Phụ chú về thời Đinh-Lê

20091224_83744633972657645937500

Đặng Thanh Bình

Trong bài Bàn về cái chết của Đinh Bộ Lĩnh, tôi cố gắng đưa ra những bằng chứng cho thấy Bộ Lĩnh đã chết vào khoảng năm 976. Trong bài này chúng ta sẽ cùng xem xét những sự kiện khác xảy ra dưới thời Đinh Lê.

Căn cứ vào văn bản khắc trên 4 trong 16 cột đá được phát hiện ở Hoa Lư (Ninh Bình) lần lượt trong các năm 1963,1964 và 1978 chúng ta biết được rằng: Vào khoảng năm 973 Đinh Liễn giết em là Hạng Lang, do vậy trong cùng năm Liễn đã dựng 100 tràng kinh để cầu siêu thoát cho em và những người bị liên luỵ. Chúng ta có thể khai thác được rất nhiều thông tin từ phát hiện này của khảo cổ học. Thứ nhất là sử phương nam chép không phải không có căn cứ, trong khi sử phương bắc chép bỏ sót nhiều thông tin như nhân vật Hạng Lang và cái chết của Lang chẳng hạn. Thứ hai là Đinh Bộ Lĩnh xương Đại Thắng Minh hoàng đế ở phương nam, phong cho con làm Nam Việt vương.

Sách Chữ trên đá chữ trên đồng của Hà Văn Tấn viết: “những dòng chữ trên cột đá không phải là kinh phật mà chỉ là bài thần chú trong kinh phật (…) nội dung bài thần chú khắc trên cột đá Hoa Lư (…) là một bài cầu thọ (…) mà những người đã sống xa hoa dâm dật, những quý tộc, quốc vương (…) chỉ cần tụng niệm hay sao chép đều có thể tăng tuổi thọ, giải thoạt mọi nghiệp chướng do tội lỗi của mình gây ra”. Hiện vật (cột đá) 3A khắc chữ: “Nay nguyện làm 100 cột kinh để cúng cho vong đệ và những hồn ma của người chết trước đây và sau này, cầu cho tất cả giải thoát, không phải tranh giành kiện tụng. Trước hết là chúc cho Đại Thắng Minh hoàng đế, mãi mãi làm chủ trời Nam, giữ yên ngôi báu”.

Đinh Liễn dựng 100 cột kinh có lẽ ngoài việc cầu siêu cho vong đệ và những người chết vì liên luỵ còn cầu nguyện cho chính bản thân Liễn. Thậm chí là tụng niệm cho cả Đại Thắng Minh hoàng đế ? Nếu giả sử của chúng ta là đúng: Bộ Lĩnh mất năm 976! Lúc này Liễn vẫn còn sống và xã hội Đại Việt không có biến động (binh đao) gì ? Như thế, rất có thể Bộ Lĩnh mất tự nhiên (mất do già). Vậy thì rất có thể, sau cuộc anh em Liễn tương tàn, Bộ Lĩnh đã bị sốc, tinh thần và sức khoẻ bị suy sụp, do vậy ngoài việc dựng 100 cột kinh để cầu siêu thoát cho em, tụng niệm cho mình, còn có cả tụng niệm và làm giảm bớt đau buồn cho cha.

Nếu đúng thì: có 2 khả năng. Thứ nhất là Bộ Lĩnh đã già lại ốm yếu thì chuyện tình cảm với Dương hoàng hậu không thể xảy ra ? Đinh Toàn [tạm ước] sinh năm 974. Thứ hai là có thể trong những lúc đau buồn ấy Bộ Lĩnh đã gần gũi một người con gái họ Dương do vậy mà Đinh Toàn ra đời ? Hoàng hậu họ Dương, như chúng ta biết sách sử không nói tên, nên rất khó xác định. Nếu bà đã có tuổi thì rất có thể là mẹ của Hạng Lang nhưng nếu bà còn ít tuổi thì có lẽ mối quan hệ của Bộ Lĩnh với bà mới chỉ xảy ra sau khi Hạng Lang mất. Có việc này chúng ta cần lưu ý, đó là sử sách chỉ xác nhận Bộ Lĩnh có 3 người con và rõ ràng người con thứ 3 của Bộ Lĩnh là Đinh Toàn ít hơn rất nhiều tuổi so với 2 người con đầu là Đinh Liễn và Hạng Lang, thậm chí còn ít tuổi hơn cả con đầu của Đinh Liễn không chừng.

Sử sách có đề cập đến việc Lê Hoàn thông dâm với vợ của Bộ Lĩnh là Dương thị, các nhà nghiên cứu thì cho rằng: Đinh Toàn là con của Lê Hoàn và Dương thị, sau khi Đinh Liễn giết Hạng Lang, lo lắng tới sự an nguy của Toàn mà Lê Hoàn và Dương Vân Nga quyết định ra tay với Liễn. Hãy xem xét lần lượt những bằng chứng: Thứ nhất là qua thông tin khắc trên cột kinh chúng ta biết rằng: người không chịu thế cục, người không giữ lòng trung hiếu là Hạng Lang chứ không phải Đinh Liễn, thứ nữa sau khi Hạng Lang chết Liễn dựng cả trăm cột kinh để cầu siêu thoát cho em, vậy thì Liễn chưa hẳn đã phải là kẻ tàn ác nếu không muốn nói là người có lòng hướng phật, lại thêm ngay từ đầu Bộ Lĩnh đã có ý cho Liễn nối ngôi, vậy thì không có lý do gì để Liễn hại tới Toàn nên việc Dương Vân Nga lo lắng tới sự an nguy là rất khó xảy ra. Có khi nào Hạng Lang là con của Dương Vân Nga nên giữ thù với Liễn không ? [Giả thuyết của Lê Văn Siêu] Và Đinh Toàn ra đời như là cái đền của Bộ Lĩnh cho Vân Nga. Hoặc Vân Nga muốn lấy ngôi cho con mình là Toàn nên cùng với Lê Hoàn ám hại Liễn ? [Giả thuyết của Phan Duy Kha, Lã Duy Lan và Đinh Công Vĩ] Về động cơ thì không phải Dương Vân Nga không có. Tuy nhiên nếu Toàn là con của Lê Hoàn thì mối quan hệ của 2 người phải diễn ra trước năm 974 [Giả thuyết của Trần Trọng Dương] và trong suốt nhiều năm không hề bị phát giác thì cũng nên đặt câu hỏi ?

Trần Trọng Dương có dẫn một sự kiện trong bài Phương thức chuyển giao quyền lực: Vụ ám sát Đinh Bộ Lĩnh: “Nhà Tống cho đòi 2 mẹ con (Dương Thái hậu và Đinh Toàn) sang bắc quy phụ, đó là điều kiện để trao cờ tiết cho Hoàn, nhưng Hoàn không nghe (…) Đinh Toàn có khả năng cao là con đẻ của Dương hậu và Lê Hoàn (…) Nhà Tống dường như đã đọc được mối quan hệ ngầm trong hoàng cung Đại Cồ Việt nên đã vờ một phép thử tinh tế để có cớ xâm lăng”. Tuy nhiên cũng có mấy điểm vô tình phá vỡ giả thuyết này: Thứ nhất là chúng ta thấy sử phương bắc không chép đến mối quan hệ giữ Dương hậu và Lê Hoàn, thậm chí không nói đến Dương hậu, nếu như phương bắc đã ngầm đoán định được, thì không có cớ gì để họ không ghi chép cả ? Thứ hai là xét Tống sử thì thấy rằng: Năm 980 Hầu Nhân Bảo báo rằng: Giao Châu chủ soái bị hại, đất ấy đương loạn, vua Tống thảo chiếu thư cử sứ sang An Nam, lệnh cho Nhân Bảo chuẩn bị tấn công. Lê Hoàn nhận được thư chiến, liền giả thư của Đinh Toàn gửi vua Tống, xin không bị đánh, vua Tống không chịu nên xuất binh, năm 981 chiến sự nổ ra, quân Tống thua to phải rút. Năm 982, Hoàn cử sứ đi cống, xin cho Đinh Toàn nối chức của cha anh. Năm 983 Hoàn tự xưng Giao châu tam sứ lưu hậu, cử sứ đi cống, vua Tống chiếu rằng: Lê Hoàn dẫn mẹ con và thân thuộc của Toàn về bắc quy phục, khi ấy sẽ trao cờ tiết, tuy nhiên Hoàn im lặng.

Vậy thì rõ ràng việc dẫn mẹ con Toàn cùng với thân thuộc xảy ra sau khi cuộc chiến Tống Việt kết thúc, nên mục đích của nhà Tống không phải là một phép thử để lấy cớ xâm lăng. Nếu nhà Tống muốn có con tin thì đã đòi hẳn các con khác rõ ràng của Hoàn, vậy vì sao nhà Tống lại đòi Toàn ? Nếu nhà Tống đòi Toàn làm con tin vì nghi là con của Hoàn thì chắc là nhà Tống chỉ đòi có mẹ con Toàn thôi chứ, vì sao lại đòi cả thân thuộc của Toàn nữa ? Và chính vì đòi thân thuộc của Toàn nên chúng ta mới biết rằng: nhà Tống đòi là đòi vua của An Nam và đòi những người nghiễm nhiêm được thừa hưởng vị trí vua An Nam. Bộ Lĩnh mất, Đinh Liễn mất thì Toàn là nối dõi chính thống. Thế nên đòi Toàn và thân thuộc của Toàn nghĩa là đất An Nam không còn người cai trị nữa, Lê Hoàn có cầm cờ tiết thì cũng chỉ là người đứng đầu An Nam do nhà Tống sắp đặt chứ không phải kế thừa chính thống [trong con mắt của người An Nam]. Nghĩa là đất An Nam vẫn là một phần của Đại Tống, không chia cắt bờ cõi, không có vua An Nam cai quản, từ đây cho thấy 2 việc: trước là nhà Tống rất theo chính danh (đây cũng là đặc trưng chung của xã hội phong kiến) và sau là nhà Tống đã biết nhà Đinh xưng đế trong nước.

Lê Hoàn im lặng vì Hoàn cũng hiểu điều này. An Nam vẫn là của họ Đinh, Hoàn chỉ là người giúp mà thôi, dưới cả con mắt của người Tống lẫn người An Nam. Chính vì thế mà Hoàn giữ bằng được Đinh Toàn vì đó chính là lệnh bài để Hoàn điều hành An Nam. Tại sao lại nói vậy ? Vì: tại chùa Nhất Trụ (Ninh Bình) hiện có 1 chiếc cột đá có khắc bài kinh Lăng Nghiêm được cho rằng: do Lê Hoàn dựng năm 995, bài văn ước khoảng 2500 chữ nhưng chỉ còn đọc được 178 chữ: “[…] Cúi đầu toả hào quang […] Người theo đạo phật là Thăng Bình hoàng đế … Thuyền Bát Nhã trước vượt sóng biển, mang về bản hương kinh. [kể từ khi] Đại Thánh Minh hoàng đế tổ họ Lê, tự mình kế tiếp mệnh trời, cả định non sông đến nay là 16 năm […]” [dẫn theo tài liệu của Ban quản lý danh thắng Tràng An]

Theo sách Đại Việt sử ký toàn thư thì năm 980 Lê Hoàn lên ngôi, tôn hiệu là: Minh càn Ứng vận Thần vũ Thăng Bình Chí nhân Quảng hiếu hoàng đế, do vậy Thăng Bình hoàng đế trong cột đã là viết gọn tôn hiệu của Lê Hoàn và sau 16 năm cầm quyền thì đổi thành Đại Thánh Minh hoàng đế. Tuy nhiên Tạ Chí Đại Trường cho rằng: “năm 995, Lê Hoàn còn ở ngôi, nếu lập bào tràng thì phải dâng cho cha ông mới hợp với chữ “Lê tổ” – điều này lại không hợp với công đức tán tụng. Phải nghĩ rằng trụ tạo năm 1005 – năm ông chết, do Long Đĩnh lập, năm có sự kiện lớn liên quan là việc rước kinh Đại Tạng (“Thuyền bát nhã… vượt biển đem [kinh] về”) tuy cũng khó hiểu vì sao người xưa đã khắc thiếu chữ nhị (“nhị thập lục niên”) vì sao lại có sơ suất đến thế. Mặt khác, chữ khắc đính chính tôn hiệu của Đinh Tiên Hoàng mà Lê Hoàn kế thừa qua Dương hậu: Đại thánh minh hoàng đế chứ không phải là Đại thắng minh hoàng đế. Đáng chú ý là Lê Hoàn đã có tôn hiệu lòng thòng 14 chữ thế mà con cháu vẫn dùng tôn hiệu của họ trước. Cột đá rõ ràng là của Long Đĩnh lập”. Có đúng là như vậy không ? Hãy xem:

Khâm định Việt sử thông giám cương mục chép: “Đinh Mùi năm thứ 14 (năm 1007) [Tống năm Cảnh Đức thứ 4]. Mùa Xuân, sai em là Minh Sưởng sang nhà Tống. Nhà vua [Lê Long Đĩnh] sai Minh Sưởng và Chưởng thư ký là Hoàng Thành Nhã đem con tê trắng sang biếu nhà Tống, dâng biểu xin cửu kinh và kinh sách đại tạng”.

Tống sử chép: “Năm Cảnh Đức thứ 4 (năm 1007) […] tháng 7 […] Ất Hợi, Giao Châu lại cống, Lê Long Đình xin sách Cửu kinh và kinh Phật. Tân Tỵ, cho Long Đình làm Tiết độ sứ Tĩnh Hải Quân, Giao Chỉ quận vương, Tứ danh chí trung”.

Vậy là đã rõ: Năm 1007 Lê Long Đĩnh cứ sứ xin sách kinh phật nhà Tống, được ân chuẩn vào tháng 7, nếu vậy thì về tới An Nam cũng phải gần hết năm, dâng lên Long Đĩnh, xem xét và chuẩn bị khắc dựng cột đá cũng phải rơi vào năm 1008. Nếu như thợ khắc không khắc nhầm [thực ra là thiếu chữ “nhị” theo đề xuất của Tạ Chí Đại Trường] thì sao ? Mà một việc quan trọng thế này thì không thể khắc thiếu được [vì có thiếu e là cũng phải khắc lại] Vậy thì con số 16 năm kể từ khi Lê tổ [Hoàn] dựng nghiệp tới thời điểm khắc [năm 1008] cho phép chúng ta xác định năm Lê Hoàn lên ngôi [xưng bậc đế vương] rơi vào năm 993 [nghĩa là sử sách chép nhầm]. Một bằng chứng nữa cho thấy đúng là Lê Hoàn xưng đế vương vào năm 993 đó là: Khâm định Việt sử thông giám cương mục chép: “Quý Tị, năm thứ 5 (năm 993) [Tống năm Thuần Hoá thứ 4] (…) vua Tống (…) sai Vương Thế Tắc và Lý Cư Giản đem bài chế văn sang phong nhà vua làm Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ, Giao Chỉ quận vương” và Tống sử chép: “Năm Thuần Hoá thứ 4 [năm 993] (…) tháng 2 (…) Tiết độ sứ Tĩnh Hải quân Lê Hoàn phong làm Giao Chỉ quận vương”.

Như vậy là: Năm 993 Lê Hoàn được nhà Tống phong làm Giao Chỉ quận vương, khi ấy Lê Hoàn mới xương đế vương, hoàn toàn phù hợp với bài văn trên cột đá là từ khi Lê tổ dựng tới năm khắc kinh (năm 1008) vừa tròn 16 năm. Thế nhưng, điểm thú vị là: Trước khi được vua Tống phong là Giao Chỉ quận vương, Đinh Bộ Lĩnh tự xưng là Đại Thắng Minh hoàng đế ở phương nam ? Lê Hoàn có làm vậy không ? Rõ ràng là không! Vì nếu là có thì trong bài kinh trên cột đá phải ghi chép nhiều hơn 16 năm mới đúng, vì cũng giống nhưng Đinh Liễn, Lê Long Đĩnh dựng cột đá ở trong nước, không phải là để ngoại giao nên không cần phải giấu [năm thật xưng đế vương]. Từ đó cho thấy, ít nhất là trên danh nghĩa trong cả đối nội và đối ngoại Lê Hoàn vẫn giữ vai trò là người phụ tá họ Đinh mà lúc này là Toàn giữ ngôi, tất nhiên trên thực tế Hoàn nắm việc nước. Rõ ràng là cả nhà Tống cho tới Lê Hoàn đều bị ràng buộc bởi tính chính danh.

Về tôn hiệu thì đúng là Thăng Bình hoàng đế là cái tên rút gọn của cái tôn hiệu dài lòng thòng kia rồi. Thế nhưng tôn hiệu dài khiến ta nghĩ là do nhà Tống ban, tuy nhiên có chữ “đế” thì chắc không phải. Vì đoạn văn bị mất nên không xác định được chính xác đó là gọi ai ? Có khi nào là của Lê Long Đĩnh không ? Vì tới nay chúng ta mới chỉ biết Long Đĩnh được gọi là Ngoạ Triều, mà đây là tên gọi của người khác đặt để thể hiện sự coi thường. Nếu có thể phục hồi toàn văn bản thì rất tốt, nhưng việc này khó vì thế chúng ta thử xét trường hợp phục hồi cấu trúc của văn bản, theo đó phần chính là bài kinh, tiếp đến đoạn Thăng Bình hoàng đế là ám chỉ Lê Long Đĩnh mộ phật nên cử sứ đi xin kinh, đoạn tiếp nói về thuyền Bát Nhã ý nói kinh đã về tới Hoa Lư, tiếp nữa là đoạn Đại Thánh Minh hoàng đế [có thể là miếu hiệu của Lê Hoàn do Lê Long Đĩnh đặt] lập nghiệp tới nay thì tình hình An Nam ra sao. Thì rất có thể Thăng Bình hoàng đế là chỉ Lê Long Đĩnh chứ không phải Lê Hoàn. Nếu vậy chúng ta lại buộc sách sử phải chép nhầm 1 lần nữa ? Chuyện này có thể không [chỉ bàn đến nhầm lẫn trong tôn hiệu] Có thể chứ ! Vì chúng ta không hề thấy nhắc gì tới tôn hiệu Đại Thánh Minh hoàng đế [cũng xảy ra trường hợp khác, đây là tên do triều thần xưng tụng Lê Hoàn lúc còn sống] ? Mà chỉ có phong cho Dương hậu chức Đại Thắng Minh hoàng hậu. Rất có thể sử sách đã bỏ quên 1 tôn hiệu, thành thử ra chỉ còn 1 tôn hiệu nữa và cuối cùng xếp tôn hiệu ấy cho Lê Hoàn. Đó là việc xem xét mở rộng thêm ra chứ việc quan trọng trong tôn hiệu lại không nằm ở chỗ đó. Cứ giả như Lê Hoàn có 2 tôn hiệu nhưng không có nghĩa Hoàn dùng tôn hiệu khác nhau trước và sau cuộc sắc phong của nhà Tống năm 993.

Qua bài minh trên cột đã do Đinh Liễn dựng chúng ta biết rằng: Đinh Bộ Lĩnh xưng là Đại Thắng Minh hoàng đế cũng chưa hẳn ông đã phong cho Dương thị chức Đại Thắng Minh hoàng hậu, sau khi Hoàn lên ngôi cứ giả như Hoàn lấy Dương thị vợ của Bộ Lĩnh thì Hoàn có phong Dương thị là Đại Thắng Minh hoàng hậu không ? Dù Hoàn có là người chính trực hay khôn ngoan, thì Hoàn cũng là người trọng tính chính danh, vậy thì việc ông lấy vợ của chúa cũ rồi lại đặt tên hiệu cho chính người vợ đó cùng tên với tôn hiệu của chúa cũ thì thật Hoàn quá ngang ngược và không giống như Hoàn thể hiện, thêm nữa nếu như Toàn là con của Lê Hoàn, thì sau khi lên ngôi, Hoàn bất chấp luân thường đạo lý lấy vợ của chủ cũ lại phong tước cho vợ của chủ cũ theo đúng tôn hiệu của chủ cũ thì chẳng có lý do gì để Hoàn không nhận Toàn làm con mình và đổi họ của Toàn từ Đinh sang Lê. Có phải thế ? Hay ở đây có sự sai sót mà chính Tạ Chí Đại Trường đã không nhận ra: có 2 tôn hiệu khác nhau. Của Đinh Bộ Lĩnh là Đại Thắng Minh hoàng đế và của Lê Hoàn là Đại Thánh Minh Hoàng đế. Chỉ khác nhau có chút xíu về âm. Có thể trong quá trình lưu truyền, sao chép 2 tôn hiệu này bị nhầm lẫn, thành thử sách sử chép Hoàn phong cho vợ là Đại Thắng Minh hoàng hậu, nhưng kỳ thực Hoàn phong cho vợ là Đại Thánh Minh hoàng hậu. Và rất có thể từ nhầm lẫn nhỏ này các sử gia đã tiến tới 1 nhầm lẫn lớn hơn là: để cho vợ của Đinh Bộ Lĩnh làm vợ của Lê Hoàn vì cùng họ Dương. Cũng thật là kỳ lạ khi mà vợ của Lý Công Uẩn cũng có người họ Dương ?

Rõ ràng ở trên cũng chỉ là những lập luận mà thôi không thể chắc chắn. Về việc Dương thị vợ Lê Hoàn có phải là vợ của Bộ Lĩnh không thì phải xét về tuổi tác của bà và thế lực họ Dương. Nếu bà là mẹ của Hạng Lang, khi ấy bà cũng đã nhiều tuổi, việc Hoàn lập Dương thị làm hậu rất khó xảy ra. Nếu bà chỉ là mẹ của Đinh Toàn, khi ấy bà còn rất trẻ thì rất có thể, tuy nhiên dù bà có lấy Lê Hoàn cũng không thể kết luận Toàn là con của Lê Hoàn.

Qua nhân vật Hạng Lang chúng ta biết rằng: sử phương nam cũng có những thông tin chính xác trong khi sử phương bắc thì không đầy đủ. Sử phương nam chép rằng: Đỗ Thích giết vua, bị Nguyễn Bặc bắt giết, Bặc và Hoàn đưa Toàn lên ngôi. Nghi vua bị chèn ép nên Nguyễn Bặc, Đinh Điền, Phạm Hạp tiến đánh Lê Hoàn. Những nhân vật tầm cỡ như Nguyễn Bặc, Đinh Điền, Phạm Hạp, Trịnh Tú, Lưu Cơ rất có thể là có thật và sau cái chết của Liễn rất có thể đã xảy ra xung đột giữ những người này với Lê Hoàn. Bản thân bản tấu của Hầu Nhân Bảo cũng nói rằng: Chủ soái Giao châu bị hại, đất ấy đương loạn [Tục tư trị thông giám]. Như trong bài Bàn về cái chết của Đinh Bộ Lĩnh, tôi có trình bày rằng: Đỗ Thích rất khó để ám hại vua với mục đích lên ngôi và cũng rất khó là đồng phạm của Hoàn. Rất có thể Hoàn không liên quan gì tới cái chết của Đinh Liễn. Các nhà nghiên cứu cho rằng: Hoàn là người có lợi nhất trong cái chết của Liễn ? Không phải như thế: vì khi Liễn chết, em là Toàn lên ngôi, bên cạnh còn có rất nhiều những người tiền bối phụ tá, Hoàn không chắc nắm thế thượng phong. Hơn thế nữa, để có cái lợi nhất thì Hoàn cũng đã phải trải qua cuộc xung đột về quân sự với các tướng lĩnh khác và hoàn toàn dựa vào tài năng mà có. Chứ ngay sau khi Liễn chết Hoàn không hề có một ưu thế nào cả so với những trụ cột khác. Còn những người khác liên kết đánh Hoàn vì có thể đúng là Hoàn lạm quyền của nhà Đinh, Tống sử cũng chép rằng: Hoàn ức hiếp Toàn, giam lỏng họ hàng Toàn. Dương hậu mẹ của Toàn thuận theo Hoàn qua chi tiết khoác áo long bào (chưa chắc chi tiết này đã có thật) cũng có thể được nhìn theo cách khác là bà làm vậy để đảm bảo sự an nguy của Toàn [Đinh Điền cùng họ Đinh với Bộ Lĩnh lại cùng quê quán vậy thì 2 vị này rất có thể là họ hàng chứ không phải bạn bè. Khi Đỗ Thích bị nghi sát hại Đinh Liễn, Nguyễn Bặc bắt được và giết Thích, đồng thời cùng với Lê Hoàn đưa Đinh Toàn lên ngôi, thì rất có thể Nguyễn Bặc lúc này đang ở Hoa Lư. Khi Điền và Bặc hợp binh đánh Hoàn, nhưng chiến sự nổ ra ở Ái châu vậy thì rất có thể sau khi bình được An Nam, Bộ Lĩnh đã cất cử Đinh Điền trấn giữ châu trọng điểm thứ 2 tại An Nam là Ái. Khi thua Phạm Hạp chạy về phía bắc, quê quán của Hạp ở Hải Dương vậy thì rất có thể lúc xảy ra vụ ám sát, Hạp đang ở Hà Nội với Lưu Cơ. Khi vụ ám sát xảy ra, Nguyễn Bặc bắt và giết Đỗ Thích, Bặc cùng Hoàn đưa Toàn lê ngôi. Tuy nhiên Toàn còn nhỏ nên mọi việc do Hoàn và Bặc quyết, rất có thể xảy ra mâu thuẫn giữa 2 vị này, khi hay tin Liễn mất, Đinh Điền ở Ái châu; Trịnh Tú ở Giao châu cũng chuẩn bị quân lực, rất có thể Đinh Điền và Trịnh Tú đã tin Nguyễn Bặc vì mối quan hệ thân thiết của những người này được thiết lập từ khi còn thiếu niên, do vậy đã đứng về phía Bặc cự lại Lê Hoàn. Có thể Phạm Hạp, Trịnh Tú dẫn quân theo đường thủy từ Hà Nội về Ninh Bình, còn Đinh Điền xuất quân từ Thanh Hóa về Ninh Bình. Khi hay tin tức, Lê Hoàn đã xuất quân, trước là bắt giam Nguyễn Bặc. Sau đó chủ động tấn công Đinh Điền tại Ái châu và cuối cùng là hỏa công Phạm Hạp có thể ở sông Đáy, kết cục Đinh Điền chết tại chỗ, Nguyễn Bặc bị xử tử ở Hoa Lư (có thể là trước khi Hoàn xuất quân đánh Điền ở Ái châu) Phạm Hạp chạy về Bắc Giang nhưng sau bị bắt (có thể là họ Lý ở Bắc Ninh lúc này đứng về phía Lê Hoàn đã bắt và giao Hạp cho Hoàn) Trịnh Tú chết còn Lưu Cơ (rút về) giữ Đại La (có thể Lưu Cơ không tham gia cuộc bạo loạn này mà chỉ giữ thành Đại La). Hoàn thâu tóm quyền lực, nên trước sự an nguy hoàng hậu Dương thị phải thuận theo. Cũng không loại trừ trường hợp hoàng hậu Dương thị mật báo cho Đinh Điền ở Ái châu, đề nghị đưa quân về giải cứu ấu chúa].

Sách Mộng khê bút đàm thì viết: Lê Uy [Hoàn] giết Liễn, tuy nhiên sách này cũng không thể tin hoàn toàn bởi vì trước đó, Thẩm Quát cũng chép rằng: Đinh Liễn giết Ngô Xương Văn ? Tục tư trị thông giám thì chép rằng: Hầu Nhân Bảo báo Giao Châu chủ soái bị hại. Tống sử thì chỉ chép rằng: Bộ Lĩnh và Đinh Liễn đã chết. Bản thân các sách sử của phương nam cũng chỉ chép rằng: Đỗ Thích giết Đinh Liễn chứ không đả động gì tới Lê Hoàn, tất nhiên là có chép một vài sự kiện khiến các nhà nghiên cứu cho rằng: Hoàn đã giết Đinh Liễn.

Về việc Lê Hoàn hiếp đáp Đinh Toàn, giam lỏng họ hàng Toàn. Đinh Liễn như đã trình bày ở trên, tuổi tác có thể làm cha của Toàn. Nếu Liễn có con thì hẳn phải lớn tuổi hơn Toàn, thêm vào khi Liễn mất về chính danh con Liễn phải nối chứ không phải Toàn. Thế nhưng nhà Tống không hỏi tới việc này, bản thân Nguyễn Bặc, Đinh Điền cũng đồng ý với Lê Hoàn đưa Toàn lên ngôi [Đại Việt sử ký toàn thư] vậy thì rất có thể Liễn không có con nối, có thể đây cũng là một đắn đo của Đinh Bộ Lĩnh và có thể chính đắn đo này đã khiến Hạng Lang không giữ lòng trung hiếu. Vậy thì họ hàng thân thuộc của Toàn được nhắc tới có lẽ là con cháu của anh em với Đinh Bộ Lĩnh hoặc con của Hạng Lang [trường hợp là con của Hạng Lang xảy ra cao hơn]. Chúng ta không biết chính xác là ai, nhưng chắc chắn là có vì sử sách có nói đến. Ngoài Đinh Điền cũng mang họ Đinh ra còn có một nhân vật nữa tên là Đinh Thừa Chính, người đem thuyền đón sứ Tống năm 986, cách không xa so với thời điểm Liễn mất. Rất có thể sau cuộc chiến Tống Việt, họ Đinh đã hiểu được thế cục và quy phục Lê Hoàn.

Vậy Đinh Liễn chết như thế nào ? Trong bài Bàn về cái chết của Đinh Bộ Lĩnh tôi đã nghĩ đến việc bỏ nhân vật Đỗ Thích ra khỏi vụ án. Tuy nhiên tới đây buộc phải đưa nhân vật này trở lại để đưa ra một giải thích: Trong sử có đề cập tới việc Thích ra tay sau bữa tiệc rượu khiến cha con họ Đinh đều say. Thế như chúng ta cũng đã bàn Đỗ Thích rất khó để là hung thủ. Vậy thì giả thuyết sẽ là: Có thể sau buổi tiệc, Liễn bị cảm rồi mất, Đỗ Thích có mặt thành ra bị nghi ngờ, không thể thanh minh nên Nguyễn Bặc đã giết đi. Liễn không có con nối, Hạng Lang thì có nhưng theo thứ tự thì không đến lượt. Nguyễn Bặc và Lê Hoàn đưa Đinh Toàn lên ngôi. Nhưng do Toàn còn nhỏ, mọi chuyện Hoàn quyết hết, dần dần lấn quyền. Các khai quốc công thần phản đối, dẫn tới xung đột ? Tin này tới tai Hầu Nhân Bảo, Bảo báo về triều đình rằng: chủ soái Giao châu bị hại [cũng như Nguyễn Bặc tin Đỗ Thích giết hại Liễn] đất ấy đương loạn. Vua Tống lệnh chuẩn bị quân đội, tiến đánh Giao Châu, thảo chiếu thư cho 2 lựa chọn hoặc đầu hàng hoặc bị giết. Lúc này ở Giao Châu Hoàn đã dẹp xong, chuẩn bị quân đội chống Tống, đồng thời giả thư của Toàn gửi vua Tống, xin không bị đánh, được nối chức của cha anh, vua Tống không nghe, hạ lệnh tấn công, năm 981 cuộc chiến diễn ra, kết cục Tống bại phải rút quân. Năm 982, sai sứ sang cống, xin [cho Toàn] nối chức của cha anh. Năm 983 Hoàn tự xưng là quyền Giao Châu tam sứ lưu hậu, sai sứ cống nhà Tống, vua Tống chiếu rằng: có 2 cách để Hoàn chọn, thứ nhất là họ Đinh nối 3 đời, muốn Toàn nối chức, Hoàn làm phụ tá, tận tâm giúp Toàn, thứ hai là đưa mẹ con và thân thuộc của Toàn về quy phụ phía bắc, Toàn sẽ được đối đãi tốt và Hoàn được giữ cờ tiết. Tuy nhiên Hoàn đã im lặng. [Ở vị trí này Hoàn có thể chọn cách đưa mẹ con Toàn về bắc để nhận cờ tiết đứng đầu Giao châu, nhưng Hoàn đã không làm thế, vì làm như thế An Nam sẽ mất vua, trở thành đất không chủ, nằm dưới sự cai quản của nhà Tống, cùng với các sự kiện nhận tiết nhưng không quỳ năm 990, bài thơ Nam Quốc Sơn Hà ra đời thời đại Lê Hoàn ? Lập Ngọc Phả hùng vương ? Mời Khuông Việt, Pháp Thuận tiếp sứ Tống cho biết đất nam có người tài, tất cả cho thấy Lê Hoàn thể hiện là người có tinh thần dân tộc] Năm 985 cử sứ đi cống sản vật địa phương và xin tiết trấn. Năm 986 cử sứ đi cống, Đàm châu tấu người Chiêm Thành là Bồ La Át xin nội thuộc, vua Tống nghĩ đây là công của Hoàn nên chiếu rằng: Hoàn trung nghĩa, có ân uy trong khi Đinh Toàn tính trẻ con, ngu muội, không vỗ yên được bờ cõi, tự bỏ quyền nối 3 đời sứ, mọi người trong châu đều mong muốn vậy nên Hoàn xin phế đi nhưng vẫn xin được giữ làm chỗ thân thuộc với Hoàn, vua Tống cho Hoàn giữ việc nước, được phong làm Kiểm hiệu thái bảo, sứ trì tiết, đô đốc Giao Châu, An Nam đô hộ, Tĩnh Hải quân tiết độ. Năm 988 thêm [tăng] Kiểm hiệu thái uý. Năm 990 thêm đặc tiến ? Tống Cảo đi sứ An Nam có bài tấu. Năm 993 phong tước Giao Chỉ quận vương. Do đó trong nước Hoàn xưng là Đại Thánh Minh hoàng đế. Phong cho các con làm vương. Năm 1005 thì mất.

Trong bài văn của Tống Cảo dâng vua Tống chép trong Tống sử do tác giả Quách Hiền dịch có viết: “Cuối mùa thu năm ngoái, đến cõi Giao Châu, Lê Hoàn sai Nha nội Đô chỉ huy sứ là bọn Đinh Thừa Chính đem 9 chiếc thuyền và 300 quân đến Thái bình quân để đón (…) Đi đến Trường Châu, gần bản quốc, Lê Hoàn phô trương khoác lác, dốc hết chiến thuyền ra, gọi là “diệu quân” (…) Núi sát bên thành hư trương cờ trắng, cho đó là bày thế trận. Được một lát đoàn hộ vệ rước Lê Hoàn đến, mở lễ giao nghênh. Lê Hoàn ghìm ngựa nghiêng người, hỏi thăm Hoàng đế xong, cầm cương đi cùng hàng, lúc ấy lấy trầu cau ra mời, ngồi trên mình ngựa mà ăn, đấy là phong tục mang hậu ý đãi khách (…) Hoàn xấu người chột mắt, tự nói rằng năm gần đây vừa mới tiếp chiến với man khấu, rơi từ trên ngựa xuống nên chân bị thương, nhận chiếu nhưng không lạy. Sau khi nhận dụ chỉ thì rải chiếu mở yến tiệc. Lại ra sát mép nước, diễn trò mua vui cho khách. Lê Hoàn đi chân đất cầm gậy tre lội nước xâm cá. Mỗi khi trúng một con thì tả hữu hai bên đều hò reo nhảy múa (…) Thường sai bọn hơn chục người khiêng một con rắn dài vài trượng đến tặng sứ quán, còn nói: “Nếu có thể ăn được thì sẽ làm thịt nó làm cỗ dâng lên”. Lại đóng cũi hai con hổ đem đến tặng, nói để tùy ý quan sát. [Chúng thần] đều từ chối không nhận. Quân lính có 3000 tên, tất cả đều thích trên trán dòng chữ “thiên tử quân”, lương thực thì có lúa đủ dùng hàng ngày, cho vào giã rồi mới ăn. Binh khí thì có cung nỏ, khiên gỗ, thoa thương, trúc thương, [binh khí] rất yếu không thể dùng được. Hoàn tính tình thô lược tàn nhẫn, kẻ thân cận đều là bọn tiểu nhân. Cho ở bên cạnh một bọn 50 tên hoạn quan tâm phúc. Thích uống rượu nô đùa, lấy chỉ lệnh làm vui, phàm bọn thuộc quan nào giỏi việc thì cất nhắc thân cận, bọn thuộc hạ xung quanh nếu có lỗi nhỏ cũng giết ngay, hoặc nếu không cũng cho đánh roi từ 100 đến 200 cái. Đám phụ tá nếu có chút gì không vừa ý cũng sẽ phạt trượng từ 30 đến 50 cái, giáng truất làm môn lại, khi nào hết giận lại gọi về cho khôi phục chức cũ. Có một cái tháp gỗ, chế tác thô lậu chất phác, Hoàn mời [bọn chúng thần] lên du lãm. Đất nơi ấy không có hàn khí, tháng 11 mặc áo kép phải phất quạt”.

Có khá nhiều chi tiết thú vị trong bài văn này, thứ nhất là tục ăn trầu của người Việt được nhắc đến, thứ hai là năm 986 Đinh Toàn đã bị phế tước vương, đó là về đối ngoại, còn trong đối nội, Toàn có thể vẫn là bình phong cho Lê Hoàn, thứ ba là năm 990 khi Tống Cảo sang không hỏi gì về Đinh Toàn và họ Đinh, vậy thì trong mắt nhà Tống, họ Đinh đúng là đã bị phế và Hoàn bây giờ là đại diện của An Nam. Những chi tiết như “đoàn hộ vệ rước Hoàn đến”, “mỗi khi trúng một con cá, tả hữu hai bên đều reo hò nhảy múa” vậy thì rõ Hoàn trên thực tế đã làm chủ An Nam. Và có lẽ sau cuộc đi sứ này, Tống Cảo và nhà Tống đã hiểu ra rằng: người An Nam cũng đã thuận theo Hoàn nên ban đất ấy có chủ mới, tước Giao Chỉ quận vương vào năm 993. Qua việc Hoàn từ chối không quỳ mà Tống sứ cũng không bực bội, lại thêm Hoàn đối đãi với Cảo rất hậu, do vậy rất có thể Cảo có thiện cảm với An Nam và việc tấn phong Hoàn chức Giao Chỉ quận vương năm 990 không chừng có lời nói tốt của Cảo ? [Năm 982 Hoàn xin cho Toàn nối chức của cha anh, năm 983 vua Tống cho Hoàn 2 lựa chọn. Hoàn hiểu rằng để có thể xưng vương ở phương nam thì nhất định nhà Đinh phải thoái ngôi, do vậy năm 986 Hoàn dâng thư tấu rằng Đinh Toàn không giữ yên được An Nam nên xin tự thoái, vua Tống đồng ý và cho Hoàn giữ việc cai quản nhưng không được làm vương, về phía nhà Tống An Nam không có vương nhưng trong nước rất có thể Hoàn vẫn giữ Đinh Toàn làm đế để làm bình phong, đến năm 990 vua Tống sai Cảo sang, có lẽ là thăm dò tình hình An Nam (triều đình phương bắc có ý muốn cho Hoàn làm vương nên xem xét tình hình trước khi quyết định), nhận biết được ý nghĩa quan trọng của cuộc đi sứ này, Hoàn đối đãi với Cảo rất hậu (vừa cứng rắn vừa mền mỏng) nên khi trở về bắc, Cảo tấu báo tình hình ở An Nam, kết cục triều đình đồng ý cho Hoàn làm vương, lúc này Hoàn là Giao Chỉ vương trong quan hệ với nhà Tống và trong nước Hoàn phế Toàn (thông báo rộng khắp chiếu phế Toàn của nhà Tống) đồng thời xưng đế (thông báo rộng khắp chiếu phong vương của nhà Tống)].

Tiểu kết: Có rất nhiều thông tin dẫn chúng ta tới những kết luận khác nhau về sự kiện năm 979, trong bài này tôi cũng đưa ra một giả thuyết. Giả thuyết này bắt nguồn từ việc chúng ta có thể hiểu khác đi về những thông tin. Tuy nhiên, chính sự hiểu khác đi ở một chừng mực nào đó lại trở nên rất nguy hiểm, khiến chúng ta đã hiểu sai về một nhân vật tầm cỡ thế kỷ thứ 10.

* Một chi tiết nữa cũng cần nói thêm, ấy là việc các di tích đền thời của Hoàn thấy đâu ít hơn của các danh thần nhà Đinh hoặc như đền thời của Lê Hoàn và Dương Vân Nga thường hay quay mặt lại so với đền thời của Đinh Bộ Lĩnh. Rõ ràng các đền thời thì lập sau và người kiến thiết những đền thời ấy có chịu ảnh hưởng bởi các truyền thuyết, các bộ sử sách hay không ?

3 thoughts on “Phụ chú về thời Đinh-Lê

  1. Trước đây tôi cứ ngỡ Chí Trung là con Lê Long Đĩnh và sau khi Long Đĩnh mất Chí Trung nối ngôi rồi bị Công Uẩn phế. Giờ đọc kĩ mới biết Chí Trung là tên do nhà Tống ban cho Long Đĩnh nên họ gọi Long Đĩnh là Chí Trung. Câu: con Chí Trung nối ngôi dùng để chỉ con của Long Đĩnh (tên gì chưa biết) chứ không phải cho biết con là Chí Trung nối ngôi.

    Thích

Bình luận về bài viết này