cản mọi tấn công mạng) gồm các nhà phân tích, những người sẽ được giao nhiệm vụ đưa ra những lời giải thích khác cho thông tin tình báo đã được tập hợp. Brennan chỉ ra rằng một Red Team gồm các nhà phân tích của CIA đã phân tích dữ liệu. Leiter phản bác rằng những nhà phân tích này đã quá chú tâm vào vụ này để có thể hoàn toàn vô tư.

“Tôi không nghĩ điều đó là đủ nếu điều này thành công hay thất bại,” ông nói với Brennan. “Chắc chắn nếu đây là một thất bại, John, anh cần có một bản ghi chép cho biết rằng việc này đã thực sự được thực hiện tốt. Và ngay cả khi nó thành công, anh vẫn muốn có thể đứng lên và nói, ‘Chúng tôi đã làm điều này rất cẩn thận.’ John, anh không muốn có một ủy ban WMD quay lại và nói, ‘Anh đã không lập red-team cho vụ này.’ Tôi đã viết đề tài đó, John.”

Brennan đồng ý rằng vụ  red-team là một ý tưởng hay và hướng dẫn Leiter, “Hãy nói chuyện với Michael [Morell], và nếu mọi người đồng ý, tuyệt vời. Nếu không, hãy đến nói chuyện với tôi.” Sau đó, Leiter đến gặp Tom Donilon, cố vấn an ninh quốc gia, một luật sư kỷ luật và khắt khe, người luôn ủng hộ Obama tại Hội đồng An ninh Quốc gia. Đóng cửa văn phòng, Donilon hỏi Leiter “Vậy, anh nghĩ sao?” Leiter trả lời: “Điều anh  không thể đoán trước là anh luôn có thể gặp một tai nạn máy bay nào đó. Tôi là một phi công. Bay vào ban đêm ở một địa điểm mới – đó là lúc bạn sẽ gặp vấn đề.” Sau đó, Leiter kể cho Donilon nghe những lo lắng của ông ta về tình huống tình báo. Donilon cũng bối rối trước việc phụ nữ và trẻ em rời khỏi khu nhà và tỏ ra nghi ngờ về tình huống này hơn cả Brennan, người lúc này tin chắc rằng bin Laden đang sống tại khu nhà. Nếu hoạt động này không thành công, Donilon cuối cùng sẽ phải gánh chịu nhiều mũi dùi cho nó; ông ấy rất nhiệt tình với khái niệm red-team.

Leiter cũng ghé qua văn phòng của người bạn Denis McDonough. McDonough, phó cố vấn an ninh quốc gia, từng là cố vấn chính sách đối ngoại của Obama khi Obama còn là thượng nghị sĩ trẻ tuổi của bang Illinois. McDonough bảo với Leiter rằng nếu Obama bật đèn xanh cho hoạt động ở Abbottabad, nó sẽ được lên kế hoạch tiến hành vào cuối tuần tới, vào tối thứ bảy. Chuyện đó xảy ra đúng vào đêm Leiter tổ chức đám cưới với Alice Brown, trước sự chứng kiến ​​của 250 vị khách tại Meridian House, cách Nhà Trắng 15 dãy nhà về phía bắc. “Denis, anh đang đùa với tôi à?” Leiter kêu lên. “Cuối tuần này à? Cuối tuần này à!” McDonough, một người Minnesota lầm lì, đảm bảo với ông rằng mình không đùa.

Thời điểm lý tưởng để thực hiện cuộc tấn công bằng trực thăng vận là khi không có ánh sáng trăng. Điều đó sẽ giúp đảm bảo rằng lực lượng Night Stalkers (Săn Đêm) của Trung đoàn Hàng không Tác chiến Đặc biệt số 160, những phi công sẽ lái trực thăng qua biên giới Afghanistan-Pakistan bằng kính dạ hành (NVG), có thể hoàn thành mà người Pakistan không hay biết. Một đêm không trăng cũng sẽ mang lại lợi thế đáng kể cho SEAL, vì họ sẽ mang kính dạ hành khi xông vào khu nhà. Sẽ không có trăng trên toàn lãnh thổ Pakistan vào thứ bảy tuần sau, ngày 30 tháng 4. Một đêm thứ bảy có vẻ lý tưởng vì đó là thời điểm trong tuần mà CIA quan sát thấy hoạt động quân sự của Pakistan ở mức thấp nhất. Đêm không trăng tiếp theo chỉ đến vào ngày 1 tháng 6 và khi đó thời tiết sẽ nóng hơn đáng kể, điều này có thể ảnh hưởng đến khả năng bay của trực thăng. Càng bức bách hơn, họ càng chờ đợi thì khả năng rò rỉ càng lớn.

Lúc 7 giờ sáng thứ Hai, ngày 25 tháng 4, Leiter nói chuyện với Michael Morell tại CIA. Trước khi Leiter kịp nói đến lý do tại sao họ cần red-team, Morell đã nói, “Chắc chắn rồi, tôi nghĩ đó là một ý tưởng tuyệt vời. Chúng ta cần phải thực hiện nó.” Leiter đã chọn hai nhà phân tích từ Trung tâm Chống Khủng bố Quốc gia với kiến ​​thức sâu rộng về al-Qaeda: Richard (tên giả), người đã có hơn hai thập niên hoạt động chống khủng bố và được tôn trọng rộng rãi trong cộng đồng tình báo, và Rose (tên giả), một nhà phân tích tẩn mẩn ở độ tuổi ngoài ba mươi. Hai nhà phân tích của CIA, không có vai trò gì trong việc phát triển thông tin tình báo về bin Laden, cũng được thêm vào nhóm. Leiter nói với họ rằng họ có 48 giờ để đưa ra các giả thuyết thay thế về việc ai có thể có mặt tại khu phức hợp, được hỗ trợ bởi những lý lẽ tốt nhất mà họ có thể nghĩ ra.

Nhóm của Leiter đã khám phá ba giả thuyết thay thế về khu nhà Abbottabad: Đầu tiên, nó có liên quan đến bin Laden, nhưng hiện tại y không có mặt ở đó. Thứ hai, khu nhà này là nơi ở của một thủ lĩnh al-Qaeda khác chứ không phải bin Laden. Thứ ba, người Kuwait này đã rời al-Qaeda từ lâu và hiện đang làm việc cho một tổ chức tội phạm chưa xác định được danh tính.

Các nhà phân tích nhận thấy rằng giả thuyết đầu tiên có nhiều khả năng xảy ra nhất. Khả năng khu phức hợp này là nơi chứa mục tiêu có giá trị cao (HVT) trong al-Qaeda ngoại trừ bin Laden thì thấp hơn nhiều, bởi vì phó tướng của bin Laden, Ayman al-Zawahiri, được biết là đang không sống ở vùng này của Pakistan, trong khi người Kuwait chưa bao giờ có bất kì mối liên quan nào đến Zawahiri, số các bà vợ và trẻ con trong khu phức hợp cũng không phù hợp với những gì đã biết về gia đình Zawahiri. Hay có thể là một al-Qaeda HVT khác nào đó chưa được cộng đồng tình báo biết đến? Leiter cho rằng điều này là khó xảy ra. “Chúng tôi thực sự tin rằng chúng tôi đã nắm chắc  khá tốt về thông tin tất cả các HVT. Đây là việc mà mọi người đã làm trong suốt mười năm qua.” Khả năng đó là một tên tội phạm không có liên hệ với tổ hợp al-Qaeda sống tại khu nhà này cũng được coi là không thể xảy ra, do có mối liên hệ lịch sử mà người Kuwait có với thủ lĩnh của al-Qaeda.

Vào cuối bài tập này, Richard có mức thấp nhất trong số các nhà phân tích của red-team, với chỉ 40% độ tin tưởng rằng bin Laden đang sống tại khu nhà, trong khi một trong hai nhà phân tích của CIA có mức cao nhất, với ước tính trong phạm vi 60 phần trăm. Tuy nhiên, tất cả các nhà phân tích đều kết luận rằng không có giả thuyết thay thế có khả năng xảy ra như giả thuyết cho rằng chính bin Laden đang có mặt tại khu nhà.

Khi nhóm Red-Team đang hoàn tất công việc của mình vào thứ Tư, ngày 27 tháng 4, Nhà Trắng đã đăng lên mạng giấy khai sinh năm 1961 của tổng thống Obama từ bang Hawaii. Những người cho rằng Barack Obama không phải sinh ra ở Mỹ,  bao gồm cả nhà tỷ phú khao khát công khai Donald Trump, đã đưa ra một vấn đề chính trị liên quan đến quyền công dân của Obama, cho rằng ông thực sự không sinh ra ở Hoa Kỳ, điều này sẽ khiến ông không đủ tư cách trở thành tổng thống. Obama cho biết ông đã công bố tài liệu để cố gắng chấm dứt thái độ “ngớ ngẩn” đối với nơi sinh của mình, điều đang khiến đất nước mất tập trung vào những vấn đề nghiêm trọng hơn. Một ngày trước khi giấy khai sinh của Obama được công bố, các đội SEAL đã rời căn cứ của họ trên bờ biển Virginia để bay tới Căn cứ Không quân Bagram ở Afghanistan.

Michèle Flournoy và Mike Vickers quyết định thực hiện nỗ lực cuối cùng để thuyết phục Robert Gates hỗ trợ cuộc đột kích. Trong văn phòng của Gates ở Lầu Năm Góc, Flournoy và Vickers đã trình bày đầu đuôi với sếp của mình về cuộc đột kích và những rủi ro của nó cũng như các biện pháp đã được thực hiện để giảm thiểu những rủi ro đó. Gates dường như bị thuyết phục, nhưng sau bốn thập niên rưỡi nắm quyền, từ lâu ông đã thành thạo cách không tiết lộ với ai suy nghĩ của mình.

Ở bên kia trái đất, các điệp viên CIA ở Abbottabad đã liên lạc với cấp trên của họ ở Virginia để báo tin rằng vợ của người Kuwait, Mariam, cũng như 4 đứa con của họ, vừa trở về sau một trong những chuyến đi thường lệ quanh Pakistan để thăm viếng thân nhân  và giờ đây tất cả họ đều đã quay lại khu nhà Abbottabad. Một số các quan chức tình báo tiếp tục bối rối về điều này: Nếu bin Laden thực sự ở đó, tại sao y lại mạo hiểm để những người này đến thăm thân nhân của mình?


Bình luận về bài viết này