HỒI ỨC CỦA LÍNH BỘ BINH
Daniil Zlatkin
Tôi là người đã từng trải qua chiến tranh – cuộc Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại. Tôi tham gia chiến đấu từ mùng 3 tháng Bảy năm 1941 cho tới tận tháng Năm năm 46. Thực ra, đối với tôi, chiến tranh là một cuộc chiến liên tục để sống còn, đặc biệt trong những điều kiện cực kỳ gay go mà tôi đã trải qua, mặc dù không phải lúc nào cũng cầm súng trong tay. Dưới đây tôi xin được kể đôi lời về quãng đời đó.
Ngày 22 tháng Sáu tôi đang ở thành phố Feodosia, nơi chúng tôi tiến hành xây dựng một hệ thống đồn bót bí mật. Tôi sống trong khách sạn Astoria. Tôi thức dậy lúc 10 giờ – xung quanh không còn ai. Tôi ra ngoài và nhận ra chiến tranh đã bắt đầu. Vâng, lúc đó tôi cảm thấy thật là… Có lẽ, cũng như tất cả những công dân Xôviết khác – tôi thấy thật bực bội lo lắng, bởi bố mẹ tôi sống gần biên giới phía tây. Thêm nữa, tôi đã hiểu quá rõ chiến tranh là thế nào vì đã từng phục vụ trong quân đội như một sĩ quan công binh. Chiều hôm đó tôi đã có mặt trên một chuyến tàu đi thẳng về Maskva. Tại Maskva tôi lập tức bị động viên đi xây dựng các công trình trú bom. Và vào ngày 3 tháng Bảy, sau bài phát biểu của Đồng chí Stalin, tất cả các bạn bè tôi đều đi đăng ký vào dân quân vũ trang, nhưng tôi đang là một kỹ thuật viên chuyên nghiệp có tay nghề – tôi chỉ nhận được lệnh động viên từ dân uỷ quân khu khi có lệnh điều động đặc biệt, nên không thể cùng đi với họ. Các bạn tôi bảo: “Dan’ka, chuyện quái gì vậy?! Tất cả bọn tớ đều lên đường! Còn cậu thì sao? Cùng đi đi chứ!” Ông quản đốc cũng nói: “Danil, sao cậu lại làm vậy? Tất cả các đồng chí của cậu đang lên đường, còn cậu lại không?” Vì thế tôi cũng đi tham gia vào cái mà người ta vẫn gọi là tổ chức dân quân vũ trang. Khi phát hiện ra tôi là một hạ sĩ quan, người ta liền chỉ định tôi làm trung sĩ trong một đại đội công binh độc lập. Tôi được giao cho khoảng 300 người, hầu như tất cả bọn họ đều có trình độ học vấn khá cao, thậm chí có cả tiến sĩ khoa học, nhà thơ, nhà văn, nhà soạn nhạc – đủ thứ, nhưng chỗ chúng tôi không có ai là công nhân cả. Tôi lập tức tập hợp họ lại – rống lên: “Vào hàng!” – họ liền thấy trước mặt mình đúng là một trung sĩ thực thụ đã từng tham gia quân ngũ. Thế đó, tôi tập hợp họ lại và đưa họ tới chỗ thợ cắt tóc, và mặc cho những trò phản ứng và chống đối tất cả bọn họ đều bị húi trọc. Rồi họ được dẫn tới nhà tắm. Thế là mọi chuyện đều được đưa về đúng chỗ của nó – đám người lộn xộn kia đã thực sự trở thành một tiểu đoàn công binh, được chỉ huy bởi một trung sĩ thực thụ.
Ngày 4 hoặc 5 tháng Bảy chúng tôi rời Maskva đi theo đường Mozhaisk. Chúng tôi hành quân 30 km tới ngôi làng Tolstopaltsevo và cắm trại tại đó. Cuộc đời quân ngũ bắt đầu: huấn luyện, tập sử dụng vũ khí, nắm vững các loại đạn và chất nổ. Một lần tôi được gọi lên gặp chỉ huy công binh sư đoàn, bạn tôi Zinoviy Levin, anh ta nói: “Dania, cậu phải tới quân khu Ivanovo và đem về từ đó 6 tấn thuốc nổ. Đồng thời lấy khoảng 150-200 quả mìn cá nhân và mìn chống tăng, kèm theo 5 – 6 xe nhà bếp.” Tôi bảo: “Trong tay tớ sẽ có những gì?” Anh ta nói: “Cậu lấy theo một trung đội lính và một xe GAZ AA. Chúng tôi ngồi lên xe và tôi hỏi: “Lấy gì để tôi đem tất cả những thứ đó về đây bây giờ?!” Họ bảo tôi: “Cậu là kỹ sư công binh gì mà không tìm được cách chuyển hàng về?!”
Tôi không còn nhớ mình đã làm cách nào để tới được Podolsk, bởi đường tới Ivanovo là con đường hoàn toàn khác, nhưng vì lý do nào đó chúng tôi đi theo một ngả khác và xuất hiện ở Podolsk. Trong khi ngồi trên xe đi ngang Podolsk, tôi thấy cái bảng chỉ đường có ghi chữ “Xưởng ôtô”, và một sáng kiến thoáng hiện ra trong đầu. Tôi bước vào phòng làm việc của viên quản đốc xưởng, đặït khẩu súng lục của mình lên bàn (tôi không có bao súng, khẩu súng lục được giắt vào thắt lưng) và nói: “Hãy nghe đây: các anh ngồi ở đây, tại hậu phương, ăn uống đầy mồm, trong khi chúng tôi đang phải chiến đấu!” – mặc dù chúng tôi chưa từng tham gia chiến đấu, tôi chỉ giả vờ rằng mình là một tay lính đã có kinh nghiệm. Hắn bảo: “Các anh cần gì?” Tôi nói: “Chúng tôi cần ít nhất 12 xe tải để đi vận chuyển chất nổ.” Hắn đáp: “Tôi biết làm cách nào để kiếm ra chúng bây giờ?! Tôi cần có giấy phép!” Tôi ra lệnh: “Không để một xe nào ra khỏi đây, nhưng cứ để cho xe đi vào!” Tôi khóa trái hắn ở trong phòng, đặt một người đứng gác, đi ra ngoài, tập hợp tất cả những lái xe lại và bảo: “Các cậu, tớ có ở đây hai balô xúc xích hun khói, nửa balô đường và đồ hộp. Nhưng tớ không có vodka. Chúng ta cần phải lái tới quân khu Ivanovo và nhận chất nổ cùng các thiết bị khác dùng cho mặt trận. Ai sẽ đi cùng nào?” Mọi người đồng thanh: “Chúng tôi sẽ đi!” Bằng cách đó tôi có được 15 xe tải. Viên quản đốc hét với theo bên cửa sổ: “Quân vô lại! Mày sẽ bị ra toà!” Tôi bỏ đi cùng đoàn xe tải, đi xuyên khắp Matskva và tới được quân khu Ivanovo. Tại đó chúng tôi chất hàng và quay về đơn vị của mình vào sáng hôm sau. Cần kể thêm là trong khi chất hàng tôi cũng tiện tay xách luôn hai thùng đèn pin mà không ghi sổ. Khi trở về đại đội mình, tôi báo cáo mọi việc xảy ra lên đại đội trưởng. Anh ta bảo:
“Cậu biết không? Đừng trả những thùng đèn pin đó về kho dự trữ công binh, hãy đưa nó cho chúng tớ.”
“Thưa đồng chí đại đội trưởng, tôi không có quyền làm chuyện đó.” – tôi nói.
“Tôi ra lệnh cho anh đó!” – anh ta bắt đầu cất cao giọng.
“Tôi không tuân lệnh.”
“Hãy lặp lại mệnh lệnh: để lại một thùng đèn pin!”
“Tôi sẽ không lặp lại mệnh lệnh đó!”
“Tôi sẽ đem anh đi xử bắn ngay lập tức!”
“Thử làm đi!”
Hắn ta rút khẩu Parabellum ra, tôi trông thấy bọt trắng sùi ra trên môi hắn, hắn dậm mạnh chân lên sàn nhà và hét:
“Lặp lại mệnh lệnh!”
Tôi mở nút áo quân phục của mình, xé phanh ngực áo, thét lên:
“Tới đây bắn tôi đi! Nhưng tôi sẽ không theo lệnh đó dâu!”
Hắn ném khẩu súng và mũ của mình xuống sàn nhà và dẫm chân lên trên, nhưng tôi đã quay đi và bỏ ra ngoài. Câu chuyện kết thúc tại đây, nhưng tôi bị cách chức và thôi không được làm trung sĩ của đại đội nữa. Tôi bị đưa vào một trung đội ở cùng người bạn thân Vasia Karpenko.
Sau đó chúng tôi bị chuyển tới khu làng Pupovo thuộc quân khu Smolensk. Tại đây tôi tham gia cuộc bắt giữ ba tên phi công, máy bay của chúng bị súng phòng không của ta bắn hạ. Chúng bị bắt và giải tới Sở chỉ huy sư đoàn. Chúng bước vào đó với dáng điệu rất vênh váo – vung tay lên đằng trước, miệng hét: “Heil Hitler!” Điều đó gây một ấn tượng to lớn đối với tôi: làm sao một tên tù binh lại có thể hành xử như vậy?
Ngày hôm sau một chiến binh cứng cựa thực thụ có trên vai ba vạch (trung tá – Artem Drabkin) tới, tập hợp toàn đại đội lại và thông báo: “Bất cứ ai có trình độ văn hóa cấp hai hoặc cao hơn, bước lên trước hai bước!” Tôi làm theo.
“Các đồng chí, các anh sẽ tới một trường huấn luyện để nhận được những cấp bậc phù hợp với trình độ chuyên môn của bản thân. Anh kia, làm nghề gì?”
“Tôi là một kỹ sư xây dựng” – tôi nói.
“Vậy anh sẽ là một kỹ sư công binh bậc ba.”
Thật tuyệt. Họ dồn chúng tôi lên xe tải và chở tới làng Korni gần Viazma. Tại đấy 36 người chúng tôi được phân vào trung đội súng máy số 1, đại đội một, tiểu đoàn một. Tôi nói: “Tại sao lại là xạ thủ súng máy?! Các anh làm cái gì vậy?! Tôi tới đây đề trở thành một kỹ sư công binh kia mà?!” “Im lặng! Không trao đổi!” Tời buổi chiều tôi ngồi viết một báo cáo, trong ghi rằng tôi đã bị lừa dối. Họ viết trả lại trên tờ báo cáo đấy: “Đồng chí Zlatkin, tổ quốc đang cần những xạ thủ súng máy.”
Công việc huấn luyện bắt đầu – suốt từ 6 giờ sáng cho tới tận chiều tối khẩu súng trường không rời khỏi vai tôi, chúng tôi tập đi đều bước, ca hát, mở lách cách cái khóa nòng rỗng không – đó là cách để người ta dạy chúng tôi trở thành xạ thủ súng máy. Còn về thức ăn – trà uống với đường vào buổi sáng, cùng một lát bánh mì; vào giữa ngày, cho bữa trưa là một ít cháo lúa mạch loãng hầu như không có gì ở trong, thậm chí không được đến một củ khoai nhỏ, và kasha (cháo ngũ cốc), còn cho bữa tối – lại đường và một lát bánh mì. Sau 10 ngày chúng tôi đã bạc nhược đến mức phải chật vật mới lê đi được. Tôi liên tục hỏi: “Khi nào thì chúng ta sẽ học sử dụng súng máy? Những khẩu súng máy đó đâu rồi?” Họ trả lời: “Im lặng! Không phải chuyện của anh! Không được tranh cãi! Chúng tôi sẽ làm những gì cấp trên yêu cầu!” Vâng, điều đó đã thực sự làm tôi kinh ngạc…
Một buổi chiều tôi ra khỏi hầm trú ẩn để đi ngoài và thấy các bạn mình đang ăn khoai tây. Lạy Chúa tôi – khoai tây! Tôi hỏi:” Các cậu lấy chúng ở đâu vậy?” “À, ở chỗ anh nuôi đấy. Trong nhà bếp.” Tôi chạy tới tay đầu bếp đó: “Làm thế nào để tôi có được khoai tây của anh?” Anh ta nói: “Khoai tây… thứ đó phải kiếm mới có được.” Tôi trả lời: “Tôi muốn kiếm lấy chúng! Tôi đang đói lắm!” “Cậu biết không” – anh ta bảo – “ngày mai hãy quay lại đây, sau khi trời tối – đem theo củi khô, cưa, cắt chúng, sao cho tới 5 giờ sáng, khi tôi tới đây, nước đã được đun sôi. Hiểu chưa?” “Hiểu.” Tôi đã lao động suốt cả đêm hôm đó, chuyển củi từ bờ sông lên, cưa chúng ra bằng chiếc cưa tay, bổ chúng bằng cái rìu luôn chỉ chực văng ra khỏi cán, và tới 5 giờ sáng tôi đã đun sôi nước và chuẩn bị đủ thứ để đốt lò. Anh ta quan sát mọi việc, miệng bảo: “Tốt lắm! Cậu làm một mình, vậy mà hãy xem cậu đã làm được gì kìa! Tôi thuê cả hai ba người cũng chưa chắc làm được như thế. Cậu quả là một gã trẻ trai khỏe mạnh, tôi mang cho cậu khoai tây đây. Lấy đi.” Tôi nói: “Tôi có thể lấy được bao nhiêu?” “Cứ lấy bao nhiêu tuỳ theo sức của cậu.” Tôi có đem chiếc áo bekesh vạt ngắn của kỵ binh (bekesh: một loại áo khoác – Oleg Sheremet) theo trên người. Tôi nhồi đầy khoai tây vào cả hai bên túi áo – nhưng như thế dường như vẫn chưa đủ với tôi. Tôi rút ra một con dao Phần Lan, xẻ một đường quanh áo và nhồi khoai tây khắp thân mình. Rồi tôi cứ thế mà đi, trong lòng lâng lâng hạnh phúc, bụng nghĩ: “Bây giờ mình sẽ đem một ít đi rán, hoặc nướng chúng trên than hồng.” Đột nhiên một sĩ quan tay áo đeo ba gạch xuất hiện. Hắn thấy tôi và bảo:
“Đồng chí học viên, lại đây!”
Tôi lại gần. Hắn nắm lấy áo bekesh của tôi và nói:
“Cái gì trong này?”
“Khoai tây.”
“Ăn cắp?”
“Không, không phải ăn cắp – kiếm được đấy.”
“Mày nói dối, đồ lợn, mày ăn cắp nó! Không ai có thể kiếm được nó, chúng ta không phải là một đơn vị để mày kiếm chác! Chắc chắn mày đã ăn cắp nó!”
Chúng tôi bước vào phòng ăn tập thể, nơi binh lính lúc đó đang ngồi ăn sáng. Mọi người đang uống thứ “trà” đó – chỉ là nước sôi với đường và một lát bánh mì. Hắn tuyên bố với họ:
“Các đồng chí binh sĩ, bọn Đức chỉ được có 200 gram bánh mì một ngày mà đi chiến đấu! Và hãy xem chúng chiến đấu như thế nào! Các anh được tới 500 gram, nhưng vẫn có những tên trộm cướp trong bọn các anh, chúng trộm cướp của các anh và ăn thức ăn của các anh. Đây, hãy nhìn xem!”
Hắn bắt đầu lôi khoai tây từ túi tôi ra và nện chúng lên mặt bàn. Lôi ra một củ – nện xuống, lại củ khác – nện xuống, miệng lặp đi lặp lại:
“Các anh có thấy thằng ăn cướp này không! Khoai của các anh đây! Đáng ra chúng phải ở trên bàn của các anh!”
Vâng, tất nhiên là đám lính bắt đầu xì xầm khi núi khoai tây dần xuất hiện. Hắn hét lên với tôi:
“Leo lên bàn!” Tôi leo lên trên cái bàn.
“Lột ngôi sao ra khỏi mũ!” Tôi cởi nó ra.
“Cởi thắt lưng ra” Tôi tháo nó ra.
“Cởi xà cạp ra.” Tôi cởi chúng ra.
“Nhân danh Cộng hòa Xôviết Liên bang Nga, tôi tuyên bố tên trộm cướp này phạm tội xử bắn!”
Hắn rút súng ra và chĩa vào tôi. Từ lúc này tôi như bị mù. Tôi không còn trông thấy và nghe thấy gì nữa, tôi chỉ còn biết đứng như trời trồng trên đôi chân mình. Tôi nghĩ: “Thế đấy, bây giờ sẽ có một phát súng.” Tôi đã chuẩn bị đón nhận tất cả. Một quãng thời gian chờ đợi nặng nề trôi qua, tôi không biết nó kéo dài trong bao lâu. Tôi không nghe thấy tiếng súng, nhưng vẫn đứng lặng đi như vậy. Có ai đó kéo tay tôi – một lần, rồi lần thứ hai. Tôi mở mắt ra và trông thấy lữ đoàn trưởng, người mà tôi đã gửi báo cáo lên. Ông nhỏ nhẹ nói với tôi: “Xuống đi”, và tôi ngã xuống, bất tỉnh. Vị đại tá ân cần bế tôi xuống, gắn lại ngôi sao cho tôi, đeo lại thắt lưng và bảo”Tự quấn lấy xà cạp nhé”. Tôi cúi xuống, quấn đôi xà cạp. Ông lại nói: “Hãy cầm lấy chỗ khoai kia”. Tôi cầm lấy khoai tây, ông liền vòng tay quanh vai tôi, và chúng tôi đi ra. Xung quanh hoàn toàn yên lặng: tất cả binh lính đứng nhìn chúng tôi, còn chúng tôi đi ra, mọi ánh mắt đều dõi theo. Ông khẽ hỏi tôi: “Cậu lấy khoai tây ở đâu vậy?” Tôi liền khóc rống lên. Thần kinh tôi đã chịu đựng tới giới hạn tột cùng, tôi khóc và kể cho ông chỗ mình đã kiếm khoai tây. Ông hôn lên trán tôi và bảo: “Con trai ạ, tai nạn đã qua rồi. Thôi, hãy ăn khoai của con đi.”
Ba ngày sau người ta dồn chúng tôi lên một toa chở hàng và đưa chúng tôi tới một nơi nào đó. Có khoảng 60 tới 80 người chất trên một toa tàu – không còn chỗ nào mà xoay trở được! Không một ai biết nơi họ sẽ chở chúng tôi tới. Cuối cùng chúng tôi cũng được ra khỏi tàu. Đã có thể nghe thấy tiếng nổ và tiếng súng vang lên cách đó khoảng một cây số. Một người lính bị thương lê tới. Chúng tôi cất tiếng hỏi:
“Bác ơi, ai đang ở kia vậy?”
“À, người ta bảo bọn Đức đã nhảy dù xuống chỗ đấy.”
“Thế chỗ chúng ta ở đây là đâu?”
“Có con sông Plotva ở quanh đây. Cách không xa chỗ này là Borodino. Còn kia là làng Myshkino.”
Tuyệt. Tôi nhớ rồi – Myshkino.
Tới buổi chiều họ tập hợp chúng tôi vào một nhà tắm. Có khoảng 20 người ở trong đó. Một trung sĩ đứng nói: “Các đồng chí, đây, trước mặt ta là một khẩu đại liên kiểu mới nhất. Nó cần 4 người để điều khiển: một người mang nòng súng, một người khác mang đôi bánh xe này, hai người còn lại mang theo đạn. Hiểu chưa? Anh! (chỉ vào tôi), anh sẽ là xạ thủ Số Một! Hiểu chưa? Đây, vác lấy cái nòng.” Tôi cầm lấy nòng súng. “Còn anh,” – anh ta nói với một người khác trong trung đội tôi – “anh là xạ thủ Số Hai.” Và đưa cho anh ta chiếc bánh xe. Anh ta chỉ định hai người nữa để mang đạn – họ cầm lấy các thùng đạn. “Để bắn các anh cần ấn vào đây, đẩy tới, kéo ở đây, lắp nó vào, và bắn – hiểu chưa?!” Mọi người đều đồng thanh: “Hiểu!!” Và không một ai trong chúng tôi hiểu chút gì. Thế là với lượng kiến thức như thế về súng máy chúng tôi tiến về hướng mặt trận, và lập tức bước vào chiến đấu. Đấy là lần đầu tiên tôi được nghe tiếng đạn réo. Tôi không phải là người hèn nhát, trái lại, tôi rất táo bạo liều lĩnh, nhưng khi đấy tôi đã cảm thấy cái chết – tôi cúi xuống tránh, chân và tay tôi run lẩy bẩy, không đứng dậy nổi, cảm thấy như mọi viên đạn đều bắn về mình, và không hiểu tại sao mình vẫn chưa bị bắn trúng?! Tôi nhìn quanh – Số Hai của tôi đã biến mất, cả người tiếp đạn cũng không thấy đâu, chỉ còn độc mình tôi với cái nòng súng. Nhưng tôi còn đeo thêm khẩu súng trường mười phát SVT, một cái balô, một chiếc mặt nạ phòng độc, một chiếc rìu, và chỉ có quỉ mới biết còn cái gì đeo thêm trên mình tôi nữa. Tổng cộng, tất cả trang bị của tôi lên tới 32 kg! Tôi nằm xuống. Ngay lúc đó một đại uý hô lớn: “Đồ cặn bã, tiến lên, vì Tổ quốc! Vì Stalin!” Và chọc khẩu súng lục vào gáy tôi. Tôi cũng hét: “Tiến lên!” Nhưng sau tôi làm gì còn ai?! Chẳng có ai cả… chỉ tôi và anh ta – hai chúng tôi. Chúng tôi chạy. Tất cả mọi người còn lại đâu rồi?… Tôi nhìn quanh. Họ đang nằm rải rác khắp nơi. Người ta đã đưa chúng tôi tới một quãng trống, trong khi bọn Đức đang nấp sau một ngôi làng. Đó không phải là một trận đánh, đó đơn giản chỉ là một cuộc tàn sát: chúng tôi thì nằm trên mặt đất trống trải, không tài nào trông thấy kẻ thù, nhưng kẻ thù thấy rõ chúng tôi và không để một ai ngóc đầu dậy. Trong khi đó máy bay của chúng bay trên đầu, bắn hạ những ai đang di chuyển, khẩu súng máy trên máy bay bắn một tràng sượt qua người tôi. Tôi ngã xuống đất một lần nữa, rồi tôi giơ tay lên hét với ai đó, tôi cũng không biết là đã hét với ai nữa: “Tiến lên! Vì Tổ quốc! Vì Stalin!” Ngay lúc đó tôi bị trúng đạn vào tay phải. Tôi không biết vết thương có nặng không, nhưng có thể vì sợ hay do quá bất ngờ nên tôi lăn ra bất tỉnh. Và đó là lần thử lửa đầu tiên của tôi.
Tôi tỉnh dậy vào ban đêm. Trời rất lạnh – trận đánh xảy ra vào 15 tháng Mười năm 1941. Toàn thân tôi bị tê cóng. Tôi đứng dậy, nhưng đôi chân không còn ủng nữa – có ai đó đã lấy mất ủng của tôi và tôi chỉ còn có vải bọc chân. Tôi quan sát – có hai ngón tay bị gẫy, máu vón cục trên đó. Tôi xé áo lót, cố gắng tìm được cách băng bó vết thương. Không một ai trong chúng tôi có được hộp sơ cứu cá nhân. Dù vậy, vẫn có một loại dung dịch chùi rửa đựng trong mặt nạ phòng độc, nhưng chúng tôi đã uống hết tất cả trước khi đến được mặt trận, bởi trong thành phần chất lỏng này có rượu cồn. Chúng tôi đổ dung dịch này qua bột than hoặc than đá và sau đó có được loại cồn trắng tuyệt hảo. Khi tỉnh dậy, tôi liền cảm thấy đói, nhưng không còn gì để ăn – trong hai ngày người ta chỉ phát cho chúng tôi có hai cái bánh bít cốt và hai con cá muối…
Khi đứng lên, tôi lập tức tìm đường về phía quân ta. Tôi trông thấy nhiều xác lính chết nằm rải rác khắp nơi. Tôi tìm được một biđông trong chứa nước đã đóng băng trên một cái xác, một chiếc bánh bít cốt trên cái xác khác, rồi lột lấy đôi ủng của một người nữa. Đã định lấy tiếp chiếc áo khoác của ai đó, nhưng rồi tôi thấy có một người đang cử động. Anh ta nói:
“Bạn ơi, giúp tôi với.”
“Anh là ai?” – tôi hỏi.
“Tôi là Pet’ka.”
“Anh bị sao vậy?”
“Tôi bị thương vào đầu gối. Giúp tôi với, bạn ơi.”
Anh ta lớn tuổi hơn tôi và có lẽ nhiều kinh nghiệm hơn, như sau này tôi nhận thấy. Anh ta nói:
“Anh biết không, bọn Đức đã đi ngang qua, chúng lấy ủng của những người chết, lột cả ủng của anh. Tôi đã thấy tất cả.”
“Cái gì, thế có phải là chúng ta đang bị bao vây không?!”
“Không chỉ bị bao vây, hiện chúng ta đang ở vùng bị bọn Đức chiếm đóng rồi.”
“Petia, Chúng ta phải tìm cách trốn thoát thôi!”
“Cậu hãy đưa tôi tới đống cỏ khô kia đi.”
Anh ta rất nặng, nhưng tôi đã kéo được anh ta khoảng 150 mét tới tận đống cỏ khô đó, và chúng tôi khoét một cái lỗ rồi trườn vào trong. Nước trong bình đã tan ra, chúng tôi uống nó, ăn hết cái bánh, và anh ta nói: “Có một cái làng ở phía đối diện với chúng ta. Hãy vượt qua sông, rồi đi tới ngôi nhà đầu tiên và hỏi xin ai đó một bữa chén thử xem.” Nhưng tôi không biết bơi. Bèn tìm lấy hai khúc gỗ, buộc lại bằng cành cây, rồi vượt qua sông bằng cái bè đó. Tới gõ cửa một ngôi nhà. Một ông già ra mở cửa, vừa trông thấy tôi ông liền la lên: “Con trai quý mến ơi, đi đi, làng này đang đầy bọn Đức.” Tôi nói: “Cụ ơi, chúng con cần được ăn, con không đi một mình, còn có một đồng chí nữa đang bị thương.” Ông lão bảo: “Chờ đấy, để ta kiếm cho chút ít, con sẽ được biết chúng ta sống khá như thế nào.” Tóm lại, ông lão cho chúng tôi thức ăn và chỉ dẫn cách tìm đường trở về phía quân ta. Đêm tới, Peter và tôi lên đường. Tôi nói: “Petia, tớ không thể vác nổi cậu nữa. Tớ hết sức rồi. Ít nhất hãy nhảy lò cò một chân đi.” Cậu ấy bắt đầu nhảy lò cò, tay dựa vào tôi. Bằng cách đó chúng tôi tới được con sông, băng qua nó, vừa ướt và lạnh. Chúng tôi chật vật đi thêm được 200 mét rồi đột nhiên có tiếng: “Halt, ai đó?” Rồi họ tóm lấy chúng tôi và chúng tôi lập tức bị tách khỏi nhau. Trong tình trạng bị ướt sũng, sương giá phủ đầy như thế tôi bước vào một căn nhà. Một đại uý ngồi sẵn bên trong, anh ta rút khẩu súng lục của mình ra và đặt lên bàn:
“Ngồi xuống!” – (một cách thân mật, tất nhiên) Tôi ngồi xuống.
“Hãy kể đi!”
“Kể gì?”
“Anh là ai?”
Tôi nói cho anh ta biết mình là ai.
“Anh nói dối! Đó không phải là anh. Hãy kể cho tôi xem anh đã được tuyển dụng như thế nào (bởi tình báo địch, thế đấy)” – Bây giờ thì tôi hiểu ra rồi!
“Hãy cho tôi biết, có phải tôi đang ở NKVD?” – tôi hỏi.
“NKVD nào?! Anh nghĩ anh đang ở đâu vậy?! Anh đang ở trong Hồng quân, hiểu chưa?”
“Tôi hiểu rồi.”
“Hãy cho tôi biết ai tuyển dụng anh, anh tới đây với nhiệm vụ gì? Ai đã sắp xếp để anh bị thương nhẹ? Đừng nói dối, nếu không tôi sẽ bắn anh ngay lập tức!” – Hắn lại gần tôi, tay cầm khẩu súng lục và chọc nòng súng vào lợi tôi. Xé rách môi tôi – một lần, rồi một lần nữa…
“Tại sao anh lại đánh tôi?! Tôi sẽ kể.” – Tôi nói.
“A ha, tốt đấy!” – Và chọc vào môi tôi một lần nữa, làm dập nó, máu tuôn ra.
“Anh muốn tôi kể về cái gì?”
“Cái gì, mày vẫn còn giấu diếm thế à?! Mày đã nói là sẽ kể cơ mà!”
“Vâng, tôi sẽ kể, nhưng hãy cho tôi biết anh muốn tôi kể cái gì cơ đã?!”
“Ai đã tuyển dụng mày? Đồng bọn của mày ở đâu? Thằng bạn của mày đã kể cho chúng tao là mày đã được tuyển dụng tại Frankfurt-trên sông Oder để giết các chính trị viên! Hãy cho tao biết ai đã tuyển mày? Nhiệm vụ của mày là gì?” – Tôi như bị đẩy bật lại, không nhận ra hết mức độ trầm trọng của sự việc đang xảy ra. “Bạn nào kể cho anh?”
“Bạn anh, Pet’ka.”
Tôi nghĩ: “Thật là quân vô lại! Sao hắn dám nói thế! Mình đã cứu hắn khỏi chỗ chết, kéo hắn thoát về! Và mình đã được trả ơn thế này đây!” Ngay lúc đó một vị đại tá bước vào. Tôi quay sang ông ta và nói:
“Đồng chí đại tá, xin cứu tôi, chuyện gì đang xảy ra vậy!?”
“Ở Maskva có ai biết anh không?” – ông ta nói.
Đột nhiên một ý nghĩ nảy ra trong đầu tôi. Anh tôi đang phụ trách Phòng Số một trong Văn phòng Chánh Uỷ viên Công tố của Hồng quân Liên Xô. Tôi bảo:
“Anh tôi hiện thế này, thế này… “
“Họ của anh ta là gì?”
“Brainer, Lev Markovich.”
“Chờ một phút. Đồng chí đại uý, ta ngưng hỏi cung đã.”
Ông ta quay lại sau 15 phút: “Hãy để anh ta đi, tôi xin chịu trách nhiệm.” Ông ta cho tôi đi, bên ngoài là Pet’ka đang đứng, chúng tôi ôm chầm lấy nhau mà hôn. Anh ấy nói: “Dan’ka, sao cậu lại vu khống tôi những chuyện như thế?” Tôi nói: “Chuyện gì vậy?” “Thế đấy, cậu đã kể rằng tớ và cậu đã được tuyển dụng tại Frankfurt-trên sông Oder.” Tôi bảo: “Pet’ka, họ cũng nói với tớ hệt như vậy. Nói là cậu đã kể thế.” Tóm lại, họ đưa chúng tôi tới Borodino bởi chúng tôi đang bị thương, chất chúng tôi lên một chiếc xe chở khách và chúng tôi khởi hành đi Maskva. Trên đường đi, Pet’ka tiến lại gần mấy bà cụ già. Cậu ta quấn giẻ đầy mình, nhưng không có nổi lấy một chiếc mũ, đành quàng chiếc khăn hay chiếc mùi soa lên đầu rồi rên lên: “Mẹ ơi, cho chúng con chút gì ăn!” Tôi rất xấu hổ và gọi: “Petia!” Nhưng cậu ta vẫn: “Mẹ ơi, cho chúng con thức ăn!” Và mấy cụ già, bằng đôi bàn tay run rẩy, san ra chỗ tài sản quý báu của mình, tổng cộng cũng chỉ vừa đủ cho họ ăn, rồi chìa cho anh ta chừng một mẩu bánh con. Anh ta quay lại để chia nó với tôi. Bằng cách đó chúng tôi tới được ga Belorussia (ở Maskva – Oleg Sheremet). Tại đây đám cảnh sát lôi tôi đi xềnh xệch và đưa tôi tới chỗ sảnh chính rồi đặt tôi lại đó. Rồi chúng tôi được đưa vào bệnh viện, hai ngày sau chúng tôi được chất lên một đoàn tàu để tới Urals.
Đầu năm 1943, tôi trở thành sĩ quan tình báo thuộc phòng tình báo của Bộ chỉ huy Tập đoàn quân 19, Phương diện quân Karelia. Nhiệm vụ chính của chúng tôi là thành lập những nhóm trinh sát gồm từ 10 tới 20 người, cứ 3-4 ngày lại tổ chức đột kích đêm vào sau chiến tuyến địch để bắt lấy một “cái lưỡi” (từ chuyên môn của kỹ thuật tình báo Nga, chỉ một tù binh đối phương được bắt để khai thác tin tức – Oleg Sheremet) Chúng tôi phải biết được mọi thứ, toàn bộ tình hình trên mặt trận. Nếu không, nếu phòng tình báo không có được thông tin nào, và không báo cáo được lên cấp chỉ huy, thì cấp chỉ huy đó và phòng tình báo đó trở thành vô dụng. Chúng tôi biết được mọi điều về kẻ thù! Và, chúng tôi hiểu, kẻ thù cũng biết về quân ta. Nhưng chúng tôi vẫn biết nhiều hơn! Tại sao vậy? Tôi sẽ giải thích ngay. Vấn đề ở chỗ lính Nga chúng ta biết rõ tên của đại đội trưởng, có thể là cả tên của tiểu đoàn trưởng, nhưng trung đoàn trưởng hay sư đoàn trưởng của anh ta – không phải chuyện để anh ta quan tâm. Lính Đức biết đến tên những trung đội trưởng ở cả các sư đoàn kế bên. Còn về chỉ huy của chúng, chúng không chỉ biết tên của họ, mà còn biết cả từng người sinh trưởng ở đâu, gia đình thế nào, y ta là người tốt hay kẻ xấu. Sau cùng, biết được lý lịch cá nhân của một tên chỉ huy là yếu tố quan trọng để vạch ra các kế hoạch tác chiến.
Trong một khu vực của mặt trận có hai sư đoàn địch bố trí đối diện chúng tôi, một được chỉ huy bởi tướng Von Ditmar, người tôi sẽ kể tới ở đoạn sau, sư đoàn còn lại do tướng Rubel chỉ huy. Von Ditmar đã bị chuyển đi, sau đó hắn cưới Magda, em gái Goebbels, và tướng Ratschi được đưa tới thế chỗ hắn. Nhìn chung, Rubel là một tên tướng rất tự cao, chỉ quan tâm tới các sĩ quan, không coi binh lính như những con người mà đối xử với họ rất khinh miệt. Còn về tướng Ratschi, hắn thường được gọi đùa là Ratschi-bum – “sét giật”. Hắn xuất hiện đột xuất để thanh tra đơn vị của mình, trước tiên là chui vào tham quan nhà xí của doanh trại, kế đó là phòng ăn tập thể và la mắng bất cứ kẻ nào mắc sai sót. Binh lính tôn sùng hắn, trong khi đám sĩ quan lại ghét cay ghét đắng. Vậy khu vực nào chúng tôi nên chọn để thực hiện đòn tấn công? Tất nhiên, sẽ là khu vực mà binh sĩ không ưa chỉ huy của mình, không muốn liều mình vì hắn – đấy là tại sao sĩ quan tình báo chúng tôi cần biết lý lịch cá nhân của những tên chỉ huy. Chúng tôi có được hồ sơ cá nhân của từng tên chỉ huy một, thậm chí đến từng tên trung đội trưởng.
Còn với tên tướng Von Ditmar, chúng tôi đã có một cuộc đối đầu vô cùng thú vị! Bộ Tổng tham mưu yêu cầu chúng tôi cung cấp hồ sơ về hắn, đặc biệt phải tìm ra được tấm ảnh của hắn. Mọi cuộc điều tra của chúng tôi đều không đem lại kết quả. Bọn tù binh luôn sẵn lòng kể về hắn: “Vâng, ở đây có một vị tướng như thế. Ông ta điều hành cả một khu vực rộng lớn.” Và chỉ được có thế, không hơn. Tiến hành việc này là trung đội trinh sát của một trong những trung đoàn của Sư đoàn bộ binh số 152, được chỉ huy bởi thiếu uý Ivan Lukich Kobets, hiện anh ấy đã là đại tá và là bạn thân của tôi. Anh ấy được giao nhiệm vụ đi bắt về một cái lưỡi. Đội trinh sát tiến sâu vào hậu tuyến địch, khoảng 20-25 kilômét, dọc theo con đường dẫn tới trước thị trấn Alakurti và bắt được một xe ngựa chở bảy tên lính. Họ trói chúng lại bằng cùng một sợi dây thừng, tay quặt ngược sau lưng và chân tên này buộc liền với chân tên kia, đầu dây còn lại được giữ chặt bởi một người lính vạm vỡ, có nhiệm vụ sẽ giật thật mạnh khi gặp rắc rối để kéo ngã tất cả đám tù binh. Bằng cách đó họ đã an toàn về được Sư đoàn bộ binh 152 của mình.
Trong khi lục soát cả nhóm tù binh, những người thực hiện đã mắc một sai lầm nghiêm trọng khi họ tước đi tất cả giấy tờ của chúng và để chung lẫn lộn với nhau, vì thế chúng tôi không thể xác định chúng thuộc về ai, tuy tất cả đều hết sức quan trọng: ảnh chụp, thư từ – mọi thứ, đối với người làm tình báo thì không có gì là không quan trọng, bất cứ điều nhỏ nhặt nào cũng được xem xét thật kỹ lưỡng sao cho không có yếu tố nào bị bỏ sót. Một sĩ quan tình báo giỏi phải là người không bao giờ quên điều này. Những tên tù binh đó được đưa tới Sở chỉ huy Tập đoàn quân chúng tôi trong tình trạng bị trói thành hàng dọc như vậy. Họ bảo tôi: “Danil, hãy phân loại giấy tờ ra.” Tôi đọc thật kỹ tất cả những giấy tờ đó, săm soi các bức ảnh, và đột nhiên tôi trông thấy một tấm ảnh nhỏ thoạt trông không có gì đặc biệt, kích thước 3x4cm, mặt sau có đề dòng chữ: “Tặng người cần vụ của tôi, Von Ditmar.” Chúa ơi! Tôi hét lớn với người phiên dịch và chỉ huy bộ phận tình báo: “Senia! Senia! Trông này!” Anh ta mừng rỡ: “Đó chính là tướng Von Ditmar! Dan’ka, cậu lấy nó ở đâu vậy?!” Tôi bảo: “Thì ở cái đống này.” Anh ta nói: “Chúa ơi, nó thuộc về đứa nào?!” Tôi nói: “Bây giờ nhiệm vụ của chúng ta là tìm cho ra tấm ảnh này của tên nào, bởi chắc chắn hắn sẽ không thú nhận điều đó đâu.” Chúng tôi trao đổi với nhau, sau đó chúng tôi đưa bọn tù binh tới và bảo: “Sẽ không có ai đem các anh ra bắn, bởi quân đội Xôviết không bao giờ cho phép bắn tù binh – chỉ trong giọng điệu tuyên truyền của lão Goebbels nhà các anh mới nói rằng chúng tôi xử bắn tù binh mà thôi. Các anh sẽ được đưa về hậu phương, vào một trại tù binh.” (Đúng là chúng tôi không bắn chúng. Tôi nhớ là không có trường hợp nào tù binh bị đem xử bắn ở tập đoàn quân chúng tôi. Chúng tôi giam chúng khoảng một ngày rồi chuyển chúng lên phương diện quân. Trên phương diện quân sẽ giữ chúng thêm hai ngày rồi chuyển chúng vào trại tù binh. Chúng tôi không hề cắt xẻo trên người chúng, không bắn chết, không tra tấn, không đâm kim vào người. Mọi chuyện đều hết sức đơn giản – chúng tôi cho chúng ăn cá trích (là loại cá trích muối mặn khủng khiếp của vùng Kandalaksha, và không được ngâm nước trước) và không cho chúng uống nước. Sang ngày hôm sau, tên tù binh sẽ khai ra bất cứ chuyện gì chỉ để nhận lấy một ngụm nước. Hắn sẽ sùi bọt đầy mép, và chúng tôi sẽ đưa hắn tới, rót ra một cốc nước nhỏ, hắn sẽ run rẩy và la hét: “Nước, nước!” Thế là chúng tôi liền bảo: “Được thôi! Khai đi!”, và lại cho hắn ăn cá trích lần nữa. Xét cho cùng, hắn vẫn cần phải ăn. Dù muốn dù không hắn cũng phải ăn hết con cá muối đó.) Bọn chúng vui hẳn lên. Tôi bảo: “Đây, mọi thứ trên bàn này là của các anh, hãy cầm lấy những gì là của mình.” Chúng tôi bỏ đi, và khi quay trở lại, không chỉ hình ảnh mà thậm chí một mẩu giấy vụn cũng không còn trên bàn. Thế đấy, người chủ của bức chân dung von Ditmar đã lấy lại nó. Chúng tôi tách chúng ra lần nữa và bắt tay vào lục soát kỹ từng tên. Chúng tôi tìm thấy bức ảnh trên người tên trẻ nhất trong bọn, một tên lính mới 18 tuổi. Hắn nói lắp bắp, nước mắt ràn rụa trên khuôn mặt. Hắn thú nhận rằng mình vốn là cần vụ của Von Ditmar, người đã nhận hắn phục vụ theo đề nghị của cha hắn, một người làm vườn tại điền trang của tên tướng. Hắn cho chúng tôi biết toàn bộ lý lịch của tên tướng này: tính cách, tình hình gia đình, v.v. Vì chiến công này tôi được tặng huy chương “Vì đã chiến đấu xuất sắc”. Đó là kinh nghiệm đầu tiên của chúng tôi, hay có thể nói là lần thử lửa đầu tiên, trong hoạt động tình báo.
Rồi kế tiếp là vụ sau đây. Chúng tôi bắt được một tên phi công. Tên hắn là Kurt Ekkert, thượng uý, sinh tại Riga, Tiến sĩ Triết học, nổi bật nhờ thành tích trong trận đánh chiếm đảo Crete và Narvik, đã được thưởng một Huân chương Chữ Thập Sắt với Cành sồi. Hắn chính là một tên phi công Át! Trong khi thẩm vấn hắn luôn miệng nói: “Tôi không phải là người Quốc xã. Tôi không là thành viên trong đảng của Hitler. Tôi chỉ là một người Đức bình thường, nhưng tôi đã có lời thề trước nước Đức và sẽ không bao giờ phá bỏ nó.” Trong suốt hai ngày trời chúng tôi giấu không thông báo cho phương diện quân việc đã bắt được tên phi công, và trong hai ngày đó hắn không tiết lộ cho chúng tôi bất cứ điều gì. Sự việc chỉ kết thúc khi tên tù binh được đưa tới cho Kozlov, chỉ huy trưởng Tập đoàn quân, thẩm vấn. Tôi lên gặp chỉ huy trưởng với một chiếc cặp tài liệu chứa những tấm ảnh trinh sát chụp từ máy bay mà tôi có nhiệm vụ phải giữ. Lúc này cuộc thẩm vấn đang được tiến hành. Nó được thực hiện bằng tiếng Nga, qua thông dịch viên. Tên Đức vẫn không tiết lộ một thông tin nào. Tôi bỏ ra và ngồi nghỉ ngoài phòng chờ, đột nhiên cửa phòng mở và tôi nghe được một cuộc trao đổi ngắn gọn: “Hãy diễn cho hắn xem một cuộc xử bắn giả.” Xử bắn giả là một cực hình gây đau khổ khủng khiếp. Kẻ bị kết án bị đưa ra trói vào trước một gốc cây, người ta đọc cho hắn nghe bản án tử, mọi thứ đều được phiên dịch cẩn thận, trong khi đó một tiểu đội xử bắn đứng chờ bên cạnh. Hắn sẽ được hỏi: “Anh có chịu khai không?” Thông thường câu trả lời sẽ là: “Nein!” Lặp lại lần thứ hai: “Anh có chịu khai không?” “Nein!” Tới lần thứ ba: “Anh có chịu khai không?” Hắn liền phát điên và hét lớn: “Nein!” Thế là mệnh lệnh được ban ra: “Tiểu đội sẵn sàng! Bắn!” Sau loạt đạn kẻ chịu án sẽ ngã xuống vì sợ hãi và choáng váng. Và thế là một lệnh khác tiếp tục: “Cái gì vậy?! Bắn trượt rồi! Hãy làm lại lần thứ hai, ngay lập tức!” Nhưng đám lính, không hề biết rằng ổ đạn của mình đều rỗng, sẽ nghĩ bụng: “Làm sao mình lại bắn trượt được nhỉ?!” Thông thường mọi người sẽ không kiềm chế được và bắt đầu bàn tán. Điều này được gọi là gây sức ép tâm lý. Nó thật tàn nhẫn, tất nhiên, anh có thể sẽ làm tàn phế một con người, bẻ gãy thần kinh anh ta. Và thế là chỉ huy trưởng nói: “Hãy làm bất cứ điều gì anh muốn, nhưng các thông tin cần thiết phải nằm trên bàn giấy của tôi sau 4 tiếng nữa.” Một viên đại tá bước ra ngoài và hô lớn: “Đội xử án! Theo tôi!” Do xung quanh không còn ai, tôi hiểu đó là một lệnh dành cho mình. Tôi bước vào, giơ tay chào và nói: “Người thi hành án có mặt!” “Bắn hắn đi!” Tôi đáp: “Xin tuân lệnh!” Tôi rút khẩu súng lục ra, tiến gần tên Kurt Ekkert đó, xách lấy tay hắn, nhưng hắn đẩy mạnh làm tôi ngã xuống. Hắn chạy tới chỗ viên tướng và nói bằng thứ tiếng Nga thuần chất nhất: “Thưa đồng chí tướng quân, xin hãy dừng trò xiếc này lại.” Điều gì xảy ra tiếp theo?!! Không thể tưởng tượng ra được! Chỉ huy trưởng Tập đoàn quân hét lên: “Tất cả ra ngoài!” Chúng tôi dẫn tên tù binh đi ra. Kozlov hét với viên đại tá: “Nếu tôi không có trong tay những thông tin của hắn trong vòng một tiếng đồng hồ nữa, anh sẽ bị đưa vào tiểu đoàn trừng giới”. Và thế là một lần nữa tên Đức lại được chuyển sang cho chúng tôi, và chúng tôi đưa ra cho hắn đề nghị sau: chúng tôi sẽ kể cho hắn những gì chúng tôi đã biết, cho hắn xem các tấm bản đồ, nếu sau đó hắn vẫn không nói, Afanasiy (Afanasiy Pil’kin, một tay Siberia, cần vụ của viên đại tá) sẽ dắt hắn ra ngoài, nã một viên đạn vào gáy hắn rồi kêu lên: “Nó bỏ chạy. nó bỏ chạy! Nó muốn chạy trốn!” Rồi bắn tiếp hai phát lên trời. Và chúng tôi sẽ chấm dứt câu chuyện này ở đây. Chúng tôi đem cho hắn xem các tấm bản đồ, kể cho hắn mọi điều chúng tôi biết… Từ đó trở về sau chưa bao giờ tôi được thấy kẻ nào điên khùng lên như thế: hắn cắn đến gãy cả răng mình vào lưng chiếc ghế đẩu. Bác sĩ vội chạy tới tiêm cho hắn một mũi. Sau khi lấy lại hơi thở, hắn kể rằng giá biết trước chúng tôi đã nắm được những thông tin hoàn chỉnh như thế, hắn đã kể ngay cho chúng tôi mọi chuyện, vì những gì hắn tiết lộ cũng chẳng đến nỗi là phản bội tổ quốc cho lắm. Chúng tôi cho hắn ăn, cho uống nước rồi chuyển hắn lên Sở chỉ huy Phương diện quân.
Trong công việc, tôi thường thẳng thắn bộc lộ khả năng hơn hẳn của mình so với viên đại tá, chỉ huy trưởng phòng tình báo. Ông ta nuôi trong lòng một ý định phục thù đối với tôi và một lần nọ gọi tôi lên thông báo: “Thiếu uý, anh phải đi tiến hành một nhiệm vụ đặc biệt sau phòng tuyến địch và liên lạc với điệp viên của ta. Bộ ắcquy cho radio của anh ta đã hỏng nên anh ta bị mất liên lạc. Chỉ anh mới có thể tìm được anh ta.” Tôi trả lời: “Thưa đồng chí đại tá, tôi đã biết mật mã của Ban Tình báo trung tâm thuộc Bộ Tổng Tham mưu. Tôi đã có lời thề là sẽ không bao giờ đến gần chiến tuyến hơn 30 km. Nếu tôi làm điều đó, tôi sẽ bị xử bắn ngay lập tức mà không cần xét xử. ” Ông ta nói: “Được, chẳng lẽ anh lại phản bội dễ vậy sao?! Tôi ra lệnh cho anh đó! Tuân lệnh đi!” Tôi đành phải tuân lệnh. Rồi tôi tới gặp trung tá Yakunin, phó của ông ta: “Hãy nghe này, chuyện là như thế đấy.” Yakunin liền nổi giận: “Lão ấy là một thằng ngốc! Lão đang đưa anh tới chỗ chết! Anh đã làm điều gì không phải với lão rồi. Lão ấy không cần gì hết, mà lão cũng chẳng quan tâm tới điệp viên của chúng ta – lão ấy chỉ muốn nhắm vào anh thôi. Tôi chỉ có điều này để khuyên anh – hãy bỏ tất cả những đồ đạc quân dụng lại đây. Hãy tự tìm cho mình một câu truyện huyền thoại nào đó (từ chuyên môn của kỹ thuật tình báo Nga, chỉ một câu chuyện bịa để ngụy trang cho một điệp viên mật – Oleg Sheremet).” Lúc đó tôi đang quá bối rối nên không dám hỏi để tránh bộc lộ sự ngu dốt của mình, nhưng thậm chí ngay cái từ “huyền thoại” đó tôi cũng không biết! Tôi không phải là một quân nhân! Tôi cũng không phải là một sĩ quan tình báo! Tôi là một kỹ sư xây dựng, một thường dân. Làm gì có huyền thoại nào?! Nhưng nhiệm vụ thì vẫn phải hoàn thành.
Thế là vào ban đêm, vài người thuộc bộ tộc Saami đưa tôi vượt qua chiến tuyến trên hai chiếc xe trượt tuyết. Họ thực hiện công việc đó thật hoàn hảo – chỉ họ mới có thể làm được thế. Có một lối trượt tuyết đi qua giữa những cứ điểm của quân Đức, chúng bố trí cách nhau khoảng 20-30 km. Trong trường hợp một tên lính tuần tra phát hiện ra vết trượt tuyết xuất phát từ phía chúng tôi, chúng sẽ ngay lập tức đưa một chi đội ra đuổi theo những người vừa đột nhập. Do đó chúng tôi quay lại điểm xuất phát hai lần, cắt ngang tuyến đường cũ, đi lòng vòng và hơn thế nữa lâu lâu dừng lại một lần, tháo ván trượt ra, di chuyển tới trước khoảng 50 mét rồi dùng tay xoá đi các dấu vết của lằn trượt. Bằng cách đó họ đã đưa tôi tới gần điểm hẹn. Ba kilômét cuối cùng tôi phải xuống tự đi, do họ không được phép đi tiếp để hộ tống tôi. Tôi bảo: “Xin hãy đợi tôi ở đây, tôi sẽ quay lại đúng theo dấu ván trượt của mình.” Tôi đem theo 4 bộ ắcquy BAS-80, mỗi bộ có trọng lượng lên tới 12, thậm chí 15 kílô. Tôi tự làm ra một thứ gần như chiếc xe trượt, xỏ bàn trượt tuyết vào chân, chất lên xe 4 bộ ắcquy, siết chặt lại trang phục rồi bắt đầu gò lưng kéo. Khi tới được địa điểm đã hẹn, tôi đã kiệt sức tới nỗi nằm lăn xuống, đè gẫy mấy lùm cây bụi rồi lập tức ngủ say như chết. Tôi thức dậy bởi có ai đó đang đập vào chân tôi. Tôi mở mắt ra và thấy một người Phần Lan đang đứng đó, tay cầm súng chĩa vào tôi. Tất cả những chuyện đó diễn ra trong im lặng. Tôi ngồi dậy và chúng tôi quan sát nhau. Tôi hỏi: “Người Phần Lan hả?” Hắn ta vẫn im lặng. Tôi hỏi tiếp: “Deutch? Sprechen Sie Deutch?” (“Người Đức hả? Có nói được tiếng Đức không?” – L.T.D.) Hắn ta vẫn im lặng. Và rồi một suy nghĩ chọc vào đầu tôi, có thể anh ta là người tôi cần gặp chăng? Tôi nói mật khẩu, anh ta đáp lại và nói: “Thằng dở người nào gửi anh tới đây vậy? Sao anh có quyền ngủ vào lúc này?! Anh đang ở trong hậu phương địch! Bất cứ ai cũng có thể đi ngang qua đây! Hãy xem có biết bao dấu ván trượt quanh đây! Sao anh lại làm thế!?” Tôi đáp: “Trước tiên, tôi mệt lắm rồi, kế đến – tôi đang rất đói.” Anh ta lấy ra hai thanh sôcôla, một chai rượu, và chúng tôi cùng uống, tìm ra được một ngôn ngữ chung, rồi anh ta cho tôi biết số liệu về các sân bay ở Varde và Trondheim, về lực lượng, điểm khởi hành và nơi đến của các đơn vị Đức. Anh ta bắt tôi lặp lại tất cả điều đó khoảng 15 lần rồi đưa tôi về.
Tôi quay trở lại sở chỉ huy – hàm dưới viên đại tá trễ xuống khi lão trông thấy tôi vẫn còn sống: “Mọi chuyện diễn ra thế nào?” Tôi đáp: “Tôi vẫn còn sống sót quay về, mặc cho ông đã đưa tôi tới chỗ chết.” Lão ta nói: “Ai bảo là tôi đưa anh tới chỗ chết?!” Tôi trả lời: “Tôi hiểu rõ mọi chuyện, thưa đồng chí đại tá.” Câu chuyện đã kết thúc ở đó. Nó lại lặp lại về sau này, khi bạn thân của tôi, mà nay đã quá cố, đại tá Nikolay Dmitrievich Antonov, tới làm chỉ huy phòng tình báo thay cho tên ngốc kia. Anh ta cũng gọi tôi lên và bảo: “Dania, cậu phải lặp lại lần nữa những gì đã từng làm, nhưng tôi trước tiên muốn tạo cho cậu một huyền thoại thực sự đã.” Lúc này tôi đã biết một huyền thoại có nghĩa là gì rồi. Tôi được đưa tới Belomorsk để huấn luyện về mật mã. Họ cho tôi ăn mặc như một người tù trong một căn nhà ở gần Belomorsk: cấp cho tôi cặp guốc gỗ, quần áo rách, mũ lông “ushanka” thiếu mất một tai mũ. Tôi được giao cho một tờ sao của bản án do Toà án Quận Frunze của thành phố Maskva tuyên, trong có ghi rằng Zlatkin, Daniil Fedorovich, bị kết án 10 năm tù, không được quyền liên hệ với người thân vì đã có những hành động chống lại chính quyền Xôviết, lan truyền những chuyện đàm tiếu chống Xôviết, tuyên truyền chống chiến tranh Vệ quốc, v.v. Người ta bảo tôi: “Anhh sẽ tới Solovki (quần đảo trên Bạch Hải, nơi có một trại tù nổi tiếng – Oleg Sheremet) Mọi chuyện đã được chuẩn bị sẵn sàng ở đó cho anh. Anh sẽ ở đó 10 ngày, anh sẽ không chỉ phải làm quen với đám bạn tù và nắm rõ lý do chúng phải vào đó, mà còn phải biết đến cả tên con chó cưng của người đầu bếp. Đã nắm mọi chi tiết chưa?” Tôi đáp: “Đã rõ.” Khi tới nơi, giám đốc trại tù kéo tôi ra và bảo: “Tôi đã biết mọi chuyện rồi. Tôi sẽ báo cho anh khi nào chuyện đó xảy ra.” Và tôi bị ném vào trong một trại giam đầy lũ trộm cướp và lừa đảo – mọi hạng người đều có ở đó ngoại trừ những tù chính trị, vốn bị giam ở một trại giam khác biệt lập. Tôi kể cho chúng nghe vài chuyện cười, cho chúng biết rằng tôi là một thủy thủ ở Odessa, đi trên chiếc tàu chở hàng của hải quân – tại đấy tôi đã làm quen với gã Val’ka Mắt lé. “Cái gì, cậu biết Val’ka Mắt lé à? Các bạn ơi! Thế cậu đi trên tàu gì? Khoan, cậu có biết tàu “Chervona Ukraina” không? Gượm đã, ở đó cũng có một chiếc Chervona Ukraina khác.. Ờ phải, tại đó chỉ có một chiếc như thế thôi.” Nói chung, tôi đã trở thành thành viên của chúng. Cùng làm với chúng ở mỏ đá – thật là một công việc khủng khiếp khi phải đập vỡ những tảng đá bằng một chiếc búa, một cái đục hay một cái cuốc chim. Đôi chỗ chúng tôi được sử dụng thuốc nổ, và do tôi đã từng là công binh nên được giao cho việc này. Công việc cũng không quá phức tạp – chúng tôi chỉ đơn giản là đặt thuốc nổ vào dưới những tảng đá. Nhiệm vụ của chúng tôi là sản xuất sỏi đá để làm đường, đôi chỗ sỏi đá lộ ra trên mặt đất, ở đó có những tảng đá dễ vỡ để thu nhặt. Điều này làm nhẹ bớt công việc của chúng tôi, và đám tù nhân bắt đầu tỏ ra tôn trọng tôi hơn. Tới ngày thứ 9 người giám đốc trại tù gọi tôi lên và bảo: “Danil, mọi chuyện đã sẵn sàng rồi, đi thôi.” Tôi đi cùng ông ta ra bờ biển. Ông ta chỉ chỗ cho tôi và bảo: “Kia, ở dưới đó có một chiếc xuồng chèo tay, trong có một thùng nước ngọt và một túi bánh khô. Cậu đã sắp xếp được người đi cùng chưa?” Tôi được lệnh phải tìm ra một ai đó và dụ hắn cùng trốn đi. Tại sao tôi lại phải làm tất cả những chuyện đó, tại sao tôi lại kể ra tất cả những chuyện đó? Tôi phải tạo ra được một huyền thoại, để trong trường hợp bị bọn Đức bắt được thì tôi sẽ kể rằng mình là như thế, như thế, những cư dân ở Solovki có thể xác nhận rằng tôi đã từng ở đó. Không được quay trở về đơn vị của mình, trên người phải mặc những quần áo rách rưới, thậm chí còn tệ hơn cả trong lần đột nhập đầu tiên, nhưng đã có tờ tuyên án của mình ở sẵn trong ngăn túi bí mật, tôi vượt qua chiến tuyến và gặp được người điệp viên mà lần trước tôi đã biết (tên của anh là Boris Borisovich. Tôi không bao giờ còn được nghe đến tên anh lần nữa). Tôi quay về và thế là nhiệm vụ của tôi kết thúc. Không bao giờ tôi còn bị gửi đi bất cứ đâu nữa.
Dưới đây là một câu chuyện thú vị khác. Nó xảy ra vào giữa năm 44, chúng tôi đang ngồi làm việc trong hầm trú ẩn của mình. Đột nhiên, vào 4 giờ chiều, có một tiếng nổ lớn trong khu vực Sở chỉ huy Tập đoàn quân. Tiếng nổ thứ hai tiếp theo sau đúng 2 phút. Người sĩ quan trực nói: “Có lẽ đám sĩ quan công binh đang làm gì đó.” Vụ nổ điếc tai thứ ba xảy ra đúng 2 phút sau đâu đó gần hầm của chúng tôi và làm vỡ toàn bộ kính cửa sổ. Đất vụn bắt đầu rơi lả tả từ trần nhà xuống. Rồi có một tiếng kêu: “Mọi người tìm chỗ ẩn nấp! Bọn Đức đang bắn vào Sở chỉ huy Tập đoàn quân!” Trong ngày hôm đó bọn Đức đã bắn 40 phát, chúng rơi chính xác vào khu vực Sở chỉ huy Tập đoàn quân. Một quả đạn thậm chí đã xuyên qua cửa sổ hầm trú ẩn của ban chỉ huy lực lượng thiết giáp. Trong hầm đang có một người thư ký đánh máy 17 tuổi và một thiếu tá, một người đàn ông 45 tuổi. Ông ta lấy hai tay ôm chặt đầu (về sau chúng tôi nhận thấy mảng tóc nằm dưới mấy ngón tay ông ta đã trở nên lốm đốm bạc), hiểu là cái chết sẽ xảy đến ngay lập tức, nhưng quả đạn không phát nổ, và thế là cả hai người chạy ra ngoài. Hóa ra bọn Đức vừa nhận được ba khẩu đại bác tầm xa 155mm, vẫn được gọi là đại bác hậu phương vì thường được dùng để bắn vào các sở chỉ huy. Cánh không quân chúng tôi lập tức cố gắng bịt họng những khẩu pháo đó, nhưng không hiệu quả. Sang ngày thứ hai bọn Đức lại bắn thêm 40 quả đạn nữa vào Sở chỉ huy Tập đoàn quân với cùng một độ chính xác – cứ 2 phút mỗi viên, nhưng các phát đạn đã rơi ra sau Sở chỉ huy khoảng 1 kilômét. Chuyện gì xảy ra vậy?! Chúng tôi đã lừa được bọn Đức! Chúng tôi ngụy trang tất cả những thiệt hại và hố đạn ở Sở chỉ huy và cho nổ 40 khối TNT cách đó 1 kilômét, phía gần với chiến tuyến, nhằm tạo ra ảo giác chúng là những hố đạn. Một “cái khung” (biệt hiệu của loại máy bay trinh sát quân Đức thường dùng) bay qua đó vào buổi sáng và chụp ảnh kết quả cuộc pháo kích, nhưng do tất cả những hố đó đều là của giả do chúng tôi tạo nên, việc chỉnh hướng của bọn Đức đã làm cho các quả đạn bắn ra về sau bay vượt qua đầu chúng tôi. Tới lúc đó trọng pháo và máy bay của ta đã tiêu diệt được hai khẩu đại bác của chúng. Chúng không làm phiền chúng tôi thêm lần nào nữa. Vậy đấy, về cơ bản, đó là câu chuyện cuộc đời quân ngũ của tôi trong phòng tình báo của Tập đoàn quân số 19.
Ghi âm phỏng vấn: Elena Siniavskai
Hiệu đính: Artem Drabkin
Dịch từ Nga sang Anh: Oleg Sheremet
Dịch từ Anh sang Việt: Lý Thế Dân
Hình ảnh lấy từ tư liệu của D.F. Zlatkin
Pingback: Ký ức chiến tranh (Hồi ức của những binh sĩ Xôviết từng tham gia cuộc Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại)- Phần 1 | Nghiên Cứu Lịch Sử