PHẦN 2: NHỮNG TRẬN HẢI CHIẾN NỔI TIẾNG THỜI TRUNG ĐẠI
Biên dịch: hongsonvh
Trận Sluys
Ngày của trận đánh: 24 tháng 6 năm 1340
Vị trí xảy ra trận đánh: ngoài khơi Sluys, thái ấp của Pháp ở Flanders ( Bây giờ là “Sluis” thuộc Zeelandic Flanders Hà Lan)
Kết quả: Thắng lợi quyết định của Anh, nó đảm bảo rằng Chiến tranh Trăm năm sẽ chỉ diễn ra tại Pháp.
Các bên tham chiến
Vương quốc Anh
Chỉ huy
Edward III của Anh
Sức mạnh
250 tàu
Thương vong và thiệt hại
9 000 người
Vương quốc của Pháp,
Cộng hòa Genova
Chỉ huy
Hugues Quiéret,
Nicolas Béhuchet
Sức mạnh
Hơn 200 tàu
Thương vong và thiệt hại
20 000 người (Theo Châu Âu: Một biên niên sử – Norman Davi)
Hầu hết các tàu bị bắt giữ
Trận haỉ chiến Sluys là trận đánh diễn ra trong ngày 24 tháng 6 năm 1340, một trong những cuộc xung đột mở đầu của Chiến tranh Trăm năm. Ý nghĩa quan trọng của trận này là hạm đội của Pháp bị hủy diệt gần như toàn bộ, và âm mưu tiến hành một cuộc xâm lược của người Pháp sang nước Anh là không thể thực hiện được, và đảm bảo rằng phần còn lại của cuộc chiến trăm năm chỉ diễn ra chủ yếu là tại Pháp. Kết quả của trận chiến đã cho phép vua Anh Edward III thoải mái chuyển quân lính của mình từ nước Anh sang tấn công các thành trì của Pháp mở đầu cho cuộc chiến trăm năm.
Chiến tranh Trăm năm là một cuộc xung đột kéo dài từ 1337-1453 giữa hai hoàng gia để chiếm ngôi vua Pháp, bị bỏ trống bởi dòng trưởng Capetian của vua Pháp không có người nối dõi. Hai đối thủ chính là Nhà Valois và Nhà Plantagenet, còn được gọi là Nhà Anjou. Nhà Valois tuyên bố danh hiệu Vua của Pháp, trong khi Nhà Plantagenets từ Anh cũng tuyên bố là vua của Pháp và Anh. Vị vua dòng Plantagenet người cai trị Vương quốc Anh từ thế kỷ 12 có gốc rễ của Pháp từ các vùng Anjou và Normandy. Lính Pháp chiến đấu trên cả hai phe, đặc biệt là người Bourgogne và Aquitaine ủng hộ kịch liệt cho phía nhà Plantagenet.
Cuộc xung đột kéo dài 116 năm nhưng đã bị ngắt quãng bởi một số các thời kỳ hòa bình, trước khi nó cuối cùng kết thúc bằng việc nhà Plantagenets bị trục xuất khỏi Pháp (ngoại trừ hạt Calais). Cuộc chiến tranh là một chiến thắng cho nhà Valois, người đã thành công trong việc phục hồi lại từ những chiến thắng ban đầu của Nhà Plantagenet và đuổi họ ra khỏi phần lớn đất đai của Pháp vào năm 1450.
Cuộc chiến tranh được trong thực tế, là một loạt các cuộc xung đột và thường được chia thành ba hay bốn giai đoạn: cuộc chiến của các Edward (1337-1360), cuộc chiến của các Caroline (1369-1389), cuộc chiến của các Lancastor (1415-1429), và giai đoạn vận may của người Anh đã biến mất sau sự xuất hiện của Jeanne d’Arc (1412-1431). Một số xung đột đương đại châu Âu khác trực tiếp liên quan tới cuộc xung đột giữa Anh và Pháp: chiến tranh giành quyền thừa kế Breton , nội chiến Castilian, và Chiến tranh của hai Peter. Thuật ngữ “Chiến tranh Trăm năm” là một thuật ngữ được sáng tạo sau đó bởi các nhà sử học để mô tả loạt các sự kiện.
Cuộc chiến có ý nghĩa lịch sử của nó đến một số yếu tố. Mặc dù chủ yếu đây là một cuộc xung đột của giai cấp phong kiến, chiến tranh đã tạo ra những ý tưởng về tinh thần dân tộc của cả Pháp và Anh. Về mặt quân sự, nó thấy việc giới thiệu các loại vũ khí mới và chiến thuật mới, và sự xói mòn của hệ thống cũ của quân đội phong kiến luôn bị chi phối bởi kỵ binh nặng. Các quân đội thường trực đầu tiên ở Tây Âu kể từ thời Đế quốc Tây La Mã được sử dụng trong chiến tranh, do đó thay đổi vai trò của những nông dân. Đối với tất cả điều này, cũng như khoảng thời gian quá dài của cuộc xung đột, nó thường được xem như là một trong những cuộc xung đột lớn nhất trong lịch sử chiến tranh thời Trung cổ. Tại Pháp, quân xâm lược người Anh, nội chiến, dịch bệnh, nạn đói và sự cướp giựt của lính đánh thuê (đã chuyển sang băng đảng) làm giảm dân số xuống còn hai phần ba. Bất chấp sự mất mát về lãnh thổ trên lục địa, nước Anh vẫn tồn tại như một quốc đảo, như là một thực tế và nó tiếp tục phát triển trong hơn 500 năm tiếp theo.
Bối cảnh lịch sử trước trận đánh
Câu chuyện có lẽ bắt đầu kể từ năm 1066, khi William, Công tước của Normandy, Dẫn đầu một Cuộc xâm lược vào nước Anh. Ông ta đánh bại vua nước Anh Vua Harold II tại Trận Hastings, và tự mình lên ngôi vua của Anh, nhưng ông vẫn là Công tước xứ Normandy và vẫn là một chư hầu của vua Pháp.
Sau đó vài chục năm nước Anh xảy ra nội chiến giữa vua Stephen và chị gái mình nứ hoàng Matilda ( thời Anarchy 1135-1154), đều là cháu của William kẻ chinh phục, chiến thắng thuộc về nữ hoàng Matilda và chồng của bà chính là Geoffrey của xứ Anjou giòng Angevin nước Pháp, hay còn gọi là Geoffrey V Plantagenet (1129?”1151), và con trai của họ chính là Henry I vua của nước Anh, nhà vua Anh đầu tiên dòng Plantagenet hay còn gọi là Anju.
Chưa hết, lại còn tỉnh Aquitaine được sát nhập vào để quốc Pháp năm 1137 sau khi nữ Bá tước Eleanor của Aquitaine kết hôn Louis VII của Pháp, Nhưng cuộc hôn nhân của họ đã bị hủy bỏ năm 1152 ( có chuyện là bà này chê ông chồng người Pháp hôi mồm) và sau đó chồng mới của Eleanor lại là Henry II của Anh vào năm 1154, vùng này đã trở thành một sở hữu của người Anh.
Tiếp nữa Vua Phillip IV (1285 – > 1314) nhánh trưởng của dòng Capetian – Pháp có bốn người con, nhưng ba người con trai đều chết trẻ, người con gái duy nhất kết hôn với vua Edward II của Anh và con của họ chính là vua Edward III (1327 – >1377)
Sau cái chết của Vua Phillip IV nhánh trưởng của dòng Capetian không còn người nối dõi, vua Edward III của Anh đòi hỏi quyền thừa kế vương vị nước Pháp nhưng các quý tộc và người thị dân Pháp không bao giờ chấp nhận một ông vua ngoại quốc và họ đã vin vào luật cổ Salic để tước bỏ quyền thừa kế của Edward III và xuy tôn Phillip Valoi, nhánh thứ của dòng Capentian lên làm vua Pháp ?” Phillip VI (1293 – >1350) ( như vậy Phillip Valoi là con của Charle Valoi, cháu gọi Phillip IV là bác ruột và là chú cháu với Edward III của nước Anh)
Tuy là tình họ hàng nhưng có lẽ vì quyền lợi quốc gia nên Phillip VI và Edward III luôn xung đột với nhau, nhũng mũi vào chuyện của nhau, ví dụ: trong cuộc đấu tranh giành quyền thừa kế tỉnh Brittany thì Edward III ủng hộ bá tước De Montford nhưng Phillip VI lại ủng hộ cho Nhà Bloi, sau khi Monfort bị đánh bại thì Phillip VI luôn nhận được mối thù khôn nguôi từ Edward III, hoặc sau khi Edward III xâm lược và đánh bại người Scotland thì Phillip VI đã chứa chấp David II vua của Scotland làm điên đầu Edward, không chỉ có vậy hai vị vua thi nhau dung nạp những kẻ mà người kia hết sức căm ghét và tìm cách truy đuổi như trường hợp Edward III cung cấp nơi ẩn náu Robert III của Artois người mà Phillip VI vô cùng căm ghét.
Tóm lại vì những lý do về lãnh thổ như Edward III muốn đòi hỏi quyền cai trị của mình lên các tỉnh mà mình có quyền thừa kế như Normandi, Anju, Aquitaine ?thậm chí còn đòi cả ngôi báu của Pháp quốc. Còn Phillip VI thì không muốn có sự hiện diện của người Anh tại lãnh thổ của mình nên vào năm 1336 họ đã trở thành kẻ thù mặc dù chưa tuyên chiến. Phillip VI thì làm ngơ cho bọn cướp biển người Pháp cướp bóc các làng mạc ven biển của nước Anh và thậm chí còn tập trung một hạm đội lớn tới hơn 200 tầu chiến và hàng chục nghìn lính vũ trang ở Sluys, một thái ấp của ông ta ở Flanders với mục đích là xâm lược nước Anh, Trong khi đó Edward III cũng chẳng vừa, ông ta tập hợp một hạm đội đông không kém để tập kích vào Sluys tiêu diệt hạm đội Pháp ( tiên hạ thủ vi cường) thể là trận Sluys bắt đầu. Nhưng trước hết ta nên quay lại xem sức mạnh hải quân của cả hai bên.
Sức mạnh của người Pháp
Các giai đoạn đầu tiên của cuộc Chiến tranh Trăm năm được đánh dấu bởi trận chiến diễn ra trên biển giữa các cướp biển người Pháp và Anh, mỗi bên đều hy vọng thu được các món hời và tiêu diệt hệ thống cung cấp của kẻ thù. Nhưng đã có trong 1338 Philip VI đã sử dụng một hạm đội Hòang gia lớn, chủ yếu là các tầu Galley thuê từ Genoa ( đây là một hành động hoàn toàn đúng đắn vì người Pháp cho tới lúc đó chỉ hoàn toàn quen đánh trên bộ, họ có thể có nhiều hiệp sỹ tài giỏi, rất mạnh về đấu kiếm múa thương, nhưng cho tới lúc đó người Pháp chưa bao giờ nổi tiếng về mặt đánh thủy – Trong khi đó người Genoa là người thạo thủy chiến nhất lúc bấy giờ ở Địa Trung Hải, hạm đội của người Genoa đã từng chiến thắng trước người Pisa, Venezia, Arập … những người cũng rất giỏi về thủy chiến ). Ông tung ra một số cuộc tấn công tàn phá các cảng phía Nam nước Anh, phá hủy một phần các thị trấn trong đó có Portsmouth, Southampton và Hastings. Những cuộc tấn công có hiệu quả cắt đứt con đường cung cấp vua Edward III về của cải, hàng hóa giữa lục địa nước Anh, và đã phá hủy, thu giữ một số tàu, trong đó hai tầu lớn của riêng vua Edward III chiếc Cog Edward và Christopher, Philip và các cố vấn của ôngtừ đó tổ chức một cuộc xâm lược vào chính nước Anh năm 1339, chỉ có một cơn bão mới đánh tan hạm đội của Philip VI là làm hỏng các kế hoạch của họ.
Từ lúc này, vị trí của hải quân Pháp đã nhanh chóng xuống dốc. Lính đánh thuê Genoese chiến đấu rất chuyên nghiệp và tạo ra hàng loạt những thành công rất ấn tượng, nhưng họ lại bắt đầu quay ra đánh lẫn nhau sau khi biết đô đốc của riêng họ, Ayton Doria, đã cố gắng để lừa gạt không trả tiền lương cho. Các tay chèo nổi loạn, chiếm thu giữ một số các tầu Galley và căng buồm chạy về nhà, sự kiện này làm Philip VI mất hai phần ba hạm đội của mình. Đến cuối năm 1339 phần còn lại của các đội chèo Ý đã bỏ về nhà. Việc này làm cho Pháp chỉ còn 22 tầu Galley trong hạm đội hoàng gia của mình, nhưng chưa hết một cuộc tấn công của người Anh vào Boulogne đầu năm 1340 đã đốt cháy 18 chiếc ở chính nơi họ trú đông.
Không có lực lượng chiến đấu thiện chiến này, người Pháp có vẻ đã mất đi sự tự tin và vào đầu năm 1340 đã quyết định một chính sách phòng thủ, ngăn chặn sự xâm nhập của các hạm đội xâm lược của Anh đến bờ Flemish nơi người Anh dự định tiếp đất một cách an toàn, kể từ Flanders là đồng minh của Anh. Việc mà người Pháp lúc này có thể thực hiện được là thu thập các tầu buôn vũ trang, và thành lập một hạm đội được đặt tên một cách hoành tráng ?đại quân của Đại Dương?. Hạm đội này bao gồm đến 200 tàu, chi phí để trang bị cho chúng và thuê thủy thủ đoàn được tính vào các khoản tiền thuế nặng nề đánh vào xứ Normandy.
Sức mạnh của người Anh
Trong khi đó, một hạm đội xâm lược của Anh đã được tập hợp. Ban đầu có khoảng 190 tàu, hầu hết trong số họ đều là tầu tư nhân và bị ép vào phục vụ cho hoàng gia () . Hạm đội này được chỉ huy bới cá nhân của Edward III, khởi hành đến Flanders vào ngày 22 tháng 6 năm 1340. Một ngày sau hạm đội của Edward III hợp nhất với một phân đội tầu của mình do Sir Robert Morley chỉ huy, độ 50 chiếc, ở bờ biển Flanders bởi đô đốc của mình. Họ dường như đã không muốn chạm trán với hạm đội Pháp tại cửa sông Zwyn hai ngày sau đó, Người Pháp thì xác định là giữ không cho người Anh đổ bộ lên đất liền. Ở thời điểm này, Edward không còn sự lựa chọn nào khác, phải tiến về phía trước. Rút lui vào lúc này có thể sẽ dễ dàng biến thành một thảm họa đối với người Anh, tàu Pháp có thể tiêu diệt từng chiếc, từng chiếc tầu Anh một khi họ dàn trải ra trên cửa biển, và cũng vì danh dự mà nhà vua Edward III không bao giờ muốn đề cập đến việc rút lui.
Những lợi thế của Hạm đội Anh so với người Pháp
– Cho đến lúc đó người Anh cũng không có một hạm đội tầu chiến chuyên nghiệp mà họ phải vơ vét các tầu buôn để thành lập hạm đội, nhưng rất may là người Pháp cũng không hơn gì khi các đội tầu người Genoa bỏ đi.
– Những đồng minh của người Anh ( người Flamish) hoạt động rất có hiệu quả, họ cắt đường rút và tiêu diệt một phần đáng kể binh lính Pháp, nhưng đồng minh của người Pháp, người Genoa ( thành phần chính của hạm đội) đã bỏ đi trước trận đánh.
– Người Anh có chiến thuật tốt hơn, khi tiến sát tới Sluys họ không tung quân vào chiến đấu ngay mà neo ở phía ngoài một thời gian để nghỉ nghơi, trinh sát và đợi đến chiều tối, khi thủy triều lên — > họ được lợi nước và gió, mới tung ra tấn công.
– Thái độ của người Anh là có ý đồ rõ ràng, họ kiên quyết chấp nhận rủi ro, thậm chí có cả tư tưởng phục thù vì những quấy rối do người Pháp gây cho họ ở các cảng miền Nam nước Anh trước đó. Trong khi đó các đô đốc Pháp vừa mắc sai lầm về đội hình chiến thuật lại không quả quyết tiến ra biển giao chiến với người Anh, mục tiêu tối thượng của họ chỉ là ngăn không cho quân Anh đổ bộ lên bờ mà thôi.
Trận đánh
Bản đồ minh họa trận Sluys
Trận Sluys bắt đầu vào ngày 24 Tháng Sáu 1340. Người Pháp đã quyết định chọn một chiến thuật chiến đấu, mà chính nó cho thấy rằng các đô đốc Pháp, Hugh Quieret và Nicholas Behuchat, không tin tưởng khả năng chiến đấu của tầu của họ và trên tất cả là lo ngại rằng người Anh có thể luồn đi và đổ bộ quân đội của lên đất liền. Vì vậy, các đô đốc Pháp quyết định chặn hoàn toàn cửa sông bằng cách chằng các tầu với nhau thành ba hàng dài dọc trên cửa sông cạn, rộng khoảng 5km (3 dặm).
Rõ ràng là hầu hết các chỉ huy có kinh nghiệm của hải quân Pháp đã chống lại cách bầy trận trong một không gian hạn chế như vậy, không có khoảng không để vận động một cách linh hoạt và gió ngoài biển thổi mạnh vào cửa sông, nhưng các đô đốc Pháp đã không lắng nghe. Các sử gia người Flander nói rằng các tàu của Pháp được gia cố bằng các công sự bằng gỗ nên trông như một hàng dài của các lâu đài. Chiến lược này được người Pháp sử dụng có thể là do thiếu tầu chiến hoặc, thiếu thông tin về hạm đội Anh đang tiến tới để tiêu diệt họ hoặc thiếu thận trọng và tự tin. Một số nhà sử học đã đặt câu hỏi liệu người Pháp thực sự có buộc chuỗi tàu của họ với nhau, chiến thuật này có thể được mô tả bởi các sử gia Livy và có thể các sử gia thời Trung cổ đã vay mượn chúng từ quá khứ thay vì quan sát được là như vậy. Đối với tàu buồm trong một khoảng không gian hạn chế và bị ảnh hưởng của thủy triều thì quả thật chỉ có điên rồ mới sử dụng chiến thuật này . Thật vậy, các tàu Pháp đã sớm tìm thấy khó khăn của chính mình, trôi về phía đông và va chạm mạnh vào nhau. Các tàu dường như đã bị mất đội hình vào thời điểm này, nhưng người Pháp chỉ nhìn thấy những rối loạn nghiêm trọng của mình khi người Anh bắt đầu tấn công, người Anh tìm cách lợi dụng gió và thủy triều bằng cách không xông lên tấn công ngay mà chờ cho đến khi buổi chiều sớm khi mặt trời sẽ không còn có trong mắt họ. Người Pháp đã cố gắng để lách về phía tây khi trận đánh bắt đầu, điều này chỉ càng khiến sự lầm lẫn thêm tai hại.
Các tầu của Anh tiến vào theo ba hàng, với các con tàu lớn nhất phía trước, bao gồm cả chiếc kỳ hạm Thomas của Edward III. Khoảng cách lại một lần nữa là lợi thế, và người Anh có một vũ khí để khai thác nó tối đa – một đội quân lớn sử dung trường cung, thường chỉ chiến đấu trên mặt đất. Mặc dù họ thường bị lãng quên bởi mọi người chỉ đam mê tinh thần hiệp sỹ, nhưng những cung thủ trường cung đã được sử dụng trong trận này tại Sluys, và thậm chí sau này cả ở những trận nổi tiếng hơn nữa như là Crécy,
Poitiers, và cả Agincourt người ta luôn thấy được hiệu quả tàn phá của loại vũ khí này của người Anh. Các lính thủy Pháp phần lớn trang bị nỏ, và nỏ sẽ chậm và yếu hơn so với trường cung của Anh rất nhiều trong những thời khắc quan trọng như khi các tàu cập sát mạn vào nhau, và bên cạnh đó có lẽ lực lượng của Pháp đã yếu đi nhiều kể từ khi họ mất phần lớn lính cung thủ người Ý đánh thuê của họ. Người Pháp đã làm tất cả những gì họ có thể để chống trả như, bao gồm buộc những thuyền đầy đá vào cột buồm của họ và bố trí người trên cột buồm để quăng đá vào đầu đối phương… Tuy nhiên vào thời gian đó, nhiều đội thủy thủ của Pháp quá mỏng không đủ lực lượng để chiến đấu một cách có hiệu quả.
Trận chiến diễn ra gay gắt, Edward III bị bắn vào đùi với một mũi nỏ, nhưng ông vẫn tiếp tục chiến đấu một cách hung tợn từ khoảng 3:00 PM cho đến gần 10:00 PM (có hai tàu tiếp tục chiến đấu cho đến khi bình minh kế tiếp). Người Anh đã tiêu diệt hết hàng tầu đầu tiên của Pháp một cách chậm rãi, và từng bước làm cho hàng thứ hai, bị dúm lại với nhau vì vậy mà các tàu của Pháp không thể cơ động uyển chuyển được. Một lực lượng lớn người Fleming, tập hợp trên bờ phía tây, sau đó đổ xuống hàng tầu thứ ba từ phía sau, bên cạnh việc giết hại nhiều lính Pháp, những người đang cố gắng để bơi vào bờ biển. Kết quả đó là một chiến thắng lớn của người Anh. Không có bắt tù binh, người Anh giết sạch những thủy thủ Pháp bị bắt.
Khoẳng 16.000 và 20.000 lính Pháp chết trận ngày hôm đó. Trong số người chết có cả hai đô đốc. Behuchat thiệt mạng trong cuộc giao tranh; Quieret bị bắt để đòi tiền chuộc, nhưng khi người Anh phát hiện ra rằng ông đã chỉ huy các cuộc tấn công của Pháp chống lại các cảng phía Nam Anh, Edward III đã ra lệnh treo cổ ông ta từ cột buồm của tàu riêng của mình. Sau khi đánh kết thúc hạm đội của vua Edward vẫn ở neo lại ở đó vài ngày, và do đó có thể cho ra rằng hạm đội của ông đã phải chịu rất nhiều tổn thất.
Theo một nguồn tin, không có một vị bá tước của Pháp dám thông báo với vua Phillippe VI về thảm họa này, cho đến cuối cùng một thằng hề của ông tiết lộ tin này bằng cách nói: “Hiệp sĩ của chúng ta dũng cảm hơn của bọn Anh”, Phillippe trả lời; “Làm thế nào vậy?” thằng hề của của ông ta trả lời ” bọn Anh không dám nhảy xuống biển mà vẫn mặc giáp trụ đầy đủ”.
Hậu quả của trận đánh
Đây là một trận hải chiến lớn nhất trong lịch sử châu Âu thời Trung Đại mà số người thiệt mạng của cả hai bên lên tới gần 30.000 người, ngoài việc hạm đội Pháp bị tận diệt thì hậu quả nghiêm trọng hơn của trận đánh này là quân Anh thoải mái vận chuyển quân đội sang Pháp để tiếp tục cuộc chiến mà không bị cản trở.
Cuộc chiến tranh trăm năm kéo dài tới 116 năm thì có lẽ phải đến 80 -> 90 năm người Anh chiếm ưu thế trước người Pháp. Chỉ có mấy năm dưới sự chỉ huy của nguyên soái Bertrand du Guesclin (1320?”1380) thì người Pháp mới gắng gượng được đôi chút, và nhất là khi có sự xuất hiện của Joan of Arc )1412?”1431) thì quân Pháp mới lật được thế cờ và lần lần đuổi quân Anh ra khỏi bờ cõi được.
Trận Lepanto – trận đánh lớn nhất và cuối cùng của các tầu Galley
Ngày: Ngày 07 tháng 10 năm 1571
Vị trí: Vịnh Patras, Biển Ionia
Kết quả: Liên minh thần thánh chiến thắng
Các bên tham chiến
Liên minh Thần thánh gồm có:
Tây Ban Nha
Cộng hòa Venice
Giáo hoàng La Mã
Cộng hòa Genova
Công quốc Savoy
Hiệp sĩ của Malta
Chỉ huy
Don John của Tây Ban Nha ( Hình như bác này chính là tay Đông Joăng đó các bác ạ)
Sebastiano Venier – Tư lệnh hải quân Venezia
Marcantonio Colonna – Chỉ huy Hải quân Ý
Sức mạnh
202 tầu Galley
6 galleasses
76 khác thuyền buồm
Súng đại bác 1.815 khẩu (ước tính)
Thương vong và thiệt hại
7.500 người chết
17 tàu bị mất.
Đế quốc Ottoman
Chỉ huy
Ali Pasha ?
Sức mạnh
208 tầu Galley
46 galliots
23 fuste
750 súng đại bác (ước tính)
Thương vong và thiệt hại
20.000 người chết, bị thương hoặc bị bắt
137 tàu bị bắt giữ
50 tàu chìm
10.000 Nô lệ Kitô giáo chèo thuyền galley được giải phóng
Trận Lepanto diễn ra vào ngày 7 tháng 10 năm 1571 khi một hạm đội tầu galley của Liên minh Thần thánh, một liên minh của Tây Ban Nha (bao gồm cả vùng lãnh thổ của Napoli, Sicily và Sardinia), Cộng hòa Venice, Giáo hoàng (dưới Thánh Giáo hoàng Piô V), Cộng hòa Genova, Công quốc Savoy, Hiệp sĩ Cứu tế và những và những thành phố Kitô giáo khác, quyết tâm đánh bại đội tàu Galley chính của Hải quân Đế quốc Ottoman.
Trận hải chiến đấu diễn ra trong 5 giờ đồng hồ ở rìa phía bắc của Vịnh Patras, ngoài khơi phía tây Hy Lạp, nơi mà các lực lượng của Hải quân Đế quốc Ottoman tiến về phía tây từ căn cứ hải quân của họ ở thành phố Lepanto để giao chiến với lực lượng liên minh thần thánh, vốn đã đến từ Messina. Chiến thắng này làm cho liên minh thần thánh tạm thời kiểm soát biển Địa Trung Hải, bảo vệ Rome khỏi bị xâm lược, và ngăn chặn Đế Quốc Ottoman tiến sâu vào châu Âu. Trận đánh này là trận hải chiến lớn cuối cùng giữa các tàu chiến dùng mái chèo ( tầu Galley), và sau trận này hàng hải Châu Âu bắt đầu chuyển sang một kỷ nguyên mới ?” kỷ tầu buồm.
Lực lượng hai bên
Hạm đội của Liên minh Thần thánh gồm 206 tầu galley và 6 galleasses (một loại tầu galley mới rất to, phát minh của Venezia, được trang bị đáng kể pháo binh) và đã được chỉ huy bởi Don Juan de Austria tài năng, người con trai ngoài giá thú của Hoàng đế Charles V và là em trai cùng cha khác mẹ của vua Philip II của Tây Ban Nha. Tàu chiến được đóng góp từ các thành bang Kitô giáo khác nhau: 109 galley và 6 galleasses từ Cộng hòa Venice, 80 galley từ Tây Ban Nha, 12 galley từ Tuscan dưới sự chỉ huy của Saint Stephen, 3 galley đến từ Genoa, Malta, Và Savoy, và một số galley tư nhân. Tất cả thành viên của liên minh đều xem các lực lượng hải quân Thổ Nhĩ Kỳ là một mối đe dọa lớn, đến an ninh của thương mại hàng hải trong biển Địa Trung Hải và an ninh của chính lục địa Châu Âu. Các đội quân Kitô giáo khác nhau đã tập hợp với các lực lượng chính của Venice (dưới sự chỉ huy của Venier), trong tháng Bảy và tháng 8 năm 1571 tại Messina, Sicily. Don Juan de Austria đến đó vào ngày 23 tháng 8.
Hạm đội tàu của liên minh Kitô giáo được điều khiển bởi 12.920 thủy thủ. Ngoài ra, nó mang gần 28.000 quân chiến đấu: 10.000 lính bộ binh chính quy thiện chiến người Tây Ban Nha , 7.000 lính Đức và 6.000 lính đánh thuê Ý, và Venezia có 5.000 lính có chất lượng cao đặc biệt. Ngoài ra, các tay chèo Venetian chủ yếu là người tự do và có thể mang vũ khí để tăng thêm sức mạnh chiến đấu của các tàu của họ, trong khi các nô lệ và tù nhân được sử dụng trong nhiều hải đội khác của Liên minh Thần thánh. Nhiều galley trong hạm đội Thổ Nhĩ Kỳ cũng được chèo bởi nô lệ, thường là những người Kitô giáo bị bắt giữ trong cuộc chinh phục và trận đánh trước đó. Các tay chèo tự do nói chung được công nhận là tốt hơn, nhưng đã dần dần bị thay thế trong tất cả các đội tàu galley (kể cả của Venice từ 1549) trong suốt thế kỷ 16 bởi những nô lệ , tù nhân hình sự và tù nhân chiến tranh rẻ hơn do áp lực tăng nhanh của chi phí cho các hạm đội galley.
Những chiếc Galley của Hải quân Đế Quốc Ottoman được điều khiển bởi 13.000 thủy thủ và 34.000 binh lính. Ali Pasha ( tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: “Kaptan-ı Derya Ali Pasa “), được hỗ trợ bởi lực lượng cướp biển Chulouk Bey của Alexandria và Uluj Ali (Ulich Ali), chỉ huy một lực lượng Hải quân của Đế quốc Ottoman gồm 222 tầu chiến galley, 56 galliots, và một số tàu thuyền nhỏ. Người Thổ có các đội thủy thủ có tay nghề và kinh nghiệm, nhưng không đủ lính trong đạo quân tinh nhuệ Janissary của họ.
Một lợi thế được cho là cực kỳ quan trọng và quyết định để cho phe Kitô giáo chiếm ưu thế là sự vượt trội về số súng và pháo trên những chiếc tàu của họ. Theo ước tính phe Kitô giáo có 1.815 khẩu súng lớn, trong khi đó người Thổ chỉ có 750 với đạn dược không đầy đủ. Phái Kitô giáo cũng có súng hoả mai và pháo thủ với chất lượng tốt hơn, Trong khi người Ottoman lại khá tin cậy vào tay nghề cao nhưng lại là các tay cung bắn cung sừng trâu (composite bowmen )
Triển khai trận đánh
Hạm đội của người Kitô giáo được chia thành bốn hải đội trong một đội hình hàng dọc theo hướng Bắc-Nam. Ở cuối phía Bắc, rất gần bờ biển, là Hải đội cánh trái với 53 tầu galley, chủ yếu là tầu của Venezia, do Agostino Barbarigo chỉ huy, với sự hỗ trợ của Marco Querini và Antonio da Canale. Hải đội Trung tâm gồm 62 tầu galley nhỏ do Don Juan de Austria đích thân chỉ huy trên chiến hạm Real, cùng với Sebastiano Venier, phía sau là Đô thống của Venice, Mathurin Romegas và Marcantonio Colonna. Hải đội ở cánh phải ở phía nam bao gồm 53 galley dưới sự chỉ huy của viên chỉ huy người Genoa, Giovanni Andrea Doria, người cháu lừng danh của đô đốc hải quân vĩ đại người Genoa, Andrea Doria. Hai galleasses, loại có gắn pháo ở mũi tầu, đã được điều lên phía trước của mỗi hải đội chính, mục đích này là để, theo Miguel de Cervantes – bác nhà văn viết truyện Đôngkisốt (người đã chiến đấu trên tầu galley Marquesa trong trận đánh), ngăn cản người Thổ dùng những chiếc thuyền nhỏ dùng nhựa cháy ngầm phá hỏng hoặc nhảy lên tầu của người Kitô giáo. Một hải đội dự bị đóng ở phía sau (có nghĩa là, về phía tây ở ngoài khơi ) hạm đội chính, để tung ra sự hỗ trợ bất cứ nơi nào họ thấy là cần thiết. Bộ phận này bao gồm 38 galley dự trữ – 30 chiếc phía sau Hải đội Trung tâm dưới sự chỉ huy của Álvaro de Bazán, và bốn chiếc phía sau mỗi cánh. Một nhóm tầu trinh sát được thành lập, từ hai chiếc galley ở cánh phải và sáu chiếc galley từ bộ phận dự trữ. Khi hạm đội của Kitô giáo đã từ từ xoay quanh Point Scropha, hải đội cánh phải của Doria, tại ngoài khơi bờ biển, đã bị trì hoãn tại đầu của trận đánh và chiếc galleasses của cánh phải đã không được tung vào đúng vị trí.
Hạm đội Thổ Nhĩ Kỳ gồm 57 galley và 2 galliots ở phía cánh phải của nó dưới quyền chỉ huy của Chulouk Bey, 61 galley và 32 galliots ở phía Trung tâm dưới sự chỉ huy của Ali Pasha trên chiếc kỳ hạm Sultana, và khoảng 63 galley với 30 galliots ở ngoài khơi phía Nam dưới sự chỉ huy của Uluj Ali. Một lực lượng dự bị nhỏ gồm 8 galley, 22 galliots và 64 fustas ở phía sau hải đội Trung tâm. Ali Pasha đã được cho là đã nói với các nô lệ Kitô chèo thuyền galley của ông rằng: “Nếu tôi giành chiến thắng trong trận chiến này, tôi hứa trả tự do cho các bạn. Nếu ngày hôm nay là của các bạn, thì Chúa sẽ mang tự do đến cho các bạn.”
Trận đánh
Các tầu galleasses ở hải đội cánh Trái và Trung tâm đã tiến lên nửa dặm phía trước dòng tầu của Thiên chúa giáo. Khi trận chiến bắt đầu, người Thổ nhầm các tầu Galeasses là tàu buôn và không ra lệnh tấn công chúng. Điều này được chứng minh là một thảm họa, chỉ mình các tầu galeasses với rất nhiều súng của họ, đã được cho là đánh chìm đến 70 galley của Thổ Nhĩ Kỳ, trước khi hạm đội của Thổ Nhĩ Kỳ bỏ họ lại phía sau. Cuộc tấn công của họ cũng làm gián đoạn đội hình của Hải quân Ottoman. Khi trận đánh bắt đầu, Doria thấy rằng các galley của Uluj Ali mở rộng hơn nữa về phía nam, và do đó ông ta ra lệnh tiến về phía nam để tránh bị đánh thọc sườn, thay vì giữ vị trí dòng tầu của người Thiên chúa giáo. Sau trận đánh Doria bị cáo buộc có lái đội tầu của mình ra khỏi hàng loạt các trận đánh để tránh việc thương vong và thiệt hại. Bất kể là như thế nào, ông đã bị chèn ra ngoài bởi Uluj Ali, người đã quay lại và tấn công vào cuối phía nam của hải đội Trung tâm, lợi dụng khoảng không lớn mà Doria đã để lại.
Ở phía Bắc, Chulouk Bey đã cố gắng để đến được giữa bờ biển và Hải đội phía Bắc của người Kitô giáo, với sáu Galley trong một động thái nhằm đánh thọc sườn, và bước đầu gây ra thiệt hại cho hạm đội Thiên chúa giáo. Barbarigo đã bị giết bởi một mũi tên, nhưng các tầu của người Venezia, quay lại để chiến đấu đối mặt với mối đe dọa này, siết chặt đội ngũ của mình. Sự trở lại của một galleass đã cứu cho hải đội phái Bắc của người Kitô. Hải đội phía Trung tâm của người Kitô giáo cũng đã tổ chức phù hợp với sự chi viện của Dự bị, sau khi phải chịu rất nhiều thiệt hại, đã gây ra thiệt hại lớn cho cánh Trung tâm của quân Hồi giáo. Ở phía nam, phía xa bờ, Doria đã tham gia vào một cuộc hỗn chiến với tàu của Uluj Ali, và đang bị thiệt hại nặng hơn. Trong khi đó mình Uluj Ali chỉ huy 16 galley tạo một cuộc tấn công nhanh trên hải đội của Trung tâm người Kitô giáo, chiếm lấy sáu galley – trong số những người đến từ Malta Capitana, người Hồi Giáo giết chết tất cả, nhưng ba người trên tàu may mắn vẫn còn sống sót. Chỉ huy của đội tầu Pietro Giustiniani, Hiệp sỹ dòng Cứu tế, bị thương nặng nề bởi năm mũi tên, nhưng được tìm thấy còn sống trong cabin của mình. Sự can thiệp của người Tây Ban Nha Álvaro de BaZan và Juan de Cardona với lực lượng dự trữ đã đổi chiều của trận chiến, cả hai cánh Trung tâm và Doria ở cánh phía Nam.
Uluj Ali đã buộc phải bỏ chạy với 16 tầu galley và 24 galliots, từ bỏ tất cả, nhưng trong tất cả những tầu của ông thì chỉ một tầu bị bắt. Trong quá trình trận đánh, Tầu của Tư lệnh Hải quân Ottoman đã bị áp mạn và các phân đội lính thuỷ vũ trang Tây Ban Nha từ 3 chiêc Galley và lính Janissary Thổ Nhĩ Kỳ từ bảy chiếc Galley đã chiến đấu với nhau trên sàn của chiếc Sultana. Hai lần lính Tây Ban Nha đã bị đẩy lùi với tổn thất lớn, nhưng ở lần cố gắng thứ ba, với quân tiếp viện từ chiếc galley của Álvaro de BaZan, họ thắng thế. Müezzinzade Ali Pasha bị giết chết và bị chặt đầu, trái với mong muốn của Don Juan ( chắc bác này muốn bắt sống cơ). Tuy nhiên, khi đầu của ông ta bị treo thị trên một cột buồm của một chiến hạm Tây Ban Nha, nó đã góp phần rất lớn đến tiêu hủy tinh thần của người Thổ Nhĩ Kỳ. Ngay cả sau khi kết quả của trận chiến đã rõ ràng quay lưng lại với người Thổ, các nhóm lính Janissary vẫn tiếp tục chiến đấu với tất cả những gì họ có. Người ta nói rằng tại một số nơi lính Janissary hết đạn và họ bắt đầu ném cả cam và chanh vào kẻ thù Kitô giáo của mình ( thì còn cái lai quần cũng đánh còn gì nữa – nhưng đúng là họ thật dũng cảm phải không các bác), dẫn đến những cảnh đáng cười một cách vụng về trong nỗi đau khổ chung của trận đấu.
Trận đánh kết thúc khoảng lúc 16:00. Hạm đội Thổ Nhĩ Kỳ bị mất khoảng 210 tàu, trong đó có 117 galley, 10 galliots và ba fustas bị bắt vẫn ở trong điều kiện đủ tốt cho các lực lượng Kitô sử dụng. Bên lực lượng Kittô 20 galley đã bị phá hủy và 30 bị hư hại nghiêm trọng và chúng đã bị đánh đắm. Một tầu galley của người Venetian bị người Thổ chiếm như là phần thưởng cho họ, tất cả những tầu bị chiếm khác đã bị bỏ lại bởi người Thổ và tái chiếm lại bởi người Kitô giáo.
Uluj Ali, người đã bắt kỳ được chiếc kỳ hạm của các Hiệp sĩ Malta, đã thành công trong việc giải cứu nhiều nhất các tàu chiến của mình từ khi thắng bại được xác định rõ ràng. Mặc dù ông ta đã phải cắt toa bỏ lại chiếc kỳ hạm Malta để bỏ chạy, ông chạy về phía Constantinople, thu thập tổng số 87 chiếc tầu các loại còn sống sót sau trận đánh và chạy về phía thủ đô của Đế quốc Ottoman, ông ta dâng lá cờ khổng lồ của Mantơ lên Sultan Selim II, người sau đó ban cho ông ta chức danh danh dự “kιlιç” (Sword); Uluj do đó đã được biết đến như là Kılıç Ali Pasha.
Sau trận đánh
Trận đánh là một thất bại nặng nề cho người Ottoman, người đã không thua một trận đánh lớn hải quân nào kể từ thế kỷ 15. Trận thua này được chia buồn bởi Divine Will, biên niên sử gia ghi rằng “hạm đội của Đế quốc gặp phải hạm đội của những kẻ ngoại đạo và ý của Chúa đã chuyển sang một hướng khác.” Đến một nửa số những người dân Kitô, sung sướng trước sự kiện này hy vọng cho sự sụp đổ của người Turk, người được coi là ” Kẻ thù vĩnh cửu của Kitô giáo”. Thật vậy, đế quốc đã mất tất cả gần 300 tàu của nó và khoảng là 30.000 lính, và một số sử gia phương Tây đã nói rằng đây là trận hải chiến quyết định nhất thế giới kể từ sau trận Actium của 31 TCN. Tuy nhiên, ngay sau khi bị đánh bại, Tổng bộ trưởng Vizier Mehmed Sokullu của Selim II, nói với Barbaro, sứ giả của Venetian rằng chiến thắng Christian tại Lepanto là vô nghĩa, nói rằng:
” Ngài đến để xem chúng tôi chịu bất hạnh của chúng tôi như thế nào. Nhưng tôi sẽ cho ngài biết sự khác biệt giữa sự mất mát của các ngài và của chúng tôi. Trong khi đoạt lấy đảo Síp từ các ngài , chúng tôi tước của các ngài một cánh tay; trong đánh bại hạm đội của chúng tôi, các ngài chỉ cạo mất bộ râu của chúng tôi. Một cánh tay khi bị cắt thì không thể mọc lại một lần nữa, nhưng một chòm râu sẽ phát triển tốt hơn sau khi đã bị cạo sạch đi.”
Thật vậy, mặc dù có được một chiến thắng quan trọng, sự chia rẽ trong Liên minh Thánh Thần ngăn cản những người thắng trận tận dụng chiến thắng của họ. Kế hoạch để chiếm lấy eo biển Dardanelles, như là một bước tiến trong việc phục hồi thành phố Constantinople cho những người Kitô giáo, đã bị phá hoại bởi những tranh cãi giữa các đồng minh. Với một nỗ lực lớn, Đế quốc Ottoman xây dựng lại hải quân của nó và bắt chước thành công các galeasses của người Venetian. Vào năm 1572, hơn 150 galley và 8 galleasses đã dượcđóng mới, thêm tám trong các chiến thuyền lớn nhất từng được thấy tại Địa Trung Hải. Trong vòng sáu tháng một hạm đội mới gồm 250 tàu (bao gồm 8 galleasses) đã có thể lấy lại uy quyền của hải quân Đế quốc Ottoman ở phía đông Địa Trung Hải. Ngày 07 Tháng 3 năm 1573 Venezia đã công nhận bằng hiệp ước quyền sở hữu đảo Sípcủa Đế quốc Ottoman, vốn đã rơi vào người Thổ dưới thời Piyale Pasha vào ngày 3 Tháng Tám 1571, chỉ hai tháng trước khi Lepanto, và ở trong tay người hổ Nhĩ Kỳ trong ba thế kỷ kế tiếp, và trong mùa hè đó hải quân Ottoman tiếp tục tàn phá các bờ biển dễ bị tổn thương của Sicilia và miền nam Italia. Tuy nhiên, trong khi tàu bè tương đối dễ dàng để thay thế, rất khó khăn cho việc thay thế con người, kể khi từ rất nhiều thủy thủ giàu kinh nghiệm, tay chèo và binh sĩ đã bị mất. Việc mất mát quá nhiều các thủy thủ đoàn dày dạn kinh nghiệm của mình tại Lepanto giảm hiệu quả chiến đấu của hải quân
Các tầu Galeasses của liên quân Thiên chúa giáo
Việc mất quá nhiều các thủy thủ thuỷ thủ giàu kinh nghiệm của mình tại Lepanto đã làm giảm hiệu quả chiến đấu của hải quân Ottoman, một thực tế cho thấy các cuộc đối đầu của hải quân của họ với hải quân các nước Kitô giáo đã giảm xuống tối thiểu trong những năm ngay sau trận đánh. Đặc biệt quan trọng là sự mất mát của lực lượng cung thủ vốn là vũ khí chính trang bị trên chiến hạm của Đế quốc, vượt hơn hẳn số tầu được trang bị súng thời đó . Nhà Sử học John Keegan viết lại rằng các lỗ hổng trong trình độ chuyên môn của các chiến binh là không thể thay thế trong một thế hệ, và trong thực tế, chúng đại diện cho “cái chết của một truyền thống sống” của người Ottoman. Sử học Paul K. Davis đã lập luận rằng:
“Thất bại của Thổ Nhĩ Kỳ đã chặn đứng tham vọng của người Thổ mở rộng ảnh hưởng của họ ở vùng biển Địa Trung Hải, và duy trì sự thống trị của phương Tây, và sự tự tin đã tăng lên ở các nước nhỏ ở phía tây rằng người Thổ, trước đây là không thể chặn nổi, bây giờ có thể bị đánh bại.”
Trong 1574 trong chiến dịch Tunis, Đế quốc Ottoman chiếm lại thành phố chiến lược Tunis từ tay người Tây Ban Nha, lúc đó đang hỗ trợ cho triều đại Hafsid, khi binh lính của Don Juan chiếm thành phố trong tay Đế quốc Ottoman từ năm trước. Với liên minh lâu dài Pháp-Ottoman sắp tới họ đã có thể tiếp tục hoạt động hải quân tại phía Tây biển Địa Trung Hải. Năm 1579 việc chiếm hoàn thành cứ điểm Fez đã kết thúc cuộc chinh phục Ma-rốc của Đế quốc Ottoman, chiến dịch bày được bắt đầu bởi Süleyman the Magnificent. Việc thành lập quyền bá chủ của Đế quốc Ottoman trên khu vực này đã đặt toàn bộ bờ biển Địa Trung Hải từ eo biển Gibraltar tới Hy Lạp (với ngoại lệ của thành phố, kinh doanh kiểm soát của Tây Ban Nha Oran và các khu định cư của chiến lược như Melilla và Ceuta) – dưới quyền kiểm soát của Đế quốc Ottoman.
Các loại tầu bè thường được sử dụng trong hải chiến thời trung Trung Cổ
Tầu Galley
Một tầu galley là một con tàu cổ có thể cơ động được là do toàn bộ hệ thống tay chèo, dược sử dụng cho mục đích chiến tranh và buôn bán. Hệ thống tay chèo được biết đến ít nhất là từ thời Ai Cập Cổ đại. Nhiều tầu Galley đã có cột buồm và buồm được sử dụng khi gió ở trong các điều kiện thuận lợi. Như vậy đối với tầu Galley thì cơ động bằng sức chèo là chính, buồm là phụ.
Có nhiều loại Galley làn trụ cột cho các lực lượng hải quân Địa Trung Hải từ khoảng thế kỷ thứ 8 TCN đến
khi có sự phát triển của pháo hải quân trên toàn thế kỷ 15 và 16. Tầu chiến Galley được tìm thấy trong cuộc chiến tranh cổ đại Ba Tư, Hy Lạp, Carthage và Rome cho đến thế kỷ thứ 4. Sau sự sụp đổ của Đế chế La Mã, tầu Galley lại là lực lượng nòng cốt trong Hải quân Byzantine và các triều đại kế tục của Đế quốc La Mã, và hải quân Hồi giáo. Thời Trung cổ ở các thành bang Địa Trung Hải, đáng chú ý nhất là các nước cộng hòa hàng hải Ý như Venice, Pisa, và Genoa, tầu Galley được sử dụng cho đến sự ra đời của lớp tầu buồm man-of-war có khả năng hành trình lâu dài trên Đại dương làm cho tầu Galley trở thành quá lạc hậu. Trận Lepanto (1571) là một trong những trận hải chiến lớn nhất mà tầu Galley đóng vai trò chính. Tầu Galley tiếp tục được sử dụng làm chủ đạo cho đến sự ra đời sử dụng loại tầu buồm sử dụng hệ thống pháo mạn ở Địa Trung Hải trong thế kỷ 17, và tiếp tục được sử dụng trong vai trò kém dần cho đến khi có sự ra đời của máy hơi nước.
Chi tiết kỹ thuật tiêu biểu của tầu Galley thời Trung Cổ
Các đặc điểm kỹ thuật của tầu galley tìm đượcđến từ một đặt hàng của Charles I của Sicilia, Năm 1275 AD (trong cả hai Bass & Pryor). Nhìn chung chiều dài của tầu galley là 39,30 m, keel ( đáy) dài 28,03 m, độ sâu 2,08 m. chiều rộng thân 3,67 m. Chiều rộng của các phần bao quanh 4,45 m. 108 mái chèo, phần lớn dài 6,81 m, thỉnh thoảng có mái dài 7,86 m, 2 mái chèo lái dài 6,03 m. Cột buồm mui và cột buồm giữa cao 16,08 m, 11,00 m, chu vi cột buồm 0,79 m, chiều dài sàn tầu 26,72 m, 17,29 m. Toàn bộ trọng tải khoảng 80 tấn. Loại tàu có hai, sau đó là ba người trên một ghế chèo. Điều này cho thấy mái chèo của tàu galley dài hơn so với các trireme của Athens, loại dài 4,41 m và 4,66 m (Morrison p269).
Tầu Galley Trung cổ này đi tiên phong trong việc sử dụng súng hải quân, những điểm này như là một bổ sung được thiết kế để phá huỷ các phần bao trên tầu của đối phương. Chỉ trong thế kỷ 16 tầu Galley được dùng để gọi cho loại tầu phát triển bằng rất nhiều tay chèo(Pryor p67).
Tại Trận Lepanto năm 1571, các tầu chiến Galley tiêu chuâne của Venetian dài 42 m và rộng 5,1 m (6,7 m với khung chèo), đã có phần rẽ nước dài 1,7 m và chiều cao của boong tàu ở trên mức nước là 1,0 m và nặng khoảng 140 tấn. Các kỳ hạm galley (lanter) lớn hơn có kích cỡ là dài 46 m và rộng 5,5 m (7,3 m với khung chèo), phần rẽ nước dài 1,8 m và chiều cao của boong tàu ở trên mức nước là 1.1. và nặng 180 tấn. Những Galley tiêu chuẩn có 24 ghế chèo mỗi bên, với ba tay chèo một băng ghế. Các thuỷ thủ đoàn thường bao gồm 10 sỹ quan, khoảng 65 thủy thủ, pháo thủ và nhân viên khác cộng với 168 tay chèo. Chiếc Lanter có 27 ghế trên mỗi bên, với 156 tay chèo, và thuỷ thủ đoàn là một trong 15 nhân viên và khoảng 105 thủy thủ, pháo thủ và binh lính khác. Các tầu Galley thường mang một pháo nặng 50-pound hoặc 32-pound tại mũi tầu cùng với bốn súng nhẹ hơn và bốn pháo xoay. Các Lanter lớn mang một khẩu súng hạng nặng cộng với sáu súng 12 và 6 pound và tám súng xoay.
Tầu Galêy được sử dụng ở miền Bắc Âu
Có bằng chứng khảo cổ học của tầu Galley kỷ Dark Age phía biển Bắc từ các di tích tầu bị chôn, không giống như tầu Galley cổ ở Địa Trung Hải. Ấn tượng nhất là tầu Gokstad. Một sự phát triển của các tầu Viking longships và knarrs, các tầu Galley thời Trung cổ Bắc Âu được chế tạo theo phương pháp – clinker, sử dụng một cánh buồm hình vuông và các hàng mái chèo, và trông rất giống như người tiền nhiệm của họ Bắc Âu.
Trong vùng biển ngoài khơi phía tây của Scotland giữa năm 1263 và 1500, các chúa đảo được sử dụng Galley cho mục đích chiến tranh và vận tải hàng hải xung quanh lãnh thổ của họ, trong đó bao gồm các bờ biển phía tây của Cao nguyên Scotland, và các vùng Hebrides, Antrim của Ai-len. Họ sử dụng tàu Galley cho các trận tấn công các lâu đài hoặc pháo đài được xây dựng gần bờ biển. Là một lãnh chúa phong kiến cao cấp, chúa đảo yêu cầu sự cung cấp về tầu Galley theo một số quy định và kích thước tiêu chuẩn từ mỗi vùng đất. Ví dụ đảo Man đã phải cung cấp sáu Galley 26 mái chèo, và Sleat thuộc Skye đã phải cung cấp một Galley 18 mái chèo.
Chạm trổ trong tầu Galley trên mộ đá từ năm 1350 trở đi cho thấy việc đóng các tàu thuyền. Từ thế kỷ 14 họ bỏ một mái chèo bánh lái và sử dụng một bánh lái phía đuôi, với một đuôi tầu thẳng cho phù hợp. Từ một tài liệu của năm 1624, một galley đúng nghĩa sẽ có 18-24 mái chèo, một birlinn có 12-18 mái chèo và một lymphad còn có ít hơn.
Tầu Galley được sử dụng như là tàu buôn
Từ nửa đầu thế kỷ 14 các galere da mercato của Venezia “tầu galley thương mại” đã đang được đóng tại các xưởng đóng tàu của Quân giới do chính phủ điều hành như là “một sự kết hợp của các hiệp hội doanh nghiệp nhà nước và tư nhân, hoặc là một loại côngxoocxiom của thương nhân xuất khẩu”, như Fernand Braudel miêu tả. Các tàu khởi hành theo đoàn convoy, được bảo vệ bằng cung thủ và pháo thủ bắn ballestieri trên tàu, và sau đó có mang pháo.
Trong tầu Galley thế kỷ 14 và 15 chuyên trở hàng hoá có giá trị cao và hành khách. Các tuyến đường chính trong thời gian của các cuộc Thập tự chinh đầu là con đường hành hương đến Đất Thánh. Sau đó các tuyến đường liên kết với các cảng trong Địa Trung Hải, giữa Địa Trung Hải với Biển Đen (một trung tâm thương mại lớn bị xoá sổ do Thổ Nhĩ Kỳ chiếm giữ thành phố Constantinople, 1453) và giữa Địa Trung Hải với Bruges- Nơi galley đầu tiên của Genoese đến là Sluys trong năm 1277, là Galley đầu tiên của Venetian đến năm 1314 – và Southampton. Mặc dù chủ yếu là tàu buồm, họ đã sử dụng mái chèo để vào các trung tâm buôn bán, cách hiệu quả nhất để vào vả ra khỏi Lagoon of Venice. Tầu Galley của Venetian, bắt đầu từ 100 tấn và được đóng to lên thành 300, cũng không phải là những tầu buôn lớn nhất ngày đó, khi tầu Carrack của Genoese ở thế kỷ 15 có thể vượt quá 1.000 tấn. Năm 1447 ví dụ, Galley của Florentine lên kế hoạch để đến 14 cảng trên đường đi từ Alexandria (Pryor p57). Đặc tính của mái chèo cho phép các tàu di chuyển gần với bờ biển, nơi họ không thể tận dụng gió từ đất liền và gió biển cùng dòng chảy ven biển, mái chèo cho pháp họ vận động một cách đáng tin cậy và tương đối nhanh so với gió biển ven bờ. Các thuỷ thủ đoàn lớn cũng cung cấp bảo vệ chống cướp biển. Những tàu này rất có khả năng chịu dựng giông tố từ biển; một tầu Galley Florence lớn rời Southampton ngày 23 tháng 2 1430 và trở về cảng của mình tại Pisa trong 32 ngày. Họ an toàn đến mức mà hàng hóa thường không cần phải mua bảo hiểm (Mallet). Những tàu có kích thước lớn trong thời gian này đã được làm tiêu bản mà từ đó phát triển các tầu galleass.
Suy thoái của tầu Galley
Sự suy giảm của galley đã bị kéo dài vô cùng, bắt đầu từtrước khi có sự phát triển của pháo và tiếp tục một cách từ từ trong nhiều thế kỷ. Đầu năm 1304, kiểu tàu theo yêu cầu của Uỷ ban quốc phòng Đan Mạch đã thay đổi từ loại galley sang Cog, một loại tâu buồm có chèo và đáy bằng(Bass p191). Loại tàu buồm lớn, mạn tầu cao luôn là những trở ngại rất ghê gớm cho tầu Galley. Đầu năm 413 TCN lớp tầu triremes bị đánh bại có thể tìm nơi trú ẩn đằng sau một mạn cao của các tàu buôn (Thucydides (7, 41), 4 Needham, PT3, p693). Cuối thế kỷ 15 chứng kiến sự phát triển của tầu lớp man-of-war, lớp tầu buôn và là tàu chiến đi trên Đại dương thực thụ, bắt đầu từ lớp carrack, sau đó phát triển thành lớp Galleon và sau đó là tầu buồm vuông rigger. Các tàu chiến sử dụng buồm tiên tiến mà cho phép di chuyển nương theo gió (tacking) , và được trang bị pháo hạng nặng. Trong Địa Trung Hải, sự suy giảm của galley bắt đầu khoảng 1595-1605. Đây cũng là điểm bắt đầu của một lớp tầu thương mại Hà Lan trong thế kỷ 17. Chúng được trang bị vũ khí hạng nặng và có bánh lái và chịu sóng biển tốt để họ có thể cạnh tranh thương mại và chống trộm cắp, cũng như cướp biển. Tầu Galley Venetian hiếm khi có thể đối phó với cướp biển trong mùa hè, và càng không thể đối phó với chúng trong mùa đông (Tenenti). Quân sự, tầu lớp Men- of -war bổ trợ cho những khuyết điểm của tầu Galley, ngoại trừ cho các hoạt động gần với bờ biển trong thời tiết không có gió. Trong đại dương sự thống trị của tầu lớp Men- of -war trở nên rõ ràng với các chiến thắng của Bồ Đào Nha trong Trận Diu năm 1509. Sự chuyển đổi chậm chập tại Địa Trung Hải bắt đầu với một Trận năm 1616, khi một đội nhỏ tàu Galeon của Tây Ban Nha đánh bại một hạm đội tầu Galley lớn của Đế Quốc Ottoman. Nhưng việc dừng sử dụng tầu Galley để tránh khỏi bị tiêu diệt cũng minh hoạ những lợi thế của các công trường thủ công trong các điều kiện liên tục thay đổi của vùng Địa Trung Hải. Vào Thập niên 1660 thậm chí toàn bộ sức mạnh của Địa Trung Hải giống như ở Venice bắt đầu tập trung vào đóng tầu lớp Men-of-war. Đến cuối thế kỷ 17, khi Thuyền trưởng Kidd làm lễ rửa tội cho con tầu tư nhân của ông, tàu Adventure Galley, Tầu Galley không còn là trụ cột trong các trận đánh lớn, nhưng sự lựa chọn của Kidd cho thấy, nó vẫn hữu ích để tấn công các vùng ven biển
Tại Mỹ tầu Galley được sử dụng trong Trận đảo Valcour năm 1776. Tầu Galley cũng được sử dụng trong chiến tranh cách mạng khi tàu săn cá voi Mỹ công kích các tầu vận tải Anh dọc theo bờ biển Mỹ. Các tầu Galley cũng rất hữu ích trong việc cung cấp cho quân Cách mạng với nhiều nguồn cung cấp cần thiết.
Tầu Galley là chỗ dựa chính của Hạm đội cướp biển Bắc Phi và tiếp tục đóng một vai trò quan trọng trong vùng Địa Trung Hải vào thế kỷ 18. Chúng tham dự một trong những trận cuối cùng của chúng trong một trận chiến ở Địa Trung Hải, Trận Chesma vào năm 1770; chúng nấn ná trong vùng biển nông Baltic và đã tham gia vào Chiến tranh Nga-Thụy Điển trong năm 1790. Tầu Galley được sử dụng, một cách không có hiệu quả, do Hiệp sĩ Malta trong khi Napoléon vây hãm Valetta năm 1798. Những tầu chiến Galley cuối được đóng năm 1796 cho hải quân Nga như là một cách để đối phó đối thủ trong vùng biển Baltic, Hải quân Thụy Điển vẫn còn giữ lại 27 Galley năm 1809, và galley cuối của Thụy Điển được giữ lại trên ụ tàu cho đến 1835, trước khi nó nghỉ hưu ở tuổi 86 năm.
Các biến thể nâng cấp của tầu Galley thời Trung Cổ
Tầu Galeass
Tầu galleass hoặc “galliass” được phát triển từ loại tầu buôn Galley lớn. Mục đích chuyển đổi để dùng cho mục đích sử dụng quân sự tầu galleass cao hơn và lớn hơn các Galley bình thường. Chúng có tới 32 mái chèo, mỗi mái chèo có tới 5 tay chèo. Chúng thường có ba cột buồm, một forecastle (chỉ phần trên boong của một tàu buồm phía trước của cột buồm mui, nơi thường được đóng cao lên giống như phía trước của một lâu đài Trung cổ để cho cung thủ đướng ngắm bắn và chiến đấu) và aftcastle(là những tầng trên của một chiếc tàu buồm vị trí phía sau cột buồm thứ ba. Nó được thiết kế ở tầu Galley hoặc galleasses thời Trung cổ để tạo ra vị trí thuận lợi về chiều cao mà từ cung thủ có thể đó bắn sang tên lửa sang tầu địch, đây cũng là một nơi bố phòng để đánh trả trong trường hợp đối phương nhảy lên boong). Nhiều nỗ lực được thực hiện ở thành phố Venice để làm cho các galleasses chạy càng nhanh càng tốt để cạnh tranh với các Galley bình thường. Bong súng thường chạy qua phía trên đầu của các tay chèo, nhưng cũng có hình ảnh hiển thị sự sắp xếp ngược lại.
Galleasses thường mang nhiều buồm hơn loại Galley thật sự, và có nhiều ổ súng hơn; một galley cũng có thể có hệ thống pháo mạn nhưng không thực sự hiệu quả, nhưng pháo mạn của một tầu galleass thì gần như của một chiếc tàu tiền tuyến, tung ra các cuộc tấn công vào kẻ địch bằng súng của nó. Tầu galleass là thí dụ cho một loại trung gian giữa các galley và lớp Men ?”of- war. Tàu Galleass được đóng tương đối ít – một trong những bất lợi là bị phụ thuộc nhiều vào buồm, vị trí của chúng ở phía trước của đội hình tầu galley lúc bắt đầu một cuộc chiến là không thể được đảm bảo – nhưng chúng đã được sử dụng tại Trận Lepanto (Ngày 07 tháng 10 1571), hỏa lực của chúng góp nhiều vào việc giành chiến thắng cho hạm đội Thiên chúa giáo, và một số galleass đủ sức bền để đi kèm theo Hạm đội Armada Tây Ban Nha năm 1588 (e.g. La Girona). Trong thế kỷ 15 có một loại tầu galleass hạng nhẹ, được gọi là các tàu tuần duyên, được đóng ở các nước miền nam châu Âu để trả lời cho những thách thức ngày càng tăng của tầu Galley chạy nhanh của bọn cướp biển Barbary ở bắc Phi.
Trong biển Địa Trung Hải, với vùng nước nông của mình, thời tiết ít nguy hiểm và gió hay thay đổi, cả hai loại tầu galley và galleass tiếp tục sử dụng, đặc biệt là ở Venice và Thổ Nhĩ Kỳ, từ lâu sau khi chúng đã trở nên lỗi thời ở các nơi khác. Sau đó, galley và galleass đã được thay thế bằng tàu galleon và tàu tiền tuyến, loại có nguồn gốc từ các quốc gia ở biển Đại Tay Dương. Chiếc tàu tiền tuyến đầu tiên của Venezia được đóng vào năm 1660..
Trận hải chiến Armada – Tây Ban Nha
Ngày trận đánh: ngày 08 tháng 8 năm 1588
Vị trí: English Channel, gần Gravelines – Pháp (sau đó diễn ra ở một phần lãnh thổ của Hà Lan)
Kết quả: nước Anh chiến thắng Chiến lược
Tương quan lực lượng hai bên
Vương quốc Anh
Cộng hòa Hà Lan
Chỉ huy
Charles Howard
Francis Drake ( bác cướp biển lừng danh – em sẽ cố gắng có 1 bài viết về bác này)
Sức mạnh
34 tàu chiến
163 tầu buôn vũ trang, (30 chiếc trên 200 tấn)
30 xuồng nhỏ
Thương vong và thiệt hại
50-100 chết
400 người bị thương
8 tầu hỏa công bị cháy
Đế chế Tây Ban Nha
Vương quốc Bồ Đào Nha (dưới sự điều khiển của triều đình Habsburg Tây Ban Nha)
Chỉ huy
Công tước Medina Sidonia
Sức mạnh
22 Tầu Galleon
108 tàu buôn vũ trang
Thương vong và thiệt hại
Trận Gravelines:
Hơn 600 người chết,
800 người bị thương,
397 bị bắt,
2 tàu chìm
Trong các cơn bão ngoài khơi Ailen:
Khoảng 65 tàu bị chìm hoặc đắm
20.000 người chết
Tóm tắt
Hạm đội Armada (Tiếng Tây Ban Nha: Grande y Felicísima Armada, là hạm đội Tây Ban Nha đã tấn công nước Anh dưới sự chỉ huy của Công tước Medina Sidonia năm 1588, với ý định lật đổ Elizabeth I của Anh. Vua Philip II của Tây Ban Nha cũng đồng thời có danh nghĩa là vua của Anh cho đến sau cái chết của vợ ông ta Mary I năm 1558. Là một người Công giáo La Mã mộ đạo, ông ta coi bà chị vợ Elizabeth ( Tín đồ kháng cách và là người đã chặt đầu Mary I) Elizabeth của mình là một người cai trị và bất hợp pháp của nước Anh. Ông đã hỗ trợ âm mưu lật đổ bà của người chị họ theo Công giáo Mary I của Scotland. Nhưng Mary đã bị Elizabeth tống giam và cuối cùng đã bị chặt đầu năm 1587. Ngoài ra Elizabeth, người tìm cách lợi dụng và hỗ trợ các tỉnh Hà Lan nổi loạn ( Hà lan lúc đó là thuộc địa của Tây Ban Nha nhưng theo dòng Kháng cách tựa như Anh) chống lại Tây Ban Nha. Để trả đũa, Philip lập một kế hoạch chinh phục để xâm lược và chinh phục Anh, qua đó hỗ trợ cho việc trấn áp Hà lan – các vùng đất thấp , mà các vùng này rất đang thành công trong việc ly khai khỏi sự cai trị của Tây Ban Nha, và làm giảm các cuộc tấn công của Anh chống lại Tây Ban Nha ở Tân Thế giới mới đồng thời cũng làm giảm sự tấn công vào hạm đội kho báu Đại Tây Dương của Tây Ban Nha (bác Tây Ban Nha cứ hùng hục ăn cướp vàng ở châu Mỹ, trên đường mang về nước bị bác Anh đóng giả cướp biển ăn cướp mới tức chứ, đúng là Thạch Sanh gặp Lý Thông phải không các bác). Vị vua này được hỗ trợ bởi Giáo hoàng Sixtus V, Người coi cuộc xâm lược này là cuộc Thập tự chinh với lời hứa hỗ trợ hạm đội Armada trên đất liền.
Chỉ huy được bổ nhiệm của Hạm đội Armada là một người giàu kinh nghiệm ?” anh hùng của trận Lepanto, Álvaro de BaZan, nhưng không may ông ta lại qua đời trong tháng hai năm 1588, và Medina Sidonia đã thay thế ông ta. Hạm đội gồm 22 tàu chiến Galleon của Hải quân Hoàng gia Tây Ban Nha và 108 tàu buôn vũ trang, với kế hoạch bơi qua English Channel để neo ngoài khơi bờ biển Flanders, nơi các đội quân tercios ( Lê dương Tây Ban Nha) của Công tước Parma đã sẵn sàng cho một cuộc xâm lược vào phía đông nam nước Anh.
Hạm đội Armada đạt được các mục tiêu đầu tiên của nó và neo ở ngoài khơi Gravelines, đây là khu vực biên giới ven biển giữa Pháp và Hà Lan thuộc Tây Ban Nha. Trong khi chờ liên lạc từ quân đội của Parma, nó đã bị đẩy khỏi chỗ neo đậu của mình bởi một đợt tấn công bằng tầu hỏa công () của Anh, và trong trận chiến tiếp theo tại Gravelines, hạm đội của Tây Ban Nha đã bị buộc phải rời bỏ điểm hẹn của mình với quân đội của Parma.
Các tầu chiến của Hạm đội Armada cố gắng tập hợp lại và rút về phía Bắc, với hạm đội Anh canh chừng nó với một khoảng cách đến bờ biển phía đông nước Anh. Một chuyến quay trở về Tây Ban Nha đã được dự tính, và đội tàu Armada khởi hành vào Đại Tây Dương, ngang qua Ai-len. Nhưng cơn bão bị gián đoạn nghiêm trọng chuyến đi của hạm đội, và hơn 24 tàu bị đắm trên bờ biển phía bắc và phía tây của Ai-len, những người sống sót phải tìm nơi ẩn náu tại Scotland. Edinger công bố trong năm 2001 rằng Hạm đội Armada Tây Ban Nha đã bị đánh chìm chủ yếu là do shipworms ( con hà ?” còn được gọi là mối của biển, chúng bám vào làm mục nát thành tầu — > khi có bão thì tầu bị đắm). Cộng cả số lượng bổ sung ban đầu của hạm đội, khoảng 50 tàu không thể quay trở về Tây Ban Nha. Đoàn viễn chinh có được số lượng tầu tham gia lớn nhất của cuộc chiến tranh không tuyên bố giữa Anh-Tây Ban Nha (1585-1604).
Những thất bại của Hạm đội Armada Tây Ban Nha đã dẫn đến sự thất bại của Drake-Norris trong cuộc chinh phục năm 1589, cũng còn được gọi là Hạm đội Armada của Anh ( trận này người Anh thua) chống lại các sở hữu của Tây Ban Nha tại Tân Thế giới và chống lại Hạm đội kho báu Đại Tây Dương ( Em cũng xin sẽ giới thiệu với các bác chiến dịch này ở phần sau).
Kế hoạch xâm lược của Anh
Trước khi thực hiện, Giáo hoàng Sixtus V cho phép Philip II của Tây Ban Nha thu thuế thập tự chinh và cấp cho người của ông ta sự xá tội. Phước lành được ban cho Hạm đội Armada trong ngày 25 tháng tư năm 1588 tương tự như buổi lễ được tiến hành trước trận Lepanto năm 1571. Ngày 28 tháng năm 1588 Hạm đội Armada, căng buồm từ Lisbon (đã chiếm đóng Bồ Đào Nha), hướng về phía English Channel. Hạm đội này bao gồm 151 tàu, 8.000 thủy thủ và 18.000 binh lính, và được trang 1.500 khẩu súng bằng đồng và 1.000 súng bằng sắt. Phần chính của Hạm đội phải mất hai ngày để rời khỏi cảng. Hạm đội 28 chiếc tàu chiến: 20 galleon, 4 galley và 4 galleasses. Phần còn lại của các đội tầu hạng nặng bao gồm chủ yếu là các tầu buôn vũ trang carrack và hulk, và cũng có 34 tàu hạng nhẹ hiện nay.
Ở Hà Lan thuộc Tây Ban Nha 30.000 lính đợi sự xuất hiện của Hạm đội Armada, kế hoạch được sử dụng là dùng các tàu chiến để hộ tống đoàn convoy chuyên chở quân đội đến một nơi gần London. Tổng cộng có khoảng 55.000 lính được trang bị súng hỏa mai, một đội quân rất lớn cho thời gian đó. Trong ngày, hạm đội Armada căng buồm, đại sứ Elizabeth tại Hà Lan, tiến sĩ Valentine Dale, đã gặp đại diện của Parma trong cuộc đàm phán hòa bình, và Anh đã thực hiện một nỗ lực vô ích để ngăn chặn các tầu của Hạm đội Armada trong Vịnh Biscay.
Vào ngày 16 tháng bảy cuộc đàm phán đã bị đổ vỡ, và hạm đội Anh đang đậu để chuẩn bị ở Plymouth, và chờ tin tức từ Tây Ban Nha. Số lượng của Hạm đội Anh thì nhiều hơn Hạm đội Tây Ban Nha, 200 so với 130 tàu. Tuy nhiên, trong Hạm đội Tây Ban Nha lại nhiều súng hơn hạm đội Anh, hỏa lực sẵn có của nó nhiều hơn 50% so với Hạm đội Anh. Hạm đội Anh gồm 34 tàu của hạm đội hoàng gia, 24 trong số đó có trọng tải 200- > 400 tấn, và 163 tàu khác, trong số tầu trọng tải 200-400 tấn có 30 chiếc mang đến 42 khẩu súng mỗi chiếc; 12 trong số này là tầu cướp biển , được đặt dưới sự chỉ huy của Lord Howard của Effingham, Sir John Hawkins và Sir Francis Drake.
Hạm đội Armada bị trì hoãn do thời tiết xấu, Bốn tầu Galêy và một tầuGalleon bị buộc phải rời hạm đội, và chúng đã không được nhìn thấy ở Anh cho đến 19 Tháng Bảy, khi nó xuất hiện ngoài khơi mũi St Michael của Cornwall. Các tin tức đã được chuyển đến London bởi một hệ thống đèn hiệu đã được xây dựng ở tất cả các con đường dọc theo bờ biển phía nam. Vào tối hôm đó, hạm đội Anh đã phải nằm lại tại cảng Plymouth bởi thuỷ triều đến. Người Tây Ban Nha triệu tập một hội đồng chiến tranh, và mọi người đề xuất rằng tiến vào bến cảng theo triều và vô hiệu hóa các tàu bảo vệ neo tại đó và từ đó tấn công Anh, nhưng Medina Sidonia từ chối hành động như vậy, bởi vì điều này đã được rõ ràng cấm của Philip, và đã chọn cách đi về phía đông và phía Isle of Wight. Ngay sau đó, 55 tàu chiến Anh được tung ra để đuổi theo từ Plymouth dưới sự chỉ huy của Lord Howard của Effingham, Sir Francis Drake có chức danh như là Phó Đô đốc. Howard nhượng lại một số quyền hành cho Drake, bởi kinh nghiệm của ông trong trận chiến, và đô đốc hậu quân là Sir John Hawkins.
Các đêm tiếp theo, để thực hiện “tuyến đầu” tấn công, tầu Anh chặn theo chiều của Hạm đội Armada, do đó có được weather gage (Vị trí thuận lợi của một tàu buồm từ lợi thế về gió), một lợi thế đáng kể. Qua tuần tiếp theo có hai trận không có ý nghĩa quyết định, ở Eddystone và Isle of Portland. Hai tàu Tây Ban Nha, các tầu carrack Rosario và Galleon San Salvador, đã bị hủy bỏ sau khi bị hỏng nặng do tai nạn; chúng đã bị chiếm lấy bởi người Anh, những người đã bắt giữ được một khối lượng lớn thuốc súng rất cần thiết. Tại Isle of Wight Hạm đội Armada đã có cơ hội để tạo ra một căn cứ tạm thời trong vùng biển được bảo vệ và từ từ chờ quân đội Parma. Trong một cuộc tấn công đủ quy mô, hạm đội Anh đã tác ra thành bốn nhóm — Martin Frobisher bây giờ cũng được làm tư lệnh của một hải đội – với Drake đến từ phía Nam với một lực lượng lớn. Tại thời khắc quan trọng Medina Sidonia gửi quân tăng cường lên phía nam và ra lệnh cho Hạm đội Armada quay trở lại, ra cửa biển để tránh các bãi cát. Không có cảng an toàn gần đó, do đó, Hạm đội Armada bắt buộc phải tiến về Calais, các sự việc này không liên quan gì đến sự sẵn sàng của quân đội Parma.
Ngày 27 tháng 7, các tầu của Hạm đội Armada neo ngoài khơi Calais trong một đội hình lưỡi liềm phòng thủ chặt chẽ, không xa Dunkirk, Nơi quân đội của Parma, hiện đang bị giảm tới 16.000 lính do bệnh dịch, được dự kiến là đang chờ họ, và sẵn sàng để gia nhập Hạm đội từ các xà lan được gửi từ các cảng dọc theo bờ biển Flemish. Các thông tin cho thấy rằng có thêm rất nhiều khó khăn hơn so với dự đoán, và bây giờ trở nên rõ ràng rằng quân đội đã chưa được trang bị đầy đủ để vận chuyển, tạp hợp tại cảng, một quá trình mà sẽ mất ít nhất là sáu ngày, trong khi Medina Sidonia neo tầu đợi; và rằng Dunkirk đã bị phong tỏa bởi một đội tàu Hà Lan gồm ba mươi flyboats của Chuẩn Đô đốc Justin nhà Nassau. Parma muốn rằng Hạm đội Armada sẽ gửi các tầu hạng nhẹ của nó để đẩy tầu của Hà Lan ra xa, nhưng Medina Sidonia không thể làm điều này vì ông ta sợ rằng ông cũng có thể cần các tàu này để bảo vệ chính mình. Không có cảng nước sâu, nơi hạm đội có thể trú ẩn – luôn luôn được nhìn nhận như là một khó khăn lớn cho đoàn chinh phục – và người Tây Ban Nha thấy mình dễ bị thiệt hại vì các cuộc tấn công về đêm. Lúc nửa đêm ngày 28 tháng 7, người Anh chuẩn bị tám tầu hỏa công (fireship), bằng cách dùng tầu chiến tiêu chuẩn nhồi vào chúng với hắc ín, diêm sinh, một số lượng thuốc súng, và cho chúng đi xuôi gió về phía các tàu thuyền neo chặt chẽ của Armada. Người Tây Ban Nha sợ rằng những tầu hỏa công này là loại “hellburners”, chuyên diệt tầu với đầy thuốc súng lớn, vốn đã được sử dụng với hiệu lực chết người tại Cuộc vây hãm Antwerp. Hai chiếc tầu hỏa công bị chặn lại và kéo đi, nhưng phần còn lại lao vào hạm đội này. Chiếc Kỳ hạm của Medina Sidonia và các tầu chiến chính vẫn giữ được vị trí của chúng, nhưng phần còn lại của đội tàu cắt dây neo của họ và phân tán trong sự hoảng loan. Không có tàu Tây Ban Nha nào bị đốt cháy, nhưng đội hình lưỡi liềm đã bị phá hỏng, và đội tàu bây giờ lại thấy chính nó ở quá xa dưới gió của Calais và phải theo hướng gió Đông nam để trở về vị trí cũ của nó. Các tàu của Anh vẫn ở tại đó chờ trận đánh.
Trận Gravelines
Tại chiếc cảng nhỏ Gravelines sau đó là một phần của Flanders trong Hà lan thuộc Tây Ban Nha, gần biên giới với Pháp và các vùng lãnh thổ gần nhất Tây Ban Nha đến Anh. Medina Sidonia đã cố gắng để tái lập đội hình của hạm đội của mình có và đã bị bắt buộc phải căng buồm ra xa hơn về phía đông khi biết sự nguy hiểm từ những bãi cát ngầm ngoài khơi Flanders, mà những kẻ thù Hà Lan của ông ta đã xóa bỏ các biển báo.
Các tầu Anh đã học hỏi được nhiều từ những điểm mạnh và điểm yếu của Hạm đội Armada trong cuộc giao tranh tại English Channel và có kết luận là cần thiết để tiến đến gần trong vòng 100 mét để có thể bắn xuyên thủng vỏ gỗ sồi của các tàu Tây Ban Nha. Họ dành phần lớn thuốc súng của họ trong trận đầu tiên và sau khi Wight bị buộc phải đạn súng hạng nặng và bột thuốc súng của họ cho một cuộc tấn công cuối cùng gần Gravelines. Trong tất cả các trận đánh, súng hạng nặng của Tây Ban Nha không thể nạp lại đạn vì số lượng hàng hóa chất ở giữa sàn, như Francis Drake đã phát hiện khi thu giữ một chiếc tàu Tây Ban Nha ở Solent. Thay vào đó họ bắn một loạt và sau đó chiến thuật chính là sử dụng lính thủy vũ trang nhảy bằng những dây chằng lên boong của tầu đối phương để đánh xáp lá cà. Trong thực tế, bằng chứng từ những xác tầu của Hạm đội Armada ở Ai-len cho thấy phần lớn đạn dược của hạm đội đã không bao giờ được sử dụng hết. Quyết tâm của họ để có được một chiến thắng theo kiểu chiến đấu giáp lá cà chứng tỏ một điểm yếu của Tây Ban Nha, nó đã được sử dụng hiệu quả trong những dịp như trận chiến Lepanto và Trận Ponta Delgada (1582), nhưng người Anh đã nhận biết được sức mạnh này và tìm cách tránh nó bằng cách giữ khoảng cách của họ.
Với khả năng cơ động vượt trội của mình, tầu Anh khiêu khích tầu Tây Ban Nha, trong khi họ vẫn giữ ở ngoài phạm vi bị áp mạn. Anh sau đó lao vào gần, bắn đi bắn lại các pháo mạn và làm hư hại tàu của đối phương. Cách này cũng giúp họ duy trì một vị trí để đổi hướng gió và làm cho các các đuôi sống tầu của Hạm đội Armada bọ lộ ra và bị phá hủy dưới dòng nước.
Năm tàu Tây Ban Nha đã bị phá hủy. Tầu galleass San Lorenzo bỏ chạy và bị mắc cạn ở Calais và đã bị chiếm bởi nười của Howard sau một trận đánh chết chóc giữa các thủy thủ đoàn, các nô lệ chèo tầu galley, là người Anh và người Pháp những người cuối cùng đã sở hữu cái xác tầu. Các tầu buồm San Mateo và San Felipe trôi dạt đi trong tình trạng sắp chìm, bị mắc cạn trên đảo Walcheren ngày hôm sau, và bị bắt bởi người Hà Lan. Một tầu carrack bỏ chạy và bị mắc cạn ở gần Blankenberge. Nhiều tàu Tây Ban Nha khác đã bị hỏng nặng, đặc biệt là tầu buồm Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha lớp có khả năng chạy trên Đại Tây Dương vì chúng đã phải phải gánh chịu các cuộc giao tranh trong những giờ đầu của trận chiến trong hành động tuyệt vọng của các cá nhân chống lại các nhóm tàu Anh. Kế hoạch của Tây Ban Nha để vận chuyển đội quân của Parma đã bị đánh bại, và Anh đã dành một số không gian để hít thở. Nhưng Hạm đội Armada hiện diện tại vùng biển phía Bắc vẫn còn là mối đe dọa lớn đến Anh.
Bài phát biểu ởTilbury
Một ngày sau trận Gravelines, đã có gió thổi từ phía nam, cho phép Medina Sidonia di chuyển hạm đội của mình về phía bắc từ bờ biển Pháp. Mặc dù các thùng thuốc súng của họ đã bị dùng gần như trống rỗng, các tầu của Anh theo đuổi trong một nỗ lực để ngăn chặn kẻ thù từ quay lại hộ tống quân đội của Parma. Ngày 2 tháng tám theo lịch cũ (ngày 12 tháng 8 lịch mới) Howard ra lệnh tạm dừng lại với các tầu của Anh đang đuổi theo đuổi ở vĩ độ của 4 of 5 ở ngoài khơi Scotland. Bởi điểm đó các tầu Tây Ban Nha phải chịu đưngh cái khát và kiệt sức, và lựa chọn duy nhất còn lại để Medina Sidonia có thể đưa hạm đội quay về Tây Ban Nha, qua một con đường rất nguy hiểm.
Các mối đe dọa của cuộc xâm lược từ Hà Lan vẫn chưa bị giảm đi đối với người Anh, và Robert Dudley, Công tước của Leicester duy trì một lực lượng gồm 4.000 lính tại đông Tilbury, thuộc Es***, để bảo vệ các cửa sông của sông Thames chống lại bất kỳ cuộc xâm lăng nào từ phía con sông hướng về London .
Ngày 8 Tháng Tám lịch cũ (ngày 18 tháng 8 lịch mới) Nữ hoàng Elizabeth đã đến Tilbury để khuyến khích các lực lượng của bà, và ngày hôm sau bà đã đã phát biểu với họ những gì có được gọi là bài phát biểu nổi tiếng nhất của bà:
Quay trở về Tây Ban Nha
Sau thất bại của Hạm đội Armada trong trận chiến hải quân của Gravelines, nó cố gắng để trở về Tây Ban Nha qua Bắc Đại Tây Dương, khi đang hướng vào hành trình của mình thì nó đã gặp cơn bão dữ dội và hướng về bờ biển phía tây của Ai-len. Triển vọng của một cuộc đổ bộ của quân đội Tây Ban Nha làm chính phủ Dublin dưới sự kiểm soát Nữ hoàng Elizabeth I lo lắng, và các biện pháp khắc nghiệt đã được tiến hành với cả quân xâm lược Tây Ban Nha và với bất kỳ người Ailen có thể hỗ trợ họ.
Trong trường hợp này, có tới 24 tàu Tây Ban Nha bị đắm trên một bờ biển lổn nhổn đá trải rộng 500 km, từ phía bắc của Antrim đến phía nam của Kerry, và sự đe dọa vào vương quyền của nước Anh đã dễ dàng bị đánh bại. Hầu hết các nạn nhân của nhiều tầu đắm đã bị chết, và phần còn lại bỏ chạy ngang qua biển đến Scotland. Người ta ước tính rằng 5.000 thành viên của đội tàu Tây Ban Nha chết ở Ai-len.
Chi tiết của cuộc hành trình chết chóc
Một cuộc họp của các chỉ huy của Hạm đội Armada đã được tổ chức tại chiếc Kỳ hạm, một số chỉ huy đề xuất một chuyến hành trình qua Na Uy, những người khác lại đề nghị đi qua Ai-len. Medina Sidonia thực hiện sự lựa chọn của mình, và sự chỉ dẫn đã được thông báo tới các đội tàu:
Lộ trình này là đầu tiên giữ hướng của nó ở phía bắc / đông bắc cho đến khi họ đến được điểm 61 độ 1/2; và sau đó họ phải rất chú ý vì sợ rơi vào bờ biển của Ai-len. Sau đó, họ rời khỏi các hòn đảo ở vị trí 61 độ 1/2, và đi về phía tây / phía tây nam cho đến khi họ đến được vị trí 58 độ và từ đó đến phía tây nam tới vị trí 53 độ; và sau đó ở phía nam / phía tây nam tới mũi Finisterre, và như vậy họ có thể đến được Ferrol, hoặc đến bất kỳ cảng khác của bờ biển Galicia.
Theo hướng dẫn này, các tàu đã tiếp cận bờ biển Na Uy, trước khi lái tầu đến kinh tuyến của Quần đảo Shetland và đảo Rockall. Điều này cho phép họ di chuyển an toàn qua bên trong mũi phía nam của Shetlands, và hạm đội bơi cách bờ biển Scotland khoảng 100 dặm. Sau khi ra Đại Tây Dương, các chỉ huy nhận được lệnh một điểm vượt ra ngoài cửa sông Shannon khoảng 400 dswmj trên bờ biển phía tây của Ai-len, sau đó chạy một mạch về phía bờ biển Bắc Tây Ban Nha.
Hạm đội Armada đi theo hành trình được định trước, đoàn tầu đến được Biển Bắc và tiến vào Đại Tây Dương từ bắc Uist thuộc quần đảo Hebrides, cho đến khi nó thấy chính nó đang ở ngoài khơi Rockall. Các sổ nhật ký còn tồn tại cho thấy, hạm đội đã đến được chính xác chỗ nó đã dự định và ước tính khoảng cách từ bờ biển Ailen tới điểm này là 95 league. Một số hoa tiêu của Hạm đội Armada có thể đã sử dụng một bản đồ của Ai Len được xuất bản bởi Mercator mười năm trước đó, bản đồ này đã mô tả bờ biển phía đông Đại Tây Dương với một mức độ chính xác hợp lý. Tuy nhiên, đi biển bờ biển phía Tây của đảo Ailen yêu cầu phải có kiến thức sâu sắc, và những hoa tiêu giàu kinh nghiệm đi biển của Tây Ban Nha trong bờ biển phức tạp Ailen và điều kiện thời tiết là những yếu tố chủ yếu để hạn chế đoàn convoy đi về phía nam và phía tây nam của đất nước này.
Tại Rockall một phần của đội tàu lạc hướng với các hướng dẫn của Medina Sidonia. Có thể là do đội hình của đội tàu đã bị mất liên lạc trong thời tiết hay sương mù, nhưng sau bảy tuần ở ngoài khơi gần bờ biển của Ailen, sức hấp dẫn của việc tìm kiếm nguồn cung cấp và sửa chữa đã ảnh hưởng đến đội hình của các đội tầu. Trong trường hợp này, chỉ có 84 tàu theo sau kỳ hạm của Medina Sidonia đi đúng hành trình đã dự định. Hầu hết trong số này đã về được nhà, mặc dù vẫn phải chịu những thiệt hại năngh nề.
Một chỉ huy của Hạm đội Armada, Juan Martinez de Recalde, người có kinh nghiệm. Năm 1580, ông ta đã tham gia đổ bộ lực lương xâm lược Papal vào bán đảo Dingle, dẫn đầu cuộc vây hãm Smerwick. Trong quá trình hoạt động đó, ông đã cố gắng để né tránh một đội Anh gồm cả tầu Revenge. Trong Hạm đội Armada, Recalde là chỉ huy của chiếc Galleon San Juan de Portugal của thuỷ đoàn Biscayan, đã chạm súng với hạm đội Anh tại English Channel và cố gắng để bắt giữ Francis Drake trên chiếc Revenge, John Hawkins trên chiếc Victoria, và Martin Frobisher trên chiếc Triumph.
Bộ phận của hạm đội bị tụt xuống theo bờ biển Ailen năm 1588 – có lẽ trong số 28 chiếc – dường như đã duy trì được một số liên lạc với đội tầu của Recalde, mặc dù điều kiện thời tiết đã làm cho thông tin liên lạc bị hỗn loạn ( chắc bằng cờ và đèn ). Đã có một số thuyền buồm, nhưng hầu hết các tàu buôn vốn đã được chuyển đổi cho mục đích chiến đấu và bây giờ đã bị rò rỉ nặng nề, với phần lớn neo của họ mất và làm buồm với cột buồm bị hỏng nặng. Vào đầu tháng chín, họ bị mất liên lạc với Recalde ở phía hướng gió tây nam. Trong khoảng vài ngày, đội tàu bị lạc này đã dạt vào bờ biển Ai-len
Sự chuẩn bị đối phó của Chính phủ Anh
Người đứng đầu của chính quyền Anh tại Dublin là Phó vương William Fitzwilliam, người đã thay thế John Perrot trong năm 1587. Vào tháng tám năm 1588 Fitzwilliam được đệ trình các tình báo đáng tin cậy rằng các trận đánh English Channel là chiến thắng của người Tây Ban Nha và rằng cuộc xâm lược tới Anh đang được hoàn tất. Sau đó, ông ta lại hiểu rằng người Tây Ban Nha đã vào được biển Đại Tây Dương và toàn bộ hạm đội đã đổ bộ vào bờ biển của Ai-len. Mức độ báo động của người Anh tại Dublin cao cùng cực, và Fitzwilliam đã đưa ra báo cáo sai này về London và nhận được 10.000 quân tiếp viện từ Anh.
Người Anh sợ rằng người Tây Ban Nha sẽ đổ bộ một cách có kỷ luật, và người Ailen sẽ gia nhập với họ từ vùng lãnh thổ mà hầu như ngoài tầm kiểm soát của chính phủ Elizabeth tại Dublin. Nhưng tin tình báo đáng tin cậy đã sớm đến được Waterford và Dublin, rằng các tàu của người Tây Ban Nha cập bờ một cách hỗn loạn tại các địa điểm khác nhau ở các tỉnh Ulster, Connacht và Munster, trên một bờ biển trải rộng 300 dặm (500 km). Mệnh lệnh của Phó Vương Fitzwilliam là bắt và hành quyết tất cả người Tây Ban Nha, việc sử dụng tra tấn đã được dùng để truy đuổi những người sống sót, và những người giúp đỡ họ được tính như là kẻ phản bội với Hoàng gia.
Cập bờ tại Munster
Các lần cập bờ đầu tiên của các tàu thuộc Hạm đội Armada ở tỉnh phía nam của Ai-len, mà mới trở thành thuộc địa của Anh tại Plantation of Munster sau sự đàn áp thành công cuộc nổi loạn cuối cùng tại Desmond năm 1583. Fitzwilliam nhận được lệnh từ London để dẫn một đoàn quân đóng ở đó, và tin tình báo từ các thống đốc Connacht, Richard Bingham, sớm xác nhận rằng các đợt đang tiếp tục được thực hiện trong suốt phía tây và phía bắc của đất nước. Bảy tàu neo an toàn tại Scattery Roads, và có thể xảy ra chúng được dẫn đường bởi một hoa tiêu đã biết bờ biển. Một cố gắng để đổ bộ bị đẩy lùi, mặc dù vậy họ đã được bảo đảm bằng một nguồn cung cấp nhất định trong khi việc sửa chữa tầu được thực hiện. Một trong những tàu, chiếc Annunciada, được chuyển giao một cách vội vã với thuỷ thủ đoàn của nó cho de Barco Danzig, người đã đưa nó về Tây Ban Nha một cách an toànsau khi rời cửa sông Shannon, ngày 11 tháng Chín.
Đảo Blasket
Phân đội của Recalde gồm ba tầu: San Juan de Portugal (1.150 tấn, 500 lính, 20 súng), San Juan de Bautista (750 tấn, 243 linh), và một tàu nhỏ – gần như chắc chắn là một tầu câu cá của người Scotland đã được thu giữ để hỗ trợ việc thám hiểm gần bờ. Các tàu làm theo cách của họ để đi qua một cơn bão gần bờ biển Kerry, những người quan sát đã nhìn thấy mũi Mount Brandon trên bán đảo Dingle và phía tây hùng vĩ của đảo Blasket, một quần đảo rải rác phức tạp với các rạn san hô.
Recalde hướng về phía đảo Blasket để tìm nơi trú ẩn, và chọn để đi theo thuỷ triều qua một khoảng hổng nhỏ ở mũi đông của đảo Blasket Lớn. Tầu Galleon của ông đã bơi qua vùng biển lặng và bỏ neo cạnh một vách đá dưới đáy biển toàn cát. Các tâud Bautista và tầu cá theo ngay sau đó. Như vậy sự khó khăn trong cách đi này là nó chỉ có thể được dự tính với kiến thức sâu sắc của đường bờ biển, và việc neo đậu đảm bảo rằng gió chỉ có thể lái tàu ra khơi và đưa họ ra biển rộng
Các tàu vẫn tạm trú ẩn ở đó trong nhiều ngày, và một lực lượng Hoàng gia dẫn đầu bởi Thomas Norris (anh trai của người lính này, John Norris) và Edward Denny (chồng của Lady Denny) đến Dingle để canh gác chống lại việc đổ bộ. Recalde đã cử trinh sát bên bờ, nhưng tất cả tám thành viên đã bị bắt. Trong một khoảng khắc có gió Tây lớn làm chiếc Portugal va chạm với chiếc Bautista, và khi gió lặng một chiếc tàu khác, chiếc Santa Maria de la Rosa (900 tấn, 297lính: thuộc phân đội Guipuzcoa) nhập vào eo biển từ phía bắc và bắn chào bằng một khẩu súng của nó.
Khi thủy triều xuống, Recalde tổ chức neo đậu tàu của họ ở che chở phần khác của eo biển, trong khi Rosa trôi dạt và sau đó đơn giản là chìm – có lẽ là do đã giao chiến ở Stromboli Rock – để lại một trong những người sống sót cho người Anh tra ho?i. Những người sống sót đã thông báo rằng thuyền trưởng của chiếc Rosa đã gọi hoa tiêu là một kẻ phản bội và đâm xuyên người anh ta bằng một thanh kiếm khi con tàu bắt đầu chìm, ông cũng khẳng định rằng Hoàng tử Ascoli, con trai của vua Tây Ban Nha, đã chìm với con tàu này – thông tin này là sai, nhưng nó đã chứng minh sự tuyên truyền hữu ích của người Anh.
Hai tàu nữa vào được eo biển – chiếc San Juan de Ragusa (650 tấn, 285 lính), và một chiếc khác không rõ tên. Chiếc Ragusa đã gặp nạn và chìm – có lẽ trên rạn san hô nổi Dunbinna. Tầu Bautista đã cố gắng tận dụng lợi thế thuỷ triều xuống và căng buồm về phía nam để ra khỏi eo biển, cuối cùng đã chạy theo dòng chảy của thủy triều để tránh rất nhiều các rạn san hô, trước khi bơi qua phía tây bắc. Sau một đêm khó khăn, thủy thủ đoàn đã mất hết can đảm để thấy mình laih ở cửa eo biển một lần nữa. Nhưng gió đã thổi từ phía đông nam, và cuối cùng chiếc Bautista đã trốn thoát vào ngày 25 tháng chín và về Tây Ban Nha qua một cơn bão khủng khiếp.
Ba ngày sau Recalde dẫn đầu các tàu còn lại eo biển và đưa họ về đến Tây Ban Nha, nơi mà ông ta đã chết ngay sau đó. Những người sống sót trong số những người rơi xuống nước bị bắt bởi lực lượng của Denny và bị giết tại Dingle.
Tại Fenit: thông báo hạm Nuestra Senora del Socorro (75 tấn) neo tại Fenit, trong Tralee Bay trên bờ biển của Kerry, nơi nó đầu hàng quân đội Hoàng gia. 24 thuỷ thủ trên tàu bị bắt giam và chuyển đến lâu đài Tralee lâu đài.Theo lệnh của Lady Margaret Denny, Tất cả họ đã bị hàng quyết bằng treo cổ.
Tại các vách đá Moher về phía nam của Mũi Hag
Đảo Valentia: Chiếc Trinidad (800 tấn, 302 lính) đã bị đắm trên “bờ biển của Desmond” – có thể là tại Valentia Island, ngoài khơi bờ biển phía nam Kerry – mặc dù không có các chi tiết của sự kiện này .
Tại Clare: Ngoài khơi bờ biển County Clare nhiều tàu của Hạm đội Armada đã được nhìn thấy. Bốn chiếc đã được báo cáo là tại Loop Head, hai trong số đó đã bị đắm, bao gồm chiếc Sant Esteban (700 tấn, 264 lính) ở Doonbeg, và có lẽ là chiếc San Marcos đã bị hỏng nặng (790 tấn, Thuỷ thủ đoàn người Bồ Đào Nha, 409 lính, 33 súng) tại Spanish Point bên trong đảo Mutton Island. Những người sống sót đã bị hành quyết theo lệnh của cảnh sát trưởng của Clare, Boetius MacClancy.
Tại Liscannor chiếc galleass có mái chèo Zuniga (290, Napoli) neo xa bờ với một bánh lái bị hỏng, nó tìm thấy một lỗ hổng trong các vách đá Moher, các vách đá này mọc thẳng đứng khoảng hơn 220 mét từ mặt nước. Chiếc tàu nằm dưới sự giám sát của cảnh sát của Clare và, khi một thuyền nhỏ được gửi lên bờ để tìm kiếm các nguồn cung cấp, người Tây Ban Nha đã bị tấn công bởi quân đội Hoàng gia và đã phải rút lui về tàu của họ. Một trong số họ đã bị bắt và được gửi đi xét hỏi. Chiếc Zuniga thoát khỏi bờ biển khi sức gió thuận lợi, dừng lại ở Le Havre, và cuối cùng quay trở lại Napoli trong năm sau.
Tại Ulster
Tại Donegal: Chiếc La Trinidad Valencera (1.000 tấn, Thuỷ thủ đoàn từ Levant, 360 lính, 42 súng) bị nước vào nhiều và có thể được bơm ra khi nó đến gần bờ biển. Tuy nhiên 264 lính từ chiếc de Barca Amburgo, chiếc tàu đã được thực tế chìm trong biển dữ dội, đã được vớt lên tàu. Chiếc Trinidad neo tại Vịnh Glenagivney mà nay là County Donegal, nơi nó được xác định mức độ phá huỷ là quá lớn và tất cả đã quyết định là bỏ tàu. Một số người dân địa phương đã được trả tiền cho việc sử dụng một chiếc thuyền nhỏ, và trong quá trình hai ngày tất cả 560 người đàn ông đã cập bờ.
Dunluce Castle. Sau bảy ngày lang thang trong nội địa, những người sống sót đã gặp một lực lượng của kỵ binh dưới sự chỉ huy của- người em nuôi của Hugh ONeill, 3rd công tước của Tyrone. Sau khi có cam kết đảm bảo an toàn tính mạng của Fitzwilliam được đưa trong sự hiện diện của Bá tước của Tyrconnell – người Tây Ban Nha hạ vũ khí đầu hàng. Các quý tộc và sỹ quan được tách ra và 300 lính thường bị tàn sát. Số còn sống sót 150 bị ném vào đầm lầy và chết ở Sorley Boy MacDonnell tại Dunluce hoặc tại nhà của Redmond OGallagher, giám mục của Derry, và sau đó được gửi đến Scotland. Các quý tộc và 45 sỹ quan phải đi bộ đến Dublin, nhưng chỉ có 30 sống sót, trong đó họ đã được chuyển đến London để chuộc. ONeill quở trách Tyrconnell về sự phản bội lời hứa của ông với người Tây Ban Nha, và thực hiện các nỗ lực để hỗ trợ cho tất cả những người sống sót trong lãnh thổ của mình.
Thêm hai tàu không xác định được tên bị đắm trên bờ biển Donegal, một trong chúng ở Mullaghderg, chiếc khác ở Rinn Chaislean
Tại Connacht
Thống đốc Connacht, Richard Bingham, tìm cách xin tiếp viện từ Dublin nhưng yêu cầu của ông đã bị từ chối bởi Fitzwilliam, vì bản thân ông ta cũng không có đủ các nguồn lực để cứu viện. Một tuyên bố là những người giúp đỡ người Tây Ban Nha sẽ bị coi là phản bội và sẽ phải chịu một cái chết đau đớn.
Nhiều người sống sót đã được chuyển tới Galway từ khắp nơi trên địa bàn tỉnh. Trong làn sóng đầu tiên của đợt bắt giữ, 40 người có dòng dõi quý tộc được phân loại riêng để lấy tiền chuộc, và 300 thường binh bị xử bắn. Sau đó, theo lệnh của Fitzwilliam, tất cả những người quý tộc cũng bị tử hình, ngoại trừ hai người, cùng với sáu cậu bé người Hà Lan được sống sót nhưng bị quản lý chặt chẽ sau đó. Tất cả có 12 tàu bị đắm trên bờ biển của Connacht, và 1.100 người sống sót đã bị tử hình.
Tại Galway: Chiếc Falco Blanco (300 tons/103 lính/16 súng) và Concepcion của Biscay (225 lính, 18 súng) và các tàu khác không rõ đi vào Galway Bay. Chiếc Falco Blanco cập bến tại Barna, 5 km về phía tây của thành phố Galway, và những người trên tàu đã cố gắng làm cho nó cập được vào bờ. Chiếc Concepcion cập bờ cách Carna 30 km về phía tây, nó bị thu hút vào bờ do lửa từ kho thuốc súng bị cháy trên xác bị chìm của chiếc OFlaherty.
Tại Sligo: Ba tàu bị đắm trên bờ biển của Sligo, với 1.800 thủy thủ chết đuối và có lẽ khoảng 100 người bơi được vào bờ. Trong số những người sống sót có thuyền trưởng Francisco de Cuellar, Người đã viết một tự chuyện đáng kể về kinh nghiệm của mình trong đội tàu và trên chạy trốn ở Ai Len.
Tại Mayo: Vào tháng 9 một tầu Galleon bị đắm tại Tyrawley (hiện nay là Quận Mayo), và một số đã đến bờ, 80 người bị giết trên bãi biển bằng rìu bởi một nhóm chiến binh gallowglass và 72 người (cùng với một giám mục) đã được đưa tới tạm giữ tại nhà tù Hoàng gia và tử hình tại Galway theo lệnh của Fitzwilliam.
Dường như một chiếc tàu đã bị đắm trong vùng phụ cận, gần Kid Island, nhưng vẫn không có hồ sơ của sự kiện này. Ngoài ra, còn chiếc Gran Grin đã bị đắm tại Clew Bay.
Tại đảo Aran: Hai tàu đã được nhìn thấy ngoài khơi Aran đảo, một chiếc không tiếp đất được bởi thời tiết xấu, và không có ai được biết những gì đã xảy ra với họ.
Chiếc Girona: Sự mất mát duy nhất về cuộc sống xảy ra khi xác của chiếc galleass Girona, vốn đã có trên tàu nhiều người sống sót từ các tàu đắm khác trên bờ biển của Connacht, và sau đó bị đắm ngoài khơi bờ biển Antrim.
Trong số này là tầu buôn carrack La rata Santa Maria Encoronada (419 lính, 35 súng), vốn đang chạy trên bờ biển Ailen một cách tuyệt vọng vì cần sửa chữa, cùng với bốn tàu khác của đội Levant và bốn thuyền buồm. Chiếc Rata mang một số lượng lớn bất thường các quý tộc từ các gia đình cổ xưa nhất của Tây Ban Nha – trong số đó có Đôn Alonso Martinez de Leyva ?” cùng với con trai của lãnh tụ nổi loạn người Ai Len, James Fitzmaurice Fitzgerald.
Chiếc Rata đã được điều khiển một cách khéo léo dọc theo bờ biển phía bắc của Mayo, nhưng không thể ra khỏi bán đảo Mullet, Và do đó neo tại Blacksod Bay vào ngày 07 tháng 9. Gió nổi to và kéo đứt neo làm con tàu bị đẩy dạt vào Ballycroy. Tất cả các thủy thủ đoàn đến được bờ biển dưới sự chỉ huy của de Leyva, và hai lâu đài đã bị chiếm giữ và củng cố bằng đạn súng đạn dự trữ, xác tầu ở bờ biển bị đốt. Con trai của lãnh tụ nổi loạn, Maurice Fitzmaurice đã chết trên tàu, và được thả xuống biển bằng những cây bách (chắc là kết thành bè???).
Người Tây Ban Nha nhanh chóng chuyển sang một lâu đài, nơi họ đã gặp một nhóm đồng bào, những người sống sót, đến từ xác của chiếc Broadhaven, vốn đã đi được vào eo biển mà khôngcó cột buồm. Nhóm của De Leyva bây giờ đã lên tới con số 600, và thống đốc của Connacht, Richard Bingham, đã không chọn phương án để đối đầu với chúng. Sau một số ngày hai tàu của Hạm đội Armada nhập Blacksod Bay ?” các tầu Nuestra Senora de Begona (750 tấn, 297 lính) và chiếc tầu vận tải Duquesa Santa Ana (900 tấn, 23 súng, 357 lính). De Leyva và 600 lính của mình lên chiếc Duquesa. Chiếc Nuestra Senora khởi hành thẳng đến Santander, Tây Ban Nha một thời gian sau đó. Tuy nhiên chiếc Duquesa đã phần nào bị hư hại, và họ đã quyết định căng buồm về phía bắc Scotland. Bão tố đã tẫn công chiếc Duquesa và nó đã đến được vịnh Donegal thuộc Loughros, và tất cả đã tiếp đất an toàn tại một vùng bờ biển thân thiện (người Scotland lúc đó đa số vẫn theo Công giáo và ghét người Anh như mẻ)
De Leyva bị thương nặng bởi một cây bá lan, phải cắm trại bên bờ vịnh trong chín ngày, cho đến khi có tin tức của một tàu của hạm đội Armeda, chiếc galleass Girona, vốn đã neo tại bến cảng Killybegs, trong khi hai chiếc tàu khác bị mất một ngày để cố gắng vào bến cảng. Với sự hỗ trợ của một thủ lĩnh Ailen, MacSweeney Bannagh, chiếc Girona đã được sửa chữa và căng buồm vào giữa tháng mười với 1.300 người trên tàu, trong đó có de Leyva. Vượt qua Eo biê?n Foyle , nhưng sau đó họ lại gặp gió lớn và chiếc Girona bị đẩy lên bờ ở Dunluce nơi hiện nay là County Antrim. Chỉ có chín người may mắn sống sót, những người này được gửi về đến Scotland bởi Sorley Boy MacDonnell, 260 thi thể được đánh giạt lên bờ.
Tổng số 24 – 28 tầu bị đắm ở bờ biển Ailen (chiếm khoảng 1/3 số tầu bị đắm), khoảng 5.000 người Tây Ban Nha bị chết đuối, chết đói và bị hành hình bởi người Anh khi họ cố gắng để bơi được vào bờ ; chỉ có một nửa số tầu của hạm đội Armada Tây Ban Nha trở về được Tây Ban Nha. Một số người sống sót đã được che dấu bởi những người Ai Len, nhưng vài chỉ vài người Tây Ban Nha sống sót để nhận được sự giúp đỡ của người Ailen, một số ít hơn có thể trở được về nhà. Cuối cùng, tổng số có 67 tàu và khoảng 10.000 người còn sống sót. Nhiều người trong số này đã gần chết do bệnh, như là điều kiện rất chật chội và hầu hết các tàu đã hết thực phẩm và nước. Nhiều người nữa chết ở Tây Ban Nha, hoặc trên các tàu bệnh viện tại cảng của Tây Ban Nha, từ các bệnh bị lây trong chuyến đi này. Người ta nói rằng khi Philip II đã biết được những kết quả của đoàn viễn chinh, ông tuyên bố: “Tôi đã gửi các tầu của Hạm đội Armada để đánh nhau với con người, chứ không phải là đánh nhau với gió và sóng của Chúa Trời”. Tuy rất thất vọng, ông vẫn tha thứ cho Công tước Medina Sidonia.
Kết Thúc
Người Anh bị thiệt hại tương đối ít, và không có tàu của họ bị chìm. Nhưng sau khi chiến thắng, bệnh sốt Rickettsia, kiết lỵ và thiếu dinh dưỡng đã giết nhiều thủy thủ của họ (ước tính khoảng 6,000-8,000 người) như họ đã bị loại ra mà không cần phải trả tiền: một cuộc tranh chấp làm nản lòng người đã xảy ra bởi sự thiếu hụt tài chính của chính phủ làm nhiều binh lính Anh chưa được trả tiền hàng tháng trời, hoàn toàn trái lập với sự hỗ trợ của chính phủ Tây Ban Nha để nhằm đưa những người còn sống sót của mình về nhà.
Mặc dù hạm đội Anh đã không thể ngăn chặn được sự tái nhóm của Hạm đội Armada trong trận Gravelines, nó đòi hỏi vẫn phải làm việc này thậm chí là hàng ngàn thủy thủ của nó đã chết, kết quả đã chứng minh chiến lược này là đúng, dẫn đến một cuộc cách mạng trong hải quân với sự cải tiến của thuật bắn đại bác, mà cho đến khi đó nó chỉ đóng vai trò hỗ trợ cho nhiệm vụ ramming và tấn công lên boong. Trận Gravelines được các chuyên gia trong lịch sử quân sự coi là phản ánh một sự thay đổi lâu dài trong sự cân bằng hải quân đã có lợi thế cho người Anh, một phần vì khoảng cách về công nghệ và trang bị vũ khí hải quân đã được xác nhận giữa hai nước trong thế kỷ đó và tiếp tục vào thế kỷ tiếp theo. Theo lời của Geoffrey Parker, năm 1.588 các tầu chiến hải quân của Elizabeth đã thành lập hạm đội mạnh nhất so vơid bất cứ nơi nào trên thế giới. Tuy nhiên sau thất bại của nó trong các chiến dịch Armada Hải quân Tây Ban Nha cũng trải qua một cuộc cải cách chính giúp nó duy trì việc kiểm soát vùng biển riêng của mình và các tuyến đường biển nhiều trong thế kỷ tiếp theo.
Ở Anh, là chiến thắng này là động lực để niềm tự hào quốc gia kéo dài trong nhiều năm, và huyền thoại của Elizabeth tiếp tục tồn tại lâu dài sau cái chết của bà. Việc có thể đẩy lùi hải quân Tây Ban Nha đã cổ vũ trái tim của những người Kháng cách trên khắp châu Âu, và niềm tin rằng Thiên Chúa đã đứng sau người Tin lành đã được thể hiện bằng hàng chữ nổi bật của kỷ niệm chương mà khoan dòng chữ, He blew with His winds, and they were scattered (Ngài đã thổi bằng ngọn gió của ngài và họ đã tan rã). Cũng có nhiều kỷ niệm chương mang tính hài hước, chẳng hạn như một chiếc chơi chữ theo câu của Caesar: Venit, Vi, Fugit (họ đã đến, họ đã thấy,họ đã chạy trốn). Chiến thắng được hoan nghênh lớn nhất bởi người Anh kể từ chiến thắng của họ tại Agincourt.
Tuy nhiên, một nỗ lực để tạo lợi thế của người Anh đã không thành công năm sau đó, khi một hạm đội tương đương của Anh (so với hạm đội Armada của Tây Ban Nha) khởi hành từ Bồ Đào Nha và Azores vào năm 1589. Cuộc viễn chinh của Norris-Drake hoặc Hạm đội Armada của Anh đã phải te tua chạy về nhà sau khi không phối hợp một cách hiệu quả với người Bồ Đào Nha.
Trận hải chiến Hạm đội Armada của người Anh
Ngày diễn ra trận đánh: trong năm 1589
Vị trí: trận đánh: Bờ biển Iberia
Kết quả: Tây Ban Nha chiến thắng quyết định
Các bên tham chiến
Hạm đội Vương quốc Anh
Hà Lan
Chỉ huy
Elizabeth I của Anh
Robert Devereux
Francis Drake
John Norreys
Sức mạnh
6 tầu Galleon
60 tàu buôn vũ trang
60 flyboats Hà Lan
20 tầu Pinnace
23.000 binh lính
Thương vong và thiệt hại
30 tàu
13.000 người chết
5.000 người bỏ ngũ
Tây Ban Nha
Vương quốc Bồ Đào Nha
Chỉ huy
Philip II của Tây Ban Nha
Álvaro Troncoso
Conde de Fuentes
María Pita ( người nữ anh hùng ở thành phố Corunna)
Sức mạnh
4 tầu Galleon
Tàu buôn vũ trang ( không rõ số lượng)
15.000 binh lính
Thương vong và thiệt hại
900 người chết
Hạm đội Armada của người Anh (còn được gọi là Counter Armada (Phản công), Hoặc cuộc chinh phục của Drake-Norris) là một hạm đội tàu chiến của Nữ hoàng Elizabeth I của nước Anh được gửi đến các vùng bờ biển Iberia trong năm 1589, trong chiến tranh Anh-Tây Ban Nha (1585-1604). Nó đã được chỉ huy chung bởi các đô đốc Sir Francis Drake và Sir John Norreys, và không thể giành được lợi thế cho nước Anh khi đã đánh tan hạm đội Armada của Tây Ban Nha trong năm trước. Các chiến dịch đều thất bại và cuối cùng người Anh nhận một tổn thất nặng với cả nhân mạng và tàu bè.
Mục đích và kế hoạch
Nữ hoàng Elizabeth đã chú ý để lợi dụng những điểm yếu tạm thời của người Tây Ban Nha trên biển sau khi đánh lui thành công của các tầu chiến của Hạm đội Armada thuộc Tây Ban Nha và bắt buộc Philip II phải chấp nhận các điều kiện hòa bình. Đây không phải là một vấn đề đơn giản, và cuộc viễn chinh gồm có ba nhằm mục đích khác biệt: để đốt cháy hạm đội Đại Tây Ban Nha, để đổ bộ xuống Lisbon và tạo ra một cuộc nổi loạn chống lại Philip II, và sau đó tiếp tục ở phía nam và thiết lập một căn cứ thường trực tại Azores. Một mục đích xa hơn là để nắm bắt lấy hạm đội kho báu của Tây Ban Nhai khi nó trở về từ châu Mỹ tới Cadiz, mặc dù điều này phụ thuộc phần lớn vào thành công của chiến dịch Azores.
Các tính toán quan trọng dựa trên sự hiểu biết về chính trị của Bồ Đào Nha. Đế chế Bồ Đào Nha bao gồm Brazil, à Đông Ấn, và một số các khu vực khác, và các cứ điểm thương mại tại Ấn Độ và Trung Quốc. Bởi một liên minh đáng tin cậy với Hoàng gia Bồ Đào Nha, Elizabeth hy vọng sẽ kiềm chế quyền lực Tây Ban Nha tại châu Âu và tạo ra cho bà ta thứ được ưa thích nhất, đó là sự sở hữu các tuyến đường thương mại trên biển.
Đó là một việc làm cực kỳ khó khăn, bởi vì các tầng lớp quý tộc trong nước của Bồ Đào Nha đã chấp nhận Philip II là vua của họ từ năm 1580. Người đang có yêu cầu đòi lại ngôi báu, António, tu viện trưởng của Crato ?” người cuối cùng còn sống sót là thừa kế của Nhà của Aviz ?” đã thất bại trong việc thành lập một chính phủ hiệu quả trong khi lưu vong tại Azores, và đã chuyển sang nước Anh để nhận hỗ trợ. Nhưng ông ta đã không phải là một nhân vật uy tín, và không đủ các cơ sở hợp pháp của mình, ông ta phải đối mặt với một đối thủ với các yêu cầu có lẽ tốt hơn, trong mắt của các nhà quý tộc của Bồ Đào Nha đó là Cortes, Catherine, nữ công tước xứ Braganza.
Các mưu đồ chính trị phức tạp không phải là hạn chế duy nhất cho đoàn viễn chinh. Giống như người tiền nhiệm Tây Ban Nha, Hạm đội Armada Anh được lên kế hoạch một cách quá lạc quan, dựa trên hy vọng lặp lại cuộc tấn công thành công của Drake vào Cadiz năm 1587. Một mâu thuẫn quan trọng nằm giữa các kế hoạch riêng rẽ, mỗi kế hoạch riêng rẽ lại có các tham vọng đòi hỏi quyền lợi riêng của nó. Nhưng nhu cầu bức xúc nhất là phải tiêu hủy hạm đội Đại Tây Ban Nha nằm ở cảng tại A Coruña, San Sebastián và Santander dọc theo bờ biển phía Bắc của Tây Ban Nha, đó là mệnh lệnh trực tiếp ra lệnh của nữ hoàng.
Đoàn viễn chinh được thành lập như là một công ty cổ phần, với vốn đầu tư khoảng £ 80.000 – một phần tư đến từ Nữ hoàng Anh, và 1/8 đến từ người Hà Lan, phần còn lại được góp bởi các quý tộc, các thương gia và các phường hội khác nhau. Những lo ngại về hậu cần và thời tiết xấu trì hoãn sự xuất phát của hạm đội, và sự rối loạn đã xảy ra khi hạm đội đang chờ ở EC. Người Hà Lan thất bại trong việc cung ứng các tàu chiến họ đã hứa, một phần ba số lương thực đã được tiêu thụ, và số binh sĩ chỉ có 1.800 cựu chiến binh trong khi các số lượng của các tình nguyện viên đã làm tăng quân số từ 10.000 đến 19.000 người so với kế hoạch. Hạm đội cũng thiếu súng công thành và kỵ binh ?” những binh chủng đã bị người Tây Ban Nha phung phí trong cuộc viễn chinh của Hạm đội Armada Tây Ban Nha năm trước ?” làm nảy sinh những nghi ngờ nghiêm trọng về mục đích của những người phụ trách khâu chuẩn bị hậu cần.
Tiến hành chiến dịch
Hạm đội Armada của người Anh được tạo thành từ 6 Galleon hoàng gia, 60 tầu buôn vũ trang Anh , 60 flyboats Hà Lan và khoảng 20 pinnaces. Ngoài số binh lính, có 4.000 thủy thủ và 1.500 sĩ quan và quý tộc ưa phiêu lưu mạo hiểm. Drake được phân công với tàu của ông ở hải đội thứ5, dẫn đầu đội của mình bằng chiếc Revenge, Sir John Norreys trên chiếc Nonpareil, anh trai Edward của Norrey trên chiếc Foresight, Thomas Fenner trên chiếc Dreadnought, và Roger Williams trên chiếc Swiftsure. Cũng đi với họ – chống lại mệnh lệnh của Nữ hoàng – là Công tước of Es*** (Bác này sau bị nữ hoàng cắt mất cái đầu ).
Hầu hết các tàu bị mất trong chuyến viễn chinh của Philip II năm 1588 đã được thay thế bằng tầu buôn vũ trang, trong khi cốt lõi của Hạm đội Đại Tây Dươn Armada – các Galleon của Hải quân của Tây Ban Nha – đã sống sót về nhà sau chuyến đi của họ và cập cảng tại các cảng Đại Tây Dương của Tây Ban Nha cho để sửa chữa, nơi chúng nằm hàng tháng, và dễ bị tấn công.
Sự chậm trễ không lường trước và lo sợ phải quay trở vùng vịnh Biscay làm cho Drake bỏ qua thành phố Santander, nơi mà hầu hết các công việc sửa chữa này đang tiến hành, và thay vì thế ông ta tấn công thành phố Corunna trong vùng Galicia. Norreys tấn công thị trấn thấp hơn, và giết khoảng 500 người Tây Ban Nha, và cướp bóc các hầm rượu vang, trong khi lực lượng của Drake bị phá hủy 13 tàu buôn vũ trang khi tấn công vào cảng. Trong hai tuần kế tiếp gió thổi hướng tây, và trong khi người Anh chuẩn bị cho một cuộc tấn công vào thị trấn bị bao vây Corunna ở trên cao ( Thành phố Corunna có hai phần, phần thấp bị quân Anh chiếm còn phần cao thì chưa) thì người Tây Ban Nha nỗ lực tăng cường các công sự của họ. Một vài chiếc Galleon của Tây Ban Nha vượt qua hạm đội Anh và nhiều lần cung cấp hậu cần cho những người đang phòng thủ, và khi cơn gió thuận lợi trở lại, các tầu Anh từ bỏ cuộc vây hãm,sau khi đã mất bốn thuyền trưởng và vài trăm lính trong cuộc giao tranh, cùng với 3.000 người khác trong 24 tàu vận tải, trong đó có tầu của Hà Lan, những người này ( bỏ ngũ) để trở về Anh hoặc tới thành phố La Rochelle. Những người ở lại sau đó chuyển sự chú ý của họ vào thành phố tiếp theo là Puente de Burgos, và cũng là nơi Norreys giành một chiến thắng khiêm tốn, và sau đó tất cả kéo đến Lisbon. ( Trong trận bao vây thị trấn Corunna, khi người Anh đang ào ạt tấn công và người Tây Ban Nha đã bắt đầu núng thế thì có một cô gái trẻ tên là María Pita xông ra đâm chết một lính Anh và hô to ” tất cả những người Tây Ban Nha, những người còn danh dự hãy xông lên theo tôi” thế là quân Anh chạy như một đàn vịt về phía vị trí ban đầu của họ)
Lisbon đã được nói đến là được bảo vệ bởi một đơn vị đồn trú bất mãn, nhưng trong khi người Anh đổ máu của mình tại Corunna thì người Tây Ban Nha đã dành một hai tuần quan trọng để chống đỡ cho sự bảo vệ của Bồ Đào Nha. Khi Norreys tiếp cận đến thành phố, các cuộc nổi dậy đã không nổ ra như dự kiến hoặc đã đạt được rất ít thành công. Drake đã bắt lấy cơ hội vào ngày 30 tháng sáu, để thu lấy một đội tầu gồm 20 tầu Pháp và 60 tầu Hanseatic, vốn đã phá bỏ cuộc phong tỏa của Anh với Tây Ban Nha bằng cách căng buồm bơi xung quanh phía bắc của Scotland chỉ để thoát ra trước khi pháo của người Anh nổ lên trong vịnh Tagus. Việc tịch thu này, theo ghi chú của RB Wernham, ( là một đòn hữu ích với sự chuẩn bị của Tây Ban Nha), nhưng sau đó họ được yêu cầu phải có một biện minh công khai ( vì đi đánh Tây Ban Nha nhưng lại bắt giữ tầu Pháp và tầu của Hanseatic ?” một liên minh thương mại hàng hải của người Đức), một Declaration of Causes từ phát ngôn riêng của Nữ hoàng nói rằng đây không phải là chiến lợi phẩm, thì bà ta và người đồng đầu tư người Anh của bà phải đối mặt với các thiệt hại đáng kể.
Người Anh lại chuẩn bị một đòn nữa để giáng vào nguồn cung cấp thực phẩm của hải quân Tây Ban Nha bằng cách tiêu diệt các kho dự trữ ở Lisbon, nhưng bất chấp sự cố gắng của Công tước vùng Es***, người đã hua thanh kiếm của mình ở tại cổng của thành phố với một vẻ thách thức những người bảo vệ thành phố, người Anh không thể chiếm được Lisbon mà không có pháo binh hoặc sự hỗ trợ của người Bồ Đào Nha trong việc mở cổng thành. Các cuộc tấn công được dự kiến đã không nổ ra, một phần vì sự vắng mặt của Drake, và lực lượng hải quân và bộ binh có thể bị chia cắt và bị mất liên lạc sau khi đổ bộ xuống Peniche, và quân phòng thủ cũng không mạo hiểm dàn quân để chiến đấu đối mặt. Essen nhận được mệnh lệnh từ Elizabeth là phải quay trở lại Anh, cùng với một từ chối gửi quân tiếp viện hoặc tổ chức một cuộc vây hãm, Nữ hòang không muốn mang gánh nặng chính của một cuộc chiến tranh trên bộ tại Bồ Đào Nha. Vì vậy đã quyết định tập trung vào mục tiêu thứ ba của đoàn đoàn viễn chinh, đó là việc thành lập một căn cứ thường trú tại Azores. Tuy nhiên, chiến dịch đã làm cho người Anh thiệt hại nặng nề. Lực lượng của Drack đã bắt đầu đẩy lui được lực lượng phòng thủ ngoài khơi của Tây Ban Nha nhưng bây giờ người Tây Ban Nha đã chuẩn bị sẵn sàng bảo vệ trên đất của chính mình và người Anh đã tỏ ra mệt mỏi và ngày ngày phải chịu nỗi khổ từ bệnh dịch hoành hành.
Người ta đã sớm hiểu rằng bất kỳ nỗ lực trên mặt đất nào tại vùng Azores là đòi hỏi quá sức, và Drake đã cố gắng thực hiện một nỗ lực cuối cùng để hoàn thành nhiệm vụ. Tại thời điểm này, hầu hết binh lính đã bị mất sức chiến đấu và chỉ khoảng 2.000 người còn khả năng đã được tập hợp. Thời tiết bão tố cũng làm hư hại một loạt tàu bè. Trong khi Norreys khởi hành về nhà vì bệnh tật và bị thương, Drake đã nhận trách nhiệm về ông những gì còn lại và tập hợp 20 tàu để săn tìm hạm đội kho báu. Ông bị tấn công bởi một cơn bão ghê gớm và không thể thực hiện được nhiệm vụ của mình, và trong khi Porto Santo Madeira bị đánh cướp thì chiếc kỳ hạm của ông, the Revenge, bị một rò rỉ và hầu như nó đã bị đắm khi dẫn đầu phần còn lại của hạm đội Anh về Plymouth.
Cuộc viễn chinh là một thảm họa hải quân và một thất vọng lớn. Không một mục đích nào của nó đã được thực hiện, và trong nhiều năm sau đó kết quả này đã không khuyến khích thêm các chiến dịch cổ phần trên quy mô như vậy được thực hiện. Người Anh phải chịu những tổn thất nặng nề của tàu bè, và binh lính (phần lớn là do bệnh tật) và các nguồn lực khác, nhưng chỉ mang về 150 khẩu pháo chiến lợi phẩm và giá trị £ 30.000 của các đồ ăn cướp được. Thành tựu đáng kể duy nhất có lẽ là gián đoạn tạm thời đến các hoạt động vận tải của người Tây Ban Nha. Điều này cũng làm gián đoạn việc gửi quân tiếp viện và các nguồn cung cấp cho quân đội Tây Ban Nha của Parma và tạo ra nổi loạn trong quân đội Tây Ban Nha ở Flanders, và một số thuyên giảm về những áp lực của người Tây Ban Nha lên Hà Lan trong tháng Tám.
Hậu quả của chiến dịch
Với cơ hội để ra một đòn quyết định chống lại người Tây Ban Nha đã suy yếu, sự thất bại của cuộc viễn chinh làm trầm trọng thêm sự cạn kiệt của ngân khố Hoàng gia và nó chần phải được phục hồi một cách cẩn trọng trong thời kỳ trị vì lâu dài của Elizabeth I. Cuộc chiến tranh Anh-Tây Ban Nha đã rất tốn kém cho cả hai bên, và Tây Ban Nha chính nó, cũng phải đang trong tình trạng chiến tranh với Pháp ( bác nào có xem mấy quấn Ba người lính ngự lâm thì sẽ thấy lúc đó Tây Ban Nha liên tục có chiến tranh trên bộ với Pháp) và các tỉnh Hà Lan, và đã bị vỡ nợ do không trả nổi các khoản vay nợ của nó trong 1596, sau cuộc đột kích vào Cadiz. Nhưng sự thất bại của Hạm đội Armada của Anh là một bước ngoặt, và vận may của các bên khác nhau bởi vì cuộc xung đột này cho đến khi ký kết Hiệp ước London năm 1604, và tình trạng hòa bình mong manh đã được tái lập.
Việc xây dựng lại hải quân Tây Ban Nha đã có kết quả nhanh chóng và thậm chí hải quân Tây Ban Nha đã phục hồi và vượt trội về số lượng tầu bè của nó trên biển so với trước khi xảy ra cuộc chiến, cho phép nó duy trì sự kiểm soát đường biển của chính mình, và do đó vận chuyển một cách an toàn số tiền lớn các kim loại quý từ Tân Thế Giới, cho đến có sự xuất hiện của sức mạnh của Hải quân Hà Lan (với một hạm đội tàu chiến nhẹ nhỏ hơn của người Anh nhưng với một hạm đội tầu buôn lớn hơn nhiều) cuối cùng người Hà lan đã hoàn thành mong ước của họ năm mươi năm sau đó. Trong khi đó hải quân của người Anh gây áp lực bắt người Tây Ban Nha phải tập trung vào bảo vệ vùng thuộc địa Ca-ri-bê của mình; J. H. Parry đã viết: ( Các đội tàu chở bạc và đường biển mà họ đi qua đã được bảo vệ tốt; nhưng sự tập trung của rất nhiều các tàu chiến đã làm cho đế quốc Tây Ban Nha không thể bảo vệ các tham vọng của mình cho việc độc quyền kiểm soát ở những vùng biển khác trong Đại Tây Dương).
Trong suốt cuộc hải chiến, hải quân của Anh với (tất cả những tàu mang súng lớn ) của nó, hưởng lợi từ kinh phí duy trì, cho phép nó để duy trì ưu thế của mình trong trang bị vũ khí, thuật bắn súng, và học thuyết chiến thuật, và nó ra sức tăng cường sức mạnh của mình, đến năm 1595 hải quân Anh đã có 38 tàu chiến, mang tổng số 1.059 khẩu súng (628 khẩu trong số đó bắn đạn nặng 9-pounders trở lên). Hơn nữa, nhà nghiên cứu lịch sử G. Parker viết: ( Mặc dù đã nổi tiếng vì tính keo kiệt và bủn xỉn của mình, Nữ Hoàng Elizabeth vẫn dành rất nhiều chi tiêu vào xây dựng hải quân, và vào việc duy trì một số lượng sỹ quan thường trực trong số nhân sự của lực lương hải quân, trong suốt nhất của triều đại của mình ?” các triều đại khác thường chỉ biết vơ vét trang bị cho tầu buôn khi chiến tranh xảy ra), với kết quả là hải quân Anh Quốc đã trở nêm mạnh mẽ hơn về cả tàu chiến lẫn hỏa lực vào cuối giai đoạn của cuộc chiến hơn là vào lúc đầu.
Tuy nhiên chiến lược của hải quân Tây Ban Nha về sau các cuộc chiến của Hạm đội Armada đã phần lớn thành công, khi bảo vệ được các thuộc địa thương mại của nó và duy trì áp lực lên nước Anh bằng cách phá hoại và gây thiệt hại cho thương mại của họ tại Bắc Hải và những nơi khác và với sự hỗ trợ về vật chất cho các cuộc nổi loạn ở Ailen. Sự thất bại của hạm đội Anh năm 1589 trong việc ra một đòn tấn công quyết định chống lại các lực lượng hải quân Tây Ban Nha cho phép người Tây Ban Nha củng cố các thuộc địa của họ trên lãnh thổ ở châu Mỹ và ngăn cản có hiệu quả việc người Anh tiến xa hơn trong những nỗ lực thực dân (xâm chiếm nhiều hơn nữa những đất đai ở châu Mỹ) trong suốt phần còn lại của triều đại Elizabeth.
Thuộc địa của đế quốc Tây Ban Nha tại lục địa châu Mỹ đã được duy trì cho đến tận đầu thế kỷ 19. Với hiệp ước hòa bình, người Anh đã có thể củng cố quyền lực của mình tại Ai-len và tập trung vào việc thiết lập các thuộc địa trong tương lai ở Bắc Mỹ (cướp trắng trợn từ tay thực dân Hà Lan).
Hạm đội kho báu Đại Tây Dương
Từ khoảng từ thế kỷ 15 — >17 Đế quốc Tây Ban Nha vừa mới thống nhất được chính quốc, sau khi tiêu diệt các quốc gia Hồi giáo người Bắc phi như vương quốc Granadar, vương quốc Sevilla… ( đây là những người xâm lược Tây Ban Nha từ thời còn người Visigoth) đã liên tục phải đương đầu với các cuộc chiến tranh mới với các đế quốc hùng mạnh khác ở châu Âu như Anh, Pháp, Hà Lan và châu Á như Ottoman. Thậm chí Tây Ban Nha vẫn còn đủ lực để giữ vững các thuộc địa của mình đến cuối nửa đầu thế kỷ 19 và chỉ chịu thua trước một đối thủ trẻ măng, Đế quốc Mỹ. Tại sao vậy, vì mọi hoạt động quân sự của người Tây Ban Nha được tài trợ bởi hạm đội châu báu Đại Tây Dương, các bạn có nhớ ở phần trước khi tướng cướp biển Francis Drake chia một nửa phần của cải cướp được từ Hạm đội châu báu cho Nữ hoàng Anh thì số của cải này trị giá tương đương với thu nhập cả năm của Hoàng gia Anh rồi
Hạm đội kho báu Tây Ban Nha là một hệ thống các đoàn convoy được tổ chức bởi Đế Quốc Tây Ban Nha năm 1566-1790. Các đội tàu convoy được sử dụng với mục đích chung là để vận chuyển rất nhiều loại mặt hàng, bao gồm cả hàng hóa nông nghiệp và đôi khi cả gỗ, cùng rất nhiều kim loại quý và sang trọng khác nhau, nổi tiếng nhất là bạc và vàng, và cũng bao gồm cả đá quý, ngọc trai, gia vị, đường, thuốc lá, lụa, và các hàng hóa kỳ lạ khác từ thuộc địa của Tây Ban Nha tới chính quốc. các nhà máy sản xuất như công cụ và các mặt hàng hàng ngày khác cũng như những dân di cư Tây Ban Nha được chuyển đi theo hướng ngược lại.
Lịch sử
Tàu Tây Ban Nha đã mang kho báu của Tân Thế giới về chính quốc từ khi có chuyến thám hiểm đầu tiên củaChristopher Columbus năm 1492. Chính phủ bắt đầu một hệ thống convoys trong thập kỷ 1560 để phản ứng lại cuộc tấn công của cướp biển Pháp. Các thủ tục chính đã được thành lập sau khi các kiến nghị của Pedro Menéndez de Avilés, một đô đốc và cố vấn có kinh nghiệm của vua Phillip II. Các hạm đội kho báu căng buồm dọc theo hai làn nước biển. Một hạm đội chính là hạm đội Spanish Caribbean hoặc Flota de Indias, hạm đội này được thành lập từ hai đoàn convoys đến từ Sevilla, chúng đi tới các cảng như Veracruz, Portobelo và Cartagena trước khi thực hiện một chuyến hành trình đến một cứ điểm tại Havana để quay trở lại để Tây Ban Nha. Một tuyến đường thứ hai là Manila Galleons hoặc Galeon de Manila, tuyến này nối liền các đảo Philippin tới Acapulco thuộc Mehico. Từ Acapulco, hàng hóa từ châu Á đã được trung chuyển bằng đường biển tới Veracruz để được bốc lên hạm đội kho báu Caribê cho lô hàng sang Tây Ban Nha.
Tây Ban Nha kiểm soát chặt chẽ việc buôn bán qua Casa de Contratación có trụ sở tại Sevilla. Theo luật, các thuộc địa chỉ có thể thương mại với một cảng được đăng ký tại nước chính quốc. Khảo cổ học Hàng hải đã chỉ ra rằng số lượng hàng hoá vận chuyển được thường là cao hơn nhiều sp với số được ghi ở Archivo General de Indias (đây như kiểu là một trung tâm giao dịch thương mại của TBN). Các thương gia Tây Ban Nha và người Tây Ban Nha canh trừng (cargadores) không cho các thương gia nước ngoài đến để mua bán, vận chuyển hàng hoá lậu mà không trả thuế (tại các thuộc địa của TBN). Hoàng gia Tây Ban Nha đánh thuế các đồ gốm và kim loại quý của thương nhân tư nhân với tỷ lệ 20%, thuế được gọi là quinto real .
Sự độc quyền này kéo dài hơn hai thế kỷ, trong khoảng thời gian đó Tây Ban Nha đã trở thành quốc gia giàu nhất châu Âu. Dòng họ Habsburgs (dòng họ làm vua ở Tây Ban Nha và Áo) sử dụng sự giàu có để tổ chức các cuộc chiến tranh trong thế kỷ 16 và 17 chống lại Đế quốc Ottoman và với hầu hết các Đế quốc lớn ở châu Âu. Do lạm phát trong thế kỷ 17, dòng chảy của kim loại quý từ Ấn dần dần bị hư hại và làm xuy thoái nền kinh tế Tây Ban Nha. Tây Ban Nha cũng không còn bất kỳ hỗ trợ tài chính nào từ ngân hàng của châu Âu 1690.
Tầm quan trọng của nền kinh tế xuất khẩu cũng bị hủy hoại với sự đi xuống của sức sản xuất của các mỏ kim loại quý tại châu Mỹ, như là Potosí. Chỉ với số 17 tàu năm 1550, Hạm đội đã mở rộng lên đến hơn 50 tàu to hơn nhiều vào cuối thế kỷ này. Bởi nửa cuối thế kỷ 17, con số đó đã thu hẹp xuống chỉ còn ít hơn một nửa so với đỉnh điểm, vì nhiều tàu còn lại của nó đã trở nên cũ và cần sửa chữa lớn. Điều kiện kinh tế dần dần hồi phục từ những thập kỷ cuối cùng của thế kỷ 17, các đội tàu từ từ mở rộng hoạt động một lần nữa, lại một lần nữa trở thành nổi bật trong thời kỳ trị vì của dòng họ Bourbons trong thế kỷ 18.
Thương mại hàng hoá và kim loại quý của Tây Ban Nha bị đe dọa cho đến giữa thế kỷ 18 bởi các đối thủ của người Tây Ban Nha đã chiếm giữ các căn cứ nhỏ dọc theo Spanish Main và Spanish West Indies. Anh đã mua các hòn đảo nhỏ như St Kitts năm 1624 và chiếm đóng Ha-mai-ca năm 1655, người Pháp chiếm Saint-Domingue năm 1625 và Hà Lan chiếm Curaçao vào năm 1634. Năm 1739, Đô đốc Edward Vernon đột kích Porto Bello, nhưng trong 1741 chiến dịch lớn của ông tấn công Cartagena de Indias đã kết thúc trong thảm họa. Năm 1762, người Anh chiếm Havana và Manila trong một thời gian ngắn, buộc người Tây Ban Nha phải tạm thời có những thay đổi đối với mô hình hoạt động bình thường của hạm đội kho báu Tây Ban Nha, sử dụng một số lượng lớn các đội tàu nhỏ và hành trình nhiều hơn đến các cảng. Chỉ một vài năm sau đó (1764) Havana và Manila đã được khôi phục trở lại với Tây Ban Nha, và hoạt động tại Đại Tây Dương và Thái Bình tiếp tục như bình thường.
Charles III đã bắt đầu nới lỏng hệ thống năm 1765. Trong thập kỷ 1780 Tây Ban Nha đã mở thuộc địa của mình cho hoạt động tự do thương mại. Năm 1790, quy định Casa de Contratación đã bị bãi bỏ. Chuyến hành trình cuối cùng của hạm đội kho báu khởi hành năm đó. Sau đó các nhóm nhỏ của các tàu hộ vệ của hải quân được chỉ định cho việc chuyển giao các thỏi vàng theo yêu cầu.
Charles III đã bắt đầu nới lỏng hệ thống năm 1765. Trong thập kỷ 1780 Tây Ban Nha đã mở thuộc địa của mình cho hoạt động tự do thương mại. Năm 1790, quy định Casa de Contratación đã bị bãi bỏ. Chuyến hành trình cuối cùng của hạm đội kho báu khởi hành năm đó. Sau đó các nhóm nhỏ của các tàu hộ vệ của hải quân được chỉ định cho việc chuyển giao các thỏi vàng theo yêu cầu.
Bất chấp rằng nhiều tầu buồm Tây Ban Nha bị bắt bởi các cướp biển người Anh hoặc Hà Lan, chỉ một vài hạm tầu thực sự bị kẻ thù chiếm đoạt trong sự nghiệp lâu dài của hạm đội châu báu Đại Tây Dương. Chỉ có Piet Hein đã cố gắng để bắt được hạm đội năm 1628 và đưa hàng hóa toàn bộ một cách an toàn với cộng hòa Hà Lan. Năm 1656 và 1657 Robert Blake đã tiêu diệt hạm đội kho báu, nhưng người Tây Ban Nha đã lưu giữ được hầu hết số bạc trên các tàu, vị đô đốc Anh chỉ bắt được một tầu Galleon. Hạm đội kho báu năm 1702 đã bị phá hủy trong trận đánh bất ngờ tại cảng Tigo Bay, nhưng các thủy thủ Tây Ban Nha đã bốc dỡ những hàng hóa có giá trị nhất của nó. Không có những cuộc tấn công đã diễn ra tại vùng biển mở. Trong trường hợp của tuyến đường Galeons Manila, chỉ có bốn tầu bị bắt bởi tàu chiến Anh: The Santa Anna bởi Thomas ****ndish năm 1589, tầu Encarnación năm 1710, tầu Covadonga bởi George Anson năm 1743 và Santísima Trinidad năm 1762. Hai nỗ lực khác của Anh đã thất bị khi tìm cách bắt chiếc Rosario năm 1704 và Begonia năm 1710. Những thiệt hại do cướp biển và bão tố đã làm khủng hoảng nền kinh tế của Tây Ban Nha.Tuy nhiên các hạm đội kho báu phải được tính là trong số những thành công nhất trong lịch sử hoạt động của hải quân. Hơn nữa, từ quan điểm thương mại, một số thành phần chủ chốt của hệ thống kinh tế thế giới ngày hôm nay có thể được thực hiện bởi sự thành công của đội kho báu Tây Ban Nha.
Xác các tàu kho báu Tây Ban Nha cho dù bị chìm trong các trận hải chiến hoặc do bão (trong những năm1622, 1715 và năm tồi tệ nhất 1733), là một mục tiêu hàng đầu cho những cuộc săn lùng kho báu hiện đại. Nhiều tầu như chiếc Nuestra Señora de Atocha đã được trục vớt.
Trận Vịnh Matanzas
Trận Vịnh Matanzas là một trong những trận hải chiến của Chiến tranh Tám mươi năm trong đó một hạm đội Hà Lan đã bắt giữ và đánh bại một Hạm đội kho báu Tây Ban Nha.
Trong năm 1628, Đô đốc Piet Hein, với thuyền trưởng của chiếc kỳ hạm của ông là Witte de With, giong buồm ra khơi để bắt giữ một Hạm đội kho báu Tây Ban Nha vận tải bạc từ các thuộc địa Mỹ của họ. Đi theo ông ta còn có Đô đốc Hendrick Lonck và sau đó ông đã tham gia cùng một hải đội của Phó Đô đốc Joost Banckert. Một phần của hạm đội Tây Ban Nha tại Venezuela đã được cảnh báo vì một cậu bé cabin Hà Lan bị lạc đường tại Blanquilla bị bắt, và đã khai ra kế hoạch, nhưng một phần khác của hạm đội châu báu Tây Ban Nha xuất phát từ Mexico tiếp tục chuyến đi của mình mà không ý thức được các mối đe dọa này. Mười sáu tàu Tây Ban Nha đã bị chặn lại, một chiếc Galleon đã bị chiếm sau một cuộc tập kích bất ngờ trong đêm, chín tầu buôn nhỏ hơn đã phải đầu hàng một, hai chiếc tàu nhỏ bị chặn trên biển đã chạy thoát, bốn chiếc Galeon bị mắc kẹt trên bờ biển Cuba trong vịnh Matanzas.
Sau khi một số loạt súng hỏa mai từ đội sloops Hà Lan họ cũng đầu hàng ( bốn chiếc Galeon bị mắc kẹt trên bờ ) và bị bắt. Đô đốc Piet Hein đã thu giữ 11.509.524 guilder chiến lợi phẩm từ vàng, bạc và các hàng hóa thương mại đắt tiền khác, như là indigo và cochineal, mà không có bất kỳ đổ máu. Người Hà Lan đã không bắt tù binh, họ cho các đội thủy thủ Tây Ban Nha nguồn cung cấp dư dật để đi đến Havana. Những người được phóng thích đã rất ngạc nhiên khi nghe cá nhân các đô đốc hướng dẫn cho họ một cách thông thạo tiếng Tây Ban Nha; Hein sau tất cả đã trở nên quen thuộc với khu vực ông đã bị giam giữ tại đó trong khoảng thời gian sau 1603. Kho báu được chiến thắng vĩ đại nhất của công ty ở vùng biển Caribê.
Kết quả là, số tiền đủ để tài trợ cho quân đội Hà Lan trong tám tháng, cho phép nó để chiếm lấy những pháo đài của Hertogenbosch, và các cổ đông được chia một lượng cổ tức tiền mặt là 50% trong năm đó.
Ông trở lại của Hà Lan năm 1629, nơi ông được ca ngợi như một anh hùng. Khi xem ông ta đứng trên ban công tòa thị chính của thành phố Leyden xem đám đông hoan hô, ông nhận xét với viên thị trưởng: “Bây giờ mọi người ngợi khen vì tôi đã đoạt được nhiều của cải mà không phải chịu một nguy hiểm nào, nhưng trước khi tôi mạo hiểm cuộc sống của tôi trong chiến đấu họ thậm chí không biết tôi có tồn tại hay không.” Hein là người đầu tiên và cuối cùng đã chiếm được một phần lớn của một hạm đội tàu bạc của Tây Ban Nha được bảo vệ rất tốt, từ châu Mỹ
Trận hải chiến vịnh Vigo
Một phần của Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha
Ngày Tháng 10 23, 1702
Vị trí Vigo Bay, Galicia, Tây Ban Nha
Kết quả Anh-Hà Lan chiến thắng
Các bên tham chiến
Anh
Cộng hòa Hà Lan
Chỉ huy
George Rooke
Philips van Almonde
Sức mạnh
25 tàu tiền tuyến
+ Tàu khu trục và fireships
Thương vong và thiệt hại
~ 200 chết
Pháp
Tây Ban Nha
Chỉ huy
Château-Renault
Manuel de Velasco
Sức mạnh
15 Pháp tàu tiền tuyến
3 galleon Tây Ban Nha
+ Tàu khu trục, fireships, và vận tải
Thương vong và thiệt hại
Tất cả các tàu bị cháy hoặc bị bắt
~ 2.000 chết
Trận vịnh Vigo là một trận hải chiến diễn ra ngày 23 tháng năm 10 năm 1702 trong những năm mở đầu của Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha. Đồng minh Anh-Hà Lan cố gắng chiếm giữ cảng Cádiz của Tây Ban Nha trong tháng chín trong một nỗ lực để bảo đảm một căn cứ hải quân ở Bán đảo Iberia. Từ căn cứ này Đồng Minh hy vọng tiến hành các hoạt động tại miền tây Địa Trung Hải, đặc biệt là chống lại phải quân Pháp ở Toulon. Các cuộc tấn công diễn ra cả trên mặt đất và trên biển, tuy nhiên, chúng tỏ ra là một thảm họa, nhưng khi Đô đốc George Rooke rút lui về nhà vào đầu tháng mười, ông nhận được tin rằng hạm đội kho báu Tây Ban Nha từ châu Mỹ, chất đầy bạc và hàng hóa, đang được bốc dỡ tại vịnh Vigo ở phía Bắc Tây Ban Nha. Rooke quyết định tấn công.
Đây là một trận đánh rất thành công của hải quân Đồng Minh, toàn bộ hạm đội hộ tống Pháp, dưới sự chỉ huy của Château-Renault, cùng với các galleon vận tải Tây Ban Nha dưới sự chỉ huy của Manuel de Velasco, hoặc là bị bắt giữ hoặc bị tiêu diệt. Tuy nhiên vì hầu hết các kho báu đã được bốc dỡ trước khi cuộc tấn công bắt đầu, chiếm phần lớn các hàng hóa bằng bạc đã làm Rooke vồ trượt. Tuy nhiên, chiến thắng là một nguồn cổ vũ tinh thần và Đồng Minh đã thuyết phục nhà vua Bồ Đào Nha, Peter II, bỏ hiệp ước của ông trước đó với Pháp, và tham gia Grand Alliance.
Việc Bourbon Philip V Tây Ban Nha lên ngôi năm 1700 đã đánh rất ít đối thủ ở Tây Ban Nha, ngoại trừ những người Catalans trung thành với truyền thống dòng họ Habsburgs. Tuy nhiên tại đế quốc Tây Ban Nha tại châu Mỹ vẫn có những nỗ lực chống thực dân Pháp chiếm lấy nền thương mại của họ. Thương nhân Hà Lan và Anh – mặc dù chính thức bất hợp pháp – đã được chấp nhận bởi người Tây Ban Nha, nhưng trong vùng Ca-ri-bê, Đô đốc Pháp người đến để (bảo vệ) chuyến vận tải số bạc của Tây Ban Nha sang châu Âu bị nghi ngờ với cường độ cao. Hải đội đầu tiên của Pháp khởi hành tháng 4 năm 1701 dưới sự chỉ huy của Marquis de Coëtlogon, nhưng các thống đốc Tây Ban Nha thậm chí không cho phép ông ta cập cảng để mua lương thực, và ông này phải trở về với hai bàn tay trống rỗng. Tuy nhiên, sự yếu kém của hải quân Tây Ban Nha buộc chính phủ Madrid có ít sự lựa chọn ngoài việc dựa vào tàu chiến của Pháp cho nhiệm vụ hộ tống. Mọi nỗ lực đã được thực hiện để đảm bảo rằng vàng thỏi phải được hạ cánh ở Tây Ban Nha hơn là ở Pháp, từ nơi mà nó không bao giờ có thể trở lại.
Các chiến dịch của hải quân của 1702 là do đó đã diễn ra trên hai chiến trường xa xôi châu Mỹ và Tây Ban Nha, được liên kết với nhau bởi những dấu vết của hạm đội tàu kho báu Tây Ban Nha vượt Đại Tây Dương. Chiến trường châu Mỹ đã trở thành một truyền thống đáng nhớ với người Anh sau cuộc hành chiến của Đô đốc Benbow vào tháng Tám ngoài khơi Santa Marta. Tuy nhiên, nỗ lực chính của Hải quân Hoàng gia đã không ra khỏi Spanish Main, nhưng ngoài khơi bờ biển Tây Ban Nha tại châu Âu. Dưới sự lãnh đạo của vua William III, các cường quốc hàng hải – Anh và Cộng hòa Hà Lan – đã quyết định theo một chiến lược Địa Trung Hải cho hạm đội Đồng Minh, một chính sách tiếp tục theo kế sách của William sau cái chết của ông tháng 3 năm 1702. Người ta hy vọng rằng chiến lược này sẽ khuyến khích Bồ Đào Nha gia nhập Đồng Minh, mở Eo biển Gibraltar cho người Anh và đảm bảo an toàn năng lượng hải quân tại Địa Trung Hải. Đồng minh của họ, người Áo, phản đối cho một sự hiện diện hải quân Pháp tại Địa Trung Hải để họ dễ dàng hơn trong việc đạt được tham vọng của chính chính của mình ?” chiếm lấy các tỉnh của Tây Ban Nha tại Italia. Để đáp ứng các tham vọng trên, đầu tiên hạm đội Anh-Hà Lan cần phải chiếm một cảng vào Bán đảo Iberia từ đó tàu của họ có thể hoạt động. Do vậy Đồng Minh quyết định tung một đoàn viễn chinh do Đô đốc George Rooke chỉ huy, chiếm cảng Cádiz phía nam của Tây Ban Nha. và đột nhiên cắt đứt tuyến thương mại xuyên Đại Tây Ban Nha.
Đội tàu bạc từ châu Mỹ
Ngày 11 Tháng 6 Năm 1702, hạm đội chở bạc từ Tân Tây Ban Nha đến Veracruz theo hộ tống của một hạm đội Pháp theo chỉ huy của Đô đốc Château-Renault. Các tàu Tây Ban Nha đã được chỉ huy bởi Manuel de Valesco trong các Galleon vũ trang của mình, chiếc Capitana de Barlovento, một trong ba chiếc tàu tạo thành Armada de Barlovento nhiệm vụ của nó là bảo vệ hạm đội. Toàn bộ các hải đoàn đến được Havana ngày 07 tháng bảy, trước khi vượt Đại Tây Dương ngày 24. Hạm đội tàu gồm 56 chiếc, 22 chiếc thuộc về người Tây Ban Nha, phần còn lại của người Pháp, trong đó một số lớn là tầu buôn, vào cuối chuyến đi này, họ đã gương buồm cho tàu chạy tới Pháp ngay sau khi sự an toàn của chuyến vượt Đại Tây Dương của họ đã được đảm bảo.
Khi Château-Renault đưa các tầu chiến Pháp đến Caribê năm 1701, chiến tranh giữa Pháp và các cường quốc hàng hải vẫn chưa được tuyên bố, nhưng hải đoàn đã nhận được tin tức về sự bùng phát của thái độ thù địch và cuộc phong tỏa của Rooke Cádiz tới cái đích thông thường là hạm đội chở bạc từ châu Mỹ. Rõ ràng do đó, một bến cảng mới sẽ là rất cần thiết. Valesco được coi là cảng nhỏ của Los Pasajes, Nhưng Château-Renault lại muốn cập cảng Brest hoặc La Rochelle, Hoặc thậm chí Lisbon. Một thỏa hiệp đã được đưa ra, và vào ngày 23 tháng 9 hạm đội Pháp-Tây Ban Nha đã vào vịnh Vigo thuộc Galicia. Tuy nhiên, có sự chậm trễ đáng kể trong việc xếp dỡ hàng hóa. Toàn bộ bộ máy hành chính thường phải có mặt tại xếp dỡ (thanh tra, thuế vụ, công chức của hoàng gia, vv), lại ở Seville và Cádiz, và phải chờ đợi trước khi bất cứ cái gì có thể được đưa lên bờ. Khi việc bốc dỡ cuối cùng cũng bắt đầu, họ thấy rằng phương tiện vận chuyển hàng hoá bị thiếu. Như là một ưu tiên, bạc được bốc dỡ đầu tiên vào nội địa để chuyển tới Lugo.
Đồng minh theo đuổi
Vào giữa tháng mười chính phủ Anh đã biết được sự hiện diện của Tây Ban Nha tại vịnh Vigo, và ngay lập tức thông báo cho Rooke và Đô đốc Cloudesley Shovell, người xuất phát muộn hơn với hải đội của ông tại ngoài khơi Ushant. Bởi vì bấy giờ Rooke đang trở về nhà từ chiến dịch thảm họa tấn công Cádiz, trong đó, do vô kỷ luật và ít hoạt động, đã buộc các đô đốc từ bỏ chiến dịch vào cuối tháng Chín. Tuy nhiên, Rooke đã biết được những tin tức của đoàn tầu Tây Ban Nha từ một trong những tàu của riêng mình – Thuyền trưởng Thomas Hardy của chiếc Pembroke, những người đã ở lại phía sau để lấy nước ở cảng Lagos của Bồ Đào Nha. Giáo sỹ của Pembroke, một người đàn ông tên là Beauvoir Jersey, đã nghe được sự khoe khoang từ các lãnh sự Pháp về tàu chở bạc bến cảng, tin tức đó đã được xác nhận bởi một tín sứ từ Đại sứ quán Hoàng gia ở Lisbon. Cùng một lúc, Hardy đã đuổi theo, và bắt kịp Rooke vào ngày 17 tháng 10 để ngăn chặn không cho ông ta qua Vịnh Biscay. Đô đốc Rooke ghi trong nhật ký của mình:
Theo xem xét các tình báo đưa đến từ thuyền trưởng của Hardy Pembroke … Đó là cách giải quyết tốt nhất mà chúng tôi làm theo cách của chúng tôi đến cảng Vigo, và tấn công họ ngay lập tức với toàn bộ số tầu chiến của chúng tôi, trong lúc quân địch đang tách rời nhau sẽ khiến các nỗ lực tấn công là có hiệu quả nhất.
Rooke gửi tàu để tiến vào cử vịnh Vigo. Một thông tin lượn lặt được từ một thầy tu bị bắt rằng một phần của những kho báu của vua Phillip VI đã được bốc dỡ, nhưng nhiều của cải vẫn còn trên boong của các tầu Tây Ban Nha.
Trận đánh
Tối ngày 22 tháng 10 hạm đội Anh – Hà Lan đột nhập vào vịnh Vigo, và bơi qua hai pháo đài của thành phố Vigo, các pháo đài này đã bắn vào họ khi họ đi qua. Phía cuối vịnh hạm đội Pháp và tàu bạc Tây Ban Nha nằm trong bến cảng Redondela, bao quanh bởi các ngọn núi Galicia. Château-Renault đã chuẩn bị các biện pháp phòng thủ, và chặn lối vào hẹp với một chướng ngại vật làm bằng gỗ và xích chuỗi buộc chặt với nhau. Vào cuối phía bắc của chiếc chướng ngại vật là vị trí của một khẩu đội pháo, theo nhật ký của Rooke, bao gồm mười lăm hay mười sáu khẩu súng; ở cuối phía nam Fort Randa có một con đường nhỏ đi lên từ biển, bao gồm một tháp đá lớn làm chỗ đặt cho các khẩu pháo. Khoảng cách giữa các tháp canh và bờ biển được bao bọc bằng một công sự tăng cường, ở phía dưới đó có một khẩu đội pháo hướng về phía eo biển. Tổng cộng, các công sự Randa đã được trang bị hơn 30 khẩu súng. Để trả tiền thuê cho hạm đội Pháp, một số tiền thu được từ thuế do Thống đốc, và Hạm đội trưởng của Galicia ban bố.
Trên boong chiếc Royal Sovereign một hội đồng chiến tranh Đồng Minh thảo luận các lựa chọn cho cuộc tấn công. Bản kế hoạch là phải tiêu huỷ chiếc chướng ngại vật bằng tàu Anh và Hà Lan, trong khi bộ binh từ hạm đội sẽ bí mật tiếp cận lực lượng phòng vệ bờ biển. Nhưng trận hải chiến sẽ không còn là một trận đánh chiến tuyến thông thương, vịnh Vigo không còn chỗ cho việc triển khai một tuyến chiến đấu, do đó, Rooke đã phải thích ứng với chiến thuật của mình để phù hợp với sự cấp bách của tình hình
Phá hỏng chướng ngại vật
Vào sáng sớm ngày 23 tháng 10, Phó Đô đốc Thomas Hopsonn trên chiếc Torbay lãnh đạo các cuộc tấn công vào chướng ngại vật, theo sau là một đội hình chặt chẽ các tàu Anh của mình, và các tàu Hà Lan theo Phó Đô đốc Van der Goes. Gần cuối chướng ngại vật Château-Renault đã thả neo hai chiếc tầu chiến lớp Men-of-war lớn nhất của mình: chiếc Bourbon, Và Esperance. Trong hàng rào gỗ nổi ông ta cho neo 5 chiếc tầu chiến lớp Men-of-war với các pháo mạn của họ ở các lối vào.
Trong khi đó, Ormonde với một số 2.000 người đàn ông, đã đổ bộ vào bờ biển gần Teis, và hành quân tới Fort Randa. Ormonde gửi Lord Shannon với lính thủ pháo để tấn công các vị, được bảo vệ bởi hàng trăm binh sĩ. Các bức tường bao quanh bên ngoài các pháo đài đã bị bão biển làm đổ, và pháo biển câm lặng trong một thời gian để giúp cho việc phá vỡ chiếc rào chắn của các tàu. Chiếc tháp được bảo vệ bởi khoảng 300 quân Pháp-Tây Ban Nha, được giữ lâu hơn, nhưng rồi cũng rơi vào tay các thủ pháo Đồng Minh. Khi khẩu đội súng bờ biển phía Nam bị tấn công bởi người của Ormondes, 90 súng của Đồng minh tấn công và làm câm khẩu đội pháo nhỏ phía Bắc ở phía bên kia của vịnh.
Chiếc Torbay, tận dụng triệt để sức gió, đã lao vào chiếc chướng ngại vật và làm nó nứt ra, và tàu Đồng Minh đi vào giữa các hải đội Pháp ở ngoài. Tuy nhiên, gió lặng đột ngột ngăn ngừa bất kỳ tàu Đồng minh nào khác tiến vào phía sau, và Hopsonn thấy tầu của mình tạm thời ít hơn. Một chiếc tầu hỏa công được đặt bên cạnh chiếc Torbay, và nó bắt đầu bắt lửa. May mắn cho Hopsonn, chiếc tầu hỏa công được chất đầy với snuff từ Ấn thuộc Tây Ban Nha, bất thình lình nổ tung lên, và một đám mây lớn che phủ chiếc tàu Anh, làm dập tắt một phần dập lửa do đó cho phép các thủy thủ đoàn kiểm soát vụ cháy. Theo nhật ký của Rooke 53 lính thủy đã chết đuối trong vụ này, nhưng khi đó gió nổi lên và các tầu khác của đồng minh cố gắng để tàu đi qua chiếc chướng ngại vật và tấn công kẻ thù.
Với việc chiếc chướng ngại vật bị hỏng, và các pháo đài im lặng, hạm đội Pháp-Tây Ban Nha đã bị tiêu diệt. Chống trả một cách yếu ớt, Château-Renault và người của ông ta đốt tàu riêng của họ tại các bến cảng, và tìm cách an toàn trên bờ. Thủy thủ đoàn Đồng Minh đã làm việc suốt đêm để thu thập chiến lợi phẩm của họ, và đến buổi sáng hôm sau thì không còn một chiếc tầu Pháp hay Tây Ban Nha nào mà không hoặc bị bắt giữ hoặc tiêu huỷ.
Hậu quả
Vigo Vịnh là một thảm họa lớn cho hải quân Pháp, phía Pháp có 15 tàu chiến, 2 tàu khu trục và một tầu hỏa công, không một tàu nào chạy thoát. Năm tàu bị bắt theo người Anh, và một bị bắt bởi người Hà Lan; phần còn lại đã bị đốt cháy, hoặc là do Đồng Minh hoặc do người Pháp tự đốt tầu mình. Người Tây Ban Nha bị thiệt hại là: ba tầu Galleon và 13 tàu buôn trong hạm đội của họ, tất cả đã bị phá hủy, năm trong số đó bị bắt đi bởi Đồng Minh (ít nhất là ba trong số này bị bắt bởi người Anh). Vào ngày 24 Tháng 10 tổng thiệt hại đã được hoàn tất; những gì ở lại của các tàu và các công sự đã bị phá hủy bởi hải đội của Đô đốc Shovell trên 27 Tháng Mười.
Sự mất mát của hải quân Tây Ban Nha có nghĩa là họ phải phụ thuộc vào hải quân Pháp để liên lạc với Châu Mỹ. Tuy nhiên, chính phủ Tây Ban Nha hầu như không cảm thấy gánh nặng của đòn tài chính: họ chỉ có hai sở hữu trong ba chiếc Galleon, và không có tàu buôn. Những người phải chịu nhiều nhất, không chỉ từ sự mất mát của các tàu mà còn từ các hàng hóa trên tầu trên tàu (hạt tiêu, cochineal, ca cao, snuff, chàm, da, vv) là các thương nhân tư nhân. Những gì của riêng chính phủ Tây Ban Nha là bạc, thì phần lớn trong số đó đã được bốc dỡ khỏi tầu từ lâu trước khi các cuộc tấn công của Đồng Minh nổ ra, và cuối cùng được cất trong lâu đài Segovia. Do đó Đồng Minh không bắt được nhiều bạc nhiều cho mình như họ nghĩ. Chiếc Master of the Mint, Isaac Newton, công bố trong tháng sáu năm 1703 rằng tổng số kim loại trong tay họ bởi ngày đó chỉ giá trị £ 4.504 2 oz bạc (~ 2.043 kg), và 7 £ 8 oz và dwt 13 / vàng (~ 3,4 kg), ước tính giá trị của chỉ £ 14.000.
Tin rằng hạm đội kho tàng cũng đã ở Vigo một cách an toàn bước đầu đã là nguyên nhân của lễ kỷ niệm cho thương nhân tại Hà Lan, Nhưng các báo cáo sau đó của trận đánh đã tạo ra những cảm xúc trộn lẫn tại Amsterdam như là hàng hóa bị bắt giữ hoặc tiêu huỷ thuộc về nhiều thương nhân Anh và Hà Lan cũng như Tây Ban Nha. Trong tháng 2 năm 1703, Philip V ra sắc lệnh trả thù, bằng cách cho thu hồi tất cả các bạc đến với hạm đội kho báu lại thuộc về người Anh và người Hà Lan, tổng cộng bốn triệu peso. Ngoài ra, nhà vua quyết định mượn hai triệu peso từ số bạc đến với các thương nhân Tây Ban Nha và lãnh sự quán của Sevilla. Tổng cộng, Philip cố gắng để giữ gần bảy triệu peso, đại diện cho hơn nửa bạc từ đội tàu, chiếm tổng lớn nhất trong lịch sử thu được từ thương mại từ châu Mỹ trong bất kỳ ông vua Tây Ban Nha. Kết quả là một của trời cho về tài chính đối với vua Philip.
Điều ước quốc tế Methuen
Sự thành công của hải quân ở Vigo đã có những tác động đáng kể đối với Đồng minh. Khi Philip V Bourbon Tây Ban Nha lên ngôi, vua Peter II của Bồ Đào Nha, một cách lo lắng kết bạn với người hàng xóm hùng mạnh của mình, và ký một liên minh với Pháp vào tháng 6 năm 1701. Nhưng nền an ninh của đế chế của Bồ Đào Nha ở nước ngoài còn quan trọng hơn trong biên giới nội địa của nó. Để bảo vệ các tuyến đường thương mại của Bồ Đào Nha tới Nam Mỹ, các Bộ trưởng ở Lisbon biết tầm quan trọng của việc liên minh chính họ với sức mạnh hải quân thống trị ở Đại Tây Dương. Sau thành công Rooke tại Vigo, người ta đã rõ ràng là có sức mạnh hải quân thống trị trong các cường quốc hàng hải (Anh ?”Hà Lan).
Trong tháng năm 1703, người Bồ Đào Nha đã ký điều ước quốc tế Methuen với Anh. “Việc bảo tồn các thuộc địa ở nước ngoài của chúng tôi là một điều không thể thiếu đối với chúng tôi để có một thông tin tình báo tốt với những sức mạnh mà bây giờ làm chủ biển cả “, nhận xét của José da Cunha Brochado, bộ trưởng Bồ Đào Nha tại London, “chi phí là quá lớn, nhưng đối với chúng tôi một sự hiểu biết là điều cần thiết. ” Đó là một chiến thắng của Đồng Minh để tách Bồ Đào Nha từ liên minh Pháp. Với Đồng Minh, Lisbon như là một căn cứ của hạm đội có thể chi phối eo biển Gibraltar và tấn công tầu Pháp tại Địa Trung Hải. Tuy nhiên, liên minh với Bồ Đào Nha buộc phải có sự thay đổi lớn ở chiến lược của Đồng minh: Các cường quốc hàng hải bây giờ phải cam kết mở rộng hoạt động rộng hoạt động tại Tây Ban Nha, với một căn cứ ở Lisbon, một căn cứ ở phía đông Catalonia. Đây là chính sách cuối cùng chứng minh một gánh nặng và là nguyên nhân của một chiến dịch tai hại trong bán đảo, nhưng về lâu dài, các quy định thương mại và các điều ước đã chứng minh là một thành phần thiết yếu về sự giàu có của Anh Quốc. Chiến thắng của hải quân tại Vigo, do đó, thực hiện một sự đóng góp gián tiếp nhưng mạnh mẽ đến sự thịnh vượng của Anh Quốc tại thế kỷ 18.