Nguyễn Tuấn Hùng
Quan hệ ngoại giao Việt Nam – Liên minh châu Âu (EU) được chính thức thiết lập từ năm 1990. Trải qua gần 3 thập kỷ, phạm vi hợp tác song phương đã được trải rộng khắp các lĩnh vực từ chính trị, kinh tế, thương mại, đầu tư, giáo dục, khoa học công nghệ… trong đó phải kể đến quan hệ thương mại hàng hóa ngày càng phát triển giữa Việt Nam và EU. Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam – EU được xem là một trong những thỏa thuận thương mại lớn, có ý nghĩa quan trọng không chỉ trong quan hệ hai bên, mà nó còn có tác động nhất định đến kinh tế của Việt Nam và Liên minh Châu Âu (EU). Từ những vòng đàm phán đầu tiêu, cả hai bên đã đặt những điều kiện phù hợp và có lợi cho phía mình. Sau nhiều vòng, hiệp định thương mại tự do EVFTA đã chính thức có hiệu lực từ ngày 01 tháng 08 năm 2020 (Anh Minh, 2019).
Trải qua gần một thập kỷ khởi động, đàm phán và đi đến ký kết, điều này chứng minh vai trò của hiệp định là vô cùng quan trọng, nhất là khi nó có hiệu lực giữa bối cảnh đại dịch Covid-19 đang diễn ra phức tạp. EVFTA sẽ tạo ra cú huých lớn cho nền kinh tế của Việt Nam, giúp đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, đặc biệt là đưa các mặt hàng nông, thủy sản cũng như những mặt hàng Việt Nam vốn có nhiều lợi thế cạnh tranh đến với thị trường đông dân EU (Bộ Công thương, 2020). Điều này vô cùng quan trọng trong việc khẳng định Hà Nội quyết tâm hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Ngoài ra, hiệp định cũng góp phần thúc đẩy phát triển giữa hai đối tác Việt Nam – EU, đưa mối quan hệ lên một nấc thang mới.
Chịu ảnh hưởng nặng nề từ Chiến tranh Thế giới thứ 2 (1939-1945), Châu Âu đã lâm vào tình trạng gần như khủng hoảng về mặt kinh tế. Năm 1946, Wiston Churchill được xem người đầu tiên đưa ra ý tưởng thành lập liên bang Châu Âu. Ý tưởng tiếp tục được Jean Mornet đề xuất với mong muốn từng bước tiến hành tiến tới một tổ chức liên kết toàn khu vực Châu Âu. Ngày 09/05/1950, Robert Schuman đưa ra kế hoạch thành lập một tổ chức liên kết về sản xuất than và thép giữa Pháp và Đức, đồng thời mở rộng để các nước trong khu vực cùng tham gia. Tháng 04/1851, Hiệp ước về Cộng đồng Than – Thép Châu Âu đã được ký kết tại thủ đô Paris của Pháp với sự tham gia của 6 nước: Pháp, CHLB Đức, Italia, Bỉ, Hà Lan, Lucxemburg. Sự kiện này đóng vai trò quan trọng trong tiến trình thống nhất Châu Âu và đây cũng được xem là tổ chức tiền thân cho Liên minh Châu Âu (EU) sau này. Việc thành lập tổ chức liên kết này cũng nhằm thu hẹp khoảng cách kinh tế giữa Châu Âu và Hoa Kỳ, đồng thời gia tăng sự đoàn kết của các quốc gia Châu Âu đối với sự “bá quyền” của Hoa Kỳ tại thời điểm đó. EU đã phát triển trong hàng thập kỷ và tiến đến hình thức “siêu quốc gia” – điều mà ASEAN vẫn chưa làm được.
Hiện nay, EU được xem là thị trường tiêu thụ rộng lớn mà nhiều quốc gia mong muốn được ký kết hiệp định thương mại tự do. Theo thông tin từ trang điện tử chính thức European Union (europa.eu), năm 2019, thời điểm Anh chưa rời liên minh này, thì tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của EU vào khoảng 16,4 nghìn tỷ euro[1]. Chỉ chiếm chưa đến 7% dân số thế giới, nhưng tỉ trọng thương mại của khối lại chiếm đến hơn 15% xuất khẩu toàn cầu. Cùng với Hoa Kỳ và Trung Quốc, EU là một trong ba “người chơi” lớn nhất toàn cầu trong thương mại quốc tế.
Bảng 1
Nước | GPD (triệu USD) |
Hoa Kỳ | $18.561.934 |
EU | $17.110.523 |
Trung Quốc | $11,391,691 |
GDP danh nghĩa năm 2016
Bảng 2
Số tiền | EU | Hoa Kỳ | Trung Quôc |
Xuất khẩu | $3,100,000,000,000 | $1,900,000,000,000 | $2,300,000,000,000 |
Nhập khẩu | $2.900.000.000.000 | $2.700.000.000.000 | $1.900.000.000.000 |
Hàng hóa và dịch vụ: Xuất-Nhập khẩu theo quốc gia (2014-2016)
Bảng 3
Nước | Tổng số ($) |
Hoa Kỳ | 110.000.000.000 |
EU | 350.000.000.000 |
Trung Quốc | 95.000.000.000 |
Tài trợ chính thức cho Châu Phi (2000-2013)
Bảng 4
Nước | Tỷ trọng (%) |
Hoa Kỳ | 90 |
EU | 80 |
Trung Quốc | 35 |
Tài trợ chính thức cho châu Phi (2000-2013) – Tỷ trọng của tổng tài trợ bao gồm tài trợ không hoàn lại (Nguyễn Tuấn Hùng, 2020)
Có những lúc, người ta đã thấy EU có bước phát triển mạnh mẽ cả về kinh tế, chính trị, quân sự vượt lên trên cả cường quốc Mỹ. Hiện nay, EU là một trong nhũng trung tâm về kinh tế, khoa học kỹ thuật của thế giới sánh vai cùng với các cường quốc như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc và tiêu biểu là sự góp mặt 4 trên tổng số 7 thành viên của nhóm G7 là thành viên của Liên minh Châu Âu.
2. Quan hệ song phương Việt Nam – EU
Việt Nam và EU đã tăng cường hợp tác tại các diễn đàn đa phương và tổ chức quốc tế, đặc biệt là trong khuôn khổ hợp tác ASEAN – EU, ASEM và Liên hợp quốc. Hai bên cũng hợp tác với nhau trong việc giải quyết các vấn đề toàn cầu như biến đổi khí hậu, phát triển bền vững, an ninh năng lượng, chống khủng bố, chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt, di cư bất hợp pháp… EU là nhà tài trợ song phương lớn thứ hai về ODA và là nhà cung cấp viện trợ không hoàn lại lớn nhất cho Việt Nam với tổng ODA cam kết trong giai đoạn 1996-2010 là hơn 11 tỷ USD (giải ngân hơn 5 tỷ USD), góp phần tích cực vào quá trình phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam.
EU là khu vực chiếm tỷ trọng lớn trong quan hệ thương mại giữa Việt Nam và châu Âu. Từ năm 2000 đến năm 2017, kim ngạch thương mại Việt Nam – EU đã tăng hơn 13,7 lần, từ mức 4,1 tỷ USD năm 2000 lên 56,45 tỷ USD năm 2019; trong đó xuất khẩu của Việt Nam vào EU tăng 14,8 lần (từ 2,8 tỷ USD lên 41,54 tỷ USD) và nhập khẩu vào Việt Nam từ EU tăng hơn 11,4 lần (1,3 tỷ USD lên 14,90 tỷ USD). Năm 2019, kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và EU đạt trên 56,45 tỷ USD, tăng 1,11% so với cùng kỳ năm 2018, trong đó xuất khẩu đạt trên 41,54 tỷ USD (giảm 0,81%) và nhập khẩu đạt 14,90 tỷ USD (tăng 6,84%)[2].
Việc ký kết thành công của hiệp định EVFTA đánh dấu một mốc mới trên chằng đường gần 30 năm hợp tác và phát triển giữa Việt Nam và EU, là một thông điệp tích cực về quyết tâm của Việt Nam trong việc thúc đẩy sự hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới trong bối cảnh tình hình kinh tế, chính trị thế giới đang có nhiều diễn biến phức tạp và khó đoán định. Các nước xuất khẩu chính của Việt Nam tại thị trường EU trong thời gian qua vẫn tập trung vào các thị trường truyền thống như Hà Lan, Đức, Anh, Pháp, I-ta-li-a, Tây Ban Nha, Bỉ và Ba Lan. Đối với thị trường Áo, kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này chủ yếu là nhờ xuất khẩu mặt hàng điện thoại di động. Tổng trị giá trao đổi hàng hoá giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu trong năm 2017 đạt 50,46 tỷ USD, tăng 11,9% so với năm trước 2016 và chiếm 11,8% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước. Việt Nam luôn thặng dư cán cân thương mại trong trao đổi hàng hóa với EU. Trong năm 2017, Việt Nam xuất siêu sang thị trường này 26,08 tỷ USD hàng hóa các loại.Trong số các nước thành viên EU, Hà Lan là thị trường mà Việt Nam đạt được mức thặng dư cán cân thương mại (nhập siêu với Việt Nam) lớn nhất với 6,44 tỷ USD; tiếp theo là Anh: 4,68 tỷ USD, Áo: 3,40 tỷ USD, Đức: 3,16 tỷ USD, Tây Ban Nha: 2 tỷ USD, Pháp: gần 2 tỷ USD…Trong khi đó, ở chiều ngược lại, Ireland và Phần Lan là hai thị trường mà Việt Nam có thâm hụt thương mại lớn nhất, lần lượt đạt 1,27 tỷ USD và 128 triệu USD…(Hải quan Việt Nam, 2018).
3. Giới thiệu về Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA)
Trong hơn 30 năm phát triển quan hệ ngoại giao, sự kiện khởi động hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU được xem là dấu mốc quan trọng. Mở ra kỷ nguyên tăng cường hợp tác và phát triển trong bối cảnh toàn cầu đang gặp nhiều khó khăn. Ngoài ra, Việt Nam được xem là đối tác quan trọng của tổ chức khu vực này. Sau Singapore, Việt Nam là quốc gia thứ hai tại Đông Nam Á được ký kết và phê chuẩn hiệp định thương mại tự do. Có thể điểm qua những cột mốc quan trọng sau:
- Tháng 10 năm 2010: Thủ tướng Chính phủ Việt Nam và Chủ tịch EU đã đồng ý khởi động đàm phán Hiệp định EVFTA.
- Tháng 6 năm 2012: Bộ trưởng Công Thương Việt Nam và Cao ủy Thương mại EU đã chính thức tuyên bố khởi động đàm phán Hiệp định EVFTA.
- Tháng 12 năm 2015: Kết thúc đàm phán và bắt đầu rà soát pháp lý để chuẩn bị cho việc ký kết Hiệp định.
- Tháng 6 năm 2017: Hoàn thành rà soát pháp lý ở cấp kỹ thuật
- Tháng 9 năm 2017: EU chính thức đề nghị Việt Nam tách riêng nội dung bảo hộ đầu tư và cơ chế giải quyết tranh chấp giữa Nhà nước với nhà đầu tư (ISDS) ra khỏi Hiệp định EVFTA thành một hiệp định riêng do phát sinh một số vấn đề mới liên quan đến thẩm quyền phê chuẩn các hiệp định thương mại tự do của EU hay từng nước thành viên.
- Tháng 6 năm 2018: Việt Nam và EU đã chính thức thống nhất việc tách riêng EVFTA thành hai hiệp định gồm Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) và Hiệp định Bảo hộ đầu tư (IPA); chính thức kết thúc toàn bộ quá trình rà soát pháp lý Hiệp định EVFTA; và thống nhất toàn bộ các nội dung của Hiệp định IPA.
- Tháng 8 năm 2018: Hoàn tất rà soát pháp lý Hiệp định IPA.
- Ngày 17 tháng 10 năm 2018: Ủy ban châu Âu đã chính thức thông qua EVFTA và IPA.
- Ngày 25 tháng 6 năm 2019: Hội đồng châu Âu đã phê duyệt cho phép ký Hiệp định.
- Ngày 30 tháng 6 năm 2019: Việt Nam và EU chính thức ký kết EVFTA và IPA.
- Ngày 21 tháng 1 năm 2020: Ủy ban Thương mại Quốc tế Liên minh châu Âu thông qua khuyến nghị phê chuẩn EVFTA.
- Ngày 30 tháng 3 năm 2020: Hội đồng châu Âu thông qua Hiệp định EVFTA
- Ngày 08 tháng 6 năm 2020: Quốc hội Việt Nam phê chuẩn Hiệp định EVFTA và EVIPA
- Ngày 01 tháng 8 năm 2020: EVFTA chính thức có hiệu lực
EVFTA được xem là một Hiệp định toàn diện, dựa trên sự cân bằng về lợi ích cho cả Việt Nam và EU, đồng thời phù hợp với các quy định của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Hiệp định bao gồm 17 Chương, 2 Nghị định thư cùng một số biên bản ghi nhớ kèm theo với các nội dung chính là: thương mại hàng hóa, quy tắc xuất xứ, hải quan và thuận lợi hóa thương mại, các biện pháp vệ sinh an toàn thực phẩm (SPS), các rào cản kỹ thuật trong thương mại (TBT), thương mại dịch vụ (gồm các quy định chung và cam kết mở cửa thị trường), đầu tư, phòng vệ thương mại, cạnh tranh, doanh nghiệp nhà nước, mua sắm của Chính phủ, sở hữu trí tuệ, thương mại và Phát triển bền vững, hợp tác và xây dựng năng lực, các vấn đề pháp lý-thể chế. Trong khi đó, với IPA, hai bên đã cam kết sẽ dành đối xử quốc gia và đối xử tối huệ quốc với đầu tư của nhà đầu tư của bên kia, với một số ngoại lệ, cũng như sự đối xử công bằng, thỏa đáng, bảo hộ an toàn và đầy đủ, cho phép tự do chuyển vốn và lợi nhuận từ đầu tư ra nước ngoài, cam kết không trưng thu, quốc hữu hóa tài sản của nhà đầu tư mà không có bồi thường thỏa đáng, cam kết bồi thường thiệt hại phù hợp cho nhà đầu tư của bên kia tương tự như nhà đầu tư trong nước hoặc của bên thứ ba trong trường hợp bị thiệt hại do chiến tranh, bạo loạn, v.v…
Trong Hiệp định EVFTA, hai bên xây dựng biểu cam kết cụ thể theo cách tiếp cận chọn-cho (tức là liệt kê các ngành, phân ngành có cam kết mở cửa thị trường). Biểu cam kết cụ thể Hiệp định EVFTA chỉ phải chịu nguyên tắc giữ nguyên hiện trạng (tức là trong trường hợp chính sách trong nước cho phép mở cửa hơn so với mức độ cam kết thì trong tương lai nếu thay đổi chính sách này sẽ không được kém hơn mức cam kết tại thời điểm Hiệp định có hiệu lực).
Với Hiệp định EVFTA, Việt Nam cam kết sẽ xóa bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định có hiệu lực với 48,5% số dòng thuế (chiếm 64,5% kim ngạch nhập khẩu). Tiếp đó, sau 7 năm, 91,8% số dòng thuế tương đương 97,1% kim ngạch xuất khẩu từ EU được Việt Nam xóa bỏ thuế nhập khẩu. Sau 10 năm, mức xóa bỏ thuế quan là khoảng 98,3% số dòng thuế (chiếm 99,8% kim ngạch nhập khẩu). Đối với khoảng 1,7% số dòng thuế còn lại của EU, ta áp dụng lộ trình xóa bỏ thuế nhập khẩu dài hơn 10 năm hoặc áp dụng TRQ theo cam kết WTO hoặc không cam kết. Hiệp định EVFTA yêu cầu quy tắc xuất xứ “2 công đoạn” (từ vải trở đi) đối với hàng dệt may, tức là để được hưởng thuế quan ưu đãi theo EVFTA thì hàng dệt may của Việt Nam phải được làm từ vải có xuất xứ Việt Nam. Ngoài ra, đối với các sản phẩm dệt may thuộc Chương 61 và 62 của biểu thuế, EU cũng cho phép ta được sử dụng vải nhập khẩu từ Hàn Quốc để sản xuất ra sản phẩm cuối cùng xuất khẩu sang EU và vẫn được hưởng thuế suất ưu đãi của EVFTA.
EU hiện là một trong những đối tác đầu tư và thương mại hàng đầu của Việt Nam với kim ngạch thương mại hai chiều ngày càng tăng. Về đầu tư, hầu hết các nước thành viên và các tập đoàn lớn của EU đã đầu tư vào Việt Nam. Đặc điểm nổi bật trong thương mại hai chiều Việt Nam – EU là tính bổ sung cao, ít cạnh tranh. Cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam vào EU đã chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng hàng hoá chất lượng cao, thực phẩm sạch, thủ công mỹ nghệ, giảm tỷ trọng hàng chất lượng trung bình, hàng nông sản thô. Đối với các sản phẩm thuộc diện cam kết theo hạn ngạch thuế quan, EU dành cho Việt Nam hạn ngạch thuế quan 25.000 tấn tinh bột sắn (trên tổng nhập khẩu của EU là 33.000 tấn); 5.000 tấn ngô ngọt (riêng ngô bao tử sẽ không bị hạn ngạch thuế quan và được hưởng thuế suất 0% trong vòng 7 năm); 400 tấn tỏi và 350 tấn nấm. Thuế suất trong hạn ngạch của tất cả các mặt hàng thuộc diện cam kết theo hạn ngạch thuế quan của EU là 0% (Nguyễn Quỳnh, 2020).Tuy nhiên, để được hưởng ưu đãi thuế quan theo Hiệp định EVFTA, các nhà xuất khẩu phải bảo đảm hàng hóa phải đáp ứng đủ và đúng yêu cầu của Hiệp định về quy tắc xuất xứ đối với hàng hóa.
4 Tác động của EVFTA đến quan hệ Việt Nam – EU
3.1. Tăng cường đầu tư, kết nối, tin tưởng lẫn nhau
Trong bối cảnh cạnh tranh diễn ra ngày càng gay gắt, hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU như thể hiện sự tin tưởng lẫn nhau, mong muốn tăng cường hợp tác, cùng nhau phát triển không chỉ ở các lĩnh vực như chính trị, ngoại giao, mà còn cả kinh tế – tài chính. Thông quan EVFTA, nhà đầu tư EU cũng sẽ có cơ hội tiếp cận thị trường các nước đã ký FTA với Việt Nam với những đối xử ưu đãi hơn. Hiệp định này cũng giúp thúc đẩy quan hệ giữa EU với từng nước ASEAN nói riêng và cả khối ASEAN nói chung, tạo tiền đề hướng tới việc thảo luận một Hiệp định FTA giữa EU và ASEAN trong tương lai. Trong quan hệ thương mại giữa Việt Nam – EU, Chính sách thương mại chung của khối này đã đem lại cho Việt Nam những ưu đãi đáng kể. Chính điều này đã giúp Việt Nam luôn ở tình trạng thặng dư thương mại tương đối lớn trong mối quan hệ với EU .
Năm 2019, kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và EU đạt trên 56,45 tỷ USD, tăng 1,11% so với cùng kỳ năm 2018, trong đó xuất khẩu đạt trên 41,54 tỷ USD (giảm 0,81%) và nhập khẩu đạt 14,90 tỷ USD (tăng 6,84%). Các thị trường có giá trị xuất khẩu đạt trên 1 tỷ USD trong năm 2019 là Hà Lan, Đức, Pháp, Italia, Áo, Tây Ban Nha, Bỉ, Ba Lan, Thụy Điển (Hải Đăng, 2020). Các nước xuất khẩu chính của Việt Nam tại thị trường EU trong thời gian qua vẫn tập trung vào các thị trường truyền thống như Hà Lan, Đức, Anh, Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Bỉ và Ba Lan. Đối với thị trường Áo, kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này chủ yếu là nhờ xuất khẩu mặt hàng điện thoại di động. Cũng trong năm 2019, EU có khoảng 2.375 dự án (tăng 182 dự án so với năm 2018) còn hiệu lực tại Việt Nam với tổng vốn đầu tư đăng ký 25,49 tỷ USD (tăng 1,19 tỷ USD) chiếm 7,7% số dự án của cả nước và chiếm 7,03% tổng vốn đầu tư đăng ký của các nước. Xu thế đầu tư của EU chủ yếu vẫn tập trung vào các ngành công nghiệp công nghệ cao, gần đây có xu hướng phát triển tập trung hơn vào các ngành dịch vụ. Hiệp định EVFTA sẽ giúp kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU tăng thêm khoảng 20% vào năm 2020; 42,7% vào năm 2025 và 44,37% vào năm 2030 so với không có Hiệp định. Đồng thời, kim ngạch nhập khẩu từ EU cũng tăng nhưng với tốc độ thấp hơn xuất khẩu, cụ thể là khoảng 15,28% vào năm 2020; 33,06% vào năm 2025 và 36,7% vào năm 2030. Về mặt vĩ mô, EVFTA góp phần làm GDP của Việt Nam tăng thêm ở mức bình quân 2,18-3,25% (năm 2019-2023); 4,57-5,30% (năm 2024-2028) và 7,07-7,72% (năm 2029-2033).
Trong khi đó, về đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam sang EU nhìn chung không nhiều, chủ yếu tập trung vào một số nước như Hà Lan, Séc, Đức. Những năm 2009-2010, các doanh nghiệp Việt Nam đã đầu tư sang 50 nước và vùng lãnh thổ trên toàn thế giới, và trong đó đã đầu tư vào 10 nước (trên tổng số 27 nước EU), với khoảng 25 dự án, chiếm 5.5% số dự án, với số vốn đăng ký đạt 27.5 triệu USD, chiếm 0.36% số vốn đầu tư (Bùi Huy Nhượng, 2010). Tuy vậy, Việt Nam hiện có khoảng 78 dự án đầu tư sang 10 nước EU (Anh, Ba Lan, Bỉ, Bồ Đào Nha, Đức, Hà Lan, Pháp, C.H Séc, Tây Ban Nha và Xlô-va-ki-a) với tổng vốn đăng ký đạt khoảng 320,2 triệu USD. Chủ yếu sang Đức với 29 dự án với tổng vốn đăng ký trị giá 120,3 triệu USD, sang Anh và Quần đảo Virgin thuộc Anh (20 dự án trị giá 144,5 triệu USD), sang Pháp (10 dự án trị giá 5,4 triệu USD), sang Slovakia (2 dự án trị giá 36,4 triệu USD) (Hải Đăng, 2020). Trong vòng chưa tới 10 năm, nhưng số dự án cùng quy mô đầu tư đã tăng lên đáng kể, chưa tính đến khi EVFTA có hiệu lực thì những con số này sẽ tăng trưởng thêm nữa. Điều này khẳng định sự hợp tác đôi bên cùng có lợi giữa Việt Nam – EU.
Việc cam kết mở cửa thị trường mạnh mẽ trong Hiệp định EVFTA chắc chắn sẽ thúc đẩy quan hệ thương mại Việt Nam – EU, giúp mở rộng hơn nữa thị trường cho hàng xuất khẩu của Việt Nam. Với cam kết xóa bỏ thuế nhập khẩu lên tới gần 100% biểu thuế và giá trị thương mại mà hai bên đã thống nhất, cơ hội gia tăng xuất khẩu cho những mặt hàng Việt Nam có lợi thế như dệt may, da giày, nông thủy sản (kể cả gạo, đường, mật ong, rau củ quả), đồ gỗ, v.v. là rất đáng kể. Mức cam kết trong EVFTA có thể coi là mức cam kết cao nhất mà Việt Nam đạt được trong các FTA đã được ký kết cho tới nay. Điều này càng có ý nghĩa khi hiện nay, mới chỉ hơn 42% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU được hưởng mức thuế 0% theo Chương trình ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) (Bộ Công thương, 2020). Các cam kết về thuận lợi hóa đầu tư cùng với mức độ tự do hóa các ngành dịch vụ của Việt Nam dành cho các nhà cung cấp dịch vụ của EU tăng lên, đặc biệt là dịch vụ kinh doanh, dịch vụ môi trường, dịch vụ bưu chính, ngân hàng, bảo hiểm, vận tải biển. Điều này sẽ thúc đẩy dòng vốn FDI từ EU vào Việt Nam tăng trong thời gian tới.
4.2. Thúc đẩy phát triển quan hệ song phương Việt Nam – EU và đa phương với các quốc gia trong nội khối EU; hỗ trợ 2 phía giảm thiểu sự phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc
Đại dịch Covid-19 đã ảnh hưởng mạnh đến tình hình sản xuất và xuất nhập khẩu của không chỉ Việt Nam mà trên toàn thế giới. EVFTA được khẳng định là cứu cánh mang đến cơ hội thị trường đa dạng hơn cho doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp lấy lại đà tăng trưởng hậu dịch bệnh. Đáng chú ý, với EVFTA chuỗi giá trị mới của Việt Nam với một đối tác quan trọng trên thế giới sẽ được hình thành. Môi trường đầu tư mở hơn và thuận lợi hơn, khi triển vọng xuất khẩu hấp dẫn hơn sẽ thu hút đầu tư FDI từ EU vào Việt Nam nhiều hơn, đặc biệt là các lĩnh vực như dịch vụ, tài chính, ô tô, chế biến chế tạo, công nghệ thông tin, công nghệ cao,…
Khi mối quan hệ xuyên Đại Tây Dương với Hoa Kỳ đang ở tình trạng thấp nhất kể từ thời Chiến tranh Thế giới thứ 2, mối quan hệ với Việt Nam đã được tăng cường, thể hiện tình hữu nghị, hợp tác đôi bên cùng có lợi giữa Việt Nam – EU. Quan hệ đồng minh giữa Hoa Kỳ và Châu Âu cũng có những dấu hiệu rạn nứt khi Hoa Kỳ thực hiện chính sách cấm người Châu Âu nhập cảnh vào nước này từ giữa tháng 3. Việt Nam, tuy chịu khó khăn bởi Covid-19 nhưng vẫn thể hiện tinh thần quốc tế vô sản trong sáng, điển hình là việc tặng hỗ trợ 550.000 khẩu trang cho các nước Châu Âu. Điều này vô tình đẩy Việt Nam xích lại gần hơn với EU so với Hoa Kỳ dưới thời ông Trump; nhất là trong bối cảnh hiệp định EVFTA có hiệu lực.
Những nỗ lực trong hơn 40 năm cải cách mở cửa đã giúp Trung Quốc trở thành “công xưởng thế giới” với lực lượng nhân công rẻ mạt. Vô tình kéo các nhà máy, công ti/tập đoàn của nhiều quốc gia trong đó có các nước EU tiến vào thị trường màu mỡ này. Tuy vậy, sau nhiều năm họ đã nhận ra sự phụ thuộc quá nhiều vào thị trường nước này. Đại dịch đã gây ra cơn khủng hoảng cho các nước Châu Âu, đặc biệt là các quốc gia khối EU lâm vào tình trạng khốn đốn tìm nguồn đầu tư mới. Với mối quan hệ tốt đẹp trước đó, Việt Nam trở thành nơi để các công ty, tập đoàn EU chuyển đến. Đối với Việt Nam, EVFTA là điều kiện quan trọng để chúng ta dần “tách rời” khỏi sự phụ thuộc trong việc xuất khẩu hàng nông sản sang Trung Quốc. Đa dạng hóa, đa phương hóa các mối quan hệ quốc tế được khẳng định với hiệp định EVFTA. Một ví dụ điển hình, thị trường lúa gạo nước ta trong năm 2019 gặp khó khăn do việc xuất khẩu sang Trung Quốc còn nhiều hạn chế. Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lúa gạo lớn bậc nhất của nước ta trong những năm vừa qua. Trong 8 tháng đầu năm 2019, lượng gạo Việt Nam xuất sang Trung Quốc giảm 67% so với cùng kỳ năm 2018. Sau thời gian dài giảm nhập khẩu gạo từ Việt Nam, nhu cầu gạo của thị trường Trung Quốc vẫn chưa có dấu hiệu tăng trưởng trở lại, ngoài lý do lượng gạo tồn còn cao, lúa gạo Trung Quốc năm nay cũng được mùa. Điều này đặt ra yêu cầu cần đa dạng hóa nguồn cung mặt hàng này. Trong khi đó, nếu trước đây Việt Nam chỉ xuất khẩu được khoảng hơn 20.000 tấn gạo/năm sang EU. Thì sau khi Hiệp định EVFTA được ký kết, mức hạn ngạch thuế suất 0% được áp dụng cho 80.000 tấn gạo xuất khẩu hiện tại, điều này cho thấy hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam sang EU sẽ tăng trưởng mạnh trong tương lai.
Ở góc độ song phương, trong bối cảnh quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp và bản thân nội bộ EU gặp rất nhiều khó khăn như sự nổi lên của chủ nghĩa dân túy và bảo hộ mậu dịch, Hiệp định EVFTA thể hiện quyết tâm mạnh mẽ của cả hai bên trong việc thúc đẩy quan hệ song phương, góp phần đưa quan hệ giữa Việt Nam và EU phát triển sâu rộng và thực chất hơn. Việc ký kết và phê chuẩn EVFTA là phù hợp với chính sách đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa, tạo điều kiện và tranh thủ sự ủng hộ của EU cho việc thực hiện các mục tiêu kinh tế – xã hội, chính trị, đối ngoại nhiều mặt của Việt Nam hiện nay (Bộ Công thương Việt Nam, 2020). Ở góc độ đa phương, với việc Việt Nam đảm nhiệm vai trò Chủ tịch ASEAN năm 2020, Hiệp định EVFTA làm gia tăng vai trò, vị thế của Việt Nam trong quan hệ EU – ASEAN cũng như tạo hình mẫu cho một hiệp định thương mại tự do giữa ASEAN với EU trong tương lai. Việt Nam là nước đang phát triển đầu tiên ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương có hiệp định thương mại tự do với EU. Điều này khẳng định vai trò và vị thế địa – chính trị quan trọng của Việt Nam trong khu vực, thực sự nâng cao vị thế của nước ta trong khu vực cũng như trên trường quốc tế. Đặc biệt, trong bối cảnh tình hình chính trị – an ninh thế giới và khu vực đang thay đổi nhanh chóng, diễn biến phức tạp, khó lường, Hiệp định EVFTA vừa giúp ta có điều kiện nâng cao nội lực để ứng phó, vừa giúp củng cố vị thế để thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa đi đôi với củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh .
Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) được xem là có mức độ cam kết sâu và rộng hơn nhiều các FTA trước đây của Việt Nam. Hiệp định này dự kiến sẽ đem lại nhiều cơ hội to lớn nhưng cũng đi kèm những thách thức không nhỏ đối với Việt Nam. EVFTA là hiệp định thương mại tự do thế hệ mới lớn nhất về mặt lợi ích trực tiếp đối với Việt Nam và trong mối quan hệ với EU. Tác động đến tăng trưởng GDP của hiệp định này gần gấp ba lần so với CPTPP (Lê Đào, 2020). EU là một trong những đối tác thương mại ổn định và quan trọng nhất của Việt Nam. Quan trọng hơn cả là những thay đổi cơ bản về cơ cấu và thể chế kinh tế nhờ việc thực hiện EVFTA sẽ giúp tăng cường cải cách trong nước, giúp Việt Nam trở thành một nền kinh tế có khả năng cạnh tranh và đổi mới, sáng tạo mạnh mẽ hơn. Được hoàn thiện và có hiệu lực vào thời điểm Việt Nam – EU kỷ niệm 30 năm thiết lập quan hệ ngoại giao (1990-2020), EVFTA được kỳ vọng sẽ tạo nên một chương mới trong quan hệ giữa hai bên. Hiệp định cũng được đánh giá có độ mở cửa thị trường với mức cam kết cao nhất mà Việt Nam đạt được trong các FTA đã được ký kết cho tới nay. Điều này được kỳ vọng mang lại tác động sâu rộng trong nền kinh tế Việt Nam, thậm chí sẽ giúp GDP của Việt Nam tăng 4,3% cho đến năm 2030.
- Bộ Công thương (2020), “Giới thiệu chung về hiệp định EVFTA và IPA”, Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và EU (EU-Vietnam Free Trade Agreement – EVFTA), truy xuất từ http://evfta.moit.gov.vn/default.aspx?page=overview&do=browse&category_id=fb203c7b-54d6-4af7-85ca-c51f227881dd , ngày 15/10/2020
- Bộ Công thương Việt Nam (2020), “Đánh giá tác động của Hiệp định EVFTA tới Việt Nam”, truy xuất từ https://www.moit.gov.vn/web/guest/tin-chi-tiet/-/chi-tiet/%C4%91anh-gia-tac-%C4%91ong-cua-hiep-%C4%91inh-evfta-toi-viet-nam-18518-22.html , ngày 16/12/2020
- Lê Đào (2020), “Hiệp định EVFTA chính thức được Quốc hội thông qua: Chương mới trong quan hệ kinh tế Việt Nam – EU”, truy xuất từ http://www.baodongnai.com.vn/tieu-diem/202006/hiep-dinh-evfta-chinh-thuc-duoc-quoc-hoi-thong-qua-chuong-moi-trong-quan-he-kinh-te-viet-nam-eu-3007841/ , ngày 16/12/2020
- Hải Đăng (2020), “Đầu tư của EU vào Việt Nam như thế nào?”, Tạp chí Tài chính, truy xuất từ http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/dau-tu-cua-eu-vao-viet-nam-nhu-the-nao-318878.html , ngày 16/12/2020
- Hải quan Việt Nam (2018), “Xuất nhập khẩu hàng hóa giữa Việt Nam với EU trong năm 2017”, truy xuất từ https://www.customs.gov.vn/Lists/ThongKeHaiQuan/ViewDetails.aspx?ID=1392&Category=Ph%C3%A2n%20t%C3%ADch%20chuy%C3%AAn%20%C4%91%E1%BB%81&Group=Ph%C3%A2n%20t%C3%ADch , ngày 15/10/2020
- Nguyễn Tuấn Hùng, “Quá trình phát triển quan hệ Việt Nam – EU”, Nghiên cứu lịch sử, truy cập từ https://nghiencuulichsu.com/2020/09/03/qua-trinh-phat-trien-quan-he-viet-nam-eu/ , ngày 16/12/2020
- Anh Minh (2019), “EVFTA sẽ có hiệu lực từ 1/8”, VNexpress, truy xuất từ https://vnexpress.net/evfta-se-co-hieu-luc-tu-1-8-4117940.html , ngày 15/12/2020.
- Bùi Huy Nhượng (2010), “Một số giải pháp tăng cường đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam sang các nước EU”, Nghiên cứu Châu Âu, 2(113), 25-31.
- Bùi Nhật Quang (2008), “Tác động của chính sách thương mại chung EU tới quan hệ thương mại Việt Nam – EU”, Nghiên cứu Châu Âu, 4(91), 53-57.
- Nguyễn Quỳnh (2020), “Lộ trình xóa bỏ thuế nhập khẩu vào EU sau khi EVFTA có hiệu lực”, Tạp chí Tài chính, truy xuất từ http://tapchitaichinh.vn/su-kien-noi-bat/lo-trinh-xoa-bo-thue-nhap-khau-vao-eu-sau-khi-evfta-co-hieu-luc-318865.html , ngày 16/12/2020
[1] Truy cập từ https://europa.eu/european-union/about-eu/figures/economy_en , ngày 15/10/2020
[2] Truy cập từ http://evfta.moit.gov.vn/default.aspx?page=overview&do=browse&category_id=fb203c7b-54d6-4af7-85ca-c51f227881dd , ngày 15/10/2020