Sự tiến bộ của bản Hiến Pháp 1967: Có so được với Hiến Pháp 1946 của cụ Hồ? 
Nguyễn Ngọ
Kỳ Lân K
| TÓM TẮT NHỮNG GÌ ĐÃ BÀN TỪ CÁC BÀI TRƯỚC
– Đề tài về Lịch Sử này nhằm tìm hiểu nội dung một di sản, từng được lưu hành tràn ngập khắp hai miền Nam-Bắc, từ cách nay đã 70-80 năm – với tác dụng rất đáng khâm phục về hiệu quả tuyên truyền của nó. Đó là bài hát Giải phóng miền Nam, với hai câu mở đầu là: Câu 1: Giải phóng miền Nam, chúng ta cùng quyết tiến bước. Câu 2: Diệt Đế quốc Mỹ, phá tan bè lũ bán nước… Nếu 2 câu trên đúng như thực tế, miền Nam phải được giải phóng khỏi sự xâm lược của đế quốc Mỹ với sự tiếp tay “bè lũ bán nước”. Cả hai thế lực này phải bị “diệt” và bị “phá tan” – đúng như các từ ngữ đã nêu. – Câu 2 của bài hát được chọn để bàn trước là có lý do. Câu hỏi là, liệu Mỹ có thật sự là đế quốc (tức là thật sự xâm lược) và “bè lũ tay sai” có thật sự rắp tâm bán nước? … Nếu đúng như vậy, đương nhiên miền Bắc phải đem quân vào miền Nam để diệt Mỹ và phá tan Ngụy, nhằm giải phóng đồng bào. – Do vậy, bài 3 tìm hiểu: Liệu Mỹ có xứng đáng là “đế quốc”?. Té ra, đó là do ta rộng lượng mà phong vượt cấp, chứ Mỹ chưa xứng đáng. Lưu ý: Ta không vu cáo, mà chỉ là hào phóng tặng danh hiệu cho Mỹ. – Tiếp, bài 4 tất nhiên coi thử Ngô Đình Diệm có bán nước?. Kết quả: Nhân vật này (ngược lại) rất yêu nước, nhưng độc tài và chống Cộng. Câu hỏi nảy sinh (tuy thú vị, nhưng lạc đề) là: Liệu một người có thể vừa yêu nước, lại vừa độc tài và chống Cộng? Do vậy, ai thích, xin cứ việc bàn riêng với nhau. – Sau Ngô Đình Diệm, đến Nguyễn Văn Thiệu – với bản Hiến Pháp 1967 mà nhân vật này phải thi hành. Câu hỏi là: Nội dung bản hiến pháp này ra sao, và Nguyễn Văn Thiệu đã thực hiện nó thế nào (?). Hóa ra, nó tiến bộ có thể so sánh với Hiến Pháp 1946 do cụ Hồ chủ trì biên soạn. Để rồi coi. |
I. HIẾN PHÁP CỤ HỒ 1946: RẤT TIÊN TIẾN
- Đi trước thời gian
Hai năm sau, tức là tới năm 1948, bản TUYÊN NGÔN NHÂN QUYỀN mới ra đời, trong đó điều 17 khẳng định TƯ HỮU là một trong những quyền cơ bản nhất của CON NGƯỜI – để phân biệt với Con Vật. Đây là đòn chí tử giáng xuống bản TUYÊN NGÔN CỘNG SẢN (ra đời đúng 100 năm trước), trong đó cụ Marx khẳng định rằng: Toàn bộ học thuyết của mình có thể tóm tắt bằng một câu đơn giản: Xóa bỏ tư hữu.
Ấy vậy mà – sớm 2 năm – Hiến Pháp do cụ Hồ chủ trì soạn thảo năm 1946, điều 12 đã khẳng đinh (nguyên văn): Quyền tư hữu tài sản của công dân Việt Nam được bảo đảm.
Ngoài khẳng định quyền tư hữu, Hiến Pháp 1946 còn có những điều khoản tiên tiến khác, rất đáng khâm phục. Ví dụ: Ban soạn thảo – do cụ Hồ đề cử – gồm các cá nhân thuộc đủ mọi xu hướng chính trị, đã tạo ra một Hiến Pháp công nhận chế độ đa nguyên, đa đảng. Do vậy, ngay ở Lời Nói Đầu, bản Hiến Pháp này đã không thừa nhận đấu tranh giai cấp, để đoàn kết toàn dân. Câu nguyên văn là: “Đoàn kết toàn dân không phân biệt giống nòi, gái, trai, giai cấp, tôn giáo”. Quả thật, đây là sự đoàn kết rất rộng rãi, cũng là điều mà suốt đời Cụ đã kêu gọi.
Tiếp đó, Điều 1 tiếp tục xác định thêm: Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo. Rõ ràng, Điều 1 đã ngăn chặn ngay từ đầu những chính sách tàn bạo, như Cải cách ruộng đất, cải tạo tư sản, Nhân văn – Giai phẩm…
Đáng lưu ý là Hiến Pháp 1946 đã phân định khá rõ 3 quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; trong đó chủ tịch nước nắm toàn bộ quyền hành pháp, quyền hành rất lớn – tương tự như quy định của Hiến Pháp nước Mỹ đối với tổng thống.
2. Tiêu chuẩn đầu tiên xác định: Một hiến pháp là tiến bộ hay phản động
– John Locke xứng đáng là vĩ nhân khi đưa ra 3 quyền để phân biệt Con Người với con vật. Đó là: Quyền sống, quyền tự do và quyền tư hữu. Chính do vậy, kể từ khi Tuyên Ngôn Cộng Sản ra đời (1948), một thời đại mới đã xuất hiện. Đó là thời đại nhân loại bước vào cuộc đấu tranh sinh-tử giữa phe bảo vệ quyền tư hữu và phe xóa bỏ quyền này. Cũng do vậy, TƯ HỮU là tiêu chuẩn đầu tiên để đánh giá một bản hiến pháp có phù hợp với thời đại hay không (?).
– Sớm hay muộn (tùy thuộc trình độ dân trí), người dân sẽ không chấp nhận thứ hiến pháp công khai hay che giấu sự tước bỏ quyền tư hữu. Bởi vì, phải có tư hữu thì mỗi cá nhân sẽ không có thể có “nguồn vốn” (gồm vốn vật chất, vốn kỹ năng, hay vón kiến thức) để tự mình kiếm sống. Xã hội sẽ không thể có thị trường để các cá nhân trao đổi bình đẳng về hàng hóa và dịch vụ với nhau… Từ đó, không thể có tự do báo chí, ngôn luận, phản biện, đa nguyên…
3 . Thế thì, Hiến Pháp 1967 cũng thừa nhận quyền tư hữu, chứ sao!
Hơn nữa, Hiến Pháp 1967 còn được soạn thảo và ban hành rất đúng quy chế lâp pháp (ví dụ, nó được soạn thảo bởi một quốc hội lập hiến gồm nhiều đảng).
Quyền tư hữu của Hiến Pháp này gói trong điều 6 và 19.
| – Điều 6: Luật pháp bảo vệ tự do, sinh mạng, tài sản…của mọi công dân.
– Điều 19 (chi tiết hóa điều 6) gồm: 1. Quốc gia công nhận và bảo đảm quyền tư hữu. 2- Quốc gia chủ trương hữu sản hóa nhân dân; và 3- nếu bị trưng dụng thì phải được bồi thường nhanh chóng và thoả đáng theo thời giá. |
Những điều khoản về dân chủ, đa nguyên, tam quyền phân lập… cũng không thua kém mà còn cụ thể hơn, khả thi hơn, so với Hiến Pháp 1946 của cụ Hồ. Ví dụ, Điều 2. Quốc gia chủ trương sự bình đẳng giữa các công dân không phân biệt nam nữ, tôn giáo, sắc tộc, đảng phái. Điều 3. Ba cơ quan Lập pháp, Hành pháp và Tư pháp phải được phân nhiệm và phân quyền rõ rệt.
Điều 12. Quốc gia tôn trọng quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, báo chí và xuất bản, miễn là sự hành xử các quyền nầy không phương hại đến danh dự cá nhân, an ninh quốc phòng hay thuần phong mỹ tục.
II . HIẾN PHÁP 1946 và 1967 ĐƯỢC THỰC HIỆN THẾ NÀO?
- Hiến pháp 1946 không được thi hành, mà còn thi hành ngược
– Hiến Pháp 1946 chưa kịp thi hành thì chiến tranh đã nổ ra (ngay cuối năm 1946). Mọi tầng lớp nhân dân phải dốc sức vào cuộc chiến giành lại độc lập. đành chờ đợi tới khi chiến kết thúc để Hiến Pháp 1946 được thực hiện.
– Cứ tưởng phải chờ chiến tranh kết thúc, để bản Hiến Pháp 1946 được thực hiện, nhưng điều kỳ quặc đã bất ngờ xảy ra: Ngay khi cuộc chiến đang ác liệt thì chính phủ lại thực hiện chính sách Cải cách ruộng đất, dùng các biện pháp tàn bạo (giam cầm, đánh đập, tử hình) để tước đoạt quyền tư hữu ruộng đất của nhóm người bị quy kết là “địa chủ” (sau này, chính quyền công nhận sai tới trên 70% trường hợp). Hóa ra, nguyên nhân chủ yếu là đảng Cộng Sản (đang tạm thời náu mình để người dân đoàn kết xung quanh chính phủ cụ Hồ) đã đột ngột xuất hiện công khai – mang tên đảng Lao Động – và lập tức tiến hành đấu tranh giai cấp. Thế là máu đổ do kháng chiến và máu còn đổ do đấu tranh giai cấp.
Nhiều người coi đây là dấu hiệu cho thấy cụ Hồ bắt đầu mất quyền, trở thành phe thiểu số trong đảng Lao Động, từ đó cho đến khi Cụ qua đời.
Sau khi buộc phải công khai nhận sai lầm trong Cải cách ruộng đất, đảng Lao Động vẫn tiếp tục thực hiện đấu tranh giai cấp với các nhà tư sản. Đó là cuộc “Cải tạo tư sản”, thực chất là tước đoạt tư hữu của giai cấp này. Chỉ ít lâu sau, đảng đánh vào giới văn nghệ sĩ và giới trí thức, tạo ra vụ “Nhân Văn – Giai Phẩm” nổi tiếng tàn nhẫn.
– Tới năm 1959, một Hiến Pháp mới ra đời, ngược lại cả về tinh thần cũng như nội dung với Hiến Pháp 1946. Từ đó, đảng Lao Động có nghị quyết “giải phóng miền Nam” bằng bạo lực vũ trang. Bài hát Giải Phóng Miền Nam là sự công khai một chủ trương tuyệt mật. Do vậy, có quan điểm coi đây là cuộc là nội chiến ý thức hệ, thực chất vẫn là xung đột “sống còn” giữa bảo vệ quyền tư hữu và truất phế quyền này.
2. Hiến Pháp 1967 vẫn được thi hành, dù là thời chiến
Trong số 5 liên danh ứng cử tổng thống (và phó tổng thống) liên danh Nguyễn Văn Thiệu – Nguyễn Cao Kỳ đã trúng cử trong một cuộc bầu cử toàn dân.
Dưới thời tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, chiến tranh lan rộng khắp miền Nam với những vũ khí tối tân nhất. Ngay trong thời chiến, người dân miền Nam vẫn có quyền tư hữu. Nông dân hay người buôn bán có thể góp tài sản với nhau để thành lập những công ty cổ phần, chứ không bị cưỡng ép vào các hợp tác xã. Vẫn có đa đảng cạnh tranh nhau qua các cuộc bầu cử, vẫn có tự do báo chí (báo của tư nhân)…
3 . Có một Điều Khoản chống Cộng trong Hiến Pháp 1967.
Nguyên văn điều 4: a). Việt Nam Cộng Hòa chống lại chủ nghĩa Cộng Sản dưới mọi hình thức. b) Mọi hành vi nhằm mục đích tuyên truyền hay thực hiện chủ nghĩa Cộng Sản đều bị cấm chỉ.
Thực tế, Mặt Trận Giải phóng miền Nam đã công khai chủ trương dùng vũ trang để lật đổ, ngay từ năm 1961 (với bài hát “diệt Mỹ” và “phá tan bè lũ bán mước”). Tới tận 7 năm sau, Hiến Pháp 1967 mới ra đời, chuyện miền Bắc đem đại binh vào miền Nam là chuyện dường như cả thế giới đã biết. Nói khác, cái điều khoản chống Cộng trong Hiến Pháp 1967 chẳng qua chỉ là sự đối phó thụ động mà thôi. Một sự thật là, khi xe tăng của “Quân giải phóng” cắm cờ của Mặt trận Giải Phóng xông vào dinh Độc lập thì toàn bộ sĩ quan và binh lính đều gia nhập quân đội từ miền Bắc, nói tiếng Bắc, vừa từ miền Bắc hành quân vào Nam
4 . Chính quyền Nguyễn Văn Thiệu có thuộc “bè lũ bán nước”?
Chính quyền này đã được khoảng 60 nước đặt quan hệ ngoại giao, nghĩa là không kém (mà còn hơn) chế độ ở miền Bắc. Thật ra, thời gian này, thế giới đã chia thành hai phe rõ rệt: Mỗi phe công nhận một chế độ (đối lập nhau) ở 2 miền Nam – Bắc. Nếu đọc bài 1954-1975: Quốc tế đã công nhận hai nhà nước Việt Nam như thế nào, sẽ rất khó để nói rằng “bè lũ Nguyễn Văn Thiệu là bán nước” trong khi vị thế quốc tế của “bè lũ” này không kém chính quyền ở miền Bắc.
“Mặt Trận Giải phóng miền Nam đã công khai chủ trương dùng vũ trang để lật đổ, ngay từ năm 1961 (với bài hát “diệt Mỹ” và “phá tan bè lũ bán mước”). Tới tận 7 năm sau, Hiến Pháp 1967″
Như vậy, chính Mặt Trận Giải Phóng miền Nam mới là “bè lũ bán nước”. Ơ nhưng mà chắc là không . Thủ tướng Võ Văn Kiệt lúc đó phụ trách T-4 Biệt động Thành của MTGPMN
Chắc chỉ do tác giả Huỳnh Minh Chien bịa ra . Việt Nam giỏi quá!
ThíchThích
Pingback: Bài hát Giải Phóng Miền Nam: Một di sản lịch sử (Bài 5b) | Nghiên Cứu Lịch Sử
Trong hồi ký TRONG GỌNG KỀM LỊCH SỬ, ông Bùi Diễm – nguyên đại sứ VNCH tại Mỹ – viết là Mỹ đổ bộ Thủy quân lục chiến vào Đà Nẵng rồi mới báo cho chính phủ Phan Huy Quát biết! Sau này chắc các đợt tăng quân, rồi rước bọn đồ tể Mãnh Hổ, Thanh Long, Bạch Mã của Đại Hàn vào để tàn sát dân ta, chắc Mỹ cũng chẳng buồn báo cho VNCH biết.
Ông Nguyễn Cao Kỳ – người từng đứng đầu VNCH – thẳng thừng công nhận là : “Đây là cuộc chiến tranh của Mỹ, chúng tôi chỉ là lính đánh thuê”. Thế thì :
1. Chế độ VNCH là bù nhìn, tay sai.
2. Quân đội VNCH là lính đánh thuê cho ngoại bang, chống lại nhân dân mình.
Đã đủ tiêu chuẩn bán nước chưa?
ThíchThích