HỒI ỨC CỦA LÍNH BỘ BINH
Ivan Shelepov
Chiến tranh là chiến tranh

Ivan Shelepov tại trạm quân y ngay sau một trận đánh. Tháng 11 năm 1942.
– Ivan Ignatievich, xin hãy kể một cách vắn tắt ông bắt đầu nhập ngũ khi nào và ở đâu?
– Tôi nhận giấy triệu tập vào giữa ngày làm việc. Họ gọi tôi lên văn phòng, tôi tới, rồi họ đưa tôi xem tờ giấy và bảo: “Hãy chuẩn bị đồ đạc, Shelepov, sáng mai anh tới địa chỉ ghi trên mảnh giấy này.” Đó là khoảng tháng Tám năm 1941. Tôi không nhớ rõ là ngày nào… Sau một dịp nghỉ cuối tuần thì sự việc xảy ra như thế thật đột ngột.
– Sau đó ông đi đâu?
– Ban đầu tôi tới trường huấn luyện quân sự. Trước đó tôi sống tại Kineshma, một thị trấn nhỏ gần Ivanovo. Phong cảnh thật đẹp! Tuyệt vời dòng Volga! Người ta tập hợp tất cả chúng tôi lại và đưa tới Ivanovo, tới trường quân sự.
– Đó là Học viện Lục quân phải không?
– Đúng. Đầu tiên, chúng tôi được báo là khóa học sẽ kết thúc sau ba tháng, nhưng có lẽ do bọn Đức đã chọc thủng chiến tuyến nên sau hai tuần, tất cả chúng tôi được trang bị và chở bằng xe tải tới ga xe lửa. Từ nhà ga chúng tôi tiến thẳng ra mặt trận.
– Tới khu vực nào?
– Gần Smolensk. Sư đoàn bộ binh 161 chúng tôi thuộc Quân đoàn bộ binh số 2 (Quân đoàn này gồm 2 sư đoàn bộ binh – sư đoàn 161 và sư đoàn 100. Ngày 18 tháng Chín năm 1941, cả hai sư đoàn này đã trở thành những đơn vị Cận vệ đầu tiên của Hồng quân nhờ đã chiến đấu gan dạ, dũng cảm và kiên cường – Valeriy Potapov). Vào chập tối chúng tôi được nhận lương khô và tới rạng sáng trung đoàn tôi tấn công vào vị trí bọn Đức mà không có pháo bắn yểm trợ.
– Chỉ mình trung đoàn ông tham gia thôi sao?
– Tôi không rõ – dường như là toàn bộ sư đoàn tôi. Đó là một cảm giác thật kỳ lạ – mới một giờ trước tôi còn là thường dân, vậy màø giờ đây tôi đang cầm khẩu súng trường trong tay. Tôi cũng biết chiến tranh thật đáng sợ, nhưng tôi không thể hình dung ra nỗi sợ hãi bao trùm lên người như thế. Thực ra tôi đang phí thì giờ để kể cho anh chuyện ấy – điều ấy không cách nào tả nổi. Cái cảm giác như là anh đã sống suốt cuộc đời mình mà không hề có quá khứ và tương lai vậy. Đôi lúc thậm chí tôi không thể cử động được vì quá căng thẳng, xin thề như vậy! Tất nhiên, chúng tôi đã được thông báo vào lúc mờ sáng là sẽ phải tấn công. Đại đội trưởng tới từng nơi và thông báo cho mọi người. Nhưng tất cả đã diễn ra theo một cách rất kỳ lạï. Tôi không thể nhớ lại chi tiết trận đánh đó. Tôi không rõ tại sao – có vài trận đánh ghi sâu vào ký ức như chúng mới diễn ra hôm qua, nhưng ký ức về trận đánh đầu tiên của tôi thì chỉ hiện ra lờ mờ. Tôi luôn nhớ nó một cách lộn xộn.
Tiểu đội tôi nằm đợi trong một chiến hào nông choẹt. Chúng tôi phủ lên người những cành cây để bọn Đức không phát hiện được. Tôi cứ nghĩ rằng sẽ có một tiếng hô “Tiến lên!”, chúng tôi sẽ hô “Hurra!” và tấn công. Tuy vậy mọi việc lại diễn ra rất khác. Đại đội trưởng của chúng tôi khẽ nói: “Đi nào, các bạn!” và trèo lên bờ công sự. Tôi cũng làm như vậy. Tôi đi theo anh ta như một cái máy mà không nhận thức được mình đang làm cái gì. Chúng tôi lặng lẽ đứng dậy và tiến lên phía trước. Chúng tôi thậm chí không chạy – chỉ bước tới. Không hô “Hurra!’, không gây tiếng động, không la hét. Chỉ đứng lên rồi tiến về phía trước. Trời vẫn còn tối và có một lớp sương mù giăng khắp cánh đồng. Một sự im lặng chết người bao phủ xung quanh – chỉ có tiếng vũ khí của chúng tôi kêu lách cách. Bỗng nhiên, tôi không còn nhớ rõ như thế nào, khung cảnh bỗng thay đổi, và đối phương bắt đầu bắn như điên về phía chúng tôi. Đầu tiên là bằng súng trường, kế đó là hai khẩu đại liên. Hay là ngay từ đầu bằng đại liên? Tệ thật, tôi không nhớ rõ nữa. Thế rồi tất cả chúng tôi đều khom người chạy tới, tôi chạy đằng sau một người, tôi không biết tên anh ta là gì. Trong suốt cuộc tiến công, tôi chỉ còn nhớ cái lưng có đeo balô của anh ta. Tôi không còn nhớ gì thêm.
Tôi chạy nhanh hết sức mình. Chạy đi đâu – tôi không rõ. Một tiếng hô “Tiến lên!” vang lên trong đầu tôi, nhưng tôi cho rằng không phải tiếng tôi kêu. Tôi không biết mình đã chạy bao lâu – trong một giây hay một tiếng đồng hồ, thời gian đối với tôi như dừng lại. Thình lình có cái gì đó đâm vào sườn tôi, tôi nhớ là đã bị hất tung lên rồi ngã xuống đất. Tôi bật dậy và lại ngã lần nữa, đồng thời cảm thấy đau nhói. Cái chân của tôi!!! Chân của tôi gập lại vì đau. Tôi cố quay lại xem chuyện gì xảy ra với chân mình, nhưng không thể. Tôi trườn tới trước, nhưng rồi lại nghĩ: “Chờ đã! Tại sao mình lại trườn tới? Mình cần phải quay về trạm quân y.” Suốt một lúc lâu tôi không thể nhận ra đâu là đằng trước, đâu là đằng sau. Khói đạn che phủ khắp nơi, tiếng nổ, tiếng súng, tiếng va chạm vang lên khắp nơi. Toàn chiến trường ngổn ngang những người co giật vì bị thương và một vài vật gì đó (tôi không thể xác định cụ thể là vật gì – Valeriy Potapov). Tôi cố chịu đựng và bò ngược trở lại. Tôi đã nghĩ trong tuyệt vọng rằng mình sẽ không thể quay về chiến hào của ta được nữa. Bỗng có ai đó nắm lấy chân tôi và kéo. Mắt tôi tối sầm lại vì đau. Tôi không biết được làm thế nào mình bò tới được chiến hào nữa. Chính ủy đang ở ngay đó! “Anh đang làm cái quái gì ở đây?” – anh ta nói – “Quân hèn nhát!”. Tôi trả lời rằng tôi không phải là người hèn nhát, tôi bị thương ở chân. “Vết thương đâu???“ – Anh ta hét. “Tôi không thể tự xác định được.” Một người cứu thương bổ tới, sờ vào chân tôi và cười lớn: “Anh bị trật khớp” – anh ta nói – “bây giờ tôi sẽ kéo khớp và chữa cho anh!”. Anh ta nắm lấy chân tôi – trước cả khi tôi kịp kêu “Mẹ ơi!” – và kéo mạnh! Tay chính uỷ lắc đầu – tôi chửi thề thật khủng khiếp. Bản thân tôi cũng không biết được mình đã nguyền rủa dữ dội đến mức nào.
– Ông ta có hỏi cung ông không?
– Ồ không! Anh ta cần đến tôi làm gì? Anh ta chỉ hỏi tôi thuộc đơn vị nào rồi bỏ tôi lại. Người cứu thương, sau khi biết tôi thuộc Đại đội 3, đại đội vừa được bố trí đêm hôm trước, đã mạnh dạn lên và cho biết rằng các đại đội khác đã quay trở về. “Mẹ nó, chúng ta lại trắng tay lần nữa! Bao nhiêu người bỏ mạng vô ích.” “Hãy bò về với đồng đội của mình” – anh ta nói – “và hãy cẩn thận, bởi bọn Đức sắp gửi máy bay tới đấy. Hôm nay cậu thật may mắn, hãy nhớ lấy cái ngày này! Tất cả đồng đội của cậu giờ có lẽ đã chết cả rồi.”
– Ngày hôm đó các ông có tấn công lần nữa không?
– Không. Làm gì còn ai để tấn công. Toàn đại đội chỉ còn 10-12 người cùng trung uý chỉ huy. Thượng sĩ phụ tá cũng bị giết. Tôi chỉ còn nhớ họ của anh ấy – Chumilin. Tại sao lại thế nhỉ – nhưng dù sao tôi cũng đã nhớ. Giờ đây tôi cảm thấy thương cho anh ấy! Anh ấy mới chỉ 20 tuổi đầu, nhưng tóc đã bạc và bị mất một ngón tay. Tôi không biết thêm điều gì về anh ta.
– Sau đấy ông có tiếp tục tham gia tấn công không?
– Sao không? Tất nhiên là có chứ. Hai lần nữa.
– Hai lần nữa??? Ông thật may mắn!
– (ngắt lời người phỏng vấn) Hê! Tất cả những ai sống sót sau chiến tranh đều rất may mắn! Họ đều có một số phận khác thường. Những ai có số phận bình thường đều đã chết thậm chí ngay khi chưa kịp bắn một phát súng, chưa kịp nhìn thấy bọn Đức.

Cùng đọc tờ báo của sư đoàn. Có lẽ vào khoảng Hè – Thu 1943.
– Ông chiến đấu lần kế tiếp khi nào?
– Hai ngày sau chúng tôi nhận được lính tiếp viện đến từ một nhà máy, họ thật to lớn và khỏe mạnh! Bàn tay họ tựa những chiếc kìm sắt. Lúc ấy tôi 18 tuổi, còn tất cả những công nhân ấy đang ở tuổi 40. Ngày hôm sau chúng tôi tấn công lần nữa, Thậm chí chúng tôi còn được pháo binh hỗ trợ. Chúng tôi ngồi trong một cái rãnh nhỏ, hút thuốc và lắng nghe tiếng đạn pháo quân ta rú ngang qua đầu. Tôi đã quen với điều đó, nó không còn làm tôi khiếp nhược dù tiếng rú quả là kinh khủng. Rồi chúng tôi tiếp tục nhận được lệnh “tiến lên!” và tất cả trèo lên khỏi cái rãnh. Alex Kotov, Felix – anh chàng người Armenia và tôi được lệnh phải yểm trợ cho một khẩu pháo của ta. Ở đấy chúng tôi có loại pháo 45mm và chúng tôi được lệnh phải bảo vệ một trong số các khẩu pháo ấy. Thậm chí chúng tôi còn được nhận một khẩu trung liên DP (Degtyarev) cùng hai băng đạn hình đĩa kèm theo.
– Ivan Ignatievich, Vasil Bykov nói về khẩu trung liên DP một cách khác, nói rằng đấy là một khẩu súng nặng nề và kém chính xác. . . (tiểu thuyết “Phát tên lửa thứ ba” – LTD.)
– (ngắt lời người phỏng vấn) Đúng, tôi có đọc đoạn ấy! Bykov là ai? Anh ta là lính pháo binh! Thế đấy! DP là một khẩu súng tốt. Anh ta chỉ trích súng máy của quân ta, nhưng khẩu 34 (MG-34 – Valeriy Potapov) của Đức còn nặng hơn thế! Nó nặng khoảng 12 kí, còn nếu gắn trên càng ba chân thì thậm chí không thể nhấc nổi! Súng máy của ta rất tốt, anh ta nên câm miệng lại! Sau đó bọn Đức có thêm khẩu 42 (MG-42 – Valeriy Potapov), khẩu ấy cũng khá nặng nhưng bắn nhanh hơn. Bọn Đức dù vậy vẫn dùng khẩu MG-34 cho đến hết chiến tranh.
DP là loại súng trung liên. Chúng tôi dùng chúng rất nhiều, trong mỗi trung đội đều có. Bọn Đức có nhiều súng máy như thế không? Chúng tôi thì có đủ súng máy để phòng thủ. Trong thời kỳ đầu, chúng ta đôi lúc bị thiếu đạn, vì thế nhiều người đã hy sinh một cách vô ích!
– Các ông yểm trợ cho cánh pháo binh bằng cách nào?
– Bằng cách nào à? Đầu tiên, kể nhé, nếu bọn Đức phản công, chúng tôi phải ngăn không cho chúng lại gần các khẩu pháo. Các pháo thủ cũng có vũ khí cá nhân, thậm chí cả tiểu liên. Tuy nhiên chúng tôi luôn đặt mục tiêu bảo vệ các khẩu pháo lên hàng đầu. Đại đội trưởng của chúng tôi luôn bảo : “Đừng quên các anh có mặt ở đây để làm gì!” Chúng tôi không thể giữ vững vị trí nếu thiếu những khẩu pháo ấy. Bây giờ người ta hay xem thường các khẩu pháo ấy, cho rằng chúng thiếu hiệu quả, nhưng tôi muốn nói với anh rằng: nếu chúng tôi không có những khẩu pháo ấy, chúng tôi đã không thể phòng thủ được. Để chống lại các ụ súng máy Đức, bộ binh cơ giới (Panzergrenadiers – Bair Irincheev), xe half-track (xe chở lính có vỏ thép mỏng, có bánh hơi phía trước và xích phía sau – LTD), sử dụng những cục cưng của chúng tôi là hợp nhất! Bọn Đức cũng có những loại pháo y như vậy.
– Nó có hiệu quả khi đối đầu với xe tăng địch không?
– Vâng, khá hiệu quả! Tất cả chúng tôi cùng hợp sức chống lại xe tăng. Cả pháo binh lẫn bộ binh chúng tôi cùng tiêu diệt chúng. Tuy nhiên, bọn Đức không phải lúc nào cũng có xe tăng, nhưng bộ binh cơ giới và xe half-track thì luôn có mặt. Chúng tôi đốt cháy xe tăng của chúng thật dễ dàng! Nhiệm vụ trước tiên của các xạ thủ súng máy là cắt rời bộ binh khỏi xe tăng. Đấy là nhiệm vụ khó khăn nhất, vì xe tăng luôn cố tiêu diệt các ụ súng máy trước tiên. Nếu chúng tôi cắt bộ binh khỏi xe tăng thành công, chúng tôi có thể đốt cháy tất cả xe tăng của chúng. Một chiếc xe tăng không thể thấy bất cứ gì xung quanh nó, bạn có thể tiến lại gần và đốt cháy hoặc phá đứt xích xe.
Chúng tôi có rất ít loại pháo chống tăng đó, đôi khi có pháo nhưng lại không có đạn. Đôi khi thậm chí chúng tôi đã phải dùng pháo của bọn Đức, miễn là tìm ra đạn cho chúng.
– Có thường xuyên không?
– Không, không thường xuyên. Nhưng đôi khi chúng tôi tìm cách kiếm lấy một khẩu pháo nhỏ cùng một cơ số đạn. Rồi chúng tôi mang nó đi.
– Loại cối 50mm cấp đại đội có hiệu quả không?
– Cối cấp đại đội tất nhiên là bắn yếu hơn cối cấp tiểu đoàn (cối 82 mm – Valeriy Potapov), nhưng nhẹ hơn. Nó có thể khiêng bởi hai người. Loại cối cấp tiểu đoàn phải mất ba người khiêng: một người mang ống nòng, người khác mang càng chống và người thứ ba mang mâm chống giật. Khẩu cối cấp tiểu đoàn khá nặng, đôi khi mất đến hai người để khiêng mâm súng. Anh cứ thử – mang cái của ấy đi 10 km không nghỉ, chạy lúp xúp trong bụi cây để tránh đạn vãi từ máy bay và rồi lập tức khai hỏa vào đối phương thử xem! Rồi xem trông các anh sẽ như thế nào! Còn nữa, trong trận chiến anh phải mau chóng thay đổi vị trí bắn với khẩu cối đại đội, nhưng không phải lúc nào cũng làm được thế với khẩu cối tiểu đoàn! Anh không thể bỏ nó lại hay để mất nó – anh có thể sẽ bị xử bắn. Nếu nó bị hỏng – anh phải mang về cho đại đội trưởng hay cho thượng sĩ phụ tá. Nếu không thì “bố già” (“bố già”: sĩ quan NVKD hay SMERSH – Valeriy Potapov) sẽ sờ gáy anh.
Súng cối khá hữu ích trong phòng thủ. Nếu bọn Đức bị ghìm đầu xuống trong khi tấn công, chúng tôi sẽ gõ đầu chúng bằng súng cối ngay dưới làn đạn súng máy của mình. Bọn Đức cũng dùng mánh lới y như thế! Đó là tại sao lại rất nguy hiểm khi chúi đầu xuống lúc tấn công. Sẽ không dễ để vùng dậy lần nữa! Nếu ta tấn công, ta phải luôn chạy cho tới phút chót, và không bao giờ được chúi xuống ẩn nấp. Nếu nằm xuống – ta sẽ không thể nhấc nổi mông khỏi mặt đất lần nữa. Ta cũng có thể sẽ nhận một viên đạn của đại đội trưởng. Anh ta có quyền làm thế. Đó là trách nhiệm của anh ta để bắt bạn phải tiến công, và tiểu đoàn trưởng hay trung đoàn trưởng cũng không thể trách nếu anh ta bắn ai đó vì điều này. Đại đội trưởng của chúng tôi cảnh cáo ngay từ đầu rằng nếu chúng tôi nằm xuống, anh ta sẽ bắn tất cả. Anh ta quả đã bắn một vài người. Sau đó chúng tôi không lần nào thử làm như thế nữa.
– Ông có thường phải tấn công không?
– Tất nhiên, sao lại không nhỉ? Có chứ. Nhưng tấn công có nhiều cách khác nhau! Tốt nhất là khi đợt tấn công của bọn Đức vừa bị bẻ gãy, lúc chúng bắt đầu rút lui thì “Tuốt lê!” và tiến lên! Chúng tôi phải moi bụng bọn Đức, rồi nhảy vào chiến hào của chúng. Sau đó phải ngay lập tức củng cố công sự. Anh có thể kiểm tra đồng hồ của mình: trong vòng nửa giờ đồng hồ bọn chúng sẽ hồi tỉnh và tổ chức một đợt phản công. Nếu anh không có một vị trí phòng thủ chắc chắn, chúng sẽ đánh bật anh trở lại! Anh không đưa kịp pháo yểm trợ vào vị trí, thế là tuyệt vời cho bọn bộ binh cơ giới. Nhưng nếu anh cố đưa được dù chỉ một khẩu pháo tới nơi thì chúng sẽ chẳng thể làm được gì! Bọn chúng sẽ phải đưa tới xe tăng và pháo, nhưng đào đâu ra được những thứ đó? Chỉ trên phim ảnh thời nay (ông nói với vẻ hờ hững – Valeriy Potapov) mới thấy bọn Đức với hàng đàn xe tăng trong các đợt tấn công của chúng. Trong thực tế sự việc diễn ra khác xa! Tất nhiên, bọn Đức có xe tăng, nhưng không phải ở khắp nơi! Thường thường chúng gửi tới vài chiếc xe tăng, chúng sẽ bắn từ một khoảng cách an toàn và đẩy lùi bộ binh của chúng ta, thế thôi! Chúng sẽ không làm hơn thế đâu! Chúng cũng không muốn chết, tại sao chúng lại phải phơi mình ra trước đạn pháo của chúng ta? Chúng sẽ cố bắt chúng ta để lộ vị trí đặt pháo và cố tiêu diệt pháo bằng tất cả những gì chúng có trong tay – máy bay, pháo và cối. Đấy là lý do tại sao pháo của ta phải mau chóng thay đổi vị trí. Họ vừa mới đào công sự đằng sau lưng anh, vậy mà một giờ sau đã thấy họ biến đâu mất!
Tôi đã khoác lác khi nói rằng dễ dàng đốt cháy xe tăng của chúng. Không hề! Trước khi đại đội của anh đốt cháy một chiếc xe tăng, anh sẽ phải đổ mồ hôi chán chê. Nó sẽ diệt một nửa đại đội bằng súng máy hay nghiền nát họ bằng xích sắt. Nếu bọn Đức tiêu diệt thành công khẩu pháo chống tăng của ta, chúng sẽ cho xe tăng bò dọc chiến hào và làm gỏi mọi người. Nhưng đó là về sau này, khi chúng tôi đã biết đào chiến hào.
– Thế trước đấy thì các ông làm gì?
– Năm 1941 chúng ta không đào chiến hào. Chúng tôi đào hố cá nhân hay hố cho hai người, đào theo đội hình trung đội.
Tại một công sự bê tông Đức bị phá hủy. Tháng 7 năm 1944
– Ưu nhược điểm của chúng thế nào?
– Nhược điểm là anh có thể bị chôn vùi trong đấy, nếu nó bị sập. Đó là một chuyện. Kế tới là nó hoàn toàn bị cô lập! Chiến tranh là thế; tiếng nổ ở khắp nơi, anh không thể nghe hay thấy được mệnh lệnh, sự chỉ huy và thông tin lúc đấy rất kém. Làm cách nào anh chỉ huy được lính nếu mọi người đều ở trong hố của mình? Lắp điện thoại cho mỗi hố sao??? Anh cảm thấy thế nào khi ngồi trong một cái lỗ giữa cánh đồng? Anh cũng không thể biết những người khác ra sao. Có lẽ họ đã chết hay rút lui mà anh lại là người duy nhất còn lại? Cứ như thể tất cả quân thù đang nhằm bắn vào anh vậy. Thật là một cảm giác khủng khiếp! (Hồi ký của Nguyên soái Rokossovsky cũng đề cập tới chuyện tương tự. Ông viết rằng đấy là một trong những lý do chính của sự rút lui không tổ chức và điều đấy ngăn ta điều khiển binh lính trên chiến trường – Valeriy Potapov)
Tuy nhiên, các sĩ quan của chúng tôi đã mau chóng học bài học này và dạy chúng tôi cách đào hào sâu toàn thân và sâu bán thân. Đó quả là cả một khoa học! Không phải chỗ nào ta cũng có thể đào chúng được! Ta đào ở đây và đụng phải đá, Ta đào chỗ kia và gặp nước phun lên. Đôi lúc chúng tôi phải chiến đấu với nước ngập đến đầu gối. Đó là vì chúng tôi không có thời gian để đào ở chỗ khác, hay bởi “những tính toán chiến thuật”. Chúng tôi đào hào sâu bán thân để khỏi phải đứng trong nước. Nhưng những hào ấy rất dễ sập, và sau một giờ chiến đấu quyết liệt anh không thể nói đó là một vị trí phòng thủ nữa.
Ivan Ignatievich đã từng tham gia chiến đấu quanh hồ Balaton.
– Ivan Ignatievich, ông có thể kể tỉ mỉ cho chúng tôi về trận đánh ấy, đến tận từng tiểu tiết được không?
– Tốt hơn hãy để tôi kể câu chuyện bắt nguồn từ một tin đồn truyền đi trước khi có biến cố ở Hungary. Tin đồn nói rằng họ sẽ chọn tất cả những người có từ ba vết thương trên mình trở lên (Ivan Ignatievich đã bị thương bốn lần trong chiến tranh). Họ nói rằng sắp chiến tranh với Mỹ và họ cần những người có kinh nghiệm. Số lượng vết thương trên mình là một thứ nhãn hiệu, một thứ dấu bảo đảm kinh nghiệm của chúng tôi. Tin đồn đã thành sự thật – một thiếu tá tới tiểu đoàn chúng tôi, tất cả chúng tôi tập hợp lại và ông ta chọn lấy vài người trong danh sách, trong đó có tôi. Chúng tôi được đẩy lên xe tải và rời tiểu đoàn đi huấn luyện làm thiếu uý chỉ huy. Tuy nhiên, theo như tôi nhớ, tôi chỉ ở đấy trong vòng một tháng. Đột nhiên họ tập hợp chúng tôi lại, phát cho vũ khí, đẩy lên xe tải và đưa chúng tôi đi đâu đó. Chúng tôi được đổ xuống trên một cánh đồng và nhận lệnh phải đào chiến hào. Ngoại trừ lựu đạn và súng trường, chúng tôi không được phát thêm gì cả. Toàn đại đội chỉ có hai khẩu trung liên. Chúng tôi đang ở đâu, các đơn vị láng giềng bố trí ở đâu, đâu là hậu phương, pháo yểm trợ chỗ nào – chúng tôi đều không được biết. Từ những tiếng đất rung chuyển rầm rầm và tiếng nổ gần đấy, chúng tôi nhận ra mình đang ở rất gần trận tuyến. Đại đội trưởng đảo tới đảo lui và thúc chúng tôi đào hào cật lực. Dù sao chúng tôi cũng không đào xong! Trước khi chúng tôi kịp làm bất cứ chuyện gì, bọn “Messers” (biệt danh máy bay Đức Bf-109 do lính Nga đặt – Valeriy Potapov) bay là là về phía chúng tôi, theo sau là mấy chiếc “Shtuckas” (biệt danh máy bay Đức Ju-87 do lính Nga đặt – Valeriy Potapov). Chúng không tấn công chúng tôi mà bay tới một thị trấn nhỏ ở phía tay phải chúng tôi. Tại đó chúng bị máy bay tiêm kích của ta chặn lại và một trận đánh dữ dội bắt đầu.
Những tiếng nổ đã vang tới rất gần, dường như tôi đã nghe thấy tiếng gầm gừ của động cơ – XE TĂNG!!! Tuyến phòng thủ của chúng tôi nằm phía sau một ngọn đồi lớn. Tôi liên tục nhìn lên đỉnh đồi. Tôi thấy đội cảnh vệ tiền tiêu của chúng tôi xuất hiện ở đỉnh đồi và chạy về phía chúng tôi. Họ chạy tới đại đội trưởng, giải thích gì đó với anh ta và chúng tôi nhận được lệnh: “Sẵn sàng chống lại xe tăng!” – mặc dù tất cả chúng tôi đều biết điều gì đang xảy ra – chúng tôi đều không còn là tân binh. Chúng tôi nấp dưới những dãy hào hố mới đào xong một nửa, cố gắng nguỵ trang thân mình bằng cành cây, đất cát và bằng tất cả những gì chúng tôi tìm thấy được.
Tất nhiên, chúng tôi biết mình chết chắc – chúng tôi không có pháo chống tăng, không có súng máy – thật vô vọng để chống lại xe tăng. Chúng tôi có lựu đạn, nhưng thật khó đánh gục xe tăng bằng quả lựu đạn cầm tay!
– Vấn đề nằm ở đâu?
– Vấn đề là xe tăng được làm bằng thép còn con người thì không. Chúng sẽ bắn súng máy và pháo vào anh. Chúng cũng có thể nghiền nát anh. Nói chung rất khó để hạ một chiếc xe tăng, và đặc biệt rất khó khi dùng lựu đạn cầm tay. Nếu tổ lái là tân binh thì anh còn có cơ hội, nhưng nếu có lính cựu trong xe thì gần như là không thể. Điều bất hạnh ở chỗ anh chỉ biết được điều đó khi chiếc xe tăng thình lình quay lại và nghiền nát anh. Hay khử anh bằng súng máy. Nhân tiện tôi hỏi, anh dùng từ “hạ gục” là có ý gì? Chúng ta có loại lựu đạn chống tăng, nhưng chúng vô dụng khi chống lại xe tăng hạng nặng. Không phải lựu đạn nào cũng đốt cháy được xe tăng! Phải là người được luyện tập, lạnh lùng và có kinh nghiệm. Anh không có nhiều cơ hội để tiến lại gần chiếc xe tăng, và anh còn ít cơ hội hơn nữa để chạy xa khỏi xe tăng nếu không hạ được chúng. Trong phần lớn trường hợp chúng tôi cố phá hỏng xích xe. Sau đó thì dùng đến bộc phá. Tổ lái không cần phải bỏ một chiếc xe bất động, chúng có thể ở lại và tiếp tục chiến đấu. Anh luôn phải đốt cháy xe.
Đây là bức ảnh bạn tôi, Alexander Shulgin, chụp vào mùa thu 1943. Tôi rất mong các anh công bố bức ảnh này, bức duy nhất của anh ấy mà tôi có – anh đã hy sinh khi đang chiến đấu ngày 3 tháng Tư năm 1944.
– Lúc đó thậm chí chúng tôi còn không có cả chai cháy (“Molotov Cocktails” – Valeriy Potapov) Chúng tôi chỉ có lựu đạn cầm tay, hầu hết là loại “quả dứa” (loại F1 – LTD). Vừa lúc ấy có vài người xuất hiện trên đỉnh đồi – họ chạy hết tốc lực về phía chúng tôi. Điều đó có nghĩa là tuyến phòng thủ của chúng tôi đã hoàn toàn bị bẻ gãy và đám xe tăng cùng bộ binh cơ giới (Panzergrenadier) sắp ùa về phía chúng tôi.
– Sao lại có bộ binh cơ giới?
– Bọn Đức thường làm thế – xe tăng tiến công, theo sau là bộ binh cơ giới. Đấy là lý do tại sao các đợt tấn công của chúng thật mạnh mẽ.
– Rồi điều gì xảy tiếp?
– Xe tăng Đức xuất hiện ở đỉnh đồi. Khoảng một chục chiếc cùng tiến – chúng phóng tới trước với một tốc độ rất cao và bắn súng máy vào đám bộ binh của ta đang bỏ chạy. Tôi nhớ lại cái suy nghĩ ngu ngốc – “NÓ đấy !” – đã lướt qua đầu tôi lúc đấy. Thật đáng sợ – một đợt tấn công của xe tăng! Chúng thậm chí nã pháo liên tục. Điều đó gây ấn tượng kinh khủng lên đám lính thiếu kinh nghiệm, mặc dù hầu như không thể bắn chính xác khi đang di chuyển. Nhưng gây ảnh hưởng tinh thần ghê gớm! Tôi cũng bị dao động, dù trước đó đã có kinh nghiệm về kiểu tấn công thế này. Tôi biết điều chính yếu là không được bỏ chạy, dù đôi chân chỉ chực cuốn phăng tôi đi. Chúng tôi phải để cho xe tăng tiến qua vị trí của mình rồi chặn đứng bọn bộ binh cơ giới. Thế nhưng đám xe tăng quay lại và lăn dọc tuyến phòng thủ của chúng tôi, hầu như sắp nghiền nát chúng tôi ra. Tôi trông thấy một trong những chiếc xe tăng đó nghiến trúng một quả mìn và nổ tung…
– Những quả mìn ở đâu ra?
– Kỹ sư công binh của trung đội đặt chúng để gài mìn con đường. Hai chiếc xe tăng bị hạ bởi những quả mìn đó, một chiếc bốc cháy còn chiếc kia, xích bị đứt tung, vẫn tiếp tục bắn rất lâu trước khi bị bao trùm bởi ngọn lửa. Tôi muốn nói với anh một điều – tất cả nghe thì có vẻ anh hùng, thế nhưng không có gì anh hùng trong trận đó cả. Tôi trông thấy một chiếc tăng Panther của Đức với xích xe nhuộm đỏ. Chúng đỏ lên vì dính máu, nhưng mãi sau tôi mới nhận ra điều đó. Tôi không còn nhớ mình đã nghĩ gì trong suốt trận đánh đó. Tôi chỉ còn nhớ mập mờ về nó. Họ nói rằng tôi đã hạ gục một xe tăng, nhưng tôi không chắc đấy có phải “do tôi hạ” không. Tất nhiên, các vị lãnh đạo cần những anh hùng còn sống chứ không phải những người đã chết. Đó là lý do tại sao trong bệnh viện (đây là lần bị thương cuối cùng của Ivan Ignatievich – ông bị mất một chân trong trận này – Valeriy Potapov) tôi được nhận Huân chương Vẻ vang.
Sau này tôi đã quay lại nơi đấy một lần (thị trấn Komarno thuộc Hungary – Valeriy Potapov). Năm 1985 họ đưa chúng tôi tới đó nhân dịp Ngày Chiến thắng. Tôi đã tới viếng nghĩa trang. Tất cả các bia mộ đều được khắc cùng một ngày – 19 tháng Hai, 1945. Chuyện là thế đấy.
Phỏng vấn: Valeriy Potapov
Dịch từ Nga sang Anh: Bair Irincheev
Dịch từ Anh sang Việt: Lý Thế Dân
(còn tiếp)