Cù Tuấn dịch từ The Economist.
Bất chấp các lệnh trừng phạt, Nga vẫn là một thỏi nam châm thu hút người di cư.
Daniyar Abdyrakhmanov, 37 tuổi đến từ Jany-Jer, một ngôi làng ở vùng Batken, miền nam Kyrgyzstan, đã dành nửa cuộc đời làm việc vất vả trong các nhà kho và công trường xây dựng ở Nga. Hai trong số ba anh trai của ông vẫn làm việc ở đó. Vợ ông, một giáo viên, đến từ một làng bên cạnh. Nhưng họ đã gặp nhau ở Moscow, nơi cô ấy làm việc như một trợ lý cửa hàng. Khi con trai của họ được hai tuổi, hai người để con lại với ông bà ngoại và trở lại Nga để kiếm tiền.
Câu chuyện của ông Abdyrakhmanov là khá điển hình. Tại Batken trong Thung lũng Fergana, gần biên giới của Kyrgyzstan với Tajikistan và Uzbekistan, hiếm khi tìm thấy một gia đình không có ít nhất một thành viên làm việc ở Nga. Ông Abdyrakhmanov không muốn rời khỏi vùng đất màu mỡ và tuyệt đẹp nơi ông sinh ra. Nhưng làm việc ở Moscow, ông kiếm được gấp ba lần mức lương trung bình ở quê nhà, nơi mà hầu hết các cơ hội chỉ giới hạn trong việc trồng lúa, trồng cây mơ và óc chó.
Theo Ngân hàng Thế giới, lượng kiều hối trị giá khoảng một phần ba gdp ở Kyrgyzstan và Tajikistan vào năm 2021, khiến các nước này trở thành một trong những quốc gia phụ thuộc vào kiều hối nhất thế giới. Tiền được gửi về từ Nga, vốn có mức sống tương đối rẻ, dễ đến và có ngôn ngữ quen thuộc, là một cứu cánh quan trọng. Năm ngoái, khoảng 82% lượng kiều hối đến Kyrgyzstan đến từ Nga; đối với Tajikistan, con số này là 76%.
Chính phủ Kyrgyzstan cho biết nếu không có kiều hối, số lượng người Kyrgyzstan nghèo sẽ tăng lên đáng kể. Ở Batken, khu vực nghèo nhất của đất nước này, nơi 35% người dân sống chỉ với hơn 1 đô la mỗi ngày, tỷ lệ này có thể tăng lên 50%. Xuất khẩu lao động là trọng tâm của nền kinh tế các quốc gia này, đến nỗi ngay cả đại dịch cũng không làm gián đoạn nó. Mặc dù một số người di cư đã trở về nhà vào năm 2020, nhưng họ lại rời đi ngay khi có thể. Kiều hối đến Kyrgyzstan đã tăng từ năm 2019 đến năm 2021.
Nhưng cuộc xâm lược của Nga vào Ukraine có thể cắt đứt đường sống đó. Ngân hàng Thế giới dự đoán rằng nền kinh tế của Kyrgyzstan sẽ giảm 5% trong năm nay. Một lý do lớn là họ dự kiến lượng kiều hối sẽ giảm gần một phần ba do người di cư bị mất việc làm trong nền kinh tế bị trừng phạt của Nga. Sự sụt giảm của đồng rúp vào đầu năm nay cũng tạm thời làm giảm giá trị của số tiền họ gửi về nước, mặc dù đồng tiền này đã phục hồi sau đó. Ngân hàng Thế giới dự đoán, kiều hối đến Tajikistan sẽ giảm hơn 1/5 và gdp sẽ giảm 2%. Do đó, tỷ lệ các hộ gia đình Tajik không đủ tiền mua thực phẩm bổ dưỡng và lành mạnh có khả năng tăng từ 20% lên 36%.
Kinh nghiệm của gia đình ông Abdyrakhmanov cho thấy rằng cuộc sống của những người di cư ở Nga đang trở nên khó khăn hơn: một trong những người anh em của ông mất việc và đang tính về nhà. Nhưng cho đến nay, chưa có cuộc di cư ồ ạt nào. Những người di cư vẫn còn việc làm cho biết họ đang có kế hoạch ở lại Nga.
Lo ngại về một cuộc di cư khỏi Nga đã thúc đẩy các chính phủ Trung Á nỗ lực đa dạng hóa nguồn kiều hối của họ. Họ đã thúc đẩy người di cư tìm kiếm việc làm ở các quốc gia giàu có hơn, nơi có mức lương cao hơn và quyền lao động tốt hơn. Các trung tâm đào tạo do chính phủ tài trợ ở Uzbekistan đã bắt đầu dạy tiếng Nhật và tiếng Hàn cho những người sắp di cư. Người lao động Tajik và Kyrgyzstan đã bắt đầu đi hái trái cây và rau quả ở Anh, nơi nổi lên như một điểm đến khó có thể xảy ra đối với những người di cư Trung Á, nhưng giờ đã thay đổi vì tình trạng thiếu lao động hậu Brexit.
Tuy nhiên, hầu hết những người di cư vẫn đang hướng tới Nga, bất chấp các lệnh trừng phạt. Một người đàn ông có vẻ ngoài lo lắng, gần đây đã đến trung tâm hỗ trợ người di cư do chính phủ điều hành ở Osh, thành phố lớn thứ hai của Kyrgyzstan, là một ví dụ điển hình. Anh yêu cầu nhân viên kiểm tra xem tên của mình có nằm trong danh sách đen di cư của Nga hay không, vốn cấm những người lao động vi phạm các quy tắc tuyển dụng của Nga. Khi họ nói với người đàn ông đó rằng anh không nằm trong danh sách đen, anh rời văn phòng với nụ cười rộng mở trên môi.