Hội Kín : Bên Trong Hội Tam Điểm, Hội Yakuza, Hội Đầu Lâu Cốt và những Tổ Chức Bí Mật tai tiếng nhất thế giới- Phần 5

 Chương 5

MAFIA VÀ COSA NOSTRA- TỘI PHẠM VÀ DOANH NHÂN

Mobsters2

John Lawrence Reynolds

Trần Quang Nghĩa dịch

Không có gì phân biệt Mafia với những hội kín khác tốt hơn là omerta, luật điều im lặng khắt khe của hội. Và không gì đánh dấu sự suy thoái trong kỷ cương và vị thế của tổ chức đó, ít nhất là ở Mỹ, rõ ràng hơn là nhìn vào hành động trái ngược nhau của hai thành viên cao cấp Louis (Lepke) Buchalter, trùm một băng nhóm nổi tiếng chuyên giết mướn,và Joseph (Big Joey) Massino nặng 400 cân, thành viên ưu tú của gia đình tội phạm Bonanno một thời hùng mạnh ở New York. Buchalter chết vào năm 1944, ngồi vững vàng trên ghế điện. Sáu mươi năm sau Massino giáng một cú như trời đánh vào tổ chức của mình theo khiến Buchalter muốn đội mồ sống dậy.

Giữa họ là con đường trượt dốc của một trong những hội kín hùng mạnh nhất thế giới từ đỉnh cao quyền lực  thống trị xuống thành một băng nhóm những tên du đãng vô tổ chức.

Omerta, như chính Mafia, không sinh ra từ guồng máy của một siêu đầu óc tội phạm mà từ một nhu cầu khẩn thiết của những gia đình trung lưu ở Sicily tìm kiếm phương cách làm chủ cuộc sống mình. Như hội tam hoàng và Hội Đền Thánh, hành tung gây khiếp đảm của Mafia và đám con cháu họ thực sự có nguồn gốc từ những chủ ý tốt lành.

Xứ sở có hình dáng nhận ra dễ dàng nhất trong bất cứ bản đồ nào của vùng Địa Trung Hải là nước Ý có hình chiếc ủng. Mũi ủng ló ra chỉ cách bờ biển Sicily có 20 cây số. Nhờ vị trí chiến lược, Sicily là mục tiêu của nhiều cuộc xâm lược, thuộc địa hóa và áp bức bởi những thế lực bên ngoài qua hàng trăm năm. Sicily cho thấy tầm quan trọng của hoạt động thương mại và thuộc địa hóa vùng Địa Trung Hải, một cảng quan trọng cho các tàu buôn và và tàu viễn chính quân sự qua lại vùng Bắc Phi, Trung Đông, châu Âu và Adriatic.

1

Sicily và Ý

Theo sau sự sụp đổ của Đế Chế La Mã, Sicily hứng chịu một loạt các cuộc xâm lăng, mỗi lần để lại một dấu vết không thể xóa mờ trên nền văn hóa. Sự lan truyền đạo Hồi mang bọn cướp bóc Ả rập đến bờ biển Sicily vào năm 826 sau Tây lịch. Người Hồi giáo cho thấy mình tương đối khoan dung với xã hội đang tồn tại, cho phép những người phi Hồi giáo thờ cúng tín ngưỡng của họ, và ảnh hưởng của họ nằm ở cội rễ hai phẩm chất Mafia còn duy trì đến tận ngày nay.

Một là vị trí của phụ nữ trong xã hội. Trước khi người Hồi đến, xã hội Sicily sinh hoạt giống như nhân dân  sống dưới ảnh hưởng Cơ đốc- Do Thái giáo, trong đó phụ nữ đóng một vai trò tương đối quan trọng trong các quyết sách của gia đình, còn luật Hồi giáo thì lại hạ thấp phụ nữ. Sau khi họ đến, những quyết định trong gia đình và trong nền văn hóa thường do đàn ông gánh vác, một thái độ ăn sâu vào xã hội Sicily hơn ở các  quốc gia theo Cơ đốc giáo khác cũng từng sống dưới ảnh hưởng Hồi giáo, và là một cội rễ vẫn còn tiếp nối đến ngày nay.

Người Ả rập cũng mang đến một ý thức công lý nội bộ. Thiếu một hệ thống cưỡng chế những hành vi phạm pháp, các tập tục Hồi giáo trông cậy vào trách nhiệm cá nhân để trả thù cho những tội ác gây ra cho y hoặc thân nhân y.  Hai phẩm chất này – quyền hành hạn chế của phụ nữ và nghĩa vụ tự thanh toán tư thù – vẫn còn gắn chặt vào xã hội Sicily rất lâu sau khi bọn xâm lược Hồi giáo ra đi.

Vào năm 1000, một làn sóng xâm lăng mang người Norman đến Sicily. Họ thay thế ảnh hưởng Hồi giáo bằng hệ thống phong kiến trong đó bộ hạ thề trung thành với lãnh chúa. Mỗi lãnh chúa phân phối công lý theo kiểu riêng của y, tạo ra một hệ thống vá víu khiến dân Sicily nổi giận và bối rối. Không thể làm chủ vận mệnh mình, và lệ thuộc vào tính ý thất thường của người ngoài, người Sicily quay vào trong, cho rằng không gì và không ai đáng tin cậy hơn gia đình máu mủ. Chỉ có gia đình mới tạo được an toàn và công lý, và không tội lỗi nào nghiêm trọng hơn là phản bội gia đình. Với quan niệm này, mầm mống của Mafia đã được gieo xuống trên mảnh đất phì nhiêu.

Trong hàng trăm năm Sicily vẫn còn là con cờ trong tay các thế lực ngoại bang. Năm 1265 Giáo Hoàng Clement iv, vì lợi ích cá nhân, tuyên bố Charles xứ Anjou, em trai của vua Pháp Louis ix, là vua mới của Sicily. Đến Sicily với một đạo quân hùng mạnh và chủ định thống trị hoàn toàn người dân Sicily, Charles nghe theo lệnh của giáo hoàng răm rắp, trở thành một trong những quân vương tàn ác và ngạo mạn nhất thời trung cổ.

Thời gian trôi qua, mối căm thù âm ĩ đối với Charles và bọn cai trị người Pháp lớn dần như một trái bom chỉ chờ thời cơ sẽ bùng nổ. Thời cơ đó đến vào ngày Phục Sinh Chủ nhật 1282, theo kiểu rất “Mafia”. Hôm đó, một thiếu nữ Sicily ở Palermo trên đường đến nhà thờ dự buổi kinh chiều thì bị một nhóm lính Pháp lẽo đẽo theo sau sàm sỡ. Bất ngờ không báo trước, một số thanh niên Sicily nổi nóng xông vào tấn công bọn lính, giết chúng ngay tại chỗ. Khi tin tức về vụ tấn công lan ra, trước tiên đến các thị trấn chung quanh và cuối cùng đến khắp đảo, những thanh niên Sicily khác liền tham gia cuộc nổi dậy, tràn vào doanh trại đồn trú và tiêu diệt hết số binh sĩ Pháp trong trại. Vụ nổi dậy bùng nổ này được biết dưới tên Buổi Cầu Kinh Chiều Sicily.

Các thủ lĩnh Sicily biết rằng sớm muộn gì Charles cũng dẫn binh sĩ quay lại tàn sát trả thù. Trong một nước đi chiến lược, họ cầu cứu với Peter iii xứ Aragon, một kẻ thù truyền kiếp của Charles và người sở hữu những vùng đất bao la ở Tây Ban Nha. Peter tất nhiên là vui lòng nghe theo, tuyên bố mình là vua xứ Sicily và ngăn không cho Charles thực hiện vụ trả thù khủng khiếp theo kế hoạch. Tuy nhiên, sau khi Peter mất, vận số của người Sicily nằm trong tay những nhà vua Tây Ban Nha, và họ chịu đựng như vậy ngót 500 năm nữa.

Người Tây Ban Nha, trái với người Hồi, xiết chặt quyền kiểm soát bằng cách áp đặt sự nghiêm cấm gắt gao trên xứ. Sicily tiếp tục bị cô lập với phần còn lại của thế giới trong vài trăm năm nữa, một thời kỳ khi tất cả các nước châu Âu khác đều bắt kịp những tiến bộ khoa học và nghệ thuật của thời Phục Hưng đang đến.. Sự phát triển về âm nhạc, hội họa, điêu khắc, triết lý, nông nghiệp y, khoa học, kiến trúc và những phép màu khác của thời kỳ này đi qua mắt những cư dân sống trong tầm mắt của chiếc ủng Ý, nơi trung tâm của những tiến bộ đang nhộn nhịp xảy ra.

Người Tây Ban Nha vẫn duy trì chế độ phong kiến do người Norman áp đặt từ lâu đã sụp đổ ở lục địa Âu châu. Người Sicily chịu đựng ách cai trị Tây Ban Nha nhiều hơn dưới ách cai trị của người Norman. Một số lãnh chúa Tây Ban Nha hùng mạnh sống ở Sicily được miễn thuế. Bù lại số khuyết, các lãnh chúa khác phải áp đặt thuế suất cao hơn đối với thuộc hạ và nông dân, càng gây thêm bất công trong cuộc sống Sicily.

Người Sicily nào dám chống lại mệnh lệnh Tây Ban Nha có nguy cơ bị hành hình bởi các lãnh chúa hoặc đại diện chính quyền Tây Ban Nha. Một cánh tay vươn dài gớm ghiếc khác phải kể đến của bọn Tây Ban Nha là Tòa án Dị Giáo khủng khiếp, góp thêm lối tra tấn ghê tởm cho những ai lỡ nói ra tín điều bất đồng hoặc thách thức quyền lực trong bất kỳ cách nào.

Chỉ ở Sicily mà nhân dân mới bị tước đoạt quá lâu khỏi những ảnh hưởng tích cực của sự Phục Hưng và quan điểm tiến bộ hơn của Giáo hội Cơ đốc. Và chỉ ở Sicily mới có việc Mafia đứng lên để đáp trả trực tiếp với những chuỗi ngày dài bị hành hạ và sỉ nhục này.

Khoảng năm 1500, một hình thái tiến bộ của châu Âu hiện đại đến được Sicily khi các tay nghề trên đảo bắt đầu thành lập các phường nghề. Ở các xứ khác, phường nghề hoạt động như một phương tiện giúp các tay nghề đào tạo thợ và thiết lập những tiêu chuẩn giống như hội tam điểm khởi đầu ở Anh. Các phường nghề Sicily bổ sung thêm một lãnh vực độc nhất trong hoạt động của mình khi họ nắm luôn vai trò xét xử, ban bố những hình phạt cho các thành viên của mình mà không nhờ đến sự can thiệp của các viên chức tư pháp địa phương, vốn không được tin cậy.

Đà phát triển của phường nghề cũng trùng hợp với đà phát triển của băng đảng. Các băng đảng nhắm vào các lãnh chúa và bọn quí tộc Tây Ban Nha, cướp bóc và sát hại họ, biện pháp duy nhất mà người Sicily có thể sử dụng để giáng trả bọn áp bức. Họ cũng phân phát lương thực đến các gia đình đang chết đói ở những ngôi làng bên kia Palermo.

Để bảo đảm chia phần công bình, mỗi gia đình cử ra một người đại diện lãnh khẩu phần lương thực. Những người đại diện này, nhiều người trong số họ là thành viên băng đảng, được gọi là capodechina, nói tắt là capos.

Như những người sống ngoài vòng pháp luật trong cánh rừng Sherwood (nơi đồng bọn của người hùng truyền thuyết Robin Hood ẩn náu, chuyên đi cướp bọn quí tộc rồi chia cho người nghèo: ND), các băng đảng Sicily cũng tạo ra những người hùng dân gian của riêng mình, ca tụng lòng can trường và kỳ tích của họ như tấm gương của lòng quả cảm mã thượng. Người hùng nổi tiếng nhất là Saponara, bị bắt vào năm 1578. Theo truyền thuyết Sicily, Saponara bị bọn Tây Ban Nha tra tấn để moi ra đồng bọn nhưng Saponara một mực thà chết không hé răng. Lòng can đảm của ông trở thành biểu tượng cho mỗi người Sicily tin rằng sự cứu rỗi của họ chỉ có thể đạt được qua lòng trung thành.

Bị đánh đuổi bởi những hành động táo tợn của các băng đảng càng ngày càng lớn mạnh và táo bạo hơn, nhiều địa chủ Tây Ban Nha bỏ vùng quê để định cư ở Palermo, thành phố lớn nhất Sicily. Vào những năm đầu thập niên 1600, hầu hết những điền trang lớn nhất đều được trông coi bởi các gabelloti, tức các quản gia được các địa chủ Tây Ban Nha chọn ra từ những người được dân chúng địa phương kinh trọng. Công việc quan trọng nhất của các gabelloti là thu thuế, được tiến hành bởi các uomo di fiducia, những người được phân công đến trực tiếp mỗi công dân và bỏ túi số tiền thuế nhận được. Người thu thuế thường được tháp tùng bởi các campieri, lính mang vũ khí và cưỡi ngựa có nhiệm vụ duy trì an ninh và pháp luật.

Đối với những ai hiểu biết về Mafia hiện đại,  gabelloti, uomo di fiducia và campieri thể hiện sơ đồ tổ chức Mafia khởi thủy. Thậm chí kỹ thuật cách quản lý đều có thể nhận ra được. Từ trên chốn cao tột mệnh lệnh thu ngân sách từ dân chúng được đưa xuống qua một loạt các ông trùm (capos). Rồi các capos lại đưa chỉ thị xuống, các nhân viên cấp thấp,  được các nhân viên có vũ trang hộ tống, đến liên hệ với các đối tượng nộp tiền. Việc các lãnh chúa Tây Ban Nha rút lui khỏi vùng quê, và việc các ông trùm được chỉ định thay thế họ, tạo ra một cơ hội cho người Sicily bắt đầu nắm quyền làm chủ vận mệnh của mình.

Sự ra đi của người Tây Ban Nha vào thế kỷ 19 tạo ra một khoảng trống quyền lực. Trong một ngàn năm, Sicily không có một bộ máy cai trị hiệu quả, và với sự rút lui của người Tây Ban Nha chỉ có một tổ chức tồn tại để thế vào vai trò đó: Mafia. Nhà dựng nước và giải phóng Ý Garibaldi đến vào năm 1860 để mang Sicily vào vương quốc Ý. Tuy nhiên  hàng trăm năm sống bí ẩn và độc lập khiến Sicily không thể loại bỏ tập quán qua đêm. Thật ra, như lịch sử đã chứng tỏ, chúng không bị loại bỏ gì hết. Mafia tiếp tục sử dụng quyền lực và ảnh hưởng của mình lên các định chế chính quyền mà Rome áp đặt cho hòn đảo, và trong một vài năm gần như mọi cơ quan nhà nước và tòa án trên Sicily đều bị các phần tử Mafia xâm nhập và kiểm soát.

Nhiều thế kỷ bị các thế lực bên ngoài thống trị đã tạo nên một vết sẹo vắt ngang gương mặt Sicily, khiến phần đông các cư dân trên đảo không còn tin cậy vào quyền hành cưỡng chế, dù quyền hành đó hợp pháp và công minh cỡ nào. Luật lệ, cưỡng chế bởi chính quyền, không thể tin cậy là mang đến công lý được. Đối với phần đông người Sicily chỉ có mối thù máu (mối thù truyền kiếp) là có hiệu quả, vì mọi tội ác đều mang tính cá nhân và việc trả thù phải được giao phó cho nạn nhân bị bức hại và gia đình y, như được qui định bởi luật điều im lặng.

Luật im lặng quyết rằng bất kỳ ai nhờ đến luật pháp để phán xử kẻ đã hại mình đều là thằng điên hoặc tên hèn nhát, và bất kỳ ai bị tổn thương hoặc xúc phạm mà chỉ ra kẻ đã ra tay đều tệ hơn là bị khinh bỉ. Phản ứng đúng luật của một người bị hại đối với người xâm hại mình, được nói lớn hoặc nói thầm, là “Nếu tao sống, tao sẽ giết mày. Nếu tao chết, mày sẽ bị quên lãng.”

Sức mạnh của Mafia xuất phát từ và duy trì bởi cấu trúc tổ chức của nó. Dù rất nguyên sơ so với các định chế khác tử tế hơn, như chính quyền và Giáo hội Thiên chúa, Mafia dù sao đi nữa cũng xoay sở triển khai được một cấu hình sử dụng kỷ cương và kiểm soát lên các thành viên. Sắp xếp từ trên xuống, tổ chức Mafia Sicily gồm những thứ bậc sau:

Capo Crimini/Capo de tutti capi (Trùm các ông trùm)

Capo Bastone (Trùm phó)

Contabile (Cố vấn tài chính)

Caporegime or Capodecima (Thủ lĩnh nhóm gồm 10 sgarristas)

Sgarrista (Lính chạy việc hàng ngày của gia đình);

Piciotto (Lính cấp thấp; bọn chấp pháp);

Giovane D’Honore (Cộng sự không phải gốc Sicily hoặc Ý)

Người Ý luôn cho rằng sự tồn tại của Mafia tạo thành một định kiến xúc phạm, cho người ta cảm tưởng rằng mọi người Ý đều là một Mafioso (thành viên Mafio). Mặc dù mọi người Ý đều biết rằng Mafia không phải là hội kín duy nhất sử dụng đến bạo lực và tội ác. Ít nhất ba tổ chức lớn khác có nguồn gốc Ý vẫn còn hoạt động lấy cảm hứng từ, nếu không muốn nói là được nâng đỡ bởi, Mafia.

Trong số này, Ndrangheta là liên hệ mật thiết nhất với Mafia, về mặt địa lý cũng như lịch sử. Hoạt động trong vùng quê hiểm trở Calabria, vùng cực nam của “chiếc ủng” Ý, Ndrangheta là kết quả của những nỗ lực bất thành của chính quyền Ỷ trong việc đập tan Mafia bằng cách trục xuất những ông trùm hùng mạnh và dữ dằn nhất cùng với gia đình họ ra khỏi Sicily vào thập niên 1860.

Đó là một nước đi điên rồ. Các gia đình chỉ đơn giản tái định cư trên nội địa trực tiếp nhìn qua Eo Messina tại đó, trong những ngôi làng Calabria hẻo lánh, họ lập ra một hội kín khác với Mafia theo hai phương diện: nó bí mật hơn, và bạo lực hơn. Một nhân viên cấp cao trong chính quyền Ý gần đây mô tả ‘Ndrangheta là tổ chức tội phạm nguy hiểm nhất và hùng mạnh nhất ở Ý vì tính cách tàn độc của nó.”

Tổ chức lấy tên từ chữ Hy Lạp andragathe, có nghĩa là một người cao quí và can đảm đáng được kính trọng. Phản ánh nguồn gốc của nó – những gia đình máu mặt bị trục xuất khỏi quê quán tổ tiên Sicily – Ndrangheta được tổ chức theo đường dây gia tộc, tạo nên sự khác biệt sâu sắc giữa nó và Mafia Sicily. Người Sicily ràng buộc bởi lời thề, còn Ndrangheta bằng máu mủ. Thêm vào đó, người Ndrangheta còn đôi khi sử dụng phụ nữ trong những vai trò tích cực, mặc dù cấu trúc của nó vẫn là trọng nam.

Không giống cấu trúc hình tháp cổ điển của Mafia, Ndrangheta được tổ chức theo đường ngang và chia thành những phân khúc gia đình xác định rõ ràng gọi là ndrina. Không có hoạt động chồng lắp giữa hai vùng làm ăn của hai gia đình kế cận; mỗi gia đình có toàn quyền kiểm soát bên trong khu vực của mình và độc quyền về mọi hoạt động ở đó. Sự phối hợp giữa cấu trúc chặt chẽ và huyết thống gia đình cung cấp cho Ndrangheta một khả năng to lớn để duy trì tính bí mật lẫn trung thành, được củng cố qua những hôn nhân được dàn xếp cẩn thận giữa các ndrina. Không có gì trong văn hóa Sicily và Calabria thiêng liêng hơn là gia đình. Và nơi đâu có mối gắn kết qua hôn nhân, một hành động điếm nhục nghiêm trọng mà một gia đình có thể gây ra là đe dọa an toàn cho gia đình liên quan. Như lời một cha xứ giải thích: “Có sức mạnh trong cấu trúc thiêng liêng và bất khả xâm phạm của gia đình, một nơi chốn an toàn nhất. Chỉ có huyết thống mới không phản bội.”

So sánh với Ndrangheta, Mafia gần như có vẻ lè phè và lơ là trong kỷ luật nội bộ. Các con trai của các thành viên Mafia có thể chọn con đường nối nghiệp cha mình trong tổ chức hoặc không; còn các con trai của thành viên Ndrangheta thì không được lựa chọn. Trở thành một thành viên của một gia đình tội phạm là

diritto di sangue (quyền lợi của huyết thống) được giao phó từ lúc sinh ra. Để chuẩn bị cho công việc trọn đời của mình, một tiến trình khởi đầu ngay từ lúc thiếu niên, các bé trai gọi là giovani d’onore, hoặc “các gã trai danh dự”. Đến tuổi chín mùi, họ trở thành picciotti d’onore, những chiến binh được kỳ vọng sẽ thực thi mệnh lệnh từ cấp trên không cần han hỏi và luôn hoàn thành. Những chiến binh tốt nhất được chọn làm cammorista, cầm đầu một nhóm các  picciottis. Khi họ bước lên đến bậc cao hơn là một  santista, họ cuối cùng có thể đòi hỏi một phần chia chiến lợi phẩm nhất định thay vì tiền thù lao nhỏ bé dành cho cấp thấp hơn.

Qua những kỳ công phi thường, và sau khi tuyên thệ tận trung trang trọng trên Kinh Thánh, một santista có thể được cất nhắc lên bậc vengelista, và có thể sau đó đến bậc quintino, nhóm năm trùm phó có đặc quyền liên hệ trực tiếp với capobastone, cấp có quyền hành cao nhất trong gia đình Ndrangheta. Các thành viên của quintino được phép thể hiện nhân thân bằng một hình xăm ngôi sao năm cánh.

Bí mật nghiêm cẩn cùng với thủ đoạn tàn độc đã từng là sức mạnh của Ndrangheta trong việc duy trì quyền lực và mở rộng ảnh hưởng của mình. Không như Mafia, không ai có thể ước lượng một cách đáng tin cậy qui mô và tầm mức toàn cầu các hoạt động tội phạm của nó, mặc dù trong năm 2004 chính quyền Ý cho rằng Ndrangheta gồm có 155 gia tộc và tổng thành viên là 6000 người.

Trong thập niên 1860, một du khách đến Naples bằng đường biển nhận xét rằng, một lúc sau khi ông trả tiền tàu cho chủ xong, một gã đàn ông tiến đến bên cạnh chủ tàu, thì thầm gì đó, rồi nhận lấy một phần món tiền tàu mà ông vừa trả cho chủ trước khi biến vào đám đông. Cũng du khách đó, bước xuống xe ngựa chở ông đến khách sạn vào ngày hôm đó, cũng quan sát thấy sự kiện tương tự – một gã đàn ông xuất hiện bên cạnh người đánh xe và xem số tiền vừa trả trước khi lấy bớt một phần của nó. Đến cửa phòng khách sạn, du khách dừng lại ngó chừng bồi phòng vừa mang hành lý cho mình và  được ông cho típ. Ông cũng thấy anh ta dừng lại để nộp một phần tiền típ cho một gã đàn ông khác, cũng vừa len lén tiến đến anh với thái độ vụng trộm như hai tên lúc trước. Tối hôm đó, khi đến xem  nhạc kịch thì dù khách đó cũng chứng kiến cảnh các gã đàn ông ăn mặc và có bộ tịch tương tự, đang cẩn thận đếm số tiền đã trao tay từ ông chủ và người bán giấy. Ngày hôm sau khi người du khách mô tả những sự kiện này cho một bạn Ý, trông chờ một lời giải thích, người bạn chỉ nhắm mắt, lắc đầu nhè nhẹ, và buột miệng, “Camorra.”

Camorra cũng là một dòng hội kín tương tự như Ndrangheta và Mafia nhưng đóng ở Naples. Nhưng không như hai nhánh tội phạm này, Camorra phát sinh không phải từ những gia đình có liên hệ huyết thống mà từ những băng nhóm tù nhân đã mãn hạn tù, mang theo kỹ năng tổ chức và trấn áp từ khám đường ra đường phố.

Camorra hoạt động ở trong thành phố Naples và vùng phụ cận như một tổ chức chuyên bảo kê cho các công dân và doanh nghiệp khỏi bị bất cứ ai phiền nhiễu trừ ra, tất nhiên, những thành viên Camorra nếu không nộp tiền họ đầy đủ. Những gia đình Mafia ở Mỹ cũng áp dụng lối làm ăn này trong thập niên 1920. Các thành viên cũng sẵn sàng giúp giải quyết những tranh chấp và giúp đỡ những gia đình nghèo hơn hoặc những nạn nhân của các vụ tai nạn và bệnh tật.

Muốn được nhận vào tổ chức người mới phải phạm một trọng tội để chứng tỏ mình có can đảm và quyết tâm. Và bất cứ ai từ chối cơ hội gia nhập nhóm có nguy cơ ký cho mình một bản án tử hình vì việc hạ thủ y có thể trở thành một bài kiểm tra cho một ứng viên can đảm hơn và ít đắn đo hơn.

Không biết có phải họ xem việc đổi phó với Camorra là vô ích hay không mà các viên chức chính quyền Naples không chỉ bao che cho nhóm mà còn sử dụng hội kín đó cho những cứu cánh của mình. Nhiều năm qua, các nhà tù được điều hành và khép vào kỷ luật bởi Camorra, và tổ chức được cho là hợp tác với cảnh sát địa phương để săn đuổi và trừng phạt những tội phạm không thuộc hội Camorra.

Cũng như bất kỳ tổ chức bí mật nào dính líu đến hoạt động xã hội đen, vận số của Camorra khi trồi khi sụt. Thỉnh thoảng, các nhà chính trị tuyên bố hội đã bị xóa sổ, hoặc không còn mạnh để có thể là một nhân tố đáng lo ngại. Theo đánh giá gần đây Camorra chỉ còn hơn 100 gia tộc với khoảng 7000 thành viên.

Qua gần trọn thế kỷ 20, nguồn thu chính của Camorra là buôn lậu thuốc lá trên khắp nước Ý và những nước lân cận, được thực hiện quá hiệu quả đến nỗi Camorra liên kết lực lượng với Mafia để xử lý việc phân phối ma túy cho châu Âu, một hoạt động đem lại lợi nhuận kết sù. Điều này dẫn đến một loạt những trận thanh toán giành địa giới bên trong Camorra khiến ước tính có 400 người bị sát hại dã man và đưa đẩy 200 thành viên Camorra đến Mỹ. Tại đó họ nhanh chóng thành lập các băng nhóm chuyên rửa tiền, tống tiền, trộm cướp, bắt cóc và làm bạc giả. Dù mở rộng phạm vi hoạt động, Camorra chỉ chủ yếu là một hoạt động có căn cứ ở Naples, thiếu sự mê hoặc bí ẩn và tính lịch sử như Mafia.

Nếu Mafia vẫn ở lại Ý, thì nó không khác gì những tổ chức tội phạm bình thường. Đến Hoa Kỳ vào thời điểm chuyển giao sang thế kỷ 20, và biến hình thành một xã hội kín thuần Mỹ, Mafia vươn lên cao trong nhận thức quần chúng và tìm được một vị trí trong văn hóa đám đông. Mọi người ở Mỹ đều biết đến danh từ “Mafia”; tuy nhiên ít người hiểu được đầy đủ cấu trúc, cách hoạt động và ảnh hưởng của nó.

Chẳng hạn, từ “Mafia” không hoàn toàn chính xác khi nói đến tổ chức ở Hoa Kỳ, vì thành viên của họ gọi tổ chức mình là Cosa Nostra, “việc này là của chúng ta.” * Và trong khi omerta và những công cụ khác bảo đảm tính bí mật khác vẫn còn giữ nguyên, chi nhánh Mỹ đã ra sức cấu trúc nó như một phản chiếu của các nguyên tắc doanh nghiệp Mỹ hơn là một sự mở rộng cửa những lời thề trung cổ huyền bí. Ở Mỹ ít nhất, những giá trị mà Wall Street cảm nhận  được mang nhiều quyền lực hơn các nghi thức 1000 năm tuổi của Sicily.

*  Các nhà báo thường viết  La Cosa Nostra, là sai về mặt văn phạm.

Sự cố đầu tiên được ghi lại về một tội ác liên quan đến Mafia xảy ra ở New Orleans vào năm 1891, khi một gia đình xã hội đen Sicily sát hại cảnh sát trưởng địa phương. Người này đã gây áp lực đòi bắt bớ và phiền nhiễu họ. Các chủ gia đình bị đưa ra xét xử về tội sát nhân, nhưng nhờ lời khai của một số nhân chứng được  đút lót lẫn răn đe, họ được xử trắng án. Trước khi được phóng thích, tuy nhiên, một đám đông căm phẫn đòi treo cổ họ, hô to những khẩu hiệu chống người Ý tràn vào nhà giam, lôi kéo đám bị can ra đường phố, rồi bắn hoặc treo cổ 16 người .

Trong khi các cội rễ của Cosa Nostra được củng cố vào cuối Thế Chiến I, hai sự kiện – một ở Ý và một ở Mỹ – đã thúc đẩy tổ chức nhanh chóng phát triển thành một lực lượng hùng hậu.

Việc Luật Cấm Rượu được ban hành vào năm 1919 tạo ra nhu cầu cao về rượu lậu giá rẻ và cơ hội  lợi nhuận cao cho bọn tội phạm, nhất là trong một tổ chức có thể sản xuất, nhập khẩu và phân phối sản phẩm dưới mũi (hoặc với sự hợp tác) của lực lượng thi hànhluật pháp. Không hoạt động nào khác hứa hẹn những lợi nhuận kết sù như thế.

Trong khi đó, tên độc tài Benito Mussolini đang vươn lên đỉnh cao quyền lực ở Ý với lời hứa hẹn sẽ xóa sạch tội phạm và bảo đảm tàu hỏa chạy đúng giờ ngoài những lời cam kết khác. Ông ta hoàn thành cả hai lời hứa. Lối cai trị phát xít tàn bạo của ông đã đe đọa đến quyền kiểm soát của Mafia, và chẳng bao lâu nhiều gia đình Mafia khăn gói vượt Đại Tây Dương di cư đến Mỹ. Tại đó họ gia nhập với những gia đình vừa phát tài với việc sản xuất và buôn bán rượu lậu.

Những thành phố phía Bắc như New York, Chicago, Cleveland và Detroit dễ dàng được nhận diện là có quan hệ mật thiết với các hoạt động của Cosa Nostra, nhưng hơn hai tá cộng đồng quê mùa như Des Moines, Iowa, và San Jose, California, cũng trở thành những trung tâm hoạt động. Luật Cấm Rượu được bãi bỏ vào năm 1933 khiến tổ chức quay sang những hoạt động bất hợp pháp khác để kiếm tiền. Một lần nữa, thời cơ đến đúng lúc cho bọn tội phạm và gây tác hại cho dân chúng. Hai năm trước khi có Luật Cấm Rượu, tiểu bang Nevada hợp pháp hóa việc đánh bạc, và tại thời điểm Thế Chiến II, người Mỹ bắt đầu làm quen với khẩu vị ma túy. Cả hai sự kiện được Cosa Nostra nhanh chóng khai thác một cách có hiệu quả. Khoảng thập niên 1950, Cosa Nostra là một nhân tố thống trị trong hầu hết mọi hoạt động tội phạm ở Hoa Kỳ, và là người vắt sữa chủ yếu của con bò Las Vegas đẻ ra tiền, thu hàng chục triệu đô-la hàng năm từ việc tổ chức đánh bạc, mãi dâm, ma túy và bảo kê.

Trong khi mỗi trung tâm thành phố Mỹ đều đặt dưới sự bảo hộ của một hay nhiều gia đình, năm gia đình ở New York và New Jersey kế cận trở nên nổi tiếng nhờ quyền lực của họ và giới truyền thông không ngớt loan tin về các hoạt động của họ. Năm gia đình này là:

BONANNO: Được thành lập bởi Joseph (Joe Bananas) Bonanno, gia đình có thời hoạt động trong ngành may mặc nhưng đã bị FBI xâm nhập sâu, như được kể trong phim Donnie Brasco. Như chúng ta sẽ thấy, ông trùm gần đây nhất của họ là Joe Massino, người đã gây cho gia đình thậm chí nhiều phiền não hơn cả Brasco.

COLOMBO: Ông trùm đầu tiên là Joe Profaci, người điều hành gia đình từ 1930 cho đến khi qua đời vào năm 1963 khi Joe Colombo nắm quyền lãnh đạo. Colombo là một ông trùm có năng lực cho đến một ngày trong năm 1971 ông bị bắn trongi một cuộc thanh toán giữa hai nhóm Ý-Mỹ. Ông sống sót, mặc dù bị hôn mê suốt 7 năm ròng rã cho đến khi tàn hơi. Một cuộc chiến mở rộng bùng phát trong gia đình, với Carmine Persico xuất hiện là người chiến thắng cho đến khi bị kêu án 139 năm tù vì tội giết người và gian lận tiền bạc.

Con trai ông, Alphonse (Allie Boy) Persico, là một trong số ít các ông trùm Cosa Nostra có trình độ cao đẳng, đạt loại ưu về thiết kế trang phục. Allie Boy thích ăn mặc sang trọng, thậm chí khi dạo chơi trên sông nước Florida Keys trong chiếc thuyền máy tốc độ dài 50 bộ của ông mang tên Looking Good. Một hôm Tàu Tuần Duyên Mỹ, ngắm nghía Persico và chiếc thuyền máy của ông, và tìm thấy một khẩu súng lục và một súng trường trên thuyền. Họ ra lệnh tháo đạn ra, khám xét thuyền, thấy mọi thứ đâu vào đó, rồi bỏ đi.

Allie Boy đã gặp may vì không ai trên tàu tuần duyên kiểm tra lý lịch tội phạm của ông. Chỉ khi đội tuần duyên trở lại cảng họ mới biết rằng Persico đã có lần bị giam vì tội lừa đảo tiền bạc và bị cấm sở hữu vũ khí, có thể bị kêu án 10 năm tù nếu vi phạm. Phần đông những người tốt nghiệp cao đẳng ắt hẳn đã ném súng xuống biển ngay khi lực lượng tuần duyên bỏ đi, nhưng Persico chắc chắn đã trốn học những giờ dạy lô-gic ở cao đẳng, nên một ít giờ sau khi đội tuần duyên ép sát thuyền ông ở cảng Key West, những vũ khí của ông còn y nguyên trên boong tàu. Thế là Persico phải bóc 10 cuốn lịch ở nhà tù. Những lỗ hổng của óc phán đoán như việc này đã khiến Allie Boy không còn có uy tín để các gia đình New York khác nhìn nhận nhóm Colombo nữa.

GAMBINO: Đây là gia đình John Gotti ô nhục, khởi nghiệp từ thập niên 1920 và đặt tên theo Carlo Gambino, điều hành gia đình từ 1956 đến 1976. Gambino, được coi là một trong những thủ lĩnh gia đình (“don”) thành công nhất trong Cosa Nostra, không khoa trương, tránh công luận, giữ liên hệ gần gũi với các thành viên trong gia đình, và xây dựng gia đình thành một nhà máy in tiền qua buôn bán ma túy và cờ bạc. Vào thập niên 1970 ông bổ sung thêm hoạt động ăn cắp xe sang và chở đến Trung Đông qua ngõ Kuwait. Người kế vị Gambino, em họ của ông là  Paul (Paulie Bự) Castellano, không chơi với các ông trùm khác kể cả John Gotti và trùm phó Salvatore (Sammy Bò) Gravano, người bày mưu ám sát Castellano vào năm 1985. Gotti chết trong tù, nơi ông chịu bản án chung thân vào năm 2001, và Gravano, chịu trách nhiệm đến 20 vụ sát hại, bước vào chương trình bảo vệ nhân chứng. Qua một loạt kế vị, con trai của Gotti, John Jr. giờ đang cầm đầu gia đình.

2

Paul (Big Paulie) Castellano tại đỉnh cao quyền lực và tai tiếng.

GENOVESE: Một gia đình New York khác khởi nghiệp từ thập niên 1920, băng Genovese lúc đầu liên kết với Charles Luciano và Frank Costello. Hơn 50 năm trước khi John Gotti cười mỉa và chạy lon ton trên các trang báo và tin tức truyền hình như một tên trộm rẻ tiền thì Frank Costello đã tạo cho mình một đẳng cấp đặc biệt.

Costello, sở hữu một đầu óc sắc sảo chính trị và một tài năng hoạch định chiến lược, được đặt cho biệt danh “Thủ tướng” trong số những ông trùm, một người thích thương thảo trót lọt và đút lót êm xuôi hơn là xài súng lớn súng nhỏ, mặc dù khi cần thiết cũng không ngại dùng đến khói lửa. Trong nhiều năm liền, các thị trưởng, thống đốc, thẩm phán và cảnh sát trưởng trên khắp miền đông bắc nước Mỹ đều mỉm cười khi nhìn thấy hoặc nhắc tới Frank Costello bởi vì cả hai dịp này đều đồng hành với một bao thư dày cộm tiền mặt. Costello là ông trùm bảnh bao, ăn mặc bộ vét hàng ngàn đô, mang giày đặt đo, làm móng hoàn hảo và để tóc kiểu chống đạn. Hình thức bề ngoài là điều quan trọng bậc nhất đối với Frank. Đối diện với tội trốn thuế, Costello được các luật sư khuyên không nên ra hầu tòa ăn mặc quá sang trọng vì như thế không có lợi trước một bồi thẩm đoàn gồm những người thuộc tầng lớp lao động. “Hãy mặc một bộ vét rẻ tiền, mang giày cũ, thắt cà vạt nhà quê,” luật sư khuyên. “Như thế bồi thẩm đoàn sẽ có cảm tình hơn.”

3

Paulie Castellano trong một cống rãnh ở New York, bị mưu sát theo lệnh của John Gotti.

4

Frank Costello chọn ăn mặc chải chuốt hơn là được trắng án.

Frank không đồng ý. “Tôi thà thua kiện còn hơn,” ông trả lời. Và ông thua thật. Trong thời gian xộ khám, Costello cố gắng điều hành gia đình sau song sắt nhưng Vito Genovese,  ó ý kiến khác. Genovese muốn thay thế Costello ở vị trí cao nhất và y sử dụng thủ đoạn kế vị phố biển nhất. Trong khi đi dạo trên một đường phố New York ngay sau khi ra tù, Costello nghe có tiếng ai đó kêu to, “Cái này cho ông, Frank!”  Nghe tên mình, Costello quay đầu, và viên đạn từ tên bắn tỉa bay phớt qua da đầu ông.

Frank có thể coi đó là lời gợi ý. Hồi phục trong bệnh viện, Costello loan tin là mình về hưu và giao quyền lãnh đạo cho Albert Anastasia. Người này, vốn thiếu may mắn như Luciano và Costello, bị ám sát chết khi đang nằm đợi cạo râu trên ghế hớt tóc. Genovese nắm quyền lãnh đạo và nhóm mang tên ông. Nhưng y có ít thời gian hưởng được tai tiếng của mình; chỉ sau vài năm y nhận bản án 15 năm tù vì gian lận tiền bạc và chết vì ung thư trong nhà tù liên bang. Ông trùm hiện thời là Dominick Cirillo, một người từ khuôn mẫu Gambino đã làm gia đình này thành nhóm gắn bó và hùng mạnh nhất ở New York.

Về phần Frank Costello, ông trải qua vài năm cuối đời kết giao với giới thượng lưu New York, mở tiệc chiêu đãi trong căn hộ của ông ở Manhattan và dinh thự ở Long Island. Danh sách khách mời của ông bao gồm một số nhân vật chính trị và xã hội tiếng tăm, trong đó có ông trùm FBI Edgar Hoover. Khi “Thủ tướng” Cosa Nostra mất khi đang ngủ vào năm 1973, di sản nổi tiếng nhất của ông là giọng nói ồm ồm mượn trực tiếp từ cách nói chuyện của Costello, lồng tiếng nói của Marlon Brando đóng vai Vito Corleone trong phim Bố Già.

LUCHESE: Gaetano (Thomas) Luchese hoạt động trong ngành may mặc của New York trong thời gian nắm quyền từ 1953 đến 1967. Gia đình đã xuống dốc trong những năm gần đây kể từ khi ba thành viên chủ chốt —Alfonse (Little Al) D’Arco, trùm phó Anthony (Gas Pipe) Casso và Peter (Fat Pete) Chiodo— quay sang làm nhân chứng cho chính quyền.

Phần nhiều hào quang và âm mưu mà người ngoài gán cho Cosa Nostra xuất phát từ omerta, điều luật im lặng danh dự mà mỗi thành viên mới phải tuyên thệ trong nghi thức nhập môn. Tính bí ẩn bị phá vỡ vào năm 1990 khi FBI thu âm nghị thức nhập môn nhận Robert (Bobby Dee) Deluca vào gia đình Patriarca ở Boston. Tụ họp trong một ngôi nhà cổ ở Massachusetts, người đứng đầu gia đình bắt đầu phát biểu lớn tiếng, theo thổ ngữ Sicily, “In onore della Famiglia, la Famiglia e abbraccio” (Vinh danh Gia đình, Gia đình mở rộng cửa).

Nhân viên FBI rình mò nghe lén Deluca lập lại lời thề do ông trùm phán ra: “Tôi, Robert Deluca, muốn gia nhập tổ chức này để bảo vệ gia đình tôi và bảo vệ bạn bè tôi. Tôi thề không tiết lộ bí mật này và tuân thủ, với tình yêu và omerta.”

Sau đó, mỗi người trong nhóm 8 người trích màu ngón tay trỏ và nhỏ máu vào một tấm thẻ thiêng có hình vị thánh bảo hộ gia đình Patriarca. Sau đó tấm thẻ được đốt cháy, và khi nó cháy Deluca  lập lại lời thề thứ hai: “Khi vị thánh này bốc cháy, linh hồn tôi cũng bốc cháy. Tôi bước vào tổ chức này khi còn sống và chỉ đến chết mới rời bỏ nó.”

Nét hấp dẫn của một hội kín, dáng dấp nam tính của các ông trùm, và tiền tài như suối của các thành viên thành đạt nhất mời gọi những phụ nữ quyến rũ đến với các chàng Cosa Nostra ngay từ cái nhìn đầu tiên. Tất nhiên, điều ngược lại cũng đúng: nhiều anh chàng Ý trai trẻ đầy tham vọng muốn gia nhập Cosa Nostra vì dễ dàng hấp dẫn các phụ nữ xinh đẹp. Bất kỳ phụ nữ nào đã dính líu với Cosa Nostra đều nhanh chóng học được bài học đã được dạy trong xã hội Sicily bởi người Hồi giáo cách đây 1000 năm đến nay còn đậm nét trong thái độ của các ông Cosa Nostra. Đối với họ, đàn bà chỉ hoàn thành một trong hai vai trò: thiên thần hay gái điếm, vợ hay tinh nhân.

Các bà vợ Cosa Nostra hưởng được những lợi ích hấp dẫn với một giá phải trả. Lợi ích bao gồm triển vọng người đàn ông của mình sẽ tiến lên cao hơn trong thứ bậc để có thêm tiền bạc tha hồ xài – một ngôi nhà mới, quần áo đắt tiền, ô tô sang trọng và du lịch hạng nhất, được bọn đàn em nể phục. Gia đình vẫn là một sức mạnh đoàn kết vững mạnh trong những thành viên Sicily, nhất là Cosa Nostra. Bạn không được gây phiền hà cho bà xã, và cũng không được xúc phạm họ. Cũng xảy ra trường hợp ngoại lệ, nhưng nếu có ông nào đánh đập hay hành động coi thường vợ minh sẽ đánh mất ít nhiều sự kính trọng.

Cái giá các bà vợ phải trả cũng đáng kể. Thói trăng hoa của các ông được xem là một biểu hiệu nam tính, và sức khỏe tình dục của bất kỳ gã nào không có một hai người tình được xem là có vấn đề. Các bà vợ được kỳ vọng phải cảm thông và chấp nhận điều này, cũng như phải duy trì một mức độ lịch sự. Bất kỳ bà nào thoá mạ có nguy cơ bị dán nhãn là một con điếm, và bà nào cắm sừng một ông chồng có thứ bậc Sgarrista trở lên là một trọng tội.

Để tránh gây rối cho bà xã, các ông chồng Cosa Nostra dành các tối thứ sáu cho bạn gái; tối thứ bảy cho bà vợ. Sự sắp xếp rất nghiêm nhặt, tránh được sự đụng độ giữa hai đối thủ. Tuy nhiên cũng như trong đời thường, không hiếm những ông chồng cao tay vẫn xoay sở sống chung với cả hai bà trong hòa bình.

Tình dục và sát nhân đụng chạm nhau trong thế giới Mafia với những hệ lụy duy nhất. Vito Genovese được cho là đã cho người sát hại một người chỉ vì ông muốn lấy vợ của nạn nhân. Vụ sát hại được các đồng nghiệp của Genovese thông cảm vì một con người đam mê biết rằng những qui luật và danh dự không thể lúc nào cũng điều khiển được khao khát của con tim. Và trong khi hoạt động tình dục khác giới  mạnh mẽ sẽ nâng cao vị thế của một thành viên Cosa Nostra, thì chỉ một mức độ hứng thú đồng tính chút ít cũng gây hậu quả chết người cho dù vị thế của y trong tổ chức, như số phận của John D’Amato đã chứng tỏ.

D’Amato đứng đầu gia đình DeCavalcante, gia đình lớn nhất ở New Jersey và nổi tiếng nhờ là chất liệu  cho loạt phim truyền hình Sopranos. Ông cũng từng là người tin cậy của John Gotti tai tiếng, một mối quan hệ ắt hẳn có thể bảo vệ được ông trong những thời điểm khác, tình huống khác. Với cô bạn gái Kelly, D’Amato bắt đầu lui tới các câu lạc bộ tại đó các cặp đổi bồ cho nhau và tham gia tình dục tập thể. Tại hơn một lần trong những dịp này, bạn gái của D’Amato chứng kiến ông thực hiện khẩu dâm với những người đàn ông khác. Thế là cô ta tiết lộ việc này với một trong những bạn thân của D’Amato. Khi người bạn báo cáo việc này lên ông trùm Vincent Palermo nặng ký, ông ra lệnh sát hại D’Amato. Động lực thì quá rõ ràng. “Không ai có thể kinh trọng chúng tôi nếu chúng tôi có một ông trùm đồng tính ngồi xuống bàn luận việc làm ăn,” sát thủ khai trước tòa.

Một ngàn năm  hoạt động bí mật và tàn nhẫn có vẻ như bảo đảm Mafia ở Ý sẽ trường tồn. Tại đó tương lai của nó hình như được bảo đảm cho dù thỉnh thoảng chính quyền tuyên bố bằng những lệnh cưỡng chế gắt gao hội kín đã tan vỡ. Tuy nhiên ở Mỹ, tương lai của Cosa Nostra thì không được chắc chắn như thế. Không giống Mafia Ý, Cosa Nostra Mỹ đương đầu với sự cạnh tranh rộng khắp từ những đối thủ thường tàn độc hơn cả họ, trong đó có những lãnh chúa ma túy Colombia, băng nhóm đường phố Việt Nam và bọn cướp Nga.

Thậm chí nguy cấp hơn đối với sự sống còn của Cosa Nostra, là sự tôn trọng luật omerta có từ lâu đời giờ đây đã bị vi phạm. Tình trạng này có thể được minh họa rõ ràng nhất giữa hai thành viên Mafia mà ta đã gặp trước đây, Louis (Lepke) Buchalter và Joseph (Big Joey) Massino.

Buchalter đi lên nấc thang quyền lực trong những ngày vinh quang của Mafia vào thập niên 1920 và 30 như một người vai u thịt bắp trong khu may mặc của New York, nơi ông trở nên nổi tiếng vì những hành xử thô bạo và dữ dằn. Bất kỳ ông chủ cơ sở hoặc chủ cửa hàng không chịu đóng tiền bảo kê không chỉ bị cảnh cáo hoặc có nguy cơ bị đánh gãy chân, mà còn có thể bị sát hại ngay tại xưởng hãng.  Cái modus operandi (Tiếng Ý: kiểu làm việc) sau mỗi lần hạ thủ là cướp phá nhà xưởng và đốt rụi tài sản, tiêu hủy chứng cứ.

5

 Johnny D’Amato quá cố. Bao nhiêu tình dục cũng được, miễn là khác giới.

6

Louis (Lepke) Buchalter. Y ngồi trong ghế điện như ngồi trên xe điện ngầm đến sở làm

Vì nhiều tai tiếng và một vài đồng nghiệp phản bội, Buchalter bị kêu án tử hình vì tội sát nhân và lên ghế điện vào ngày 4/3/1944. Dù có lời khẩn cầu xin ân xá của các luật sư, bản án tử hình vẫn được thi hành, và ông bị hành hình cũng với hai đồng bọn. Buchalter là người chết sau cùng, và trong khi hai người kia run rẩy vì khiếp sợ, bước loạng choạng vào phòng hành hình, Lepke sãy bước vào một cách đường hoàng, buông mình xuống ghế điện, và ngồi bình thản như thế đang ngồi trên xe điện đến sở làm. Năm phút sau khi bị buộc dây da truyền điện, ông được tuyên là đã chết.

Ngày hôm sau, người vợ góa của Buchalter họp báo tại một khách sạn gần nhà tù ở Ossininge, New York, nơi chồng bà vừa bị hành hình. “Chồng tôi đã phát biểu như sau trong xà lim tử thần,” bà bảo giới báo chí, “và tôi chép lại, từng lời một.” Theo Beatrice Buchalter, Lepke khăng khăng muốn lời phát biểu của mình được phổ biến rộng rãi nhất có thể, và các phóng viên viết lại từng chữ Beatrice đọc từ tờ ghi chép của bà.

“Tôi lo lắng muốn mọi người hiểu rõ rằng tôi đã không khai và đưa tin để đổi lấy một bản án khoan hồng cho án tử hình của tôi. Tôi không thỉnh cầu điều đó!” Theo lời goá phụ của ông, Lepke nhấn mạnh phải có dấu chấm than.

Buchalter, mọi người đồng ý, muốn đưa ra dấu hiệu là mình không phá vỡ luật omerta. Một số quan sát viên tin rằng ông làm điều này để tránh cho gia đình mình khỏi bị trả thù,  người khác cho rằng động lực của ông ít thực tế hơn và có tình cảm nhiều hơn. Thậm chí khi chết, điều quan trọng là người khác hiểu được ông đã hành động theo một cách danh dự đối với đồng nghiệp, nếu không muốn nói đối với nạn nhân của mình. Đây là vấn đề của niềm tự hào cá nhân mà viễn cảnh phải chịu dòng điện 5000 volt xẹt qua cơ thể trong một vài giờ tới cũng không thể làm xao nhãng điều đó.

Sáu mươi năm sau,  Big Joey Massino là ông trùm của gia đình Bonanno ở New York, người đứng đầu tại một trong số năm Mafia hùng mạnh nhất ở Manhattan. Nhưng thủ lĩnh 400 cân này chứng tỏ là một con người khác. Omerta có thể có ý nghĩa danh dự đối với Buchalter nhưng không có nghĩa gì đối với Big Joey – không lúc mà ông đang đối diện với án tù chung thân sau khi bị truy tố tội sát nhân và lừa đảo tiền bạc. Được bảo lãnh tại ngoại vào tháng 9 2004, ông trùm Mafia làm một việc không thể tưởng tượng được đối với một người có tầm vóc như ông trong tổ chức tội phạm hùng mạnh nhất thế giới: ông đồng ý giấu một micro của FBI để thu âm một đồng nghiệp thảo luận về vụ sát hại một cộng sự và vu sát hại có lên kế hoạch một công tố viên liên bang. Qua sự hợp tác của ông, hàng tá các thành viên trong gia đình ông bị lôi ra trước công lý, và Massino tránh được án chung thân tiềm năng.

Khi tin tức về hành vi phản bội của Massino được loan truyền, nó tạo ra một cú sốc đối với các thành viên Cosa Nostra dữ dội như một tàu tốc hành. Massino không phải là người đầu tiên phá vỡ luật omerta; Joe Valachi đã nhúng chàm vào năm 1963 khi y làm chứng trước Quốc hội Mỹ về sự hiện diện của Mafia, dùng từ “Cosa Nostra” trước công luận lần đầu tiên. Từ đó, có hàng tá thành viên muốn được giảm án đã hợp tác với các công tố. Tuy nhiên, trong những trường hợp trên, đó chỉ là những thành viên Mafia bậc thấp, với vốn kiến thức về hoạt động gia đình rất hạn chế, không hi vọng tiến lên bậc cao hơn để kiếm được bộn tiền hơn hoặc thù ghét ai đó cấp cao hơn mình. Sự lật lọng của một ông trùm gia đình là chưa có tiền lệ và báo trước viễn cảnh của một trận sụp đổ kỷ cương bên trong tổ chức. Làm sao một gia đình Cosa Nostra có thể gây được sự kính trọng và nhận được lòng trung thành, và áp dụng được kỷ luật cho những thành viên cấp dưới, khi mà  ông chủ của nó phản bội toàn bộ tổ chức?

Tương lai của sự bí mật bên trong chi nhánh Mỹ của Mafia/ Cosa Nostra là điều bấp bênh. Triển vọng của sự tồn tại tiếp tục của nó, và sức mạnh khống chế của nó đối với các lực lượng tội phạm từ lâu cộng tác với nó, thậm chí còn bấp bênh hơn nữa.


One thought on “Hội Kín : Bên Trong Hội Tam Điểm, Hội Yakuza, Hội Đầu Lâu Cốt và những Tổ Chức Bí Mật tai tiếng nhất thế giới- Phần 5

  1. Pingback: Hội Kín : Bên Trong Hội Tam Điểm, Hội Yakuza, Hội Đầu Lâu Cốt và những Tổ Chức Bí Mật tai tiếng nhất thế giới | Nghiên Cứu Lịch Sử

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s