Hatchepsut- Nữ Pharaoh (Phần 2)

Untitled

Joyce Tyldesley

Trần Quang Nghĩa dịch

CHƯƠNG 2

MỘT GIA ĐÌNH MẠNH MẼ: TUTHMOSIS

  Bản thân Vua [Ahmose] đã nói rằng ‘Ta nhớ mẹ của mẹ ta, mẹ của cha ta. Vợ của Đại vương và Mẹ của Đại vương, Tetisheri người công minh.  Hiện bà có một ngôi mộ nằm trên đất tỉnh Thebes và tỉnh Thinite.  Ta đã nói điều này với ngươi bởi vì ta muốn tạo cho bà một khu đất kim tự tháp trong khu nghĩa địa ở khu vực lân cận tượng đài của ta, hồ đào, cây cối được trồng, những ổ bánh cúng được thiết lập…’ ‘Bây giờ, hoàng thượng nói về công việc và nó đã được đưa vào hành động.  Hoàng thượng làm vậy vì yêu bà hơn tất cả.  Các vị vua trong quá khứ không bao giờ làm điều tương tự đối với mẹ của họ.

 Khi Vua Ahmose quyết định tưởng nhớ đến Hoàng hậu Tetisheri, vợ thường dân của Vua Sekenenre Tao I, mẹ của Sekenenre Tao II và là bà của cả Ahmose và hoàng hậu Ahmose Nefertari, ông đã đưa ra một tuyên bố quan trọng trước công chúng về tình trạng phụ nữ đã được sửa đổi, và đặc biệt là các Hoàng hậu, trong gia đình cầm quyền mới.  Bất chấp truyền thống hoàng gia trước đây, những người cai trị Thebes của các Vương triều cuối 17 và đầu 18 đã công nhận rằng những phụ nữ của họ có khả năng đảm nhận một vai trò nổi bật trong các công việc nhà nước và quan trọng nhất là họ rất vui khi thừa nhận ý nghĩa độc đáo gắn liền với các vị trí  Vợ và Mẹ Vua.  Lần đầu tiên kể từ Thời kỳ cổ đại, 1.500 năm trước, các Hoàng hậu Ai Cập được chào mừng công khai cho riêng họ.  Do đó, Vương quốc Mới buổi đầu được nhìn nhận rộng rãi là rất nổi bật không chỉ vì sự kế thừa của các vị vua chiến binh hùng mạnh và anh tài mà còn bởi một loạt các Hoàng hậu nổi tiếng, có ảnh hưởng và sống lâu.  Chính các Hoàng hậu chứ không phải các vị vua sẽ cung cấp cho Ai Cập một sự kế vị không gián đoạn kéo dài hơn một thế kỷ từ Hoàng hậu Tetisheri, người có lẽ nên được coi là người sáng lập thực sự của Vương triều 17/18, cho đến Hoàng hậu Hatchepsut và hơn thế nữa. 

1

 Hình 2.1 Vua Ahmose và bà nội ông, Hoàng hậu Tetisheri

Truyền thống về hoàng hậu nửa vô hình là một truyền thống đã phát triển từ thời Vương quốc Cổ.  Các hoàng hậu của Thời kỳ cổ xưa trước đó – Vương triều thứ nhất và thứ hai, một thời gian ổn định dần dần hợp nhất chứng kiến ​​Ai Cập đang dần phát triển từ một nhóm các thành phố bán độc lập thành một đơn vị duy nhất – dường như là những phụ nữ mạnh mẽ và tích cực về mặt chính trị có vai trò  trong việc thống nhất đất nước của mình trong một thời gian dài nhưng đã bị đánh giá thấp rất nhiều.  Thật không may, thông tin của chúng ta về nhân thân của Thời cổ đại bị hạn chế nghiêm trọng, nhưng bốn hoàng hậu (Neith-Hotep, Her-Neith, Meryt-Neith và Nemaathep) đã để lại đủ bằng chứng khảo cổ để chứng minh rằng phụ nữ có xuất thân cao quý có thể sử dụng quyền lực thực sự,  và thực ra một trong những phu nhân này, Meryt-Neith, có thể là một hoàng hậu trị vì chứ không phải chỉ là vợ vua. Tuy nhiên, sau khi thống nhất và chấp nhận một vị vua thần thánh duy nhất cai trị một đất nước yên bình, không cần thiết phải có một hoàng hậu mạnh mẽ, và các hoàng hậu phải ở trong bóng tối và lúc này hầu 6hết là vô danh trong Vương quốc Cổ và (thậm chí còn hơn thế nữa)  trong Trung Vương quốc không tạo ảnh hưởng nhiều đến các việc nước.  Trừ những trường hợp ngoại lệ, chẳng hạn như nhà vua chết không đúng lúc hoặc không có con trai thừa kế ngai vàng, các phụ nữ hoàng gia thường phải tự giam mình trong các mối quan tâm về gia đình và nội tộc.

 Vai trò khiêm tốn của hoàng hậu hoàn toàn phù hợp với quan điểm đương thời về cách cư xử phù hợp của một phụ nữ đã kết hôn, đặc biệt là vào thời Trung Vương quốc khi sự biến mất đột ngột của hoàng hậu khỏi các di tích hoàng gia trùng hợp với sự sụt giảm rõ rệt các tước vị phi hoàng gia dành cho phụ nữ.  Mặc dù phụ nữ Ai Cập luôn có thể được coi là một trong những phụ nữ độc lập về mặt pháp lý nhất trong thế giới cổ đại, với những quyền được chấp nhận mà những chị em được bảo vệ quá chặt của họ ở châu Á, Hy Lạp và La Mã phải đâm ra ghen tị, có một khoảng cách rõ ràng và dễ hiểu giữa những công việc  được coi là phù hợp với phụ nữ và những công việc dành riêng cho nam giới.  Theo nguyên tắc chung, nam giới phải làm việc bên ngoài gia đình trong khi phụ nữ phải lo việc nhà. Tương tự, người chồng có toàn quyền kiểm soát các công việc bên ngoài trong khi người vợ trở thành nội tướng  Các nhà hiền triết của Vương quốc Cổ đã lập luận rằng “Giữ vợ của bạn ra khỏi quyền lực, hãy kiềm chế cô ấy”.  Hôn nhân và thiên chức làm mẹ đã hình thành nên trục của thế giới phụ nữ và giống như bất kỳ người vợ tốt nào của Ai Cập, hoàng hậu thời kỳ Tiền Tân Vương quốc có những nhiệm vụ phụ nữ được xác định rõ ràng, dù có thể  không chính xác là Kinder, Küche und Kirche (Trẻ em, Nhà bếp và Nhà Thờ) (có lẽ hoàng hậu sẽ không được kỳ vọng nấu ăn quá nhiều), hẳn là một cái gì đó khá gần giống.  Nhiệm vụ của bà bao gồm việc cung cấp cho chồng càng nhiều con càng tốt, đảm bảo cung điện được vận hành trơn tru, hỗ trợ âm thầm cho các hành động của chồng và thậm chí, nếu cần thiết, bà sẽ đóng vai trò nhiếp chính cho một đứa con trai không cha.  Tuy nhiên, vai trò chính của bà là cung cấp sự bổ sung gần như hoàn toàn thụ động cho người chồng tích cực của mình.  Bà không được kỳ vọng sẽ trở thành một nhân vật nổi bật của công chúng, không có nhiệm vụ trị nước, nắm giữ ít chức vụ chính thức và chỉ có quyền lực ở mức độ không gây ảnh hưởng đến người chồng.

 Từ cuối Vương triều 17 trở đi, chúng ta có thể thấy sự thay đổi sâu sắc trong bản chất của vai trò hoàng hậu. Kể từ đó, từ bỏ chiếc áo tàng hình, bà ấy giờ đây đã nổi lên để khẳng định một vị trí công khai cao, mặc dù địa vị của bà cuối cùng vẫn xuất phát từ mối quan hệ của mình với nhà vua, sự chú trọng ngày càng tăng cả về tính cách của mỗi hoàng hậu và thần tính của bà ấy. Vào đầu Vương triều thứ 18, các hoàng hậu thường xuyên được trao một loạt các tước hiệu thế tục và tôn giáo, sở hữu các điền trang của riêng họ với đầy đủ đất đai, người hầu và người quản lý, và được miêu tả đội một loạt các vương miện đặc biệt.  Tiết mục điểm trang nhằm nâng cao thần thái của hoàng hậu được thiết kế rõ ràng không chỉ để nhấn mạnh ‘tính hoàng gia’ và mối liên hệ với nhà vua, mà còn nhấn mạnh mối liên hệ với các vị thần khác nhau.  Người ta luôn thừa nhận rằng vai trò của hoàng hậu có nguồn gốc bán thần thánh, nhưng khía cạnh này của quyền lực giờ đây trở nên nổi trội hơn nhiều.  Ví dụ, chiếc mũ đội đầu uraeus kép mới, hai con rắn dẹt nằm cạnh nhau trên lông mày, có liên quan trực tiếp đến nữ thần rắn hổ mang của Hạ Ai Cập Wadjyt và nữ thần kền kền Thượng Ai Cập  Nekhbet, nhưng cũng có mối liên hệ với các thần Hathor và Re.  Vương miện kền kền, như một con chim mềm mại đậu trên đầu hoàng hậu với đôi cánh buông thõng xuống hai bên mặt và đầu của con kền kền nhô trên trán của người đội, là vương miện hoàng hậu lâu đời một lần nữa được liên kết với Nekhbet,  trong khi nhánh lông kép – những chiếc lông chim ưng cao gắn trên đế hình tròn – đã được gắn từ Vương triều thứ 13 để làm nổi bật mối liên kết với các nam thần Min và Amen và với giáo phái thần mặt trời Re.  Các mô tả về các nữ thần Isis và Hathor giờ đây cho thấy họ đội những chiếc vương miện tương tự để sự phân biệt giữa hoàng hậu phàm trần và các nữ thần bất tử trở nên mờ nhạt một cách có chủ ý.

 Tại sao một sự thay đổi như vậy lại xảy ra vào lúc này?  Trong hơn một thế kỷ, các nhà Ai Cập học, bị ảnh hưởng nặng nề bởi những lý thuyết đã lỗi thời về quan hệ họ hàng và tiến hóa xã hội, đã suy đoán rằng gia đình hoàng gia mới hẳn được tổ chức theo mẫu hệ chứ không phải phụ hệ.  Vai trò nổi bật hơn được cho phép đối với các hoàng hậu, một sự khác biệt không thể giải thích được so với các khuôn mẫu hành vi thông thường của người Ai Cập, khi đó có thể được hiểu là một điều gì đó đáng tiếc nhưng không thể tránh khỏi.  Tuy nhiên, các nhà lý thuyết, với mong muốn cung cấp một lời giải thích đơn giản cho điều không thể giải thích khác hơn, đã hơi lộn xộn trong cách phân loại của họ.  Theo nghĩa chặt chẽ nhất của nó, chế độ mẫu hệ bao gồm sự thống trị hoàn toàn của dòng dõi nữ với tất cả tài sản và quyền thừa kế do phụ nữ nắm giữ và được truyền từ mẹ sang con gái, và phụ nữ nắm giữ mọi quyền lực trong đơn vị gia đình. Trong một hệ thống như vậy,  phụ nữ có thể được cho là kiểm soát đàn ông.  Nó khác biệt rõ ràng với cả hai hệ thống thân tộc mẫu hệ theo địa phương (nơi phụ nữ vẫn ở lại nhà riêng của họ sau khi kết hôn) và với hệ thống mẫu hệ theo dòng dõi (nơi nguồn gốc gia phả được truy tìm qua dòng nữ chứ không phải nam);  trong cả hai trường hợp này, nam giới, chồng hoặc anh trai, vẫn giữ quyền kiểm soát chung trong gia đình.  Điều này, thật không vui đối với các nhà lý thuyết, rõ ràng là khác biệt với tình hình của hoàng gia Thebes, nơi không có việc các vị vua đã từng từ bỏ quyền kiểm soát của mình đối với hoàng hậu của họ.

 Mặc dù ý tưởng về một nhà nước cổ xưa do phụ nữ thống trị đã từng là một ý tưởng phổ biến đối với cả các nhà nhân chủng học cổ hủ và các nhà sử học nữ quyền cực đoan, nhưng ngày nay người ta đã công nhận rộng rãi rằng một nhà nước như vậy chưa từng tồn tại ở bất kỳ đâu trên thế giới.  Hoàng gia Thebes có thể đã cho phép các hoàng hậu của mình đóng vai trò nổi bật hơn trong các vấn đề nhà nước, nhưng vai trò đó không bao giờ cho phép hoàng hậu được ưu tiên hơn vị pharaoh toàn năng trong khi Hatchepsut, có vẻ như là ngoại lệ của quy tắc này, chỉ tìm kiếm các quyền lực của một vị vua khi bà thực sự chuyển mình thành một vị vua nữ.  Bà có lẽ cũng đã hoảng sợ như bất cứ ai khi nghĩ rằng một người phối ngẫu đơn thuần có thể cai trị thay cho một vị vua được thần thánh chỉ định.  Thay vào đó, ‘quyền lực’ của phụ nữ Thebes nên được nhìn nhận theo quan điểm thực sự của nó chỉ là một sự gia tăng địa vị và ảnh hưởng hơn là một sự đảo ngược hoàn toàn so với phong tục trong nước.

 Có lẽ lời giải thích chính xác hơn cho sự thay đổi thái độ đối với phụ nữ hoàng gia cao cấp có thể tìm thấy trong việc xem xét các điều kiện ở Ai Cập vào thời kỳ bắt đầu cai trị của hoàng gia Thebes.  Đây là thời kỳ mà, giống như trong Thời kỳ Cổ xưa, Ai Cập đang phải chịu đựng tình trạng bất ổn dân sự sâu sắc.  Các vị vua nổi lên vào cuối Vương triều 17 là những vị vua chiến binh, triều đại của họ được đặc trưng bởi các chiến dịch quân sự thành công liên tiếp.  Trong những trường hợp bình thường, và ngoài một tham chiếu hơi mơ hồ về việc  Hoàng hậu Ahhotep chỉ huy quân đội được thảo luận chi tiết hơn ở phần sau của chương này, chính những người đàn ông Ai Cập tích cực nắm quyền lãnh đạo quân sự trong khi các phụ nữ thụ động của họ tham gia vào các hoạt động ở hậu phương riêng; khi pharaoh Amenemhat I của thời Trung Vương quốc, hỏi, “Có người phụ nữ nào trước đây từng chỉ huy quân đội không?  Và trước đây có cuộc nổi loạn cung đình nào do các bà âm mưu  không? ‘, ông đang đặt ra những câu hỏi cố ý châm biếm. Tuy nhiên, vào những thời khắc đất nước  khủng hoảng, chúng ta thường thấy các vai trò truyền thống không còn được áp dụng nữa và phụ nữ có thể được khuyến khích tích cực rời khỏi nơi cung cấm ấm áp của họ  và tìm kiếm những hoạt động khác  mà không bị dân chúng phản đối.  Đây chính xác là những gì đã xảy ra trong Thế Chiến I và II  ở Anh khi phụ nữ đã đóng một vai trò tích cực trong nỗ lực chiến tranh, đảm nhận những công việc trước đây chỉ dành riêng cho nam giới.

 Khi một chế độ quân chủ cảm thấy mình đang bị đe dọa, chúng ta có thể mong đợi hoàng gia dựa vào những người ủng hộ trung thành và tận tụy nhất – các thành viên trong gia đình – để cung cấp sức mạnh và sự hỗ trợ cần thiết, bất kể giới tính.  Điều này đặc biệt đúng với gia đình hoàng gia Thebes cùng huyết thống, nơi hoàng hậu thường là em gái cùng cha khác mẹ với nhà vua, đều là con cháu của những người sáng lập triều đại và có lẽ chia sẻ quyền lợi giống nhau trong gia đình bà.  Vào thời điểm như vậy,  sẽ là một hành động hết sức điên rồ nếu bỏ qua sự đóng góp tiềm năng của một người phụ nữ thông minh và sắc sảo về mặt chính trị, và một  hoàng hậu hoặc mẹ hoàng hậu, người có thể hỗ trợ nhà vua một cách hiệu quả, sẽ là một  tài sản có giá trị.  Do đó, có lẽ không có gì đáng ngạc nhiên khi thấy các vị vua cuối Vương triều 17 và đầu Vương triều 18 đã tiếp bước những người tiền nhiệm trong Thời kỳ Cổ xưa trong việc sử dụng phụ nữ của họ trông việc khác hơn việc sinh ra  con trai cho họ.

 Chắc chắn không khó để tìm thấy những điểm tương đồng đối với một gia đình cầm quyền, nơi ảnh hưởng của các phụ nữ hoàng gia đều được thừa nhận và tôn trọng.  Các vương quyền châu Phi theo truyền thống cho phép phụ nữ hoàng gia của họ đóng vai trò nổi bật trong các công việc trị nước và cần nhớ rằng thành phố Thebes gần về mặt địa lý với Nubia, nơi hoàng gia cũng bao gồm các phụ nữ quyền lực.  Tuy nhiên, nếu chúng ta thực sự cần một minh họa song hành cho hoàng gia Thebes, chúng ta có lẽ nên xem xét kỹ hơn thời đại của chúng ta;  Những gia tộc giống như nhà Kennedy, nơi phụ nữ, mặc dù bản thân họ không phải là người nắm giữ chức vụ tối cao, nhưng lại đóng một vai trò quan trọng trong hoạt động gia đình như một đơn vị chính quyền hiệu quả, không phải là điều đặc biệt hiếm, trong khi chính thể quân chủ Anh gần đây cũng nhận thấy rằng một  người phối ngẫu thích hợp, được giới thiệu một cách đúng đắn, có thể giúp nâng cao vị thế của toàn bộ gia đình hoàng gia.

 Tôn trọng mẹ đã là một phong tục lâu đời của người Ai Cập và không nhất thiết phải du nhập từ xa hơn về phía nam.  Người mẹ Ai Cập được cả con cái, đặc biệt là các con trai, yêu quý và tôn kính, và các thầy thư giáo của Vương quốc Mới không ngừng đề cao nghĩa vụ mà một chàng trai phải gánh vác đối với người mẹ lớn tuổi của mình:

 Hãy nhân đôi thức ăn mà mẹ bạn đã nuôi dưỡng bạn, và nâng đỡ bà như bà đã hỗ trợ bạn, vì bạn là gánh nặng cho bà nhưng bà không bỏ rơi bạn. Khi bạn được sinh ra sau những tháng nằm trong bụng mẹ, bà vẫn còn bị ràng buộc với bạn như bầu vú của bà ấy ở trong miệng bạn đến ba năm. Khi bạn lớn lên và phân của bạn thật là kinh tởm, bà ấy vẫn  không ghê tởm. 

 Hoàng gia cũng không phải là gia đình duy nhất nhấn mạnh tầm quan trọng nữ giới vào thời điểm này.  Chúng ta đã gặp Ahmose, con trai của Ibana, chiến binh dũng mãnh từ el-Kab.  Cháu nội của ông, Paheri, cũng là người gốc el-Kab, là một viên chức đã vươn lên trở thành quan giữ sổ sách đáng kính của Kho bạc và Thị trưởng của cả el-Kab (Nekheb cổ đại) và Esna (Iunyt cổ đại).  Ngôi mộ tráng lệ của ông không có một cuốn tự truyện giống như của anh lính Ahmose, nhưng nó chứa những hình ảnh sinh hoạt nông thôn và lễ hội, có giá trị khảo cổ được nâng cao đáng kể nhờ ghi lại  nhận xét của những người tham gia trong mỗi cảnh chạm trổ. Khung cảnh tiệc tùng được chiếu sáng đặc biệt;  tại đây chúng ta có cơ hội nghe lén các thành viên nữ trong gia đình Paheri khi họ thư giãn sau một ngày làm việc mệt mỏi.  Những nhận xét của họ có lẽ không phải là tất cả những gì chúng ta mong đợi từ một bộ sưu tập những cô gái trẻ được nuôi dạy tốt:

 Ở hàng thứ ba là con gái của Kem, viz.  [Thu] pu, Nub-em-heb và Amen-sat;  cùng người em họ thứ hai của Paheri là Nub-Mehy, và ba y tá của anh ta… Amen-sat từ chối cái bát, và người hầu nói đùa rằng: “Vì Ka của ngươi, hãy uống đến say, hãy đi nghỉ;  Hỡi người bạn đồng hành của ngươi, hãy lắng nghe những gì đang nói, đừng mệt mỏi khi nhận lấy (?). ‘

 Người bạn đồng hành và là người em họ xa của cô là Nub-Mehy đang nói với người hầu rằng ‘Hãy cho tôi mười tám chén rượu, tôi muốn uống đến say;  cổ họng tôi khô như rơm.’

 Ngôi mộ của Paheri cung cấp cho chúng ta thông tin chi tiết về nguồn gốc của ông ấy, vốn luôn được truy tìm qua dòng dõi nữ giới;  đó là mẹ anh, Kam, là con của Ahmose trong khi cha anh, Itruri, rõ ràng là gia sư cho Thái tử Wadjmose, con trai của Tuthmosis I, một chức vụ có thể do chính Paheri nắm giữ.  Cha của Ahmose được ghi là Baba, con trai của Reant (mẹ của anh ta), và tổ tiên họ ngoại và anh em họ được ghi là ưu tiên dòng họ.  Điều đáng chú ý là sự ưa thích này dành cho nhánh phụ nữ trong gia đình mà lăng mộ Paheri đã được trích dẫn trong một thời gian dài để ủng hộ lý thuyết về truyền thống mẫu hệ Thebes.  Tuy nhiên, giờ đây người ta đã chấp nhận rằng Paheri chỉ đơn giản là tuân theo bản tính con người là hay khoe khoang có quan hệ họ hàng với các thành viên đẳng cấp, bất kể giới tính của họ.

2

Hành lang dẫn vào lăng mộ Paheri

3

Tranh khắc mô tả những công việc của Paheri lúc sinh thời

Đối với một số nhà quan sát hiện đại – rõ ràng viết sau khi nhìn lại lịch sử – sự thay đổi chính sách đột ngột này là một thảm họa sắp sửa xảy ra, vì một hoàng hậu mới đầy quyền lực sẽ không thể cưỡng lại cám dỗ muốn tự mình lên ngôi:

 Sự bướng bỉnh và tham vọng lèo lái của các hoàng hậu không thể không dẫn đến xung đột với các nam nhân trong gia đình, ít nhất là nếu những người phụ nữ kiên trì muốn đạt được nguyện vọng cuối cùng, Vương miện.  Sau năm thế hệ cai trị, đây chính xác là những gì đã xảy ra.

 Có lẽ việc chuyển từ hoàng hậu lên làm vua dường như sẽ là một sự thăng tiến rõ ràng cho một phối ngẫu hiện đại không hài lòng với chức năng thứ yếu của bà ấy.  Tuy nhiên, người ta nghi ngờ liệu một hoàng hậu Ai Cập, đặc biệt là người nắm giữ vai trò an toàn và có ảnh hưởng của mình, liệu có bao giờ xem xét đến một động thái chấn động đến như vậy trong những trường hợp bình thường hay không.  Sự ghê tởm của người Ai Cập đối với sự thay đổi, niềm tin ăn sâu vào cách làm việc đúng đắn trong đó một nam pharaoh được thần thánh chỉ định lên ngai vàng, và thực tế rằng nhà vua có nhiều khả năng là một người có quan hệ họ hàng gần gũi (anh trai, con trai hoặc cha)  tất cả đều khiến cho một cuộc đảo chính nữ, trong điều kiện bình thường, rất khó xảy ra.

 Không phải ngẫu nhiên mà hoàng hậu có được địa vị được nâng cao vào đúng thời điểm nhà vua đang mở rộng cửa hậu cung để chào đón ngày càng nhiều vợ thứ và thê thiếp vào trong vòng tay che chở của ông.  Thật vậy, có thể hoàng hậu cần tước vị và vương quyền mới chỉ đơn giản là để phân biệt bà, với tư cách là phối ngẫu và mẹ của vị vua tương lai, với tất cả những phụ nữ khác, những người mà bây giờ có thể biện minh khi tuyên bố là vợ vua và  thậm chí, được ban cho một chút may mắn, một Mẹ Vua tương lai.  Chế độ đa thê luôn là truyền thống của hoàng gia;  đó là một thứ xa xỉ với giá cả phải chăng và về nhiều mặt, nó có ý nghĩa để đảm bảo rằng nhà vua có nhiều cơ hội nhất có thể để cho ra đời một kế vị nam.  Tuy nhiên, các vị vua của Vương quốc Cổ và Trung đại dường như đã hài lòng với một hoàng hậu cộng với một hậu cung khá kín đáo gồm những phi tần mà chúng ta biết rất ít, và chỉ đến Vương triều thứ 13, chúng ta mới bắt gặp việc sử dụng tước hiệu ‘Chánh Thất của Vua’, điều này cho thấy sự cần thiết phải phân biệt hoàng hậu với một loạt những người vợ lẻ khác.   Với sự ra đời của Vương quốc mới, số lượng cô dâu hoàng gia đã tăng lên đáng kể và chúng ta phải giả định rằng, số lượng con cái hoàng gia cũng tăng tương ứng, cho đến khi Vua Ramesses II của Vương triều thứ 19 có thể tự hào về việc có được 79 con trai và 50 con gái với những người vợ khác nhau của ông, bao gồm chị gái của ông, ba trong số các cô con gái của ông và ít nhất năm công chúa ngoại quốc.

 Những người vợ bậc hai này không được coi là thê thiếp đơn thuần, một thuật ngữ gần như đồng nghĩa với gái điếm trong xã hội một vợ một chồng (về mặt lý thuyết) của chúng ta.  Không có gì phải hổ thẹn khi được đưa vào nhóm các bà vợ  vua và quả thật, những thành viên ở  hậu cung thường là các quý bà Ai Cập thượng lưu, con gái và em gái của các vị vua Ai Cập.  Những phụ nữ này không phải tất cả đều có thể trở thành hoàng hậu, nhưng họ đều là vợ hoặc người phối ngẫu hợp pháp của nhà vua, và tất cả đều được hưởng một vị trí được công nhận và tôn trọng trong xã hội Ai Cập.  Sẽ rất thú vị khi tìm hiểu cách nạp cung các phụ nữ trong hậu cung Ai Cập – họ tình nguyện, được cha mẹ hiến tặng hay bị ép buộc hàng loạt?  Có lẽ khá an toàn khi cho rằng việc giới thiệu một cô con gái vào hoàng cung có thể mang lại cho gia đình cô không gì khác ngoài những điều tốt đẹp, đặc biệt nếu cô ấy thu hút và giữ được sự chú ý của nhà vua hoặc thái tử.  Tương tự thường được mô tả trong hậu cung nhà Hán Trung Quốc, nơi các vị vua và quan chức cấp cao của họ thỉnh thoảng kết hôn với thê thiếp của mình và nơi đôi khi một người vợ xuất thân dân thường trở thành vợ và mẹ của một vị vua.  Một người vợ lẻ được yêu thích có thể sử dụng ảnh hưởng của mình vì lợi ích của gia đình mình, và vì lý do này, các quý tộc Trung Quốc đã nỗ lực để được ít nhất một cô con gái được chấp nhận vào hậu cung hoàng gia. Tuy nhiên, những người đàn ông không thuộc hoàng gia Ai Cập dường như không muốn thừa nhận mối quan hệ với cung điện  thông qua một người phụ nữ, đến mức Anen, anh trai của hoàng hậu Tiy, không đề cập đến mối quan hệ quan trọng này trên bất kỳ tượng đài nào của ông ta.  Chúng ta không có tài liệu nào về việc người Ai Cập tặng vợ hoặc con gái của mình cho nhà vua, và không có phương tiện nào để xác định xem con gái hoặc em gái trong hậu cung hoàng gia có thể hữu ích như thế nào.

 Một phép màu đã mang đến cho nhà vua Gilukhepa cô con gái của ông hoàng  Naharin, và các thành viên trong đoàn tùy tùng của cô, khoảng 317 phụ nữ.

 Vào thời Tuthmosis IV, hậu cung cũng là nơi ở của một số công chúa nước ngoài quan trọng và những thuộc hạ không tiếng tăm của họ.  Những nàng công chúa này, con gái của các đồng minh chính trị hùng mạnh, đã đến Ai Cập với của hồi môn phong phú được đổi lấy giá cô dâu tương ứng hoặc vật phẩm do chú rể trả.  Họ kết hôn với nhà vua, và chìm vào cõi mông lung. Những công chúa khác, ít hơn, là con gái của các nước chư hầu được gửi đến làm cống nạp cho vua Ai Cập;  họ vẫn ở trong hậu cung hoàng gia, nhằm đảm bảo một cách hiệu quả cho lòng trung thành của cha họ đối với pharaoh:

 Hãy gửi con gái của ngài cho nhà vua, chúa tể của ngài, và như một món quà, hãy gửi hai mươi nô lệ khỏe mạnh, xe ngựa bạc và ngựa khỏe mạnh.

 Tuy nhiên, những phụ nữ nước ngoài khác được cử đi theo nhóm để làm quà tặng cho nhà vua.  Chúng ta phải cho rằng những phụ nữ này hiếm khi được nhìn thấy chồng / chủ nhân mới của họ.  Họ dường như sẽ sống cả đời trong hậu cung mà không có cơ hội kết hôn hoặc trở về quê hương mình;  khi chết họ được chôn cất tại nghĩa trang sa mạc gần đó.

 Phụ nữ Ai Cập có đặc điểm là kín đáo nhất trong việc biểu lộ cảm xúc so với phụ nữ khác, những người thích đưa ra bất kỳ lời tuyên bố nào để được xem là thành viên của một quốc gia văn minh… Hầu hết đàn ông của họ đều không thể an tâm trừ khi phải có khóa và chìa khóa cho phòng họ.

 Trong khi hoàng hậu dường như đã tận hưởng sự xa hoa nơi cung điện và điền trang của riêng mình, những người vợ và thê thiếp còn lại của hoàng gia, các con nhỏ của họ, thầy thuốc, bảo mẫu và hầu cận, sống cùng nhau trong cung điện phụ nữ cố định hoặc hậu cung.  Từ ‘hậu cung’ ngày nay là từ không may;  một từ ngay lập tức gợi lên hình ảnh những mỹ nữ phương đông hư hỏng, ăn mặc hở hang và đang ngả ngớn trên những chiếc đệm bằng lụa trong khi chờ đợi chúa tể và chủ nhân của mình đoái hoài tới.  Tất cả những ý tưởng của chúng ta về hậu cung Ai Cập thường dựa trên những  tưởng tượng từ những gì chúng ta biết về hậu cung trong chế độ quân chủ phương Đông khác, đặc biệt là hậu cung của Grand Seraglio, triều đình của các hoàng đế Ottoman tại Istanbul, một hậu cung hoạt động từ thời Trung cổ.  Có tuổi đời cho đến Thế Chiến I, khi Vương quốc Hồi giáo bị phế truất để thành lập nước cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ hiện đại.  Thế giới bí mật của hậu cung Thổ Nhĩ Kỳ vẫn là một bí ẩn không thể khám phá trong nhiều thế kỷ, và những tin đồn thay vì sự thật về cuộc sống ở Grand Seraglio đã nuôi dưỡng quan niệm của người châu Âu về tất cả các hậu cung.  Điều này, kết hợp với niềm tin đã ăn sâu vào sự suy đồi bẩm sinh của Ai Cập cổ đại và những người phụ nữ bị bỏ rơi đáng thèm muốn của nó, đã được thể hiện trong nhiều hình thức văn hóa phương Tây.  Từ Mozart đến Mailer, sự kết hợp của những địa điểm kỳ lạ, nắng nóng và những phụ nữ bị giam giữ vì mục đích hưởng thụ tình dục đã được sử dụng để giải trí và thu hút những khán giả được cho là sành sỏi.

 Tầm nhìn này là xa sự thật.  Sẽ đúng hơn nhiều nếu coi cung điện phụ nữ Ai Cập như một ký túc xá cố định được sử dụng để chứa tất cả các phụ nữ phụ thuộc của nhà vua, không chỉ những người bị ràng buộc với ông vì mục đích tình dục.  Những người phụ nữ này, vì lý do số lượng quá lớn, không thể được sắp xếp để tháp tùng nhà vua và đoàn tùy tùng của ông.  Do đó, hậu cung là nơi sinh sống của rất nhiều loại vợ, con gái, em gái, con trai sơ sinh, người hầu, nô lệ và bất kỳ ai khác có thể được tìm thấy một cách hợp pháp trong khu phụ nữ của một ngôi nhà tư nhân.  Bao gồm trong số các nhân viên hậu cung có một số quản trị viên nam, những người tự nhận thấy mình chịu trách nhiệm cho sự vận hành trơn tru của một cộng đồng rất lớn.  Các quan chức này mang các danh hiệu khác nhau, từ ‘Người giám sát Hậu cung Hoàng gia’ và ‘Thanh tra Cơ quan quản lý Hậu cung’ đến ‘Người giữ cổng’;  chức vị cuối cùng này dường như được sử dụng để bảo vệ hậu cung và giữ các thành viên không mong muốn của cộng đồng ra ngoài khu vực thay vì giữ phụ nữ ở lại – tuy nhiên chúng ta không có bằng chứng nào cho thấy rằng phụ nữ Ai Cập sinh ra tự do đã từng bị bắt buộc phải ở lại hậu cung chống lại  ý chí của họ.  Tất cả các quản trị viên dường như đã từng là đàn ông có gia đình, và chúng ta không tìm thấy bằng chứng trực tiếp nào về lớp người nam đặc biệt phục dịch  hậu cung và là một trò đùa vô vị của nhiều người, thái giám.  Mặc dù  rõ ràng là an toàn khi sử dụng những người đàn ông bị thiến làm việc với một nhóm phụ nữ hấp dẫn, bị cô lập, buồn chán và có thể thất vọng, nhưng điều này dường như không phải là thông lệ tiêu chuẩn ở hậu cung Ai Cập.  Không có từ Ai Cập cổ đại nào được chứng minh một cách thuyết phục có nghĩa là thái giám, và những hình ảnh đại diện cho cảnh hậu cung trong các ngôi mộ Amarna của Ay và Tutu không cho thấy bất kỳ cá nhân nào có ngoại hình như một thái giám cổ điển.  Chúng tôi có ví dụ về các cơ thể nam giới được ướp xác không có tinh hoàn, nhưng chúng dường như là kết quả của tổn thương sau khi chết trong quá trình ướp xác, chứ không phải là một sự cắt bỏ cố ý.  Xác ướp của Tuthmosis III, được biết đến là một người cha, thiếu cả dương vật và tinh hoàn, trong khi những chiến tích quân sự dạn dày của Pharaoh Merenptah gợi ý chắc chắn là ông ta sở hữu biểu tượng của nam tính mà xác ướp của ông ta hiện thiếu. 

 Thức ăn không giản dị cũng không cân bằng.  Về phần những giờ phút thả mình trong bồn tắm kiểu Thổ Nhĩ Kỳ, khỏa thân và bóng bẩy, dội đầy nước thơm lên người, xoắn những viên ngọc trai và lông công lên mái tóc dài của họ, nhấm nháp kẹo mứt ngọt lịm, nói chuyện phiếm, nhẩn nha hàng giờ, thả hồn theo những giấc mơ nơi chốn bồng lai. . .

Đó là cảnh Lesley Blanch đã mô tả cuộc sống hàng ngày trong hậu cung của Seraglio ở thế kỷ thứ mười tám, một mô tả ắt phải pha trộn một số lượng nhất định  trí tưởng tượng, vì hậu cung hoàn toàn nằm ngoài giới hạn đối với mọi người ngoài, nhưng có lẽ đúng khi cho rằng  những phi tần Thổ Nhĩ Kỳ có cuộc sống xa hoa được nuông chiều.  Mọi thứ rất khác ở Ai Cập, nơi hậu cung tự nó là một đơn vị khép kín và tự cung tự cấp, hoàn toàn độc lập với cung điện của nhà vua và có thu nhập từ đất đai của chính mình và tiền thuê đất do nông dân thuê trả.  Nhiều phụ nữ có địa vị thấp hơn ở hậu cung còn lâu mới được nhàn rỗi hàng giờ, mà được yêu cầu phải làm việc để tự túc.  Bản thân hậu cung phải cần nhiều đầu bếp, người giặt giũ, bảo mẫu và người phục vụ chung trong khi Mer-Wer, một cung điện hậu cung lớn do Tuthmosis III thành lập ở rìa Faiyum, dường như là nơi có một doanh nghiệp dệt may phát triển mạnh mẽ.  Tại đây, loại vải lanh tốt nhất của Ai Cập được sản xuất dưới sự giám sát của các cung nữ trong hậu cung.

 Các thiết kế hậu cung của Vương quốc Mới còn sót lại cho thấy các nhóm tòa nhà gạch bùn độc lập bao gồm khu sinh hoạt, nhà kho và nhà nguyện hoặc điện thờ, tất cả đều được bao quanh bởi một bức tường gạch bùn cao.  Các khu sinh hoạt có dạng cấu trúc khép kín tập trung vào bên trong hướng tới khu vực trung tâm lộ thiên hoặc sân trong mà đôi khi chứa các hồ nước.  Điều này có thể được so sánh với hậu cung Hồi giáo hiện đại truyền thống vào đầu thế kỷ XX, nhiều ngôi nhà lớn được xây dựng xung quanh một sân trong có thể bao gồm một hồ bơi hoặc đài phun nước và được bao quanh bởi những bức tường cao. Bố trí không gian của hậu cung hiện đại hơn được chú trọng tập trung hướng vào trong về phía một không gian mở, là nơi sinh hoạt hàng ngày của các cung tần mỹ nữ.  Ở đây đồ ăn đã được chuẩn bị sẵn, mỹ phẩm đã được thoa, cả ngày và buổi tối dành để hát, nhảy múa và kể chuyện.

 Hậu cung-cung điện của triều đại Ai Cập vừa là nhà trẻ cho những trẻ em hoàng gia, vừa là ‘Hộ gia đình của những trẻ em Hoàng gia’, trường học danh giá nhất trên đất nước. Tại đây, các nam hoàng gia trẻ tuổi, dưới sự giám sát của ‘Người giám sát Hoàng cung’ và ‘Giáo viên trẻ em Hoàng gia’, nhận được sự huấn luyện  để chuẩn bị cho cuộc sống tương lai của họ thành phần quý tộc cao cấp nhất trên đất nước. Danh hiệu ‘Trẻ em Cung điện’ (có nghĩa là, một đứa trẻ hoàng gia, hoặc một đứa trẻ đủ quan trọng để được nuôi dưỡng như một thành viên hoàng gia) thường được sử dụng bởi các quan chức cấp cao từ thời Trung Vương quốc trở đi, cách đọc đầy đủ trong Tân Vương quốc là ‘Trẻ em trong Cung điện của Hậu cung Hoàng gia’. Các quan chức quan trọng của Vương triều thứ 18 đã chọn cách phô trương đến mối liên hệ thời thơ ấu của mình với triều đình trong đó có các tể tướng Rekhmire, Ramose và Amenemope, Thượng tế của Amen, Hapuseneb, và Thị trưởng của Thebes, Sennefer.  Được sống thời thơ ấu trong hậu cung hoàng gia hẳn có tầm quan trọng cực kỳ đối với những người sống trong tình trạng mà sự nghiệp và địa vị của mọi người phụ thuộc vào mối quan hệ của họ với nhà vua.

 Vào bất kỳ thời điểm nào có xảy ra bất ổn, với tỷ lệ tử vong cao trong số các nam nhân ưu tú tham gia chiến đấu, chúng ta có thể mong đợi rằng chế độ quân chủ đang phụ thuộc rất nhiều vào việc sinh ra trẻ em nam để đảm bảo sự kế vị hoàng gia, có thể là cha truyền cho con trai (ví dụ: Sekenenre Tao với Kamose) hoặc anh truyền cho em trai (ví dụ, Kamose với Ahmose) và cung cấp các thủ lĩnh quân đội cấp dưới trung thành.  Tuy nhiên, điều này dường như không đúng vào thời đầu Tân vương quốc khi ngày càng có nhiều thành viên hoàng gia nam – con trai thứ hai và em trai của các vị vua – lần lượt trở nên vô hình. Với những nam giới còn sơ sinh hay thơ ấu, điều này sẽ không quá đáng. Sự vô hình ban đầu của họ không nhất thiết ngăn cản họ đạt được danh tiếng sau này trong sự nghiệp.  Tuy nhiên, việc thiếu hoàng tử trưởng thành là một điều gì đó khó hiểu, đặc biệt là vào thời điểm khi số lượng vợ hoàng gia tăng mạnh có thể khiến chúng ta kỳ vọng vào sự gia tăng đáng kể về số lượng trẻ em hoàng gia.

 Một phần, khả năng vô hình của các con trai hoàng gia ắt là kết quả của việc bảo tồn có chọn lọc các ghi chép lịch sử, và đặc biệt là các di tích hoàng gia.  Các điện thờ và đài an táng ở Thebes và Bờ Tây được bao phủ bởi các văn bản và cảnh mô tả các vị vua khác nhau thỉnh thoảng  xuất hiện cùng với các hoàng hậu và công chúa của mình.  Tuy nhiên, thành viên hoàng gia chỉ xuất hiện trong những cảnh này với tư cách là vai phụ nhằm đề cao nhà vua;  họ không được coi là những cá nhân độc lập theo đúng nghĩa và thực sự nghệ thuật hoàng gia của Vương quốc mới chứa đầy hình ảnh những phụ nữ hoàng gia phụ thuộc, những người thường được mô tả với kích cỡ nhỏ bé gần như không chạm tới đầu gối của vị vua khổng lồ là chồng, cha của họ hoặc  cả hai.  Do đó, việc các con trai dường như không xuất hiện như những người phụ thuộc hoàng gia trong những cảnh này không nên được coi là dấu hiệu cho thấy họ thiếu tầm quan trọng, mà là dấu hiệu xác nhận rằng họ được mong đợi sẽ sống một cuộc sống độc lập hơn.  Công chúa được tôn trọng như con gái (hay tài sản?) của nhà vua;  hoàng tử phải tìm kiếm  sự tôn trọng cho riêng mình.  Điều này ngụ ý rằng mặc dù vị trí Con gái Nhà vua được coi là một vai trò theo đúng nghĩa của nó, vai trò của Con trai Nhà vua chỉ đơn thuần là một con người sinh ra tình cờ, không phải là một sự nghiệp trọn đời.  Thái tử hiển nhiên là một ngoại lệ đối với quy tắc này;  là người thừa kế ngai vàng, ông được sinh ra với vai trò được xác định rõ ràng và thường được trao chức Đại tướng quân để củng cố địa vị của mình, giống như người thừa kế ngai vàng của Anh theo truyền thống được phong là Hoàng tử xứ Wales.

  Nếu các con trai hoàng gia ít xuất hiện trên các tượng đài hoàng gia hơn các chị em gái của họ thì chúng ta có khả năng tìm thấy họ ở đâu, ngoài lăng mộ của họ không?  Ngay cả vị trí những ngôi mộ của họ cũng đặt ra một vấn đề, vì những ngôi mộ đặc biệt có niên đại đầu Vương triều 18 hầu như không được biết đến, mặc dù những khám phá gần đây ở Thung lũng các Vì Vua cho thấy rằng các nhóm hoàng tử có thể đã được chôn cất hàng loạt trong các phòng chôn cất tập thể.  Chúng ta có ví dụ về các cá nhân của Vương triều 18 tự xếp mình là ‘Con trai của Vua’ nhưng, vì một số lý do, chúng ta không có ai tự xưng là ‘Em của Vua’.  Điều này đã dẫn đến một gợi ý thú vị rằng các hoàng tử theo cách nào đó có thể đã mất đi vương quyền của mình sau khi thái tử đã sản sinh ra người thừa kế, do đó họ bị loại ra ngoài dòng kế vị trực tiếp.  Điều này sẽ có tác dụng hạn chế gia đình hoàng tộc đối với nhà vua, các chị em chưa kết hôn, các cô ruột gái già của ông, mẹ và bà nội và các con của ông;  anh em và chú bác của ông ta sẽ không còn được coi là hoàng tộc hoàn toàn nữa, mặc dù họ vẫn được hưởng một vị trí được tôn trọng trong cộng đồng.Việc cắt tỉa tự động này của gia đình hoàng gia sẽ có lợi thế là giảm số lượng cá nhân có khả năng đòi lên ngai vàng và có lẽ sẽ giữ được độc quyền lên ngôi một cách an toàn.  Dù địa vị chính thức của họ là gì, chúng ta có thể thấy rằng những hoàng tử đã trưởng thành trước khi vua cha qua đời sẽ nhận được những bổ nhiệm cao cấp trong chức tư tế, quân đội và dịch vụ dân sự.  Số phận của những đứa em nhỏ, mồ côi của họ ít chắc chắn hơn.

 Nơi tốt nhất để tìm kiếm các hoàng tử Vương triều thứ 18 bị mất tích là làng Deir el-Medina của những người thợ.  Ở đây, trong suốt Vương triều thứ 19 và đặc biệt là dưới thời trị vì của Ramesses II, hoàng gia đầu Vương triều thứ 18 được tôn kính lớn rất mực.  Ở cấp độ chung, họ được tôn vinh là tổ tiên (lý thuyết) của các vị vua hiện tại và là hình mẫu xuất sắc cho vương quyền quân sự, trong khi ở cấp độ cá nhân hơn, cư dân của Deir el-Medina tôn thờ gia đình hoàng gia Thebes với tư cách là người sáng lập  làng của họ đồng thời là người khởi xướng những kế hoạch tối thượng tạo ra công ăn việc làm cho họ  ở Thung lũng các vị vua.  Dân làng có lý do chính đáng để tôn thờ những người bảo trợ họ được phong là á thần này là Amenhotep I và Ahmose Nefertari, và không có gì ngạc nhiên khi hai á thần này xuất hiện trên nhiều tượng đài nhỏ, đôi khi đứng cùng với các vị thần Thebes khác như Hathor, Phu nhân phương Tây.  Tuy nhiên, thỉnh thoảng, cư dân của Deir el-Medina đã chọn tưởng nhớ các thành viên nhỏ hơn của gia đình hoàng gia Thebes, bao gồm một số hoàng tử mất tích.  Ví dụ nổi tiếng nhất về điều này được tìm thấy trong ngôi mộ của một người đàn ông tên là Khabekhnet, nơi bức tường phía đông bắc có hai hàng nhân vật đang ngồi và có tên được xác định là ‘Chúa tể phương Tây.’  Trong số này có một số người rõ ràng là con trai của các vị vua không kế vị ngai vàng của cha mình.  Thật không may, ngoài tên của họ, chúng ta có rất ít thông tin thêm về những vị hoàng tử đã mất này.

 Từ những ghi chép ít ỏi còn sót lại từ đầu Vương triều 18, có thể thấy một phần đáng chú ý của lịch sử của nhà nước mới thống nhất có vai trò của ba người phụ nữ, Tetisheri và Ahhotpe và Ahmose Nefertiry. Có thể chắc chắn rằng hành vi của họ đã là nguồn cảm hứng cho những phụ nữ hàng đầu của đất nước (trong đó Hatchepsut là ví dụ hàng đầu) trong suốt Vương triều 18.

 Vua Ahmose không chỉ được ban cho một người bà mạnh mẽ mà còn một người mẹ uy lực và  tích cực về mặt chính trị.  Ahhotep I (hoặc Ahhotpe, như trên), phối ngẫu và có thể là em gái của Sekenenre Tao II, có ảnh hưởng sâu sắc và lâu dài đến con trai bà;  Trên một tấm bia được lấy từ Karnak, Ahmose khuyến khích người dân của mình bày tỏ lòng tôn kính  đối với thân mẫu mình như là ‘người đã hoàn thiện các nghi lễ và chăm lo cho Ai Cập’:

 Bà đã chăm sóc Ai Cập [tức là, binh lính Ai Cập], bà đã bảo vệ Ai Cập, bà ấy đã đưa những kẻ đào tẩu trở lại và tập họp những tên đào ngũ, bà đã bình định Thượng Ai Cập và trục xuất những kẻ nổi loạn ở đấy.

 Ý nghĩa chính xác của tấm bia gây tò mò này hiện chúng ta đã mất dấu.  Tuy nhiên, nếu đúng như nội dung, bản thân Ahhotep đã thực sự có thể ngăn chặn một cuộc nổi loạn bằng cách tập hợp quân đội Ai Cập, thế thì bà phải là một phụ nữ có khả năng sử dụng quyền lực thực sự chứ không phải chỉ biết tổ chức nghi lễ.  Chúng ta thậm chí có thể suy luận rằng Ahhotep đã được kêu gọi làm nhiếp chính sau cái chết không đúng lúc của người chồng Kamose bởi vì chúng ta biết rằng khi Ahmose qua đời vào cuối thời trị vì 25 năm của mình, ông ấy còn khá trẻ, có thể chỉ mới 30 tuổi.  Chúng ta không tìm được tuyên bố chính thức nào về việc nhiếp chính, nhưng chắc chắn đã từng có tiền lệ cho việc thái hậu làm nhiếp chính cho đứa con trai nhỏ của mình;  Hoàng hậu Vương triều thứ 2 Nemaathep đã đóng vai trò nhiếp chính cho Vua Djoser và Hoàng hậu Vương triều thứ 6 Ankhes-Merire đã cai trị thay cho đứa con trai sáu tuổi Pepi II của bà.  Tại sao hoàng hậu nên được chọn làm nhiếp chính thay vì một quan hệ nam giới (có thể là em trai của cha) hiện vẫn chưa rõ ràng, mặc dù chúng ta có thể suy đoán rằng vì mẹ mới chính là người bảo vệ quyết liệt quyền thừa kế của con trai mình.  Nếu giả thuyết về việc các hoàng tử mất đi vương quyền khi anh trai của họ lên làm thái tử là đúng, thì trong mọi trường hợp sẽ không có thành viên nam thân thiết nào của hoàng gia đảm nhận vai trò này.

 Còn có một tiền lệ thiêng liêng về  một người mẹ chăm sóc quyền thừa kế của con trai mình.  Câu chuyện của Isis và Osiris kể về việc Osiris, vị vua hợp pháp của Ai Cập vào thời của các vị thần, đã bị giết bởi người anh trai Seth ghen tị của mình.  Seth đã cắt cơ thể của Osiris thành nhiều mảnh và rải khắp Ai Cập.  Isis, người vợ và người em gái tận tụy của anh, đã vất vả để thu thập lại các mảnh thi thể và với ma thuật vô song của mình, đã ban cho Osiris sự phục sinh tạm thời.  Phép thuật của bà thành công đến nỗi chín tháng sau, con trai Horus của họ chào đời.  Osiris đã chết sau đó và trở thành vua của Thế giới bên kia.  Trong khi đó, Isis tháo vát đã che giấu Horus của mình trong đầm lầy khỏi tai mắt người chú cho đến khi anh trở thành một người đàn ông, có thể trả thù cho cái chết của cha mình.  Phụ nữ Ai Cập thường không được mong đợi để thể hiện bản lĩnh ​​như vậy;  họ thường đóng một vai trò thụ động hơn trong xã hội. Tuy nhiên, hành vi quyết đoán được chấp nhận và thậm chí được khuyến khích ở phụ nữ nếu hành vi đó nhằm mục đích bảo vệ quyền của chồng hoặc con.

 Sau khi bà qua đời, Ahhotep đã được chôn cất trọng thể ở Bờ Tây tại Thebes.  Xác ướp của bà trong quan tài tinh xảo đã được phục hồi vào giữa thế kỷ 19, và hiện được đặt trong Bảo tàng Cairo.

 Mặc dù cả Tetisheri và Ahhotep đều được Ahmose tôn vinh nhưng vợ của ông ta, Ahmose Nefertari, người đầu tiên nhận được các danh hiệu chính thức sẽ trở thành quyền lợi của các hoàng hậu tương lai của Ai Cập.  Ahmose Nefertari, ‘Con Gái  Vua và Em Gái của Vua’, ‘Nữ Thủ lĩnh của Thượng và Hạ Ai Cập’, vợ và có lẽ là em gái của Ahmose, mẹ của Amenhotep I, cháu gái của Tetisheri và có thể là con gái của Kamose, thậm chí còn có ảnh hưởng lớn hơn cả người mẹ chồng đáng kính của bà.  Thật không may, chúng ta không có văn bản chi tiết về thành tích cụ thể của bà ấy, nhưng chúng ta biết chắc rằng Ahmose Nefertari hoặc đã được ban hoặc bán, danh hiệu danh giá ‘Nhà tiên tri thứ hai của Amen’, một chức vị dự định sẽ thuộc về hoàng hậu và dòng dõi của bà mãi mãi.

4

 Hình 2.2 Thần Osiris

Sau đó, Hoàng hậu đã khước từ  danh hiệu này để nhận một tước vị  thậm chí còn có uy tín hơn, tước vị  tư tế ‘Vợ Thần Amen’, một vinh dự đi kèm với tài sản và đất đai của riêng mình cộng với đội ngũ quản lý nam và điều này, do tầm quan trọng ngày càng tăng của Amen vào thời điểm này, là một dấu hiệu rõ ràng về địa vị được nâng cao của hoàng hậu. Có lẽ thật hoài nghi khi cho rằng vị trí này có thể đã được cố tình tạo ra để cho phép hoàng gia có một số biện pháp kiểm soát đối với giáo phái ngày càng quyền lực và giàu có.  Ahmose Nefertari rõ ràng coi đây là vai trò quan trọng nhất của cô, và sử dụng danh hiệu ‘Vợ Thần Amen’ thay cho bất kỳ người nào khác.  Các hình minh họa đương đại cho thấy hoàng hậu đội bộ tóc giả ngắn đặc biệt và bộ quần áo cổ xưa kỳ lạ khi bà thực hiện các nhiệm vụ tôn giáo liên quan đến chức vụ mới của mình.  Thật không may, chúng ta có rất ít hiểu biết về chức năng chính xác của Người vợ của Thần;  tiêu đề gợi ý rằng lẽ ra nó phải được tạo ra bởi các hoàng hậu đã giao hợp với Amen để sinh ra một vị vua (nghĩa là, bởi các bà mẹ hoàng hậu), hoặc bởi những phụ nữ chưa kết hôn đã tận tụy phục vụ Amen, nhưng một cuộc khảo sát nhanh về  những người phụ nữ giữ vị trí này cho thấy rằng không có lời giải thích nào có thể đúng.  Ví dụ, Hatchepsut không phải là một trinh nữ cũng không phải là mẹ của một vị vua.  Tuy nhiên, có thể vai trò liên quan theo một cách nào đó (về mặt lý thuyết) đối với sự kích thích tình dục của vị thần sẽ đảm bảo sự đổi mới của vùng đất: một danh hiệu thứ hai và ít thú vị hơn, ‘Bàn tay Thần’, thỉnh thoảng được sử dụng  kết hợp với ‘Vợ Thần’, là một ám chỉ không thể nhầm lẫn về hoạt động thủ dâm đã sản sinh ra các vị thần đầu tiên, Shu và Tefnut.

5

Hình 2.3 Thần Horus

Vai trò ‘Vợ Thần Amen’   được truyền từ Ahmose Nefertari cho con gái của bà là Meritamen, và sau đó cho Hatchepsut, người đã sử dụng nó cho đến khi bà trở thành vua, rồi nó được chuyển cho con gái bà là Neferure.  Danh hiệu này đã bị suy yếu trong thời kỳ trị vì độc lập của Tuthmosis III – có lẽ vị vua mới đã nếm trải đủ quyền lực phụ nữ – và mất đi  hoàn toàn sau triều đại của Tuthmosis IV, chỉ được hồi sinh trong Thời kỳ Trung gian thứ ba khi, đã hợp nhất với tước vị  ‘Nữ tư tế thần linh”, nó đã phát triển thành một chức vụ có ý nghĩa lớn về mặt chính trị và kinh tế.  Vợ Thần Amen giờ đây có quyền kiểm soát về mặt lý thuyết đối với khối tài sản khổng lồ của Amen.

 Ahmose Nefertari đã hoàn thành nhiệm vụ khôn ngoan của mình bằng cách sinh cho chồng-anh trai của mình ít nhất bốn con trai và năm con gái, năm người trong số đó đã chết khi còn nhỏ. Tuy nhiên, bà không bằng lòng hạn chế bản thân trong việc nuôi con và từ bỏ nơi trú ẩn truyền thống trong cung điện hoàng hậu:

 Đánh giá từ số lượng bia ký, đương đại và sau này, trong đó có tên hoàng hậu trẻ đó xuất hiện, bà được coi là người nổi tiếng gần như không có đối thủ trong lịch sử Ai Cập.

 Đặt ra tiền lệ giờ đây được các cặp vợ chồng hoàng gia hiện đại noi theo, hoàng hậu đi cùng chồng thực hiện nhiều nghĩa vụ cai trị của mình;  chúng ta biết rằng khi Ahmose mở một phòng trưng bày mới tại mỏ đá vôi Tura vào năm vương quyền 22 của mình, ông đã được hoàng hậu tháp tùng; bà khiêm tốn đứng sau chồng trong tư thế trang nhã điển hình.  Hoàng hậu dường như cũng đã hỗ trợ chồng trong việc phát triển các dự án xây dựng và như chúng ta đã lưu ý, Ahmose đã tham khảo ý kiến ​​của vợ về kế hoạch tôn vinh người bà đã khuất của họ, Tetisheri.  Bà chắc chắn đã hoạt động trong lĩnh vực tôn giáo;  Lòng mộ đạo của bà, hoặc có lẽ là sự giàu có độc lập của bà, đã khiến bà dâng cúng nhiều lễ vật tôn giáo hơn bất kỳ hoàng hậu nào trước đây và những lễ vật do Ahmose Nefertari trao tặng đã được tìm thấy trong các ngôi đền cách xa như Karnak ở phía nam và Serabit el-Khadim ở bán đảo Sinai.

 Sau cái chết của Ahmose, Ahmose Nefertari đảm nhận vai trò nhiếp chính cho con trai nhỏ của mình, Amenhotep I, trao lại quyền cai trị đất nước khi con trai đủ tuổi cai trị.  Trong suốt 21 năm trị vì, Amenhotep I đã củng cố các chính sách đối ngoại thành công do cha, chú và ông của mình khởi xướng.  Không có thêm hành động quân sự nào ở Palestine, nhưng quân đội tiến xa hơn về phía nam đến Nubia, nơi một phó vương được bổ nhiệm để chăm sóc các lợi ích của Ai Cập tại Vương quốc Kush của người Thượng Nubia. Anh lính Ahmose nổi tiếng, con trai của Ibana, đã có mặt để chứng kiến ​​chiến thắng của vị vua mới:

6

 Hình 2.4 Cartouche của Vua Amenhotep I

Tôi đã vận chuyển Vua của Thượng và Hạ Ai Cập Djeserkare [Amenhotep I], người công minh, khi ông đi thuyền về phía nam đến Kush để mở rộng biên giới của Ai Cập.  Hoàng thượng đánh tan bọn cung thủ Nubia ngay giữa vòng vây của mình.  Chúng bị quét sạch, không ai thoát được.  Cuộc tháo chạy đã bị tiêu diệt, như thể chúng chưa từng tồn tại.  Tôi là người đứng đầu quân đội và thực sự là tôi đã chiến đấu.  Hoàng thượng đã chứng kiến sự dũng cảm của tôi.  Tôi đem hai tay  dâng lên hoàng thượng… Sau đó tôi được thưởng vàng.  Tôi đã mang về hai nữ tù nhân như một chiến lợi phẩm, ngoại trừ những người mà tôi mang nộp cho hoàng thượng và tôi được phong làm ‘Chiến binh của Người cai trị’.

 Trong nước, một chương trình xây dựng đầy tham vọng bao gồm một số địa điểm Thượng Ai Cập, và nghệ thuật và khoa học đã phát triển mạnh mẽ.  Chết trước mẹ mình, Amenhotep I đã trở thành tâm điểm  thờ cúng tại Deir el-Medina, nơi ông được tôn thờ là ‘Amenhotep của Thị trấn’, ‘Amenhotep Yêu Quý của Amen’, hay ‘Amenhotep của Tiền đường’.  Khi bay lên thiên đường, Ahmose Nefertari cũng được thần thánh hóa và thờ phụng tại Deir el-Medina với tư cách là nữ thần bảo hộ của nghĩa địa Thebes.  Cuối cùng bà trở thành ‘Cô nương của Tầng Trời’ và ‘Công nương Tây phương’  và sự sùng bái bà kéo dài suốt Tân Vương quốc.

7

Bức tượng nổi tiếng nhất của Nefertari

 Tính cách mạnh mẽ của Ahmose Nefertari hoàn toàn làm lu mờ vợ cũng là em gái của con trai bà, Hoàng hậu Meritamen.  Mặc dù chúng ta biết rằng Meritamen cũng mang danh hiệu ‘Vợ Thần Amen’, nhưng chúng ta biết rất ít những điều khác về người phụ nữ này, ngoài việc cô ấy không sinh cho chồng mình một người kế vị nam còn sống.  Do đó, Amenhotep I chọn một vị tướng trung niên của mình lên kế vị để trở thành Vua Tuthmosis I. Vào đầu Vương triều thứ 18 là thời kỳ mà  nhóm ưu tú cầm quyền  hình thành một tổ chức chặt chẽ và được xác định rõ ràng, hầu như luôn được liên kết qua hôn nhân, nên người thừa kế ngai vàng mới ắt hẳn là hậu duệ của một nhánh trong  hoàng tộc. Tuy nhiên, bản thân Tuthmosis không tuyên bố về dòng máu hoàng gia của mình. Cha của ông không bao giờ được gọi tên và vẫn là một người đàn ông bí ẩn, mặc dù có vẻ an toàn khi cho rằng nếu ông ta xuất thân từ quý tộc hoặc hoàng gia thì Tuthmosis sẽ là người đầu tiên thừa nhận cha mình, vì mẹ ông là một phụ nữ không thuộc hoàng tộc có tên là Senisenb, chưa bao giờ là hoàng hậu và người luôn được đặt cho danh hiệu giản dị là ‘Mẹ vua’.  Bản thân Tuthmosis đã xác nhận nguồn gốc tương đối khiêm tốn của mẹ mình khi yêu cầu quân đội phải tuyên thệ trung thành khi ông đăng quang ‘nhân danh Bệ hạ, cuộc sống, sức khỏe và sức mạnh, được sinh ra từ Mẹ Hoàng gia Senisenb’.  Sự lựa chọn người kế vị này dường như đã được sự đồng tình của tất cả mọi người và trong khoảng thời gian đầy đủ thì Tuthmosis I đã trở thành pharaoh của Ai Cập.  Kỷ nguyên Tuthmosis đã bắt đầu.

8

Tuthmosis I

Có một số bằng chứng khảo cổ học khá yếu cho thấy rằng Amenhotep I có thể đã đóng vai đồng nhiếp chính với người kế vị dự định của mình trong thời gian đầu. Trên bức tường của nhà nguyện Amenhotep tại Karnak, Tuthmosis I được hiển thị trong trang phục như một vị vua, thực hiện các nhiệm vụ của hoàng gia và với tên của ông được viết bằng cartouche hoàng gia.  Nếu, như đã được đề xuất, cảnh này được thực hiện trong thời gian Amenhotep I còn sống, chắc chắn phải có hai vị vua trên ngai vàng cùng một lúc.  Thật không may, chúng ta không có cách nào biết bức phù điêu được thực hiện khi nào và, mặc dù chắc chắn việc Amenhotep liên kết chính thức việc cai trị của  mình với Tuthmosis là điều hoàn toàn hợp lý, nhưng chứng cứ về việc cùng trị vì vẫn chưa được chứng minh.  Xét cho cùng, cũng có thể là tòa nhà, do Amenhotep khởi công, đã được Tuthmosis hoàn thành sau khi ông chết. Thực tế là việc Tuthmosis I bắt đầu đếm số năm trị vì của mình kể từ lúc người tiền nhiệm qua đời không giúp ích nhiều trong việc xác định xem liệu hai người có cai trị chung hay không.

 Truyền thống đồng nhiếp chính, một tính năng thường xuyên của các lần trị vì của Vương triều thứ 12 và truyền thống lại tái xuất hiện vào đầu Vương triều thứ 18, dường như là một điều kỳ lạ đối với những người trong chúng ta quen nhìn thấy một vị vua được thần thánh chỉ định lên ngôi.  Việc cai trị chung chắc hẳn đã đặt ra nhiều khó khăn thực tế – làm sao đất nước có thể được cai trị bởi hai vị vua cùng một lúc?  Các nhiệm vụ của hoàng gia được thực hiện chung  hay được phân nhiệm dựa trên một số cơ sở đồng thuận?  Có phải có một vị vua “đàn em” và một vị vua “đàn anh” không?  Và triều đại chung được xác định niên đại như thế nào? 

0

 Hình 2.5 Cartouche của Vua Tuthmosis I

Thần học Ai Cập chỉ thị rằng các thuộc tính của vương quyền thần thánh được truyền từ cha sang con trai, người con trai trở thành Horus sống vào đúng thời điểm mà người cha hấp hối của anh trở thành Osiris chết, như Gardiner đã chỉ ra, ‘…không có dấu hiệu nào cho thấy người Ai Cập  đã bao giờ cảm thấy bối rối về điểm này.  Trong các vấn đề về tôn giáo, logic không đóng vai trò quan trọng nào, và sự đồng hóa hoặc nhân đôi  các vị thần chắc chắn đã thêm một sức quyến rũ thần bí vào thần học của họ.’

 Câu hỏi về cách xác định niên đại của một triều đại chung như vậy không phải là vấn đề tầm thường – người Ai Cập luôn mô tả các năm của họ liên quan đến vị pharaoh hiện tại.  Bây giờ chúng ta biết rằng trên thực tế có hai loại đồng đăng ký, mỗi loại sử dụng một hệ thống xác định niên đại khác nhau.  Ở nơi rõ ràng có một vị vua ‘đàn anh’ và một vị vua ‘đàn em’, triều đại chung được xác định niên đại dựa trên những năm tháng trị vì của người cộng sự cao cấp, với vị vua cấp dưới, chỉ tính số năm của chính ông ta kể từ lúc người tiền bối mất.  Những quan hệ đồng quản trị bất bình đẳng như vậy để lại rất ít bằng chứng và do đó, các sử gia rất khó phát hiện ra.  Các chế độ đồng nhiếp chính khác, nơi vị vua mới nhất bắt đầu tính số năm nhiếp chính của mình kể từ khi bắt đầu đồng nhiếp chính trong khi người đồng cai trị của ông tiếp tục các năm trị vì của chính mình, có thể được coi là quan hệ đối tác bình đẳng hơn.  Tuy nhiên, sự bình đẳng này đã dẫn đến một số nhầm lẫn về niên đại nhất định vì mỗi năm của một thời đồng nhiếp chính như vậy có hai niên đại vương quyền hợp lệ như nhau, và thực sự chúng tôi thỉnh thoảng tìm thấy các văn bản và di tích ‘ghi niên đại hai lần’ cho biết các năm trị vì của hai vị vua đương thời,  trong khi những ngày kỷ niệm lên ngôi của mỗi vị vua tạo ra hai ngày đánh dấu Năm Mới không nhất thiết phải đồng bộ với ngày Năm Mới thứ ba của lịch dân sự. Với những nhược điểm không đáng có này, có lẽ không có gì đáng ngạc nhiên khi việc đồng nhiếp chính hai niên đại là rất hiếm trong thời kỳ Tân Vương quốc.

 Bất chấp những vấn đề về thần học, chính trị và niên đại do việc đồng nhiếp chính đặt ra, nó vẫn là một đặc điểm của vương quyền Ai Cập.  Do đó, phải có đủ lợi thế bù đắp để làm cho một chế độ đồng nhiếp chính trở nên đáng giá.  Có lẽ ưu điểm chính là việc đồng nhiếp chính đã làm cho ý định kế vị trở nên hoàn toàn rõ ràng;  Không ai có thể tranh cãi được ý định của một vị vua đã công bố người kế vị.  Vào những thời điểm khi vị vua mới không phải là một lựa chọn hiển nhiên (ví dụ, khi không có người thừa kế hợp pháp là nam giới), việc đồng nhiếp chính dường như là một biện pháp phòng ngừa hợp lý có thể ngăn cản bất kỳ người nào khác đòi ngai vàng và đảm bảo tính liên tục của quyền cai trị trong một  vùng đất phụ thuộc rất nhiều vào sự hiện diện của một pharaoh trên ngai vàng.  Lợi ích bổ sung của việc cho phép nhà vua mới học nghệ thuật điều hành chính quyền trong khi nhà vua cũ tạm nghỉ hưu hẳn đã được cả hai quốc vương đánh giá cao.

 Vua Tuthmosis I đã kết hôn với một phụ nữ tên là Ahmose, một tên phụ nữ phổ biến ở Tân Vương quốc Ai Cập.  Có một số bất đồng về nguồn gốc của người phụ nữ này, với một số người có thẩm quyền xếp bà ấy là con gái của Amenhotep I và những người khác xếp bà ấy là con gái của Ahmose và Ahmose Nefertari và do đó là chị ruột của Amenhotep I. Dù cha mẹ là ai,  cho đến gần đây tất cả  các chuyên gia đều đồng ý rằng Ahmose phải là công chúa của dòng máu hoàng gia, và Tuthmosis phải kết hôn với cô ấy để đảm bảo vị thế quân vương của ông hơn nữa.  Việc một người không rõ ràng về mặt pháp lý đối với ngai vàng tìm cách nâng cao vị thế của mình bằng cách kết hôn với một phụ nữ thân thiết của vua tiền nhiệm là điều tương đối phổ biến, một trận đấu củng cố việc nắm quyền  của ông ta trong khi loại bỏ mọi thách thức tiềm ẩn từ con hoặc cháu của vị vua trước.  Ở Ai Cập, những trận đấu chính trị như vậy dường như đã trở thành thủ tục tiêu chuẩn;  quả thật, vị pharaoh đầu tiên của Thời kỳ Cổ xưa, Vua Narmer miền Nam chiến thắng, đã ký kết một  hôn ước tương tự khi kết hôn với Neith-Hotep, một Công chúa phương Bắc.  Do đó, chúng ta không nên quá ngạc nhiên khi thấy rằng Tuthmosis dường như tuân theo kế hoạch thận trọng này.

 Tuy nhiên, Hoàng hậu Ahmose, người mang danh hiệu ‘Em gái của Vua’ (senet nesu) không bao giờ được phong cho danh hiệu quan trọng hơn ‘Con gái của Vua’ (sat nesu).  Người Ai Cập nói chung không ngại ghi lại cấp bậc và thành tích của họ, và sự dè dặt bất thường này do đó có thể là dấu hiệu cho thấy Ahmose không phải là con gái của một vị vua, và nói rộng ra rằng bà ấy không thể là con gái hay em gái của Amenhotep I.  Thay vào đó, bà ấy thực sự có thể là em gái hoặc em gái cùng cha khác mẹ của Tuthmosis I. Nếu đúng như vậy, chúng ta có thể suy đoán rằng cuộc hôn nhân anh trai-em gái của họ phải xảy ra sau khi rõ ràng Tuthmosis được thăng chức người kế vị, vì những cuộc hôn nhân loạn luân như vậy là cực kỳ hiếm ở bên ngoài cận hoàng gia.  Điều này cho thấy rằng Hatchepsut, và đúng ra, anh chị em ruột của bà, có thể được sinh ra sau khi Tuthmosis trở thành đồng nhiếp chính, và do đó Hatchepsut có thể chỉ mới hơn mười hai tuổi khi bà kết hôn với anh trai cùng cha khác mẹ của mình để trở thành hoàng hậu. 

Vương triều thứ 18 đã trở nên đáng chú ý vì số lần nhà vua kết hôn với một phụ nữ thân thiết, thường là em gái cùng cha khác mẹ và đôi khi thậm chí là con gái của ông.  Bản thân Hatchepsut đã kết hôn với người anh cùng cha khác mẹ Tuthmosis II, sinh cho ông ta ít nhất một cô con gái mà bản thân cô này gần như chắc chắn có ý định kết hôn với người anh cùng cha khác mẹ Tuthmosis III.  Hiện tượng này cũng không chỉ giới hạn ở đầu Vương triều thứ 18.  Một thế kỷ sau thời trị vì của Hatchepsut, Vua Amenhotep III kết hôn với con gái của ông là Sitamen và nâng cô lên làm Vợ của Vua cùng với mẹ cô, Hoàng hậu Tiy.  Amenhotep III được nối ngôi bởi con trai ông Akhenaten, người đã kết hôn với ít nhất một và có thể là ba trong số sáu cô con gái của ông, và đến lượt  ông được tiếp nối bởi chàng trai-vua Tutankhamen, người đã kết hôn với em gái mình (?) Ankhesenamen, và sinh cho ông ít nhất hai con.  Rõ ràng là truyền thống hôn nhân loạn luân hoàn toàn viên mãn đã được thiết lập rất tốt trong gia đình hoàng gia, và chúng ta không được cho rằng những cuộc hôn nhân này sẽ bị các bên liên quan cho là ghê tởm hoặc thậm chí là bất thường theo bất cứ cách nào. Thật vậy, một tờ giấy cói thời kỳ Hậu nguyên hiện được đặt trong Bảo tàng Cairo kể về câu chuyện của Hoàng tử Neneferkaptah và Công chúa Ahwere, hai người đã yêu nhau và muốn kết hôn bất chấp sự phản đối của cha họ, người đã lo lắng về tình hình:

 Nếu xảy ra trường hợp tôi chỉ có hai đứa con, thì có đúng không?  Chẳng lẽ tôi không nên gả Neneferkaptah cho con gái của một vị tướng và Ahwere cho con trai của một vị tướng khác, để gia đình chúng ta có thể gia tăng? 

 Nhà vua lo lắng về cuộc hôn nhân không phải vì cô dâu và chú rể là anh chị em, mà bởi vì đây là một cuộc hôn nhân không đúng thể chế vì không giới thiệu thêm thành viên mới vào gia đình hoàng gia.  Cuối cùng, ông ta đã hài lòng, ban phước cho con trai và con gái của ông một của hồi môn, và như Ahwere thẳng thắn nói với chúng ta:

 Tôi được đưa về làm vợ tại nhà của Neneferkaptah… Anh ấy đã ngủ với tôi đêm đó và thấy tôi rất hài lòng.  Anh ấy đã ngủ với tôi lần nữa rồi lần nữa và chúng tôi yêu nhau.

 Đối với các nhà Ai Cập học làm việc trong thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, nhiều người trong số họ đã xem mối quan tâm đến Ai Cập học như một sản phẩm phụ của mối quan tâm chính là nghiên cứu Kinh thánh, thì những sự kết hợp loạn luân đáng xấu hổ này có vẻ vừa phi tự nhiên vừa đáng ghê tởm;  ‘Một phong tục rất phản cảm’ theo Sir J. Gardner Wilkinson, 28 tuổi nói thay cho nhiều người cùng thời với ông.  Những cuộc hôn nhân như vậy chỉ có thể được giải thích là một điều tất yếu không thể tránh khỏi.  Đã bị ảnh hưởng nặng nề bởi lý thuyết sai lầm về hoàng tộc Thebes mẫu hệ, các nhà Ai Cập học giờ đây đã phát triển cái gọi là ‘lý thuyết người thừa kế’;  một lý thuyết giải thích gọn gàng các cuộc hôn nhân trong gia đình bằng cách suy luận rằng quyền cai trị phải được truyền xuống dưới qua các thế hệ thông qua các phụ nữ hoàng gia.  Sinh ra là một hoàng tử hay lên ngôi vua là chưa đủ như trong chế độ quân chủ kiểu Tây phương – người cai trị thực sự của Ai Cập phải kết hôn với nữ thừa kế hoàng gia, người phải là con gái của một vị vua và người phối ngẫu của ông ta và  người mang bản chất  ‘hoàng gia’ trong huyết quản của mình.  Người nữ thừa kế sau đó lần lượt trở thành hoàng hậu, và là mẹ của cả nhà vua kế tiếp và người nữ thừa kế hoàng gia tiếp theo.

 Các nghiên cứu gần đây hơn, và có lẽ việc sẵn sàng chấp nhận thực tế của các tập thể loạn luân nhiều hơn, cho thấy rằng lý thuyết về người nữ thừa kế này hẳn là không chính xác.  Nhiều vị vua thành công nhất của Vương triều thứ 18, bao gồm Tuthmosis I, II và III, rõ ràng không phải là con trai của người phụ nữ  hoàng gia và vẫn được người dân của họ hoàn toàn chấp nhận.  Ngược lại, Tuthmosis III, Amenhotep I và Amenhotep III, và có thể cả Tuthmosis I, có những phối ngẫu không thuộc hoàng tộc được đối xử với sự tôn trọng ít nhất như những người chị em danh giá của họ.  Do đó, chúng ta phải tìm kiếm lời giải thích khác cho tình trạng phổ biến các cuộc hôn nhân hoàng gia loạn luân vào thời điểm này.

 Người Ai Cập thuộc triều đại, trái ngược với hầu hết các dân tộc khác, cổ đại và hiện đại, rất thoải mái trong thái độ của họ đối với hôn nhân.  Họ dường như không cảm thấy cần phải áp đặt bất kỳ sự kiểm soát nào của nhà nước hay tôn giáo đối với việc lựa chọn bạn đời và mặc dù ý tưởng về gia đình luôn là một điều quan trọng, nhưng ấn tượng cho rằng hôn nhân – hay chính xác hơn là sự kết hợp tình dục.  – ít được quan tâm đối với bất kỳ gia đình trực hệ nào của cặp đôi có liên quan.  Việc chung sống với nô lệ, với người nước ngoài, với anh chị em và thậm chí với những đứa trẻ tương đối nhỏ đều được cho phép về mặt pháp lý, cũng như chế độ đa thê, và nó sẽ xuất hiện mặc dù chúng ta không có ví dụ nào về chế độ đa thê.  Do đó, bất kỳ người đàn ông Ai Cập nào cũng có thể công khai kết hôn hoặc ngủ với em gái hoặc một hoặc tất cả các cô con gái chưa chồng của mình mà không phải chịu hình phạt pháp lý.  Liệu anh ta có được phép ngủ với mẹ mình hay không – thực sự là liệu anh ta có mong muốn hay không – là một câu hỏi khác.

 Mặc dù có giá trị pháp lý, các kết hợp anh chị em rất hiếm cho đến thời kỳ La Mã khi một hệ thống luật thừa kế phức tạp buộc các gia đình phải ủng hộ các cuộc hôn nhân anh chị em trong nỗ lực giữ tài sản của họ nguyên vẹn.  Thật không may, thói quen gọi vợ và người yêu của người Ai Cập là ’em gái’ đã gây ra rất nhiều nhầm lẫn trong lĩnh vực này;  Nhà thơ Vương quốc Mới thở dài, “Em gái tôi đã đến, trái tim tôi tràn ngập niềm vui khi tôi mở rộng vòng tay để bao bọc cô ấy”, y đang khao khát bạn gái của mình, người có lẽ không có quan hệ huyết thống, và có vẻ như hầu hết người Ai Cập  nam giới đơn giản là không ưa thích chị em của mình và chọn cách tìm bạn đời bên ngoài gia đình hạt nhân.  Chúng ta có thể đề xuất nhiều lý do cho điều này: phong tục địa phương, mong muốn mở rộng nhóm gia đình cơ bản, mong muốn mở rộng mối quan hệ với các gia đình khác và có lẽ sự thiếu hấp dẫn tình dục giữa những đứa trẻ được nuôi dạy cùng nhau, có thể đã kết hợp lại để tạo ra việc không kết hôn với anh chị em là lựa chọn ưu tiên

 Tuy nhiên, gia đình hoàng gia ở một vị trí hoàn toàn khác.  Họ là duy nhất, độc quyền và không có mong muốn tăng số lượng hoặc hợp nhất với các gia đình khác.  Thật vậy, họ thậm chí đã chuẩn bị để loại trừ anh em và con trai ra khỏi gia đình trực hệ để duy trì địa vị được lựa chọn của họ.  Vì vậy, hôn nhân loạn luân là một phương tiện thuận tiện để đảm bảo sự thuần khiết của dòng dõi hoàng tộc và hạn chế quy mô của hoàng tộc bằng cách tập trung ‘hoàng tộc’ trong một nhóm nhỏ các cá nhân có quan hệ họ hàng gần.  Như một lợi thế khác, hôn nhân anh – chị em đảm bảo rằng luôn có thể tìm được một người chồng phù hợp cho các công chúa cấp cao nhất, những người đã không thể kết hôn.  Dù họ lo lắng  chồng một công chúa có thể âm mưu giành lấy ngai vàng cho con cháu mình, hoặc chỉ đơn giản cảm thấy mình vượt trội hơn tất cả những người khác, hoàng gia Vương triều 18 luôn rất cẩn thận khi gả đi các cô con gái của mình.  Các công chúa Ai Cập không bao giờ kết hôn với tính cách ngoại giao và khi Vua Babylon, người có con gái riêng đã kết hôn với Amenhotep III, hỏi về một cô dâu Ai Cập cho hậu cung của chính mình, ông đã được trả lời ngắn gọn: ‘Từ ngày xưa, không có con gái của vua Ai Cập nào được gả đi nơi khác’. Ankhesenamen, góa phụ trẻ của Tutankhamen, đã phá vỡ truyền thống của Vương triều thứ 18 khi cô viết thư cho Suppiluliuma, Vua của Hittites, yêu cầu ông gửi một hoàng tử phù hợp: “Nếu ngài có thể gửi cho ta một trong những người con trai của ngài, ta sẽ lấy chàng làm chồng.’ Thật không may, chàng rể đã bị sát hại trên đường đi gặp cô dâu của mình, và mãi đến Vương triều thứ 21, một công chúa Ai Cập mới được gửi đến làm dâu cho Vua Do Thái Solomon.

 Các cuộc hôn nhân giữa anh chị em là một phương tiện hữu ích để củng cố mối liên kết giữa pharaoh và các vị thần đồng thời nhấn mạnh khoảng cách giữa hoàng tộc và phần còn lại của nhân loại.  Isis và Osiris, Geb và Nut và Seth và Nephthys đều đã trải qua hôn nhân kiểu này, mặc dù sáu người này tồn tại vào thời điểm không có đối tác kết hôn đủ điều kiện khác, điều này có lẽ do sự cần thiết hơn là do sự lựa chọn. Dù lý do là gì, những gì đủ tốt cho các vị thần cũng đủ tốt cho pharaoh.  Đối với những người tin rằng dòng máu hoàng gia của họ khiến họ khác biệt sâu sắc với những người phàm khác, một người em gái đã đưa ra lựa chọn hợp lý về người phối ngẫu, trong khi một công chúa Ai Cập chắc chắn là người mẹ tốt nhất có thể cho một vị vua tương lai của Ai Cập.


Bình luận về bài viết này