CHƯƠNG 17 : SÓNG ĐỔI CHIỀU 1369-1421 SH [1950-2001 CN]
Tamim Ansary
Trần Quang Nghĩa dịch
Vào tháng 5, 1967, Nasser bắt đầu tuôn ra những lời hiếu chiến nhắm vào Israel; để chứng tỏ mình nói là làm, ông thậm chí phong tỏa lối vào Biển Đỏ của Israel. Thật ra, tất nhiên, với 70 ngàn quân bị sa lầy ở Yemen, Nasser không thể đưa ra các động thái quân sự thực sự nào; nhưng nói được thì cứ nói. Nói, nếu đủ lì lợm, đôi khi cũng làm được việc.
Và đôi khi không. Vào ngày ⅚, không cảnh báo trước, Israel tấn công Ai Cập, Jordan, và Syria cùng một lúc. “Không cảnh báo trước” nên được đánh một dấu sao ở đây: tình trạng căng thẳng giữa Ả Rập và Israel đã leo thang trong những tháng gần đây. Vậy mà không một nhà nước Ả Rập nào nghĩ sẽ xảy ra một cuộc chiến vào buổi sáng tháng 6 đó; và không có nhà nước nào sẵn sàng.
Trong 24 giờ đầu tiên, Israel phá hủy gần như toàn bộ không lực Ai Cập nằm trên mặt đất. Trong năm ngày sau đó, Israel chinh phục mọi vùng lãnh thổ được Liên Hiệp Quốc khoanh vùng làm nhà nước Palestine. Vùng này thay vào đó trở thành Lãnh thổ Bị Chiếm Đóng, do Israel cai trị nhưng dân số hầu hết là người Palestine. Đến ngày thứ 7, cuộc chiến kết thúc, và thế giới không bao giờ trở lại như cũ.
Bạn có thể cho rằng không thể có một khúc khải hoàn có tính rất quyết định, nhất là trong một cuộc xung đột giữa hai khối vững như bàn thạch. Nhưng vào năm 1967 khi Israel đạt được thắng lợi quyết định nhất trong lịch sử chiến tranh hiện đại, nó không phải là trận đụng độ với một khối vững chắc. Phía Ả Rập là một cuộc tranh giành gắt gỏng kẹt trong thế chống đối nhau.
Cuộc Chiến 6 Ngày làm Nasser bẽ mặt, sự nghiệp của ông coi như chấm dứt. Trong vòng bốn năm người đàn ông này coi như đã chết. Nếu Nasser thực sự là lãnh đạo khối Ả Rập đoàn kết, thảm bại của ông có thể đã buộc “người Ả Rập” giảng hòa với Israel và tìm ra một cơ sở nào đó cho hoà bình.
Nhưng không có “người Ả Rập”. Nasser thực ra cũng chỉ là một người tranh chấp trong số người tranh chấp quyền lãnh đạo của chỉ một trào lưu trong số tất cả ai xưng mình là Ả Rập: trào lưu hiện đại thế tục. Khi Israel tấn công người Ả Rập, Israel thực sự chỉ tấn công trào lưu này; và khi nó nghiền nát Nasser, nó gây thiệt hại chỉ cho khuynh hướng dân tộc chủ nghĩa, thế tục, hiện đại hóa và Tây phương hóa này. Với sự thất thủ của Nasser, chủ nghĩa Nasser, một sự pha trộn kỳ lạ của chủ nghĩa hiện đại hóa thế tục và chủ nghĩa xã hội Hồi giáo cũng sụp đổ. Lấp vào khoảng trống quyền lực do chủ nghĩa quá cố đó để lại là các lực lượng nguy hiểm khác, một số nguyên sơ hơn, phi lý hơn.
Sau cuộc chiến, dân tị nạn Ả Rập co cụm dọc theo biên giới Israel không còn hy vọng có nhà nước Ả Rập nào cứu vớt mình và quyết định từ rày trở đi chỉ phải tự lực cánh sinh. Những dân tị nạn này, với dân số đã phồng lên hơn một triệu sau vụ lộn xộn vừa qua, tại thời điểm này có thể gọi là dân Palestine một cách thích đáng, bởi vì những trải nghiệm lịch sử đau đớn được chia sẻ chắc chắn cho họ một nhân dạng chung và biến họ thành một “quốc gia” theo nghĩa cổ điển. Họ bây giờ là “dân tộc không lãnh thổ” và trong đám người Palestine nổi lên nhiều nhóm nguyện cống hiến cho công cuộc phục hồi Palestine bằng bất cứ giá nào. Nhóm lớn nhất trong chúng phát triển thành một liên minh có tên Tổ chức Giải phóng Palestine (PLO), đã được thành lập vào năm 1964 như một cơ chế theo đó các chính quyền Ả Rập có thể “quản lý” người Palestine. Sau Cuộc Chiến 6 Ngày, người Palestine nắm quyền kiểm soát tổ chức này và biến nó thành của mình. Một kỹ sư bán thời gian và nhà cách mạng toàn thời gian có tên Yasser Arafat xuất hiện với vai trò chủ tịch của nó và với PLO gần như là chính quyền của họ, người Palestine chuẩn bị cho một cuộc chiến lâu dài với Israel. Đây là hệ lụy thứ nhất của Cuộc Chiến 6 Ngày.
Thứ hai, việc Nasser thất thủ mở đường cho phong trào dân tộc Ả Rập thế tục khác, phong trào do Michel Aflaq sáng lập. Đảng ông đã bắt tay với Đảng Xã hội Syria để thành lập Đảng Xã hội Ba’ath, cương lĩnh của đảng kết hợp chủ nghĩa xã hội tuyên dương nhà nước với chủ nghĩa dân tộc tôn sùng Ả Rập. Sau Cuộc Chiến 6 Ngày, các sĩ quan quân đội đổ xô vào Đảng Ba’ath mới này, tạo cho sự pha trộn có tính dân tộc-xã hội vốn đã không lành mạnh này một lớp sơn quân phiệt. Điều bắt đầu như một phong trào hiện đại, khá cấp tiến, chủ trương nữ quyền, bình đẳng cho nhóm thiểu số tôn giáo, tự do ngôn luận, tự do dân sự, dân chủ, xóa mù chữ, và những lý tưởng tiến bộ khác, giờ bị bóp méo thẳng thừng về hướng chủ nghĩa phát triển mang tính dân tộc với sắc thái chuyên chế. Cương lĩnh của Ba’ath giờ kết tinh là một tiếng gào thét “Quốc gia chúng ta! Quốc gia chúng ta phải phát triển hãng xưởng, kỹ nghệ, bom!” Thậm chí trước Cuộc Chiến 6 Ngày, Đảng Ba’ath đã nắm quyền kiểm soát Syria; sau Cuộc Chiến 6 Ngày, chi nhánh thứ hai của đảng đã chiếm quyền ở Iraq và bắt đầu xây dựng một nhà nước cảnh sát chẳng bao lâu được cầm đầu bởi nhà độc tài không-bắt-tù-binh Saddam Hussein. Cả hai đảng Ba’ath đều được sự hậu thuẫn của nhân dân lúc đầu, vì dân chúng Ả Rập trong xứ sở đó khiếp sợ Israel và bị tổn thương trong trận thảm bại 1967, họ trông đợi một người nào đó phục hồi lại niềm kiêu hãnh của mình. Nhưng nét hào nhoáng phai nhạt khi tầng lớp trung lưu Syria và Iraq nếm trải cuộc sống dưới gót giày của một ý thức hệ không có gì ở cốt lõi trừ quyền lực. Và đây là hệ lụy thứ hai của Cuộc Chiến 6 Ngày.
Hệ lụy thứ ba là đáng ngại nhất. Cuộc Chiến 6 Ngày đánh dấu điểm ngoặt trong cuộc đấu tranh chung giữa những người hiện đại thế tục của thế giới Hồi giáo và những người đi theo các trào lưu tư tưởng và hành động Hồi giáo khác ra đời vào thế kỷ 19: chủ nghĩa Wahhabism và những dòng khác nhau của chủ nghĩa Hồi giáo chính trị cực đoan. Ở Ả Rập Saudi, người Wahhabis đã có một nhà nước của riêng mình. Mặc dù Ai Cập đã từ lâu tuyên bố là trung tâm của thế giới Ả Rập, Ả Rập Saudi cũng có thể tuyên bố cho vị thế đó, một phần bởi vị họ kiểm soát thành phố thiêng liêng Mecca và Medina. Bất kỳ sự yếu kém nào của Ai Cập sẽ thêm quyền lực cho Ả Rập Saudi – và quyền lực đó mới ghê gớm làm sao! Dầu hỏa đem lại của cải cho người Wahhabis, và vũ khí Hoa Kỳ mang lại sức mạnh quân sự cho họ. Với Ai Cập đang xáo trộn, các giáo sĩ Wahhabi lặng lẽ bắt đầu sử dụng tài nguyên của mình tài trợ hoạt động truyền giáo trên khắp thế giới Hồi giáo, dựng lên các trường đạo, xây cất thánh đường, bổ nhiệm các Imam, và thiết lập các cơ sở từ thiện vươn tới cuộc sống các dân quê Hồi giáo nghèo khó khắp mọi nơi, mở rộng về phía nam vào đến Phi châu hạ Sahara, và về phía đông đến vùng người miền nam Pushtoon của Afghanistan, và vào tận Pakistan, tại đó ý thức hệ Wahhabi đã có hàng triệu người đi theo.
Rồi có Huynh Đệ Hồi giáo. Khi Nasser bị mất mặt trong Cuộc Chiến 6 Ngày, quần chúng Ai Cập đơn giản bỏ rơi ông. Họ quay sang phong trào chống Nasser rầm rộ trên khắp xứ. Và giờ đây, Huynh Đệ Hồi giáo gây di căn. Tổ chức thọc qua biên giới Ai Cập, vào Syria, vào Jordan vào các tiểu vương quốc Ả Rập và phần còn lại của trung tâm Ả Rập. Và còn gì nữa, phong trào nguyên sơ bắt đầu ra nhánh, mỗi nhánh sau cực đoan hơn nhánh trước. Một nhánh như thế là Islamic Jihad (Chiến binh Thánh chiến Cực đoan) của Ai Cập, sáng lập bởi một người có tên al-Zawaheri, chính là người đã hướng dẫn thành viên jihad Saudi giờ đây đã tiếng tăm lừng lẫy Osama bin Laden.
Một số nhà ý thức hệ lấy cảm hứng ở Qutb bắt đầu dạy rằng jihad không chỉ là “một nghĩa vụ” đối với người Hồi giáo thuần thành mà còn là “cột trụ thứ 6” của đạo Hồi, quan trọng ngang với cầu nguyện, hành hương, ân chạy, bố thí, và tín điều độc thần. Một ít bọn quá khích, như Abdullah Azzam, một người Palestine chiến đấu với quân Sô-viết tại Afghanistan, thậm chí còn đi xa hơn, tuyên bố rằng tham gia jihad là cách duy nhất để phân biệt một người Hồi giáo và người ngoại đạo: theo học thuyết của ông, ai không theo đuổi cuộc tranh đấu vũ trang là chơi sòng phẳng. Những nhà cách mạng thứ dữ này nên gọi một cách thích đáng là những người chủ trương “thánh chiến” hơn chỉ là “Hồi giáo Cực đoan.” Ý thức hệ của họ rõ ràng là quá đáng với đại đa số người Hồi, thậm chí không thể xem là đạo Hồi đối với phần đông: nó chỉ là mảnh nhỏ vụn vặt của chủ nghĩa Hồi giáo Cực đoan, mà chủ nghĩa này vốn chỉ là một mảnh nhỏ của đạo Hồi chính trị, mà đạo Hồi chính trị vốn chỉ là một nhánh của đạo Hồi tổng thể.
Trên tất cả điều này, Cuộc Chiến 6 Ngày đã thành tựu những gì? Israel có được Các Lãnh thổ Bị Chiếm Đóng. Chúng được xem là vùng đệm cho đất nước Israel chống lại các cuộc tấn công tiếp theo. Trong vùng lãnh thổ này, chính quyền Israel đối mặt với các vụ nổi dậy ngày càng tăng của nhóm có tên intifadas, và họ đã giáng trả bằng các biện pháp ngày càng tàn nhẫn hơn. Hết năm này sang năm khác và hết thập niên này sang thập niên khác, hội chứng đột kích-phản kích này đã rút cạn năng lượng của quốc gia và làm tổn thương các nguyên tắc đạo lý trên thế giới.
Về phía bên kia, cuộc chiến đã cực đoan hóa và “Palestine hóa” tổ chức PLO, củng cố thêm quyền lực cho đảng Ba’ath, và tiếp thêm năng lượng cho Huynh Đệ Hồi giáo, sản sinh ra những mảnh vỡ Chiến binh Thánh chiến khi năm tháng trôi qua, càng ngày càng có nhiều bọn cuồng tín phát động các cuộc tấn công ngày càng khủng khiếp không chỉ vào những người đi đường vô tội tình cờ án đường – một phó phẩm bi thảm của gần như mọi cuộc chiến – mà đánh vào bất cứ ai càng vô tội càng tốt, một thể loại khác biệt của bạo lực ngày nay được biết là khủng bố. Tóm lại, Cuộc Chiến 6 Ngày gây trở ngại lớn lao cho hoà bình, một thảm họa cho thế giới Hồi giáo, cuối cùng thậm chí cũng không quá tốt cho Israel.
Chuyện kể diễn ra trong trung tâm Ả Rập sau Thế Chiến II là như thế. Giờ cho phép tôi trở lại và đi theo một đường dây khác của chuyện kể xa hơn về phía đông, tại trung tâm Ba Tư. Ở đó cũng có một sự kiện quan trọng xảy ra, cũng có tầm vóc thay đổi thế giới như Cuộc Chiến 6 Ngày, bởi vì nó tạo nên, trong thế giới Hồi giáo, một hình ảnh của Hoa Kỳ đã cho thấy là khó bảo.
Chỉ sau Thế Chiến II người Hồi mới thực sự bắt đầu chú ý đến Hoa Kỳ, và ấn tượng ban đầu là rất trọng thị. Trong suốt Thế Chiến II, họ ngưỡng mộ tính hiệu năng linh hoạt của Hoa Kỳ, khả năng sản xuất ồ ạt hàng hóa tuyệt vời của nó, sức mạnh quân sự của nó, và nhất là dưới ánh sáng của các giá trị cao cả mà người Mỹ tuyên dương – tự do, công lý, dân chủ. Họ tôn trọng lập luận của người Mỹ cho rằng hệ thống chính trị của Hoa Kỳ có thể cứu nhân dân mọi quốc gia thoát khỏi cảnh nghèo đói và áp bức. Các nhà lý tưởng Mỹ xiển dương dân chủ với lòng nhiệt thành chẳng kém các phong trào tôn giáo, biến nó thành một lý tưởng cạnh tranh với với các ý tưởng xã hội biến đổi thế giới như chủ nghĩa cộng sản, phát xít, và đạo Hồi. Các giáo sĩ Hồi giáo có thể bác bỏ những tuyên ngôn đạo lý của Mỹ, nhưng người Hồi hiện đại thế tục lại xem đó là niềm hy vọng lớn, và không thấy có nghịch lý cố hữu giữa lý tưởng Mỹ và đạo Hồi theo cách họ hiểu.
Khi 14 Luận Điểm của Wilson không cho ra kết quả gì, người Hồi không đổ lỗi cho Hoa Kỳ; họ đổ lỗi cho tên cận vệ già Âu châu. Trong những ngày cuối cùng của Thế Chiến II, tổng thống Mỹ Franklin Delano Roosevelt làm mới lại tính lãnh đạo đạo lý của Mỹ bằng cách ban hành (cùng với Winston Churchill) Hiến chương Đại Tây Dương, một văn bản kêu gọi giải phóng và dân chủ hóa mọi đất nước. Churchill sau đó nói rằng ông không có ý như thế, nhưng các lãnh đạo Mỹ không hề bác bỏ hiến chương. Thật ra, ngay sau chiến tranh, Hoa Kỳ dẫn đầu trong việc soạn thảo Tuyên Ngôn Nhân Quyền, được Liên Hiệp Quốc ban hành, thêm chứng cứ, nếu cần, là người Mỹ cam kết hậu thuẫn tự do chính trị và dân chủ khắp mọi nơi.
Tất cả điều này trông rất tốt đối với người Iran. Ngay sau Thế Chiến II họ sẵn sàng tiếp tục kế hoạch thân thiết với mình: thay thế chế độ chuyên chính vương triều bằng nền dân chủ cây nhà lá vườn. Reza Shah Pahlavi đã phong tỏa kế hoạch này hàng thập kỷ, nhưng cuối cùng thì ông ta đã đi rồi: Đồng minh, các Đồng minh tuyệt vời, đã loại ông ta trong chiến tranh vì đã ve vãn với bọn Quốc Xã. Sân khấu đã dọn sẵn cho người Iran để phục hồi hiến pháp 1906, phục sinh nghị viện, và tổ chức bầu cử thực sự: cuối cùng thì họ có thể xây dựng nền dân chủ thế tục họ đã mơ ước bấy lâu.
Thế rồi, với hy vọng tưng bừng, người Iran đi bầu và chọn ra một người hiện đại thế tục tên Mohammad Mosaddeq lên cầm quyền với chức vụ thủ tướng. Mosaddeq đã cam kết sẽ phục hồi quyền kiểm soát toàn bộ nguồn tài nguyên quý giá của đất nước, dầu hỏa, và vì vậy sau khi lên nhậm chức, ông hủy bỏ giấy phép cấp cho British Petroleum và tuyên bố quốc hữu hóa kỹ nghệ dầu khí Iran.
Đáng khen.
Cục Tình báo Trung ương (CIA) Hoa Kỳ lập tức hành động để ngăn cản “gã điên Mosaddeq” (như cách ngoại trưởng Mỹ John Foster Dulles gọi ông ta). Vào cuối tháng 8 1953, một phe nhóm quân sự Iran thực hiện một cuộc đảo chính đẫm máu do CIA tài trợ khiến hàng ngàn người chết trên đường phố và đặt nhân vật chính trị được mến mộ nhất của Iran dưới sự quản thúc tại gia từ đó ông không bao giờ xuất hiện lại. Thế chỗ ông, CIA dựng con trai của Reza Shah Pahlavi (cũng có tên là Reza Shah Pahlavi) lên làm vua. Vị shah trẻ ký một hiệp ước với Mỹ cho phép tập đoàn dầu khí quốc tế quyền “quản lý” dầu hỏa Iran.
Thật khó để phóng đại cảm xúc bị phản bội mà vụ đảo chính này gây ra cho Iran hoặc cơn rùng mình căm giận mà nó lan truyền qua thế giới Hồi giáo. Đúng ba năm sau đó, dù Eisenhower có can thiệp để lấy được Kênh đào Suez cho Ai Cập, người Mỹ không gặt hái được lợi ích của quan hệ công chúng từ vụ này trong nhân dân Hồi: Nasser nhận hết công trạng về mình. Tại sao? Vì vết thương mà cú đảo chính CIA đã gây ra ở Iran quá sâu nặng. Trên khắp trung tâm Hồi giáo và thật ra trên khắp thế giới đã từng bị thuộc địa hóa, một xác tín bắt rễ cho rằng chủ nghĩa đế quốc vẫn còn sống, nhưng giờ thì Hoa Kỳ cầm lái thay chỗ của Anh. Từ góc nhìn của chuyện kể Hồi giáo, lịch sử mở ra ở Iran vẫn còn xoay quanh cuộc đấu tranh giữa các xung lực thế tục và tôn giáo. Làm sao làm sống lại đạo Hồi một cách tốt nhất, làm sao phục hồi sức mạnh của người Hồi, làm sao trút bỏ sức nặng của phương Tây – đây là những vấn đề chi phối sự kiện. Nhưng Iran giờ đây cũng là một phần của chuyện kể thế giới, và chuyện kể đó xoay quanh sự tranh chấp siêu cường nhằm nắm quyền bá chủ thế giới. Từ góc nhìn đó, những gì định hình nên các sự kiện là các cân nhắc chiến lược về Chiến tranh Lạnh và chính sách dầu hỏa. Điều đó cũng đúng trên khắp Trung Thế Giới, và hai bộ vấn đề này tiếp tục đan quyện nhau trên khắp cảnh giới Dar al-Islam cho đến hết thế kỷ.
Phía đông Iran, Chiến tranh Lạnh đơn giản trông như Trò Chơi Lớn đang trở lại. Sự khác biệt chỉ là vẻ bên ngoài. Nước mà trước kia là Nga Sa hoàng giờ được gọi là Liên bang Sô-viết. Vai trò từng được chơi bởi Anh giờ thuộc về Hoa Kỳ. Tuy nhiên, động lực là như nhau: các âm mưu, sức ép, đe dọa bạo lực, và đổ máu thực sự.
Nhưng tầm vóc thì lớn hơn. Trò Chơi Lớn đã diễn biến dọc theo chiến tuyến nơi Đế chế Nga đụng độ với Đế chế Anh. Chiến tranh Lạnh được lèo lái bởi quyết tâm của Hoa Kỳ nhằm phong tỏa sự bành trướng của Sô-viết trên thế giới; và vì có nhiều nhà nước- quốc gia đang xuất hiện khắp mọi nơi, và phần đông họ có tiềm năng rốt ráo hoặc là đồng minh của Sô-viết hoặc của Hoa Kỳ, trận địa xung đột có thể nằm ở bất cứ đâu trên quả đất. Mỗi xứ có tiềm năng tranh chấp có thể nhận được tiền bạc và súng ống từ cả hai siêu cường, một đổ vào viện trợ cho chính quyền, siêu cường kia đổ vào phe nổi dậy chống chính quyền nào đó, tuỳ thuộc xứ sở đó nghiêng về bên nào.
Trận địa cốt lõi của Trò Chơi Lớn đã từng ở Iran, Afghanistan, và trung tâm châu Á, và tại vùng này trò chơi vẫn còn đang tiếp diễn. Người Nga của thế kỷ 19 từng có tham vọng tiến về nam qua ngõ Afghanistan đến Vịnh Ba Tư để lấy được cảng nước ấm cho lực lượng hải quân và vận chuyển tàu buôn. Người Sô-viết cũng có cùng mối quan tâm, nhưng tiền đặt cược còn lớn hơn: các nhà địa chất giờ khẳng định rằng xấp xỉ 65 phần trăm trữ lượng dầu hỏa của thế giới nằm bên dưới và chung quanh Vịnh Ba Tư và trong một ít xứ sở Hồi giáo khác ở Bắc Phi (và phần nhiều số còn lại, các nhà địa chất sau này nhận ra, nằm trong đất nước Hồi giáo thuộc Trung Á, phía bắc Afghanistan.) Với việc kỹ nghệ hóa toàn cầu đang leo thang vượt mức, ý nghĩa của dầu hỏa vẫn đang lên cao ngất ngưởng.
Mặc dù dầu hỏa gây một tác động chính trị to tát lên thế giới Hồi giáo, tác động xã hội của nó thậm chí chắc chắn còn sâu sắc hơn. Kể từ những năm 1930, các xứ sở có dầu hỏa đã không ngừng đục đẽo vào các điều khoản ham hố của các hợp đồng trước kia. Mỗi vài năm xứ này hoặc xứ kia đã xoay sở để tái thương lượng các thỏa thuận với các tập đoàn dầu khí nước ngoài và tranh thủ được các điều khoản tốt hơn từng chút một. Vào năm 1950, các nước “xuất khẩu dầu hỏa” thường nhận được đến 50 phần trăm lợi tức từ nguồn dầu hỏa của họ, và từ thời gian đó trở đi khối tài sản đáng kể bắt đầu đổ tràn vào vùng đất đó.
Nguồn của cải bất ngờ này lẽ ra có một tác động rất khác chỉ nếu các định chế dân chủ đã xuất hiện trong các quốc gia giàu dầu khí trước khi dầu được phát hiện. Với quyền lực phân bổ trên khắp xã hội trong các xứ sở này, với các đại lộ tham gia mở ra cho mọi người thuộc mọi tầng lớp, của cải có thể đã cung cấp thêm sức mạnh cho năng lực sáng tạo của hàng triệu người và đốt lên sự phục hưng văn hoá.
Nhưng thời gian và hoàn cảnh không cho phép các định chế như thế ra đời. Các xã hội Hồi giáo này ám ảnh bởi các ký ức về thời vinh quang đã mất. Tầng lớp cai trị bị ám ảnh bởi công cuộc phát triển hạ tầng cơ sở hiện đại họ cho là cần thiết cho sự hồi phục sự vĩ đại đó. Họ nôn nóng muốn bắt kịp phương Tây và tin rằng chỉ có các nhà nước trung ương tập quyền với sự độc quyền về quyền lực mới có thể làm được những gì cần làm. Họ không nghĩ mình phải đợi cho hạ tầng cơ sở cần thiết xuất hiện một cách hữu cơ hoặc họ không chịu để nhân dân mình tìm ra đường lối riêng đến hiện đại hóa theo tiến độ và cách thức của họ. Các xã hội Hồi giáo tụt hậu từng phút một và chúng cần cơ sở hạ tầng vật lý đầy đủ có tính hiện đại ngay lập tức!
Với dầu hỏa, họ có thể có được điều đó một cách nhanh chóng. Họ có thể bán dầu và dùng tiền để hạ cơ sở hạ tầng xuống vào đúng nơi, bùm. Của cải mà giới cai trị tích lũy trong các xứ giàu dầu mỏ là chuyện huyền thoại, và đúng là một thiểu số nhỏ bé các người Ả Rập và Iran thu vén của cải dơ bẩn và vung vải trong các khu nghỉ dưỡng thời thượng và các casino tiếng tăm của thế giới, nhưng giới cai trị trong các xứ sở này không chỉ bỏ tiền vào túi. Họ cũng chỉ đạo chi tiêu những số tiền lớn vào công cuộc “phát triển”, đúng với tín điều hiện đại thế tục: đó thực sự mới là chuyện kể lớn hơn. Hết xứ này đến xứ khác, chính quyền thiết lập các hệ thống trường công lập, xây dựng các nhà máy năng lượng và các tòa tháp văn phòng cao chọc trời, sáng lập các công ty hàng không quốc gia, các đài truyền hình, đài phát thanh và báo chí quốc gia.
Hết xứ này đến xứ khác, phát triển đại quy mô loại này được nhà nước và người có chức năng thực hiện, sản sinh một tầng lớp mới các kỹ thuật viên và viên chức có học vấn điều hành bộ máy của chủ nghĩa hiện đại mới. “Nền kỹ trị” này, như một số người đặt tên, là một tầng lớp có lương lậu cao: tiền lương của họ đến từ nhà nước, và nhà nước nhận tiền từ các tập đoàn đã bơm và bán dầu của xứ sở. Nhà nước vẫn còn thu thuế các trại chủ, người chăn nuôi, nghệ nhân, nhà buôn, và những ngành nghề khác trong nền kinh tế truyền thống, nhưng thu hoạch này không có bao nhiêu. Nền kinh tế truyền thống không còn sản xuất nhiều như xưa. Chắc chắn, chính quyền không thể trông cậy vào cơ sở thuế này để tài trợ cho các chương trình phát triển đầy tham vọng của mình.
Một khi tầng lớp lãnh đạo không còn lệ thuộc vào lợi tức thuế của nền kinh tế truyền thống, họ không còn cần đồng minh trong giới đó. Thậm chí trong nền độc tài chuyên chính, giới cầm quyền vẫn phải làm lành với giới cử tri trong nước. Nhưng trong các nhà nước Hồi giáo giàu dầu hoả này, họ có thể tránh xa quần chúng nhân dân mình về mặt văn hoá mà không chịu hệ lụy gì. Người mà họ cần giao du là các đặc vụ của nền kinh tế thế giới ra vào xứ sở họ. Do đó đúng là “hiện đại hóa” phân chia các xã hội “đang phát triển” này thành một “câu lạc bộ trị vì” và “mọi người còn lại.”
Câu lạc bộ trị vì không nhỏ. Nó bao gồm giới kỹ trị, không chỉ là một nhóm người, mà là một tầng lớp xã hội. Nó cũng bao gồm giới cai trị, mà trong các vương triều, là hoàng gia và các họ hàng đông đúc còn trong các nước “cộng hòa” là đảng cai trị và bộ sậu của đảng. Còn nữa, trong tất cả xứ sở này câu lạc bộ trị vì là một thiểu số trong dân số, và ranh giới giữa các tầng lớp trị vì và quần chúng càng trở nên phân biệt.
Những thành viên trong câu lạc bộ là một phần trong dự án hấp dẫn, làm việc để biến đổi đất nước của mình. Những người bên ngoài câu lạc bộ là những người thụ hưởng thụ động của công cuộc hiện đại hóa chỉ đơn giản xảy đến cho họ. Thình lình một bệnh viện xuất hiện gần đó: tốt, giờ họ có thể được chăm sóc sức khoẻ tốt hơn. Thình lình một đại lộ có vỉa hè xuất hiện gần đó: tốt, vậy là họ có thể ra thành phố nhanh hơn. Nhưng những người bên ngoài câu lạc bộ không có vai trò gì trong công cuộc hiện đại hóa vì điều tốt hay điều tồi, không có phần trong việc ra quyết định không có tiếng nói trong việc phải chi tiêu suối tiền đổ vào đất nước như thế nào, không tham gia chính trị trong công cuộc biến đổi đất nước.
Họ cũng không nhận được, như một phó phẩm của việc hiện đại hóa, quyền lực thăng hoa để thực hiện các ước mơ và mục tiêu cá nhân của mình, bất cứ đó có thể là gì. Thật ra, cho dù các quốc gia xuất khẩu dầu hỏa có giàu hơn mọi mặt, nhưng con người bên ngoài “câu lạc bộ trị vì” trở nên tương đối nghèo hơn.
Đối với hầu hết, hy vọng duy nhất để có một chỗ đứng trong xứ sở mình là đi vào một trường chính quyền, học tốt, đi du học (rất lý tưởng), đổ một bằng cấp, tốt nhất là trong lĩnh vực kỹ thuật, và rồi đột nhập vào giới kỹ trị . Bất cứ ai đi theo lộ trình này ắt hẳn cuối cùng cũng mặc đồ vét đi làm và sống một cuộc sống như người phương Tây. Thời gian của họ được quy định bởi đồng hồ, gia đình họ trở thành “hạt nhân,” khẩu vị giải trí của họ có thể tìm đến rượu, hộp đêm, nhà hát. Con cái họ có thể nghe nhạc rock and roll, hẹn hò với các bạn khác phái, và chọn ý trung nhân theo ý mình.
Ai không theo lộ trình này chắc chắn rốt cục chỉ mặc các loại y phục truyền thống của xã hội: pehran-u-tumban, shalwar kameez, sari, jelabiyyah, keffiyeh—bất kỳ thứ truyền thống nào của xứ sở đó. Thời biểu mỗi ngày của họ được định hình bằng các nghi thức tôn giáo, và khi họ nói về gia đình mình họ có khuynh hướng nói tới một mạng lưới họ hàng mà họ ràng buộc bằng các nghĩa vụ rối rắm. Người bạn đời của họ ắt hẳn được các bậc họ hàng cao niên chọn cho họ, có thể do hẳn một uỷ ban thân quyến nhưng có khi chừa họ ra.
Các chính khách, doanh nhân, và viên chức của thế giới Tây phương sẽ cảm thấy thoải mái khi thương lượng với những người mặc áo vét đi làm; trông có vẻ thân thiện về mặt văn hoá. Họ có thể hiếm khi giao tiếp với cư dân thuộc văn hoá khác.
Những ai mặc vét đi làm có cơ hội sống trong các ngôi nhà có nhà bếp và phòng tắm hiện đại trang bị điện nước. Những ai không mặc vét rốt cục sống chui rúc trong các ngôi nhà có bếp và phòng tắm như của tổ tiên họ với nước cấp tùy tiện và có khi không thông với hệ thống thoát nước công cộng. Về phần nguồn năng lượng, thay vì điện, họ có thể dùng than, cũi, hoặc chất đốt nào đó cho trực tiếp hơi nóng và ánh sáng.
Người trong câu lạc bộ trị vì của quốc gia làm ra tiền ở một quy mô ngang với người thuộc nền kinh tế thế giới. Người trong nền kinh tế nội địa tụt hậu thường có thu nhập ít hơn nhiều, chỉ vừa đủ như cầu khi sống ở làng hoặc khu ổ chuột ở thành thị, nhưng không đủ để thoát nghèo.
Động lực toàn bộ này không chỉ giới hạn cho các quốc gia giàu dầu mỏ. Một tiến trình tương tự đang xảy ra tại những xứ không có dầu, nếu họ có giá trị chiến lược như những mảnh Chiến tranh Lạnh, và ai không có chứ?
Ai Cập, Afghanistan, Pakistan, và nhiều xứ sở khác khớp với định nghĩa này nhận được hàng khối tiền từ các siêu cường như “viện trợ phát triển” nhằm lôi kéo họ về phe mình. Đường xá và bệnh viện, trường học và sân bay, vũ khí và trang bị cảnh sát, bất cứ thứ gì giới cai trị cần đến, họ có thể nhận được tiền để sắm những thứ đó dưới dạng quà tặng hoặc hoặc khoản vay từ nước ngoài. Dù không bằng tiền dầu hỏa, nhưng so với tiền thuế thu được từ nền kinh tế truyền thống, nó cũng là một khoản tiền lớn. Viện trợ kiểu này giải phóng các nhà nước càng ngày càng trung ương tập quyền hơn khỏi lệ thuộc vào thuế nội địa và giới cai trị khỏi phải lấy lòng hoặc xoa dịu quần chúng trong nước. Số tiền đó đủ tạo ra các tầng lớp kỹ trị và phân chia xã hội thành các tầng lớp khác biệt.
Sự phân chia này tại nhiều nơi thật ra quá sâu sắc đến nỗi có thể thấy được bằng mắt trần. Mỗi thành phố đô hội từ Casablanca đến Kabul về cơ bản có hai khu thương mại: một là các Phố Cổ nơi các công dân có kinh tế tụt hậu sinh hoạt. Mọi người ở đấy ăn mặc khác với cư dân khu kia, khu hiện đại, nơi hoạt động mậu dịch có tầm vóc quốc tế. Hai khu thương mại bốc mùi khác nhau; chúng có phong cách kiến trúc khác nhau; có cảm nhận khác nhau về đời sống xã hội. Các xứ sở trước đây là thuộc địa Âu châu thì không nói, nhưng ngay các xứ sở Hồi giáo có khi còn rõ ràng hơn.
Tất nhiên điều đó cũng đúng ở ngay châu Âu, sự thay đổi bất ngờ mà cuộc cách mạng kỹ nghệ mang lại đã phân chia các xã hội thành hai giải tầng riêng biệt sâu sắc. London cũng có trung tâm thương mại hào nhoáng và khu tồi tàn, nhưng ở đó sự phân chia sinh ra rạch ròi hơn từ hố sâu kinh tế: người giàu ăn ngon hơn, mặc đẹp hơn, sống tiện nghi hơn, đi học trường tốt hơn, và ăn nói có giáo dục hơn, nhưng họ cũng chỉ là phiên bản giàu hơn của người nghèo.
Trong thế giới Hồi giáo, sự khác biệt không chỉ là kinh tế mà còn mang tính văn hoá và do đó hố ngăn cách giữa hai giới nuôi dưỡng sự tha hóa và khiến nỗi bất mãn có mùi vị chống thực dân hơn, nhưng không có thực dân ở đây mà chỉ có tầng lớp cai trị của mình. Nỗi bất mãn này dẫn đến tình trạng bất ổn dân sự thường xuyên. Vì các xứ sở phân chia về mặt văn hoá này không có các định chế dân chủ làm trung gian hoà giải, nên chính quyền thường sử dụng đến sức mạnh để đàn áp các vụ gây rối. Các nhà cai trị bản địa giờ chiếm vai trò của các thực dân ngoại bang xưa kia. Từ Morocco qua Ai Cập đến
Pakistan và xa hơn nữa, khám đường chứa đầy những người bất đồng chính kiến và bọn bất mãn. Không ở đâu mà căng thẳng văn hoá và chính trị nổi cộm như ở Iran. Shah Reza Pahlavi, người đã lợi dụng việc Mosaddeq bị tống khứ, là một nhà hiện đại thế tục theo khuôn mẫu Atatürk, nhưng thay vì Atatürk từng là dân chủ cơ yếu với đường hướng tự trị, thì vị Shah của Iran là con người tự trị cơ yếu với đường hướng chuyên chế. Ông thành lập lực lượng cảnh sát mật có tên SAVAK để củng cố bàn tay sắt lên đất nước, và như thể muốn xát muối lên vết thương của đồng bào mình, ông ký một hiệp ước với Hoa Kỳ ban cho công dân Mỹ ở Iran quyền miễn nhiễm hoàn toàn đối với luật pháp Iran – một sự buông lỏng quá đáng quyền tự chủ.
Chế độ độc tài của vị shah tiếp thêm năng lượng cho một phong trào phản kháng khiến nhớ lại tinh thần của Sayyid Jamaluddin. Lý thuyết gia hàng đầu của nó, Tiến sĩ Ali Shariati là một trí thức xã hội người Hồi giáo học tại Sorbonne. Ông khai sinh một tầm nhìn về chủ nghĩa hiện đại Hồi giáo bác bỏ điều ông gọi là “nhiễm độc phương Tây” và nhắm đến một cơ sở cho chủ nghĩa xã hội tiến bộ theo truyền thống Hồi giáo. Shariati nói, chẳng hạn, việc đạo Hồi khẳng định về tính thống nhất của Thượng Đế nói lên nhu cầu của tình đoàn kết nhân loại trên Trái đất. Trong kỷ nguyên hiện đại, “chủ nghĩa đa thần” mà đạo Hồi ngăn cấm được hiện thân trong sự phân chia xã hội thành nhiều tầng lớp bởi tài sản và chủng tộc. Theo Shariati, ba ngẫu tượng mà người Hồi ném đá trong chuyến hành hương Hajj biểu thị chủ nghĩa tư bản, sự chuyên chính, và giả đạo đức tôn giáo. Ông sử dụng các câu chuyện và truyền thống Hồi giáo làm chất đốt cho nhiệt tình cách mạng, chẳng hạn, chỉ đến vụ vùng dậy của Hussein chống Mu’awiya như là một biểu tượng cuộc đấu tranh của con người cho sự giải phóng, công lý, và cứu rỗi: nếu Hussein có thể gây cảm hứng cho một nhóm hơn 70 người chống lại cả một nhà nước đồ sộ, thế thì một nhóm cách mạng bí mật nhỏ chỉ vài trăm người không có lý do lùi bước không tuyên chiến với tên shah của Iran và siêu cường hậu thuẫn y.
Cuộc kháng chiến xã hội chủ nghĩa Hồi giáo hiện thân cho một nhóm hoạt động ngầm có tên Mujahideen-e-Khalq. Từ giữa thập niên 1950 cho đến cuộc cách mạng Iran 1978, nhóm nhỏ này cầm đầu Cuộc đấu tranh chống vị Shah và chiến đấu bí mật chống bọn SAVAK. Các chiến binh Mujahideen-e-Khalq này (đôi khi được gọi là người Mác-xít Hồi giáo) đứng mũi chịu sào các vụ hành hình, tra tấn và giam cầm mà vị shah hy vọng sẽ đập tan được sự đối kháng, và những nhục hình tàn bạo mà các chiến binh nam nữ này chịu đựng thách thức sự mô tả.
Tuy nhiên, cũng lúc ấy, một phong trào đối kháng tôn giáo thuộc loại rất khác đang nổi lên mạnh mẽ ở Iran, một phong trào thoát thai từ tổ chức tôn giáo được đại diện bởi giáo sĩ gan lì Ayatollah Khomeini.
Như người Wahhabis của giáo phái Sunni, Khomeini tuyên bố rằng người Hồi đã xa rời đạo Hồi “chân thực” được hiểu như là chuyên tâm đọc kinh Qur’an và các truyền thống của nhà tiên tri và (vì đây là những người Shi’i) và các đấng Imam kế vị ông. Khomeini tấn công vị Shah không chỉ vì ông độc tài mà vì ông hiện đại – trong việc đề cao lối ăn mặc tây phương, ưu ái nữ quyền, cho phép hộp đêm được hoạt động ở Iran, và vân vân.
Khomeini cũng lấy truyền thống Shi’i để xây dựng một học thuyết chính trị mới: rằng quyền lực chính quyền đúng ra phải nằm trong tay của vị đại diện đơn lẻ được chọn của đấng Imam Giấu Mặt của thế giới, một người có thể được nhận ra bởi kiến thức tôn giáo uyên bác và sự tôn kính mà các học giả thông thái khác dành cho ngài. Nhân vật như thế là một faqih, một nhà lãnh đạo có uy quyền làm luật, và trong thế giới hiện đại, Khomeini đề nghị, ông là một nhân vật đó.
Vị Shah trục xuất Khomeini vào năm 1964, nhưng vị giáo sĩ cứng rắn cuối cùng tạm lánh ở Iraq kế bên, từ căn cứ đó ông chỉ đạo một đội quân đang lớn mạnh các phần tử quá khích Iran trung thành với ông.
Cuộc Chiến 6 Ngày năm 1967 đã củng cố một niềm tin nơi người Hồi rằng Hoa Kỳ cầm đầu một cuộc công kích đế quốc mới vào nền văn minh Hồi giáo với Israel là đầu cầu. Nói cho cùng, sức mạnh của Israel phụ thuộc vào vũ khí và sự hậu thuẫn của Hoa Kỳ. Kết luận này được khẳng định vào năm 1973, khi người kế vị của Nasser, Anwar al-Sadat, bắt đầu cuộc chiến Ả Râp-Israel thứ tư bằng cách tấn công Israel trong lễ Yom Kippur, một ngày lễ tôn giáo long trọng của Do Thái giáo. Lần này, vũ khí và binh sĩ Ai Cập ghi được các thắng lợi sớm áp đảo, nhưng Israel lập tức nhận được một chuyến tàu vũ khí đồ sộ từ Hoa Kỳ và điều này đã làm thay đổi cục diện; vì thế Israel lại chiến thắng lần nữa.
Tình cờ, trong Cuộc Chiến Ả Râp-Israel, Tổ chức các Nước Xuất khẩu Dầu hỏa (OPEC) đang nhóm họp để điều hành hoạt động thường nhật phối hợp sản xuất và chính sách giá cả. OPEC được thành lập vào năm 1960, trong số 12 quốc gia thành viên, 9 là các xứ Hồi giáo. Ngay chính lúc mà các nhà lãnh đạo OPEC đang nhóm họp để tán gẫu, quần chúng trong các xứ đó biểu tình tuần hành bày tỏ sự thịnh nộ trước mối nhục quân sự mà Israel và Hoa Kỳ đang đối xử với người Ả Rập. OPEC đến thời điểm này vẫn không dính líu đến chính trị, nhưng tại buổi họp 1973, các thành viên của OPEC quyết định sử dụng dầu hỏa làm vũ khí để giáng trả. Họ thông báo một lệnh cấm vận cho mọi chuyến tàu chở dầu đến các xứ ủng hộ Israel.
Động thái đó gây một cú sốc cho thế giới kỹ nghệ hóa. Tại Oregon, nơi tôi sống vào thời điểm đó, xăng dầu phải bán gần như theo định mức: dân chúng chỉ có thể mua cách ngày, lượt mua căn cứ vào bảng số xe chẵn hay lẻ. Tôi nhớ phải thức dậy sớm trước bình minh vào ngày đến lượt ngay mùa đông để xếp hàng tại một trạm xăng địa phương, tìm cơ may có được nhiên liệu hiếm hoi. Thỉnh thoảng, xăng hết sạch khi tôi đến được vòi bơm. Tôi nghĩ mình đang chứng kiến ngày cuối cùng của nền văn minh, và có lẽ tôi được dịp nếm thử trước. Việc cấm vận của OPEC đẩy giá dầu tăng như tên lửa từ 3 đô một thùng lên 12 đô. Khi tôi viết những dòng này, dầu đang được bán với khoảng 130 đô một thùng.
Giới truyền thông trả đũa ngay, bắt đầu xây dựng hình mẫu giờ đây quá quen thuộc mô tả người Ả Rập là những kẻ ác, giàu dầu với mũi dài, âm mưu cai trị thế giới. Hình mẫu đó khớp một cách quái đản với hình mẫu bài Do Thái của người Âu trước đây một trăm năm, đặc biệt họ tưởng tượng một giáo phái Do Thái bí ẩn có tên “các trưởng lão Zion”, được cho là âm mưu, vâng, cai trị thế giới.
Việc cấm vận dầu báo trước sức mạnh tiềm năng của OPEC. Mặc dù chỉ kéo dài vài tháng, nó nâng cao vị thế chủ nhân nguồn tài nguyên của các quốc gia sản xuất dầu. Nhờ đó, các nhà cai trị quốc gia này thậm chí giàu có hơn – chỉ làm trầm trọng thêm hố ngăn cách trong xã hội Hồi giáo đã được mô tả trước đây.
Suốt thời gian này, các lực lượng thế tục ở Dar al-Islam tiếp tục đấu tranh để “hiện đại hóa” đất nước họ trong khi đương đầu với các lực lượng quốc tế. Nhưng trào lưu phục hưng “khác” bị nhận chìm, thậm chí bị dập tắt – Hồi giáo cực đoan, nhóm Salafis, Wahhabis, Deobandis, chiến binh thánh chiến …. – tiếp tục phát triển trong số quần chúng có kinh tế tụt hậu. Ở đó họ tiếp tục thuyết giảng rằng thế giới được phân chia thành hai phần phân biệt, loại trừ nhau, một cảnh giới của hoà bình và một cảnh giới của chiến tranh, một cảnh giới của tình huynh đệ Hồi giáo và cảnh giới của lòng tham sân ngoại đạo.
Dân chúng nghe họ thuyết giáo có thể nhìn quanh quất và thấy rằng, đúng thế, xã hội được chia thành hai thế giới riêng biệt; nó sờ sờ trước mắt; có mù mới không nhận ra. Và khi các chiến binh thánh chiến tiếp tục dự đoán một ngày phán xét khải huyền đang đến giữa những người vẫn trung thành từng chữ một với các mặc khải do Mohammed nhận được vào thế kỷ 7 ở Ả Rập và những người bị Sa tăng lôi kéo rời xa Thượng Đế, những kẻ sống trong các xã hội phân chia trắng trợn này hiểu họ muốn có ý gì: họ tỉnh dậy mỗi ngày đối diện với hiện thực mình đang nghèo hơn, cho dù màn hình TV của họ trình chiếu trước mắt họ những người ở ngay phố đối diện nhưng sống trong một thế giới khác, giàu có vượt mọi tưởng tượng. Họ phấn khích với ý tưởng một cuộc khải huyền đang đến sẽ ban tặng họ Trái Đất và Thiên đường trong khi đạp đổ bọn cai trị phạm thánh không xứng đáng khỏi địa vị hống hách của họ.
Vậy mà, cho đến thập niên 1970, phương Tây mới chú ý đến thế giới ngầm bùng nổ của cơn thịnh nộ đang lớn dần. Chuyện kể thịnh hành của phương Tây về lịch sử thế giới cho rằng giới tụt hậu này là các phần tử vết tích của một kỷ nguyên đã mất rồi sẽ dần dần biến mất khi các quốc gia đang phát triển trở thành các quốc gia phát triển, khi các chế độ độc tài nhận ra các đường lối của mình là sai lầm để trở thành các thể chế dân chủ, khi liều thuốc vạn năng gọi là giáo dục sẽ trừ khử được mê tín và thay thế nó bằng khoa học, khi tình cảm thiển cận nhường chỗ cho lý trí lạnh lùng. Theo các học thuyết thịnh hành, vấn đề đang quấy rầy giới tụt hậu của thế giới Hồi giáo (và của những vùng khác) không phải là các điều kiện xã hội họ đang sống, mà là các tư tưởng trong đầu óc họ. Và rồi, những người theo chủ nghĩa hiện đại thế tục trong thế giới Hồi giáo bắt đầu rơi đài.
Zulfikar Ali Bhutto là người đầu tiên ra đi. Ông là vị thủ tướng Pakistan tao nhã, tốt nghiệp Berkeley, lãnh đạo Đảng Nhân Dân xã hội chủ nghĩa thế tục, tả khuynh. Vào năm 1977, một vị tướng thuộc Hồi giáo cực đoan có tên Zia al-Haq lật đổ ông và tống ông vào tù. Chẳng bao lâu, nhóm Deobandi bắt đầu la ó đòi lấy mạng ông. Một phiên tòa trá hình xử ông phạm các tội ác mơ hồ và kết án ông. Ông bị án theo cổ.
Sayyid Qutb cũng đã chịu chung số phận ở Ai Cập, mười ba năm trước.
Người tiếp theo rơi đài là vị shah của Iran. Vào năm 1978, một liên minh các phe tả khuynh thế tục, phe xã hội Hồi giáo, và phe cách mạng dòng Shi’i hậu thuẫn Khomeini đuổi ông ra khỏi xứ sở và trong một lúc tưởng như là các Mujahideen-e-Khalq và các đồng minh hiện đại của họ sẽ xây dựng một chính quyền tiến bộ ở Iran dựa trên ý thức hệ mới chủ nghĩa xã hội Hồi giáo.
Nhưng Khomeini khéo léo qua mặt các phe phái cách mạng khác ở Iran. Vào ngày 4/11/1979, một băng nhóm sinh viên theo phe ông xông vào sứ quán Mỹ và bắt đi 66 người làm con tin. Khomeini lợi dụng cuộc đương đầu lâu dài với người Mỹ để làm suy yếu đối thủ cạnh tranh với mình và củng cố quyền kiểm soát. Rồi một lần nữa, có lẽ thành công của Khomeini không thể lý giải hoàn toàn bởi việc đan cài chiến lược như mạng nhện và tung hứng chiêu trò chính trị. Có lẽ ông thắng vì ông thật ra lên tiếng cho động lực sâu xa nhất của quần chúng Iran tại thời khắc đó. Có lẽ động lực đó không phải để sửa sai lộ trình của chủ nghĩa hiện đại thế tục mà là để thủ tiêu mọi phong trào theo chiều hướng đó và cho Đường lối Hồi giáo một cơ hội khác. Trong bất kì trường hợp nào, vào năm 1980, Khomeini đã biến đổi Iran thành một “Cộng hòa Hồi giáo” do các giáo sĩ bảo thủ nhất của giới ulama Shi’i chính thống Iran cai trị.
Tiếp theo là các nhà hiện đại thế tục của Afghanistan. Sự qua đời của họ bắt đầu bằng một thắng lợi ngoài mặt cho một phiên bản cực kì của động lực thế tục. Một cú đảo chính của một nhóm nhỏ xíu các phần tử cộng sản Afghanistan đập nát triều đại mà Nadir Shah đã dựng lên vào thập niên 1920. Mỗi thành viên của gia tộc không trốn thoát được đều bị giết sạch. Rồi Liên bang Sô-viết xâm lược và nắm quyền kiểm soát trực tiếp đất nước. Nhưng con lắc khuynh tả chỉ là tạm thời và vô nghĩa; nó chỉ làm nổ ra cuộc nổi dậy tôn giáo và bộ tộc rầm rộ. Cuộc chiến du kích chống Sô-viết 8 năm ròng sau đó đã thêm sức mạnh cho các nhà ý thức hệ Hồi giáo cực đoan của đất nước. Không những thế mà cuộc kháng chiến ỏ vùng quê Afghanistan còn lôi kéo những tên cuồng tín Hồi giáo trên khắp thế giới Ả Rập, kể cả các tay thánh chiến từ thế giới Ả Rập và các Deobandi từ Pakistan, tất cả họ đều được tài trợ bằng tiền Wahhabi từ các nhà nước Ả Rập giàu dầu hoả ở Vịnh Ba Tư. Trong số nhiều người đầu tiên nếm máu trên các chiến trường Afghanistan này có Osama bin Laden.
Thật ra, trong hai thập niên cuối cùng của thế kỷ 20, phe hiện đại thế tục của đạo Hồi chứng kiến quyền lực của họ bị xói mòn gần như khắp nơi. Ở Algeria, chính quyền thế tục bị bao vây bởi Đảng Cứu Quốc Hồi giáo. Ở Palestine, PLO thế tục nhường quyền cho các nhà ý thức hệ tôn giáo của Hamas. Islamic Jihad, một nhóm quá khích khác cắm rễ trong ý thức hệ tôn giáo, cũng tranh thủ được một gờ bám nhỏ trong vùng này. Ở Lebanon, một loạt các cuộc xâm lấn hủy diệt của Israel khiến các trại tị nạn Palestine dọc theo biên giới phía nam trống trơn, tàn phá Beirut, và đuổi PLO đến bộ chỉ huy mới ở Libya, nhưng việc này chỉ sản sinh ra chính đảng Hezbollah thuộc giáo phái Shi’i, kết cục trở thành lực lượng cai trị của nửa phần phía nam của đất nước và chứng tỏ mình cũng hết lòng vì sự nghiệp hủy diệt Israel không kém tổ chức PLO đã bị tống khứ.
Tại Syria và Iraq, Huynh Đệ Hồi giáo (và các chi nhánh của nó) tiến hành một cuộc chiến đen tối với Đảng Ba’ath, một cuộc chiến mà phần lớn không được phương Tây để ý đến. Các chính quyền Ba’ath không thể diệt tận gốc phe nổi dậy Hồi giáo cực đoan này cho dù có các biện pháp khủng khiếp như vào 1982 tổng thống Syria Hafez Assad gần như tàn sát toàn bộ dân chúng của một thị trấn có tên Hama.
Saddam Hussein, nhà cai trị Iraq, là nhà hiện đại thế tục dòng Sunni và kẻ thù không đội trời chung của chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan. Vào năm 1980, ngay sau khi Khomeini giành chính quyền, Hussein xâm lược Iran. Có lẽ ông cho rằng đất nước đó đã chín muồi để thu hoạch vì đang trong cơn hỗn loạn nội bộ; có lẽ ông để mắt đến dầu hỏa của Iran; có lẽ ông sợ bị Khomeini đe dọa – vì ông có lý do cho việc đó: Khomeini đã om sòm tuyên bố ý định xuất khẩu cách mạng của mình, và đất nước Iraq thế tục, với dân số đông người theo giáo phái Shi’i, rõ ràng là thị trường đầu tiên cho việc xuất khẩu này. Dù mục đích của Hussein là gì, cuộc chiến của ông ta cho thấy là thảm họa cho cả hai bên. Cả hai mất gần trọn một thế hệ những thanh niên và thiếu niên. Từ Thế Chiến II đến nay chưa có các đạo quân đông đảo nào như thế đụng đầu nhau cũng như quá nhiều sinh mạng bị hy sinh hoang phí cho các lợi ích nhỏ nhen. Và trong suốt cuộc chiến, Hoa Kỳ bơm vũ khí và tiền bạc cho Iraq, hỗ trợ đất nước tiếp tục chiến đấu với người Iraq cuối cùng, bởi vì người Mỹ sợ rằng người Sô-viết có thể giành được lợi thế trong vùng đất chiến lược này, giờ đây khi mà Hoa Kỳ đã đánh mất chỗ đứng ở Iran. Hỗ trợ Iraq là một cách thức làm suy yếu Iran và có thể cầm chân được Sô-viết. Một lần nữa đây là sự đan quyện thảm họa của các chuyện kể Hồi giáo và Tây phương, vẫn còn là chuyện kể về chủ nghĩa hiện đại thế tục đấu với chủ nghĩa Hồi giáo về nguồn, vẫn còn là chuyện kể về cuộc tranh giành giữa các siêu cường và quyền kiểm soát dầu hỏa, mặc dù lấp liếm bằng các ngôn từ về quyền dân chủ và chuyên chính.
Cuộc chiến Iran-Iraq kết thúc vào năm 1988 không có ai thắng, trừ khi bạn kể việc Iran vẫn sống sót là một thắng lợi. Còn Iraq chắc chắn là một bãi hoang tàn, quốc khố kiệt quệ bởi các trận đổ máu vô nghĩa. Saddam Hussein liếm láp vết thương trong hai năm, và rồi, vào năm 1990, ông đặt cược để bù lại các tổn thất của mình. Được ăn cả, ngã về không, Saddam xâm lược và “xáp nhập” nước Kuwait láng giềng, hy vọng góp thêm trữ lượng dầu hỏa vào kho dầu của mình. Ắt hẳn đại sứ Mỹ April Gillespie đã cho ông lý do để tin tưởng Hoa Kỳ sẽ ủng hộ mình trong ván bài liều lĩnh này.
Thay vào đó, Hoa Kỳ dẫn đầu một liên minh 34 nước chống lại đồng minh trước đây của mình trong một cuộc tấn công có mật danh Bão Táp Sa Mạc, một cuộc chiến ngắn ngủi hủy diệt hầu hết cơ sở hạ tầng của Iraq mà đỉnh cao là việc đánh bom đoàn binh sĩ nghĩa vụ đáng thương của Saddam khi họ lếch thếch trở về Basra trên con đường mang tên Đại lộ Tử thần. Lần này Iraq tuyệt đối, hoàn toàn, và rõ ràng bị thảm bại – vậy mà khi cuộc chiến kết thúc Saddam Hussein vẫn còn nắm quyền, vẫn còn kiểm soát bộ phận nòng cốt của quân đội, lực lượng Cận vệ Cộng hòa tinh nhuệ, và vẫn còn có thể đập tan – như ông thường làm một cách dã màn – các cuộc nổi dậy bùng phát sau trận thảm bại với phương Tây.
Sau cuộc chiến, Hoa Kỳ áp đặt lệnh trừng phạt gần như cắt đứt Iraq khỏi thế giới và khiến các công dân Iraq từ một mức sống ngang với châu Âu vào năm 1990 xuống chỉ còn gần bằng công dân nghèo khó nhất trên Trái đất. Thu nhập tụt xuống khoảng 95 phần trăm. Bệnh tật lan tràn, và thiếu thuốc thang ngăn chận. Hơn 200 ngàn trẻ em – và có thể lên đến nửa triệu – chết trực tiếp do lệnh trừng phạt. Một viên chức LHQ, Denis Halliday, từ chức vì các lệnh trừng phạt, tuyên bố rằng “Năm ngàn trẻ em đang chết mỗi tháng …. Tôi không muốn điều hành một chương trình cho ra kết quả là các con số như thế này.” Người dân Iraq, vốn đã chịu đựng quá nhiều năm sống trong nỗi khiếp sợ sâu sắc bị kẹt cứng trong một nhà nước cảnh sát trị điên cuồng hiếu chiến, giờ đây sống trong cảnh lầm than không sao tưởng tượng được. Bộ phận duy nhất trong xã hội Iraq không hề hấn gì bởi lệnh trừng phạt là bọn cầm quyền Đảng Ba’ath, Saddam Hussein và bộ sậu của y, đối tượng chính của lệnh trừng phạt.
Còn ở phương đông, người Sô-viết, vốn đã xâm lược Afghanistan không đến một năm trước khi Iraq xâm lược Iran, rút ra khỏi Afghanistan không tới một năm sau khi Iraq cuối cùng rời khỏi Iran. Người cộng sản Afghanistan bám vào quyền lực thêm ba năm, nhưng khi cuối cùng họ đi xuống, toàn bộ Liên bang Sô-viết cũng sụp đổ, đế chế của nó tan rã ở Đông Âu, các nước cộng hòa thành phần lần lượt tuyên bố độc lập với nước Nga cho đến khi chính Nga cũng tuyên bố độc lập.
Ở Mỹ, sử gia bảo thủ Francis Fukuyama viết rằng sự sụp đổ của Liên bang Sô-viết đánh dấu không chỉ việc kết thúc Chiến tranh Lạnh mà còn kết thúc lịch sử: dân chủ tư bản tự do đã thắng, không còn ý thức hệ nào có thể thách thức nó nữa, và không gì còn lại trừ một ít công việc dọn dẹp bên lề trong khi toàn thể thế giới đều lên tàu thẳng tiến đến chân lý độc nhất. Đúng ra, ông ta đưa ra luận đề này trong một quyển sách có tựa đề Kết Thúc Lịch Sử và Người Cuối Cùng
Tuy nhiên, ở phía bên kia hành tinh, các chiến binh thánh chiến và người Wahhabis rút ra các kết luận rất khác từ các sự kiện sấm sét này. Ở Iran, dường như theo họ, đạo Hồi đã hạ bệ vị Shah và đánh đuổi người Mỹ. Ở Afghanistan, người Hồi đã không chỉ đánh bại Hồng quân mà còn quật ngã chính Liên bang Sô-viết. Nhìn vào tất cả điều này, chiến binh thánh chiến nhìn thấy một kiểu dạng họ cho rằng mình nhận ra được. Cộng đồng Đầu tiên đã đánh bại hai siêu cường của thời đại đó là đế chế Byzantine và Sassanid, đơn giản vì có Thượng Đế về phe mình. Người Hồi hiện đại cũng đương đầu với hai siêu cường, và bây giờ đã hạ bệ một hoàn toàn. Một rơi đài, một sẽ phải đi là cục diện trong mắt các chiến binh thánh chiến và người Wahhabis. Lịch sử kết thúc ư? Còn lâu! Theo quan điểm của phe cực đoan này, lịch sử chỉ trở nên hứng thú hơn.
Nhiều năm rồi, họ đã mô tả một thế giới phân làm hai giữa Dar al-Islam và Dar al-Harb. Nhiều năm rồi, họ đã dự đoán một quyết đấu khải huyền giữa thiện và ác, Thượng Đế và Sa tăng, một cuộc đại quyết đấu toàn cầu để giải quyết mọi xung đột và làm tan chảy mọi phe phái thành một thế giới đơn lẻ, một Medina phổ quát hóa.
Về phần phương Tây, kết thúc Chiến tranh Lạnh có nghĩa Afghanistan có thể được tha thứ. Ở đó không còn gì để làm. Hoa Kỳ và Đồng minh Tây phương đã bơm vũ khí và tiền bạc trị giá hàng tỷ đô la vào xứ sở, nhưng bây giờ họ hoàn toàn buông bỏ, khước từ các đề nghị từ vài nguồn cho rằng họ nên tài trợ các cuộc hội thảo, môi giới một hình thức hoà bình nào đó, giúp trải nhựa một tiến trình chính trị nào đó nhằm giúp đất nước Afghanistan tìm đường trở lại trật tự dân sinh. Trưởng CIA Milton Bearden giải thích lý do cho việc buông bỏ đột ngột này một cách ngắn gọn: “Đếch ai cần Afghanistan nữa.” Các quân đoàn bộ tộc đã đánh nhau với người Sô-viết quay ra cãi cọ về đất nước mà họ đã thắng bằng vũ khí họ đã chiếm được . Người Sô-viết đã phá hủy vùng quê Afghanistan. Giờ, cuộc nội chiến giữa các phe du kích khác nhau lại phá hủy thành phố. Các chiến binh thánh chiến nước ngoài đã vào Afghanistan trong thập niên 1980 tràn trở lại để biến gạch vụn thành căn cứ hoạt động cho cuộc chiến chống phương Tây.
Bước một là dựng lên ở Afghanistan một phiên bản thuần túy của cộng đồng họ hình dung, một cộng đồng trong đó mỗi ông, mỗi bà, và trẻ con sống chính xác theo từng lời dạy trong điều luật Thượng Đế nếu không sẽ chịu trừng phạt. Vì lý đó đó, các chiến binh thánh chiến, được tài trợ bởi tiền của phe Wahhabi từ nguồn Saudi, giúp phát triển Taliban, một đảng gồm các nhà lý luận nguyên thủy xuất thân từ các trại tị nạn trong vành đai bộ tộc ở vùng giáp giới Afghanistan và Pakistan.
Và cuối cùng, một nhóm nhỏ các Chiến binh Thánh chiến quá khích đã đào lỗ ẩn núp trong thi thể của Afghanistan bày mưu lên kế hoạch không tặc, lái các phi cơ thương mại đâm vào Trung Tâm Thương Mại Thế Giới và trụ sở Ngũ Giác Đài ở Washington, D.C.
Vào ngày đó, 11 tháng 9 năm 2001, hai lịch sử thế giới đâm sầm vào nhau, và từ đó cho ra một điều chắc chắn:
Fukiyama đã sai lầm. Lịch sử vẫn tiếp diễn.
LỜI BẠT:
Cho dù lịch sử vẫn còn tiếp diễn, thời kỳ kể từ ngày 11/9 vẫn chưa thành chất mùn để đi vào lịch sử: nó còn thuộc về các nhà báo. Tuy nhiên, không là quá sớm để nghĩ về thời kỳ này như một biểu thị của hai chuyện kể lớn, không đồng bộ giao nhau.
Trong tuần lễ ngay liền sau vụ tấn công khủng bố tại Thành phố New York và Washington, D.C., Tổng thống Bush tập kết Hoa Kỳ cho một hành động quân sự bằng ngôn từ nhắc lại các luận đề có từ lâu trong lịch sử Mỹ và Tây phương. Ông nói bọn khủng bố ra tay để hủy diệt tự do và dân chủ và rằng các giá trị này phải được bảo vệ bằng máu và tiền của, giống hệt lời kêu gọi tập kết chống chủ nghĩa Quốc Xã vào những năm 30 và chủ nghĩa cộng sản trong những năm 50. Kể từ đó, Hoa Kỳ và một liên minh các đồng minh phần lớn là miễn cưỡng đã đổ nhiều binh sĩ vào Iraq để tiến hành một cuộc chiến được phủ lớp ngôn từ y hệt thời Chiến tranh Lạnh, và các thế chiến thế kỷ 20, và như thể trở lại các chương đầu tiên của chuyện kể thế giới sử Tây phương.
Nhưng liệu các kẻ xâm nhập ngày 11/9 có thực xem mình giáng một đòn vào tự do và dân chủ? Có phải lòng căm thù tự do chính là nhiệt tình đã sai khiến các phần tử Hồi giáo cực đoan quá khích hiếu chiến hôm nay? Nếu thế, bạn không thể tìm thấy điều đó trong diễn văn của nhóm thánh chiến, vốn điển hình tập trung, không phải về tự do và điều ngược lại của nó, cũng không phải về dân chủ và điều ngược lại của nó, mà là về kỷ cương đối lại băng hoại, về đạo lý thuần khiết đối lại đồi bại luân lý, các thuật ngữ xuất phát từ hàng thế kỷ dưới ách thống trị Tây phương trong các xã hội Hồi giáo và sự phân rã tương ứng các cộng đồng và gia đình ở đó, sự xói mòn các giá trị xã hội Hồi giáo, sự phát triển tệ nạn rượu chè, việc thay thế tín ngưỡng bằng trò giải trí, và việc tha hóa của tầng lớp cai trị cùng với khoảng cách giàu nghèo càng sâu sắc thêm.
Một bên kết án, “Bọn ngươi đồi bại.” Bên kia quật lại, “Bọn tao tự do.” Các luận cứ này không đối nghịch nhau; chúng chỉ không liền mạch với nhau. Mỗi bên nhận diện bên kia là một nhân vật trong câu chuyện kể của riêng mình. Vào thập niên 1980, Khomeini gọi Mỹ là “Tên Sa tăng Sừng Sõ” và phe cách mạng Hồi giáo cực đoan đã nhại lại cách tu từ của ông ta. Vào năm 2008, Jeffrey Herf, một giáo sư sử tại Đại học Maryland, cho rằng các người Hồi cực đoan là các tên Quốc Xã sống lại, bị kích động từ cốt lõi bởi chủ nghĩa bài Do Thái và lòng căm thù phụ nữ.
Herf và những người khác xem học thuyết Hồi giáo Cực đoan rốt cục chỉ là lời kêu gọi chặt đầu, chặt tay, và trùm bao nhựa lên phụ nữ. Không ai chối là các phần tử quá khích Hồi giáo đã làm tất cả chuyện này. Vậy mà chính chúng nhìn thấy mối xung đột chủ yếu phân chia thế giới ngày nay là do bất hoà về vấn đề tồn tại một Thượng Đế, nhiều Thượng Đế, hay không có Thượng Đế nào cả. Tất cả vấn đề của nhân loại sẽ được giải quyết, họ lập luận, nếu thế giới chỉ cần nhận ra tính đơn lẻ của Thượng Đế (và của vai trò đặc biệt của Mohammed như người phát ngôn của ngài).
Các nhà trí thức thế tục ở phương Tây không nhất thiết phải bất đồng với số thượng đế. Họ chỉ không cho rằng đó là câu hỏi nóng bỏng. Đối với họ – với chúng ta – vấn đề cơ bản của con người là tìm cách thỏa mãn những nhu cầu và khao khát của mọi người theo một kiểu dạng cho phép mỗi người được tham gia đầy đủ việc đưa ra quyết định về vận mệnh của mình. Một Thượng Đế, hai thượng đế, không hay nhiều thượng đế: mỗi người có lập trường khác nhau, và không đáng để đánh nhau vì việc đó, bởi vì giải quyết câu hỏi đó sẽ không giúp giải quyết nạn đói, nạn nghèo, chiến tranh, tội ác, bất bình đẳng, bất công xã hội, ấm lên toàn cầu, cạn kiệt tài nguyên, hoặc bất kì tai ương nào khác hành hạ nhân loại. Đó là tình hình thế tục.
Vậy mà thế tục và Tây phương không đồng nghĩa với nhau, dù những gì Hồi giáo Cực đoan tuyên bố. Một cuộc khảo sát năm 2001 của Đại học Thành phố New York cho thấy 81 phần trăm người Mỹ nhận mình thuộc một tổ chức tôn giáo, 77 phần trăm là Cơ đốc giáo. Phần còn lại, nhiều người xưng mình là “tâm linh.” Số người vô thần quá ít đến nỗi nó thậm chí không thể hiện trên biểu đồ. Bất kể xung đột nào tàn phá thế giới ngày nay, nó không phải giữa người có tín ngưỡng với người không có tín ngưỡng.
Đúng ra, phương Tây cũng có những con chiên sùng đạo muốn đặt Chúa Trời tại trung tâm nền chính trị, nổi bật nhất là phái phúc âm Cơ đốc đã nắm quyền lực như thế ở Hoa Kỳ kể từ thập niên 1970. Tariq Ali viết một cuốn sách sau ngày 11/9 có tựa đề Xô Xát giữa các Chủ Nghĩa Cơ Yếu, đề nghị rằng mối căng thẳng này giữa đạo Hồi và phương Tây rốt cục là một cuộc tranh luận tôn giáo giữa các phe cực đoan cơ yếu. Tuy nhiên, nếu thế, hai bên không đại diện cho các học thuyết đối nghịch nhau. Người Cơ yếu Cơ đốc không nhất thiết phải bất đồng với việc có bao nhiêu Thượng Đế; họ chỉ không cho rằng đó là vấn đề. Luận thuyết của họ xoay quanh việc công nhận Jesus Christ là đấng cứu rỗi của loài người (trong khi không người Hồi nào lại nói “Mohammed là đấng cứu rỗi của chúng tôi”). Vì thế việc tranh luận giữa “những người cơ yếu” Cơ đốc giáo và Hồi giáo rốt cục là: có phải chỉ có một Thượng Đế hay Jesus Christ là đấng cứu rỗi của chúng ta? Một lần nữa, đó không phải một luận điểm-phản luận điểm; đó là hai người tự đối thoại trong các căn phòng tách biệt.
Việc thế giới Hồi giáo và Tây phương đã đi đến các biến cố như nhau bằng những lộ trình khác nhau đã đưa đến các hậu quả cụ thể. Sau 2001, các chiến lược gia Hoa Kỳ hành động trên giả định rằng hành động khủng bố lên cao trong thời hiện đại phần nào ăn khớp với khuôn khổ của nền chính trị dựa vào sức mạnh trong các nhà nước-quốc gia. Suy cho cùng, đó là điều mà các cuộc chiến Tây phương đã theo đuổi nhiều thế kỷ rồi. Thậm chí Chiến tranh Lạnh rốt cục biến thành cuộc đối đầu giữa các khối quốc gia, các thực thể giao đấu xếp hàng dọc theo đường đứt gãy ý thức hệ tận cùng là các chính quyền. Ngay sau vụ 11/9, vì vậy, chính quyền Bush nhìn quanh, nhìn trên, nhìn hút qua , nhìn xuyên thấu, nhìn khắp nơi nhưng không nhìn trực diện vào bọn khủng bố đặc biệt của ngày đó, để tìm ra chính quyền đứng đằng sau bọn này. Đăm chiêu, các chiến lược gia Mỹ – và nhiều nhà phân tích trong giới truyền thông Tây phương- nhắm đến một địch thủ cùng thể loại, cùng tầng lớp, cùng hạng người mà nước Mỹ đã đối đầu trong các cuộc chiến trước đây….
Do đó chuyện là, sau một cuộc xâm nhập ngắn ngủi thoạt đầu vào Afghanistan và một ám ảnh thoáng qua với Osama bin Laden, đội của Bush nhắm vào Saddam Hussein như người đầu não và Iraq là nhà nước hạt nhân có trách nhiệm cho chủ nghĩa khủng bố chống các công dân Tây phương, nhà nước mà hành động chinh phục và “dân chủ hóa” nó sẽ đặt dấu chấm hết đến căn bệnh dịch này. Nhưng sau khi Saddam Hussein đã bị bắt và bị treo cổ, sau khi Iraq đã bị chiếm đóng hoàn toàn, nếu không muốn nói là bị khuất phục, chủ nghĩa khủng bố không thấy dấu hiệu thuyên giảm, các chiến lược gia chính quyền Mỹ liền chuyển mục tiêu sang Iran. Và tuỳ thuộc vào những gì xảy ra ở đó, Syria, Libya, Saudi Arabia, Pakistan, và một lô các quốc gia khác đợi đến lượt mình được chỉ định làm “nhà tài trợ cấp nhà nước” chính cho chủ nghĩa khủng bố.
Với chính sách bắt rễ sâu vào chuyện kể Tây phương, Hoa Kỳ đã “ra toa thuốc” dân chủ và tài trợ các cuộc bầu cử để điều trị các căn bệnh địa phương ở Iraq và Afghanistan và các vùng miền rắc rối khác. Với sự thành công mỹ mãn của các cuộc bầu cử, nhà nước đang xét được cho là đã trở thành các nền dân chủ hoặc ít ra đã tiến gần hơn đến tình trạng hạnh phúc đó.
Nhưng tôi mãi cứ nhớ đến các cuộc bầu cử diễn ra ở Afghanistan sau khi bọn Taliban tháo chạy khỏi xứ sở. Trên khắp nước, dân chúng chọn đại biểu để đại diện họ tại các kỳ họp quốc gia do LHQ tổ chức để thành lập một chính quyền dân chủ mới, đầy đủ nghị viện, hiến pháp, tổng thống, và nội các. Mùa hè đó ở Paghman, một thị trấn gần Kabul, tôi gặp một người đàn ông bảo là mình đã đi bầu. Tôi không thế hình dung y trong một phòng đầu phiếu, vì y trông như các dân làng quê truyền thống tôi đã quen mắt từ thời trẻ, với chiếc áo sơ mi dài đúng chuẩn, ống quần nhiều túi, áo choàng, và bộ râu rậm, vì thế tôi hỏi y hãy mô tả tiến trình bầu cử cho tôi.nghe – hoạt động thực sự xảy ra thế nào?
“Vâng, thưa ông,” y nói, “hai ông từ thành phố đến đi khắp nơi với xấp phiếu và huyên thuyên bảo chúng tôi phải gạch chéo vào tên họ, và chúng tôi lắng nghe chăm chú vì họ đã cất công từ xa đến đây nên chúng tôi không muốn tỏ ra thô lỗ, nhưng chúng tôi không cần dân thành phố chỉ vẽ ai là đại diện cho chúng tôi. Chúng tôi gạch chéo như họ muốn, nhưng chúng tôi luôn biết ai sẽ đại diện mình – Agha-i-Sayyaf, tất nhiên.”
“Vậy ông bạn chọn Sayyaf thế nào đây?” Tôi hỏi.
“Chọn ông ấy sao? Thưa ông! Ý ông làm sao? Gia đình ông ta đã sống ở đây kể từ thời Dost Mohammed Khan và xa hơn nửa. Đi qua sườn núi đó, và ông sẽ trông thấy ngôi nhà của ông ta ngang qua thung lũng – to lớn nhất vùng! Mỗi năm tại Eid, ông ấy đi qua và phát kẹo cho trẻ em và hỏi han tình cảnh chúng tôi, và nếu có ai cần giúp đỡ, ông ta sẽ dốc tiền túi của mình trao cho người này người kia, bất cứ thứ gì ông có trên người. Ông ấy đúng là một người Hồi! Ông có biết là anh rễ tôi có em họ được gả cho em dâu của Sayyaf không? Ông ta giờ đã là người của gia đình tôi?”
Tôi bỗng chợt nhận ra rằng cái mà các nhà hoạch định Tây phương gọi là “dân chủ” là một công cụ xa lạ mà con người này phải gánh chịu bởi vị y buộc phải, dưới sức nặng của nó y phải mang theo với cuộc đời thực của mình tốt nhất có thể. Trong y chảy hai dòng lịch sử không liên hệ gì nhau và kết nối nhau một cách vụng về. Và nếu điều này xảy ra cách Kabul một giờ đường thì nó đang xảy ra trên khắp đất nước.
Từ phía Tây phương, nó dường như hợp lý (đối với một số) để xác quyết rằng tài trợ và trang bị vũ khí cho giới cai trị phục tùng đường lối Tây phương tại những vùng như Pakistan, Jordan, Iraq, Afghanistan, và Ai Cập giúp mang lại dân chủ cho các xã hội đó, không kể các thuận lợi của một thị trường tự do. Nó cũng dường như hợp lý (đối với một số) để xác quyết rằng các giá trị xã hội Hồi giáo là lạc hậu và cần chỉnh sửa bởi các con người tiến bộ hơn, thậm chí nếu cần thiết phải dùng đến vũ lực để ép buộc.
Tuy nhiên, từ một phía khác, các chiến dịch đạo lý và quân sự trong thời gian gần đây có vẻ như là chương trình thân thuộc từ lâu nhằm làm suy yếu người Hồi ngay trong xứ sở của mình. Các tập quán Tây phương, hệ thống luật pháp, và dân chủ trông như là một dự án nhằm phân nhỏ xã hội xuống mức các đơn vị kinh tế cá thể đưa ra các quyết định tự trị dựa trên quyền lợi cá nhân hợp lý. Rốt cục, dường như, điều này sẽ đưa mọi đàn ông, đàn bà, và trẻ con ra đọ sức với nhau, trong một cuộc cạnh tranh tất cả chống lại tất cả vì hàng hóa vật chất.
Điều có vẻ, từ bên này, như là một chiến dịch nhằm bảo đảm các quyền lợi cao cả hơn cho công dân không phân biệt giới tính, có vẻ, nhìn từ bên kia, như bọn người lạ tùy tiện xen vào chuyện riêng tư của gia đình và gây tác hại cho khả năng duy trì mạng lưới cộng đồng của mình cũng như gia đình và bộ tộc. Tóm lại, điều nhìn từ bên này như mang lại sức mạnh cho mỗi cá nhân, nhìn từ bên kia trông như lấy đi sức mạnh của toàn thể cộng đồng.
Cuộc xung đột tàn phá thế giới hiện đại không phải là, theo ý tôi, được biết rõ tổn thất như là một cuộc “đụng chạm giữa các nền văn minh”, nếu cụm từ đó có nghĩa “chúng ta khác nhau nên chúng ta phải đánh nhau cho đến khi một mất một còn.” Tốt hơn nên được hiểu như vụ cọ xát sinh ra bởi sự giao thoa giữa hai lịch sử thế giới không tương hợp nhau. Người Hồi Giáo là một đám người đi đến đâu đó. Người Âu và các chi của họ là một đám người đi đến đâu đó. Khi hai đám cắt đường nhau, sẽ xảy ra đụng đầu và xô ngã, và tình trạng xô ngã vẫn còn tiếp diễn.
Loại bỏ các phần tử mang mầm bệnh trong hai đám đông này là điều kiện tiên quyết tối thiểu cho việc dàn xếp các cơ sở học thuyết cho việc tranh chấp hiện nay. Việc loại bỏ sẽ không đem lại sự êm dịu và ánh sáng, bởi vì thực sự tồn tại các bất tương thích ở đây, không chỉ là “hiểu lầm.” Khi tôi bắt đầu viết tác phẩm này, tôi đọc đề xuất của mình cho nhóm bạn văn, hai trong số đó tuyên bố rằng việc xung đột giữa thế giới Hồi giáo và phương Tây được đẩy lên cao bởi các quyền lực giấu mặt bởi vì “con người thực ra đều giống nhau và tất cả chúng ta đều muốn những điều giống nhau”; sự xung đột sẽ nhạt nhoà đi chỉ khi con người Tây phương hiểu được rằng đạo Hồi thực sự cũng không khác đạo Cơ đốc. “Họ cũng tin tưởng vào Abraham,” một người trong họ phát biểu.
Loại đơn giản hóa có thiện ý này không đưa chúng ta đi xa lắm.
Ở phía bên kia, tôi thường nghe các người Hồi tự do sống ở Hoa Kỳ nói rằng “jihad chỉ có nghĩa ‘ra sức làm người tốt,” cho rằng chỉ có bọn mù quáng bài Hồi giáo mới cho rằng từ đó có dính líu đến bạo lực. Nhưng họ đã phớt lờ ý nghĩa của jihad đối với người Hồi trong dòng lịch sử ngược về đến cuộc đời của Tiên Tri Mohammed. Người nào cho rằng jihad không dính líu gì đến bạo lực phải giải thích tại sao có cuộc chiến mà người Hồi thuở ban đầu gọi là “jihad.” Ai muốn nói rằng người Hồi giáo thuở ban đầu cảm nhận theo một cách thức nào đó nhưng chúng tôi những người Hồi giáo hiện đại có thể tạo ra các định nghĩa hoàn toàn mới cho từ jihad (và các lĩnh vực khác của đạo Hồi) buộc phải vật lộn với học thuyết mà người Hồi đã thêm thắt qua thời gian: rằng kinh Qur’an, sự nghiệp tiên tri của Mohammed, và các cuộc đời, kỳ tích, và những lời nói của bạn đồng hành của ông trong cộng đồng Hồi giáo đầu tiên là ý chí của Thượng Đế được mặc khải trên Trần thế và không người phàm nào có thể cải thiện giáo luật và tập tục của thời kỳ đó và nơi chốn đó. Học thuyết này đã buộc mọi nhà cải cách Hồi giáo tuyên bố rằng họ không đề xuất điều gì mới, chỉ phục hồi những gì người xưa muốn nói. Họ phải khước từ là mình đang tiến lên trước, phải khăng khăng là mình đang trở về với nguồn cội tinh khôi. Đó là.một bẫy sập mà các nhà tư tưởng Hồi phải thoát ra.
Nhà thần học Ai Cập hiện đại chủ nghĩa Sheikh Mohammed Abduh viết những bộ sách nổi tiếng chứng tỏ rằng kinh Qur’an thực sự quy định khoa học và các giá trị hiện đại nào đó. Ông trích dẫn các lời dẫn của kinh để chứng tỏ rằng trong hôn nhân Qur’an thực sự ưu ái chế độ một vợ một chồng hơn là chế độ đa thê. Trường hợp của ông thuyết phục nhưng rõ ràng ông chỉ trích ra những đoạn kinh nào hậu thuẫn cho chế độ một vợ một chồng trong kinh Qur’an. Đó là một kết luận ông đã định sẵn. Câu hỏi là, ông có thể rút ra kết luận này từ nguồn tư liệu nào khác? Bộ đó không phải là suy nghĩ hợp lý được áp dụng cho các nguyên tắc sâu xa nhất của cuộc sống được chia sẻ hay sao?
Vai trò của phụ nữ trong xã hội ắt hẳn là tình huống trần trụi nhất của tính bất tương thích hợp giữa thế giới Hồi giáo và phương Tây, một vấn đề cần gỡ rối và phá vỡ một cách trí tuệ. Mỗi xã hội trong mỗi kỷ nguyên đã hiểu rõ tiềm năng mãnh liệt của tình dục hay làm đứt gãy tính hài hoà xã hội và mỗi xã hội đã phát triển hình thức xã hội để ngăn chặn sức mạnh đó. Về điểm này, sự bất đồng giữa văn hoá Hồi giáo và Tây phương không phải là về việc liệu phụ nữ có nên bị áp bức hay không như phương Tây thường dè bỉu. Nhưng người thiện ý ở cả hai bên tin rằng không người nào cần phải bị áp bức. Nhưng không thể chối cãi là ở nhiều xứ Hồi giáo phụ nữ chịu nhiều khổ sở do các luật lệ áp bức. Chỉ nên nói rằng nguyên tắc mà người Hồi đứng trên đó không phải là “quyền” áp bức phụ nữ. Đúng hơn, những gì mà thế giới Hồi giáo đã cụ thể hóa qua dòng lịch sử là ý tưởng rằng xã hội nên được phân chia thành hai lĩnh vực của nam giới và nữ giới và rằng điểm kết nối giữa hai giới chỉ nên xảy ra trong chốn riêng tư, để tình dục có thể bị loại bỏ như một nhân tố trong đời sống công cộng của cộng đồng.
Và tôi phải nói, tôi không thấy làm thế nào một xã hội đơn lẻ có thể được xây dựng trong đó một số công dân cho rằng toàn bộ thế giới nên được phân chia thành một lĩnh vực nữ giới và một lĩnh vực nam giới, và những người khác thì cho rằng giới tính nên được trộn lẫn nhau thành một lĩnh vực xã hội đơn lẻ trong đó đàn ông và đàn bà đi cùng đường, mua hàng cùng cửa tiệm, ăn cùng nhà hàng, ngồi chung trong lớp học, và làm cùng một công việc. Nó chỉ có thể là một hình thức này hay hình thức khác. Nó không thế cả hai. Từ nơi tôi đứng, tôi không thấy sao người Hồi có thể sống ở phương Tây, theo luật lệ và tập quán của xã hội Tây phương, nếu họ cứ khư khư giữ lấy quan điểm phân chia giới, cũng không hiểu sao người Tây phương có thể sống trong thế giới Hồi giáo trừ ra như các vị khách qua đường, nếu cứ giữ lấy quan điểm hai giới lẫn lộn.
Tôi không đưa ra câu trả lời nào cho các câu hỏi mà tôi đặt ra. Tôi chỉ nói rằng các nhà trí thức Hồi giáo phải giải quyết chúng. Và họ đã. Một số tách rời táo bạo nhất khỏi các học thuyết chính thống Hồi giáo xuất hiện ở Iran, trong hai thập niên sau khi xứ sở đó trục xuất Hoa Kỳ và tuyên bố chủ quyền về mặt văn hoá. Ở đó các tác giả nặc danh đề xuất rằng mỗi thế hệ có quyền lý giải Shari’ah mới lại mà không cần tham chiếu với bộ luật tích lũy của các học giả tôn giáo. Ý tưởng này và các ý tưởng khác tương tự bị dập tắt. Việc dập tắt biến thành tin tức sốt dẽo ở phương Tây- nó cung cấp thêm chứng cứ rằng Iran không có dân chủ. Tuy nhiên, điều làm tôi ngạc nhiên các ý tưởng như thế không được lên tiếng trong thế giới Hồi giáo. Tôi tự hỏi liệu nó chỉ có thể xảy ra tại một nơi mà người Hồi đang đấu tranh với chính mình và với nhau, không phải với phương Tây.
Sau ngày 11/9 chính quyền Bush dồn mọi sức ép lên Iran, và đối mặt với mối đe dọa từ bên ngoài này, các ý tưởng bốc mùi thơm Tây phương đều mất sự tin cậy vì nó có mùi hợp tác: chúng không còn cần phải dập tắt: chúng không còn được lòng công chúng vốn đã hóa ra bảo thủ, một công chúng đã chọn Ahmadinejad dân tộc cực đoan chủ nghĩa để cầm đầu quốc gia của họ.
Nhiều điểm để thảo luận, thậm chí tranh luận, nóng lên giữa thế giới Hồi giáo và phương Tây. Tuy nhiên, không thể có tranh luận hợp lý nếu hai bên chưa sử dụng cùng một thuật ngữ và thống nhất ý nghĩa của các từ này – đó là, cho đến khi cả hai bên đều chia sẻ cùng một bộ khung hoặc ít nhất hiểu được bộ khung nào bên kia sử dụng. Chấp nhận nhiều chuyện kể về lịch sử thế giới có thể đóng góp ít ra cho sự phát triển một phối cảnh như thế.
Ai cũng thích dân chủ, nhất là khi áp dụng cho bản thân mình; nhưng đạo Hồi không chống lại dân chủ; nó là một bộ khung khác toàn bộ. Trong bộ khung đó có thể có dân chủ, có thể có độc tài, có thể có nhiều sắc thái ở giữa.
Về vấn đề đó, đạo Hồi không đối nghịch với đạo Cơ đốc, cũng như đạo Do Thái. Nếu xét một cách nghiêm ngặt như một hệ thống các tín điều, nó có nhiều phạm vi nhất trí hơn là xung đột với Cơ đốc giáo và thậm chí nhiều hơn với Do Thái giáo – hãy nhìn vào các giới luật ẩm thực, vệ sinh, và tình dục mà đạo Do Thái chính thống quy định, và bạn sẽ nhìn thấy gần như cùng một danh sách với đạo Hồi chính thống. Thật ra, như một tác giả Pakistan Eqbal Ahmad có lần ghi nhận, cho đến các thế kỷ gần đây, sẽ hợp lý hơn khi nói về nền văn hoá Do Thái giáo-Hồi giáo hơn là nền văn hoá Do Thái giáo-Cơ đốc giáo.
Tuy nhiên, thật là sai lạc khó giải quyết nếu nghĩ về đạo Hồi như một tiết mục trong một lớp mà các tiết mục khác là Cơ đốc giáo, Do Thái giáo, Ấn giáo, Phật giáo. … Tất nhiên, đúng là đạo Hồi là một tôn giáo như các tôn giáo khác, một bộ các tín điều và thực hành liên quan đến đạo đức, luân lý, Thượng Đế, vũ trụ, và cái chết. Nhưng Hồi giáo còn có tư cách được xem là một tiết mục trong một lớp mà các tiết mục khác bao gồm cộng sản, dân chủ nghị viện, chế độ phát xít …. bởi vì đạo Hồi là một dự án xã hội như những dự án khác, một ý tưởng về đường lối chính trị và kinh tế phải được quản lý, một hệ thống hoàn bị về dân luật và hình luật.
Rồi một lần nữa, đạo Hồi hoàn toàn có tư cách được xem là một tiết mục trong một lớp có các tiết mục khác là văn minh Trung Hoa, văn minh Ấn Độ, văn minh Tây phương, …. bởi vì có cả một thế giới các tạo tác văn hoá từ nghệ thuật đến triết lý đến kiến trúc đến đồ thủ công mỹ nghệ đến gần như mọi lĩnh vực khác của nỗ lực văn hoá có thể gọi tên thích đáng là văn hoá Hồi giáo.
Hoặc, như tôi đã cố chứng minh, đạo Hồi có thể xem như một lịch sử thế giới trong số nhiều lịch sử thế giới diễn tiến đồng thời, mỗi lịch sử theo một cách nào đó kết hợp với mọi lịch sử khác. Xét dưới ánh sáng này, đạo Hồi là một chuyện kể rộng lớn di chuyển qua thời gian, được neo chặt vào ngày sinh của cộng đồng đó ở Mecca và Medina cách đây 14 thế kỷ. Câu chuyện bao gồm nhiều nhân vật không phải người Hồi giáo và nhiều sự kiện không có tính tôn giáo. Người Do Thái và Cơ đốc và Ấn giáo là một số vai chính trong chuyện kể này. Việc kỹ nghệ hóa là một yếu tố của cốt chuyện, máy hơi nước và việc phát hiện ra dầu cũng vậy. Khi bạn nhìn vào nó theo cách này, đạo Hồi là một phức hợp to lớn các mục đích cộng đồng chuyển động qua thời gian, lèo lái bởi các giả định cố kết nội tại của mình.
Và phương Tây cũng vậy.
Thế thì đâu là lịch sử đích thực của thế giới? Triết gia Leibniz có lần thừa nhận rằng vũ trụ bao gồm các “đơn tử”, mỗi đơn tử là toàn bộ vũ trụ được hiểu biết từ một góc nhìn đặc biệt, và mỗi đơn tử chứa mọi đơn tử khác. Lịch sử thế giới cũng như thế: toàn bộ câu chuyện của nhân loại nhìn từ một góc cạnh đặc biệt, mỗi lịch sử chứa đựng mọi lịch sử khác, với tất cả sự kiện hiện thời xảy ra đâu đó đối với một chuyện kể trung tâm, cho dù nếu cái “đâu đó” đó ở trong hậu cảnh như là một phần của tiếng ồn trắng nổi bật trên đó là đường dây có ý nghĩa. Tất cả chúng đều là câu chuyện đích thực của thế giới. Công việc nằm trong trách vụ không bao giờ kết thúc là biên soạn chúng trong cuộc truy vấn để xây dựng một cộng đồng con người phổ quát tọa lạc bên trong một lịch sử đơn lẻ được chia sẻ.
HẾT