Bản tuyên bố về lịch sử vương triều Mạc (bài 5)

78_nguyenanh.jpg

Nguyễn Xuân Lung

Phần V: Sự kiện số IV

VẤN ĐỀ ĐẦU HÀNG CỦA NHÀ MẠC 

Sự kiện diễn ra tại biên giới Đại Việt cuối năm 1540, nhà Mạc đầu hàng nhà Minh là sự thật, được cả sử ta, sử Minh ghi chép. “Đại Việt sử ký toàn thư” chép sự kiện trên như sau:

“Mùa đông, tháng 11 Mạc Đăng Dung cùng cháu là Văn Minh và bề tôi là bọn Nguyễn Như Quế, Đỗ Thế Khanh, Đặng Văn Tri, Lê Thuyên, Nguyễn Tổng, Tô Văn Tốc, Nguyễn Kinh Tế, Dương Duy Nhất, Bùi Trí Vĩnh qua trấn Nam quan, mỗi người đều cầm thước, buộc dây vào cổ, đi chân không đến bò rạp ở Mạc phủ nước Minh dập đầu quỳ dâng tờ biểu xin hàng biên hết đất đai quân dân quan chức trong nước để xin phán xử”

[Đại Việt sử ký toàn thư, tr621, q2, NXB VHTT, 2004]

  1. MỘT SỐ DẪN GIẢI

          Năm 1527 nhà Mạc ra đời, tới năm 1540 thời gian 13 năm đã trôi qua. Sự kiện tại biên giới Đại Việt cuối năm 1540 mà sử ghi chép là kết quả một quá trình được hình thành từ chính sách đối nội, đối ngoại của nhà Mạc. Đồng thời song hành cùng chính sách đối nội và đối ngoại từ triều đình nhà Minh, Minh thế tông.

          Đã có kết quả tất phải có nguyên nhân, sử không thể dẫn giải toàn bộ quá trình tạo nên kết quả của sự kiện này. Trong “Kiến Văn tiểu lục” Lê Quý Đôn cũng từng phân giải về sự kiện nhà Mạc đầu hàng nhà Minh như sau:

“Xem tập Thù vực chu tư lục (Nghiêm Tòng Giản nhà Minh biên soạn) thì về nghi lễ sai sứ thần đi sính vấn của đời trước, về gốc ngọn việc nhà ngụy Mạc xin hàng, về sự khó khăn trong khi gây dựng cơ nghiệp trung hưng, về lòng thành khẩn tố cáo của di thần đời trước và đại cương quan chế, binh chế nước ta đều có thể biết rõ hơn”

[Kiến văn tiểu lục, tr196, VSH xuất bản 2007]

          Sau gần 150 năm kể từ thời gian trên, Lê Quý Đôn tiếp cận nguồn sử liệu nhà Minh khi đi sứ bắc sau khi tiếp cận nguồn sử liệu trong “Thù vực chu tư lục” và ông hiểu: “gốc ngọn việc nhà ngụy Mạc xin hàng”.

Như vậy gốc chính là nguyên nhân, ngọn là kết quả của sự kiện, do đó công việc mà chúng tôi cần phải làm là: đi tìm gốc của sự kiện trên tức là nguyên nhân của sự kiện lịch sử đã xảy ra tại giai đoạn này.

  1. BỐI CẢNH XÃ HỘI TRUNG HOA VÀ NỘI BỘ TRIỀU ĐÌNH NHÀ MINH GIAI ĐOẠN MINH THẾ TÔNG

Để có thể tìm hiểu “gốc”“ngọn” sự kiện số 4 trên, người đọc sử không thể trông chờ gì từ nguồn tư liệu rất hạn hẹp từ quốc sử Đại Việt cũng các nguồn sách khác tại giai đoạn này. Khớp nối nguồn tư liệu của “Minh sử”, “Minh thực lục”, “Việt kiệu thư”, “An Nam chí nguyên” sẽ có câu trả lời thỏa đáng cho sự kiện số 4 mà chúng ta quan tâm.

  1. Bối cảnh xã hội Trung Hoa

Xã hội Trung hoa giai đoạn Minh thế tông chấp  chính, có thể so sánh với một xã hội được miêu tả trong “Truyện Kiều”, một tác phẩm văn học bất hủ của Nguyễn Du mà mỗi người Việt Nam đều biết, người ít đọc, thuộc dăm bảy câu, người ham thích thuộc lòng, thậm chí đọc ngược cả tác phẩm. Một xã hội Trung hoa thời đó được hình dung qua một câu thơ Truyện Kiều: “Có ba trăm lạng việc này mới xuôi”!

          Tại Trung hoa những cuộc khởi nghĩ tự phát của lực lượng nông dân xảy ra liên tục và quy mô ngày càng lớn. Đế quốc Mông Cổ ngày càng hùng mạnh, gây áp lực chiến tranh từ biên giới phía bắc Trung hoa. Những rối loạn từ chính quyền cơ sở tại các địa phương giáp biển của Trung Hoa là hậu quả từ những lực lượng cướp biển (giặc Nụy) góp phần. Có thể coi giai đoạn xã hội Trung hoa này thông qua bối cảnh nội bộ triều đình nhà Minh sau đây.

  1. Bối cảnh nội bộ triều đình nhà Minh

          Xã hội nào, thì con người nấy, bối cảnh nội bộ cơ cấu thượng từng sẽ là tấm gương phản ánh chân thực toàn cảnh xã hội Trung hoa giai đoạn Minh Thế tông chấp chính. Đồng thời có thể coi giai đoạn lịch sử này của triều đình nhà Minh đã bước vào giai đoạn suy vong trong chu trình khép kín bất khả kháng của mỗi sự vật, sự việc trên đời: [(thành – thịnh – suy – hủy), ngày nay người ta đã khống chế được quy luật bất thành văn này bằng cơ chế nhiệm kỳ cộng với sự phân chia quyền lực)].

          Để làm rõ bối cảnh triều đình nhà Minh tại sự kiện lịch sử cuối năm 1540 liên quan giữa hai quốc gia Trung hoa và Đại Việt. Chúng tôi không đi sâu vào những bàn cãi suốt 5 năm đánh hay không đánh Đại Việt, thông qua các nhân vật Phan Đán, Phan Trân, Đường Trụ, Từ Cửu Cao vv… trong triều đình nhà Minh mà chỉ cung cấp tư liệu lịch sử ghi chép về bộ máy chiến tranh chuẩn bị xâm lược Đại Việt giai đoạn này, thông qua ba nhân vật chủ chốt:

– Minh Thế Tông.

– Hàm Minh hầu cừu loan.

– Hữu đô ngự sử Mao Bá Ôn.

Bộ máy chiến tranh được khởi động để xâm lược Đại Việt giai đoạn Minh thế tông rất khác với bộ máy chiến tranh xâm lược Đại Việt giai đoạn Minh thành tổ với những nhân vật: Chu Năng, Trương Phụ, Triệu Tuấn…

Bộ máy chiến tranh do triều đình Minh thế tông khởi xướng xuất hiện lùng nhùng kéo dài qua hai giai đoạn (1530 – 1537) và (1537 – 1540). Tại triều đình nhà Minh xuất hiện hai phái  “chủ hòa” “chủ chiến”, tranh cãi nhiều năm đánh hay không đánh Đại Việt. Sau đây là những hình ảnh thu nhỏ về bộ não chỉ huy bộ máy chiến tranh ấy của triều đình nhà Minh – Minh Thế Tông thông qua từng cá nhân cụ thể:

a, Minh Thế Tông:

          Ngoài những hành vi, lối sống khác lạ, Minh thế tông thể hiện những quan điểm cá nhân của mình thông qua những bàn luận, tranh cãi trong việc đánh hay không đánh An Nam mà “Minh sử” cung cấp chi tiết:

“Uông Văn Thịnh truyền hịch sang An Nam bảo rằng nếu Đăng Dung hàng phục, dâng nộp bản đồ, thì được tha chết, bố con Đăng Dung vội vàng sai sứ dâng biểu xin hàng  và đưa thư nói rằng: “Họ Lê suy loạn, Trần Cảo loạn nghịch, nghỉ (Mạc Đăng Dung) và Phương Doanh có công được nhân dân quy phụ. Những đất đai đã ghi chép ở trong nhất thống chí (?) nghỉ (Mạc Đăng Dung) xin được tha tội và xin cống như lệ cũ”. THÁNG 3  NĂM GIA TĨNH 17, BỌN TRIỀU PHỤ ĐEM VIỆC ẤY TÂU VUA. LÊ NINH SỢ THIÊN TRIỀU CHO ĐĂNG DUNG QUY HÀNG, BÈN ĐEM ĐẦU ĐUÔI ĐĂNG DUNG THOÁN THÍ, SỐ BINH MÃ VÀ ĐƯỜNG LỐI TIẾN QUÂN TÂU BÀY. Vua giao tất cả cho bộ binh cùng với đình thần bàn định. Các quan đều nói họ Mạc không nên tha và phải cho đem quân đánh ngay. Lại xin đề cử Hàm Minh hầu tổng đốc quân vụ và Bá Ôn làm tham tán. Vua chuẩn y. Trương Kính dâng sớ tâu bày 6 phương lược về việc đánh An Nam và nói rằng:

“Phải có 30 vạn quân, mỗi năm phải dùng 160 vạn thạch lương thực, những phí tổn về việc đóng thuyền, mua ngựa, chế tạo khí giới, khao thưởng quân sỹ hết hơn 70 vạn nữa. Quân ta vượt biên nhọc mệt, quân họ nghỉ ngơi mạnh khỏe, tình thế khác nhau, điều đó phải nên suy xét cẩn thận”. Bản sớ của Trương Kính vừa dâng lên, thì lại tiếp được bản tâu của tri châu Lâm Hy Nguyên nói rằng: Đăng Dung thế nào cũng phá vỡ được. Bộ binh không biết quyết định thế nào,lại xin Vua giao cho các  quan đình thần bàn định. Khi các quan đệ bản tham nghị lên, vua không bằng lòng nói rằng:

“Trẫm nghe các khanh sỹ đại phụ bàn riêng với nhau, đều nói không nên đánh. Các ngươi giữ chính quyền của nhà nước, không có chủ trì việc gì cũng giao cho hội nghị, xem ra các ngươi không có cùng lòng mưu tính việc nước”. Vua lại sai Cừu Loan và Mao Bá Ôn đi làm việc khác”.

 [Minh sử 321, An Nam, q3, tr352 – 3547 tr107 (bản dịch). TL/LS khoa sử

ĐH KHXH&NV. KH: TL/LS 0030]

          Từ sự ghi chép trên của “Minh sử” là những diễn biến sơ bộ lần hoãn quân thứ nhất năm 1537 với quyết định từ Minh thế tông. Từ tình hình thực tế xã hội giai đoạn này, cùng những diễn biến của phái “chủ hòa” và phái “chủ chiến” trong chính quyền triều đình Minh Thế Tông. Minh Thế Tông đã chọn phương án dung hòa mâu thuẫn nội tại của hai phái trong triều đình như sau: Minh sử mục liệt truyện Mao Bá Ôn chép:

“Vua bèn cải bổ Bá Ôn lĩnh chức binh bộ thượng thư kiêm hữu đô ngự sử và bắt đem quân đi ngay. vua cho dụng binh là việc hệ trọng, ý vua KHÔNG MUỐN ĐÁNH THỰC, CHỈ MUỐN RA OAI ĐỂ BẮT AN NAM TÒNG PHỤC. Nhưng binh bộ thượng thư Trương Toản. Không biết  ý vua có phải không. Các quan triều thần phần nhiều bàn không nên đánh, nhưng không dám can hẳn”

[Minh sử, q2, tr2088, tầng dưới đến tr2090 tầng trên, tr49 (bản dịch) TL/LS khoa sử ĐH KHXH&NV. KH: TL/LS 0030]

Qua 2 lần dẫn trên, người đọc có thể hình dung bối cảnh nội bộ triều đình nhà Minh từ  1530 đến 1537 và từ năm 1537 đến 1540, trong việc bàn cãi xung quanh cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt.

Bộ máy điều hành chiến tranh xâm lược Đại Việt là hình ảnh thu nhỏ cả xã hội Trung hoa và nội bộ triều đình nhà Minh, được phản ánh trung thực qua hai nhân vật cầm đầu bộ máy chiến tranh sau đây.

b, Nhân vật Hàm Ninh hầu Cừu Loan

Trong các cuộc chiến tranh vệ quốc đã xảy ra nhằm bảo vệ Đại Việt, có lẽ công việc đầu tiên cha ông ta phải tính tới: Biết ta và biết địch. Nhà Mạc đã thành công từ bên kia biên giới trong cuộc chiến thầm lặng bằng phương pháp tình báo, thậm chí ngay tại triều đình Minh thế tông (mà ngày nay người ta gọi là “tình báo chiến lược”) mọi bàn luận, chủ trương xâm lược Đại Việt đã được nhà Mạc thu thập, phân tích. Có rất nhiều người dân đất nước phụng sự nhà Mạc thời đó âm thầm hy sinh vì sự trường tồn của đất nước, bị bắt, bị giam, hy sinh vì nền độc lập của Đại Việt.

          Từ những tin tức tình báo “chiến lược” và “chiến thuật” đã góp phần cho chủ trương, chính sách kế hoạch phòng thủ kịp thời, cùng với những kế sách uyển chuyển của nhà Mạc trước một cuộc chiến tranh xâm lược từ bên kia biên giới. Nhà Mạc đã chặn đứng thành công những âm mưu đen tối và thâm độc từ các phía vào Đại Việt. Nhà Mạc đã mua được con ngựa đầu đàn trong guồng máy chiến tranh xâm lược này. Những người Việt âm thầm hoàn tất những công việc đó là ai? Chúng ta không thể nào biết được, chỉ biết rằng lịch sử luôn có những khúc quanh, như việc đuổi 2,5 vạn quân Tưởng (đồng minh) ra khỏi bắc Việt Nam gần đây, cùng là những phương pháp tương tự.

Tại mục liệt truyện Mao Bá Ôn, “Minh sử” chép:

“Tháng 7 nhuận, vua sai Bá Ôn và Cừu Loan đi đánh An Nam, bn Bá Ôn đến Quảng Đông, hội đồng với tổng đốc Trương Kính, tổng binh Liễu Tuân, tham chính ông Vạn Đạt và Trương Nhạc để bàn định các công việc. Lại tổng bắt lính ở Quảng Đông, Quảng Tây, Hồ Quảng và người Thổ Lang cộng 12 vạn 5 nghìn người chia làm 3 đạo từ Bằng Tường, Long Động và Tư Lãng tiến sang An Nam và lấy 2 đội Kỳ binh làm thanh viện. Bá Ôn tư cho tuần phủ Vân Nam là Uông Văn Thịnh đem quân đóng ở ghềnh Liên Hoa và cũng chia làm 3 đạo tiến sang An Nam. Công việc xếp đặt vừa xong thì CỪU LOAN PHẠM TI, TRIỀU ĐÌNH ĐÒI LOAN VỀ và cho Liễu Tuân lên thay”

 [Minh sử, q2, tr2088 tầng dưới đến tr2090 tầng trên, tr51 (bản dịch), TL/LS khoa sử ĐH KHXH&NV. KH: TL/LS 0030]

Người đứng đầu guồng máy chiến tranh xâm lược Đại Việt Hàm Ninh hầu Cừu Loan phạm tội gì?

Tại mục: “Hạnh trạng của Tư thiên đại phu, binh bộ thượng thư Đông Nhai Ông Vạn Đạt” cung cấp một phần sự thật này:

“Trước kia, Hàm Ninh hầu (Cừu Loan) sai bộ hạ lẻn đến đòi Đăng Dung cho tiền thì sẽ được đầu hàng. Ông (ông Vạn Đạt) phát giác việc ấy, nên việc hối lộ không thành”

[Minh sử tập 16, q39, tr67a – 75a, tờ 72 (bản dịch). TL/LS khoa sử ĐHKHXH&NV. KH: TL/LS 0032]

Nhân vật số 2 guồng máy chiến tranh xâm lược Đại Việt đã gục ngã ở bên kia biên giới còn lại nhân vật số 1 được đôn lên thay thế cả vị trí này trong bộ máy quân sự xâm lược Đại Việt của nhà Minh.

c, Nhân vật hữu đô ngự sử tham tán quân sự thứ nhất: Mao Bá Ôn

          Mao Bá Ôn đỗ tiến sỹ năm 1517 ra làm quan triều đình nhà Minh và được thăng tới chức hữu đô ngự sử. Minh sử cung cấp những trạng thái tâm lý của Mao Bá ôn trước và sau nhận nhiệm vụ số 1 trong guồng máy chiến tranh xâm lược Đại Việt.

Minh sử chép:

“Bấy giờ vua sai Mao Bá Ôn đi đánh An Nam. Phan Đán đi qua nhà Mao Bá Ôn, bảo Bá Ôn rằng: An Nam không phải là giặc kẽ ngạch. Ông nên lấy cớ còn đương có đại tang (bố Mao Bá Ôn mất) xin từ đừng đi vội”

 [Minh sử, liệt truyện Phan Đán, q2, tr214 tầng dưới dòng 11, tr58 (bản dịch) TL/LS khoa sử ĐH KHXH&NV, KH: TL/LS 0030]

          Dù không có sớ phân trần hay quyết liệt bàn cãi trong những lần bàn đánh hay không đánh Đại Việt, Mao Bá Ôn đã có những quan điểm riêng cố không nhận chức hữu đô ngự sử. Khi nhận việc đánh An Nam cố ý chậm chạp lừng khừng, có thể coi Mao Bá Ôn nằm trong phái “chủ hòa” như Đường Trụ, Phan Đán, Phan Trân, Từ Cửu Cao tại triều đình nhà Minh giai đoạn lịch sử này. Trong bài hạnh trạng Mao Bá Ôn.

“Minh sử” chép:

“Hạnh Trạng của tiền quang lộc đại phu, trụ quốc, thái tử thái bảo, binh bộ thượng thư Mao Bá Ôn (do La Hồng Tiên soạn). Ông húy là Bá Ôn, tự là Nhữ Lệ, quê ở Cát Thủy, năm Đinh Mão đời Chính đức (1507) đỗ hương thí, năm sau đỗ tiến sỹ.

Năm Bính Thân đời Gia Tĩnh (1536) lập hoàng thái tử, chiểu lệ thì thông chiếu dụ cho các nước ngoài biết. Vua thấy An Nam bỏ không triều cống đã lâu, muốn đem quân sang hỏi tội, nhưng chưa tìm được người làm chủ súy. Đình thần đề nghị cử ông sung chức ấy.

Mùa xuân năm Đinh Dậu (1537) vua cho ông khôi phục hữu đô ngự sử. ÔNG CỐ TỪ, nhưng vua không nghe lại sai quan thúc dục ông lên đường, BẤT ĐẮC DĨ ông phải tuân mệnh”

[Minh sử, t16, q39, tr42a – 47b, tr67 (bản dịch), TL/LS khoa sử

ĐH KHXH&NV, KH: TL/LS 0032]

Một vài phác họa chân dung hai nhân vật cầm đầu bộ máy chiến tranh chuẩn bị xâm lược Đại Việt là như vậy. Cừu Loan ngã ngựa dọc đường. Còn lại một thân, một ngựa, Mao Bá Ôn đã dùng bảo bối mà Minh thế tông trao cho trong chiếu thư khi xuất quân ra Lưỡng Quảng giáp Đại Việt như sau:

“Nay đặc cách sai nhà ngươi (Mao Bá Ôn) cùng với quan hầu Cừu Loan, đi trước đến chỗ thích trung giữa Lưỡng quảng và Vân Nam… chiếu theo các sự lý do bộ ấy đã đề nghị ra ĐỀU GIAO HẾT CHO NHÀ NGƯƠI TÙY NGHI XỬ TRÍ…

[Thù vực chu tư lục, tr123 – 124 bản dịch Trần Lê Hữu, TL/LS khoa sử,

ĐH KHXH&NV, KH: LS/ TL 0089]

Nhằm tìm ra một nhân vật trung gian có thể hoàn tất công việc trong nhóm quan lại lương quân Trương Kinh – ông Vạn Đạt – Trương Nhạc, để trao gửi chiếc chìa khóa giải quyết cuộc chiến trong danh dự. Mao Bá Ôn đã tìm được một nhân vật đáp ứng đủ tiêu chí mà Bá Ôn cần, đó là: Trương Nhạc

“Minh sử” chép:

“Về sau Mao Bá Ôn đem quân đến, Trương Kính đem tất cả việc quân giao cho Trương Nhạc trông coi. Lại tiến cử Trương Nhạc và ông Vạn Đạt với Bá Ôn. Trương Nhạc và Bá Ôn bàn luận trong mấy ngày. Bá Ôn bảo Nhạc rằng: “CÔNG VIỆC Ở GIAO CHỈ LÀ CỦA ÔNG” rồi cho Đăng Dung đầu hàng như lời Trương Nhạc đề nghị.

Triều đình bổ Nhạc đi lĩnh chức tham chính Chiết Giang. Bá Ôn tâu xin giữ lại. Nhạc được cải bổ làm tham chính Quảng Đông, chia giữ Hải Bắc”.

[Minh sử, q2, tr2143 tầng trên, dòng 17 và tầng dưới, tr58(bản dịch) liệt truyện Trương Nhạc, TL/LS khoa sử ĐH KHXH&NV, KH: LS/TL 0030]

d, Nhân vật Trương Nhạc

Trương Nhạc là ai mà đã được toàn bộ khối quân sự địa phương Lưỡng Quảng – Vân Nam đề cử cho Mao Bá Ôn .Từ đâu Mao Bá Ôn trao cho Trương Nhạc chiếc chìa khóa để [“đóng” – “mở”] cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt này.

          Duới đây xin dẫn ra nhân thân Trương Nhạc

Do “Minh sử” chép:

“Ông tự là Duy Kiều, đỗ tiến sỹ năm Đinh Sửu đời Chính Đức (1517) sau ông bị trích ra Liêm Châu, Liêm Châu cách Giao Chỉ một con sông. Bấy giờ triều đình đang bàn định việc đánh Giao Chỉ. Trương – Các đề nghị với bộ lại sai ông đi đánh, nhiều người tán thành việc đánh Giao Chỉ, chỉ có một mình ông tranh luận không nên đánh. Ông dâng sớ điều trần 6 điều không nên đánh, nhưng vẫn tuyển mộ binh sỹ, tích trữ lương thực, lập các đồn lũy, dự bị kế hoạch để đợi lệnh. Thượng thư Mao Bá Ôn lĩnh chức chủ súy. Mạc Đăng Dung sợ, mật sai người đến nói với ông xin đầu hàng.

Ngày Kỷ Hợi, ông được thăng chức đề học phó sứ tỉnh Chiết Giang, rồi đổi sang chức tham chính.

Bá Ôn theo đề nghị của ông cho Đăng Dung đầu hàng. Đăng Dung hỏi rằng thái thú Châu Liêm bây giờ ở đâu? Bá Ôn bèn cùng với đốc phủ Thái Kính tâu xin đổi ông coi châu Khâm và châu Liêm. Đăng Dung đến cửa quan đầu hàng, ông thân hành đến nhận sự đầu hàng và tặng Đăng Dung hai bài thơ”

[Minh sử, tập 23, q38, tr17a – 18a, tr86 – 87 (bản dịch); TL/LS

khoa sử ĐH KHXH&NV; KH: TL/LS 0032]

Trương Nhạc không phải là một nhân vật có danh chức trong triều đình nhà Minh, vốn là một quan chức địa phương, giáp với biên giới Đại Việt. Trương Nhạc có thời là đốc học tỉnh Chiết Giang Trung Hoa. Như vậy, ta có thể biết được rằng Trương Nhạc thuần túy là một người hiểu biết, có học vấn, là người chống chiến tranh. Thời gian từ năm 1517 Trương Nhạc đã làm việc tại biên giới sát Đại Việt đến năm 1540 đã là 23 năm Trương Nhạc sẽ rất hiểu tình hình nội bộ Đại Việt, cũng như tinh thần chống ngoại xâm của Đại Việt. Nhưng quan trọng hơn hết, tại sao Trương Nhạc được Mao Bá Ôn trao cho chiếc chìa khóa giải quyết cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt ầm ĩ này từ triều đình nhà Minh? Và tối quan trọng hơn cả Trương Nhạc là mắt xích gì cho sự đảm bảo mọi thương thuyết để giải quyết các vấn đề giữa hai quốc gia giai đoạn lịch sử đó.

          “An Nam chí nguyên” sẽ hé lộ một phần nào đó sự trao đi, đổi lại, cùng những tranh biện xung quanh sự kiện này:

“Gặp bấy giờ Tư mã Mao Bá Ôn đến, Nhạc đem hết cả những việc trước đã bàn luận và phân tích mà trình bày cho Bá Ôn biết. Nhạc lại chính tay viết thành một tập trình bày về tình hình nội bộ và hình thể đất đai phía giặc để cho Bá Ôn biết rõ và nói: “Nếu ông quyết kế cứ đánh thì phương lược dùng để mưu tính tiến thủ không còn gì hơn cái này nữa. Nhưng chỉ bằng bãi binh không đánh là kế hoạch hoàn toàn hơn cả. Đó là tùy ông quyết định sách lược ra sao đấy thôi”. Nhạc nói chuyện với Bá Ôn luôn mấy ngày, rất được Bá Ôn vừa ý. Bá Ôn nói kín với Nhạc rằng: “CÔNG VIỆC GIAO CHÂU GIAO CẢ CHO ÔNG ĐẤY”.

Trước đó Đăng Dung nghe biết triều đình (nhà Minh) dấy quân bèn sai đồ đảng là Phạm Chính Nghị đem công văn sang Vân Nam nói:

“Tiền quốc vương là Lê Chừu bị nghịch thần cảo giết hại, Chừu không có con. Đăng Dung cùng với người nước bèn lập Tuệ, em Chừu lên kế vị. Tuệ bị kẻ gian là Đỗ Ôn và Trịnh Tuy dỗ dời vào Thanh Hoa. Đăng Dung lại lập em Tuệ là Khoáng, rồi lại đón Tuệ từ Thanh Hoa trở về. Tuệ và Khoáng đều bị bệnh chết. Họ Lê không có người nối dõi. Khoáng khi sắp chết, có bàn với quân thần, cho rằng Đăng Dung có công lao với nước nên mới trao cho ấn chương, bảo đứng lên làm chủ trông coi việc nước (Mạc Đăng Dung) bèn được người nước suy tôn. Cái cớ sở dĩ không được dâng biểu thông sứ tiến cống là trước vì Trần Cảo chiếm giữ Lạng Sơn, làm nghẽn đường sau vì bởi thủ thần đóng cửa ải không tiếp nạp đó thôi. Lê Ninh là con của loạn thần Nguyễn Kim, mạo nhận là họ Lê, chứ không phải thực con của Tuệ”

Đăng Dung tuy tự kể lể trình bày như vậy, nhưng sự việc đều gian trá lừa bịp, phần nhiều là lời bào chữa cho mình. Kiềm quốc công Mộc triều phụ tâu việc ấy lên vua Minh biết.

Được ít lâu Phương Doanh (Đăng Doanh) chết, Mạc Phúc Hải lên nối ngôi. Đăng Dung sai sứ giả sang vận động với Nhạc. Nhưng Nhạc không hề thông hiếu với hắn. Đến bây giờ, Đăng Dung lại càng cầu xin tha thiết. Nhạc bèn yêu sách bằng những điều kiện như vẫn nói chuyện với đốc phủ (Thái Kinh) từ trước. Đăng Dung ban đầu từng còn quật cường, nhưng bị Nhạc dọa dẫm về họa phúc, bảo phải tự mình sớm liệu mưu tính lấy. Đăng Dung bấy giờ mới chịu một một vâng theo mệnh lệnh.

          Gặp bấy giờ Trương Nhạc thăng làm đốc học Chiết Giang, Rồi lại chuyển đi làm Tham chính. Đăng Dung do đó lại chùng chình nghi ngờ, không quyết đnh. Bá Ôn dâng sớ tâu xin cho Nhạc được về Quảng Đông. Đăng Dung cho người dò xét thái thú Liêm Châu ở đâu. Khi biết Nhạc đã đến Quảng Đông. Đăng Dung nói:

“Thái thú họ Trương (Trương Nhạc) ở đó, thì ta không sợ rồi”

 [An Nam chí nguyên, tr31 – 32, viện sử học, KH: ĐVv 290]

          Bức tranh toàn cảnh nội bộ triều đình nhà Minh được dẫn giải qua ba nhân vật chính tham dự guống máy chiến tranh xâm lược Đại Việt cuối năm 1540, đã được chúng tôi phác họa ở trên, nhằm góp phần đưa yếu tố khách quan sự kiện này về đúng vị trí của nó trong lịch sử.

  1. BỐI CẢNH NHÀ MẠC GIAI ĐOẠN (1527 – 1540) NHỮNG BIỆN PHÁP ĐỐI PHÓ VÀ CHUẨN BỊ CHIẾN TRANH VỆ QUỐC

          Bối cảnh Đại Việt trước khi nhà Mạc ra đời là sự cấu thành những mâu thuẫn sâu sắc trong lòng 1 xã hội quân chủ kéo dài từ thế kỷ XV – XVII. Sự ra đời của nhà Mạc chấm dứt 20 năm đại khủng hoảng nội bộ Đại Việt. Một sự thay đổi khách quan theo một tiến trình vận động tự nhiên “cùng – biến – thông”, sự thay đổi này diễn tiến trong gần hai thập kỷ đã giúp Đại Việt đi dần vào quỹ đạo ổn định và phát triển theo hướng tích cực. Thành quả đó các sử gia Lê trung hưng không thể phủ nhận khi soạn “Bản kỷ tục biên”.

          Nhà Mạc ra đời, lại đứng trước những mẫu thuẫn nội tại mới nảy sinh xuất phát từ hệ tư tưởng nho giáo và nhận thức xã hội cách ngày nay 5 thế kỷ. Những ảnh hưởng từ chế độ cũ, hình ảnh, danh tiếng người anh hùng dân tộc Lê Lợi khắc sâu vào đời sống văn hóa cả dân tộc. Sau gần 20 năm phân rã, chính quyền trung ương nhà Lê tạo ra những nhóm quan lại tranh giành quyền lực, bất chấp quyền lợi đất nước, những toan tính mưu quyền được thể chế hóa bằng một chính thể, hai khuôn mặt vv…

          Trong khi đó, ở bên kia biên giới, đế quốc Trung hoa một lần nữa âm thầm chuẩn bị một cuộc chiến tranh quy mô lớn nhằm thôn tính Đại Việt.

          Bối cảnh nhà Mạc thời kỳ này, được các sử gia đương thời  mô tả nằm trong tình huống “lưỡng đầu thọ địch”.

“lưỡng” là hai: Hai lực lượng quân sự, một ở bên kia biên giới Đại Việt đang lăm le tiến hành cuộc chiến tranh tổng lực xâm lược Đại Việt, lực lượng thứ hai đang nhen nhóm và thành hình tại Thanh Hoa Đại Việt. Nhưng trên thực tế nhà Mạc đang đứng trước một tình huống “ngũ đầu thọ địch”

Trên tấm bản đồ quân sự của nhà Mạc xuất hiện năm gọng kìm từ năm hướng:

            – Bốn hướng đánh vào Đại Việt từ bên ngoài

            – Hai hướng nội ứng trong nội bộ Đại Việt (hai hướng nội ứng quy vào một mối)

  1. NHỮNG HƯỚNG TIẾN CÔNG TỪ BÊN NGOÀI VÀO ĐẠI VIỆT
  2. Lực lượng quân sự của triều đình nhà Minh

          Lực lượng quân sự chính quy của nhà Minh được chia làm hai mũi tiến quân từ hai hướng vào Đại Việt, “Minh sử” chép:

 “Tháng 7 nhuận, vua sai Bá Ôn và Cừu Loan đi đánh An Nam. Bọn Bá Ôn đến Quảng tây, hội đồng với tổng đốc Trương Kính, tổng binh Liễu Tuân, tham chính ông Vạn Đạt và Trương Nhạc để bàn định các công việc. Lại trưng bắt lính ở Quảng Đông, Quảng Tây, Hồ Quảng và người thổ lang cộng. 12 vạn 5 nghìn người, chia làm 3 đạo từ Bằng Tường, Long -Động và Tư Lang tiến sang An Nam và lấy 2 đội kỳ binh làm thanh viện. Bá Ôn tự cho tuần phủ Vân Nam là Uông Văn Thịnh đem quân đóng ở ghềnh Liên Hoa và cũng chia làm 3 đạo tiến sang An Nam”

[Minh sử, liệt truyện Mao Bá Ôn, q2, tr2088 tầng dưới đến 2090 tầng trên, tr51 (bản dịch), TL/LS khoa sử, ĐH KHXH&NV. KH: TL/LS 0029]

  1. Ba lực lượng quân sự của Lão Qua và Xạ Lý, Bát Bách

          Là 3 nước nhỏ nằm ở phía tây, tây bắc Đại Việt ba lực lượng quân sự này sẵn sàng tham dự ba hướng tấn công vào Đại Việt từ hướng tây, tây bắc (Mộc Châu).

          Ngày 23/10 năm Gia Tĩnh thứ 16 (1537) “Minh thực lục” chép:

“[1221] tuần phủ Vân Nam Uông Văn Thịnh tâu…Thổ xã trang tuyên ủy LÃO QUA phạ nhã nghe tin chinh phạt An Nam hăng hái đầu tiên tình nguyện, vả lại nước này đất rộng nhiều người An Nam sợ chúng, có thể cho đối địch riêng một phía.

Mặt khác, thổ xã trang tuyên ủy BÁT BÁCH Điêu Lăm Na, Thổ Xã ty, tuyên ủy XẠ LÝ (1 nước nhỏ giáp Lão Qua).

Điêu Khâm gần với Lão Qua, thổ xã ty Mạnh Lương Điêu giao tại thượng lưu Lão Qua đất nhiều lính voi sẵn sàng việc chinh thảo. Xin miễn việc tra khám, ra lệnh cho họ tề tựu tại địa phương, nên ra lệnh cho Lão Qua trú binh tại Mộc Châu để đợi tiến binh, bọn họ chiếm được địa phương nào cho cai quản, chiếu thư ban: có thể chấp nhận lời tâu”

[Minh thực lục v80, tr4282 – 4283 thế tông, q205, tr4b – 5a, tr202

 bản dịch, NXB Hà Nội, 2010]

          Vậy là có thêm ba lực lượng quân sự nước ngoài cùng tham chiến đánh Đại Việt từ phía tây, tây bắc đất nước. Nhưng điều tối nguy hiểm bởi âm mưu làm tan hoang Đại Việt: “Bọn họ chiếm được địa phương nào cho cai quản”

          Mảnh đất ngàn năm ông cha đã đổ bao xương máu gây dựng giữ gìn nay sẽ bị chia 5 xẻ 7, sẽ bị xé nát trước âm mưu thâm độc từ phía bắc, khi những đội quân xâm lược ô hợp trên giày xéo đất nước cái gì sẽ phải trả giá? Nhà Mạc đứng trước một nút thắt của lịch sử từ 5 mũi tiến công ở bên ngoài và bên trong nội bộ Đại Việt.

  1. Lực lượng quân sự của Chiêm Thành đánh Đại Việt từ biển vào

          Ngày 6/4 năm Gia Tĩnh thứ 17 (1538) (sau 1 tháng lệnh hoãn binh từ Minh thế tông 1537), xuất hiện yếu tố Chiêm Thành, tri châu Khâm châu Lâm hy nguyên dâng biểu lên Minh thế tông trình bày phương lược đánh Đại Việt từ biển vào Dương Kinh Đại Việt.

“Minh sử” chép:

          “[1239] ngày 6 tháng 4 năm Gia Tĩnh thứ 19 (1540) Tri châu châu Khâm, Lâm hy Nguyên dâng biểu rằng:

“Thần nghe nói rằng Mạc Phương Doanh An Nam xin hàng, đặc mệnh đại thần tra khám. Kẻ hàng nộp sổ sách ghi đất đai dân số để hiến, nay giết quân lính của ta, cướp chiến thuyền của ta, hàng mà như vậy ư? Nay gửi đại thần đến khám hỏi; vậy khám gì đây? Nếu khám xem nước đó hoặc các phe phái hàng hay dối trá, thì thực tình không hay biết được. Khám về biên giới, thì các trọng thần nơi biên cương đã làm rồi, ai dám trả lời khác được. Thần nghĩ rằng muốn biết tình thật, bắt giao ước những điều sau đây:

PHẢI TRẢ CHO TA 4 ĐỘNG, lệnh để Lê Ninh không mất ngôi vị, lệnh để cựu thần nhà Lê như Trịnh Duy Liêu, Vũ Văn Uyên không mất chức tước và đất tuân theo lịch chính sóc. Theo những điều của ta là hàng, không theo là ngụy trá. Nhân đó hưng binh hỏi tội, lại được sự trợ giúp của lực lượng Thuận Tòng, thì trận nào mà chẳng thắng. Lại bảo: “Chỗ dựa của Phương Doanh là Đô Trai (Cổ Trai) vùng này gần biển, bùn lầy hơn 10 dặm, thuyền không ghé được. Kế hoạch của chúng nếu kinh thành không giữ được thì chạy đến Đô Trai, Đô Trai không giữ được thì chạy ra biển. Nếu quân ta tại Đông Hoán, Quỳnh Hải giúp Chiêm Thành đánh về phía Nam, thì giặc không chạy được.”

[Minh thực lục v84, tr4815 – 4817, thế tông, q216, tr2a – 3a, tr211 – 212, Minh thực lục quan hệ Trung Quốc – Việt Nam thế kỷ XIV – XVII, NXB Hà Nội, 2010]

Những tính toán, dự trù kế hoạch quân sự từ triều đình Minh thế tông đã hoàn tất trước năm 1540. Trên tấm bản đồ quân sự tác chiến, 4 mũi tấn công Đại Việt từ bên ngoài đã đươc lên khung cùng với năm lực lượng nội ứng của Đại Việt tương tác, hoàn chỉnh chuẩn bị vượt biên giới xâm lăng Đại Việt.

  1. LỰC LƯỢNG NỘI ỨNG TRONG LÒNG ĐẠI VIỆT

          Sau gần 5 năm tranh cãi, đánh hay không đánh Đại Việt, cùng với việc chuẩn bị hậu cần chiến tranh, guồng máy chiến tranh xâm lược của nhà Minh vận hành một cách ì ạch, chậm chạp. Đến ngày 24/3 năm Gia Tĩnh thứ 17 (1538) Minh thế tông đột ngột xuống chiếu tạm hoãn đánh An Nam, chiếu viết:

“[1222] ngày 24 tháng 3 năm Gia Tĩnh thứ 17 (22/4/1538) vì những lời tâu của Lê Ninh Hoãn việc chinh phạt An Nam”

[Minh thực lục v80, tr4341 – 4343, thế tông, q210, tr4a – 5a, Minh thực lục – quan hệ Trung Quốc – Việt Nam thế kỷ XIV- XVII, tr203, NXB Hà Nội, 2010]

          Tại sao sau một thời gian khá dài, chuẩn bị kỹ càng chỉ chờ ngày phát lệnh chinh thảo Đại Việt, Minh thế tông lại xuống chiếu hoãn binh?

          Một giọt nước làm tràn ly, một cục diện mới xuất hiện từ nội bộ Đại Việt mang món quà mới đến với Minh Thế tông: hai lực lượng nội ứng sẵn sàng nộp đất cho kẻ thù. Thế và trận đã chuyển sang một tình huống mới, cần toan tính mới của Minh thế tông trước kế hoạch xâm lược Đại Việt.

  1. Sự kiện từ cựu thần nhà Lê:

“Minh thực lục” chép:

“[1218 ngày 6 tháng 9 năm Gia Tĩnh thứ 16 (9/10, ngày Nhâm Ngọ, trước đó người Giao Chỉ Vũ Văn Uyên mang đồng đảng đến hàng. Đô ngự sử Uông Văn Thịnh sai chỉ huy Triệu Quang Tổ đến phủ dụ. Văn Uyên bèn sai người di là bọn Nguyễn Hoằng Quý đến hiến bản đồ tiến binh, nhân nói về tình trạng loạn lạc tại An Nam rằng Văn Uyên vốn là bầy tôi của nhà Lê, do loạn Đăng Dung nên ra đóng quân tại Tuyên Quang, cựu thần nhà Lê như Nguyễn Nhân Liên, Lê Kinh Mỹ, mỗi người chiếm đóng mỗi phương, đánh nhau với Đăng Dung. Văn Uyên có 10000 quân, đợi thiên binh xuống phía Nam sai cháu là Vũ Tử Lăng đóng tại cửa ải Thạch Long để nhập theo, rồi hiệu triệu người trong nước thế có thể dẹp Đăng Dung được. Văn Thịnh xin ban cho Văn Uyên chức quan và cấp sắc dụ để tiện liệu việc”

[Minh thực lục v80, tr4262, thế tông, q204, tr1b, Minh thực lục quan hệ Trung Quốc Việt Nam thế kỷ XIV – XVII, tr199 – 200, NXB Hà Nội, 2010]

  1. Sự kiện từ nội bộ nhà Lê trung hưng:

Trong các cuộc chiến tranh nói chung không thể không tính đến sức mạnh ghê gớm của lực lượng quân sự nội ứng đã buộc Minh thế tông hoãn binh vào ngày 23/4/1538 này. Sau khi nhận được “món quà” từ phía Lê – Trịnh.

“Minh thực lục” chép:

“[1222] Ngày 24 tháng 3 năm Gia Tĩnh thứ 17 (23/4/1538) vì những lời bàn tán về Lê Ninh, nên tạm hoãn việc chinh phạt An Nam…

…Cùng lúc triều phụ lại báo Lê Ninh đã nhận được hịch văn gửi trước đó, tường trình việc (họ Mạc)  soán đạt và giết vua, xa giá lánh nạn, cùng cung cấp tin tức về số binh mã thủy bộ, trình bày con đường tiến quân chiếu thư phán đưa nội vụ xuống bộ binh tập hợp phủ, bộ, các quan hội bàn…”

 [Minh thực lục, tr4341 – 4343, thế tông, q210, tr4a – 5a, Minh thực lục –  quan hệ Trung Quốc – Việt Nam thế kỷ XIV – XVII, tr203 – 204, NXB Hà Nội, 2010]

          Toàn cảnh bản đồ quân sự của triều đình nhà Minh kết hợp với các lực lượng quân sự nước ngoài, hai lực lượng nội bộ Đại Việt làm nội ứng đã được chuẩn bị chu đáo hòng xâu xé tan hoang Đại Việt một lần nữa sau nhà Hồ. Nhà Mạc đứng trước một tình huống ngũ đầu thọ địch”.

nha mac

Bản đồ quân sự các hướng tiến công từ biên kia biên giới vào Đại Việt và 2 lực lượng nội ứng

III. NHỮNG BÀI HỌC TỪ LỊCH SỬ

          Lịch sử như một sợi dây chằng níu giữ gìn quá khứ, hiện tại và tương lai cho một xã hội hay lớn hơn là cả một dân tộc và một đất nước. Nhìn lại quá khứ, những bài học xương máu từ lịch sử đã được các thế hệ đi trước rút ra những lời tâm huyết, truyền lại cho đời sau:

“Xem tập: Bình định nam giao lục, có thể biết được cái lỗi cha con họ Hồ sở hở lầm lẫn, mở đường cho giặc kéo vào cướp nước”

 [Kiến văn tiểu lục, tr196, viện sử học XB 2007]

          Dù lịch sử đã trôi qua hơn 600 năm, cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt do Minh Thành tổ phát động với cái mác “Hưng diệt, phế tuyệt” (diệt Hồ, cứu Trần) xảy ra trước kia. Ngày nay chúng ta đọc những lời than phẫn uất trong “Bình ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi . Hay ghi bút của sử thần Ngô Sỹ Liên, hậu thế chúng ta càng hiểu được những tội ác tày trời của một cuộc chiến tranh xâm lược từ phương bắc vào Đại Việt:

“Giáo mác đầy đường, đâu chẳng là giặc Minh cuồng bạo, sách vở cả nước đều trở thành đống tro tàn. Muốn tìm sự tích sót lại trong than, trong tro”

[Bài tựa, Ngô Sỹ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư, tr20, NXB VHTT, 2004]

          Để biết thật sâu, nhằm hiểu thật rõ những âm mưư đen tối, những tội ác đất không dung trời không tha từ Minh thành tổ và đội quân xâm lược phương bắc gây ra cho Đại Việt. Không thể không nhắc tới tác phẩm: “Việt Kiệu thư” do Lý Văn Phượng người đời Minh soạn. Tác phẩm lưu giữ toàn bộ các chiếu thư của Minh thành tổ gửi Chu Năng, Trương Phụ, Trần Húc, Lưu Tuấn trong quá trình xâm lược Đại Việt giai đoạn này.

          Năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1406) Minh thành tổ phát động cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt, “Minh sử” chép:

“Tháng 7, cho Chu Năng làm chinh di tướng quân, Mộc Thạnh và Trương Phụ làm phó, đem quân chia đường sang đánh An Nam. Lại lấy binh bộ thượng thư Lưu Tuấn làm tham tán quân vụ, hành bộ thượng thư Hoàng Phúc và đại Lý Khanh Trần Hiệp đốc biện lương hướng”

[Minh sử, q1, tr87 tầng trên và tầng dưới, tr5 (bản dịch) TL/LS khoa sử,

ĐH KHXH&NV. KH: TL/LS 0029]

          Từ 15/7 năm 1406 đến 20/9/1406 Minh thành tổ đã gửi 14 chiếu thư cho tổng binh quan chinh di tướng quân thành quốc công Chu Năng. Nội dung 14 chiếu sắc quá dài, chỉ xin lược dẫn một số nội dung chính đơn cử như sau:

a, Chiếu thứ nhất: Năm thứ 4 Vĩnh Lạc, tháng 7 nhuận ngày mồng 4

“Sắc cho bọn tổng binh quan chinh di tướng quân thành quốc công Chu Năng biết… Mười việc kê sau:

3, Quân vào nước An Nam trừ bản kinh và sách kinh vệ thích, đạo thì không hủy, còn nhất thiết các bản in sách, văn tự cho đến những câu quê tục, câu trẻ con học như loại “thương đại nhân” “khưu ất dĩ” mảnh giấy một chữ cũng đều đốt hủy đi hết. Ở trong nước ấy hễ có cái bia nào của Trung Quốc đã lập từ  ngày trước thì để lại, nhưng chỉ cái nào mà là của An Nam thì hủy đi hết, một chữ chớ để còn lại.

4, Hỏi xem cột đồng thời cổ ở chỗ nào cũng tiện phá nát, quẳng ra đường, để cho quốc nhân biết.

5, Hỏi dò khắp trong nước có những người tinh tế thông hiểu, giỏi về mưu lược cùng bọn gian trá quỷ quyệt đều cho cả vào hang hoài tài bão cao, cử lên hết cho đưa về kinh (nhà Minh).

6, Các hạng thợ và nhạc công người nước ấy tìm ra hết, cùng cả gia thuộc, đưa về kinh sư (nhà Minh)…”

[Việt Kiệu thư, tr101 – 102, q1 – q2 (bản dịch) TL/LS khoa sử,

ĐH KHXH&NV. KH: TL/LS 0003]

 

b, Chiếu thứ 2

“Năm thứ 2, niên hiệu Vĩnh Lạc tháng 8 ngày mồng 1 (1406) sắc cho bọn tổng binh quan, chinh di tổng quân thành quốc công Chu Năng biết…

18 việc kê ra như sau

12, Sau khi bình định được An Nam, có những người các hạng: sự, đạo, thầy thuốc, thầy cúng, bói toán, âm dương, thuật sô, đều phải đưa hết về kinh, việc ấy rất khẩn.

13, Các hạng người thợ thuyền, kỹ thuật phải tìm ra cho hết, cùng cả vợ con đưa hết về kinh đô…”

 [Việt kiệu thư, q1 – q2 (bản dịch), tr108 – 109 TL/LS khoa sử,

ĐH KHXN&NV. KH: TL/LS 0003]

c, Chiếu thứ 3

“ Năm thứ 4, niên hiệu Vĩnh Lạc tháng 8 ngày 27 sắc…

Kê thêm 2 việc:

1, Trước đây dụ các người về việc đốt nhà ở, nay lập quận huyện phàm nhất thiết nhà cửa không thể đốt hủy được. Sau khi bình yên, tức thì dùng để ở, cần phải ngăn cấm quân sỹ…”

 [Việt kiệu thư, q1 – q2 (bản dịch) tr110, TL/LS khoa sử,

ĐH KHXN&NV. KH: TL/LS 0003]

          Chu Năng mất, Trương Phụ lên thay từ ngày 21/10/1406 đến ngày 17/2/1406 Minh thành tổ gửi cho Trương Phụ 54 chiếu thư chỉ đạo về chiến tranh xâm lược Đại Việt (Chúng tôi dẫn ra 4 sắc Minh thành tổ gửi Trương Phụ trong giai đoạn này.)

 

d, Chiếu thứ nhất

“Năm thứ 5 niên hiệu Vĩnh Lạc (1407) Ngày 9 tháng Giêng sắc cho tổng binh quan chinh di hữu phó tướng quân tân thành hầu Trương Phụ, hữu tham tướng vân dương bá Trần Húc, Binh bộ thượng thư Lưu Tuấn…

Tục thêm 3 việc

1, Một là: Những thợ làm hương, làm gạch không cứ thợ giỏi hay thợ vụng đều phải đưa hết về kinh sư cùng cả vợ con. Còn những người thợ khác nghề khác thì lục tục cùng cả vợ con cho đưa về sau.

Một là: cột đồng thời xưa, không biết ở chỗ nào, phải tìm tòi cho ra, đào lên đập nát bỏ ra ở đường…”

[Việt kiệu thư, q1 – q2 (bản dịch) tr116 – 117, TL/LS khoa sử,

ĐH KHXN&NV. KH: TL/LS 0003]

e, Chiếu thứ hai

“Năm  thứ 5 niên hiệu Vĩnh Lạc (1047) ngày 19 tháng 5 xuống sắc rằng…

Tục thêm 2 việc:

2, Giao Chỉ có những bọn thầy thuốc, thầy cúng, thầy bói, phường nhạc, con hát, thợ hương, thợ gạch, các hạng người thợ khác kỹ nghệ phải tận số, cùng cả vợ con đưa về kinh. Có những người thân thể cao lớn, người biết bắn súng, người biết trộn thuốc đạn, người lái thuyền, giỏi am hiểu đường bể cùng các hạng người bắt sống động vật cùng  cả vợ con đưa về kinh…”

 [Việt kiệu thư, q1 – q2 (bản dịch) tr128, TL/LS khoa sử,

ĐH KHXN&NV. KH: TL/LS 0003]

f, Chiếu thứ 3

“Năm thứ 5, niên hiệu Vĩnh Lạc (1407) ngày 21 tháng 5 sắc cho tổng binh quan chinh di hữu phó tướng quân tân thành hầu Trương Phụ…

Tục thêm 1 việc:

Đã luôn luôn dụ bảo ngươi rằng phàm tất cả những bản in sách, văn tự của An Nam có, cho đến những bài quê kệch con trẻ học tập như loại: “Thượng đại nhân”, khưu ất dĩ” MỘT MẢNH GIẤY, MỘT NỬA CHỮ cùng những bia khắc của nước ấy tự dựng, hễ thấy thì lập tức hủy hoại đi chớ để còn lại. Nay nghe thấy quân Trung có được những văn tự, lại không sai ngay quân nhân đốt hủy. Phải kiểm xem rồi sau hãy đốt, vả quân Trung nhiều người không biết chữ nếu nhất thiết làm như thế, tất đến chuyện bỏ sót mất nhiều. Từ nay ngươi phải y theo sắc trước ra lệnh cho quân Trung hễ gặp được hết thảy những văn tự của nước ấy sở hữu, lập tức đốt hủy không được để lưu lại…”

 [Việt kiệu thư, q1 – q2 (bản dịch) tr130, TL/LS khoa sử,

ĐH KHXN&NV. KH: TL/LS 0003]

g, Chiếu thứ tư

“Năm thứ 5 niên hiệu Vĩnh Lc (1407) ngày 16 tháng 5…

Tục thêm 2 việc

  1. Trừ chế dụ ra, nhất thiết những thư sắc phát đi, ký sự tiểu thiếp cùng tiểu sách thành quốc công (Chu Năng) mang đi và sự kiện điều hoạch đều kiểm tối mật. Phong tất cả nộp về không được lưu lại một chữ. Nếu có một chữ rơi sót ở đấy thì không tiện”

[Việt kiệu thư, q1 – q2 (bản dịch), tr128, TL/LS khoa sử,

 ĐH KHXN&NV. KH: TL/LS 0003]

h, Chiếu thứ năm

“Năm thứ 5, niên hiệu Vĩnh Lạc (1407) ngày mồng 1 tháng 8, sắc cho tổng binh quan chinh di hữu phó tướng quân tân thành hầu Trương Phụ…

Trẫm trước sai các ngươi hễ gặp kẻ đối địch cùng cự mệnh không phục, phải nên giết chết ngay đi. Nhà có người nào tuổi nhỏ thì đem hoạn đi dùng làm người đun nấu, ngõ hầu rộng bảo toàn sinh mệnh cho nó. Nay nghe thấy các ngươi đem những đứa vô tội nhất loạt hoạn thiến cả, sai hình pháp quá lắm vậy! Từ nay về sau, nên thể lòng trẫm, không nên làm tràn đến cả kẻ vô cớ, vậy sắc…”

[Việt kiệu thư, q1 – q2 (bản dịch) tr136, TL/LS khoa sử,

 ĐH KHXN&NV. KH: TL/LS 0003]

          14 chiếu sắc cho Chu Năng, 54 chiếu sắc gửi cho Trương Phụ còn cả trong “Việt kiệu thư” đều do Minh thành tổ ghi bút trong cuộc chiến xâm lăng Đại Việt kỷ nhà Hồ. Giáo sư Hoàng Xuân Hãn trong tác phẩm “Lý Thường Kiệt lịch sử ngoại giao và tông giáo triều Lý” đã viết:

“Mong ai nấy nhận thấy một cách rõ ràng, cụ thể, sự nguy hiểm của một cuộc ngoại xâm, nhận thấy sự lo việc nước không phải chỉ ở đầu lưỡi, mà cần hết cả lòng hy sinh, trí sáng suốt để xếp đặt, tính toán”

[Lý Thường Kiệt Lịch sử ngoại giao và tông giáo triều Lý, tr16, NXB Hà Nội 2010]

  1. CHÚNG TA ĐỨNG TRÊN QUAN ĐIỂM NÀO?

          Trong các cuộc chiến tranh vệ quốc của Đại Việt đã sinh ra các vị anh hùng dân tộc,  mãi mãi lưu truyền danh thơm cho hậu thế. Nhưng bên cạnh đó cũng xuất hiện những nhân vật đã không đặt lợi ích đất nước, dân tộc lên trên lợi ích cá nhân, gia đình dòng họ mình. Thậm chí đã đứng hẳn về phía đối phương, bán rẻ quyền lợi chính trị cá nhân, bán rẻ đất nước cho kẻ thù.

          Là hậu thế đang sống tại thế kỷ thứ 21, nhìn ngược lại lịch sử tổ tiên, cha ông mình từ thời lập nước đến nay chúng ta có những quan điểm như thế nào về lịch sử giữ nước và bảo vệ đất nước của nhà Mạc?

          Trong cuốn “Kiến Văn tiểu lục” Lê Quý Đôn đã nhận định việc sơ hở của nhà Hồ, trách nhiệm lịch sử của nhà Hồ mở đường cho đám quân xâm lược phía bắc giày xéo đất nước suốt 20 năm như sau:

“Xem tập Bình định nam giao lục (Châu Tấn nhà Minh soạn) có thể biết được cái lỗi cha con nhà Hồ sơ hở, lầm lẫn, mở đường cho giặc kéo vào cướp nước và tài năng khí phách oanh liệt của vua tôi nhà Hậu Trần”

 [Kiến văn tiểu lục, tr96, viện sử học xuất bản 2007]

          Đó là quan điểm của một người con Đại Việt sinh sau sự kiện lịch sử này 300 năm (nhà Hồ), một danh nhân văn hóa Đại Việt, rồi chính từ một con người đó, có cái nhìn sự kiện lịch sử trước thời đang sống 150 năm (tại kỷ nhà Mạc) đối với vấn đề Trịnh Duy Liêu như sau:

“Trịnh Duy Liêu người xã Kim Bôi huyện Vĩnh Ninh phụng mệnh vượt biển sang Trung Quốc xin quân, Thế Tông nhà Minh cũng vì đấy cho quân đánh nhà Mạc…

Tuy công việc không thành nhưng chí khí tiết tháo đã vang cả trời đất…

Như Duy Liêu có thể gọi là người đại tài, đại trung, đại dũng trong nước”

[Kiến văn tiểu lục, tr318 – 319, viện sử học xuất bản, 2007]

          Về sau, cách sự kiện lịch sử nhà Mạc khoảng 250 năm, các sử thần triều đình Nguyễn đã có những lời bình về việc Trịnh Duy Liêu vượt biển xin nhà Minh đem quân đánh nhà Mạc, “cương mục” chép:

“Người Minh ngờ rằng có sự dối trá. Duy Liêu bèn viết bức thư hàng vài ngàn lời, tự cho mình là người có nghĩa khí có thể sánh với Thân Bao Tư, Trương Tử Phòng, lời lẽ trong thư trung nghĩa mà đầy giọng căm hờn, hăng hái mà sục sôi tức bực, khiến người đọc phải xót xa”

[Việt sử thông giám cương mục, q14, tr1332 – 1333, NXB văn sử địa, 1959]

          Cả 2 lời dẫn ở trên đều có chữ “trung nghĩa” như vậy chữ “trung” của nho giáo được hiểu như thế nào qua hành động của Trịnh Duy Liêu:

“trung thần bất sự nhị quân, quân sử thần tử, thần bất tử, bất trung”

          Người bầy tôi trung thành không thờ hai vua, vua bảo bầy tôi phải chết, bầy tôi mà không chết là bất trung. Từ ảnh hưởng đó của nho giáo dẫn đến muôn vàn tình huống bất tương xứng, thậm chí đi ngược lại trách nhiệm đối với đất nước và dân tộc trong lịch sử Đại Việt. Nhìn lại lịch sử đất nước đã trôi qua gần 500 năm, chúng ta đánh giá gì về việc nhà Lê – Trịnh 4 lần cử sứ thần sang nhà Minh xin quân đánh nhà Mạc? Chúng ta đánh giá gì về 2 lực lượng nội ứng của Vũ Văn Uyênnhà Lê trung hưng đem quân, voi, ngựa, vũ khí, vẽ đường, lập phương án, hợp đồng với giặc từ phương bắc kéo vào Đại Việt?

          Trong khi đó với thời gian 150 năm nhà Mạc tồn tại trong chính trường Đại Việt, nhà Mạc đã một lần nào xin, mời người Minh vào trong nước giúp nhà Mạc chống lại Vũ Văn Uyên, chống lại nhà Lê Trịnh?

          Ngay cả thời kỳ cát cứ tại Cao Bằng người họ Mạc chỉ dựa vào nhà Minh, nhà Thanh để giữ lấy phần đất cát cứ của họ. Chứ chưa 1 lần xin quân nhà Minh đánh lại đối phương của mình. Thậm chí sử cũ do sử thần Lê trung hưng soạn, họ còn chép cả di huấn của đại thần nhà Mạc: Đà quốc công Mạc Ngọc Liễn:

“Lại chớ nên mời người nhà Minh vào trong nước ta, để đến nỗi dân ta phải chịu lầm than, đó cũng là tội không gì nặng bằng”

[Đại Việt sử ký toàn thư, q2, tr723, NXB VHTT, 2004]

          Thật quá rõ ràng, cùng thời, cùng bị nho giáo chi phối, lập trường quang minh chính đại của nhà Mạc, các đời vua nhà Mạc có lập trường như vậy với đất nước với nhân dân. Liệu chúng ta có thể đổ lỗi cho chữ “trung” được chăng? Cũng đã có những phân ưu về quan điểm này của cụ Lê Khắc Hòe trong một bài báo cách ngày nay vài chục năm:

“Không biết gọi bọn Trần Thiêm Bình sang cầu quân Minh về đánh nhà Hồ. Bọn cựu thần nhà Lê sang Vân Nam xin quân Minh sang đánh nhà Mạc, vua Lê Chiêu Thống sang cầu quân Thanh sang đánh Tây Sơn… Không biết phải gọi bọn ấy là gì? Vì bọn ấy không chỉ dâng mấy làng, mấy động mà dâng cả giang sơn tổ quốc cho nước ngoài, đưa cả dân tộc vào vòng nô lệ”

[Mạc Đăng Dung và vương triều Mạc, tr93, hội khoa học lịch sử Việt Nam xuất bản, 2000]

  1. NHỮNG BIỆN PHÁP NHẰM HÓA GIẢI CHIẾN TRANH VÀ CÔNG TÁC QUÂN SỰ CHUẨN BỊ CUỘC CHIẾN TRANH VỆ QUỐC CỦA NHÀ MẠC.

          Xuất phát từ tình huống thực tế, những năm (1527 – 1540) nhà Mạc nắm được những quyết sách, toan tính của triều đình Minh thế tông như đã trình bày ở phần I. Mặt khác nhà Mạc lo ổn định tình hình kinh tế, xã hội trong nước vầ gấp rút chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh bảo vệ đất nước.

  1. Những tình huống đặt ra cho nhà Mạc, công tác chuẩn bị các phương án chiến tranh vệ quốc.

          Đại Việt với vị trí địa chính trị đặc biệt nằm sát cạnh một quốc gia quá lớn về diện tích, quá nhiều về dân số. Nước Trung hoa khổng lồ ấy đã sản sinh ra một học thuyết: Thiên triều là trung tâm, tứ di vây quanh, tứ di có nghĩa vụ phục tòng: Cầu phong, cống nạp, cậy nhờ sự bảo hộ từ thiên triều. Những can thiệp bằng quân sự nhằm thôn tính, bảo hộ, diễn ra từ mấy ngàn năm quanh các tứ di. Đại Việt luôn trong tầm ngắm thôn tính, Đại Việt mạnh ý chí, thôn tính giảm, Đại Việt lục đục, ý chí thôn tính phát triển theo cấp số nhân.

          Nhà Mạc rơi vào tình huống thứ hai, Đại Việt lục đục. Cái mác “hưng diệt phế tuyệt” từ Thiên triều “cứu Trần diệt Hồ” nay đổi sang chữ “cứu Lê diệt Mạc” đang phả hơi suốt chiều dài biên giới từ tây sang đông. Bóng đen của một cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn, với kế hoạch kết nối bốn lực lượng quân sự nước ngoài, hai lực lượng nội ứng trong lòng Đại Việt. Đã được lên phương án sắp sửa tràn qua biên giới với tổng số gần 30 vạn quân xâm lược. Giải quyết một cuộc chiến tranh, khống chế mối họa từ bên kia bên giới không đơn giản, như những gì người ta đã viết về nhà Mạc “dựa hẳn vào ngoại bang”, “hèn hạ”, “khiếp sợ”, “vì lợi ích dòng họ” nhẹ nhàng như bút viết trên tờ giấy mỏng…

          Với những cái cớ “không nạp cống”, “loạn nghịch” nhà Minh đã lặp lại những thế võ “hưng diệt phế tuyệt” như lời tâu của Hạ Ngôn sau đây:

“An Nam không vào triều cống 20 năm nay. Thủ thần lưỡng quảng bảo Lê Huệ và Khoáng đều không phải là ngành trưởng của Lê Trửu đáng lập mà Đăng Dung và Trần Cảo đều là bọn thoán nghịch, nếu sai quan đi xét hỏi, tìm lấy những tên chính phạm, trước sứ giả đã bị nghẽn đường không đi được, thì nay nên tạm hoãn, đừng cho sứ sang vội. Vua cho rằng: “Việc loạn nghịch ở An Nam đã được rõ ràng nên kíp sai quan đi khám xét vua lại sai Hạ Ngôn với bộ binh thảo luận về việc đem quân sang đánh An Nam”

[Minh sử 321, qIII, tr3532 – 3547, tr104- 105, bản dịch. TL/LS khoa sử,

ĐH KHXH&NV. KH: LS/TL 0030]

          Bất kể một cuộc chiến tranh vệ quốc nào thắng lợi hay thất bại cũng bắt nguồn từ quyền lực của nhân dân, hội nghị “Diên Hồng” kỷ nhà Trần, hội nghị chiến tranh của nhà Hồ và một hội nghị do triều đình nhà Mạc tổ chức để bàn về chiến tranh vệ quốc đã được “Thông sử” chép:

“Đăng Doanh rất sợ! Liền tu sửa trại sách, luyện tập thủy quân. Trưng cầu hết thảy các cựu thần, lão tướng để cùng bàn việc nước”

[Thông sử, tr343, viện sử học xuất bản, 2007]

          Một hội nghị “Diên Hồng”  vào thời Mạc để lo việc nước, đâu chỉ có người họ Mạc, bách tính Đại Việt cùng lo việc non sông khi đất nước đang lâm nguy và cũng chính từ nhân dân một cuộc chiến tranh toàn diện đã khởi động.

“Người Châu Giao cũng rất lo sợ, hái thuốc độc để thử gươm giáo, lấy bột bã đậu để bỏ vào dòng nước, cắt ống đồng chôn xuống đất nhằm hãm chân ngựa. Phao tiếng rằng đội tiền tiêu đã do đường thủy đi đánh úp Quảng Đông”…

[Thù vực chu tử lục, tr132, TL/LS khoa sử, ĐH KHXH&NV. KH: LS/TL 0089]

          Không dừng ở mức độ, “phao tiếng” những đại đội thủy quân lục chiến tinh nhuệ (như đặc công nước ngày nay) theo đường thủy âm thầm đổ bộ, bí mật tiếp cận các mục tiêu cần tác chiến tại Quảng Đông, Quảng Tây nhà Minh. Đánh úp từ sau lưng địch. “Minh thực lục” chép:

“[1245] Ngày 22 tháng 10 năm Gia Tĩnh thứ 22 (18/11/1543) tha cho Đỗ Văn Trang trinh sát người An Nam vào mùa xuân năm Gia Tĩnh thứ 16 (1537) An Nam được tin sẽ bị chinh phạt bèn sai đầu mục Nguyễn Văn Đô điều động Đỗ Văn Trang cùng 70 người đổ bộ tại bờ biển Ô Lôi. Bọn tuần kiểm Tần Lương mang binh bắt được Văn Trang bèn nhốt vào ngục tại ty án sát Quảng Đông. Nay Mạc Đăng Dung đã hàng, các quan tại Quảng Đông cho rằng Mạc Đăng Dung đã được miễn tội chết vậy xin tha cho Trang. Nhận phúc đáp: chấp thuận”

[Minh thực lục v83, tr5445 – 5446, thế tông, q279, tr8a – 8b, tr224

(bản dịch), NXB Hà Nội, 2010]

          72 người lính cảm tử này của nhà Mạc chúng ta chỉ biết được hai danh tính tiêu biểu: Nguyễn Văn Đô, Nguyễn Văn Trang, còn lại 70 con người khác, hàng ngàn người chiến sỹ vô danh khác của nhà Mạc âm thầm tham gia vào một cuộc chiến tranh sau lưng địch. Chúng ta không thể biết được danh tính, nhân thân họ, trong một cuộc chiến âm thầm chuẩn bị vệ quốc của nhà Mạc.

          Tương kế tựu kế, biết mình biết địch, nút thắt lịch sử cuối năm 1540 xảy ra tại biên giới Đại Việt là tổng hòa mối tương quan nhiều mặt của một cuộc chiến tranh vệ quốc. Mỗi một chủ trương sách lược của nhà Mạc chứa trong nó là truyền thống từ xa xưa của tổ tiên giữ nước, đồng thời tránh những vết xe đổ của quá khứ. Đọng lại cùng với thời gian là những kế sách trong công tác “tình báo” và công việc “địch vận” của nhà Mạc, đã thu được những kết quả từ thực tiễn, minh chứng từ các nguồn sử liệu khác nhau, được chúng tôi trình bày ở phần trên.

          Vào thời điểm hội thảo lịch sử nhà Mạc tại hoàng thành Thăng Long năm 2010 cố PGS – TS Nguyễn Hải Kế đã cung cấp cho chúng tôi một bài tấu do thừa chính sứ Bùi Hoằng trình tâu lên thái thượng hoàng Mạc Đăng Dung và vua Mạc Đăng Doanh vào năm Kỷ Hợi (1539).

          “1173 – Bùi Hoằng (1506 – ?) người xã Thượng Trưng, huyện Bạch Hạc nay là xã Thượng Trưng, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc.

33 tuổi đỗ đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Mậu Tuất niên hiệu Đại Chính 9 (1538) đời Mạc Đăng Doanh. Làm quan đến thừa chính sứ, tước An Thủy bá, về trí sĩ.”

[Các nhà khoa bảng Việt Nam 1075 – 1919, Ngô Đức Thọ chủ biên, tr342, NXB văn học, 2006]

          Nội dung bản tấu là những phương lược, kế sách an nguy của xã tắc và các biện pháp nhằm cứu nước cứu dân trước một cuộc chiến tranh xâm lược đang phủ bóng đen suốt chiều dài biên giới phía bắc (PGS – TS Nguyễn Hải Kế cho biết, bản tấu này được ghi chép tại gia phả chi họ Bùi):

“Muôn tâu thánh thượng!

Thần trộm nghĩ:

Đức lớn của trời đất là sinh

Cái quý nhất của thánh nhân là vị

Nhờ gì mà giữ được vị?

Nhờ điều nhân

Nhờ gì mà tụ họp được nhiều người?

Nhờ hiền tài.

Lời thánh hiền căn chỉ nay thần mạo muội có sao nói vậy. Như nhà Hồ giành được ngôi vị không biết nuôi dân đến nỗi phải diệt thân tự tay trói mình nộp cho giặc thế chẳng phải xót xa sao?

Phương Nam Nguyễn Kim tiến đánh Lôi Dương đã chiếm được Tây Kinh, quân ta tan tác. Phương Bắc Minh Gia Tĩnh xua bọn Mao Bá Ôn, Cừu Loan cầm quân tràn xuống. Nạn đại hồng thủy ập đến một sớm một chiều, thật là nguy cấp lắm.

Nay thái thượng hoàng nối ngôi vị nhà Lê thay trời hành đạo. Đạo trị nước chỉ là yên dân, dân được an hòa thì trời sẽ thuận, tai họa sẽ qua. Xin thái thượng hoàng để ý đến dân, có dân mới có vương công xã tắc. Nay một chính sự được thi hành để cứu dân, cứu xã tắc là cẩn cấp. Với nhà Minh chấp thuận “khổ nhục kế”, trước là bỏ đế hiệu tiếm xưng vương, sau là tuân theo niên lịch đăng quang với nhà Minh.

Với nội quốc: trước là điều chỉnh thuế khóa, cởi nới phục dịch để nuôi dân. Sau là điều chỉnh hiến chương để dạy dân chấp hành kỉ pháp được như vậy là quốc triều hưng thịnh.

Thần có đôi lời tấu hiến nếu có điều gì chưa thuận mong thái thượng hoàng ngự lãm mà minh xét.

Niên Kỉ Hợi – thái thượng hoàng – hoàng thượng vạn vạn niên.

Đức trai cẩn tấu!”

          Mọi cuộc chiến tranh đều kết thúc, mọi sự kiện lịch sử được chép hồi kết, sự kiện lịch sử “đầu hàng”  của Mạc Thái Tổ tại biên giới cuối năm 1540 là cái kết của một quá trình vận động khách quan tương kế, tựu kế, lấy nhu thắng cương của nhà Mạc.

Năm cái lạy, ba cái cúi đầu trước cái long đình che tàn vàng vô tri vô giác ấy tại biên giới của Mạc Thái Tổ, vào ngày mồng 3 tháng 11 năm 1540 là cả một sự hy sinh thầm lặng, có sức nặng ghê gớm của lịch sử đặt lên hai vai ông:

“Tiểu mục nước ấy là bọn Trần Phỉ đến các dinh Niêm Nhai, trình bày sự thành tâm xin hàng và đợi lệnh…

Ngày 3 tháng 11… đến kỳ đã hẹn Mạc Đăng Dung mặc áo trắng, thắt dây tổ, tự mình đem các tiểu mục già cả, quàng dây lụa ở cổ, đứng chầu ở cửa Nam Quan.

Trên đài đặt chiếc long đình, che tàn vàng các viên phó tham giám thống vệ ba ty ở Lưỡng Quảng bày hàng ra đứng đợi. Truyền lệnh mở cửa quan, Đăng Dung với cháu là bọn Văn Minh do đường bên tả cửa quan đi ra, bỏ giày đi chân không quỳ xuống trở mặt về hướng bắc.

Truyền sai sinh viên là Tạ Thiên Túng cởi dây tổ ra và tiếp nhận tờ biểu xin hàng. Đăng Dung cúi mình lạy 5 lạy, khấn đầu 3 cái, sau đó bọn cháu nó cũng lần lượt làm lễ theo đúng nghi thức. Người chấp sự tuyên dụ tạm tha, cho chịu tội về nước đợi chờ, sẽ chuyển tấu cho được khỏi chết.

Đăng Dung khấn đầu tạ xong, truyền lính đóng cửa quan thu quân về dinh. Cháu là bọn Văn Minh người tiểu mục đi theo bọn Hứa Tam Tỉnh cộng 28 người”

[Thù vực chu tư lục, tr132 – 133, TL/LS khoa sử, ĐH KHXH&NV.

KH: LS/TL 0089]

          Đất nước hòa bình, chuyển sang một giai đoạn mới không chia ty, tách tỉnh, vua nhà Mạc trị vì nước Việt, người nước Việt giải quyết nội tình nước Việt. Những toan tính, áp đặt từ bên kia biên giới đã bị vô hiệu hóa hoàn toàn.

“Minh sử” chép:

“Vua bèn xuống chiếu đổi nước An Nam làm đô thống ty, ban cho một cái ấn bằng bạc và cho Đăng Dung làm đô thống sứ. Sau khi đem quân về triều, bọn Bá Ôn được thăng thưởng có sai đẳng khác nhau. Nhưng Đăng Dung là một người giảo quyệt, biết rằng Trung Quốc không muốn dùng binh nên nghỉ (Mạc Đăng Dung) chỉ cho đem lễ vật vào tạ một lần, rồi thôi không triều cống nữa và tự do xưng đế ở trong nước”.

[Minh sử, t49, q120, tr61a – 66b, tr149 – 150 (bản dịch) TL/LS khoa sử,

 ĐH KHXH&NV. KH: LS/TL 0032]

Hoặc “Minh sử” ghi chép những dòng sau:

“Vua bèn xuống chiếu bãi binh và giáng nước An Nam xuống làm Đô thống ty và phong cho Đăng Dung làm chức đô thống sứ. Nhưng kỳ thực thì An Nam chưa đổi làm ty, mà Đăng Dung cũng chưa nhận chức Đô thống sứ”

[Minh sử, t42, q102, tr67a – 71a, tr115 (bản dịch) TL/LS khoa sử,

ĐH KHXH&NV. KH: LS/TL 0032]

          Sự kiện số IV, nhà Mạc đầu hàng nhà Minh tới đây chúng tôi xin khép lại, đó là kết quả cuối cùng tiến trình lịch sử kéo dài từ năm 1527 đến cuối năm 1540 trong chính sách đối ngoại của nhà Mạc giai đoạn này.

  1. KẾT LUẬN SỰ KIỆN SỐ IV

Sự thật là chân tính cơ bản trong cuộc sống xã hội loài người nói chung, đồng thời cũng là thước đo cho một xã hội phát triển vững chắc, văn minh, minh bạch….và ngược lại. Vượt lên trên tất cả các diễn biến từ cuộc sống xã hội, lịch sử được nâng lên một tầm quan trọng đích thực. Vậy mà lịch sử nhà Mạc đã bị bàn tay của “lịch sử nhận thức” đánh cắp sự thật suốt thời gian 300 năm qua. Chúng tôi (người họ Mạc, gốc Mạc) luôn luôn đứng trước những phiên tòa vô hình, được tạo dựng từ nhận thức xã hội, một cách không mong muốn.

“Lịch sử nhận thức” ra đời từ các sử gia Lê trung hưng điều hành, dẫn hướng lập một phiên tòa xuyên qua ba thế kỷ với một bản cáo trạng ước chừng vài vạn từ, nhằm vào lịch sử nhà Mạc. Hiệu quả đáng kinh ngạc từ bản cáo trạng của “lịch sử nhận thức”, vô hình chung đã biến những người họ Mạc, gốc Mạc (hậu thế) chúng tôi thành những bị can (tòng phạm) suốt thời gian từ (1697 – 2017). Với hình thái tổ chức một phiên tòa, gồm có các luật sư biện hộ bào chữa  khá khiêm tốn, các công tố viên chiếm đa phần, nhiều tội danh: “phản quốc”, “hai lần cắt đất Đại Việt”, “đem dâng một phần đất của tổ quốc cho kẻ thù”, tội của chúng là: “đáng chém”, chúng: “lấy gì để biện bạch” đã được tuyên đọc. Không thể thống kê được hết những bản cáo trạng luận tội nhà Mạc, chỉ gần đây thôi một bản cáo trạng cỡ trung (khoảng 3000 từ) được soạn từ PGS – TS Trần Thị Băng Thanh, nhân Hà Nội đặt tên đường hai vị vua nhà Mạc. Hoặc, “việc cắt đất cho nhà Minh là kế lấy lùi để tiến, thể hiện sự khôn khéo trong ngoại giao” được sinh viên học viện ngoại giao đọc cáo trạng tại diễn đàn phản biện lịch sử nhà Mạc (do bảo tàng lịch sử quốc gia chủ trì). Cứ như vậy, những phiên tòa lưu động vô hình xuyên qua ba thế kỷ khắp mọi miền đất nước được lập ra luận tội nhà Mạc, người họ Mạc, gốc Mạc, chúng tôi lúc nào cũng đóng vai bị can….

Bình luận về bài viết này