
Phim về Robert the Bruce do Netflix sản xuất
biên dịch: hongsonvh
Trận Stirling Bridge
THEO DÒNG LỊCH SỬ
Năm 1286
Ngày 18/19 tháng 3 Tai nạn dẫn đến cái chết của Alexander III-nhà vua của Scotland.
Ngày 28 tháng 4 Bầu chọn người giám hộ của Vương quốc để cai trị Scotland.
Năm 1290
Ngày 18 tháng 7 Hiệp ước Birgham.
Ngày 26 tháng 9 Margaret-Maid của Na Uy ở Orkney qua đời.Eleanor-Nữ hoàng Castile-vợ của Edward I của Anh quốc qua đời.
Các đối thủ cạnh tranh về việc thừa kế ngai vàng của Scotland tranh chấp với nhau hết sức dữ dội.
Đức Giám mục Fraser viết thư yêu cầu Edward can thiệp vào cuộc khủng hoảng.
Năm 1291
Tháng 5 Edward I có mặt tại Norham, Quốc-hội Anh-Scotland được triệu tập. Edward muốn được công nhận là chúa tể của Scotland. Edward đứng ra phân xử giữa các đối thủ cạnh tranh,những người đã đồng ý trao lâu đài của hoàng gia Scotland vào tay của ông, đây đồng nghĩa với việc giao cho ông sở hữu vương quốc.
Ngày 13 tháng 6 Người giám hộ và các lãnh chúa người Scotland thừa nhận Edward I là chúa tể của Scotland.
Năm 1292
Năm 17 tháng 11 Edward quyết định ủng hộ John Balliol.
Ngày 30 tháng 11 Balliol lên ngôi vua của Scotland ở Scone.
Năm 1295
Hiệp ước Pháp-Scotland “Liên minh Auld”.
Năm 1296
Tháng 3 chiến tranh nổ ra giữa Edward I và Scotland.
Ngày 30 tháng 3 (quân Anh ) công chiếm lâu đài của Berwick.
Ngày 27 tháng 4 Trận Dunbar, quân đội Scotland bị đánh bại.
Tháng 7 Vua John Balliol đầu hàng và từ bỏ ngôi vua trước Edward I.
Ngày 28 tháng 8 Họp Quốc-hội tại Berwick, Edward nhận được sự kính trọng và trung thành từ khoảng 2.000 quý tộc Scotland; những người “ Ragman Roll”.
Ngày 17 tháng 9 Edward I rời Scotland, chuyển giao quyền điều hành cho John de Warenne, Bá tước của Surrey.
Năm 1297
Tháng 5 William Wallace giết chết Heselrig-cảnh sát trưởng của Clydesdale tại Lanark. Wallace cùng với William Douglas tấn công Scone.
Xuân/ Hè Andrew Murray lãnh đạo một cuộc nổi dậy ở phía Bắc.
Tháng 6->7 lực lượng của Percy và Clifford đầu hàng có điều kiện trước các lãnh chúa Scotland ở Irvine. Ngày 22 tháng 8 Edward I cùng quân đội của mình đi đường thủy đến Flanders.
Tháng 9 Lực lượng của Wallace và Murray tham gia vào cuộc bao vây Dundee. Ngày 11 tháng 9 nổ ra trận đánh Stirling.
Ngày 18 tháng 10 Wallace tấn công Northumberland và Cumberland. Tháng 11 Andrew Murray chết.
Năm 1298
Tháng 1 Quân Scotland chiếm giữ lâu đài Stirling.
Wallace được phong tước hiệp sĩ và được bầu làm người giám hộ của Scotland.
Ngày 14 tháng 3 Edward trở về từ Flanders.
Ngày 22 tháng 7 trận Falkirk, Wallace bị đánh bại.
Năm 1299
Wallace đi ra nước ngoài, quân đội Scotland lại chiếm lâu đài Stirling ( không rõ lần mấy ).
Năm 1300
Tháng 7-> 8 chiến dịch của Edward I Galloway.
Năm 1301
Tháng 7->9 Edward I và Edward của Caernarvon tiến hành chiến dịch ở miền nam Scotland.
Năm 1302
Thỏa thuận ngừng bắn trong 9 tháng
Năm 1303
Ngày 24 tháng 2 trận Roslin, Segrave bị đánh bại.
Tháng 5 Edward I xâm lược Scotland.
Năm 1304
Comyn và các lãnh chúa Scotland khác quy hàng Edward I.
Ngày 22 tháng 4 cuộc vây hãm lâu đài Stirling bắt đầu.
Năm 1305
Ngày 03 tháng 8 William Wallace bị bắt ở gần Glasgow.
Ngày 23 tháng 8 Wallace bị hành hình.
Năm 1306
Ngày 10 tháng 2 Robert Bruce ( người anh hùng Scotland trong trận Bannockburn ) giết chết John Comyn tại Dumfries.
Ngày 25 tháng 3 Robert Bruce đăng quang làm vua của Scotland ở Scone.
Ngày 19 tháng 6 trận Methven, Robert Bruce bị đánh bại.
Tháng 9 Bruce bỏ trốn sang Rathlin Island.
Năm 1307
Tháng 2 Bruce trở lại Carrick.
Ngày 7 tháng 7 Edward I qua đời ở Burgh by Sands thuộc Solway.
NGUỒN GỐC CỦA TRẬN CHIẾN STIRLING BRIDGE
ĐẤT NƯỚC SCOTLAND KHÔNG VUA
đêm 18 tháng 3 năm 1286 đã được chứng minh một cái đêm định mệnh cho vương quốc Scotland. Tại Edinburgh, sau một ngày giải quyết công việc của đất nước, nhà vua Alexander III của Scotland ăn tối và uống rượu với các viên cố vấn của mình ( rượu song lại thấy thèm thèm he he ). Cuối cùng, ông nghĩ rằng mình nên đến thăm bà vợ người Pháp-Yolande de Dreux trẻđẹp mà ông vừa mới kết hôn vào tháng 10 năm trước. Người vợ mới cưới sống ở lâu đài Kinghorn tại Fife và Alexander phải cưỡi ngựa đi 22 dặm để đến với nàngng bóng tối của màn đêm và thời tiết tồi tệ. Khi ông và toán tùy tùng của mình đi dọc theo một con đường núi quanh co trên đỉnh của ngọn núi Firth of Forth, nhà vua đã bị tách ra khỏi đòan tùy tùng của mình. Con ngựa của ông đã bị vấp và hất ông ta xuống vực và vào buổi sáng hôm sau ông đã được tìm thấy trên bờ vực dưới các vách đá, với một chiếc cổ bị gãy – Scotland đã trở nên không có vua.
Nhìn lại thì người ta thấy thời trị vì lâu dài của Alexander được xem như là một thời kỳ hoàng kim của hòa bình và thịnh vượng ở Scotland, nhưng những thành tích của ông đã bị lu mờ bởi thất bại của ông trong việc chế tạo cho đất nước Scotland một người thừa kế nam giới hợp pháp. Margaret-người vợ đầu tiên của ông cũng là con gái của Henry III của Anh quốc, đã chết trong năm 1275 và con cái của họ-hai người con trai và một người con gái cũng không lâu cô sống lâu hơn. Người ta đã hy vọng rằng cuộc hôn nhân của Alexander với cô vợ người Pháp trẻ tuổi có thể tạo ra một người thừa kế nam để khắc phục tình hình, nhưng thay vào đó cái chết không đúng lúc của ông chỉ để lại một người thừa kế nữ 3 tuổi ốm yếu. Cô bé là cháu gái của Alexander có mẹ là nữ hoàng Eric II của Na Uy, bà này cũng qua đời vào năm 1283 sau khi sinh ra Margaret-Maid of `Na Uy ‘ cuối cùng của nhà Hoàng tộc Canmore. Một hội đồng nhiếp chính được chỉ định để quản lý vương quốc thay mặt nữ Hoàng Margaret đang ở Na Uy và đại diện của nó (hội đồng nhiếp chính) đã được gửi đến Edward I, người vào thời điểm này đang bù đầu trong việc giải quyết công việc ở xứ Gascony, để thông báo về tình hình ở Scotland. Đương nhiên nhà vua coi sự kiện này là cực kỳ quan trọng, nhưng vào thời điểm đó ông đã không có một hành động nào cả. Khi quay trở lại Anh trong cuối mùa hè năm 1289, Edward đề nghị một cuộc hôn nhân giữa Edward của Caernarvon-người con trai mới được sinh ra của mình với Maid của Na Uy. Người Scot đã chấp thuận đề nghị này trong Hiệp ước Birgham năm 1290 mặc dù các điều khoản của thỏa thuận vẫn thận trọng nhấn mạnh rằng cac vùng đất của Scotland vẫn tiếp tục tồn tại như là một vương quốc hoàn toàn riêng biệt và độc lập.
Nhưng tất cả sự xắp xếp này trở lên vô nghĩa khi Margaret chết ngay sau khi vừa mới đến Orkney để lại một quyền thừa kế mở và tạo ra cơ hội cho các`Ứng cử viên ‘ tranh giành quyết liệt ngôi vua bị bỏ trống. Nhận thức về sự nguy hiểm của tình trạng này và khả năng xảy ra nội chiến, các quý tộc Scotland đã mời sự can thiệp của Edward I. Trong tháng 5 năm 1291 Edward đã họp mặt với các quý tộc Scotland tại Norham ở vùng biên giới vớiTweed và thông báo với họ rằng ông sẽ ra phán quyết về các yêu cầu khác nhau về ngôi vua mặc dù họ phải thừa nhận ông là chúa tể của Scotland và để đảm bảo hòa bình, Lâu đài Hoàng gia của vương quốc phải được trao cho ông. Trong khi đối mặt với quân đội của Edward vốn đã chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu, các quý tộc Scotland đã phải nhượng bộ và giao quyền kiểm soát đất nước cho nhà vua Anh. Người ta không biết được rằng vào lúc nào thì ông nảy ra quyết định thôn tính Scotland mặc dù có thể chỉ đơn giản là cờ đến tay thì ông cứ phất. Eleanor-người vợ yêu dấu Edward đã qua đời vào năm 1290 làm cho tâm địa của vị vua cao tuổi lại càng trở nên bất thường. Sự sụp đổ của Acre vào năm 1291 đã kết thúc giấc mơ của Edward về một cuộc thánh chiến mới tại vùng Đất Thánh (Edward I có tham gia vào cuộc Thập tự chinh lần thứ IX) và ông không còn bị phân tâm về vấn đề này và các suy nghĩ của ông lại được tập trung hơn vào vấn đề đối phó với người Scotland.
Vua John Balliol
Các ứng cử viên nặng ký nhất trong số 14 nguyên đơn yêu cầu ngôi vua là hai người hậu duệ của các con gái của David-Bá tước vùng Huntingdon-anh trai của nhà vua William the Lion. Họ là Robert Bruce (Ông nội của vua Robert I) và John Balliol. Balliol nhà quý tộc trạc trung niên bị ảnh hưởng rất nhiều từ lối sống Anglo-Norman và có rất nhiều bất động sản rộng lớn ở Anh, miền Bắc nước Pháp và Galloway và mặc dù ông này có một số hỗ trợ trong số các quý tộc Scotland, nhưng nói chung ông lại không được nổi tiếng cho lắm ở tại Scotland.
Ngày 17 tháng 11 năm 1292, ở Berwick, Edward quyết định ủng hộ tuyên bố kế thừa ngôi vị của Balliol-người đã tỏ lòng tôn kính với ông ta và ông này đã đăng quang tại Scone vào cuối tháng đó. Nhưng các lâu đài của Scotland nằm dưới sự chiếm đóng của Anh. Edward tiếp tục thể hiện sự thống trị của mình bằng cách phá hoại hệ thống tư pháp độc lập của vương quốc Scotland. Ông ta muốn rằng cá nhân Balliol phải xuất hiện ở nước Anh để trả lời các khiếu nại chống lại triều đình Scotland. Luật pháp thời trung cổ đặc quyền của vị chúa tể là tổ chức các buổi thử thách về chủ quyền. Theo cách này, ông (Edward I ) tìm cách nhấn mạnh rằng Balliol là chư hầu phong kiến của mình và quản lý vương quốc của mình nhân danh nhà vua Anh quốc-chúa tể của mình. Balliol được triệu tập đến Westminster để trả lời các khiếu nại của Macduff ở Fife chống lại những phán quyết của Quốc-Hội Scotland vào ông ta (Macduff ở Fife) và mặc dù ông (Balliol ) đã từ chối trả lời khiếu nại của MacDuff vì chưa tham vấn được ý kiến của người dân của vương quốc của mình, vụ việc là một sự sỉ nhục và giảm bớt quyền lực của ông (Balliol ) với các thành viên Quốc-Hội Scotland. Năm 1293 chiến tranh đã bùng lên giữa Edward I và Philip IV của Pháp về chủ quyền của xứ Gascony. Edward đã gửi giấy triệu tập tới Scotland như họ là chư hầu của mình, bao gồm cả vua John và 18 đại lãnh chúa người Scotland khác, yêu cầu sự phục vụ phong kiến ( mang quân đi đánh không lương cho tôn chủ ) của họ ở ngoài những vùng đất của Scotland. Với một Quốc-Hội vừa mới được thành lập ủng hộ giải pháp cứng rắn của mình, Balliol đã từ chối tuân thủ giấy triệu tập của Edward. Thay vào đó ông đã gửi một sứ giả đến chỗ Philip của Pháp quốc để tìm kiếm sự trợ giúp của ông này. Sự kiện này đã dẫn đến hiệp ước được gọi là ‘Liên minh Auld’ và người Scotland sẽ tiến hành một cuộc xâm lược vào nước Anh nếu người Anh tiến hành xâm lược nước Pháp.
Đầu năm 1296 Balliol chính thức từ bỏ sự trung thành của mình với Vua Anh và chiến tranh giữa Anh và Scotland đã trở nên là điều không thể tránh khỏi. John Balliol-được các nhà sử gia đương đại mô tả như là một «một con chiên trong số những con sói, những kẻ không dám mở miệng “, trở thành người lãnh đạo của một Scotland thống nhất và quyết tâm chống lại ý muốn của Edward Plantagenet.
Vua Edward I khuất phục người Scotland
Năm 1296 vua Edward đã 57 tuổi và ngày càng cảm thấy bực dọc về các cuộc nổi loạn và biến động gần đây ở xứ Wales đồng thời với các sự kiện ở lục địa ( nước Pháp), nhưng ngọn lửa nhiệt tình của ông đã không hề suy giảm. Nó được thể hiện bởi sức mạnh quân sự của Edward I của Anh quốc mà nhà vua đã sử dụng trong các cuộc chiến của ông ở Gascony để chống lại Philip của Pháp quốc và đồng thời tập hợp một lực lượng đáng gờm tại Newcastle để tiến hành một cuộc xâm lược vào Scotland. Trong khi đó, nhận thức được mối đe dọa này, các lãnh chúa phong kiến Scotland cũng tập hợp quân đội tại Caddonlee, điểm tập hợp truyền thống của đội quân người Scotland ở gần Selkirk. Không phải tất cả người Scotland đã tuân theo lệnh triệu tập để gia nhập quân đội vì lợi ích của những người ở miền nam Scotland. Người của Patrick-Bá tước của Dunbar là những người trung thành nhất và đang phục vụ cho Edward. Quân đội của nhà Bruce cũng không tham gia chiến đấu với nước Anh trong lần này vì họ không ủng hộ việc kế thừa ngôi bị của Balliol, họ giữ lời thề trung thành với Edward mà họ đã thề tại lâu đài Wark ở Tweed of Easter năm 1296. Chúng ta cũng không biết rằng liệu William Wallace có tham gia các trận đánh này không bởi vì có thể không giống như Robert Bruce, ông đã hưởng ứng lời kêu gọi và tham gia quân đội tại Caddonlee. Vua Balliol không gia nhập một cách trực tiếp với quân đội Scotland ở Caddonlee, mà John Comyn-Bá tước của Buchan thay mặt ông ta nắm quyền chỉ huy ở đó, cùng với các Bá tước của Menteith, Trathearn, Lenox, Rose, Attholl, Mar và John Comyn “ Biệt danh –đỏ” của Badenoch. Quân đội Scotland vượt qua Solway để vào nước Anh để lại hàng loạt những tàn phá đằng sau những bước tiến quân của họ. Sử gia Lanercost Priory ở thời gần đó đã viết, họ đã “đốt nhà, giết người và bắt thịt gia súc ” và hai ngày sau họ đã triển khai tấn công vào lâu đài Carlisle nhưng nỗ lực của họ đã thất bại, họ đã phải ngừng tấn công vào ngày thứ ba. Trong đầu tháng 4 người Scotland lại đột kích Northumberland và Cumberland một lần nữa, làm hư hại nặng các tu viện và nhà cửa ở Lanercost Hexham.
Các sử gia ở Lanercost ghi lại sự tàn bạo của họ và cáo buộc họ đã phạm tội thiêu sống ở Corhridge “ khoảng 200 học sinh nhỏ tuổi, những cậu bé đang độ tuổi đến trường … đang tập viết những chữ cái và ngữ pháp đầu tiên của họ, đã bị chặn cửa ra vào và châm lửa thiêu sống trong toà nhà.
Sự sụp đổ của Berwick
Các cuộc tấn công mặc dù có gây thiệt hại cũng đã trở thành vô ích và khôngg đóng góp được gì để đánh bại người Anh, họ cũng không lay chuyển từ mục đích của Edward. Trong ngày 28 tháng 3, ông vượt qua Tweed ở gần Coldstream và tiến về hướng đông về phía Berwick khi vượt qua Tweed. Năm 1296 Berwick là thị trấn thịnh vượng nhất và quan trọng nhất về nội thương và ngoại thương của đất nước Scotland. Ngày 29 tháng Ba Edward gửi thư yêu cầu thành phố để đầu hàng nhưng quân đồn trú với sự tự tin được đặt không đúng chỗ đã trả lời đề nghị của ông với những lời chế nhạo và “ tụ quần để khiêu khích ông này- nv bear their breeches”. Nhà vua Anh liền phát động một đợt tấn công tổng lực trên cả hai mặt thủy bộ. Bất chấp việc hướng tấn công bằng quân thủy phải đối mặt với một số thiệt hại, sự tàn khốc của cuộc tấn công trên bộ làm choáng váng quân phòng thủ. Kháng cự nhanh chóng sụp đổ và binh sỹ Scotland bị mất tinh thần đã bỏ chạy khỏi thị trấn. Một nhóm gồm 30 thương gia người Flemish vẫn giữ được vị trí phòng thủ Red Hall trong một khoảng thời gian trước khi tòa nhà bốc lửa và đổ sập xuống và thế là kết thúc tất cả những người ở bên trong. Một phát nỏ bắn ra bởi một trong những người Fleming giết Richard của Cornwall-người em họ ít tuổi của Edward khi ông này nhấc tấm giáp che mặt của mình lên. Ông dường như là nạn nhân người Anh duy nhất đáng lưu ý ở Berwick và nó có thể đã làm cho nhà vua nổi giận. Và giống như “ một con lợn lòi hoang nổi điên truy đuổi con chó săn”. Mặc dù đơn vị đồn trú của lâu đài đã xin được đầu hàng, chỉ có phụ nữ và trẻ em của thị trấn được phép ra đi, các thị dân và người đàn ông trong trấn phải trả giá đắt cho những lời lă.ng mạ trước đó của họ. Nhà vua tung quân của ông ra chiếm thị trấn và một cuộc tắm máu xảy ra sau đó, đây là một vết ố trên danh tiếng vị vua này cho đến ngày nay.
Trận Dunbar
Edward ở lại Berwick trong bốn tuần xây lại hệ thống phòng thủ vì ông dự định biến thành phố thành một thuộc địa của Anh và thành trung tâm hành chính của cuộc chinh phục Scotland. Edward bổ nhiệm Hugh Cressingham làm quan phụ trách ngân khố ( Treasurer ) của Scotland, với trụ sở chính của ông ta là ở tại thị trấn này, vốn đã trở nên đông đúc trở lại với các thương gia người Anh và thị dân. Vị Bá tước của Dunbar lúc này đã quy phục và ra mắt Edward ở Berwick nhưng vợ của ông-người không chia sẻ nhiệt tình của mình với người Anh, đã nắm lấy cơ hội khi vị bá tước này không ở nhà để mở cửa lâu đài của Dunbar cho người Scotland. John de Warenne-Bá tước của Surrey đã được phái đến để chiếm lại Dunbar với đội quân hùng mạnh và bắt đầu một phong tỏa lâu đài. Walter của Guisborough nói rằng lực lượng của Warenne gồm khoảng 1.000 lính kỵ binh chưa kể đến 100 quân kỵ của Giám mục của Durham và 10.000 bộ binh, mặc dù điều này có vẻ nhiều khả năng mô tả về toàn bộ sức mạnh của quân Anh chứ không phải là lực lượng quân đội biệt lập dưới sự chỉ huy của Warenne tại Dunbar-nhiều khả năng đây chỉ là đội tiên phong của quân Anh. Trong ngày 27 tháng 4 Warenne đã bị tấn công bởi đội quân chủ lực của vua John, với kỳ vọng là để bẫy đội quân của vị bá tước này vào giữa đội quân chính của Scotland và lực lượng đồn trú trong lâu đài. Khi quân Scotland xuất hiện trên các ngọn đồi ở trên Spott, và bắt đầu được nhìn thấy từ Dunbar, Warenne cử một lực lượng dưới sự chỉ huy của Hurnfrey de Bohun để khóa trặt đơn vị lính Scotland đồn trú trong lâu đài và quay lại để đối đầu với họ. Khi quân Anh được triển khai để vượt qua Spott Burn và tấn công vào người Scotland-những người vốn vẫn nghĩ rằng họ đã đang nghỉ ngơi. Cho thấy sự thiếu kinh nghiệm thiếu khả năng của họ về quân sự người Scotland rời bỏ các vùng đất cao an toàn, bị phá vỡ hàng ngũ và nhanh chóng bị đánh bại. Quân của Warenne là một đội quân có nhiều kinh nghiệm chiến đấu trong các chiến dịch ở xứ Wales, đã cắt qua một vùng rộng xuyên qua quân Scot đang rối loạn và quân đội của Buchan đã tan rã. Nhiều lính bộ binh đã bị hại gục nhưng trong số các chỉ huy và các hiệp sĩ chỉ có Quận trưởng của Stirling-Sir Patrick Graham, đã bị giết chết trong trận cận chiến trước khi quân đội Scotland đầu hàng. Trận Dunbar có một điểm đáng chú ý là một số lượng lớn các quý tộc và hiệp sĩ Scotland bị bắt làm tù binh và bộ máy quân sự không hiệu quả của người Scotland bị phá hủy hoàn toàn. Có 171 nhà quý tộc Scotland bị cầm tù bao gồm các bá tước, hiệp sĩ và hộ sỹ. Những người nổi tiếng đã bị gửi tới cầm tù tại Tháp London, phần còn lại được chia vào các lâu đài ở ở miền trung và miền Nam nước Anh. Andrew Murray-Bá tước của Moray, người sau này đã hợp tác chặt trẽ với Wallace, và sau đó cũng nhanh chóng chở nên nổi tiếng vẫn còn sau cuộc nổi loan của ông ở miền Nam Scotland, cũng bị bắt trong trận này lúc chỉ là một hộ sỹ ( Người đang trong quá trình đào tạo làm Hiệp sỹ). Ông đã bị gửi đến ngồi tù ở lâu đài Chester Castle-nhà tù vốn gần biên giới với Dunbar nhất.
Sự quy phục của người Scotland
Xương sống của sự kháng sự của người Scotland ( lực lượng của người quý tộc) đã bị hủy diệt ở Dunbar. Có rất ít người tiếp tục chiến đấu và những lâu đài còn lại vẫn nằm trong tay người Scotland đã hạ vũ khí từng chiếc một. Tại Stirling đơn vị đồn trú hùng mạnh bỏ chạy trốn mà không chiến đấu, để lại người gác cổng bàn giao chìa khóa cho người Anh. Chiến dịch đã trở thành một chuyến du hý về quân sự và Edward tiến lên một cách nhàn nhã về phía bắc, đi qua những gì là vương quốc Scotland của ông. John Balliol đã đầu hàng vào ngày 10 tháng 7 tại Brechin và như là một sự sỉ nhục cuối cùng, Edward xé toạc biểu tượng Hoàng gia Scotland trên áo khoác của ông này trước khi tống ông ta vào tù trong Tháp London. Vì vậy Balliol trở thành vật tế thần cho thất bại của cả một dân tộc, và trở thành trong ý thức của người Scotland như là “Toom Tabard-áo choàng trống rỗng “. Cũng như ông đã làm nhục Balliol, Edward bây giờ đã tìm cách để làm nhục vương quốc Scotland bằng cách tách nó ra khỏi những biểu tượng về tình trạng của nó như là một vương quốc độc lập. Ông lấy các sách sử của người Scotland và Black Rood thiêng liêng rồi mang về phía nam cùng với ông ta. The Stone of Destiny, đó là nơi các vị vua của Scotland đã được trao vương miện từ thời xưa ở Scone, đã được gửi đến Westminster Abbey nơi những chiếc ghế bằng gỗ để đăng quang cho các vị vua Anh được bầy xung quanh nó. Bruce của Annandale ( người cha của Robert Bruce-anh hùng của trận Bannockburn nổi tiếng) nghĩ rằng tỏ lòng trung thành với nhà vua Anh sẽ được tưởng thưởng bằng vương miện của Scotland ( để trở thành một vua chư hầu của nước Anh ) nhưng hy vọng của ông bị nghiền nát bởi câu nói gay gắt của Edward, ” ta không có việc gì khác để làm ngoài việc trao vương quốc vừa giành được cho ngươi?” Rõ ràng, ông không muốn có một vị vua nào khác ở Scotland ngoài chính bản thân mình-Edward I nhà Plantagenet. Ông triệu tập tất cả các chủ đất của Scotland đến Berwick rồi ép họ tuyên thệ trung thành với mình. Tài liệu ghi tên của họ đã được người Scotland gọi là “Ragman Roll-Roll người bán giẻ rách”. Tên của William Wallace đã không có trong bản danh sách này và sự kiện này đã trở thành biểu tượng cho tinh thần độc lập của ông vì ông không nợ lời thề trung thành với Edward Plantagenet, mà lòng trung thành của ông vẫn được dành cho đất nước Scotland.
Ngày 17 tháng 9 năm 1296 Edward vượt qua biên giới ( với Scotland để chở về Anh quốc ), và cho kết thúc cuộc chinh phục phía Bắc của ông với một câu nói nổi tiếng bằng tiếng Pháp ( khơ khớ vua Anh giòng Plantagenet chỉ nói tiếng Pháp ) khi nhận xét với một người bạn cũ của mình-Bá tước Surrey “ Bon hesoigne fait qy de merde delivrer” dịch theo tiếng Anh hiện đại là “ It’s a relief to he rid of’ Sh.i.t“ nhà vua cưỡi về phía nam và vị bá tước cao tuổi cũng hồi hưu và an hưởng sự tiện nghi trong các bất động sản của ông ở Yorkshire, và để lại một chính phủ cũng như các đơn vị đồn trú của nó ở Scotland trong tay quan chưởng án đầy năng lực-William Ormsby và Hugh Cressingham-quan trưởng ngân khố cực kỳ tham lam.
Chỉ huy của các bên đối địch
Chỉ huy của quân Anh
Edward Plantagenet, sinh năm 1239, vua Edward I từ năm 1272-> 1307 (mất ở tuổi 67). Mặc dù một số người vẫn đang bàn cãi về việc cho rằng Edward là một “ vị vua thực sự tuyệt vời “, không có nghi ngờ gì về việc ông ta là một vị vua ghê gớm nhất trong số các quốc vương của nước Anh thời trung cổ. Có người còn nói rằng «ông là một con sư tử về niềm tự hào và sự tàn bạo, nhưng là một con beo vì hay thay đổi và không chịu giữ lời hứa của mình nhưng luôn tự cảm thông cho mình bằng từ công bằng «. Edward là con trai cả của Henry III-người mà người ta đã nói: “ông là một người có khiếu về các tác phẩm điêu khắc và hội họa hơn là một người đàn ông thực thụ-chiến binh? ” Tuy nhiên ông ( Henry III) là một mô hình của đạo đức trong nước và đảm bảo cho con trai của ông được sống trong giáo dục đúng như của một hoàng tử ở thế kỷ thứ 13 và mặc dù Edward đã hấp thụ văn hóa cung đình, ông này lại nghiêng về phía lối sống hiệp sĩ hơn. Ở tuổi 15, ông đến Tây Ban Nha và kết hôn với Eleanor của Castile. Đó là một liên minh chính trị để đảm bảo an toàn cho xứ Gascony, mảnh vỡ cuối cùng còn sót lại của đế quốc Angevin ( đất gốc của nhà Plantagenet) rộng lớn trên lục địa châu Âu, nhưng hóa ra đó lại là một chuyến phiêu lưu về tình yêu lớn.
Edward đã dành một năm sau cuộc hôn nhân của mình ở Gascony, mặc dù vẫn còn dưới sự giám sát của nhà vua (Henry III), ông đã tập tọng tham dự vào các vấn đề hành chính trong cái công quốc đầy phiền hà; rõ ràng Henry là đã không bỏ bê vị Hoàng tử-người mà ông chuẩn bị để cho thừa kế vương quyền. Khi trở về nước Anh, Edward đã có cho mình những kinh nghiệm chiến đấu thực tế đầu tiên tại xứ Wales khi chống lại nhà Llewelyn hay nổi loạn, mặc dù ông cũng đã có rất ít thành công. Henry III đối đầu với Simon de Montfort và các vị nam tước vây cánh của ông này, tình trạng vô chính phủ đã dẫn đến chiến tranh và tại Lewes trong năm 1264, Edward lần đầu tiên được nếm mùi chiến trận. Ông đã dẫn đầu đội quân tiên phong của hoàng gia Anh quốc lao vào tấn công cánh trái của de Montfort, rồi đó phá vỡ cánh quân này, sau đó truy kích họ ra xa khỏi chiến trường. Vào thời điểm đó bộ phận hiệp sĩ vô kỷ luật của Edward quay trở lại chiến trường thì họ đã bị thua trận chiến này và cả nhà vua và con trai của ông đã trở thành tù binh. Vị hoàng tử đã trốn thoát khỏi tay những kẻ bắt tù binh mình vào tháng 5 năm 1265 và phục hồi sự nghiệp của Hoàng gia với sự hỗ trợ của các lãnh chúa ở vùng xứ Wales. Giữa và tháng 5 và tháng 8 năm 1265, trong một chiến dịch rực rỡ trong đó lên đến đỉnh điểm là thất bại và cái chết của Simon de Montfort ở Evesham, Hoàng tử Edward đã chứng minh rằng ông đã hấp thụ rất tốt những bài học của thảm họa tại Lewes. Năm 1270 ông khởi hành đi Đất Thánh với khoảng 1.000 người, quá ít để đảo ngược sự suy sụp của các thành bang Thập tự chinh ở Palestine. chiến dịch 16 tháng của ông đạt được rất ít các thành quả nhưng lại có thêm rất nhiều các kinh nghiệm quân sự và làm tăng uy tín và danh tiếng của ông ra bên ngoài. Henry III qua đời năm 1272, trong khi Edward vẫn còn ở nước ngoài; sau khi trở về Anh vào năm 1274 ông đã lên ngôi ở Westminster Abbey ở tuổi 35 tại thời đỉnh cao quyền lực của mình, và được sự ngưỡng mộ và kính trọng ở trong và ngoài nước.
John de Warenne, Bá tước của Surrey, (c.1239-1304) là một người bạn chiến đấu cùng thời của Edward Plantagenet, người mà ông cũng có liên quan về mặt huyết thống của mình từ Geoffrey của Anjou và bởi cuộc hôn nhân của ông với một người em gái cùng cha khác mẹ của Henry III. Ông là người bạn đồng hành của Hoàng tử Edward ở Gascony và từ khi còn nhỏ ông đã chia sẻ cùng một nền giáo dục và đào tạo về tinh thần hiệp sĩ. Ông đã chiến đấu trong cánh của Hoàng tử Edward tại trận Lewes trong năm 1264 và năm sau lại một lần nữa cùng với Edward khi đánh bại và giết chết Simon de Montfort ở trận Evesham. Ông là một trong các chỉ huy trưởng của Edward trong suốt chiến dịch gian khổ ở xứ Wales năm 1277-1295 và đã được cấp vùng đất làm cho ông ta chở thành một trong những lãnh chúa hùng mạnh. Năm 1296 Bá tước Surrey đã đánh bại người Scotland tại trận Dunbar chỉ với duy nhất đội quân tiên phong của Quân đội Anh. Một số người nói rằng chiến thắng của ông như là một kết quả của sự yếu kém của người Scotland hơn là hiển thị bất kỳ khả năng chiến thuật tuyệt vời nào của chính ông. Thực sự thì điều này chưa hẳn đã hoàn toàn đúng. Ông đã bị đánh bại hoàn toàn khi phải đối mặt với Wallace tại trận Stirling Bridge, nhưng ông vẫn giữ lại đủ sự tự tin cho nhà vua để tiếp tục trận Falkirk vào năm sau. Vị bá tước có bốn vị hiệp sỹ cầm cờ cùng với ông tại trận Stirling Bridge ở bên ngoài Cressingham, họ tất cả bọn họ đều là quân nhân chuyên nghiệp có kinh nghiệm chiến đấu nhưng không thể khắc phục những sai lầm của Warenne.
Hugh Cressingham, Quan coi ngân khố của Anh ở Scotland, được đặt tên là “ tracherer – thằng mắc bệnh mắt hột” bởi người Scotland-những người mà ông chỉ là một kẻ tầm thường đối với họ. Ông cũng không được đánh giá cao bởi Walter Guisborough-nhà sử gia có lòng tự trọng cao, người đã mô tả ông là không đáng tin cậy, trơn trượt, kiêu căng, ngạo mạn và tham lam. Cressingham đã nỗ lực phục vụ nhà vua và vào năm 1297 ông đã kiểm soát có hiệu quả chính quyền Anh của Scotland tương tự như là Bá tước Surrey- trung úy của nhà vua (lieutenant-chỉ huy trưởng một đơn vị nào đó chứ không đơn thuần như chức trung úy-sỹ quan sơ cấp ngày nay), vì vậy không được ưa thích ở đất nước này ông đã nghỉ hưu ở dinh thự của mình tại Yorkshire. Cressingham đã có một khoản thu nhập lớn từ giáo xứ Rudby ở Yorkshire cùng với lộc thánh ở các nhà thờ khác và đã bị béo phì vì lối sống giàu có. Tuy nhiên không phải ông không có kinh nghiệm quân sự như các tài liệu về cuối cuộc nổi dậy xứ Wales đã viết.
Walter Huntercombe (chết năm 1320), là một quân nhân giàu kinh nghiệm phục vụ cho Edward I trong suốt các cuộc chiến ở xứ Wales và Scotland. Lần đầu tiên ông được triệu tập để phục vụ Hoàng tử Llewelyn trong năm 1277 và sau đó tên của ông xuất hiện thường xuyên trong các tài liệu như là một người lính chuyên nghiệp và thường vẫn là một chỉ huy quân sự cho đến năm 1310. Ông là một thành viên trong đoàn tùy tùng của Surrey tại Stirling Bridge với 32 hiệp sĩ và binh lính của mình. Ông đã chiến đấu ở trận Falkirk.
Marmaduke de Thweng của IyIlloii ở lâu đài Cleveland, người anh hùng trong trận Stirling Bridge, là một người lính chuyên nghiệp nổi tiếng, người đã phục vụ rất lâu ở Scotland. Ông đã chiến đấu trong trận Bannockburn trong năm 1314.
William Latimer của Corby, ( chết năm 1304), là một người lính chuyên nghiệp mà tên của ông xuất hiện thường xuyên trong các tài liệu ở các cuộc chiến tranh ở xứ Wales và Scotland. Ông đã chiến đấu ở Falkirk trong đơn vị dưới quyền chỉ huy trực tiếp của nhà vua.
Henry de Lacy, Bá tước của Lincoln, chỉ huy đội tiên phong hoặc đội quân đầu tiên. Cùng với ông là Humfrey de Bohun-Bá tước của Hereford và cũng là Huân tước của nước Anh, Roger Bigod-Bá tước của Norfolk và Bá tước Marshal của nước Anh, cùng với 18 hiệp sỹ khác.
Anthony Bek-Giám mục của Durham, chỉ huy đoàn quân thứ hai. Ông liên tục phục vụ Edward I như là một cố vấn, thư ký riêng và sứ giả. Có 28 hiệp sỹ cầm cờ dưới sự chỉ huy của ông.
Vua Edward I tự dẫn đầu đoàn quân thứ ba, một lực lượng lớn hơn ba đội quân khác của quân đội Anh với hai Bá tước và 43 Hiệp sỹ cầm cờ dưới sự chỉ huycủa ông.
John de Warenne, Bá tước của Surrey, chỉ huy đội quân thứ tư, bất chấp thất bại của ông tại Stirling Bridge. Có ba Bá tước và 15 hiệp sỹ cầm cờ dưới quyền chỉ huy của ông.
Các chỉ huy của người Scotland
JOHN BALLIOL
John Balliol của lâu đài Barnard , vua của Scotland (1292-1306), Chúa tể của Galloway, (năm 1229 ->1314). Balliol nói rằng vụ trục xuất ông ra khỏiScotland trong năm 1296 là có “ác ý, lừa dối, phản bội và phản quốc ” và rằng ông không có ý định quay trở lại triều đình Scotland trong bất kỳ thời gian gần nào. Hoặc người Scot đối xử với ông như là một vị vua vắng mặt và đã chiến đấu và chết tại các trận Stirling Bridge và Falkirk nhân danh tên của ông.
WILLIAM WALLACE
William Wallace, người giám hộ của Scotland, ( từ tháng 3 năm 1298 đến tháng 7 năm 1298. Sinh năm l272 mất năm 1305). Mặc dù William Wallace nổi tiếng như một vị anh hùng dân tộc, nhưng cuộc đời của ông vẫn còn bị bao phủ trong bí mật, các tài liệu sai lệch, sự thật về cuộc sống của ông bị méo mó bởi truyền thuyết và văn hóa dân gian. Nhiều huyền thoại xung quanh ông có nguồn gốc từ các bài sử thi của người hát rong mù Harry. Bài thơ The lift of Sir William Wallace được viết hơn một thế kỷ rưỡi sau cái chết của ông. Người hát rong Harry mù tuyên bố rằng bài thơ của ông được dựa trên một bản thảo văn xuôi đã bị thất lạc của John Blair-giáo sĩ của Wallace, tuy nhiên sử thi tạo ra trở ngại bởi sự sai lệch so với thực tế, sự khác biệt thời gian và khai thác bản chất anh hùng lý được tưởng hóa. Có thể, ít nhất phần đầu của bài thơ là gần với sự thật, rằng Harry đã dựa vào bản thảo văn xuôi đã bị thất lạc để sau đó ông đưa thêm phần truyền thuyết để làm sống động câu chuyện về người anh hùng gan dạ của ông. Có tài liệu bằng chứng cho thấy những người anh em của William Wallace- Malcolm, người cao tuổi và John-bị người hành quyết trong năm 1307, đã ủng hộ Robert Bruce ngay từ đầu. William là người có đức tin và được giáo dục bởi những người chú của mình, cả hai đều là linh mục-những người đã dạy anh một tình yêu tự do vĩnh cửu. Người ta cho rằng khi còn trẻ tuổi William cũng có thiên hướng giống như người chú của mình là muốn trở thành một vị linh mục. Bất kể con đường và nền giáo dục của ông trong những năm đầu đời, thì ông đã trở thành nhà lãnh đạo của phiến quân trong năm 1297.
Wallace hoặc `le Waleis ‘có nghĩa là một Welshman ( người đàn ông xứ Welsh ) và người ta tin rằng tổ tiên của William Wallace là Richard Wallace đã đến Scotland trong những năm 1130 trong khi phục vụ cho Walter Fitzalan-người đã được bổ nhiệm làm quản gia của gia đình của vua David I. Nhà Fitzalans sau này trở thành High Stewards của Scotland và cuối cùng là Hoàng tộc nhà Stewart. Gia đình Wallace là một trong những gia đình hiệp sĩ là thành phần phong kiến của của nhà Stewart sau đó và điều này cho phép họ có một địa vị xã hội mà họ đã sở hữu. Vùng đất mà họ đã sở hữu là ở Ayrshire và sau này là ở Renfrewshire, trung tâm của các thái ấp phong kiến lớn của nhà Stewart. Có khả năng là William Wallace đã được sinh ra tại Elderslie, gần Paisley trong Renfiewshire mặc dù có có lập luận ủng hộ một nơi sinh khác của ông là Ayrshire. Việc xác định năm sinh của ông là chưa thỏa đáng và chúng ta chỉ có thể suy đoán về chi tiết về cuộc sống của ông khi ông trở thành nổi tiếng vào tháng 5 năm 1297.
Harry-người hát rong mù cho rằng cha của Wallace đã bị giết chết cùng với John-anh trai của ông trong một trận giao tranh ở Loudoun Hill năm 1291 bởi nhà Lamby khét tiếng, những người đến từ bộ tộc Lamont Clan.
Theo truyền thuyết Ayrshire có hai binh sĩ Anh tìm cách bắt giữ Wallace tại chợ Lanark vì ông này bắt trộm cá. Theo John Strawhorn, tác giả cuốn Lịch sử củaIrvine, truyền thuyết cho rằng Wallace đi đánh cá trên sông Irvine. Ông ở cùng với người chú của mình tại Riccarton. Một nhóm binh sĩ Anh đến gần và rồi chỉ huy của toán lính tiến lên phía trước và yêu cầu tịch thu toàn bộ số cá-đây là cái giá để ông không bị bắt giữ. Ngay cả khi Wallace chịu nộp một nửa số cá của mình, người Anh vẫn từ chối vì cho rằng hối lộ quá ít ỏi và đe dọa giết Wallace nếu ông này từ chối. Wallace được cho là đã hạ gục người lính đứng gần bằng chiếc cần câu của mình rồi cướp lấy thanh kiếm của người lính này. Sự vụ đã leo thang thành một cuộc ẩu đả và hai binh sĩ Anh đã thiệt mạng. Harry mù cho rằng nơi vụ việc này xảy ra ở dọc theo sông Irvine với năm binh sĩ bị thiệt mạng. Ngay sau đó nhà chức trách đã ra lệnh bắt giữ ông. Tuy nhiên, theo một tấm bảng bên ngoài Nhà thờ Thánh Paul ở Dundee, William Wallace đã bắt đầu cuộc chiến tranh giành độc lập của mình bằng cách giết chết con trai của thống đốc người Anh ở Dundee, người luôn có thói quen ức hiếp Wallace và gia đình của ông. Câu chuyện này có lẽ có trọng lượng hơn bởi vì người ta suy đoán rằng Wallace đã học ở nơi nay là Trường cao đẳng của Dundee, Wallace đã giết chết con trai của một quý tộc Anh tên là Selby với một con dao găm. Tuy nhiên không có bất cứ bằng chứng thực tế nào chứng minh cho điều này.
Lần đầu tiên Wallace đi vào lịch sử là khi ông giết chết William de Heselrig, quận trưởng của Lanark, Tháng 5 năm 1297. Theo truyền thuyết thì đây là để trả thù việc viên quận trưởng này đã giết chết Marion Braidfute người thừa kế trẻ tuổi của nhà Lamington mà vừa mới kết hôn Wallace gần lúc đó. Ngay sau đó, ông có được một chiến thắng trong cuộc giao tranh ở Loudoun Hill (gần Darvel, Ayrshire) và Ayr, ông cũng đã chiến đấu bên cạnh Sir William Douglas của Hardy tại Scone và truy đuổi William Ormesby- viên quan trưởng án từ thành phố như Aberdeen, Perth, Glasgow, Scone và Dundee.
Những người ủng hộ cuộc nổi dậy đã bị một cú shock lớn khi các quý tộc Scotland đã đồng ý thương thuyết một cách cá nhân với người Anh tại Irvine vào tháng Bảy ( vua Anh liên tục mua tìm cách chuộc và chia rẽ các nhà quý tộc Scotland ra khỏi đội ngũ quân nổi dậy và thực chất thì sau này quân đội của Wallace là quân đội của nhân dân với rất hiếm hoi các quý tộc tham gia). Trong tháng Tám, Wallace rời khỏi rừng Selkirk với những người theo ông và tham gia vào lực lượng của Andrew Moray-người cũng đang cầm đầu một cuộc nổi dậy, tại Stirling nơi họ chuẩn bị để ứng chiến với người Anh trong một trận chiến mà họ kém hơn rất nhiều lần so với đối thủ cả về số lượng lẫn trang bị.
Khi lực lượng dưới sự chỉ huy của Wallace tăng lên, có những thông tin thu thập được bởi John de Graham cho rằng Wallace đã chuyển lực lượng của ông từ rừng Selkirk đến vùng cao nguyên của Scotland, không có bằng chứng lịch sử cho thấy rằng Wallace đã rời khỏi vùng đất thấp của Scotland để đi đến một nơi khác ngoài chuyến đến thăm nước Pháp và chuyến đi của ông để đến giàn giáo treo cổ ở London.
ANDREW MORAY
Andrew Moray, còn được gọi là Andrew de Moray, Andrew của Moray, hoặc Andrew Murray, là một nhà lãnh đạo quân sự nổi bật của lực lượng yêu nước trong cuộc chiến tranh giành độc lập Scotland. Ông đã lãnh đạo cuộc nổi dậy ở miền Bắc Scotland vào mùa hè năm 1297 để chống lại sự chiếm đóng của vua Edward I của Anh quốc, và thành công trong việc giành lại quyền kiểm soát vùng này cho vua John Balliol của Scotland. Sau đó ông sáp nhập lực lượng của mình với lực lượng của William Wallace và họ cùng chỉ huy đội quân kết hợp để chiến thắng tại trận Stirling Bridge. Moray nằm trong danh sách thương vong trong trận chiến ngày hôm đó và ông đã chết ở một ngày không rõ ràng trong những tháng cuối năm 1297.
Nguồn gốc nhà Moray của Petty
AndrewMoray được sinh ra trong gia đình Moray của Petty ở cuối nửa sau của thế kỷ 13. Người ta không được biết ngày và nơi sinh của ông liệu ông có bất kỳ anh chị em nào. Nhà Moray của Petty là một gia đình nam tước giàu có và có ảnh hưởng chính trị tại tỉnh Moray ở phía đông bắc Scotland. Nguồn gốc của nhà Moray bắt nguồn từ Freskin-một người đàn ông được cho là có nguồn gốc Flemish. Ông đã được cấp đất Laich ở tỉnh Moray trong thế kỷ 12 dưới triều đại Vua David I của Scotland, nơi mà ông đã cho xây dựng một tòa lâu đài có tên là Motte-và-Bailey tại Duffus trên bờ phía bắc của hồ Loch Spynie.
Tỉnh Moray có một lịch sử tách rời khỏi vương quốc Scotland bởi sự chống đối lâu dài xảy ra bên trong nó. Một số đạo quân của Hoàng gia đã bị đánh bại trong các cuộc chiến tranh này. Trong số các vị vua bị chặn đứng bởi người của tỉnh Moray là vua Dub, người đã thiệt mạng khi quân đội của ông đã bị đánh bại tại trận Forres trong năm 967. Tỉnh Moray trở nên là vấn đề đặc biệt nghiêm trọng đối với các vị vua nhà Malcolm Scotland. Cuộc kháng chiến chống lại sự cai trị của hoàng gia Scotland vẫn còn kéo dài đến thế kỷ thứ 12. Năm 1130 một cuộc nổi loạn do Mormaer Óengus của Moray cầm đầu-một hậu duệ của Lulach. Hậu quả của thất bại của quân đội Óengus tại Stracathro là tỉnh Moray lại được đặt dưới sự kiểm soát trực tiếp của hoàng gia, sự tự trị của nó không được phục hồi cho đến năm 1312 khi Vua Robert I cấp lãnh địa bá tước của Moray cho Thomas Randolph-cháu trai của ông. Phản ứng của vua David về cuộc kháng chiến dai dẳng này là di cư những người vùng Flanders và người Anglo-Norman trung thành với triều đình vào vùng này. Một trong những người này là Freskin ( tổ tiên của nhà Moray). Nhiều phiến quân đã buộc phải từ bỏ đất đai của họ. Do đó, những người định cư tiếp theo này có vai trò về quân sự, chính trị và hành chính tựa như người Anh cổ ở dọc theo biên giới Gaelic của Ireland và giống như người Anh Old ở Ireland, thời gian dần xóa đi sự khác biệt văn hóa và ngôn ngữ giữa họ với những người dân bản địa còn lại.
Mặc dù vua David và người kế nhiệm ông đã tìm cách áp đặt sự kiểm soát của họ vào Moray, tỉnh này vẫn tiếp tục chống lại họ. Vua Malcolm IV, cháu trai của David và người kế nhiệm, cũng phải dùng đến biện pháp trốc rễ và trục xuất dân cư địa phương. Quấn sử Holyrood viết rằng vào năm 1163: “vua Malcolm xua đuổi người của Moray”. Mãi đến năm 1229, khi William Comyn của Buchan dẫn đầu một đội quân hoàng gia vào Moray và cuối cùng phải sử dụng các biện pháp tàn nhẫn mới giữ được tỉnh này cho Vua Alexander II, ông này đã được tưởng thưởng bởi một vị vua biết ơn với lãnh địa Badenoch. Chiến dịch cuối cùng, tàn bạo nhất của vua Malcolm chống lại Hoàng tộc đối thủ là để chống lại một đứa trẻ đòi quyền sở hữu vương miện Scotland, đứa bé gái ba tuổi đã công khai bị sát hại bởi tay chân của vua Alexander. Chỉ đến lúc này thì tỉnh Moray mới chấp nhận sự cai trị của vua Malcolm mac của Scotland.
Nhà Moray trong xã hội Scotland
Tại thời gian nổ ra cuộc chiến Anh-Scotland ở cuối thế kỷ 13 (thường được gọi là cuộc chiến tranh giành độc lập của Scotland) gia đình Moray cũng đã được thành lập ở miền bắc và miền nam Scotland. Sir Andrew Moray, người đứng đầu chi nhánh Petty của gia đình này nắm giữ một vùng đất rộng lớn ở tỉnh Moray, bao gồm các lãnh địa của Petty, được điều hành từ thái ấp Hallhill ở bờ phía nam của Moray Firth, Lãnh địa Avoch ở Black Isle, được điều hành từ Avoch Castle nằm về phía đông của Inverness và nhìn ra Moray Firth, và lãnh địa của Boharm được điều hành từ lâu đài Gauldwell. Trong số bất động sản của Sir Andrew của Petty là vùng đất tại Alturile, Brachlie và Croy và tại Boharm là các vùng đất Arndilly và Botriphnie. Andrew Moray ( con trai trẻ tuổi của Sir Andrew của Petty, người lãnh đạo phong trào nổi dậy) được thừa kế những vùng đất và các tòa lâu đài ở đó.
Sự giàu có này được đi kèm với ảnh hưởng chính trị đáng kể. Sir Andrew từ năm 1289 thay thế nhà vua để duy trì pháp luật ở miền bắc Scotland (quan trưởng án) và có thể đã được đồng chọn làm giám hộ sau cái chết bất đắc kỳ tử của Vua Alexander III. Cá nhân các họ hàng của Sir Andrew là những gia đình có quyền lực nhất trong xã hội Scotland. Trong năm 1280 ông cưới người vợ thứ hai của mình, Euphemia Comyn-mẹ kế của Andrew-em gái của John Comyn, lãnh chúa của Badenoch, cháu trai của Vua John Balliol và là một trong những người có ảnh hưởng chính trị nhất tại Scotland. Nhà Morays của Petty cũng có họ hàng với Douglases của Clydesdale, tại thời điểm đó gia đình này chỉ là một chủ đất tương đối nhỏ.
Ảnh hưởng của gia đình Moray không chỉ giới hạn ở phía đông bắc Scotland. Sir William Moray của Bothwell-anh trai của Sir Andrew, nắm giữ một vùng đất rộng lớn ở Lanarkshire và tại Lilleford ở Lincolnshire. Sir William, người được biết đến như là le riche do tài sản cá nhân giàu có của mình, đã cho xây dựng Lâu đài Bothwell nhìn ra Sông Clyde. Thiết kế của nó đã bị ảnh hưởng bởi xu hướng mới nhất có ở lục địa châu Âu rõ ràng như là một tuyên bố về quyền lực và ảnh hưởng của ông này. Vị Moray trẻ được thừa kế tài sản của người chú.
Nhà Moray của Petty cũng sở hữu các tài sản lớn tại các nhà thờ Scotland thời Trung cổ. Một tổ tiên của Andrew Moray, cũng được đặt tên Andrew, đã trở thành giám mục của Moray ở đầu thế kỷ thứ 13 và chịu trách nhiệm cho việc chuyển địa điểm của Toà Giám mục đến Elgin năm 1224 và thành lập một nhà thờ của thành phố. Nhà Moray tiếp tục có các liên kết với nhà thờ. David-một em trai của Sir Andrew, lúc đó là trụ trì của nhà thờ Bothwell ở trung tâm Scotland. Ông này sau đó được thánh hiến vào mùa hè 1299 và được phong làm Giám mục Giáo hoàng Boniface VIII và trở thành một trong những người ủng hộ tin cậy cho vương quyền của vua Robert Bruce.
Tham gia vào cuộc xâm lược vào nước Anh và bị đánh bại
Vào mùa xuân 1296, Andrew Moray cùng với cha và chú của mình, tham gia vào lực lượng quân đội phong kiến của các chủ đất Scotland, vốn được tập hợp để chuẩn bị cho cuộc xung đột sắp xảy ra. Một lực lượng nhỏ được dẫn đầu bởi các vị Bá tước của các vùng Atholl, Ross và Mar và John Comyn… tiến vào Cumberland ( tiên hạ thủ vi cường) và hành quân đến Carlisle, để lại một dấu tích tàn phá khủng khiếp trong trí nhớ của người Anh. Quấn sử St Edmundsbury Chronicle nói rằng cuộc hành binh này đã tiêu hủy 120 ngôi làng và thị trấn. Khi đến được lâu đài Carlisle họ thấy nó được tổ chức chống lại họ bởi chính đồng bào của họ-Robert Bruce, chúa tể của Annandale, con trai của Bruce-người cũng đòi thừa kế ngai vàng của Scotland vừa mới qua đời gần đó. Robert Bruce đã giữ vững được lâu đài Carlisle. Một toán quân Scotland khác cũng đã vượt qua biên giới từ Jedburgh và ồ vào Northumberland, để lại các ngôi nhà và trang trại bị đốt cháy trên đường họ đi qua.
Trận Dunbar ( như đã đề cập ở phần trước) quân đội Scotland đã nhanh chóng bị tràn ngập bởi quân đội của vua Edward dưới sự chỉ huy của John de Warenne-Bá trước của Surrey. Tác giả của quấn Chronicle of Bury St Edmunds nói rằng có đến tám nghìn binh sĩ Scotland bị tử trận tại Dunbar ( gần gấp 4 lần số quân mà William Wallace và Andrew Moray có trong trận Stirling Bridge). Andrew Moray cùng với cha của ông đều bị bắt làm tù binh trong trận này.
Phát động khởi nghĩa ở miền Bắc Scotland
( phần này được viết khá kỹ để thể hiện phong trào kháng chiến của người Scotland trước trận Stirling Bridge)
Trong khi Scotland bị chiếm đóng bởi người Anh, Andrew Moray đã phải chịu đựng sự sỉ nhục trong tù. Nhưng vào một ngày nào đó trong mùa đông năm 1296-97, ông đã trốn thoát khỏi nhà tù. Cuối cùng ông đã trốn trở về tới vùng đất của cha mình, mặc dù người ta không biết rõ ông đã trốn thoát như thế nào. Mặc dù cũng chẳng ai biết rõ thất bại tại trận Dunbar và những nỗi cơ cực khi phải ngồi tù ảnh hưởng đến ông như thế nào, người ta chỉ chắc chắn có một điều rằng ông đã chở về Scotland.
Quấn sử the Hemingsburgh Chronicle có viết “Trong tháng 5 cùng năm [1297] người Scotland bắt đầu nổi loạn. ” Các hành động đầu tiên của cuộc nổi loạn này đã được đánh dấu bằng hai sự kiện: Andrew Moray tuyên bố thách thức của ông với sự cai trị của Anh tại Avoch và William Wallace đánh dấu cuộc nổi dậy của ông chống lại vương quyền của người Anh với vụ giết viên quận trưởng Anh của Lanark. Tin tức về các hành động của Moray đã nhanh chóng thu hút những người ủng hộ ông ta. Alexander Pilchie, một thị dân đến từ Inverness và một số thị dân khác đến từ nhiều thị trấn là những người ủng hộ ông sớm nhất. Mặc dù Sir Andrew Moray của Petty vẫn bị giam giữ trong Tháp London-nơi mà dường như ông đã chết trong khi vẫn là tù nhân của vua Edward-nhiều người thuê đất của ông sẵn sàng tham gia với con trai của ông. Sir William Fitz Warin-huân tước người Anh ở Lâu đài Urquhart trên bờ hồ Loch Ness đã viết cho vua Edward trong tháng bảy năm 1297 rằng: “Một số người đã tham gia cùng với Andrew Moray tại lâu đài [Avoch] trong vùng Ross.”
Tấn công vào lâu đài Urquhart
Mặc dù vương quốc Scotland đã dễ dàng bị chinh phục bởi Vua Edward, nó lại không chịu ngủ yên dưới sự cai trị của ông ta. Những tháng đầu năm 1297 đã cho thấy sự bùng phát bạo lực chống lại những kẻ chiếm đóng người Anh và các đồng minh người Scotland của họ, một số trong đó đã trở nên cực kỳ nghiêm trọng, các quan chức địa phương tìm kiếm sự hỗ trợ của nhà vua. Người Anh ở Argyll và Ross đã bị đuổi đi bằng bạo lực. Trên bờ biển phía tây, các thành phố Lachlan và Ruarie MacRuarie của vùng Garmoran chìm ngập trong những cuộc nổi loạn, các quan chức của hoàng gia bị giết hại và tài sản của hoàng gia bị phá hoại. Bạo lực này đã không bị giới hạn ở phía bắc của Scotland. Cuộc nổi dậy bùng phát to ở vùng Galloway ở phía tây nam Scotland và các phiến quân chiếm giữ các lâu đài vốn nằm trong tay người của vua Edward. Cũng có các cuộc xung đột ở Fife, nơi mà MacDuff của Fife và con trai của ông dẫn đầu một cuộc nổi loạn.
Sau cuộc họp Sir William Fitz Warin trở lại Lâu đài Urquhart cùng đội hộ tống gồm những binh sỹ vũ trang đến tận răng của ông. Một vài dặm về phía nam của Inverness, Sir William đã bị phục kích bởi Andrew Moray. Ông đã may mắn trốn thoát và chạy về trốn kỹ trong thành lũy an toàn ở phía bên kia bờ hồ. Ngày hôm sau, Sir William thức dậy và thấy lâu đài của ông bị bao vây bởi Moray, người yêu cầu đầu hàng ông phải đầu hàng. Nữ bá tước của Ross bất ngờ đã đến hiện tại chiến trường với đoàn tùy tùng của mình. Bà nữ bá tước này có chồng đang bị cầm tù bởi vua Edward trong Tháp London, đã khuyên ông nên đầu hàng. Bà ta đã không nhập hội với Moray. Mặc dù lời khuyên của bà ta đã bị bỏ qua, sau này hành động của bà được báo cáo tới nhà vua bởi Sir William. Moray không có các thiết bị bao vây hạng nặng có sẵn nên mặc dù cho ông ta cố gắng để chiếm tòa lâu đài trong một cuộc tấn công vào ban đêm và đã thất bại, rồi sau đó ông đã bị buộc phải từ bỏ cuộc bao vây. Ông để mặc cho Sir William tiếp tục sở hữu tòa lâu đài để băng bó vết thương của mình và gửi một ghi chép của trận cận chiến này tới nhà vua của ông ta ( John Balliol? ).
Chiến dịch của Moray của trong mùa hè 1297 đã thu hút những người ủng hộ mới cho lực lượng của ông và các lâu đài do người Anh nắm giữ trên khắp tỉnh Moray và miền bắc Scotland thi nhau rơi vào tay ông ta. Cuối cùng, thậm chí lâu đài Urquhart đã thất thủ. Đây là một chiến dịch nhỏ với những thành công ngoạn mục của Moray. Thật vậy, một số chiến công của ông dường như đã được người hát rong Hary mù và chuyển sang cho William Wallace. Một trong những sự kiện này là cuộc tấn công của Wallace vào cảng Aberdeen, trong đó theo Hary, ông đã đốt cháy các tàu của người Anh neo tại cảng. Không có bằng chứng cho rằng có thật là Wallace đã từng tấn công vào Aberdeen và người ta đã công nhận rằng hành động này nhiều khả năng là chiến công của Andrew Moray.
Mối quan tâm chính của Vua Edward I của Anh lại là chuẩn bị cho chiến dịch sắp xảy ra của mình ở Flanders, và tìm cách đối phó với các mối đe dọa từ Andrew Moray bằng cách sử dụng các quý tộc Scotland được phóng thích từ nhà tù của mình để phục vụ ở Flanders. Nhà vua để đáp lại bức thư mô tả của Sir William Fitz Warin về các cuộc tấn công vào lâu đài của ông này, vào ngày 11 tháng 6 năm 1297đã ban hành mệnh lệnh cho một số lãnh chúa Scotland hành quân đến tỉnh Moray để giải vây cho Fitz Warin và khôi phục lại vương quyền. Trong số những lãnh chúa nhận được nhận lệnh của nhà vua có cả Henry Cheyne-Giám mục của Aberdeen, Sir Gartnait của Mar, người thừa kế lãnh địa bá tước Mar và có cha là người hiện đang bị giam giữ trong Tháp London và John Comyn, Bá tước của Buchan và Huân tước của Scotland, cùng với Alexander-anh trai của ông. Anh em nhà Comyn được chỉ thị ở lại cho đến khi tất cả các lực lượng của cuộc nổi loạn của Moray bị bao vây.
Lực lượng trấn áp khởi hành từ Aberdeen vào đầu tháng 7 năm 1297. Andrew Moray phản ứng lại bằng cách hành quân về phía đông để đối đầu với họ. Hai đạo quân đã gặp nhau trên bờ sông Spey tại Enzie, trên đường từ Aberdeen đến Inverness ở gần các vùng nước cạn của sông Spey, rìa phía đông của tỉnh Moray. Không có tài liệu ghi chép nào còn sót lại nói về cuộc đối đầu diễn ra sau đó, nhưng dường như là trước đó Moray đã ‘khiêu vũ’ với nữ Bá tước của Ross. Một tài liệu cực kỳ mơ hồ về sự kiện sau đó đã được gửi từ Inverness đến cho nhà vua Edward bởi Đức Giám mục Cheyne vào ngày 25 tháng 8 và nói rằng Moray cùng phiến quân của ông đã rút vào một sào huyết trong đầm lầy và rừng cây [Nơi] mà không kỵ sĩ nào có thể đến được.
Đây là một lời giải thích rất không thực tế khi người ta biết rằng nhà Comyn đã từng bình định tỉnh Moray ở đầu thế kỷ 13. Nhiều khả năng là không bên nào muốn chiến đấu với những người mà họ không coi là kẻ thù của mình và họ chỉ đơn giản là ai đi đường của người đó. Tuy nhiên nếu Cheyne nghĩ rằng ông có thể giữ thể diện với lá thư này, ông đã không tính đến Hugh de Cressingham-người quản trị ngân khố của nhà vua. Cressingham đã nhìn thấy bức thư này và rõ ràng đã không tin rằng các lãnh chúa Scotland được vua Edward giao nhiệm vụ đối phó với Moray sẽ hoàn thành sứ mạng của họ. Cressingham-người dường như đã tin rằng các quý tộc Scotland đang chơi một trò chơi đôi không có lợi cho vua Edward, đặc biệt rõ ràng là trận đối đầu ở Spey nên đã viết thư cho vua Edward:
Sir Andrew de Rait đang tạo lòng tin với bệ hạ, và ông ta cũng đang gây dưng lòng tin với cả thần nữa, nhưng thực tế thì trong nhiều thời điểm không thể tin ông ta được … bệ hạ nên đánh giá thấp uy tín của ông ta thôi.
Trong khi Andrew Moray chiếm quyền kiểm soát phía bắc Scotland và William Wallace hoành hành ở phía tây-trung tâm Scotland, một số cuộc nổi dậy của các thủ lĩnh phong kiến truyền thống của Scotland lại nổ ra ở phía nam. Trong số các chỉ huy của nó là James-nhà Steward của Scotland và Robert Wishart-Đức Giám mục của Glasgow. Robert Bruce của Carrick-vị vua tương lai và cũng là một người thu hút được rất nhiều người ủng hộ. Nhưng những cuộc nổi dậy này không có sức sống và sự phá hủy đặc trưng như các cuộc nổi dậy của Moray và Wallace mà chúng rất yếu ớt. Các cuộc nổi dậy này ( không kể của Moray và Wallace) đã nhanh chóng bị sụp đổ, những người tham gia tiến hành thỏa hiệp tại Irvine vào tháng 7 khi quân đội Anh kéo đến. Tuy nhiên, nhiều nhà lãnh đạo tương tự, bao gồm Robert Bruce một lần nữa đứng về phía lực lượng Scotland trong một thời gian ngắn sau đó.
Vua Edward, đã không đối phó thành công với Moray bằng vũ lực, lúc này ông phải dùng đến biện pháp tế nhị. Nhà vua đề xuất thả tự do cho Sir Andrew Moray của Petty (bố của Andrew Moray) đang bị giam giữ trong Tháp London để phục vụ cho vua Anh tại Flanders, nếu con trai của ông chịu ra làm con tin thay cho cha mình. Một công văn được đóng dấu của nhà vua để cho phép Andrew con đến nước Anh một cách an toàn đã được phát hành vào ngày 28 tháng 8 năm 1297. Người ta không biết liệu bức công văn đảm bảo an toàn có bao giờ đến được chỗ Andrew con hay không-nhưng nếu nó có được thì Andrew Moray đã bỏ qua và cha ông đã bị buộc phải ở lại và chết trong tù.
Tham gia trận Stirling và cái chết của Andrew Moray
Theo ước tính, người Anh bị mất độ một trăm hiệp sĩ và năm nghìn lính bộ binh, thương vong của người Scotland không được ghi lại bởi chủ yếu các binh sĩ tử trận là những bộ binh không có tên tuổi trong lịch sử. Tuy nhiên, vẫn có một tổn thất không thể thay thế đó là Andrew Moray
Thất bại của Bá tước Surrey ( viên tướng chỉ huy đạo quân tiên phong của Anh ) tại Trận Stirling Bridge là đỉnh cao chiến dịch của Moray chống lại vua Edward. Moray không thể có được một sự nghiệp quân sự lừng danh là do cuộc đời của ông khá ngắn ngủi. Dường như là quá trình đào tạo để trở thành một hiệp sĩ mà ông nhận được sẽ trang bị cho ông ta những kỹ năng để thực hiện vai trò lãnh đạo trong bộ máy phong kiến của Scotland và do đó đảm bảo cho ông sở hữu khả năng chỉ huy những đội quân lớn trên chiến trường.
Có những bằng chứng trái chiều nhau về cái chết của Moray. Một toà án dị giáo chính thức phán xét về số phận của Sir William Moray của Bothwell-chú của Andrew Moray-người đã qua đời trong nghèo đói ở Anh, được tổ chức tại Berwick vào tháng 10 năm 1300. Người ta đã viết trong các thủ tục tố tụng rằng Andrew Moray đã: “bị giết tại Stirling khi đang chống lại nhà vua ( Anh )” Tuy nhiên vẫn có các tài liệu-hai bức thư đề cập rằng ông vẫn còn sống sau trận Stirling Bridge. Bức thư đầu tiên, được gửi từ Haddington ngày 11 tháng 10 đến tay các thị trưởng của Lübeck và Hamburg-hai trong số các thị trấn của Hanseatic League có viết rằng: “Andrew de Moray và William Wallace, các nhà lãnh đạo của vương quốc Scotland và dân chúng của vương quốc” bức thứ hai được gửi trước đó từ Hexham ngày 07 tháng 11 có viết: “Andrew de Moray và William Wallace, các nhà lãnh đạo quân đội và các vùng đất của Scotland” tên của Moray không xuất hiện trên bất kỳ tài liệu còn sót lại sau đó. Sự kiện này được giải thích bởi hầu hết các sử gia là Moray đã bị trọng thương tại trận Stirling Bridge và qua đời vì vết thương của ông ở khoảng tháng 11.
Tuy nhiên vẫn có lập luận rằng Moray đã thực sự bị giết tại Stirling Bridgelace. Bằng chứng để hỗ trợ cho quan điểm này bao gồm thất bại trong mọi cố gắng của các nhà sử học để đánh giá công lao của Moray ở Hexham. Nhà viết sử Walter của Guisborough trong một tài liệu viết chi tiết về cuộc xâm lược này đã cho rằng các bức thư gửi từ Hexham trước đó có mang tên của Moray có thể đã được phát hành trong sự vắng mặt của ông. Wallace có thể đã bị buộc phải tiếp tục ban hành văn bản hợp tác bằng tên của người đồng chỉ huy đã chết của ông. Cái chết của Moray không chỉ cướp đi của ông một người đồng chí, mà còn làm mất đi một lá chắn chống lại các truyền thống ích kỷ của tầng lớp phong kiến Scotland ( cũng có thể nói Moray là trung gian của Wallace-người chỉ huy quân khởi nghĩa với giới quý tộc Scotland ), không có Moray, Wallace-một người trước đây vốn sống ngoài vòng pháp luật, lúc này lại phải tiếp xúc với giới quý tộc-luôn có mưu đồ chính trị, những người luôn cảm thấy ông muốn chiếm đoạt sức mạnh của họ để thực thi quyền lực. Wallace tiếp tục nhân danh của Andrew Moray, đây là một thủ đoạn chính trị rất cần thiết để ông có thể điều hành quân đội trước khi ông được bổ nhiệm làm Huân tước giám hộ của vương quốc. Chỉ sau khi Wallace được phong tước và được bổ nhiệm làm người giám hộ của Scotland ở khoảng thời gian trước tháng 3 năm 1298 thì việc nhân danh tên của Moray trong các công văn, thư từ mới trở nên không cần thiết.
Việc Andrew Moray đã sớm hy sinh trong trận chiến và Wallace đã trở thành một huyền thoại trong lịch sử Scotland, có nghĩa là các thành tựu của ông ( Moray) ít được biết đến. Mặc dù có nhiều bức tượng đài của Wallace được dựng rải rác trên khắp nơi, từ Aberdeen ở phía bắc-đông sang Dryburgh ở biên giới Scotland, có hẳn một Bảo tàng Quốc gia được xây kiểu Gothic về Wallace trên địa điểm diễn ra trận chiến Stirling Bridge, đã không có bất cứ một đài tưởng niệm tương tự nào như vậy cho Andrew Moray. Thậm chí tình trạng này đã chở thành một vấn đề chính trị. Cuối tháng 12 năm 2009, Murdo Fraser,-một ông nghị thuộc phái bảo thủ MSP đại diện cho Mid-Scotland và Fife, kêu gọi cho một cuộc tranh luận ở tầm cỡ quốc gia về một đài tưởng niệm thích hợp cho Andrew Moray. Ông nói rằng cần phải nâng cao nhận thức về vai trò lịch sử của ông này.
Trong cuối thế kỷ 20 đã có sự gia tăng trong việc công nhận vai trò của Andrew Moray trong các sự kiện cuộc cuộc chiến giành độc lập Scotland. Một sử gia gần đây đã mô tả hành động của ông là ” mối đe dọa lớn nhất đối với chính phủ Anh”. Thậm chí người ta còn cho rằng Wallace đã có tương đối thành công hơn sau năm 1297 và thực tế là tên của Moray luôn luôn được đề cập đầu tiên trong báo cáo về các chiến dịch, điều này cho thấy rằng các chiến dịch thành công của năm 1297 được xuất phát từ công lao của Moray hơn là của Wallace. Tuy nhiên, cũng có thể là Moray đã được đề cập đầu tiên đơn giản chỉ vì ông có địa vị xã hội cao hơn trong thời gian đó.
Tên của Andrew Moray đã không biến mất khỏi lịch sử. Một vài tháng sau khi ông chết thì bà vợ góa của ông-người mà ngày nay người ta đã không xác định được danh tính, đã sinh cho ông một người con trai-cũng được đặt tên là Andrew. Vị Andrew Moray cháu này đã chở thành lãnh chúa của Petty và Bothwell và đóng một vai trò quyết định trong việc đánh bại những cố gắng tiếp tục thôn tính Scotland của Edward III của Anh quốc.
Các đội quân đối địch
Quân đội Anh năm 1297-1298
Những tham vọng không biết mệt mỏi của Edward I có nghĩa rằng là liên tục có các hoạt động quân sự xảy ra trong suốt triều đại của ông. Luôn có sự cần thiết phải huy động, tài trợ, điều hành và tạo ra các lực lượng bộ binh và hải quân lớn cho các chiến dịch mở rộng vốn đã vượt quá khả năng của hệ thống phục vụ quân sự phong kiến cũ và dẫn đến một hệ thống phục vụ trả tiền linh hoạt hơn. Vào khoảng thời gian Chiến tranh Scotland, quân đội Anh dưới sự thống lĩnh của Edward I là một bộ máy quân sự ghê gớm.
Quân đội Anh tại Stirling Bridge
Lực lượng của Bá tước Surrey đã được huy động vội vã từ các quận phía bắc của Trent và bao gồm một số lượng lớn những Welshmen, nó kém xa về mặt số lượng so với đội quân mà Edward I đã chỉ huy ở Falkirk. Sử gia Guisborough ước tính quân đội của Warenne có từ 1.000 kỵ binh và 50.000 và bộ binh, nhưng con số này có vẻ là quá sức cường điệu. Cressingham-một kế toán viên quản trị ngân khố, đưa ra một con số dễ tin hơn khi ông viết một bức thư cho nhà vua trong tháng 7 từ Roxburgh và nói rằng ông đã tập trung 300 kỵ sỹ và 10.000 bộ binh. Tại thời điểm của trận Stirling Bridge nhà vua Anh đang ở Flanders với quân đội mạnh nhất của mình, tài liệu cho thấy rằng ông cũng chỉ có 822 kỵ binh được trả lương và 8.500 lính bộ binh, có vẻ kỳ lạ nếu Cressinghanl lại muốn có nhiều lính bộ binh hơn cả nhà vua lúc này đang tham chiến với người Pháp ở Flanders. Các hồ sơ còn sót lại cho thấy lực lượng bộ binh được triệu tập cho chiến dịch Caerlaverock chỉ gồm 1300 người, điều này cho thấy rằng chỉ khoảng một nửa số bộ binh đã thực sự được triệu tập vào tuần cuối tại lâu đài Caerlaverock ở đầu tháng Bảy. Lực lượng bộ binh Anh trong tháng đó có khoảng 9.093 người với một lực lượng tiên phong khoảng 5.400 lính bộ binh người Anh và xứ Welsh.
Tóm lại lực lượng quân đội Anh có khoảng độ 10.000 -> 12.000 người, trong đó có 1.000 -> 2.000 kỵ binh và 8.000 -> 10.000 bộ binh
Lực lượng kỵ binh Anh quốc
Để thành lập lực lượng kỵ binh Edward I triệu tập các chư hầu phong kiến để thực hiện nghĩa vụ mà họ nợ ông ta. Tuy nhiên do những nhu cầu về quân sự đã buộc ông ta phải bổ xung lực lượng bị thiếu hụt bởi những lực lượng được trả bằng tiền. Đây là một bước để thay thế lực lượng làm nghĩa vụ phong kiến bằng một lực lượng quân đội được trả lương. Để phân hạng các hiệp sỹ ở nước Anh của thời Edward, một cá nhân phải sở hữu một số lượng đất có một giá trị được gọi là “ Knight fee ” cùng với nghĩa phụ phục vụ quân sự. Có khoảng 6.000 knight fee ở nước Anh vào năm 1297 và như vậy là cũng sẽ có từng đó kỵ binh sẵn có để phục vụ nghĩa vụ phong kiến. Tuy nhiên thì thực tế chẳng bao giờ có một số lượng kỵ binh lớn như vậy được tung vào các chiến dịch quân sự.
Lực lượng kỵ binh của nhà nước phong kiến không chỉ cần có một sự dũng cảm cá nhân mà thiếu đi kỷ luật và tổ chức và trong một số trường hợp cụ thể một cấu trúc đội hình chiến đấu sẽ trở nên bị phá hủy bởi niềm tự hào và lòng kiêu ngạo của các chỉ huy kỵ binh quý tộc. Khoảng thời gian 40 ngày/ chiến dịch mà các kỵ binh phong kiến có thể được triệu tập để phục vụ đã trở nên lỗi thời trong những năm cuối của triều đại Edward, mặc dù có nhiều cách để gia hạn nó. Trong thực tế từ cuộc chiến ở xứ Wales đầu tiên năm 1277 nhà vua đã tìm ra một hệ thống hiệu quả hơn đó là bộ phận chính của kỵ binh được trả lương nằm dưới sự chỉ huy của các đội trưởng chuyên nghiệp và có thể được tập hợp thành các đơn vị thống nhất lớn hơn. Các nhóm lộn xộn của kỵ binh phong kiến không thể phù hợp với lực lượng kỵ binh được trả lương vốn rất hiệu quả.
Các kỵ binh được điều khiển bởi các hiệp sĩ cầm cờ ( banneret )-đây là những người cầm những cờ hiệu hình vuông và được xếp hạng trên cả các hiệp sĩ thông thường hoặc đôi khi họ được gọi là Bạchelor. Bất kỳ một hiệp sỹ cừ khôi nào cũng đều có cơ hội để trở thành những hiệp sĩ cầm cờ, mặc dù có một số thành kiến ủng hộ của những người có đất đai và tiền bạc để hỗ trợ việc thăng hạng. Ở tầng lớp thấp hơn các hiệp sĩ và sử dụng những con ngựa có giá trị thấp hơn là các hộ sỹ, những người phục vụ quân đội trong thời gian học nghề, nhưng địa vị xã hội của họ là danh hiệu hiệp sĩ trong tương lai và những người lính-những người không bao giờ mơ có thành hiệp sỹ. Tiền lương phản ánh sự khác biệt về đẳng cấp, một hiệp sỹ cầm cờ nhận được 4 shilling một ngày, một hiệp sĩ thường nhận 2 shilling và một hộ sỹ hoặc một người lính nhận 1 shilling. Chất lượng của ngựa cũng tương tự rất đa dạng;. một con ngựa chiến mà hiệp sỹ nổi tiếng Robert Clifford cưỡi tại trận Falkirk có chi phí £ 30, trong khi ở bên đầu kia, John Wetherington, một quân nhân, cưỡi một con ngựa có đốm trị giá chỉ có tám đồng mark. Các kỵ binh được trả lương phải tự trang bị ngựa và áo giáp cho họ mặc dù họ sẽ được nhà vua bồi thường thiệt hại trong một trận chiến.
Thông thường Kỵ binh được tuyển dụng bởi một nam tước hay một hiệp sỹ cầm cờ, những người sẽ huy động một đội khoảng có lẽ 100 lính kỵ bằng hợp đồng thuê mướn và đặt mình dưới sự quản lý của nhà vua để đánh đổi lấy một khoản tiền ( bản thân những người đội trưởng, nam tước … này trở thành nhà thầu quân sự ). Đội quân riêng của viên đội trưởng có thể có 30 hoặc 40 kỵ binh thiện chiến, phần còn lại được huy động bởi những Hiệp sỹ ít nổi bật hơn, họ có tương tự như những nhà thầu phụ và sẽ huy động 10-15 kỵ sỹ và tạo ra một tỷ lệ khác nhau đa dạng giữa hiệp sĩ và binh lính. Một số trong số các đội kỵ binh này sẽ được tập hợp với nhau để tạo thành một binh đoàn kỵ binh để bước vào chiến dịch.
Lực lượng kỵ binh còn sống sót sau trận Falkirk bao gồm có 214 hiệp sỹ cầm cờ và hiệp sĩ thường, 642 lính thường trực và 258 tay thương tự do, tổng cộng có 1.114 tay thương.
Sức mạnh của lực lượng kỵ binh của Edward ở trận Falkirk sau đó là ở khoảng 2,100 tới 2.200 tay thương ( như vậy sau trận này quân Anh mất độ 1.000 kỵ binh ).
Lính cung thủ Anh
Nhà sử học Gerad xứ Wales nói có điểm khác biệt rõ ràng giữa những người xứ Wales, người miền Bắc xứ Wales thường đầu quân vào lực lượng giáo binh, người miền Nam thường trở thành những cung thủ trường cung. Gerad mô tả những cung thủ trường cung từ Gwent “ với những cây cung làm từ cành du không trau truốt, thô và sần sùi” ông cũng nói về phạm vi tác xạ ghê gớm và uy lực của loại vũ khí này. Người ta đã thấy rằng tại cuộc chiến xứ Wales chỉ một số lượng nhỏ lính cung thủ có tay nghề cao kết hợp với một lực lượng kỵ binh có thể thay đổi cục diện của trận chiến. Hiệu quả của loại chiến thuật này ( kết hợp cung thủ với kỵ binh ) đã được áp dụng bởi Edward I trong phạm vi rộng rãi trong trận Falkirk.
Bộ binh người Anh
Hệ thống phong kiến không bao giờ có khả năng lập kế hoạch cung cấp cho bộ binh hoặc một đoàn tàu ( xe ) vận tải, kỹ sư, thanh toán tiền lương cho bộ binh và nhân công. Điều luật Winchester năm 1285 chính thức hóa luật nghĩa vụ quân sự ở Anh, bộ binh đã được gọi từ những người nắm giữ những mảnh đất có giá trị ít hơn £ 10, họ có nghĩa vụ tự sắm sửa cho mình áo giáp và vũ khí phù hợp với vị trí của họ và tất cả đàn ông từ 16 và 60 tuổi phải có nghĩa vụ phục vụ cho 40 ngày/ năm. Binh sĩ được trả tiền một lần họ đã ở bên ngoài ranh giới địa hạt của họ. Thủ tục để huy động đội quân này thường được tiến hành bởi viên quận trưởng và cùng một Ủy viên của Hội thẩm đoàn ( Commissiner of Array ), họ thường là một hiệp sỹ giàu kinh nghiệm hoặc thành viên của Hoàng tộc. Những người được tuyển được tổ chức thành các bách quân 100 người dưới sự chỉ huy của viên đội trưởng hoặc bách trưởng, người được trả 1 shilling một ngày. Các đại đội hoặc bách quân được chia thành các toán 19 người, những người được trả 2d mỗi ngày còn các viên toán trưởng được trả 4d một ngày. Vào năm 1298 được đưa vào khuôn khổ thành những đơn vị gọi là millenary ( hay còn gọi là thập bách quân ) gồm khoảng 1.000 dưới sự chỉ huy của một millenaer ( thiên phu trưởng), mặc dù các đơn vị này vẫn có nòng cốt cơ bản từ các đội, bách quân như trước đó. Có những tài liệu bằng văn bản từ thời của Edward I nói rằng lực lượng bộ binh thời đó được cung cấp những bộ đồng phục dã chiến với chữ thập của thánh George.
Lính bộ binh ngon nghẻ nhất của Edward ở thời đó thường được tuyển ở xứ Wales và những quận có đường biên giới với xứ Wales, nơi mà những cuộc chiến tranh liên miên lúc đó đã tạo ra những chiến binh thiện chiến. Những người đàn ông ở miền Bắc nước Anh được cho rằng là chỉ sẵn sàng để bảo vệ quê hương họ mà không muốn phục vụ tại Scotland.
Kể từ trận chiến Largs năm 1268 đất nước Scotland hoàn toàn yên ấm trong cảnh thanh bình và hậu quả là quân đội cũng như các tướng lĩnh của nó có rất ít kinh nghiệm chiến đấu thực tiễn. Vào năm 1296 lính nghĩa vụ người Scotland được triệu tập để “ thực hiện nghĩa vụ quân sự” của những người đàn ông tự do, những chủ đất và những người có địa vị xã hội cao hơn. Lực lượng quân đội này với nòng cốt là lực lượng kỵ binh phong kiến đã tự chứng minh là kém cỏi và bị đánh bại hoàn toàn tại trận Dunbar.
Quân đội mà Wallace và Murray huy động vào năm sau dựa trên cơ sở những người lính Scotland làm nghĩa vụ quân sự vốn khác biệt với “ free service “ ở chỗ nó được áp dụng vào tất cả các chủ đất và vào những người đàn ông trưởng thành kể từ lớp người “ không có ngựa “, có nghĩa là những người sẽ phục vụ như là những bộ binh. Họ được yêu cầu là phải tự trang bị lấy những vũ khí và áo giáp thích hợp và duyệt đội ngũ được tiến hành thường xuyên để đảm bảo sự hiệu quả của họ. Mỗi vùng lãnh thổ ở Scotland có nghĩa vụ cung cấp một số lượng binh lính nhất định, nó có một cái gì đó giống như hệ thống fyrd của người Anglo Saxon. Tổ chức của quân đội dựa trên cơ sở các tỉnh, những người đàn ông của một vùng cụ thể nào đó sẽ nằm dưới quyền của các lãnh chúa địa phương của họ tự như đạo quân của các tỉnh, lãnh địa bá tước. Bằng cách kêu gọi sự phục vụ của sô lớn dân Scotland, Andrew Murray và William Wallace đã huy động được nhiều một đội quân từ nhiều vùng. Sau khi trận Stirling Bridge kết thúc, họ đã nhận được danh hiệu “ chỉ huy của quân đội của Scotland”. Các Bá tước đã ngầm chấp thuận giấy triệu tập của quân đội của họ để bảo vệ các vùng đất bá quốc nhưng vẫn đóng tại địa phương của mình. Một số lượng đáng kể những người dân thường của vương quốc đã hưởng ứng với một sự nhiệt tình rộng rãi đến lời kêu gọi ra nhập quân ngũ này.
Bộ binh Scotland
Trước khi nổ ra trận Stirlinglace Bridge cả Wallace và Murray đều chỉ huy những lực lượng tấn công cơ động cao, chủ yếu là những toán đột kích gồm vài trăm quân cưỡi những con ngựa nhỏ và tồi tàn. Thực chất họ là lính bộ binh đi ngựa chứ không phải là một lực lượng kỵ binh khi họ cưỡi ngựa đến chiến trường sau đó xuống ngựa để chiến đấu trên bộ. quân đội của người Scotland thời Trung Cổ cơ bản được tạo thành từ bộ binh ỏ vùng đất thấp và phần lớn được trang bị với những “vũ khí tự chế”, cơ bản là những ngọn giáo dài 12 -> l4ft ( 3.5 -> 4 mét). Họ đã được tổ chức thành đội hình chiến đấu `schiltrons ‘cho trận chiến. Nếu theo quấn Scotichronicon của Walter Bower thì cấu trúc đội hình chiến đấu của người Scotland về cơ bản tương tự như của người Anh. Theo Bower một quaternion ( ngũ trưởng) có bốn người dưới quyền anh ta-đây là cơ cấu đơn vị nhỏ nhất, và hai quaternion được chỉ huy bởi một clecurion ( thập trưởng ). Một đội trưởng ( bách phu trưởng ) chỉ huy 100 lính và một chiến đoàn ( regiment ) có 1.000 người dưới sự chỉ huy của một chiliarch ( thiên phu trưởng ). Nếu điều này là đúng sự thật thì chúng ta không thể nghi ngờ rằng có một sự lệ thuộc trong hệ thống điều hành của quân đội Scotland, và quân độiScotland cũng được tổ chức tốt không kém so với người Anh. Wallace không đưa vào ứng dụng một sự đổi mới nào trong cơ cấỏ chức quân đội vốn đã có từ trước năm 1297. Đóng góp của ông là sử dụng cấu trúc hiện có để đào tạo một đội quân có khả năng chống lại sức mạnh của Edward I.
Các cung thủ Scotland
William Wallace đã nhận ra mối đe dọa từ các tay cung thủ trường cung Anh tới đội hình schiltron của các giáo binh của mình và ông đã tuyển dụng các cung thủ có thể từ Rừng Ettrick để hỗ trợ họ. Lúc này lại đến lượt quân Scotland được trang bị các cây cung; cung của họ là các bowstave làm từ gỗ cây thủy tùng có thể được nhập khẩu qua các cảng của Hanseatic ( liên minh thương mại Bắc Âu ), đối tác thương mại truyền thống của Scotland. Không có lý do để cho sử rằng những tay cung của rừng Ettrick lại sử dụng một cây cung ngắn hơn và ít mạnh mẽ hơn các cây cung của người Anh và xứ Wales như đôi khi người ta nghĩ vậy. Truyền thống bắn cung không phát triển mạnh ở Scotland nhưng thế yếu của các cung thủ Scotland là nằm ở số lượng của họ hơn là vì họ thiếu những cây trường cung mẽ.
Bản thân Wallace cũng có liên quan đến một loại vũ khí, không phải là thanh kiếm to bản-claymore khổng lồ như trong truyền thống hoặc tưởng tượng mà sử dụng cây cung như là biểu tượng trên con dấu của mình.
Đội hình Schiltron
Thuật ngữ “schiltron ” được sử dụng bởi Walter Guisborough để mô tả đội hình của các giáo binh Scotland ở trận Falkirk “… các vòng tròn được lập nên bởi những người lính bộ binh, và những vòng tròn này được gọi là schiltroun”. Sau đó thuật ngữ này được sử dụng bởi các nhà văn khác có nghĩa là không có một đội hình cụ thể đặc biệt nào khác hơn là những chiến binh đứng sát nhau, vai kề vai ( có thể là hình vuông, lục lăng … chứ không chỉ là hình tròn). Thuật ngữ này có thể cũng được dịch là “Bức tường lá chắn” nhưng chúng ta không thể chắc chắn rằng các giáo binh Scotland có sử dụng những tấm lá chắn thực sự hay chỉ là những tấm mộc nhỏ. Có vẻ như trong trận chiến họ sẽ phải quàng chúng trên lưng để dùng cả hai hai bàn tay nắm giữ ngọn giáo cồng kềnh. Chiltron có lẽ là một đội hình gồm sáu hàng sâu với những chiến binh có áo giáp tốt hơn đứng ở các hàng đầu tiên. Đội hình chiltron của Wallace đã chiến đấu trong một thế trận phòng thủ ở Falkirk và điều này đã dẫn đến làm giảm khả năng cơ động của quân Scotland. Tuy nhiên tại Stirling Bridge không chỉ ở thế thủ, người Scotland có lẽ đã cơ động đến gần đối phương một cách đúng lúc, và người ta cho rằng chỉ một schiltron hặc một loạt đội hình kiểu này của quân Scot đã tấn công theo cùng một kiểu và đẩy người Anh xuống sông. Tại Falkirk, Edward chỉ đơn giản là đã không tạo cơ hội cho các schiltrons cơ động. ( bởi vì quân Anh có một số lượng kỵ binh quá lớn nên quân Scot phải dàn đội hình kiểu này, tại trận Falkirk kỵ binh Anh xung phong và bị đánh cho tơi bời với số thiệt mạng lên đến hơn 1.000 kỵ sỹ, người Anh phải dùng lực lượng cung thủ trường cung để rỉa nát đội hình schiltron của quân Scotland từ một khoảng cách an toàn)
Kỵ binh Scotland
Người Scotland đơn giản là không có đủ nguồn lực để thành lập một lực lượng lớn kỵ binh thiết giáp để đối đầu với các kỵ sỹ của Anh. Điều này đã được thể hiện trong trận Dunbar và một lần nữa ở trận Falkirk. Nhà sử học Guisborough không tin là quân đội của Wallace có một số lượng kỵ binh lớn mà chỉ cho rằng ông này đã có độ 180 kỵ binh ở trận Stirling Bridge, chúng ta phải chấp nhận thực tế này. Nhà Comyns và các Bá tước khác có cho mượn hoặc hỗ trợ, mặc dù họ không xuất hiện trong trận Falkirk và đóng góp một lực lượng kỵ binh nhỏ có thể lên đến dưới 500 lính kỵ binh. Guisborough nói rằng họ đã “bỏ chạy mà không kịp rút kiếm.” Một số nói rằng có sự phản bội trong số các quý tộc Scotland, nhưng có lẽ là các kỵ binh người Scotland chỉ đơn giản là bỏ chạy khỏi chiến trường khi gặp phải các kỵ binh hạng nặng của Anh.
Trận đánh
Theo nguồn tài liệu đương đại: Quấn biên niên sử của Valter Hemingborough của Guisborough Priory tại vùng Cleveland phía Bắc của Yorkshire là nguồn tin chính đương đại cho các trận đánh Stirling Bridge và Falkirk. Trong thực tế, nguồn tin chính của ông cũng là nguồn kiến thức cho chúng ta về tình hình Scotland vào thời điểm này. Quấn biên niên của Walter là đáng tin cậy và đầy đủ thông tin, các ghi chép của ông về các trận đánh là rất thực tế, không có các ghi chép chi tiết khác đi ngược lại với những gì mà ông đã viết. Walter đã dành mực để viết các bài khai thác bản chất anh hùng của Marmaduke tại Stirling Bridge. Nhưng thật không may tại thời điểm trận Falkirk, Marmaduke lại đang là một tù binh của người Scotland nên Walter không thể sử dụng ông để mô tả về các chi tiết của trận đánh đó. Không có bằng chứng nội tại trong các bài viết của Walter về trận Falkirk cho thấy các nguồn tin của ông, mặc dù nhiều hiệp sĩ đến từ phía Bắc, bao gồm cả những người ở những vùng đất giáp ranh với nhà dòng Guisborough Priory đã chiến đấu ở đó. Có các dấu hiệu thuyết phục trong quấn biên niên của Walter rằng ông và Hugh Cressingham ( tay quan coi ngân khố của Anh ở Scotland ) có quen biết nhau. Cressingham có ràng buộc với vùng Guisborough và Walter không bao giờ bỏ lỡ một cơ hội để miêu tả ông này với một tí chút tô hồng. Quấn sách của tôi ( Peter Amstrong – người viết quấn Battles of Stirling Bridge and Falkirk mà người sưu tầm đang giới thiệu) về các trận chiến này bám sát những ghi chép của Walter Guisborough một cách chặt chẽ.
Địa hình của bãi chiến trường
Stirling Bridge là một cây cầu bằng gỗ lớn, có tám chân cầu bằng đá, mặc dù nó hầu như không đủ rộng để cho phép một chiếc xe và một con ngựa lưu thông một cách dễ dàng. Cây cầu đá hiện nay được xây dựng ở thế kỷ 15 được sử dụng như là một cây cầu đường bộ. Các móng và nhịp còn lại của cây cầu cũ tạo một góc với sông Forth thay vì cắt ngang một cách trực tiếp, mặc dù điều này có thể là do dòng sông đã đổi chiều trong nhiều thế kỷ. Cây cầu thời trung cổ có lẽ đã bắt Warenne ( tư lệnh quân Anh ) đổ quân bao quanh một khúc uốn cong của con sông. Họ có thể đã lập đội hình ở phía bắc của con sông và chọn địa điểm mà các cuộc tấn công của người Scotland chắc chắn đã đẩy một số lượng lớn quân Anh vào một cái bẫy được hình thành từ khúc sông quanh co này. Từ cây cầu, một con đường đắp cao chạy về phía tây bắc qua một bãi chăn thả gia súc có thể một cách nhanh chóng biến thành đầm lầy sau những cơn mưa lớn.
Bên ngoài khu này là rừng cây rậm rạp-Abbey Craig, một đoạn tách ra của vùng đồi Hills Ochil, kéo dài 360ft ở trên các đồng bằng phẳng của Forth. Cả hai Abbey Craig và Stirling Castle, đều được định vị trên các tảng đá cách con sông một dặm rưỡi, tạo ra một bức tranh toàn cảnh về chiến trường. Chỉ hơn một dặm ngược dòng sông theo đường chim bay từ cây cầu Stirling Bridge, giữa giới hạn của thủy triều đến điểm mà con sông Teith đổ vào Forth là khúc sông cạn nước mà Richard Lundie ( một chỉ huy của quân Anh trong trận này ) nói rằng có thể vượt sông tới sáu mươi người một lần”. Khu vực ngày nay có nhiều thay đổi kể từ thời của Wallace bởi việc hệ thống đường bộ hiện đại và công trình thoát nước được xây dựng và dòng sông trở nên sâu rộng làm cho người ta khó mà chấp nhận tuyên bố của Lundie. Cũng không phải là dễ dàng có một khúc nông có thể vượt qua được ở đây quanh năm hoặc sau khi mưa lớn và lực lượng của Lundie sẽ phải vòng tròn phía bắc để đến khúc sông nông Teith trước khi họ có thể tạo mối đe dọa vào sườn của Wallace. Không nghi ngờ gì khúc nông Frew được biết đến và qua lại trong năm 1297, nhưng vị trí của nó là sáu dặm ở phía trên Stirling, quá xa để có thể vượt qua theo đề nghị của Lundie.
Các di chuyển ban đầu
Khúc dạo đầu cho trận đánh là sự di chuyển của James Stewart và những người trong đại đội của Bá tước Lennox cùng với một số lãnh chúa người Scotland khác, những người gia nhập với đạo quân của Bá tước Surrey ( quân Anh) ở Stirling. Có lẽ họ gần như không có sự lựa chọn nào khác là phải quy hàng Edward I, họ được triệu tập để phục vụ vua Anh với lực lượng của mình ở Stirling. Động lực đằng sau việc họ đến và bỏ đi trước khi trận chiến nổ ra gần như chắc chắn là bởi lòng ích kỷ, họ đã chờ đợi xem tình hình sẽ diễn biến như thế nào, và chòi chân vào cả hai phe. Stewart và đại đội của ông ta đề nghị với vị bá tước (Bá tước Surrey) là hãy hoãn binh thêm một khoảng thời gian nữa để họ có thể có thể nói chuyện với các nhà lãnh đạo Scotland và giải quyết tình hình một cách hòa bình. Phái đoàn mà họ cử đến gặp Murray và Wallace đã không mang lại được kết quả gì, cũng chẳng có ai tin tưởng Stewart và các đồng hành của ông này sau khi họ đã thương thuyết với người Anh tại Irvine, những sự tráo trở của họ đã bị cả hai Murray và Wallace thấu hiểu một cách rõ ràng.
Stewart và đại đội của ông ta trở về doanh trại của quân Anh tại Stirling vào ngày 10 tháng 9 và hứa hẹn sẽ tăng cường thêm vào lực lượng của vị bá tước với 40 kỵ sỹ bọc thép vào ngày hôm sau. Khi họ di chuyển trong tối hôm đó, họ gặp một toán quân làm nhiệm vụ đột kích đang quay trở lại doanh trại, giữa hai bên đã nổ ra tranh cãi trong thời gian đó, Bá tước của Lennox đã đâm bị thương vào cổ lính bộ binh-một trong số những người cãi vã với ông ta bằng thanh kiếm của mình. Sự kiện này loan ra khắp toàn quân và đồng đội của người bị thương đã mang người này đến trước Bá tước của Surrey để đòi trả thù ngay trong buổi đêm. Tuy nhiên, vị bá tước nói với họ hãy chờ đợi đến buổi sáng và để xem liệu các lãnh chúa Scotland có giữ lời hứa của họ, và sau đó họ sẽ có cơ hội trả thù cho sự xúc phạm. Sau khi ra lệnh cho quân đội chuẩn bị sẵn sàng để vượt qua cây cầu Stirling Bridge vào buổi sáng, vị bá tước lên giường nằm nghỉ. Lúc này ông đã 66 tuổi và rất ốm yếu, ông đã viết thư cho nhà vua và khiếu nại về tình hình của bệnh tật của mình vào tháng trước và đã có dự kiến sẽ được thay thế bởi Brian Fitzalan của Bedale. Tuy nhiên những khó khăn về tiền bạc đã buộc vị bá tước đã cao niên vẫn còn phải nhận nhiệm vụ và quay lại phía Bắc để chỉ huy quân đội mặc dù ông không muốn lắm. Vào lúc bình minh của quân Anh bắt đầu vượt sông, cây cầu Stirling Bridge chỉ đủ rộng để cho hai kỵ sỹ đi ngựa hàng đôi nên phải mất một khoảng thời gian khá lâu để đội quân tiên phong có thể vượt qua, tuy nhiên họ đã bị gọi về rồi lại vượt qua cây cầu một lần nữa, vì vị bá tước vẫn chưa thức dậy.
Khi Warenne thức dậy, theo truyền thống, trước khi bắt đầu một trận chiến ông đã gia phong tước hiệp sĩ cho một số các Hộ sỹ vào lúc đó, những người mà như Guisborough đã rầu rĩ kể lại-rất nhiều người trong số họ đã ngã gục trong ngày hôm đó. Sau đó quân Anh lại bắt đầu băng qua cây cầu Stirling Bridge một lần nữa, nhưng rồi một lần nữa họ lại quay trở, lần này là vì Stewart và Lennox cùng tiến vào trại và vị bá tước nghĩ rằng họ đến để chuyển lời nhắn xin quy hàng của người Scotland. Ông đã sai lầm, họ chỉ đến để xin lỗi vì đã không thuyết phục được người Scotland quy hàng và cũng không mang đến 40 binh sỹ như đã hứa hẹn. Cuối cùng, Warenne gửi hai vị tu sĩ dòng Dominican để điều điều đình với các thủ lãnh của người Scotland lúc này đang đóng ở Craig Abbey.
Tuy nhiên, người Scotland đã thách chiến và đuổi các sứ giả quay trở lại với câu nói nổi tiếng mà Guisborough cho rằng là của Wallace; “ Hãy quay lại với câu trả lời này, chúng tôi đến đây không phải là để đàn phán hòa bình, mà là tham gia trận đánh để bảo vệ chính mình và giải phóng vương quốc của chúng tôi. Hãy để họ đến đây và chúng tôi sẽ chứng minh điều này trước mặt của họ.“
Giai đoạn bắt đầu cho trận chiến
Quân đội mà Wallace và Murray hội binh lại với nhau tại Stirling là nhiều hơn một sự kết hợp của các lực lượng đột kích cơ động mà họ đã chỉ huy trước đây. Lực lượng của họ vừa được bổ sung bằng những người mới đến, huy động từ các đội quân của các Bá tước, những người mà theo luật pháp, được phép vũ trang và được trang bị tốt nhất trong số đó, họ ( quân đội của các Bá tước Scotland ) sẽ tạo thành những hàng đầu tiên của đội hình schiltrons. Quân đội được vội vã tập hợp và các nhà lãnh đạo Scotland chỉ có một ít thời gian để đào tạo người của mình trong việc thành lập và cơ động trong những đội hình chiến đấu lớn cần thiết cho trận chiến, tuy nhiên như các sự kiện sau này đã chứng minh rằng cho dù thời gian là rất gấp rút, họ vẫn đã sẵn sàng cho chiến đấu. Người Scotland chiếm vị trí trong rừng Abbey Craig cho phép họ thách thức bất kỳ nỗ lực để vượt qua sông Forth và có thể quan sát chuyển động của đối phương trong khi vẫn dấu kín lực lượng của mình. Họ sử dụng chiến thuật theo dõi và chờ đợi để hoặc chấp nhận một trận chiến nếu tình hình thuận lợi, hoặc rút lui nếu thấy bất lợi.Từ trên các tảng đá của Craig Abbey, Wallace và Murray quan sát việc đến và đi của quân đội Anh trên cây cầu Stirling Bridge với một số lúng túng. Liệu họ có nên bắt đầu trận đánh hay không, cuối cùng hai nhà lãnh đạo đã nhất trí ra lệnh cho quân đội Scotland bắt đầu bước vào trận chiến. Quân đội Scotland đã cắm trại trong rừng giữa Craig Abbey và Ochil Hills trong vài đêm hôm trước. Đó là một nơi che giấu và có thể cung cấp một lối thoát qua các ngọn đồi trong trường hợp thua trận, nhưng nó không phải là nơi để triển khai một sô lượng binh lính lớn vào các đội hình chiến đấu.
Người Scotland tiến lên từ phía rừng và thành lập đội hình chiến đấu của họ ở phía dưới Craig Abbey trong tầm mắt của người Anh. Chỉ cách đó có một dặm đường, các chỉ huy người Anh quan sát việc triển khai của quân Scotland từ những bức tường có lỗ châu mai của lâu đài Stirling Castle. Cả Warenne và Cressingham đều đánh giá thấp sức mạnh và khả năng chiến đấu của người Scotland. Warenne đã không biết rằng quân đội Scotland mà Wallace và Murray đã mang đến Stirling là một lực lượng khác xa đội quân vô tổ chức mà ông ta đã đánh bại một cách quá dễ dàng tại trận Dunbar. Lúc đó có một số các hiệp sĩ nhiều kinh nghiệm hơn, Richard Lundie là một người trong số đó, đã lo lắng về những gì họ đã nhìn thấy bên kia bờ sông và cho rằng cần thiết phải thận trọng.
Một cuộc họp Hội đồng quân sự
Warenne cho tập hợp các hiệp sỹ cầm cờ của mình vào một hội đồng quân sự, vị hiệp sĩ người Scotland-Richard Lundie, người đã gia nhập vào quân Anh sau sự kiện Irvine dường như là một trong số ít những người cảm thấy có những điều chẳng lành trong số những người có mặt. Ông tóm tắt ngắn gọn tình hình và cảnh báo; “ My lords, nếu chúng ta vượt qua cây cầu Stirling Bridge, chúng ta sẽ là người chết. Bởi vì chúng ta chỉ có thể vượt qua cầu cứ hai người một mà kẻ thù đã dàn xong đội hình chiến đấu, toàn bộ quân đội của họ có thể tấn công từ trên cao xuống vào chúng ta bất cứ khi nào họ muốn.” Lundie nói với họ rằng cách lâu đài Stirling không xa, có một chỗ cạn trên con sông mà co thể vượt qua với “ cứ sáu mươi người một lần” và ông ta hỏi Warenne cho phép mình đem một lực lượng kỵ binh và bộ binh để dùng mẹo lừa và thu hút đối phương để cho phép quân của bá tước Surrey vượt qua cây cầu Stirling Bridge an toàn một cách hoàn hảo. Cressingham đã không chấp thuận, viên quan phụ trách ngân khố này đã làm suy yếu lực lượng quân Anh hiện có tại Stirling do sa thải bớt quân lính để giảm chi phí ( cũng có khả năng tăng số lính ma để ăn tiền ) và ông ta lại quay ra khiển trách vị bá tước và ngạo mạn yêu cầu họ ngay lập tức vượt qua sông “dường như chúng ta không có vị bá tước chỉ huy tốt, hoặc lại cứ cãi nhau mãi như thế này hoặc lãng phí tiền của nhà vua trong cuộc tập trận vô ích. Vì vậy, chúng ta hãy vượt qua ( cây cầu ) ngay lập tức và làm nhiệm vụ mà chúng ta buộc phải hoàn thành. ” Cressingham muốn chóng kết thúc trận chiến và có thể có suy nghĩ rằng một cuộc tấn công bọc sườn sẽ làm cho quân Scotland bỏ chạy vào các ngọn đồi ( thế là chiến dịch tốn kém của quân Anh lại thành công cốc ) và trong thực tế thì không thể phủ nhận rằng ông ta từng có những chiến thắng hủy diệt và chúng cũng góp phần làm nâng cao địa vị và tầm ảnh hưởng của ông với nhà vuah. Bản thân Warenne bị ảnh hưởng quá nhiều bởi viên quan coi ngân khố, ông đã bỏ qua sự thận trọng và từ chối lời khuyên của Lundie. Vị bá tước có thể đã lo ngại rằng phải phân chia lực lượng của mình ra (tách một đội quân cho Lundie ), nhưng không có bằng chứng cho thấy rằng ông có không đủ quân. Nếu Lundie có thể tiến hành một cuộc tấn công ngang sườn với một lực lượng đủ mạnh thì chiến thuật này có thể sẽ phá tan sự cân bằng của người Scotland và buộc họ phải quay ra đối phó với mối đe dọa mới của mình. Đó là một hành động có thể sẽ thay đổi kết quả của trận đánh và người ta có cơ sở để cho rằng chiến thắng sẽ thuộc về người Anh. Quyết định của Warenne là một đánh giá hoàn toàn sai lầm và Guisborough bình luận rằng những gì đã xảy ra hoàn toàn đúng với những dự tính của Lundie “ nực cười là họ không bao giờ lại nghĩ kết quả của trận đánh lại khủng khiếp như vậy, tất cả những vị chỉ huy giàu kinh nghiệm, mặc dù họ biết đối phương chuẩn bị sẵn sàng, và họ bắt đầu vượt qua một cây cầu rất hẹp thậm chí rất khó khăn cho hai người cưỡi ngựa đi hàng đôi và họ đã mất cả buổi sáng để chuyển quân mà không gặp trở ngại gì, cho đến khi đội quân tiên phong đã được chuyển sang một bên bờ của dòng sông và phần còn lại của quân Anh lại ở bên kia. Thực sự, không có nơi nào tốt hơn trong vùng đất này để trao tính mạng của quân Anh vào tay của người Scotland-một lực lượng hùng mạnh mặc dù ít hơn rất nhiều về số lượng “
Khoảng non nửa quân Anh, cả kỵ binh và bộ binh, đã vượt qua cây cầu Stirling Bridge vốn rất hẹp vào lúc 11:00 cùng với Cressingham và cờ hiệu của nhà vua và vị bá tước Tổng chỉ huy. Đội quân tiên phong gồm khoảng 2.000 người, bao gồm chỉ hơn 100 hiệp sỹ và một lực lượng bộ binh xứ Wales mạnh mẽ. Các hiệp sĩ đáng gờm của Marmaduke de Thweng vùng Yorkshire cùng với đội kỵ binh của Richard Waldegrave-huân tước của Stirling Castle và nhiều binh lính đồn trú của ông.
Người Scotland bàn bạc
Các thủ lãnh Scotland bắt đầu nhận ra rằng quân đội Anh bắt đầu thành lập đội hình ở phía bắc của con sông lần thứ ba vào buổi sáng, lần vượt sông này được tiến hành một cách nghiêm túc. Khoảng thời gian trong buổi sáng ngày hôm đó hầu như không cho phép quân Anh đưa sang bên bên kia bờ sông những toán quân lớn. Có thể họ ( người Anh ) cho rằng quân địch ( quân Scotland ) đã rút lui trước khi quân Anh chuyển qua cây Stirling Bridge đủ quân để mở ra một cuộc tấn công. Những gì đang diễn ra có thể đã có tác dụng cảnh báo các thủ lãnh Scotland về hành động của người Anh và họ cần có một khoảng thời gian để thảo luận về các biện pháp trả đũa. Một Hội đồng quân sự có lẽ đã cho phép những sĩ quan Scotland có kinh nghiệm nhất thảo luận về tình hình, những gì mà Warenne đã cho tiến hành ở phía bên kia của con sông. Trong trường hợp này người Scotland đã quyết định rằng, thay vì binh bất động và phòng thủ, cho phép toàn bộ quân đội Anh qua sông và tấn công họ, họ sẽ chủ động tấn công trước nhằm tiêu diệt đội quân tiên phong của đối phương vốn đang ở một tình trạng rất bấp bên
Tập hợp trong những đội hình schiltron chặt chẽ với chiều sâu sáu hàng, 6.000 binh sỹ Scotland đã dàn trận ở Craig Abbey dưới con mắt thận trọng của các chỉ huy của họ. Họ xuất hiện trước đội quân tiên phong của Anh ở khoảng cách dưới một nửa dặm trên một đồng cỏ bằng phẳng, tạo thành một người đám đặc với tua tủa những ngọn giáo sáng lóa. Có cung thủ từ rừng Selkirk đến để hỗ trợ và một lực lượng nhỏ trong khoảng 180 kỵ sỹ làm dự trữ, có lẽ là để đánh chặn bất kỳ mối đe dọa nào từ bên cánh. Trong khi đó, kỵ binh Anh đã vượt qua sông và chờ đợi một cách thiếu kiên nhẫn các bách đội bộ binh đang khẩn trương triển khai thành đội hình dòng sau khi họ vượt qua cây cầu hẹp. Wallace và Murray biết rằng họ phải tấn công ngay lập tức và đẩy kẻ thù xuống sông trước khi họ có tập trung một lực lượng quân quá lớn ở bờ bắc. Họ không muốn tấn công quá sớm-sẽ lãng phí cơ hội để phá hủy một khá lớn quân đội Anh. Đó là một tình huống cần có người chỉ huy kiên quyết và biết phán đoán tình huống đúng lúc. Ta phải giả định rằng chọn thời điểm để tấn công là một quyết định chung của cả Wallace và Murray vì họ là đồng chỉ huy, và đây là một quyết định rất khó khăn. Tuy nhiên quyết định đã được đưa ra vào đúng thời điểm. Đúng vào lúc người cuối cùng của 2.000 người trong đội quân tiên phong của Anh bước lên bờ phía bắc của Forth, hiệu lệnh tấn công đã được ban bố. Một tiếng còi thổi to từ trên Craig Abbey và các đám giáo binh Scotland bắt đầu sải bước về phía trước với một quyết tâm khắc nghiệt, các schiltron với những ngọn giáo sắt sáng lóa ( đương nhiên chỉ có mũi giáo bằng sắt) như những con nhím khổng lồ với cờ hiệu của họ bay phần phật ở phía trước. Các bước tiến của họ rất đều đặn với các sỹ quan của họ cố gắng ra lệnh và kiểm soát tốc độ và khoảng cách giữa các hàng quân. Lúc này Wallace và Murray nhảy lên ngựa, đội mũ sắt lên đầu cùng với các kỵ sỹ của họ chiến đấu tại tuyến đầu. Ở khoảng cách 1.000 yard quân Scotland tách tách ra thành hai đội quân và hầu hết khoảng cách giữa hai đội quân này được giữ nguyên với tốc độ không đổi và không có sự rối loạn giữa các hàng quân. Những binh sỹ Scotland có áo giáp tốt nhất đứng ở hàng đầu tiên của các schiltrons đang tiến lên và họ cổ vũ lẫn nhau khi những mũi tên bắt đầu bắn trúng vào đội hình của họ và đã có người bắt đầu gục ngã.
Theo những tiếng còi hiệu lệnh cấp bách các đội giáo binh thu hẹp khoảng cách để tấn công và các schiltrons siết chặt đội ngũ và háo hức tiến về phía đối phương. Cây cầu Stirling Bridge vẫn bị chặt cứng bởi quân Anh, một số người khác đã điên cuồng tìm cách triển khai một số loại phòng thủ ở phía trước cùng với những người đã vượt qua sông trước đó, một số khác lại bị dao động khi quân Scotland bao quanh và lao vào họ. Tât cả các lực lượng kỵ binh, cung thủ và giáo binh đều không thể chịu được sức mạnh và độ tàn khốc của cuộc tấn công của quân Scotland. Họ bị tràn ngập, bị đông cứng và đẩy lùi trở lại trước những hàng giáo binh Scotland rồi rơi vào cái bẫy được hình thành bởi vòng lặp của khúc sông phía sau của họ. Đầu cầu đã sớm nằm trong tay người Scotland và không có lối thoát bởi một số lượng rất lớn binh sỹ Anh đang tắc nghẽn và hoảng loạn, với kỷ luật bị tan vỡ, quân Scotland cắt một qua một vùng rộng lớn đẫm máu của các đội quân Anh và tàn sát phần lớn trong số này. Warenne, Huntercombe và Latimer ( Đạo trung quân của quân Anh ) đều không thể vượt qua cây cầu Stirling Bridge, cũng với phần lớn quân đội của mình, họ chỉ có thể đứng há hốc mồm nhìn một cách kinh ngạc từ bờ đối diện để quan sát quân Scotlandlàm công việc đẫm máu của họ. Không có đường thoát cho đội quân tiên phong bị mắc kẹt và rất nhiều lính vũ trang và thậm chí số lính bộ binh đã bị thiệt mạng bởi quân Scotland còn ít hơn số bị chết đuối khi cố gắng để qua sông trong những bộ áo giáp nặng nề của họ; mặc dù ít nhất có một hiệp sĩ cùng con ngựa của ông ta-cả hai vẫn còn được bọc thép đầy đủ đã bơi qua khúc sông một cách cực kỳ khó khăn. Khoảng 300 lính bộ binh xứ Wales trang bị nhẹ và không mặc áo giáp đã trốn qua khúc sông an toàn với ít khó khăn hơn.
Những người khác không được may mắn như vậy, vị huân tước của Stirling Castle cùng với rất nhiều quân đồn trú của ông đã thiệt mạng trong thảm họa này, Cressingham-vốn béo phì nên ngồi không chắc trên lưng ngựa đã bị kéo xuống đất và bị giết chết dã man. Tuy nhiên hiệp sĩ Marmaduke de Thweng của Yorkshire đã tận dụng sự hỗn loạn này và trốn thoát; không còn nghi ngờ gì nữa Guisborough đã sưu tầm những câu chuyện này từ những chính những chiến binh đáng gờm chính mình. Marmaduke quan sát trong nỗi thất vọng khi thấy lá cờ của nhà vua và vị bá tước Tổng chỉ huy lần lượt đổ gục dưới các ngọn giáo của quân Scotland và lúc này ông ta nhận ra rằng đội quân tiên phong đã biến mất. Ông tập hợp lại các kỵ sỹ của mình và thay vì mạo hiểm chết đuối do cố gắng bơi qua sông, ông đã dẫn họ mở đường máu xuyên qua các hàng giáo binh Scotland và quay lại phía sau về phía cây cầu. Cuộc tấn công của nhóm kỵ binh bọc thép đã gạt được quân Scotland sang một bên và với Marmaduke dẫn đầu nhóm, họ mở một con đường máu về phía lối thoát của họ. Tại một thời điểm, người cháu trai trẻ tuổi của Marmaduke đã bị ngã xuống đất vì con ngựa của anh này đã bị giết, anh ta liền kêu lên để mong có sự giúp đỡ vì quân Scotland đang tiến lại gần. Marmaduke nhảy xuống từ trên yên ngựa của mình và nhấc bổng người thanh niên lên phía sau lưng viên Hộ sinh của ông ta ( hai người một ngựa ), sau đó ông lại lên ngựa và dẫn dắt họ nguyên vẹn đến cây cầu nơi mà ông và toán kỵ sỹ sức tàn lực kiệt của ông đã tìm cách để thoát sang bờ bên kia một cách an toàn. Trận phá vòng vây của Marmadukc là hành động kháng cự cuối cùng có tổ chức, chiến thắng của người Scotland là hoàn thành trọn vẹn; Warenne và phần quân đội còn lại của ông ta chỉ có thể đứng nhìn trong sự thất vọng khi quan sát kẻ thù sử lý nốt phần còn lại của đội quân vẫn còn bị mắc kẹt ở phía bắc của con sông.
Người Scotland đã trả thù một cách rùng rợn vào cái xác chết béo phì của Cressingham ( vì chắc là ông ta đã bóp nặn họ bằng thuế má một cách khủng khiếp ) và Guisborough cho biết rằng họ đã lột da ông này và chia những miếng da của ông ta cho binh lính của họ-không phải là làm vật lưu niệm mà để chứng tỏ sự thù hận đối với ông ta. Sau khi hài lòng với sự trả thù họ làm cho ông ta một chiếc bia mộ có ghi «Trong số những kẻ lừa gạt ngày hôm nay, hắn ta là kẻ lừa gạt nhất, trơn trượt nhất, kiêu căng nhất, nghiện ngập nhất, tham lam nhất.« Cái xác đã bị lột da của Cressingham dường lại trở nên nổi tiếng ở Anh như trong một số các ghi chép khác dù nó chỉ để tả mức độ đẫm máu của trận đánh.
Tuy nhiên trận giao tranh cũng không hoàn toàn là một chiều, bởi vì Andrew Murray đã nằm trong số người chết và bị thương trong trận đánh. Tên của ông tiếp tục xuất hiện trong một thời gian nữa trên các công văn giấy tờ cùng với Wallace như là Chỉ huy của quân đội Scotland, nhưng dường như ông đã qua đời vào đầu tháng mười.
QUÂN ANH THÁO CHẠY
Chỉ có một phần của quân Anh bị đánh bại và tiêu diệt, phần lớn vẫn chưa tham chiến, nhưng thế cũng là đủ vì toàn bộ quân Anh đã chở nên chán nản và không thể khôi phục lại sau cuộc chiến mặc dù số lượng của họ vẫn còn đông hơn kẻ thù. Warenne rời bỏ cây cầu Stirling Bridge bị phá vỡ đằng sau ông ta và chạy trốn về Berwick một cách an toàn với một kỵ binh hộ tống mạnh mẽ. Ông ta đã bỏ đi một cách cực kỳ vội vàng, như Guisborough mô tả, “ như con ngựa của ông bao giờ được nếm mùi chạy nhanh như vậy” ông không chỉ bỏ lại quân đội của mình mà là toàn bộ miền nam Scotland cho số phận của họ và để lại một miền Bắc nước Anh rộng mở cho các cuộc tấn công trả thù của người Scotland. Marmaduke de Thweng và William Fitzwarin là những vị bá tước được uỷ thác việc bảo vệ lâu đài Stirling và ông hứa sẽ trở lại với một lực lượng mạnh vào trước cuối năm đó. Mặc dù đơn vị đồn trú đã được tăng cường bởi Robert de Ros của Wark từ Tweed và đoàn tùy tùng của ông này nhưng quân cứu viện thực sự đã không đến. Lâu đài này đã không thể chịu được một cuộc phong tỏa kéo dài và nhanh chóng đầu hàng Wallace. Ros đã bị trói bằng xích xắt và bỏ tù tại Dumbarton Castle, Fitzwarin và Thweng đã được tha như là một phần của cử chỉ nghĩa hiệp của Wallace, mặc dù không có gì phải nghi ngờ họ là những con tin có giá để đổi lấy tiền chuộc. Marmaduke được trao đổi cuối cùng tháng 4 năm 1299 sau hơn một năm làm một tù nhân, để đánh đổi lấy hiệp sĩ Scotland John de Moubray-người vào thời gian đó đang bị giam cầm bởi người Anh. Không có bất kỳ hồ sơ nào về tù nhân của cuộc chiến; có lẽ người Scotland đã không bắt tù binh. Khi quân đội Anh rơi bỏ lâu đài Stirling và hành quân về phía nam, Stewart và Bá tước của Lennox đã nắm lấy cơ hội này để rời bỏ quân Anh, lúc này họ tìm cách góp tí chút vào thắng lợi của Wallace để tự thổi phồng hình ảnh của họ trước người Scotland. Họ bám đuôi hàng ngũ quân Anh vốn đã bị mất tinh thần và những người lạc ngũ cho tới tận Falkirk. Họ là những người đi theo để phục vụ quân đội và các đoàn xe hành lý kéo dài để chở thương binh vượt qua đầm lầy phía đông nam của Stirling, quân của nhà Stewart đổ ồ vào họ, giết chết những người đánh xe ngựa không may, cướp bóc các xe chở hành lý nặng nề cướp được rất nhiều chiến lợi phẩm. Kỵ binh của quân Scotland bám đuổi và quấy rầy quân Anh lúc này đang rút lui về hướng Berwick, mặc dù họ không thể gây thêm thiệt hại nào đáng kể cho người Anh. Wallace với phần lớn quân đội của mình vẫn ở lại trong vùng Stirling, ăn mừng chiến thắng và chia sẻ những chiến lợi phẩm thu được từ trận đánh.
Hậu quả của trận Stirling Bridge
Trận chiến Stirling Bridge và cái chết của Murray trong tháng 11 làm cho Wallace trở thành nhà lãnh đạo không thể tranh cãi của Scotland, một vị trí mà ông nắm giữ cho đến sau kết thúc trận chiến Falkirk vào tháng Bảy năm sau. Tin tức về thảm họa tại Stirling lan tỏa nhanh chóng và đã gây sốc một cách khủng khiếp cho Quốc hội Anh quốc. Họ đối phó ngay không chậm trễ và ra lệnh cho các viên quận trưởng của Nottingham và Dery gửi các hiệp sĩ và binh lính của họ lên miền Bắc để chi viện cho Robert Clifford và Brian Fitzalan-những người bảo vệ biên giới những lực lượng tốt nhất mà họ có thể huy động tại địa phương. Robert Bruce tái xuất hiện và tập hợp quân đội ở phía tây-nam và Clifford đã đột kích các vùng đất của mình tại Annandale để trả thù cho các hoạt động của ông ta. Bá tước Surrey đi thẳng đến London sau khi chạy khỏi Scotland, ông cùng với Henry Percy hỗ trợ cho hoàng gia chống lại Norfolk vàHereford (các quý tộc địa phương của Anh). Trong tháng 10 các rạn nứt giữa nhà vua Anh và các Bá tước đã được hàn gắn và ngăn ngừa được mối đe dọa xảy ra nội chiến, sự chuẩn bị được tiến hành để gửi một lực lượng lớn kỵ binh và bộ binh đến Newcastle để phù hợp với tình hình ở miền Bắc. Wallace đã không ngay lập tức khuếch trương chiến thắng của mình tại Stirling bằng việc tấn công vào miền bắc nước Anh, trong khi đối phương đang ở trong tình trạng lộn xộn như đã được mong đợi. Khi ông đối mặt với quân Anh ở bên ngoài Berwick vào cuối vào tháng Chín, ông đã buộc phải lui quân để sắp xếp lại lực lượng để dàn trận chiến đấu. Tuy nhiên, ở Scotland đã gần như xóa sạch quân đội chiếm đóng, các lâu đài Dundee và Stirling chỉ chống lại được một thời gian, có lẽ chúng đầu hàng vào đầu năm 1298, nhưng Edinburgh, Roxburgh và lâu đài Berwick vẫn bị quân Anh chiếm đóng mặc dù các thị trấn-theo báo cáo của Lanercost không có các bức tường bảo vệ đã bị chiếm bởi Henry Haliburton.
Wallace đột kích vào miền Bắc nước Anh
Có một số cuộc tấn công qua biên giới ngay sau trận Stirling Bridge, sau đó vào tháng 10 bản thân Wallace đã dẫn một đội quân khoảng 100 kỵ binh và 3.000 bộ binh tấn công vào Northumberland. Các cuộc tấn công là cực kỳ tàn bạo và được đánh dấu bởi tội ác do sự vô kỷ luật của binh sỹ Scotland. Họ đốt cháy và cướp bóc từ Tynedale đến Corbridge và Hexham, nơi mà nhà dòng đã phải trả tiền bảo vệ và sau đó họ di chuyển về phía tây để tấn công Cumberland vàCarlisle. Quân Scotland không thể chiếm được các thành lũy kiên cố ở vùng biên giới mà không có các thiết bị bao vây và máy công thành nhưng họ đã giam giữ được các đội quân đồn trú, bao gồm cả lực lượng của Henry Percy, trong một tháng với một lực lượng phong tỏa lớn, trong khi họ tàn phá và đốt cháy miền Bắc nước Anh trong vòng 100 dặm. ” Sau đó, khi mùa đông bắt đầu họ đã hành quân về phía đông Durham nhưng sau khi vượt Stainmore, tuyết đã nặng nề làm cho họ phải chuyển sang bên kia ở Bowes và tiến hành bao vây Newcastle vốn ít kiên cố hơn Carlisle. Tuy nhiên, lực lượng phòng thủ lâu đài được tổ chức tốt và binh lính Scotland rất vô kỷ luật nên họ đã bị tiêu hao trong chiến dịch mùa đông và muốn trở về nhà với các đồ chiến lợi phẩm cướp bóc được của họ. Wallace đã vắng mặt từ Scotland đủ lâu và sự hiện diện của ông ở nhà là cần thiết. Ông không có sự lựa chọn nào khác là từ bỏ cố gắng của mình ở Newcastlevà vượt biên giới quay trở lại Scotland vào đầu tháng 12. Các cuộc tấn công, mặc dù đã phá hủy được một vùng đất rộng lớn ở phía Bắc nước Anh, nhưng không đạt được các mục tiêu quân sự, tuy nhiên cái mà nó thu được là chiến lợi phẩm về mặt vật chất ở nước Anh. Nó được xem là mang lại quả báo cho người Anh và trên hết nó tăng cường vị thế của Wallace ở Scotland.
Trong khoảng mùa đông năm 1297-1298 Wallace đã được phong tước hiệp sĩ bởi một trong những Bá tước đứng đầu Scotland và được bầu làm Người bảo hộ của Vương quốc. Chỗ đứng của ông trong giới quý tộc đã được tăng cường và do đó ông cũng có danh hiệu chính thức để điều hành đất nước ( chủ yếu là về mặt quân sự). Chúng tôi không có thông tin chi tiết của sự kiện này, bằng chứng duy nhất để chứng minh đó là sự thật chỉ là một điều lệ-một trong bốn tài liệu mà chúng tôi biết về thời gian cầm quyền của ông, trong đó nói Wallace được phong hiệp sĩ, Người giám hộ của vương quốc Scotland và chỉ huy quân đội của họ, nhân danh Tên của các hoàng tử nổi tiếng của chúa tể John (John Balliol ) của Scotland … Các tài liệu được ghi chép bởi Alexander Scrymgeour trong tháng 3 năm 1298, một thời gian ngắn sau sự thất thủ của lâu đài Dundee, lâu đài này được tạm giao cho ông và ông cũng được cấp lãnh địa để đổi lại ông phải tỏ sự thuần phục với John Balliol và hành động nhân danh nhà vua. Rõ ràng, Wallace tự coi mình như là người thay mặt cho vua Balliol đang sống lưu vong và không quyết định để tự lập như là một nhà cai trị độc lập. Ông nhận được sự chấp nhận rộng rãi từ quần chúng nhân dân, tuy nhiên có thể ông đã không được sự phục vụ tận tâm của tầng lớp quý tộc ( lúc này ta mới thấy cái chết của Andrew Murray có hậu quả như thế nào đến Wallace ). Hôm nay phần còn lại duy nhất trong bốn văn bản là bức thư gửi thị trấn Lubeck của Liên minh Hanseatic vào ngày 11 tháng 10 năm 1297, trong đó ông mời nối lại thương mại, như là kết quả thu hồi lại được Scotland sau cuộc chiến với người Anh. Tuy nhiên, lời yêu cầu này là quá sớm, vì thảm họa ở Stirling Bridge đã thống nhất giới quý tộc Anh với một quyết tâm là bắt người Scotland phải quỳ gối và họ lại tiến hành xâm lược vương quốc Scotland vào năm 1298.
Trận Falkirt
CÁC CHIẾN DỊCH CỦA NĂM 1298
Edward triệu tập lực lượng của mình
Bản đồ chiến dịch của năm 1298
Lúc này vua Edward khó có thể làm gì để trả thù cho thất bại của quân đội của mình tại Stirling Bridge trước khi mùa hè 1298. Ralph Fitzwilliam đã tạm thời được chỉ định nắm quyền chỉ huy vùng biên giới trong khi chờ John de Warenne trở lại. Trong những tháng kể từ tháng 12 năm 1297 và tháng 1 năm 1298 lực lượng của ông ta tại địa phương ở phía Bắc chỉ còn không quá 2000 lính bộ binh, 75 lính bắn nỏ, trong đó có 15 kỵ binh và sáu hiệp sĩ với 40 lính các loại khác. Mặc dù nhà vua và quân đội của ông đã không trở về từ Flanders cho đến tận ngày 14 tháng 3 năm 1298 để chuẩn bị cho cuộc xâm lược vào Scotland được tiến hành vào cuối năm 1297, ông muốn có một lực lượng bộ binh lên đến 29.000 được triệu tập và tập hợp tại Newcastle đầu vào tháng nhưng sự thi hành rất chậm chạp và các tráp đòi bị lần lữa mãi mới được ban hành để tập hợp quân đội ở Newcastle vào cuối tháng Giêng năm 1298. Trong cuộc chiến tranh của Edward ở xứ Wales ông đã thành lập các nguyên tắc cho một chiến dịch mùa đông nhưng khả năng này vẫn không phổ biến, tuy nhiên, phần lớn khoảng 16.000 bộ binh đã được tập hợp trong những tuần đầu tiên của tháng 2 một số người khác mất ba tuần để xuống phía bắc. Đến thời điểm mà Warenne lại lên nắm quyền chỉ huy, ông đã có các vị bá tước của Norfolk, Hereford và và nam tước cùng với các hiệp sĩ và một lực lượng kỵ binh với số lượng ít nhất 750 tay thương. Lực lượng mới tập hợp nâng tổng số bộ binh lên đến 21.000 trong một thời gian ngắn nhưng con số này lại sớm giảm xuống còn 18.000 người và đến tháng Ba còn lại 10.000 người và sau đó chỉ còn 5.000. Warenne và quân đội của ông không đạt được mấy thắng lợi ngoài việc chiếm được các lâu đài Roxburgh và Berwick, người Scotland từ chối chiến đấu và rút lui.
Nhà vua đã gửi mệnh lệnh cho ông là không được tiến hành một chiến dịch lớn cho đến khi ông ta đến nơi để nắm lấy quyền chỉ huy. Quân đội của Warenne tuy có số lượng đông nhưng chất lượng lại rât kém và hầu hết binh lính đã nhanh chóng giải tán. Trong tháng 4 và tháng 5 ông ta chỉ có khoảng 1.500 bộ binh và 100 kỵ binh để bảo vệ Biên giới. King Edward dự định sẽ tiến vào Scotland với một quân đội tốt hơn vào mùa hè và cuối ông đã cho ban hành giấy triệu tập mới. Chỉ có khoảng 2.000 bộ binh Anh đến chỗ tập trung, các quận của Cheshire và Lancashire, mỗi quận góp 1.000 người. Các tráp đòi còn tồn tại cho thấy phần lớn bộ binh của quân Anh ở Falkirk là người xứ Wales, Edward triệu tập tổng cộng 10.500 quân xứ Wales, những binh lính tốt nhất mà ông ta có. Có 250 lính bắn nỏ từ quân cua Warenne và 250-300 lính đánh thuê người Gascon mà chúng ta có thể giả định rằng họ cũng là lính bắn nỏ, một số người có ngựa. Các tài liệu cho thấy ngựa được sử dụng với số lượng còn lớn hơn ở Flanders. Nhiều đoàn tùy tùng đã được tổ chức lại cho chiến dịch Falkirk và các hiệp sĩ mới cùng với học sinh của họ. Rất nhiều người là Hộ sỹ trong chiến dịch Flanders đã được phong tước hiệp sĩ cho chiến dịch Scotland. Lính đánh thuê người Gascon như Captal de Buch cũng đưa đoàn tùy tùng của ông vào chiến dịch cũng như Henry de Beaumont người Pháp-người đóng vai trò rất nổi bật trong cuộc chiến chống lại người Scotland sau này. Có khoảng 2.200 kỵ binh trong đó 1.200 thuê bằng tiền và 1.000 người là các tùy tùng phong kiến. Quân đội mà Edward tập hợp cho chiến dịch Falkirk vượt xa so với ở Stirlinglace Bridgelace. Quân đội của Anh ở trận Falkirk là đại diện cho tinh thần hiệp sỹ của người Anh, nó có 11 Bá tước, Giám mục của Durham, Henry của Lancaster, Aymer de Valence, Robert Clifford, Henry Percy và nhiều cái tên nổi tiếng khác trong số 115 banneret ( hiệp sỹ cầm cờ ); rõ ràng Wallace đã được xem như một mối đe dọa không thể coi nhẹ.
Công việc của Edward trong năm 1298 không có gì hơn là tập trung hoàn toàn vào xâm lược Scotland. …
… Hãy để họ gia nhập với người Scotland ông vặn lại, ” sau đó chúng ta sẽ đánh bại toàn bộ bọn chúng chỉ bằng một trận đánh”. Bất chấp sự tự tin một cách khoa trương của ông, chiến dịch của Edward ngày càng có chiều hướng xấu đi và ông quyết định nghỉ ngơi ở Edinburgh để tiếp tế quân đội. Edward có vẻ như không biết được chính xác quân Scotland ở đâu, và việc lập kế hoạch cho cuộc xâm lược được tiến hành bởi những báo cáo được gửi đến các quận trưởng của Northumberland, Cumberland và Westmorland ông sợ rằng Wallace có thể khởi động một cuộc tấn công đánh chặn bằng cách hành quân về phía Tây. Trong thực tế thời gian này quân đội của Wallace đã ở một nơi nào đó ở phía tây của Anh, ở giữa họ và Stirling Castle-mục tiêu của họ.
Tại thời điểm tồi tệ này của quân Anh thì may mắn cho họ là có hai Bá tước Scotland-Patrick Dunbar và Gilbert d’Umfraville, Bá tước của Angus, cả hai người là người Scotland nhưng lại được phong tước hiệu bởi người Anh, đã đến chỗ Edward cùng với một tay trinh sát hoặc gián điệp và hắn nói với vua Anh rằng quân đội Scotland đã ở ngay không quá 18 dặm bên ngoài Falkirk “Họ có nghe nói rằng ngài có ý định rút lui về Edinburgh và họ sẽ bám sát ngài và tấn công vào doanh trại của ngài trong tối ngày mai, hoặc ít nhất là đánh úp vào hậu quân và mai phục quân tiên phong của ngài. ” Từ điểm này có vẻ như là ý định của Wallace là không đợi và chiến đấu trong một trận chiến mở với quân Anh mà là để quấy nhiễu quân Anh và bắt họ rút lui, có lẽ ông hy vọng sẽ biến cuộc rút lui của quân Anh thành một cuộc tháo chạy hỗn loạn. Khi nghe tin này đã được tin này nhà vua Anh đã nổi giận và tiến hành hành động và, tuyên bố rằng ông sẽ không gặp rắc rối gì vì “ chúng phải đến tìm ta “, ông đã ra lệnh tiến lên ngay lập tức theo hướng Falkirk. Quân Anh có thể đã cạn lương thực nhưng họ vẫn là đội quân chưa bị đánh bại và phải rút lui. Họ vẫn chưa phải chịu một đòn tấn công và một số thực phẩm cần phải có được đẩy nhanh tốc độ vận chuyển từ Leith, đủ cho một hai ngày hoặc như vậy nên ta không tìm thấy tài liệu ghi chép rằng họ bị đói mà chỉ thấy rằng họ hành quân và chiến đấu; Wallace đã đánh giá sai lầm về đối phương của mình. Vào đầu của thời gian buổi chiều quân Anh rời Kirkliston, đội hình họ đã trải dài hơn mười dặm và cắm trại ở Muir Burgh, phía đông của Linlithgow và hành quân với một tốc độ thong thả ổn định. Sau đó Guisborough cho chúng ta thấy rằng “ họ trải qua một đêm với vũ khí trong tay ( vì sợ quân Scotland tấn công bất thình lình ), họ lấy lá chắn làm gối và vũ khí làm giường. Ngựa của họ cũng vậy, chúng không được tháo yên cương và bị buộc ở gần người chủ của chúng.” Trong nửa đêm con ngựa của nhà vua được trông coi bởi một Hộ sỹ bất cẩn đã đạp lên người nhà vua lúc ông này đang ngủ và làm ông ta bị thương. Một sự hỗn loạn đã xảy ra sau đó khi có một tiếng kêu báo động trong trại là-địch quân tấn công và tất cả những người lính chồm dậy vồ lấy vũ khí của họ và sẵn sàng chiến đấu. Tuy nhiên nhà vua chỉ bị khá đau và rồi tình hình đã sớm được phục hồi, nhưng các trại đã tỉnh táo và tinh thần chiến đấu của quân đội đã được nâng cao Vì quá đau đớn ( nên không ngủ được ), Edward đã trèo lên con ngựa của ông và ra lệnh cho quân đội tiến về phía Falkirk trước khi bình minh lên một thời gian khá dài.
Tài liệu đương thời về trận chiến Falkirk
Mô tả của Walter Guisborough về trận chiến Falkirk là những gì chi tiết và chính xác nhất mà chúng ta có, nó có sự thống nhất với các sự kiện mà chúng tôi có thể kiểm tra đối với các nguồn tin khác, chẳng hạn như tên của các chỉ huy các chiến đoàn kỵ binh của Anh và sự hiện diện của chiến đoàn của Ralf Basset-Giám mục của Durham, được xác nhận trong các văn kiện hồ sơ về trận Falkirk và các văn bản khác.
Các thông tin của Guisborough đến từ một người nào đó ở gần với các sự kiện, gần như chắc chắn là một nhân chứng, có lẽ một banneret hoặc một hiệp sĩ của ngự lâm quân, hoặc một giáo sĩ phục vụ tại hoàng gia. Một số hiệp sĩ nổi bật đến từ Yorkshire chiến đấu tại Falkirk có thể đã nói với Walter về câu chuyện của họ. Quấn biên niên sử của Lanercost rất ngắn và quấn Sealacronira cũng vậy, chúng chỉ đóng góp các thông tin cụ thể bổ sung lẻ tẻ. Các sử gia khác lấy theo các ghi chép của Guisborough từng từ từng chữ. Rất đáng kinh ngạc là các tài liệu của Walter Bower lại đổ lỗi thất bại cho Robert Bruce và người hát rong Harry mù lại thêu dệt một câu chuyện quanh co rằng là Wallace chiến thắng. Tài liệu của tôi kết hợp các mô tả khái quát của Westquarter Burn với tài liệu chi tiết chặt chẽ của Walter Guisborough.
Tìm kiếm quân Scotland trước lúc rạng đông ngày 22 tháng 7 năm 1298
Trong ánh sáng xám của bình minh ngày 22 tháng 7 đội tiên phong của quân Anh đã hành quân từ doanh trại của họ trên Muir Borough gần Linlithgow, và cuối cùng họ đã nhìn thấy quân Scotland. Trên đỉnh Redding Muir, phía trước của họ và về phía đội hình dòng đang hành quân của họ, rồi họ nhìn thấy một đội hình rất đông các giáo binh. Tin rằng toàn bộ đội quân của người Scotland đã ở trên vị trí ở các sườn núi bên ngoài, người Anh vội vã chuyển đội hình hành quân sang đội hình chiến đấu và tiến lên con dốc phía trước, nhưng, trên các sườn núi nhấp nhô họ không tìm thấy dấu hiệu của kẻ thù. Họ dừng lại và lều đã được dựng để phục vụ cho việc cầu kinh như là một nhà nguyện, nó là ngày của Magdalene và nhà vua Anh quốc và Giám mục Durham đã tổ chức một buổi lễ nhân danh của vị thánh. Vào lúc này các nghi trong ngày đã được bắt đầu trong lúc trời bắt đầu sáng và người ta có thể thấy rocthấy rõ ràng hơn. Ở khoảng cách chỉ hơn một dặm về phía Tây bắc, người ta có thể thấy người Scotland đang hối hả lập đội hình dã chiến và chuẩn bị chiến đấu.
Bố trí của quân đội Scotland
Các tay giáo của Scotland đã tập hợp thành bốn vòng tròn lớn, ” các vòng tròn này được gọi là schiltrouns “, Guisborough không nói rằng liệu có bất kỳ hệ thống cọc nhọn phòng thủ có thể được cắm ở phía trước của các giáo binh, chỉ có trong những vòng tròn của các tay giáo đã được bố trí với các ngọn giáo của họ được hướng xiên ra phía ngoài; người này có sự liên kết chặt trẽ với người kia-bạn chiến đấu của mình và họ mặt quay về phía ngược lại với hướng tâm của chu vi của vòng tròn. Tôi không nghĩ rằng Guisborough mô tả là việc mỗi giáo binh có sự liên kết với đồng đội của mình của ông có ngụ ý một sự liên kết về mặt vật lý. Thay vào đó ông muốn đề xuất một hình phòng thủ rất vững chắc như là các giáo binh của miền Bắc xứ Wales đã từng làm. Bằng loại vũ khí là những ” pháo đài người ” mà Wallace đã dự định để chịu đựng được các cuộc tấn công của quân Anh. Rõ ràng là các giáo binh được hình thành trong các vòng tròn với kỳ vọng chống trả một cuộc tấn công từ mọi phía, đội hình này cũng ngụ ý rằng các cạnh sườn của quân Scotland đã không được cố định vào bất kỳ tính năng vật lý nào mà được thay thế bởi “ không gian”. Trong không gian giữa bốn cụm đội hình schiltrons, mỗi chiếc được tạo thành từ khoảng 2.000 được dàn trận là các đội cung thủ đến từ rừng Selkirk. Họ bình đẳng với cung thủ của Anh và xứ Welsh về mọi mặt, ngoại trừ số lượng của họ khi so với đối thủ “ họ là những người được đào tạo tốt và có kỹ năng cao” Guisborough gọi họ như vậy một cách khâm phục. “ Và ở phía sau, những đầu cánh là các hiệp sĩ của họ “, tôi mô tả điều này có nghĩa là các kỵ binh đã cùng chiến đấu trong một đội hình, trong lực lượng dự trữ ở phía sau một cánh của đội hình schiltrons. Rất khó để đoán biết về vai trò của Wallace trong suy nghĩ của lực lượng kỵ binh của ông-họ đã được đặt ở những vị trí dễ bị tổn thương, sự hiện diện của họ ở vị trí mở, như là động thái mở đầu của trận chiến đã được chứng minh bởi các cuộc tấn công của kỵ binh Anh mạnh mẽ hơn nhiều.
Nhà Comyns và các Bá tước khác-những người ủng hộ Wallace đã đóng góp phần lớn lực lượng kỵ binh này và mặc dù chính họ lại vắng mặt, nhiều gia đình quý tộc Scotland gửi ít quân hơn. Những người này, mặc dù cho thấy rằng họ đã chiến đấu một cách nghèo nàn tại Falkirk, vẫn tiếp tục chống lại người Anh và cung cấp hỗ trợ cốt lõi cho Robert Bruce trong những năm tới. Người ta cho rằng Robert Bruce là một trong những hiệp sĩ có dự trận này, nhưng có những bằng chứng cho rằng việc ông có mặt tại đây vào thời điểm này là không thuyết phục. Chúng ta cũng có thể xác định được người đứng đầu kỵ binh Scotland là James, the Hight Steward.
Các schiltron của quân Scotland đứng trên một sườn đồi dốc khô, hơi hướng mặt một chút về phía đông với khu rừng Callendar ở phía sau của họ và thị trấn Falkirk ở một khoảng cách không xa về phía tây-bắc, như Guisborough đã nói với chúng ta về các cánh của người Scotland. Các sườn đồi dốc đổ về phía chiếc thung lũng nông nơi mà Glen Burn cắt với Westquarter Ghi; ở đây trong đáy của chiếc thung lũng ngập nước, ở phía trước của đội hình của quân Scotland và đã hình thành lên một đầm lầy sũng nước sau một cơn mưa lớn
TRÌNH TỰ ĐỘI HÌNH CHIẾN ĐẤU
Falkirk, ngày 22 Tháng 7, 1298
QUÂN ĐỘI ANH
Tổng chỉ huy – Vua Edward I
Kỵ binh
Lực lượng Vanguard
Chỉ huy: Bá tước của Lincoln (3 bá tước, 18 bannerets) 450 banneret, hiệp sĩ và lính kỵ binh
Chiến đoàn kỵ binh thứ hai
Chỉ huy: Anthony Bek, Giám mục Durham (1 giám mục, 2 bá tước 24 bannerets) 425 bannerets, hiệp sĩ và lính kỵ binh
Chiến đoàn kỵ binh thứ ba
Chỉ huy: vua Edward 1 (2 bá tước, 43 bannerets) 850 bannerets, hiệp sĩ và lính
100 lính bắn nỏ cưỡi ngựa
Chiến đoàn kỵ binh thứ tư
Chỉ huy: John de Warenne, Bá tước Surrey (4 Earls, 15 bannerets) 425 bannerets, hiệp sĩ và lính kỵ binh
Bộ binh
5.500 cung thủ trường cung
7.000 giáo binh
400 lính bắn nỏ
Tổng cộng: 2.250 kỵ binh, 12.900 bộ binh.
Lưu ý: tổng số kỵ binh có thể là chính xác nhưng không có hồ sơ xác nhận số lượng bộ binh được triệu tập cho chiến dịch đã thực sự đã tham gia.
Quân đội Scotland
Tổng chỉ huy – Sir William Wallace, người giám hộ của Scotland.
Kỵ binh
Chỉ huy bởi James Hight Steward. 500 hiệp sĩ và lính kỵ binh
Bộ binh
8.000 tay giáo tổ chức thành 4 schiltrons
1.500 cung thủ trường cung, chỉ huy bởi Sir John Stewart
Tổng số: 500 kỵ binh, 9.500 bộ binh.
Kỵ binh hạng nặng của Anh tấn công
Khi vua Edward thấy tình hình ông do dự và cho rằng chờ đội thì tốt hơn là tấn công ngay lập tức, họ cắm lều và chuẩn bị thức ăn cho người và ngựa của họ-họ đã không được ăn gì kể từ khi bắt đầu hành quấn từ Kirkliston từ buổi chiều hôm trước đó. Nhưng các chỉ huy và các cố vấn gần gũi của ông không có lý do gì để có sự chậm trễ này, họ cho rằng như vậy là không an toàn, ở giữa hai quân đội không có gì ngoài một dòng suối rất nhỏ. “
Có lẽ họ sợ rằng Scotland sẽ tấn công và đánh bại họ vào lúc họ không chuẩn bị. Họ thúc giục nhà vua hãy chủ động tấn công ngay lập tức để xóa sổ địch quân của họ bằng lực lượng kỵ binh nặng. “Thế cũng được” nhà vua nói và ông cầu mong sự thiếu kiên nhẫn của lực lượng kỵ binh sẽ được bảo vệ bởi Chúa Ba Ngôi. Wallace nhìn thấy chuyển động của các kỵ binh trên sườn đồi phía xa và biết rằng trận chiến sẽ nổ ra ngày hôm đó và ông quyết định động viên lòng can đảm của người của mình. Ông bước ra trước các hàng quân của mình và kêu gọi lòng can đảm của họ với một câu nói nổi tiếng của mình “Tôi đã mang các bạn đến đây để vui chơi, bây giờ các bạn hãy nhảy nếu có thể – I have brought you to the revel, now dance if you can. “
Kỵ binh Anh được tổ chức thành bốn chiến đoàn ( lữ đoàn), chúng tôi có thể chắc chắn về điều này, nhưng chúng tôi không biết liệu bộ binh được tổ chức đê chiến đấu độc lập hoặc tạo thành sự kết hợp kỵ binh và bộ binh. Trường hợp nay tôi nghiêng về ban đầu các kỵ binh tấn công mà không có sự hỗ trợ của bộ binh, sẽ mất một khoảng thời gian để bộ binh đến nơi vì nhiều người vẫn đi bộ dọc theo con đường từ Linlithgow. Các Bá tước của Lincoln và Hereford và Roger Bigod, Bá tước của Marshal dẫn đầu đội kỵ binh của lực lượng tiên phong của Anh. Chiến đoàn của họ đã dẫn đầu cuộc tấn công và tiếp cận vị trí của quân Scotland từ đỉnh Redding Muir và vượt qua Westquarter Burn trước khi đợt tiến quân của họ đã bị chặn bởi bãy lầy ở đáy thung lũng. Đợt tấn công này gây ra một số sự chậm trễ và nhầm lẫn trong khi các hiệp sĩ nôn nóng và loay hoay phi ngựa quanh phía tây cưa đầm lầy, nhưng sự kiện này đã không ảnh hưởng đến quá trình hoặc kết quả của trận đánh. Có thể có một con đường vòng để đội tiên phong của Anhúc tiến được tới chỗ các kỵ binh người Scotland lúc phía sau cạnh sườn của các schiltrons. Trong khi đó, chiến đoàn kỵ binh thứ hai được chỉ huy bởi Anthony Bek, Giám mục Durham cùng với các Bá tước củaDunbar và Angus đang tiến đến Westquarter Burn ở bên trái. Đạo quân này đã được cảnh báo về chiếc đầm lầy bởi sự nhầm lẫn của đội kỵ binh tiên phong và hướng về phía đông rồi phi ngựa vòng quanh chướng ngại vật. Các kỵ binh Anh háo hức để được trở thành những người đầu tiên tấn công vào kẻ thù, các kỵ sỹ của Bek đã xa các chiến đoàn kỵ binh hỗ trợ phía sau, do đó, vị giám mục đã ra lệnh cho các hiệp sĩ chính của ông rút lui kiềm chế và chờ đợi sự tiếp ứng của chiến đoàn thứ ba-đó là lực lượng của vua, thay vì tấn công một cách manh động. Vị giám mục chỉ có khoảng 400 tay thương trong chiến đoàn của mình, chiến đoàn của nhà vua có khoảng 800 tay thương, đông gấp đôi so với ba chiến đoàn còn lại và còn được tăng một đội kỵ sỹ bắn nỏ mạnh mẽ người Gascon, thậm chí nếu gộp đội quân của vị giám mục và lực lượng của nhà vua, có thể họ sẽ có một đội kỵ binh đông hơn bởi một schiltron đơn lẻ. Nhưng là một hiệp sỹ kiêu căng và tự phụ nên Raft Basset của Drayton đã không có ý định chờ đợi lực lượng của nhà vua và quở mắng vị giám mục vì sự cảnh giác của ông này “ Thưa giám mục, tôi không phải là hiệp sỹ của ngài để ngài dậy khôn cho chúng tôi về nghệ thuật chiến tranh, ông hãy ra lệnh cho binh sỹ đi, nào tiến lên” và ông ta nói tiếp “ nếu chúng ta tấn công bây giờ, hôm nay chúng ta sẽ thắng” những câu nói của Raft cũng là những suy nghĩ của phần đông các hiệp sỹ người Anh và kỷ luật bị suy giảm đã lan tỏa vào hàng ngũ kỵ binh Anh mặc dù họ là những nhà quý tộc và rất dũng cảm với một tinh thần vô song nhưng khả năng chiến đấu phối hợp của họ lại không quá tốt. Các hiệp sỹ của Bek lại nhảy lên ngựa, phớt lờ những hành động ngăn cản của ông ta ( vì ông này muốn tập trung đông quân hơn nữa ) và triển khai một đợt tấn công bất ngờ vào một đám đông đặc các giáo binh ở đoạn dốc trước mặt. Cùng lúc đó chiến đoàn kỵ binh của vị giám mục lao vào schiltron ở bên cánh trái của đội hình quân Scotland, chiến đoàn kỵ binh của Bá tước Lincoln tấn công vào phía sau cánh phải của họ. Kỵ binh Scotlandkhông phải là đối thủ và bị kỵ binh Anh tràn ngập rồi bị đẩy khỏi chiến trường một cách không đúng lúc. Họ bị đánh bại quá nhanh đến mức người ta nghi ngờ rằng họ đã bỏ chạy mà không chiến đấu. Tuy nhiên có một vài hiệp sỹ Scotland tìm cách đứng lẫn vào giữa đội hình schitron mà lúc này họ vẫn chiến đấu trong tư thế phòng ngự. Sau này có những lời kết tội về sự phản bội trong một phần các quý tộc chỉ huy kỵ binh của người Scotland và phần lờn những lời kết tội này nhằm vào nhà Comyn, nhưng không có bằng chứng cho thấy rằng họ là những người trung thành và dường như đây là lý do để sau này Robert Bruce đã tấn công và tiêu diệt họ như để loại bỏ những người không thể tin tưởng được
Guisborough đã không đề cập vai trò của chiến đoàn kỵ binh số 4 dưới sự chỉ huy của Bá tước Surrey, tuy nhiên chúng tôi biết rằng đơn vị này có tham chiến vì có danh sách các hiệp sỹ đã tử trận của vị bá tước này Aymer de Valence, một trong những người đi trong đoàn tùy tùng của Thomas và Maurice de Berkeley. Họ đã chiến đấu một cách dữ dội và bốn binh sỹ dưới quyền chỉ huy của Aymer cũng đã tử trận, thậm trí con ngựa quý của Maurice de Berkeley cũng bị giết chết, có vẻ như chiến đoàn thứ tư đã theo chân của đội quân tiên phong và chiến đấu ở phía Tây của bãi lầy. Sau khi đẩy được kỵ binh củaScotland ra xa thì lúc này các Hiệp sỹ Anh quay ra tấn công vào đội hình các cung thủ đối phương
Có vẻ như là các kỵ sỹ, có nhiều người đã vượt qua bãi lầy ở chính giữa đội hình ở phía trung tâm của quân Scotland, đã tiếp cận tới các schiltrons từ phía sườn hơn là từ phía trước. Với việc các cung thủ được triển khai ở giữa các schiltrons, thì tầm nhìn của họ vào các kỵ binh đang tiếp cận bị các giáo binh Scotland che lấp cho đến khi các hiệp sĩ Anh phi ngựa vòng tròn phía sau các schiltrons ở thời điểm cuối. Lanercost mô tả các kỵ binh di chuyển vòng quanh và tấn công bọc sườn họ từ cả hai phía và tài liệu của Guisborough cho thấy sự hỗn loạn và các cung thủ đã chiến đấu một cách tuyệt vọng và tập trung phòng thủ xung quanh xác của chỉ huy của họ, Sir John Stewart-người đã bị giết chết khi ông này ngã một cách tình cờ từ con ngựa của mình. Tài liệu cuả Scalacronica lại có ý kiến khác về vụ này việc này và nói rằng ông đã xuống ngựa `để chiến đấu trên bộ cùng với các thường binh và ông đã bị giết cùng với hơn mười ngàn thường binh Đây là điều không đúng sự thật vì quân Scotland không có đến 10,000 người ). Sau khi đã đánh bại các cung thủ, các hiệp sĩ Anh quay về phía các schiltrons của các giáo binh nhưng họ đã không thể vượt qua các bức tường dày đặc của các ngọn giáo. Những con ngựa của họ dễ bị tổn thương bởi các tay giáo Scotland mặc dù chúng đã được thiết giáp, và theo danh sách những con ngựa may mắn còn sống sót sau trận Falkirk, cho thấy có 111 con ngựa đã bị giết. Không có bản ghi tương ứng cho thương vong của các các kỵ sỹ, nhưng thương vong dường như không quá nặng nề, có hai bannerets đã thiệt mạng trong trận đánh. Trong chiến đoàn của nhà vua có hiệp sỹ Henry de Beaumont đã bị mất con ngựa của ông và ba người từ đoàn tùy tùng mười người của ông, Robert Clifford mất tám trong số 35 người và Bá tước của Lancaster mất 11 trong đoàn tùy tùng lớn gồm 45 người của mình. Đoàn tùy tùng 12 hiệp sĩ của Ralph Basset – Drayton, bất chấp sự xấc láo của ông ta đã không bị tổn thất. Ông này cũng như hầu hết các kỵ sỹ khác, có thể là đã phi ngựa vòng tròn xung quanh các schiltrons để thăm dò một điểm yếu của đối phương. Một số con ngựa bất chấp rằng đã bị thúc bằng đinh thúc ngựa đến mức nào đi chăng nữa cũng không chịu xông vào đầu các ngọn giáo. Ngựa là loại động vật thông minh, nhạy cảm chứ không phải là máy móc, chúng chọn cách chạy luồn lách giữa các schilton hơn là lao thẳng vào để tử sát. Hàng loạt những phát tên được bắn từ các tay kỵ sỹ bắn nỏ vào các khối giáo binh Scotland đang bất động nhưng những cung thủ của họ, những người còn sống sót và ẩn náu trong các schiltrons, đã nhanh tróng bắn trả và cầm chân được các kỵ sỹ Anh. Lúc này thì số lượng kỵ binh Anh lại ít hơn nhiều so với các giáo binh và nếu không có sự hỗ trợ của bộ binh thì họ sẽ không thể đánh bại được người Scotland. Cũng có thể là ngườiScotland lúc này đã mất hết các kỵ binh và hầu hết các cung thủ của họ, đã gây nhiều thiệt hại cho kỵ binh Anh. Tình huống lúc này đang bị bế tắc. Kỵ binh Anh đã không bị tấn công quá dữ dội, thương vong của họ khá nhẹ và họ đã thành công trong việc đẩy lui kỵ binh Scotland và tiêu diệt lực lượng cung thủ của họ. Các schiltrons đã bị cô lập và dường như bất động và đang chờ đợi những gì có vẻ như là không thể tránh khỏi sẽ xảy ra.
Người Scotland vẫn đứng vững một khoảng thời gian ngắn trước khi các cuộc tấn công của bộ binh Anh nổ ra. Họ đã tiến lên và tấn công vào các kỵ sỹ Anh, những người lúc này đang rút lui để tái tổ chức lại đội hình của họ. Các đội hình schiltrons của các giáo binh đã tạo nên một mục tiêu dễ dàng cho các cung thủ của Edward, những người đã tung ra một cơn bão các mũi tên và mũi nỏ làm tiêu hao hàng ngũ phía trước của quân Scotland. Ngoài các cung thủ, Guisborough cho chúng ta biết «có một số lượng lớn đá tròn được ném vào họ họ ” Chúng tôi không thể chắc chắn rằng có những đội quân Slinger-quẩy đá chuyên nghiệp hoặc đơn giản chỉ là binh sỹ Anh nảy ra sáng kiến dùng đá để thêm vào với các trận mưa tên bắn làm cho người Scotland bị thương vong một cách khủng khiếp. Dần dần các schiltrons, không còn có thể trả bắn trả được nữa và họ bắt đầu do dự, mối liên kết giữa họ bắt đầu giảm và những người đứng bên ngoài đã bị buộc phải lùi về phía sau. Theo một sử gia người Anh thì họ bị bắn rụng như sung. Khi những cơn mưa tên chết chóc làm công việc của chúng, các lỗ hổng đã xuất hiện trong các schiltrons và các hiệp sĩ Anh đã phát hiện ra cơ hội của họ và đã tiến hành đột phá ở giữa đội hình của họ và đốn ngã những tay giáo binh ở những chỗ gần họ nhất. Mặc dù Guisborough không đưa ra những chi tiết hơn nữa về hoạt động của bộ binh Anh, nhưng người ta vẫn cho rằng một mình kỵ binh không thể đánh bại hoàn toàn quân Scotland, những người lúc đó vẫn đông hơn họ. Bộ binh Anh lúc này cũng mạnh tương đương bộ binh Scotland có thể cũng bao gồm một lực lượng giáo binh với số lượng lớn, là những người đã đóng một phần vai trò trong giai đoạn cuối cùng của trận chiến. Một bằng chứng cho thấy có sự tham gia của bộ binh Anh được cung cấp bởi danh sách của những con ngựa, trong đó ghi lại rằng những con ngựa của John de Merk và William Felton, cả hai viên chỉ huy của bộ binh đều đã thiệt mạng trong trận chiến. Khi toàn bộ sức mạnh của quân đội Anh được tung ra để tấn công vào đội hình của quân Scotland, họ đã bắt đầu bị vỡ trận và các giáo binh Scotland bắt đầu lùi lại phía sau, hàng trăm người bị đốn gục khi họ bỏ trốn về hướng rừng CallendarWood. Thương vong của người Anh được ghi lại chỉ bởi Brian de Jay-người đứng đầu tu viện dòng Đền và John de Sawtrey- người đứng đầu tu viện dòng Đền ở Scotland. William Wallace cùng với một số tùy tùng thân cận của ông thoát khỏi thảm họa và chạy vào rừng, có thể họ đã trú ẩn tạm thời ở rừng Torwood, cách năm dặm về phía bắc của Falkirk. Khi người Anh đến được Stirling vào ngày 26 tháng 7 họ chỉ tìm thấy một tòa nhà duy nhất còn lại, đó là ngôi nhà của các tu sĩ dòng Dominican, nơi mà nhà vua Anh chiếm nó làm trụ sở; Wallace đã cho phá hủy rất nhiều ngôi nhà trong thành phố rước khi ông ta rút lui về phía bắc từ Torwood.
Cái giá của sự thất bại
Các sử gia đương thời đưa ra con số thiệt hại về nhân sự lớn đến mức kỷ lục cho người Scotland; Ước tính của Scalacronica là hơn 10.000 người bị giết là quá cường điệu, nhưng cũng còn có cơ sở. Số của Guisborough là 56.000 người và của Walsingham là 60.000 người chết được cho là quá lố bịch và vượt xa số lượng quân Scotland có thể có mặt trên chiến trường cho dù chúng có thể phản ánh quy mô của thảm họa và tỷ lệ thương vong cao. Cũng có nguồn tin rằng người Scotland bị giết hơn 2.000 bị thương vong cũng khoảng từng đó và có một vài nghìn người tẩu thoát, chính vì vậy mà miền Bắc Scotland vẫn nằm trong tay họ
Về phía quân Anh có đến hơn 1.000 kỵ binh bị giết, cộng với số bộ binh bị giết trong trận đánh thì họ cũng phải tổn thất đến 2.000 người
Hậu quả của trận Falkird
Wallace sau trận Falkirk
Wallace đã từ bỏ chức vụ người giám hộ sau trận Falkirk, vị trí của ông và sự hỗ trợ của giới quý tộc phụ thuộc vào sự thành công về quân sự của ông và sau thất bại này họ nhanh chóng chối bỏ ông. Uy thế của ông đã bị sụp đổ và ông không thể có cơ hội thứ hai. Vì không có một vị bá tước có thế lực nào hoặc một người có vị thế nổi bật trong tầng lớp quý tộc Scotland ủng hộ, Wallace đã trở thành cái bóng của chính mình trong lịch sử. Không có các tài liệu mô tả rõ ràng về hoạt động của Wallace trong khoảng 7 năm trời từ sau trận Falkirk cho đến lúc ông bị bắt và hành hình. Trong năm 1299 ông đã vượt biển đến triều đình Pháp cho một sứ mạng ngoại giao, có bằng chứng cho thấy là ông tiếp tục ủng hộ vương quyền của vua Balliol. Ông rời Pháp đến Roma để gặp Giáo Hoàng với những lá thư giới thiệu của vua Philip IV. Năm 1030 ông quay trở về Scotland và ở đây ông lại có những tranh cãi gay gắt ( với tầng lớp quý tộc) mặc dù ông vẫn là một trong số những nhà lãnh đạo chủ chiến với người Anh.
Những hoạt động cuối cùng của chiến dịch năm 1298
Edward vẫn ở lại lâu đài Stirling trong khoảng 2 tuần sau trận đánh. Bất chấp một điều đây là một thất bại trên quy mô lớn của người Scotland, nó đã không phải là một trận đánh có ý nghĩa quyết định. Người Scotland đã không chịu khuất phục, và lúc này họ chiến đấu với cái lưng dựa vào tường ( ý nói là họ vẫn có hy vọng thắng lợi ). Chẳng phải đợi đến 16 năm nữa thì người Scot mơi dám chiến đấu với người Anh trong một trận đánh mở (trận Bannockburn ). Vùng phía Bắc của lưu vực sông Forth vẫn nằm trong tay người Scotland, mặc dù các toán quân đột kích của Edward I vẫn vượt ranh giới và tổ chức đốt phá vùng nông thôn phía bắc của Stirling và bởi vì những ủng hộ của nhà MacDuff cho Wallace mà quân Anh đã tiến hành hành quân đốt phá từ Fife đến tận St Andrews. Lâu đài Stirling Castle lại một lần nữa rơi vào tay quân Anh và phải đến năm 1299 quân Scotland mới chiếm lại được tòa lâu đài này. Quân Anh đột kích vào Perth nhưng quân Scotland đã tự đốt phá và rời bỏ thành phố trước khi quân Anh đến nơi. Người Anh vẫn phải đối mặt với vấn đề về cung ứng lương thực và Edward vẫn có những bất hòa với các quý tộc của ông ta và họ tiếp tục gây ra những khó khăn cho việc kết thúc chinh phục Scotland. Bá tước Marshal và Bá tước Hereford đã quay về Anh với những đội quân phong kiến của họ và họ có quyền làm như vậy. Việc này làm cho Edward không có lựa chọn nào cả là ngoài cách là rút quân rời khỏi Scotland, lâu đài Stirling Bridge được tăng cường phòng thủ và tăng cường quân đồn trú trước khi ông ta rời về phía Nam bằng con đường đi từ Falkirk đến Torphichen. Ông ta đã ở Glencorse-phía nam của Edinburgh vào ngày 22 tháng 8. Nhà vua rẽ về phía Tây và tại thời điểm này ông hành quân đến Ayr với ý định là giải quyết những người nổi loạn ở phía Tây nam. Ông đến được thành phố một tuần sau đó nhưng lại thấy rằng nó trống rỗng và bị đốt cháy theo lệnh của Robert Bruce. Điều đó có nghĩa là người Anh không thể sử dụng nó được nữa. Edward mong muốn rằng có tầu trở lương thực cho ông ta từ Irland sẽ cập cảng Ayr, nhưng họ đã không đến được và Guisborough đã nói rằng “nạn đói trong doanh trại kéo dài trong vòng 15 ngày” Quân Anh đầy tràn buồn bã và thất vọng đã quay về phía nam và đi theo một con đường mòn trên vùng đồng hoang khô cằn gần thành phố Nithsdale, sau đó vào Lochmaben nơi mà lâu đài của Robert Bruce đã bị công phá. Edward cho đóng quân tại lâu đài này và dành thời gian để củng cố hệ thống phòng thủ của cả Lochmaben và Dumfries ở gần đó vì ông không có ý định từ bỏ phần đất của Scotland nằm dưới sự kiểm soát của ông. Robert Clifford được để lại để phụ trách phòng thủ Lochmaben trong khi Edward chuyển tới Carlisle và đến đó vào ngày 9 tháng Chín. Thiệt hại về ngựa của quân Anh ở Scotland là cực kỳ cao và chiến dịch tám tuần này là vô cùng tốn. Edward đã giành được một chiến thắng tuyệt vời, nhưng Scotland vẫn không chịu khuất phục và chiến dịch đã mang lại kết quả ít ỏi. Tại lâu đài Carlisle Edward phân chia các vùng đất tịch thu từ những quý tộc Scotland đã chống lại ông trong trận chiến này cho những người theo ông như một phần thưởng cho sự phục vụ của họ. Phần lớn số tài sản này vẫn còn trong tay người Scotland và các quý tộc Anh-những người được trao phần thưởng, như Edward mong muốn, lại sẵn sàng phục vụ ông một lần nữa ở Scotland để chiếm được tài sản mà họ sở hữu. Lâu đài ở Jedburgh vẫn còn nằm trong tay ngươiScotland và Edward đã tiến hành một cuộc tiêu khiển khi giám sát công cuộc bao vây lâu đài này trước khi trở về phía nam vào cuối tháng 10.
Đất nước Scotland năm 1298-1307
Cuối năm 1298 Robert Bruce, Bá tước của Carrick và John Comyn của Badenoch đã được bầu làm đồng giám hộ của Scotland nhưng thỏa thuận này chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn và chức danh người giám hộ lại được trao cho người thừa kế của các thủ lĩnh đầu và nhà Comyn luôn được ưu tiên. Mặc dù có sự chia rẽ trong chính bản thân giới lãnh đạo và trong vương quốc cuộc đấu tranh chống lại sự chiếm đóng Anh quốc tiếp tục không suy giảm nhân danh nhà vua John Balliol. Chỉ một phần của đất nước Scotland vẫn còn nằm dưới sự cai trị của vương quốc Anh như một phần của Dumfriesshire và phía đông nam của Scotland, nơi người Anh vẫn nắm giữ được nhiều tòa lâu đài hơn so với các nơi khác.
Vào cuối năm 1298 trong khi vẫn còn ở phía bắc, Edward I ban hành một trát để tập hợp quân đội cho chiến dịch năm 1299 nhưng điều này là không thể thực hiện được cho đến cho đến mùa hè năm 1300 khi ông trở về Scotland. Các chiến dịch của năm đó nhằm làm giảm sức ép mà người Scotland đã tạo ra để nhằm tái lập lại quyền kiểm soát của họ ở phía tây-nam của Scotland. Lâu đài Caerlaveroc đã bị bao vây và thất thủ, sau đó nhà vua và tiến vào Galloway đối trận với một đội quân người Scotland được chỉ huy bởi Bá tước của Buchan và John Comyn của Badenoch trên Cree sông. Trong trận chiến tiếp theo các kỵ binh Scotland-phần chính của quân đội của họ, đã lại một lần nữa bị đánh bại. Edward đã cảm thấy hối tiếc vì ông không có đội quân xứ Wales của mình để truy kích những kẻ đào tẩu vào vùng đất hoang dã nơi họ bỏ trốn và lánh nạn. Năm 1301 Edward I đã lại tiếp tục phát động một chiến dịch ở Scotland với ý định chiếm và giữ đường biên giới tự nhiên hình thành được hình thành từ hai thị trấn Tweeddale và Clydesdale. Quân Anh xâm lược Scotland theo hai đạo quân, đạo quân lớn hơn dưới sự chỉ huy của nhà vua tiến từ Berwick. Đạo quân nhỏ hơn dưới sự chỉ huy của Edward của Caernarvon lúc này là Hoàng tử xứ Wales, tiến vào từ phía tây nam để mà-theo cách nói của cha ông “ để lòng tự hào của người Scotland sẽ ngã gục dưới chân của con trai ông” Kế hoạch là hai đạo quân sẽ dự định tiến theo hai gọng kìm và gặp nhau tại Inverkip. Tuy nhiên do sự kháng cự mạnh mẽ của người Scotland kết hợp với đào ngũ hàng loạt trong lực lượng bộ binh đã làm cho vị hoàng tử này buộc phải rút quân về Linlithgow nơi mà cha của ông ( Edward I ) đã thiết lập sở chỉ huy mùa đông của mình. Trong tháng 1 năm 1302 Edward I đồng ý một thỏa thuận ngừng bắn trong 9 tháng chín với Scotland và khi hòa ước này hết hạn ông ta lại triệu tập và tập hợp quân đội trong tháng 5 năm 1303. Trong khi chờ đợi lực lượng chính, John de Segrave-trung úy của ông tại Scotland đã tiến hành tấn công vào một phần Lothian cho tới phía Tây Edinburgh vốn đang nằm trong tay người Scogtland. Ngày 24 tháng 2 năm 1303 ở gần Roslin các chiến đoàn tuyến đầu của Segraye vốn có sự phối hợp quá kém đã bị tấn công bất ngờ và tháo chạy với số thương vong nghiêm trọng bởi lực lượng lực lượng kỵ binh Scotland, trong số các chỉ huy Scotland có cả William Wallace. Segrave bị thương và bị bắt làm tù binh, mặc dù chiến đoàn thứ hai đến kịp thời gian giải cứu cho ông ta, trận đánh này đã gần như là một thảm họa lớn với người Anh và người Scotland đã tấn công bất thình lình vào đúng chỗ trọng yếu của quân Anh.
Kết thúc các chiến dịch năm 1303-1304 ở Scotland
Edward I lại phát động một cuộc tấn công từ Roxburgh trong tháng 6 năm 1303 với một lực lượng kỵ binh mạnh mẽ và khoảng 7.000 bộ binh nhằm để kết thúc sự kháng cự của quân Scotland. Các chiến dịch trong mùa hè năm trước đó đã không khuất phục được những người Scotland cứng đầu. Thời gian này nhà vua có ý định giữ một đội quân thường trực trong vùng này quanh năm, như ông đã làm khi ông bắt người xứ Wales quỳ gối và không cho phép người Scotland có thời gian nghỉ ngơi. Với một chi phí rất lớn, ba chiếc cầu phao thô sơ đã được chế tạo và vận chuyển bởi một hạm đội gồm 27 chiếc tàu. Edward tiến vào vàoScotland một cách khá dễ dàng, ở các bên sông ông cho đốt cháy thôn ấp, thị xã, trang trại và kho lương …một cách không thương tiếc.
Vị bá tước của Ulster với đội quân đến từ Ireland đã chiếm được lâu đài Rothesay và Inverkip ở phía tây, sau đó quay sang cướp bóc vùng nông thôn xung quanh. Người Scotland đã không thể có nổi một đội quân đủ lớn để đối mặt với người Anh trong một trận chiến mở, họ chỉ có thể không ngừng tập kích vào hậu quân của đối phương. Các cây cầu phao có lẽ được đặt tại đầu nguồn sông Forth vào tháng 6, cho phép quân đội Anh vượt qua lâu đài Stirling Castle và hành quân về phía Bắc đến Perth và sau đó đến Kinloss trên Firth Moray, nơi nhà vua nhận được sự quy hàng của quý tộc Scotland ở phía Bắc. Nhà vua tiếp tục hành quân theo một tuyến đường vòng qua những ngọn núi ở Dunfermline, nơi ông đã trải qua những tháng mùa đông của năm 1303-04. Edward I vẫn có một đội quân lớn trong vùng này và chiến đấu tiếp tục trong suốt mùa đông; một lực lượng đột kích trên 1.000 binh sỹ trang bị mạnh xâm nhập vào vùng Lennox tiến xa đến tận Drymen; John de Botetourt và John de St John đột kích vào vùng Galloway với một lực lượng mạnh gồm với bốn banneret, 141 kỵ binh và 2736 bộ binh. Các đạo quân được chỉ huy bởi Segrave, Clifford và Latimer đã tấn công bất ngờ và đẩy lui một lực lượng Scotland được chỉ huy bởi William Wallace và Simon Fraser ở Happrew thuộc vùng Tweeddale.
Các đội quân nhỏ của người Scotland được chỉ huy bởi John Comyn của Badenoch tiến hành nhiều cuộc đột kích vào người Anh từ căn cứ của họ ở vùng rừng núi, nhưng tình hình của họ đã trở nên tuyệt vọng và họ nhận ra rằng thất bại có thể mang đến sự hủy hoại và chấm dứt quyền lực của nhà Comyn ở Scotland, các địa chủ của vùng Badenoch đã đưa ra các điều kiện thương thuyết hòa bình. Edward chấp nhận sự đầu hàng ( của nhà Comyn ) một cách khoan dung. Đổi lại họ được tự do theo luật cũ của họ và không bị tịch thu đất đai. Một vài phiến quân nổi tiếng bị giam giữ riêng biệt hoặc bị trục xuất một cách tạm thời, trong số đó có John de Soules-một trong những người giám hộ, người ưa thích sống lưu vong lâu dài tại Pháp. Không có điều khoản hòa bình nào được đưa ra cho William Wallace-kẻ thù của nhà vua, người vẫn sống một cách ngang tàng bất chấp mọi nỗ lực của Edward bắt giữ ông ta. Những gì mà ông có thể làm phản ánh sự hỗ trợ của đại chúng nhân dân mà ông vẫn có thể dựa vào.
Cuộc bao vây lâu đài Stirling Castle
William Oliphant, quan trấn thủ của lâu đài Stirling ( phe Scotland) gửi một tin nhắn qua Edward tới John de Soules để hỏi về các điều kiện có thể có để đầu hàng. Nhà vua từ chối yêu cầu này và trong ngày 22 tháng 4 cuộc vây hãm tòa lâu đài đã được bắt đầu một cách nghiêm túc. Đây vừa là một sự kiện xã hội và quân sự và nhà vua đã có một cửa sổ hướng đông được xây dựng trong tòa cung điện của ông để những người phụ nữ của triều đình có một điểm thuận lợi để ngắm cảnh. Hầu hết các phần của các khẩu pháo công thành được lắp ráp tại Scotland rồi được vận chuyển đến để tấn công vào các bức tường phòng thủ, nhưng đơn vị đồn trú vẫn đứng vững bất chấp sự quyết liệt của cuộc bắn phá này, mặc dù cuối cùng thì họ vẫn bị buộc phải đầu hàng vô điều kiện vì hết lương thực. Một câu chuyện khá hài hước được thêm vào sự kiện này bởi chính nhà vua, người có chiếc “Warwolf “- một chiếc máy công thành rất mạnh mới được chế tạo tại đó với một chi phí rất lớn những lại chưa được sử dụng. Nhà vua nhấn mạnh rằng cuộc bao vây chưa thể kết thúc ( mặc dù quân đồn trú đã xin hàng) và quân lính chưa được vào lâu đài “ cho đến khi nó-tòa lâu đài lại bị tấn công bởi chiếc “Warwolf “ và cho đến khi quân phòng thủ nhận ra rằng nó – chiếc “Warwolf “ là chiếc máy công thành mạnh mẽ nhất”
Bắt giữ và hành quyết William Wallace
Đến mùa hè 1304 về cơ bản thì Scotland đã nằm trong tay của Ed ward, các tòa lâu đài đã được lực lượng của ông đồn trú và quyền kiểm soát đã được phục hồi. Nhà vua rời chở về nước Anh với quân đội của mình và các nhà quản trị của Hoàng gia ( royal administration ) cũng trở về York, Edward bổ nhiệm người em họ của ông-John của Brittany, Bá tước của Richmond làm trung uý của ông (như vậy chức trung uý ở đây tựa như phó vương, hoặc đại diện cho nhà vua) ở Scotland và với sự nhạy bén chính trị ông đã sử dụng chính người Scotland để quản lý đất nước này cho ông ( dùng người Scotland để trị người Scotland ). Wallace là vẫn còn tự do nhưng tấm lưới đã được quây kín và nhà vua ra lệnh cho các quý tộc Scotland phải “ Gây sức ép … để nắm bắt Sir William Wallace và bàn giao ông ta cho nhà vua-người sẽ giám sát xem họ tuân thủ mệnh lệnh của ông như thế nào và rồi ông ta sẽ trao nhiều ân huệ nhất cho bất cứ người nào bắt sống được Wallace để … chuộc tội về những việc làm trong quá khứ ( chống lại ông ta ). “ Wallace đã bị bắt vào ngày 03 tháng 8 năm 1305 bởi một đồng bào người Scotland của ông-Sir John Menteith. Ông được đưa tới London và đã dẫn đi, đeo vòng nguyệt quế để bị chế diễu cùng với các thẩm phán vốn được bổ nhiệm để xét xử ông tại Westminster Hall giữa một đám đông lớn. Bản án cũng như là phiên toà chỉ mang tính hình thức và Wallace đã bị tra tấn một cách cực kỳ man rợ. Ông đã bị kéo lê qua các đường phố đến Smithfield. Ở đó, ông bị treo cổ, rồi lại được thả xuống trong khi vẫn còn sống và bị mổ bụng, ruột của ông bị đốt cháy trước mặt ông bởi những tay đao phủ. Cuối cùng ông đã bị chặt đầu và chiếc đầu của ông được trưng bày ở trên cây cầu London Bridge. Phần còn lại của cơ thể của ông bị cắt ra làm tư để trưng bày tại Newcastle phía-Tyne, Berwick, Stirling và Perth.
Cái chết của Edward I và công cuộc khôi phục độc lập cho Scotland dưới sự lãnh đạo của Robert Bruce
Đối với Edward I thì vấn đề ở Scotland dường như cuối cùng đã được giải quyết. Tuy nhiên, vào ngày 10 tháng 2 năm 1306 Robert Bruce đã ám sát John “the Red” thành viên nhà Comyn của Badenoch trong nhà thờ Greyfriars ở Dumfries và tự phong làm vua của Scotland. Ngày 07 tháng 7 năm 1307 Edward I qua đời ở Burgh-by-Sands trên bờ biển Solway trên đường tiến về phía bắc một lần nữa để bắt người Scotland quy hàng. Ông được kế vị bởi người con trai của ông-Edward của Caernarvon, người đã lên ngôi vua như là Edward II, nhưng những mối quan tâm của ông vua mới này lại không ở Scotland và Bruce đã tăng cường sức ép để thiết lập một vùng lãnh thổ nằm trong sự kiểm của mình, ông đã cố gắng đánh bại các đối thủ và dành lấy vương quốc Scotland từ sự đô hộ lỏng lẻo của người Anh (kể từ thời Edward II ).
Trận bannockburn năm 1314
Theo dòng lịch sử
Năm 1274
Robert Bruce được sinh ra ở Turnberry Castle, Ayrshire.
Năm 1286
Cái chết của Alexander III-vua của Scotland. Hậu duệ trực tiếp duy nhất của ông là Margaret-Maid của Na Uy, một em bé gái ba tuổi.
Năm 1290
Maid của Na Uy chết ngay sau khi cô đến Orkney, gây ra những cuộc khủng hoảng liên tiếp. Vua Edward I của Anh được mời đến để phân xử giữa các ‘đối thủ’tranh giành vương miện của Scotland.
Năm 1292
John Balliol được lên ngôi vua của Scotland và bày tỏ sự quy phục với Edward I thay mặt vương quốc của mình.
Năm 1296
Chiến tranh giữa Anh và Scotland bắt đầu.
Tháng ba: Edward I bao vây và chiếm thị trấn Berwick với rất nhiều vụ thảm sát tàn bạo.
Tháng Tư: Người Scotland thảm bại tại trận Dunbar. Nhiều lãnh chúa Scotland bị bỏ tù ở phía nam nước Anh.
John Balliol quy hàng và và từbỏ vương quốc của mình trước Edward I.
Năm 1297
11 tháng 9: William Wallace và Andrew Morayđánh bại quân Anh tại trận chiến Stirling Bridge.
Năm 1298
Wallace được đề cử làm người Giám hộ Scotland.
22 tháng 7: Quân Scotland bị đánh bại bởi Edward I tại trận Falkirt, Wallace từ bỏ chức vụ người Giám hộ
Năm 1304
Stirling Castle bị chiếm bởi Edward I.
Năm 1305
William Wallace bắt.
23 tháng 8: Wallace bị treo cổ, kéo và chặt làm tư ở London.
Năm 1306
Ngày 10 tháng 2: John Comyn ‘The Red’ bị sát hại bởi Robert Bruce trong nhà thờ Greyfriars, Dumfries.
Ngày 25 tháng 3: Robert Bruce lên ngôi vua của Scotland ở Scone.
Ngày 19 tháng 6: Trận Methven. Bruce bị đánh bại bởi Bá tước Pembroke.
Ngày 11 tháng 8: Bruce bị đánh bại tại trận Dalry bởi John MacDougal của Argyll.
Năm 1307
Dường như: Bruce thắng trận thắng quan trọng đầu tiên của ông đối với Bá tước
Pembroke ở Hill Loudon.
Ngày 7 tháng 7: Edward I qua đời ở Burgh-by-Sands trên bờ biển Solway.
Năm 1308
Trận Herschip của Buchan, Bruce tàn phá các vùng đất của Bá tước Buchan và những người ủng hộ ông này sau chiến thắng của ông ( Bruce ) tại Inverurie.
Tháng 8: Bruce đánh bại John of Lorn tại đèo Brander.
Năm 1310
Tháng 9: Edward II xâm nhập Scotland.
Năm 1311
Các chiến dịch của Edward II tại Scotland từ năm 1310-11 được chứng minh là vô ích và ông ngày phait rút quân vào tháng Tám.
Năm 1312
Tháng 8: Bruce cuộc tấn công miền Bắc nước Anh.
Năm 1313
Tháng Giêng: Bruce chiếm thành phố Perth.
Tháng Hai: Dumfries thất thủ
Tháng Năm: Robert Bruce chiếm Isle of Mari.
Năm 1314
Người Scotland đã tái chiếm được các thành phố Roxburgh và Edinburgh. Chỉ còn có Bothwell và Stirling vẫn còn trong tay người Anh.
Ngày 17 tháng 6: Quân Anh vượt qua con sông Tweed tại Wark và Coldstream. Ngày 22 tháng 6: quân Anh hành quân đến Falkirk. Ngày 23-ngày 24 tháng 6: Trận Bannockburn. quân đội Anh của Edward II đã bị đánh bại thảm khốc bởi quân đội Scotland dưới sự chỉ huy của Robert Bruce.
Ngày 25 tháng 6: Edward II bỏ trốn đến Dunbar và lên tàu từ Bamburgh để đi Northumberland.
Tháng 11: Tại Cambuskennteth Quốc-Hội Scotland rút lại những đòi hỏi về ngai vàng của đối thủ của Robert Bruce.
Năm 1315 Edward Bruce ( Em trai của Robert Bruce ) tự phong làm vua Irland và xâm nhập đất nước này để ngăn chặn sự chi viện về quân sự của đất nước này cho Anh quốc.
Tháng bảy: Cuộc vây hãm của Carlisle.
Năm 1318 Tháng Tư: Berwick rơi vào tay Scotland. Edward Bruce bị giết chết tại trận chiến Faughart gần Dundalk tại Ireland.
Năm 1319 Edward II triển khai bao vây Berwick. Douglas và Moray xâm chiếm nước Anh. Hiến Chương Myton.
Năm 1320 Tuyên ngôn Arbroath.
Năm 1322 16 tháng 3: Trận Boroughbridge.
Tháng 9: Chuyến chinh phạt Scotland của Edward II cuối cùng đã trở thành một thất bại.
Ngày 20 tháng 10: Trận Byland Old.
Năm 1327
21 Tháng 9: Edward II bị lật đổ và bị giết chết tại Berkeley Castle. Con trai của ông được đăng quang như là Edward III.
Năm 1328 Hiệp ước Edinburgh kết thúc giai đoạn này của cuộc chiến tranh Scotland.
Năm 1329 Robert Bruce chết thọ 55 tuổi
Năm 1330 Sir James Douglas-Tốt lành bị giết chết trong trận chiến chống lại Người Moor ở Tây Ban Nha.
Năm 1332 Thomas Randolph-Bá tước Moray từ trần
Robert Bruce có nguồn gốc tổ tiên từ Adam Bruce, người đã đến nước Anh cùng với William the Conqueror, đến Lodver vào thế kỷ thứ 10 và trở thành Bá tước người Bắc Âu của Orkney. Người con trai cả của Adam là người đầu tiên được đặt tên là Robert Bruce và ông trở thành một trong những quý tộc lớn ở miền bắc nước Anh, với những vùng đất rộng rãi ở Yorkshire. Trong năm 1124 David I-vị lãnh chúa phong kiến của ông ở Anh, đã được thừa kế ngôi vuaScotland và đã lên ngôi. Ông ta muốn chuyển đổi Scotland từ một xã hội kiểu Celtic lạc hậu thành một nhà nước châu Âu hiện đại và khuyến khích những người Anglo-Norman định cư ở biên giới phía bắc. Một trong những hành động đầu tiên của ông là cấp cho chư hầu của mình-Robert Bruce một bất động sản rất lớn là lãnh địa Annandale. Do đó, nhà Bruce đã trở thành một trong những gia đình hùng mạnh ở Scotland.
Lòng trung thành của Robert Bruce trong những năm cho đến năm 1306 là hay chuyển dịch và không chắc chắn. Cùng với nhiều quý tộc Scotland khác, ông đã đứng về phe Edward I trong cuộc chiến năm 1296. lập trường Robert của Bruce được quyết định một phần bởi các lực lượng kháng chiến yêu nước chống lại Edward được lãnh đạo bởi nhà Comyn-đối thủ quyết liệt của Bruce về ngai vàng ở Scotland, và bởi vì Bruce đã thấy Edward là hy vọng tốt nhất của ông trong việc chiếm lại vương quyền mà ông tin rằng nó phải thuộc về ông ta. Tuy nhiên, trong năm 1298 Robert Bruce, có lẽ không hoàn toàn vì động cơ yêu nước, đã trở thành đồng Giám hộ của Scotland cùng với John Comyn “ the Red” khi Wallace từ chức giám hộ sau thảm họa của trận Falkirk: Sau những bất đồng đầy bạo lực với Comyn, Bruce lại quay ra tỏ lòng trung thành với người Anh và được tha tội bởi Edward I trong đầu năm 1302.
Ngày 10 tháng 2 năm 1306 Robert Bruce đã tổ chức cuộc họp với Comyn tại Nhà thờ Greyfriats ở Dumfries. Cuộc họp đã biến thành bạo lực và Bruce đâm đối thủ của mình, làm cho ông kia bị chảy máu ở bên cạnh bàn thờ sau đó thủ hạ của Bruce đã kết thúc tính mạng của ông này. Hành động giết người phạm thánh đã làm cho Bruce không còn lựa chọn; ông đã bị đặt ra ngoài vòng pháp luật bởi Edward I và bị tuyệt thông bởi Đức Giáo Hoàng, đòi hỏi về ngai vàng Scotland của như ông như là đời sau của David I. Với sự hỗ trợ từ một phần của Giáo Hội và quý tộc Scotland, ông đăng quang, bất chấp việc không có Hòn đá lên ngôi-Stone of Destiny, tại Scone ngày 25 tháng Ba. Nhiều lãnh chúa Scotland đã phản đối Bruce. Nhà Commyn và các đồng minh của họ thề sẽ trả thù và nhiều người khác đã không làm gì để giúp ông cả. Edward I đã thề rằng ông ta sẽ bắt Scotland phải quỳ gối. Trong tháng 6 năm 1306trung úy của ông ta là Aymer de Valence đã tấn công bất ngờ và đánh tan quân đội của Robert Bruce tại Methven gần Perth. Tệ hơn nữa sau đó là những người chị em của ông, con gái và Elizabeth-nữ hoàng của ông đã bị bắt giữ và chuyển giao cho Edward 1. Neil- anh trai của Bruce đã bị bắt sau sự sụp đổ của lâu đài Kildrtnnauv Castle và bị hành hình một cách tàn nhẫn ở Berwick. Đến cuối tháng 6 vị trí của Bruce đã bị sụp đổ, những người ủng hộ bị tan tác và người Anh gọi ông một cách chế giễu là “King Hobbe” như là một kẻ đào tẩu. Tuy nhiên ông thoát khỏi sự truy đuổi nhắm vào mình và lấy một con thuyền đến hòn đảo nhỏ Rathlin ở ngoài khơi bờ biển Ulster, nơi ông có một khoảng không gian để nghỉ ngơi và thiết lập và tổ chức lại các nguồn lực của mình.
Vào đầu năm 1307 Robert Bruce và những người theo ông mạo hiểm quay trở lại Scotland. Ông đã đổ bộ xuống gần Turnberry Castle ở vùng Ayrshire và biến mất vào trong các cánh đồng hoang dã và vùng đồng cỏ của Carrick. Trong lúc đó hai người em trai của Bruce-Thomas và Alexander khởi hành đi Galloway với một toán quân viễn chinh nhằm mục đích cung cấp hỗ trợ cho Robert Bruce bằng việc quấy nhiễu đường liên lạc của quân Anh ở đoạn giữa Carlisle vàAyr, nhưng họ đã bị đánh bại một cách thảm khốc. Khi quân Scotland đổ bộ tại Loch Ryan họ đã bị phục kích bởi nhà MacDowells của Galloway, đối thủ quyết liệt của nhà Bruce và bị phân tán trong một trận đánh đẫm máu. Thomas và Alexander Bruce đã bị thương nặng và được mang đến Carlisle nơi Edward I đã treo cổ và đặt đầu rồi chặt đầu họ rồi trưng bày ở cổng của thành phố. Edward đã đổ quân vào miền nam Scotland, nhưng những người ủng hộ Robert Bruce ngày càng tăng và trong một loạt các cuộc đụng độ tại Glen Irool và London Hill, vua Robert đã thu được một số thành công khi chống lại người Anh. Ngày 07 tháng 7 năm 1307 Edward I-Cái búa treo trên đầu người Scotland, đã chết tại Burgh-by-Sands trên Solway và nói sự kìm kẹp đối với người Scotland đã được nới lỏng.
ROBERT BRUCE PHỤC HỒI VƯƠNG QUỐC CỦA ÔNG, 1307-1314
Edward II-người con trai bất tài và cũng là người kế nhiệm của Edward I đã bị phân tâm khỏi tình hình ở Scotland bởi vụ của ông ta với Piers Gaveston ( sủng thần của Edward II ) và sự chống đối ngoan cố của các đại quý tộc. Sự kiện này đã cho phép Bruce có một khoảng thời gian quý giá để đối phó với các đối thủ người Scotland của mình. Đầu tiên ông ta di chuyển về phía tây-nam và trả thù một cách tàn nhẫn MacDowells-kẻ thù của ông ta. Sau đó, ông để Jarnes Douglas ở lại để hoàn tất công việc chinh phục vùng Galloway, còn ông thì tiến về phía bắc vào tháng 9 vượt qua Great Glen để đối đầu với John Comyn-đối thủ của mình, ông này (John Comyn) làm chủ lãnh địa bá tước của Buchan rất giàu có trải dài từ Aberdeen đến Moray Firth. Nhà Comyn đã thất bại trong trận Inverurie tháng 5 năm 1308 và bỏ chạy về phía nam nước Anh, bỏ lại lãnh địa bá tước cho lòng thương xót của vua Robert, người đã nhẫn tâm tàn phá các vùng đất của những người ủng hộ nhà Comyn được gọi là “ herschip của Buchan”. Vào mùa hè Bruce đã chiếm được Aberdeen và vị thế của ông về phía đông bắc là không thể bị công kích. Vào năm 1309 hầu hết các phe chống đối lại nhà Bruce còn ở Scotland đã bị đánh bại và ông đã chuyển sự chú ý của ông đến việc đuổi người Anh ra khỏi vương quốc của mình.
Trong khi đó, Edward II đã tìm cách hòa thuận một cách tạm thời với các đại quý tộc của mình để tìm cách đối phó với Scotland. Ông tổ chức các cuộc xâm lược vào Scotland năm 1309 và năm 1310, nhưng người Scotland chỉ đơn giản là tan biến đi trước khi ông ta đến, họ tránh giao chiến và phá hủy bất cứ thứ gì còn có thể sử dụng được ( kế vườn không nhà trống ), buộc quân Anh bị đói và chán nản rồi phải rút lui. Các chiến dịch của Edward rất tốn kém và đạt được các kết quả rất ít ỏi và chắc chắn rằng ông ta hết tiền để thanh toán cho quân đội của mình và đã phải trở về phía nam phải đối mặt với các yêu cầu của các đại quý tộc không khoan nhượng của mình. Tại một cuộc họ Quốc-hội được tổ chức vào tháng 8 năm 1311 Edward đã bị buộc phải chấp nhận tất cả những điều ràng buộc quyền hành của ông vốn được đưa ra bởi Đại quý tộc Ordainers và phải đẩy cận thần sủng ái của ông đi lưu vong ở Flanders. Nhưng trong vòng ba tháng sau đó Gaveston đã quay trở lại một cách bí mật và vì sợ cơn thịnh nộ của các đại quý tộc ông này vội vã chạy về phía bắc cùng với Edward ẩn nấp ở lâu đài Scarborough Castle. Trong khi nhà vua cố gắng đi để tuyển mộ quân lính ở nơi khác, Gaveston bị bao vây bởi Bá tước Pembroke và để được đảm bảo an toàn tính mạng ông này đã đầu hàng. Sau đó ông ta đã được chuyển về phía nam-lâu đài Wallingford của Pembroke, rồi bị chuyển giao cho Bá tước củaWarwick và bị chặt đầu bởi mệnh lệnh của Bá tước của Lancaster. Robert Bruce đã lợi dụng những rắc rối của Edward để tấn công vào các quận Biên giới của Anh năm 1311 và đốt sạch những vùng mà ông đi qua. Trong mùa hè năm sau, với sự tự tin ngày càng tăng và với sức mạnh lớn hơn, ông dẫn quân đánh sâu vào quận Palatinate của Durham. Các quận không được phòng thủ phía Bắc thấy không có hy vọng về tiếp viện từ Edward II đã bị buộc phải trả tiền cho một thỏa thuận ngừng bắn một năm, để họ thoát khỏi sự cướp bóc của người Scotland, rồi họ lại phải trả nhiều khoản thanh toán hơn nữa như “ tiền chuộc” hoặc tiền bảo vệ trong năm sau và Robert Bruce dùng các khoản tài chính này để cải thiện cho các vùng nghèo khó ở vương quốc của ông.
Năm 1309 người Anh vẫn giữ được một tá các cứ điểm phòng thủ mạnh mẽ ở Scotland. Những cứ điểm này cùng với nhiều cứ điểm yếu hơn, cung cấp cho người Anh các căn cứ để từ đó họ có thể chiếm lĩnh các vùng xung quanh. Chiến thuật của Robert Bruce là chiếm và phá hủy các tòa lâu đài để làm cho chúng trở thành vô ích với kẻ thù, cũng như để ông không cần phải huy động quá nhiều nhân lực hạn chế của mình làm lực lượng đồn trú. Dần dần Bruce đã làm lỏng hệ thống kìm kẹp đất nước Scotland của người Anh. Vì không có dụng cụ bao vây công thành nên ông đã phải dựa vào thủ đoạn chiến thuật và các cuộc tấn công bất ngờ hoặc nếu tất cả các chiến thuật này thất bại, ông đã phải cho tiến hành một cuộc phong tỏa tẻ nhạt. Tại Berwick, cố gắng của Robert Bruce để chiếm thành phố vào ban đêm bằng thang đã thất bại vì một chú chó harking đã sủa cảnh báo cho đơn vị đồn trú. Tuy nhiên, ông đã có nhiều thành công trong tháng Giêng năm 1313, khi thị trấn chiến lược quan trọng Perth đã bị chiếm trong một cuộc tấn công bất thình lình vào ban đêm dưới ánh trăng.
Ở vùng phía đông nam Scotland hoặc Lothian, có rất nhiều vùng đất do những chủ đất người Anglo-Scotland nắm giữ ở hai bên vùng biên giới. Lothian thường nằm dưới sự cai trị của người Anh, do đó, người dân phải có nghĩa vụ trả “ tiền chuộc” hay tiền bảo vệ cho Robert Bruce theo cách tương tự như người dân ở miền Bắc nước Anh. Nhiều trong số các tòa lâu đài nhỏ hơn ở Lothian đã nằm trong tay người Scotland cho đến tháng 2 năm 1314, James Douglas đã tấn công bất ngờ và chiếm được Roxburgh tòa lâu đài quan trọng. Đỉnh cao của chiến dịch tấn công các pháo đài của người Anh ở Lothian nổ ra sau khi Thomas Randolph đã không chịu thua kém chiến công của Douglas đã chiếm Lâu đài Edinburgh bằng thang trong một đêm tấn công táo bạo.
Chỉ huy của các bên đối địch
Chỉ huy của quân Anh
Edward Plantagenet 1284-1327; Vua Edward II 1307-1327
Các sử gia đương đại đều đồng ý rằng Edward của Caernarvon cao, có dáng người đẹp, thể thao, đẹp trai và dũng cảm nhưng yếu về mặt ý chí, nhẹ dạ, phù phiếm, lông bông. Ông không có đầu óc về chính trị, chiến tranh, kinh doanh… mà chỉ tìm cách thỏa mãn sở thích cá nhân. Ở tuổi thanh niên ông ít quan tâm đến nghiên cứu về lĩnh vực quân sự và mặc dù ông rất yêu loài ngựa, lĩnh vực thể thao dã ngoại và âm nhạc, ông quan tâm đến những vấn đề mộc mạc như lợp mái nhà, sửa chữa hàng rào và trình diễn ngựa, ông cũng rất nhiệt tình với các môn thể thao chèo thuyền và bơi lội trong mọi thời tiết, người đương thời với ông dường như bị sốc vì những sở thích được coi là không hợp thời của một vị hoàng tử. Piers Gaveston là một thanh niên luôn đi kè kè ngay bên cạnh Edward, ông này là con trai của một hiệp sĩ người Gascon phục vụ cho cha của ông ta ( Edward I). Ông này (Piers Gaveston) là một thanh niên cực kỳ đỏm dáng và hài hước và người ta nói rằng Edward yêu người bạn của ông đến mức mà mối ràng buộc là không thể chia lìa và bất chấp cả về mặt đạo đức của người châu Âu thời Trung cổ ( khả năng hai bác này là ĐTLA). Nhưng sự xấc xược bất kính mà Gaveston thể hiện tại triều đình là ông ta đặt những biệt hiệu “Burst Belly”, “Joseph the Jew” và “ Black Dog of Arden” cho những quý tộc hàng đầu ở triều đình Anh quốc, khiến ông này bị họ căm thù một cách khôn nguôi. Kỹ năng sử dụng vũ khí của ông càng làm tăng sự giận dữ của họ, vì ông luôn đánh bại họ trong cuộc tỉ thí. Khi Edward của Caernarvon lên kế thừa ngôi vị vào năm 1307, mối quan tâm đầu tiên của ông là đề đạt Piers Gaveston là Bá tước xứ Cornwall, một danh hiệu theo truyền thống chỉ dành riêng cho hoàng gia. Các hành vi thiên vị quá độ của nhà vua và sự bất tài của ông ( thực ra nếu ông chỉ được sinh ra ở một gia đình giàu có thôi thì là quá tuyệt vời ) cùng với sự tham gia của Gaveston vào các công việc triều chính đã tạo nên một sự điên rồ và ngày càng đẩy ông vào các cuộc xung đột với các Đại quý tộc và làm cho vương quốc Anh đến bên bờ vực của cuộc nội chiến. Sự phân tâm của ông ( Edward II) với các sự kiện tại Scotland đã cho phép Robert Bruce có thời gian để thiết lập vị thế chính trị của mình và thực tế thì ông này đã thành công trong việc tống cổ người Anh ra khỏi vương quốc của mình.
Kinh nghiệm quân sự đầu tiên mà Edward Caernarvon có được là vào năm 1300 khi ông đang ở tuổi 16, ông cùng với Gaveston-người bạn không rời nửa bước của mình cùng cha của ông ( Edward I) tiến hành chiến dịch tại phía tây nam Scotland. Đầu năm 1301 Edward I dường như hài lòng với hành vi của con trai mình và phong cho ông làm Hoàng tử Wales. Sau đó trong cùng năm này ông giao phó cho ông ta (Edward Caernarvon) làm tư lệnh của một trong hai hướngxâm lược vào Scotland. Lincoln-vị Bá tước giàu kinh nghiệm nhận nhiệm vụ hướng dẫn Hoàng tử về mặt chỉ huy quân sự, tuy nhiên cuộc viễn chinh này chỉ thu được những kết quả ít ỏi. Edward lại đi cùng với cha của mình ở chiến dịch năm 1303 của ông ở Scotland và ông lại một lần nữa có mặt ở phía bắc vào năm 1300 khi tòa lâu đài Kildrinum Castle thất thủ. Mặc dù sở thích của Edward con không phải là theo đuổi các sự nghiệp về quân sự, cha ông đã không bỏ bê trong việc giáo dục ông về lĩnh vực này và có lẽ ông ( Edward I ) cũng không biết rằng thực tế các chiến dịch chống lại người Scotland của ông là có ít tác dụng. Ở đầu triều đại của mình, ông ( Edward II ) đã có kinh nghiệm với chiến thuật kiểu Fabian của Robert Bruce ( tránh chiến đấu đối mặt) khi phải đối mặt với một lực lượng vượt trội trong thời gian Edward II xâm lược Scotland vào năm 1310. Edward II có quá nhiều thời gian mệt mỏi để truy đuổi người Scotland vốn rất khó chộp bắt trong các đầm lầy, nhưng ông lại không có kinh nghiệm về về lãnh đạo trong một trận chiến và các cuộc thử nghiệm về chiến tranh của ông tỏ ra khá là vô dụng.
Các chỉ huy cấp dưới của Anh
Bá tước của Lancaster và các đại quý tộc Anh khác thuộc phái của ông đã không hưởng ứng lệnh triệu tập của nhà vua để tập hợp ở Berwick và chỉ gửi một số lượng rất tối thiểu của người của họ để thực hiện nghĩa vụ phong kiến trong thời gian chiến tranh. Chỉ có các Bá tước của Gloucester, Hereford, Pembroke và Angus là hưởng ứng lời triệu tập một cách cá nhân. Cũng không công bằng nếu cho rằng các chỉ huy của Anh là thiếu kinh nghiệm chiến trường, vì không có một trận đánh lớn ở Anh kể từ trận Falkirk năm 1298 nên có thể nói họ có trình độ ngang bằng với các chỉ huy người Scotland. Tuy nhiên, người Anh lại không muốn những sỹ quan dày dạn kinh nghiệm của họ tham gia vào chiến dịch Scotland lần này. Aymer de Valence-Bá tước Pembroke, người cao lớn và xanh xao đã bị Gaveston đặt cho biệt danh “Joseph the Jew-Joseph thằng Do Thái ”. Mặc dù ông đã phản đối lại Edward II trong suốt thời gian về vụ bê bối của Gaveston, về cơ bản ông là một người công bằng và trung thành trung thành với nhà vua. Ông là một chỉ huy có kinh nghiệm và đã tham gia nhiều chiến dịch tại Scotland trong thời gian của Edward I và đã từng đánh bại Bruce tại Metliven vào năm 1306. Ông là anh em họ của Edward I và là trung úy của nhà vua ở Scotland trong đầu năm 1314, ông tham dự vào việc tổ chức chiến dịch, trong khi khi chờ đợi sự xuất hiện của nhà vua ở Berwick. Đoàn tùy tùng cá nhân của Pembroke bao gồm22 hiệp sỹ và 59 kị sỹ trong năm 1314. Tuy vị bá tước là người có kinh nghiệm nhưng lại không được nắm quyền chỉ huy tại Bannockburn và không có ảnh hưởng đến kết quả của trận đánh, mặc dù hậu đội của ông đã đảm bảo cho nhà vua thoát khỏi thảm họa bị bắt làm tù binh.
Gilbert de Clare-Bá tước Gloucester, 23 tuổi và là một cháu trai của Edward II, người bổ nhiệm ông làm đồng chỉ huy của đội quân tiên phong cùng với Bá tước của Hereford, mà điều này chắc chắn đã dẫn đến sự tranh chấp, chia rẽ trong giới lãnh đạo. Ông này rất giàu có và có thể là rất ngạo mạn và mang vào trân chiến năm 1314 một số lượng lớn người của ông do chính ông trang bị cho họ, mặc dù theo sử gia Barbour có lẽ chỉ có dưới 500 người trong số này thực sự tham gia vào trận Bannockburn. Ông này có một con ngựa bị giết chết ngay vào ngày đầu tiên của trận chiến, và cùng với tính khí bốc đồng của tuổi trẻ, ông cưỡi lại cưỡi một con ngựa khác lao vào các ngọn giáo của quân Scotland và đã bị giết chết vào ngày hôm sau. Ông là nạn nhân quan trọng nhất của người Anh tại trận Bannockburn và cái chết của ông đã làm cho Robert Bruce rất phiền lòng vì ông này không chỉ mất một khoản tiền chuộc khổng lồ mà còn vì ông này còn là người anh em đồng hao của ông, vì cả hai đều kết hôn với các con gái của Richard de Burgh, Bá tước của Ulster. Ông này (Gilbert de Clare ) dường như là có khái niệm về tinh thần thượng võ nhưng không hề có kinh nghiệm chỉ huy chiến trường nào khác hơn là dẫn đầu một cuộc tấn công thiếu thận trọng từ phía trước.
Humphrey de Bohun, Bá tước của Hereford, anh em rể của nhà vua và Nguyên soái tương lai của Anh quốc, ông ở độ tuổi đầu 30 tại thời điểm của trận Bannockhurn. Ông đã từng là một trong những lãnh đạo của phe đối lập với Edward II nhưng đã được ân xá về phần của ông trong cái chết của Gaveston. Lúc còn trẻ ông đã chiến đấu bên cạnh cha mình tại trận Falkirk trong năm 1298, và ông là một trong những người tham gia bao vây lâu đài Caerlaycrock Castle năm 1300 khi đó ông được mô tả là một người đàn ông trẻ tuổi, giàu có và thanh lịch. Ông có những kỹ năng sử dụng võ khí tuyệt vời và đã tham gia tỉ thí với Gaveston ở giải đấu Wallingford của năm 1307. Như để thưởng công cho sự phục vụ của ông ở Scotland, Edward I ban thưởng lâu đài Lochmaben của Robert Bruce và các vùng đất thuộc lãnh địa của Annandale cho ông vào năm 1306. De Bohan đã phục vụ cùng với Robert Clifford và Henry Beaumont ở phía bắc và chắc chắn là chúng đã đóng góp không ít vào kinh nghiệm chiến tranh thực tế của ông. Ông đã được trao nhiệm vụ đồng chỉ huy của đội quân tiên phong của Anh cùng với Bá tước Gloucester.
Robert d’Umfraville là một nam tước hùng mạnh của Northumbrian và Bá tước của Angus-mặc dù chỉ có cái tên hiệu, bởi vì những vùng đất mà ông ta mơ ước đều ở Scotland và chúng đã được chia giữa những người ủng hộ của vua Robert. Ingram d’Umfraville là anh em họ của Robert. Ông là một người Anglo-Scot có quyền cao chức trọng ở Scotland nhưng kể từ nằm 1308 ông đã chuyển sang phục vụ cho người Anh. Kinh nghiệm của ông là vô giá đối với Edward II tại Bannockburn. Tuy nhiên, những lời khuyên của ông liên quan đến Scotland đã bị bỏ ngoài tai.
Robert Clifford là một chỉ huy có kinh nghiệm từ các trận chiến ở vùng biên giới, ông cũng là người đã chiến đấu tại trận Falkirk trong năm 1298. Clifford phục vụ cả Edward II và cha của ông này trước đó trong suốt thời gian của chiến tranh Scotland cho đến khi ông chết ở tuổi 40 trong trận Bannockburn. Ông và Henry Beaumont dẫn đầu các kỵ binh đụng độ với lực lượng giáo binh của Randolph vào ngày 23 tháng Sáu. Sau Bá tước Gloucester, ông là tên nổi bật nhất trong số những người Anh thiệt mạng tại Bannockburn.
Henry Beaumont, một tay phiêu lưu người Pháp có họ hàng với hoàng tộc Pháp, có lý do tốt để hỗ trợ cho Edward II trong chiến dịch Bannockburn, trong trường hợp người Anh chiến thắng ông này sẽ kiếm được một Lãnh địa bá tước giàu có ở Scotland. Sự nghiệp quân sự của Beaumont kéo dài từ trận chiến Falkirk trong năm 1298, lúc ông ta còn là một thanh niên và vào những năm của thập kỷ 1330, những kỹ năng chiến thuật của ông đã mang đến thảm họa cho người Scotland ở Dupplin Moor và góp phần vào chiến thắng của Edward III tại Halidon Hill ( nhưng đó là chuyện của 16 năm sau ). Người ta nói rằng ông đã tìm kiếm sự nổi tiếng “ qua kinh nghiệm chiến đấu và những chiến dịch, nơi không có gì thường xuyên hơn là nguy hiểm và sự đe dọa.”
Hugh Despencer con-sủng thần mới của nhà vua, thay thế vị trí của Piers Gaveston vốn đã bị sát hại trong con mắt của Edward vào thời gian này và ông này đã ở bên cạnh nhà vua trong trận Bannockburn. Ông đã được hứa hẹn về những vùng đất của Bá tước Moray và ông đã mang theo đoàn tùy tùng mạnh nhất gồm các hiệp sĩ và kị sỹ chỉ sau lực lượng của các Bá tước Pembroke và Gloucester để giúp ông ta giành lấy chúng.
Có rất nhiều cựu chiến binh của Edward I tại các chiến dịch ở xứ Wales và Scotland trước đó tham dự trận Bannockburn và họ có vô số kinh nghiệm quân sự, mặc dù cuối cùng họ đã thất bại trong việc ảnh hưởng kết quả của trận chiến. Marmaduke de Thweng- hiệp sĩ nổi tiếng vùng Yorkshire, người đã lập nên kỳ tích ở trận Stirling Bridge trong năm 1297, hoặc như vị hiệp sỹ già Thomas Berkley, người đã chiến đấu lúc còn ở tuổi thanh niên trong trận Evesham trong năm 1265 và người ta nói rằng ông đã phục vụ cho hoàng gia gần như trong tất cả các năm của nửa sau của thế kỷ 13 ( nhiều hiệp sỹ rất là nghèo nên chỉ biết sống bằng thanh kiếm của mình ). đoàn tùy tùng của ông bao gồm Maurice-con trai của ông và hai cháu trai.
Edward 11 dường như đã có một sự quan tâm đặc biệt đến Giles d’Argentan-một trong ba hiệp sĩ giỏi nhất và ghê gớm nhất của Thiên Chúa giáo, người thể hiện tinh thần lãng mạn của những chàng hiệp sĩ lang thang. Edward đã viết thư nhiều lần tới vị hoàng đế Byzantine trong 1313 để đảm bảo cho việc phóng thích ông này từ nhà tù tại Salonica trong thời gian đó để đi cùng đoàn chinh phạt Scotland của mình. Giles đã ở bên cạnh của nhà vua cùng với Pembroke suốt trận đánh, Scalacronia-một những của ông sau khi ông dẫn dắt nhà vua chạy thoát khỏi thảm họa xảy ra: “ Thưa bệ hạ, ngài hãy yên tâm vì sự tận tâm của thần, ngài đã ở chỗ an toàn, đây là tòa lâu đài của ngài nơi mà cá nhân ngài có thể được an toàn. Thần không quen với việc phải bỏ chạy và thần cũng không muốn bắt đầu phải bỏ chạy ngay bây giờ. Thần sẽ cầu Chúa cho ngài” Sau đó, sau khi đã cài lại đinh thúc ngựa cho con ngựa của mình, ông quay trở lại với trận đánh nơi ông đã bị giết chết. Argentan đã hy sinh một cách anh dũng, nhưng những cử chỉ anh hùng cá nhân của ông đã không thể thay đổi được cục diện của trận chiến, tinh thần quả cảm chắc chắn là một điều cần thiết trong một trận chiến, nhưng ông lại quá nóng tính để trở thành một nhà chỉ huy quân sự có hiệu quả.
Chỉ huy quân Scotland
Robert Bruce 1273-1329; Robert I, vua của Scotland 1306-1329
Robert Bruce được sinh ra tại lâu đài Turnberry ở Ayrshire năm 1273, sau cái chết của người cha của ông năm 1304, ông trở thành Lãnh chúa đời thứ 7 của Annandale được thừa kế cái tên Robert Bruce. Từ nhỏ ông đã được nuôi dưỡng theo truyền thống qúy tộc quân sự Anglo-Scotland. Danh tiếng của ông đến từ sự dũng cảm và là một chiến binh có kỹ năng chiến đấu cực kỳ khủng khiếp. Ông được đánh giá là một trong ba hiệp sĩ lừng danh nhất trong tín đồ Cơ đốc giáo, hai người kia là Hoàng đế Henry VII và Sir Giles d’Argentan.
Chiến lược của Bruce trong việc thu hồi và giải thoát Scotland khỏi quân xâm lược Anh với một lực lượng quân sự hạn chế đòi hỏi ông không được mắc sai lầm. Ông luôn tránh mắc phải những rủi ro không cần thiết và tránh những cuộc giao chiến khi lực lượng của đối thủ mạnh hơn quân của ông quá nhiều, ông ưu thích một chiến lược theo kiểu Fabian ( một tướng La Mã luôn tìm cách lẩn tránh một trận đánh quyết định khi phải đối đầu với Hannibal của thành Carthagơ ). Người ta cũng được biết rằng kinh nghiệm chỉ huy quân sự của Robert Bruce trước khi trận Bannockburn nổ ra chỉ hạn chế trong những trận chiến không thường xuyên hoặc xung đột ph.e phái. Không thể nghi ngờ một điều rằng ông là một nhà lãnh đạo xuất sắc, dưới sự chỉ huy của ông một lực lượng quân đội Scotland nhỏ bé đã gặt hái được những thành công và chở thành những chiến binh chiến đấu theo kiểu du kích một cánh đáng sợ, họ liên tục di chuyển, sử dụng các cuộc tấn công bất ngờ, phục kích và tấn công ban đêm vào kẻ thù của họ. Trong một số trận đánh tại Glen Trool, Loudon Hill, tại Đồi Barra và tại Đèo Brander, Bruce đã chọn lựa những thanh niên đầy quyết tâm và ông đã cẩn thận tập hợp họ thành một lực lượng chiến đấu và tạo nên một lực lượng giành được chủ động về mặt chiến thuật trên chiến trường. Đây là một lực lượng chiến đấu trên một quy mô nhỏ không hơn 1.000 người dưới sự chỉ huy của ông, nhưng khi các sự kiện chuyển sang một trang mới trên quy mô lớn hơn như trong năm 1314, Bruce cho thấy nguyên lý cơ bản người chỉ huy trên chiến trường là không đổi trong mọi tình huống đối diện với kẻ thù ( tựa như nguyên lý Dĩ bất biến ứng vạn biến của ta ).
Sir Robert Keith là một người Anglo-Scot đến từ Lothian gia nhập lực lượng của Bruce từ năm 1308. Ông là người khá lớn tuổi so với các chỉ huy khác và là truyền nhân của nhà Marshal của Scotland-một dòng tộc có vị trí xã hội cao. Sử gia Barbour cho rằng ông đã chỉ huy một lực lượng gồm 500 kỵ binh thiết giáp tại trận Bannockburn, nhưng nhiều khả năng trong ngày thứ hai của trận chiến, cùng với những hiệp sĩ khác người Scotland ông đã xuống ngựa để chiến đấu, người của ông đã tạo nên một phần của đội hình schiltron của người Scotland.
Những chỉ huy của Robert Bruce trong trận Bannockburn đã chiến đấu bên cạnh ông từ những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống lại người Anh. James Douglas biệt hiệu “ the Black “, sau này được gọi là Sir Jaynes “ the Good – Tốt lành “, tham gia vào đội quân của Bruce ở tuổi 18 sau khi cha ông-Sir William Douglas, một đối thủ không đội trời chung của người Anh, bị sát hại trong Tòa tháp của London. Các vùng đất của nhà Douglas đã bị vua Anh tịch thu và ban thưởng cho Sir Clifford Robert. Là một nhà lãnh đạo du kích, Douglas đã sớm nổi tiếng như cồn vì sự đáng sợ của ông khi tàn sát một cách tàn nhẫn những đơn vị đồn trú của người Anh ở phía tây nam Scotland. Tuy nhiên, sự táo bạo của tuổi trẻ của ông lại kết hợp với sự giảo hoạt và mưu mẹo, và trong trận tấn công bất thình lình vào lâu đài Roxburgh Castle-một vị trí được phòng thủ vững của người Anh thì phẩm chất của ông đã được phát huy. Người ta đã cho rằng tầm quan trọng của ông trước trận Bannockburn đã được đánh giá quá cao và vai trò của ông trong trận đánh đã bị phóng đại. Trong ngày đầu tiên của trận chiến ông chỉ huy một đội kỵ binh và đóng vai trò một lực lượng trinh sát. Mặc dù sử gia Barhour cho rằng Douglas đã chỉ huy binh đội thứ 4 của người Scotland nhưng dường như là trong ngày hôm sau ông đã cho người của mình xuống ngựa và dẫn họ ra nhập vào một schiltron của các giáo binh. Cuối ngày hôm đó ông lại lên ngựa và dẫn đầu một cuộc truy kích vào Edward II.
Edward Bruce-người anh em duy nhất còn lại của vua Robert trong năm 1314, được cho là một con người táo bạo và liều lĩnh một cách bạt mạng và ông cũng tham gia trận Bannockburn dưới sự lãnh đạo của người anh của mình, ông là của một chỉ huy cấp dưới đáng tin cậy. Ông là một chỉ huy của một trong ba đơn vị hoặc đội hình schiltron giáo binh trong trận đánh. Năm 1318 ông (Edward Bruce) đã bỏ sang Irland và tự xưng làm “ vua của Ireland” cuộc phiêu lưu của ông đã kết thúc khi ông bị đánh bại và bị giết tại trận Dundalk tại County Louth.
Thomas Randolph là người cháu trai của Robert Bruce và một trong những người ủng hộ ông sớm nhất. Ông đã bị bắt bởi người Anh và phục vụ họ cho đến năm 1301 khi ông tái gia nhập lực lượng của Bruce. Lòng trung thành và sự phục vụ sau đó của ông đã được tưởng thưởng bởi lãnh địa bá tước Morav vào năm 1313. Ông chỉ huy một trong ba đội hình schiltron của người Scotland tại Bannockburn.
Sir Robert Keith là một người Anglo-Scot đến từ Lothian gia nhập lực lượng của Bruce từ năm 1308. Ông là người khá lớn tuổi so với các chỉ huy khác và là truyền nhân của nhà Marshal của Scotland-một dòng tộc có vị trí xã hội cao. Sử gia Barbour cho rằng ông đã chỉ huy một lực lượng gồm 500 kỵ binh thiết giáp tại trận Bannockburn, nhưng nhiều khả năng trong ngày thứ hai của trận chiến, cùng với những hiệp sĩ khác người Scotland ông đã xuống ngựa để chiến đấu, người của ông đã tạo nên một phần của đội hình schiltron của người Scotland. Bruce đã tạo ra một bộ khung sườn mạnh mẽ với những chỉ huy giàu kinh nghiệm chiến đấu và có cùng một mục đích về cuộc chiến này. Ngược lại trong nội bộ lãnh đạo của người Anh ít nhất là có sự bất hoà giữa các Bá tước Gloucester và Hereford chứ không phải là vấn đề uy tín cá nhân.
Quân đội của các bên đối địch
Quân đội Anh năm 1314
Quân đội của Edward II tại trận Bannockburn bao gồm cả lực lượng kỵ binh phong kiến và được trả lương, cùng với các binh sĩ ngự lâm của nhà vua. Bộ binh của ông chắc chắn có lực lượng cung thủ nhưng người ta không rõ họ chiếm tỷ lệ bao nhiêu %. Một quân đội của nhà Edward điển hình được tổ chức thành ba đạo binh hoặc “ chiến đoàn.”. Người giữ chức vụ Nguyên soái chịu trách nhiệm về tổ chức và điều hành quân đội, và theo thói quen ông ta cũng thường chỉ huy đội tiên phong hoặc đạo tiền quân. Tại Bannockburn chức vụ Nguyên soái được giao cho Bá tước Hereford, mặc dù có nhầm lẫn bởi việc Edward chỉ định Gloucester là đồng chỉ huy của đội quân tiên phong. Đạo trung quân thường nằm dưới sự chỉ huy của nhà vua nếu ông ta có mặt, vì vậy chúng tôi có thể chắc chắn rằng Edward II đã nắm cánh quân trung tâm và rằng ông đã đi cùng với Sir Echnnud Miaulev-người chỉ huy đội Ngự lâm quân của ông. Còn với lực lượng hậu quân hoặc lực lượng dự bị thì không thấy bằng chứng cho biết ai là chỉ huy của họ tại Bannockburn. Chúng ta biết rằng quân đội Anh đến được Stirling trong một sự tổ chức rất tốt với đội quân tiên phong tiến trước nhưng, sau những thất bại của họ trong trận chiến ở ngày đầu tiên, những nhầm lẫn nghiêm trọng đã phát sinh. Sử gia Barbour cho chúng ta biết rằng nhà vua đã chia quân đội của mình thành mười đạo binh và bổ nhiệm những người mà ông nghĩ là chiến đấu tốt thành những chỉ huy. Nếu Edward đã có khoảng 10.000 lính bộ binh và điều này là hoàn toàn có khả năng, thì sự sắp xếp này dường như là hoàn toàn có thể xảy ra.
Kỵ binh của người Anh
Hệ thống phong kiến cho phép nhà vua yêu cầu các chúa đất chính của ông cung cấp một số lượng hạn định những các kỵ binh để phục vụ trong vòng 40 ngày, mặc dù vào thời gian của Edward II đã xảy ra một thói quen là các Đại quý tộc mang đến ít người hơn nhưng lại phục vụ lâu hơn. Năm 1310 Bá tước Peurbroke được triệu tập để hội binh ở Berwick và, mặc dù ông ta từ chối tham dự một cách cá nhân, ông vẫn thừa nhận rằng có nợ vua sự phục vụ của năm hiệp sĩ, một nghĩa vụ mà ông sẽ phải thực hiện bằng cách cung cấp một hiệp sĩ và tám “ Servient” hoặc kỵ sỹ cùng với 10 con ngựa. Từ đó ta có thể thấy rằng ngựa và trang bị của một kỵ sỹ mới chỉ là phân nửa chi phí của một hiệp sĩ. Năm 1310 chỉ tập hợp được ở Berwick có tất cả 37 hiệp sĩ và 172 kị sỹ bởi các Đại quý tộc chỉ gửi số lượng thấp nhất mà họ có thể với những con ngựa có chất lượng kém. Tương tự kể từ năm 1314 Bá tước Lancaster và phe cánh của ông này phớt lờ giấy triệu tập của Edward II và chỉ gửi một lực lượng tối thiểu các kỵ binh đến tập hợp tại Berwick.
Nhà vua cũng có thể huy động kị binh từ những người có tài sản giá trị 20 bảng đổ lên, hoặc qua một “ Knight fee-phí hiệp sĩ”, có nghĩa là họ có nghĩa vụ phục vụ như một hiệp sĩ hay cung cấp một thay thế; những kị sỹ này sẽ được trả tiền cho sự phục vụ của họ. Trên lý thuyết thì ít nhất có hơn 5.000 hiệp sĩ sẵn sàng phục vụ, nhưng thực tế thì không phải lúc nào người ta cũng luôn luôn mong muốn được phong tước hiệp sĩ và nhà vua thường xuyên phải gây áp lực vào những chiến binh lười nhác-những người có thể là hiệp sĩ hoặc không. Một nguồn tin có giá trị từ thời Edward I là Horse Lists-Danh sách các con ngựa, danh sách này ghi tên của các kỵ sĩ mà nhà vua đã trả lương cùng với giá trị và mô tả về con ngựa của ông ta, để chủ ngựa có thể được bồi thường nếu con ngựa bị giết chết trong khi phục vụ nhà vua. Nhờ vào những danh sách này cho chúng tôi biết rằng trong trận Falkirk trong năm 1298, Edward I đã có 1.300 kỵ binh được trả tiền và kỵ binh trong đội ngự lâm quân của ông. Các chư hầu phong kiến góp thêm từ 500 đến 1.000 kỵ binh và tạo ra một lực lượng kỵ binh tối đa khoảng 2.300 người. Quấn Edwardi Vita Secundi của một Thầy tu tại Malmesburv nói với chúng ta rằng trong chiến dịch Bannockburn, “ số lượng các kỵ binh là khoảng hơn hai nghìn “ một dự tính hoàn toàn tỉnh táo ở cái thời mà người ta hay cường điệu hóa vấn đề số lượng. Cả hiệp sĩ và kị binh ở thời kỳ này đều là lực lượng kỵ binh thiết giáp hạng nặng ghê gớm nổi bật cưỡi trên những con ngựa được bọc thép. Có ít bằng chứng trực tiếp còn lại về chiến dịch Bannockburn hơn so với trận Falkirk,cũng như hầu hết các tài liệu cho phép chúng ta hình thành một ý tưởng số lượng tổn thất thật sự của quân đội Anh, có lẽ chúng đã bị thất lạc cùng với con dấu riêng của nhà vua trên đường tháo chạy sau cuộc chiến. Tuy nhiên “ the protections” được liệt kê trong Roll Scotch trong năm 1314, trong đó nhà vua đã phải tiến hành để bảo vệ các vùng đất, danh tiếng của những người đã tham gia phục vụ mình, gồm khoảng 890 kị sỹ, hiệp sĩ, hộ sỹ và kị binh, vì vậy chúng tôi biết rằng đây là số lượng kị binh tối thiểu đã có mặt tại Berwick. Con số này đã gợi ý về một số lượng có thể có tương đương với số lương mà Edward I đã có ở trận Falkirk.
Bộ binh người Anh
Lính nghĩa vụ ở miền Nam nước Anh đã không được triệu tập để phục vụ trong chiến dịch Scotland, chỉ có các quận phía Bắc và Trung du và xứ Wales là được gọi. Ngày 24 tháng 3 năm 1314, Edward II triệu tập từ các vùng này 21.540 lính bộ binh – một lực lượng khủng khiếp nếu đó là hiện thực – những người phải đến và tập hợp tại Wark on-Tweed vào ngày 10 tháng Sáu. Tuy nhiên bằng chứng từ các chiến dịch trước đó cho thấy rằng hệ thống hậu cần tối đa của quân đội chỉ có thể cung cấp cho Edward một số lượng bộ binh chỉ hơn một nửa số mà ông triệu tập và có một số người có lẽ sẽ đào ngũ khi có cơ hội đầu tiên. Một lệnh triệu tập vào ngày 9 tháng ba năm 1314 đã cho gọi 4.500 cung thủ từ năm quận phía Bắc với cung tên và các loại vũ khí khác mà họ phải trang bị, đã chỉ ra rằng một lực lượng cung thủ mạnh mẽ được trang bị đầy đủ đã được dự kiến. Mệnh lệnh này đã được thay thế bằng một lệnh triệu tập rộng hơn nhưng rất đáng tiếc là cái sau lại không được cụ thể, nó chỉ đơn giản là cần những bộ binh, làm cho người ta rất khó để đánh giá tỷ lệ của cung thủ và giáo binh trong quân đội. Vào cuối ngày 29 tháng 3, Edward đã viết thư một cách khẩn cấp cho đại diện của ông ta ở quân đội rằng “ Trước đó ta đã ra lệnh cho mọi người phải sẵn sàng … ngươi đang làm ta tức giận, hãy nhanh lên và buộc những người đàn ông phải đến” từ ngữ của Edward cho thấy có khó khăn trong việc huy động lực lượng, một tình huống cho thấy ông ta chỉ huy được một lực lượng bộ binh chất lượng kém và không muốn phục vụ đến Berwick và đã quá muộn để ông có thể tập hợp họ thành một lực lượng chiến đấu gắn kết và có hiệu quả.
Cung thủ trường cung Anh
Các vùng mà từ đó mà từ đó lực lượng bộ binh được tập hợp cho chiến dịch Bannockburn, miền Bắc nước Anh, các quận trung du và xứ Wales … là những vùng nổi tiếng về sức mạnh của các cung thủ trường cung của họ. Khi lệnh triệu tập của ngày 9 tháng 3 năm 1314 được so sánh với mệnh lệnh thay thế nó vào ngày 27 tháng Năm, người ta thấy rằng hơn 2.000 cung thủ được đòi từ Yorkshire đã trở thành 4.000 lính bộ binh. 1.000 cung thủ trường cung từ Nottinghamshire và Derbyshire đã trở thành 2.000 bộ binh… có thể giả định rằng tỷ lệ cung thủ trường cung và giáo binh đã được dự kiến là tương đương nhau. Roger Mortimer đã cố gắng huy động 3.000 bộ binh tại xứ Wales cho chiến dịch này. Nhà sử học Gerald của xứ Wales đã lưu ý rằng có một sự khác biệt đặc trưng giữa những người Welshmen; người ở phía bắc thường chiến đấu như các giáo binh trong khi những người ở phía Nam lại thường là các cung thủ trường cung. Vì vậy, có khả năng là trong số 3000 bộ binh mà Roger Mortimer huy động tại xứ Wales, 1.000 người mà ông huy động ở South Wales là cung thủ trường cung và hơn 2.000 người được huy động ở miền Bắc xứ Wales là các tay giáo.
Thị trấn Bristol bị triệu tập 100 tay nỏ và cung thủ, do đó, có vẻ như thị trấn này đã phải cung cấp một số lượng tay nỏ, nhưng không có sự đề cập đến tỷ lệ giữa tay nỏ và cung thủ. Lúc này nỏ vẫn là một loại vũ khí đắt tiền và nó chỉ được sản xuất và trang bị ở các thị trấn thịnh vượng, do đó nói chung lực lượng này chỉ nằm trong quân đội với một lượng tương đối nhỏ. Cây nỏ được sử dụng tại thời này được trợ lực bởi một cái móc dây nỏ hoặc đòn bẩy bằng ngón chân để nạp tên và mặc dù nó không có tốc độ bắn cao như các cây cung, nhưng không có nghĩa là chúng rườm rà và bắn chậm như những cây nỏ thép, nỏ tời được sử dụng sau này trong thế kỷ 14.
Lính người nước ngoài và lính đánh thuê trong quân đội Anh
Sử gia John Barhouu cho rằng đã có các hiệp sĩ người Pháp, Gascons, Hà Lan, Breton và người từ Poitou, Aquitaine và Bayonne trong quân đội Anh và ông nói cũng có nhiều người Scotland đã chiến đấu cho Edward II tại Bannockburn. Barbour đề cập đến các hiệp sĩ Đức và Friar Baston cũng xác nhận điều này nhưng nói rằng chỉ có bốn hiệp sĩ Đức đến mặc dù họ phục vụ “miễn phí”. Việc thuê mướn quân đội nước ngoài thường đắt tiền một cách kỳ quặc. Barbour lầm tưởng rằng Bá tước của Hainault cũng chiến đấu ở Bannockburn, trong thực tế ông này và người của mình phục vụ trong các trận chiến chống lại người Scotland vào năm 1326 và 1327 khi các hóa đơn cho sự phục vụ của họ lên đến £ 55.000 một đáng kinh ngạc mặc dù kết quả thực tiến của các chiến dịch là không có gì! khả năng là đội quân người nước ngoài của Edward được đề cập bởi Barbour vì bản chất kỳ lạ hơn là số lượng lớn của họ. Hai mươi lăm thủ lĩnh Ailen được triệu tập để phục vụ trong chiến dịch 1314 cũng như bằng đó những hiệp sĩ Anh-Ailen nhưng chúng tôi không biết có bao nhiêu trong số này tham dự trận đánh. Richard de Burgh, Bá tước đỏ của Ulster đã gặp Edward II tại Newminster Abbey ở Northumberland,\ ngày 29 tháng 5 và đã mang theo một số binh lính người Ailen cùng với ông ta.
Chiến thuật của người Anh
Những cuộc chiến ở xứ Wales và Scotland cung cấp một số ví dụ về sự bất lực của kỵ binh khi không có sự hỗ trợ của bộ binh để phá vỡ các bức tường thành vững chắc của các giáo binh. Ở trận Builth vào năm 1282, Walter Hemingburgh cho chúng ta thấy rằng người xứ Wales đã bị chia cắt và phải bỏ chạy trước kỵ binh Anh vì “ cung thủ đã phối hợp chiến đấu ở giữa kỵ binh của chúng ta.” Tương tự, tại Maes Madoc năm 1295, Bá tước của Warwick với một lực lượng kỵ binh được chọn lọc và các cung thủ đã đối mặt với các tay giáo người Bắc xứ Wales, những người ” hướng đầu ngọn giáo của họ vào những con ngựa của người Anh để chặn đứng các cuộc tấn công của họ ( kị binh Anh ). Nhưng vị Bá tước đã bố trí mỗi một tay nỏ giữa mỗi cặp kị sỹ, hoặc một số lượng cung thủ nhỏ và khi rất nhiều các tay giáo bị hạ gục bởi các mũi tên, kỵ binh lại tấn công một lần nữa và họ đã đánh bại đối thủ rồi sau đó là một trận tàn sát lớn “ các tài liệu của sử gia Nicholas Trevet cho thấy rõ ràng sự kết hợp giữa kỵ binh và cung thủ đã được chứng minh là không thể chống đỡ được chứ không phải là chỉ của riêng kỵ binh. Heminburgh tiết lộ rằng, ở trong trận chiến Falkirk năm 1298, lực lượng kỵ binh vô kỷ luật của Edward đã tấn công vào các tay giáo Scotland “ những người giống như một tấm gỗ dày và không có thể mở được một con đường của họ trước một số lượng lớn các tay giáo … Nhưng bộ binh của chúng tôi đã bắn vào chúng những mũi tên và bắn đá vào họ làm cho rất nhiều người trong số họ đã ngã gục. Vì vậy, nhiều người đã bị giết và hàng ngũ ở phía trước bị đẩy lùi về phía sau và tạo ra lộn xộn và sau đó thì kị binh của chúng tôi đã phá vỡ và đánh bại họ” Avmer de Valence, Robert Clifford, Henry Beaumont, Humphrey de Bohuri và Giles d’Argentan tất cả đều đã từng chiến đấu ở Falkirk, nhưng không một trong số đó dường như tận dụng được kinh nghiệm, nhất là Clifford và Beaumont, những người rõ ràng đã dẫn đầu lực lượng kỵ binh của họ để tiến hành các cuộc tấn công đẫm máu chống lại các tay giáo của Moray mà không có bộ binh hỗ trợ.
Quân đội của Edward II không phải là một lực lượng chọn lọc có kỷ luật như quân của Bá tước Warwick đã chỉ huy tại trận Mac Madoc. Quân đội Anh ở Bannockburn là một đội quân lớn, cồng kềnh và vô định hình, được tập hợp bởi các yếu tố khác nhau do một vị vua chưa từng là người lính chỉ huy. Vấn đề chiến thuật kết hợp giữa kị binh và bộ binh hàm ý một sự kết nối khoảng cách giữa hai tầng lớp xã hội vốn đang tồn tại ( Kị binh-quý tộc nhà giàu và bộ binh-cung thủ người nghèo) ở Bannockburn có lỗ hổng lớn. Các chỉ huy bất tài đã cho phép các hiệp sĩ kiêu ngạo và tự tin hơn và cố ý coi thường những bộ binh ở xã hội cấp dưới và lao vào những cuộc tấn công thảm họa vì không có sự hỗ trợ của bộ binh. Lực lượng bộ binh thì tất nhiên nếu họ biết rằng kị binh đã bị đẩy lùi và tháo chạy thì đương nhiên là tất cả bọn họ cũng tháo chạy để cứu lấy bản thân họ để tránh chở thành thức ăn cho thần chết. Chỉ khi nào cả hai yếu tố này được kết hợp thì họ mới có thể đứng vững, do đó tại Bannockburn khi bộ binh thấy sự thất bại của kỵ binh, họ biết rằng trận chiến đã thất bại và nghĩ đầu tiên của họ là tẩu thoát.
Quân đội Scotland năm 1314
Scotland là một đất nước nhỏ bé và nghèo khó, họ không bao giờ có thể đưa ra chiến trường một lực lượng kị binh lớn để đối mặt với đội quân thiết kỵ thượng võ của Anh. Quân đội Scotland về cơ bản là bộ binh, và họ dựa vào các schiltron của các tay giáo của họ để chịu đựng gánh nặng tác chiến với sự hỗ trợ từ các cung thủ và một lực lượng nhỏ kỵ binh hạng nhẹ. Dân số của Scotland vào đầu thế kỷ 14 chỉ bằng một phần năm của Anh ( chưa kể người Anh lại huy động được quân từ xứ Wales, Irland, người châu Âu… và thậm chí cả chính người Scotland ) và Robert Bruce không thể mang ra trận toàn bộ lực lượng của đất nước vì còn nhiều vùng vẫn còn ủng hộ người Anh, đặc biệt là ở Lothian nơi họ dễ bị đặt vào thế bị trả đũa nên vẫn thận trọng và chọn lập trường trung tính.Tuy nhiên, quân đội mà Bruce tập hợp bên ngoài Stirling trong mùa hè năm 1314 là một lực lượng có sức chiến đấu cao, được đào tạo tốt và chỉ huy tốt và họ có một động lực duy nhất về mục đích chiến đấu đó là đuổi người Anh ra khỏi Scotland để bảo vệ quê nhà và nền độc lập của họ. Bruce đặt niềm tin của mình không phải vào số lượng mà vào tinh thần của binh sỹ và ông nói với tất cả những người thiếu can đảm rằng đó là thời gian mà họ có thể bỏ đi bởi vì ông chỉ cần những người đàn ông-người sẽ “ chết hoặc chiến thắng trong danh dự.” Ngoài ra mặc dù biết rằng quân của mình sẽ ít hơn đối phương rất nhiều ( thực tế thì quân Scotland chỉ bằng hơn nửa quân Anh) nhưng Robert Bruce vẫn yêu cầu những người không có đủ binh giáp hoặc vũ khí phải quay về nhà, đây là một chi tiết nhỏ nhưng thể hiện rằng ông quyết tâm chiến thắng người Anh không phải bằng số lượng binh sỹ.
Các đội quân người Scotland như thông thường đã tổ chức thành ba đạo binh. Đạo quân Tiên phong được chỉ huy bởi Thomas Randolph, với những người được tuyển ra từ lãnh địa bá tước Moray riêng của ông, từ xa phía bắc và từ Inverness và các thị xã phía đông bắc. Đạo quân trung tâm hoặc còn gọi là đạo quân chính không được chỉ huy bởi nhà vua mà ông đã ủy quyền cho Edward Bruce-và ông này có trong đạo quân của mình người từ Buchan, Mar, Angers, Mearns, Menteith, Strathearn, Lennox và một đội ngũ đến từ Galloway. Vua Robert chỉ huy lực lượng dự trữ hoặc đạo hậu quân, đó là những người đến từ Carrick đất riêng của ông cùng với người ở vùng đồng bằng phía nam Scotland, đội ngũ từ đến từ các bộ tộc cao nguyên và người của Angers Og MacDonald đến từ Argyll và các hòn đảo phía Tây.
Nguồn tin của người Anh công bố rằng đã có ba có ba đạo bộ binh thông thường của người Scotland tại Bannockburn, nhưng sử gia Barbour cho biết thêm một đạo binh thứ tư được chỉ huy bởi James Douglas và Steward trẻ tuổi và cao quý của Scotland. Sử gia Barbour cũng cho chúng ta biết. Robert Bruce đã tung Jaymes Douglas, Marshal và Sir Robert Keith đi thăm dò về cách tiếp cận của quân đội Anh trước trận chiến “ Họ trèo lên ngựa và phi về phía trước, họ có những kị sỹ tuyệt vời ở đó ”. Vào cuối cuộc chiến khi Edward II bị đánh bại bỏ chạy, Douglas với đội kỵ mã nhỏ bé của ông được lệnh truy kích đối phương, nhưng “ông có quá ít quân, thậm chí ít hơn sáu mươi kị binh trong lực lượng của ông”. Có vẻ như lúc này không chỉ Sir Robert Keith mà còn cả James Douglas cũng không nắm quyền chỉ huy lực lượng chính của kị binh Scotland ở Bannockburn, mặc dù họ đã xuống ngựa vào ngày thứ hai chiến đấu trên bộ cùng với các giáo binh. Nếu Douglas đã có một lực lượng bộ binh độc lập để chỉ huy thì ít có khả năng Bruce sẽ đã tách ông ta ra khỏi vai trò quan trọng này để chỉ huy lực lượng kỵ binh trinh sát.
John Barbour đã viết bài thơ sử thi “The Bruce “ trong năm 1376 trong triều đại vua Robert II-vị vua đầu tiên của nhà Stewart và ông cũng có thể đã đề cao vai trò của Steward trẻ tuổi và cao quý ( the young High Stewart ), tổ tiên của nhà vua đương thời, tại Bannockburn để làm chiều lòng nhà vua ( đương thời). Jaymes Douglas không phải là một nhân tố quan trọng cho đến trước năm 1314 như trí tưởng tượng của đông đảo nhân dân thường cho là như vậy, thậm chí ông ta còn không phải là một hiệp sĩ cho đến khi Bruce phong tước cho ông vào đêm 23/24 tháng Sáu. Tuy nhiên, ông ta (Jaymes Douglas) chở thành người anh hùng trong câu chuyện sử thi của Barhour ngang tầm với tầm quan trọng của chính bản thân Bruce trước khi trận chiến xảy ra cũng có thể đã được phóng đại.
Schiltron của người Scotland
Schiltrum hoặc schiltron, có nghĩa là một bức tường chắn. Đây là thuật ngữ thường xuyên được sử dụng để mô tả đội hình, thường là những vòng tròn hoặc vòng rỗng các tay giáo Scotland bởi vì từ này xuất hiện trong các tài liệu của sử gia Guisborough về trận chiến Falkirk. Barbour đã không gọi đội hình bộ binh của Scotland tại Bannockburn là schiltrums nhưng cũng không sử dụng từ để mô tả sự rối loạn của người Anh; “ tất cả các bộ phận của họ tập hợp lại với nhau trong một schiltrum”, theo đó ông muốn mô tả là một đám đông đặc các tay giáo mà không ra đội hình nào cả. Sir Thomas Grey lại mô tả những người Scotland tiến lên tại Bannockburn như là “ tất cả đứng thành hàng trong schiltron”, hoặc đứng thành hàng chặt trẽ. Binh lính đứng thành hàng chặt trẽ, không có có đội hình cụ thể, vũ khí hoặc chiến thuật này cũng được ngụ ý là schiltron.
Bộ binh Scotland
Xương sống của quân đội Scotland là những đội hình giáo binh của họ, được hình thành từ sáu hàng theo chiều sâu và tạo ra một hàng rào không thể xuyên thủng bởi những ngọn giáo đầu nhọn hoắt bằng thép trước những kỵ binh bọc thép của Anh. Không thể xuyên thủng nhưng không linh động và đông đặc do đó họ dễ bị tổn thương bởi các lực lượng có thể tác chiến ở tầm xa như cung thủ, lính bắn nỏ, quẩy đá …. Sir Thomas Grey nói rằng người Scotland đã học được một bài học từ người Flemings-những người trước đó tại trận Courtrai đã đánh bại sức mạnh vượt trội của kị binh Pháp “. Không nghi ngờ gì về việc Robert Bruce cũng biết về trận Courtrai, nhưng ông cũng đã nhận thức sâu sắc về thất bại của các giáo binh của Wallace trước người Anh tại Falkirk. Robert Bruce đã nhận ra rằng những ngọn giáo của Scotland là một loại vũ khí dài, nặng và rườm rà và chỉ có hiệu quả nếu các binh sỹ được tổ chức và đào tạo tốt. Ông biết rằng sẽ là không đủ nếu các tay giáo đứng vững trước cuộc tấn công nhanh của kỵ binh; đội hình của ông còn phải có khả năng tiến lên và tấn công trực tiếp về phía trước nếu họ đóng vai trò quyết định của trận đánh. Các hành vi của các tay giáo của Bá tước Moray trong ngày 23 tháng Sáu đã minh họa không chỉ khả năng cơ động của họ, khi lực lượng của ông này nhanh chóng chiếm lấy chiến trường mở để chặn con đường rút lui của Clifford về lâu đài Stirling Castle, nhưng cũng cho thấy rằng họ được đào tạo để các hàng giáo binh đứng phía sau có thể đối mặt và đối đầu với sự bao vây của kỵ binh. Chúng ta không thể tưởng tượng nổi, tuy nhiên có một thời điểm ở thời trung cổ quân đội của người Scotland đã thực hiện với sự chính xác những gì lính Vệ binh Phổ-ở thời đỉnh cao của họ, đã thể hiện một sự đồng nhất về mục đích thay vì hướng tới những mục tiêu cá biệt, lẻ tẻ.
Chúng tôi đã dành một cái nhìn thoáng qua một số loại vũ khí và trang thiết bị của bộ binh Scotland trong một nghị định được ban hành bởi Nghị viện Scotland tại Scone trong năm 1318, nó đã quy định rằng một người đàn ông có tài sản trị giá £ 10 đổ lên phải có một thanh kiếm, găng tay và mũ sắt một tấm kiểubascinet, áo giáp của họ có thể là một áo đệm bông kiểu akheton hoặc áo giáp sắt kiểu haubergeon mail. Một phân loại thứ hai là những người đàn ông có tài sản giá trị tương đương một con bò phải tự trang bị một cây giáo hoặc một cây cung. Mặc dù áo giáp không được đề cập tới, người ta biết rằng đây là các thiết bị tối thiểu mà họ đã được yêu cầu để mang đến cho các cuộc tập hợp. Rõ ràng các cung thủ cũng là một phần của quân đội Scotland, nhưng chúng tôi không thể xác định được tỷ lệ giữa các tay giáo và tay cung. Ở những vùng đất thấp ( thung lũng) bộ binh-phần lớn nhất của quân đội Scotland, về cơ bản không có nhiều khác biệt với các đối thủ người Anh của họ. Không có đề cập đến một tấm lá chắn lớn hoặc chiếc khiên nhỏ; lực lượng bộ binh là những tay giáo và họ cần cả hai tay để nắm chắc loại vũ khí khó sử dụng này và không có chỗ cho các tấm lá chắn trong mật độ dày đặc của các giáo binh Scotland. Tiền thu được từ 30 quận phía bắc của Anh được dùng để tài trợ cho những nỗ lực chiến tranh của Robert Bruce, cho phép ông trang bị cho người của mình với những áo giáp chất lượng tốt và vũ khí mua từ Vùng đất thấp ( Hà Lan? ) và các thị trấn của Hanseatic ( Đồng minh thương mại Bắc Âu và cũng là bạn hàng truyền thống của người Scotland ).
Có những người đến từ Argyll, Kintyre và quần đảo phía Tây tại trận Bannockburn và theo truyền thuyết thì một số các bộ tộc ở vùng cao nguyên Scotland đã khẳng định rằng họ có hiện diện ở đó. Những người ở cao nguyên đã chiến đấu trong các phần của quân đội của vua Robert ( thực ra đây không còn là quân đội của riêng nhà vua R. Bruce nữa mà là quân đội của nhân dân Scotland ), và có thể là ngoài những trang phục kỳ dị của họ, họ đã chiến đấu như những giáo binh ở vùng đồng bằng hoặc như là những tay cung thủ. Chúng ta không thể biết được một cách chắc chắn là vua Robert huấn luyện quân sĩ như thế nào, nhưng có thể rằng là những người đàn ông được tập hợp trong các đơn vị nhỏ cho đến khi đủ người để rồi lại được tập hợp vào những đơn vị lớn hơn. Các sự kiện của trận chiến hai ngày là một chuỗi các mệnh lệnh có hiệu quả giữ vững cấu trúc của quân đội lại với nhau và cho phép Robert Bruce áp đặt các mệnh lệnh chiến thuật tích cực của mình vào quân đội Scotland trong ngày hôm sau.
Các cung thủ Scotland
Người Scotland rõ ràng là thiếu các cung thủ trước ngày mà vua Robert xuất hiện và có bằng chứng rằng ông đã thay đổi nghĩa vụ phong kiến của các hiệp sĩ để đổi lấy các cung thủ và khắc phục nhược điểm này. Một ví dụ của sự thay đổi được cung cấp bởi Nam tước của The Manor tại Tweeddale, thay vì phải cung cấp một hiệp sĩ, vị Nam tước này phải cung cấp 10 cung thủ. Rõ ràng Bruce biết rõ sự nguy hiểm gây ra bởi các cung thủ trường cung Anh và dự định để chống lại mối đe dọa này bằng một lực lượng lớn của riêng mình. Phần lớn các cung thủ được tuyển từ vùng biên giới và miền nam Scotland, mặc dù cung đã được sử dụng ở vùng cao nguyên quá. Cung thủ người Scotland được trang bị các cây trường cung bằng gỗ thủy tùng có thể được nhập khẩu qua các cảng của Hanseatic. Sau này một minh họa không thể nhầm lẫn về cây trường cung của người Scotland được tìm thấy ở một ngôi mộ táng ở tại Arisaig. Không có lý do để cho rằng người Scotland đã sử dụng những cây cung ngắn hơn, ít mạnh mẽ hơn so với các đối thủ người Anh và xứ Wales của họ, sự tự ti của họ là nằm ở số lượng hơn là chất lượng của các cây trường cung.
Các tay búa trận ( rìu chiến ) người Scotland
Chiếc rìu chiến Lochaber là một vũ khí quen thuộc của người ở vùng Cao nguyên và chiếc rìu Jedart tương tự loại búa trận polearrn ( búa trận hai lưỡi) đây là loại vũ khí khủng khiếp đầy hiệu lực được sử dụng ở vùng đất thấp. Có khả năng là một phần binh sỹ Scotland tại Bannockburn đã chiến đấu với những loại vũ khí này, có thể đứng xen kẽ trong các nhóm với các tay giáo. Sử gia Barbour đã đề cập đến những chiến binh-những người lao ra khỏi đội hình của họ, bổ gục những con ngựa … và hạ gục nốt những kị sỹ của chúng “. Rõ ràng những người này đã không trang bị cồng kềnh mà họ được trang bị những thanh kiếm, dao găm, rìu và búa trận polearm… những loại vũ khí phù hợp cho cận chiến.
Kỵ binh Scotland
Lực lượng kỵ binh nhỏ bé của người Scotland dưới sự chỉ huy của Sir Robert Keith-hậu duệ của nhà Marshal, có thể có số lượng ít hơn 500 người. Dường như là không có nhiều hiệp sĩ được thiết giáp đầy đủ trong số họ. Vai trò của họ-ngược lại với lực lượng kị binh hạng nặng của Anh, không phải là một lực lượng tấn công chính và họ cũng không được sử dụng để chống trả mối đe dọa từ kị binh hạng nặng của Anh. Vai trò của họ là của kỵ binh hạnh nhẹ và vì vậy họ có nhiệm vụ do thám những bước tiến của quân đội Anh và báo cao cho Bruce về sức mạnh của kẻ thù. Họ không có khả năng đối mặt với kỵ binh Anh và có thể trong thực tế họ đã xuống ngựa để chiến đấu bên cạnh các giáo binh vào ngày thứ hai của trận đánh. Tất cả các nguồn tài liệu đương thời đều đồng ý rằng tất cả người Scotland đều chiến đấu trên bộ tại Bannockburn và không đề cập đến các kỵ binh Scotland và điều này đã được dùng làm bằng chứng để phủ nhận sự tồn tại của họ. Tuy nhiên, tài liệu của John Barbour cho biết lực lượng trinh sát bằng kị binh do Douglas và Keith chỉ huy là hoàn toàn đáng tin cậy, cũng như câu chuyện về sự bất lực của Douglas tại cuối cuộc chiến vì không có đủ kị binh để truy kích một cách hiệu quả vua Anh đang tẩu thoát. Chỉ có của câu chuyện của Barbour về việc kỵ binh Scotland tấn công và kết quả là các cung thủ Anh phải bỏ chạy là vấn đề phải xem xét. Liệu một một lực lượng nhỏ kỵ binh hạng nhẹ có thể tấn công một đội cung thủ Anh đủ lớn để tạo ra một mối đe dọa cho sự tiến quân của bộ binh Scotland? Có thể là Barbour đã phát minh ra các sự kiện để che lấp thất bại không thể bào chữa được của các tay cung đã làm ảnh hưởng đến cuộc chiến. Tuy nhiên, ông ta cũng đã thuyết phục và thông báo cho một nhà văn bỏ chi tiết này trong tài liệu của mình đi chỉ đơn giản là vì các nguồn tài liệu của Anh, vốn đã phải thừa nhận là trước đó, đã không đề cập đến chúng (kị binh nhẹ Scotland).
Gần đây có tin đồn về sự hiện diện của các hiệp sĩ Dòng Đền tại Bannockburn. Hội này đã không còn tồn tại từ năm 1312 sau khi đã chính thức bị đàn áp bởi Đức Giáo Hoàng. Pháp xử lý Dòng Đền và 45 hiệp sĩ Templar bằng cách thiêu sống họ ở Paris trong năm 1314. Ở Anh các Hiệp sỹ templar bị tước đoạt một cách đàng hoàng hơn và Thủ lĩnh của Dòng đền ở đây chỉ đơn giản là được an trí nghỉ hưu. Tại Scotland, đầu tháng 10 năm 1309, John de Segrave-trung úy của nhà vua, được ra lệnh khoanh vùng các Hiệp sỹ dòng Templar ở trên phạm vi quốc gia. Hoàn toàn có thể là các cựu thành viên của Hiệp sỹ Dòng Đền ở Scotland đã chiến đấu trong hàng ngũ quân đội của vua Robert, nhưng họ sẽ không làm như vậy nếu tuân theo biểu ngữ nổi tiếng “ Beauseant “ của các Hiệp sỹ Templar.
KẾ HOẠCH CỦA CÁC BÊN ĐỐI ĐỊCH
KẾ HOẠCH CỦA NGƯỜI ANH
Số lượng người mà Edward II đã triệu tập để phục vụ trong năm 1314 và quy mô của sự chuẩn bị và đào tạo rất lớn của ông cho đoàn quân chinh phạt Scotland cho người ta thấy rằng đây là một cuộc xâm lược toàn diện nhằm mục đích không có gì khác hơn là nô dịch hoàn toàn Scotland. Hiệp ước giữa Philip Moubrav và Edward Bruce chỉ làm tăng thêm sự cấp bách để chuẩn bị cho cuộc xâm lược và thời hạn cuối để Edward phải xuất hiện ở Lâu đài Stirling Castle. Tòa lâu đài vô cùng hùng mạnh được xây dựng trên những khối đá tảng lớn thống trị các thị trấn và các cây cầu trên Sông Forth đã nằm trong tay người Anh kể từ khi Edward I chiếm được nó trong năm 1304. Bất kỳ cuộc xâm lược nào vào Scotland đều phải tính đến vị trí chiến lược của nó trong eo đất tại điểm cầu nối đầu tiên của sông Forth, canh giữ phần cổ hẹp giữa Firth of Forth và Clyde; nó sở hữu con đường huyết mạch đi về phía bắc của Scotland.
Các kế hoạch hậu cần của chiến dịch đã được giao cho các sỹ quan có năng lực và quân đội Anh đã được cung cấp đầy đủ bởi bộ phận quân nhu khi họ hành quân một cách có tổ chức về phía bắc. Vua Edward đã nhận được các báo cáo tình báo tốt về sự chuẩn bị của người Scotland ở gần Stirling, ông không thiếu các cố vấn giàu kinh nghiệm và dường như đã nhận thức được giá trị của lực lượng bộ binh trong tại địa hình khó khăn ở Scotland. Tuy nhiên, không có bằng chứng từ các sự kiện cho thấy rằng Edward II đã suy nghĩ về kế hoạch của trận chiến ở Bannockburn và ông cũng không thể hiện sự kiểm soát vào quân đội của mình mặc dù điều này giúp ông có lên một kế hoạch vận hành. Nếu nhà vua đã từng học được một bài học nào đó từ cuộc chiến xứ Wales và trận chiến của Falkirk thì chúng đã bị lãng quên; không có ý tưởng cho một chiến thuật tấn công kết hợp giữa bộ binh và kỵ binh. Các hiệp sĩ cứng đầu được phép tấn công độc lập một cách chất phác để cố gắng đột kích xuyên qua các lớp giáo binh của Scotland. Edward giả định rằng chỉ trong đợt tấn công của ngày đầu tiên người Scotland sẽ bị vỡ trận. Thực tế đã chứng minh đây là một sai lầm bởi sự kháng cự mạnh mẽ của người Scotland và bởi sau khi kết thúc ngày đầu tiên thì bất cứ kế hoạch nào mà nhà vua đã đặt ra đều trở thành vô ích. Ông ta đã bị mất quyền kiểm soát trận đánh và ưu thế đã được chuyển sang cho người Scotland.
KẾ HOẠCH CỦA NGƯỜI SCOTLAND
Robert Bruce biết rằng quân đội của Edward II có thể đã được dự kiến đến Stirling Castle trước ngày hè của năm 1314. Đội quân nhỏ nhưng đã trải qua thử thách của Robert Bruce đã cố gắng để trở thành hạt nhân của một đội quân lớn hơn mà ông đã tập hợp được ở Torwood để đáp ứng với mối đe dọa này. Người ta không chắc chắn rằng liệu Bruce có ý định quyết chiến trận này vì rõ ràng là ông chỉ có ý định quấy rối đối phương trong rừng các con đường đến Stirling từ phía nam đều phải chạy qua đó và có thể ông cũng đã cho đào một loạt các hố hoặc bẫy để cản trở bước tiến quân của kị binh Anh. Ông là một viên chỉ huy cực kỳ cẩn thận và trong suốt sự nghiệp của mình, ông đã hiển thị một sự miễn cưỡng để tham gia vào một trận đánh mạo hiểm với một kết quả không chắc chắn khi mà số lượng của đối phương chống lại ông và đã có thông tin từ lực lượng trinh sát của mình rằng người Anh đang tiến lên với một sức mạnh khủng khiếp.Trong cuộc xâm lược trước đây của Edward II vào Scotland trong năm 1310, Robert Bruce đã trả lời bằng cách rút sâu vào bên trong nội địa để lại các vùng đất bị đốt cháy và không có thực phẩm cùng cỏ xanh cho ngựa cho đến khi trời mưa lạnh và mùa đông và chi phí cung cấp cho một đội quân lớn trong vùng trở nên đắt đỏ bắt buộc người Anh phải rút lui. Việc Robert Bruce đã bố trí vùng New Park ( nơi nếu tránh giao chiến Robert Bruce sẽ cho rút quân về đó ) cho thấy rằng ông đã hoàn toàn tính đến mọi tình huống kết quả của trận đánh trong tâm trí. Bị đánh bại bên ngoài Stirling sẽ gây tác hại cho sự nghiệp của ông nên ông phải suy nghĩ về số phận của Wallace và hoàn cảnh tuyệt vọng của người Scotland sau thất bại ở Falkirk.
Nhưng nhược điểm trong chiến thuật Fabian là lâu đài Stirling sẽ được giải vây và cánh cửa phía bắc và Perth-chiếc cảng quan trọng chiến lược sẽ được mở tung. Edward sẽ có thể đạt được nhiều hơn so với một mỏm cụt trên đất nước này trước khi mùa đông bắt đầu. Đó là một mùa hè dữ dội và các cựu binh trong quân đội của Scotland cùng với những người mới ra nhập háo hức cho một trận chiến đấu, do đó, Bruce đã quan tâm đến một bố trí cho phép ông ta không chỉ có thể rút lui một cách an toàn mà còn có thể đối mặt và chiến đấu nếu có một cơ hội thuận lợi để ra tay.
BẮT ĐẦU CHIẾN DỊCH
Cuộc bao vây Lâu đài Stirling
Tháng 10 năm 1313 mối bất hòa giữa Edward II với Bá tước của Lancaster và phe của ông đã được xoa dịu, Bá tước Lancaster đã chuyển lời xin lỗi khiêm tốn về vai trò của ông ta trong vụ sát Gaveston và được ân xá. Tình hình chính trị bây giờ đã ổn định, đủ để cho Edward chuyển sự chú ý của ông đến tình trạng tuyệt vọng tại Scotland và vào tháng 11 ông đã quyết định bắt đầu chiến dịch. Tháng 10 năm 1313, tại một cuộc họp Quốc-hội ở Dundee, Robert Bruce đã cho những người Scotland vẫn chưa chịu ký kết hòa bình với ông một năm để tới thề trung thành hoặc họ sẽ bị đất đai của họ. Vào cùng thời gian này các quý tộc Anglo-Scot của Lothian kêu gọi sự bảo vệ Edward II và ông ta có lẽ được báo động bởi mối đe dọa từ Robert King, đã hứa hẹn sẽ mang đến Scotland một đội quân vào giữa mùa hè năm sau. Đầu năm 1314 vị trí của người Anh tiếp tục trở nên xấu đi khi James Douglas đã tấn công bất ngờ và chiếm được Roxburgh-một lâu đài quan trọng và không chịu thua kém Douglas, Thomas Randolph đã chiếm lâu đài Edinburgh trong một cuộc tấn công táo bạo bằng thang vào ban đêm. Bên ngoài Lothian chỉ còn Bothwell và Stirling là các cứ điểm mạnh vẫn nằm trong tay người Anh. Walter Gilbertson-người cai quản thành trì Bothwell, bị cô lập và không phải là mối đe dọa ngay lập tức nên sau sự sụp đổ của Edinburgh, vua Robert đã chuyển sự chú ý của ông đến việc công phá lâu đài Stirling Castle-vị trí phòng vệ của con đường giữa phía bắc và phía nam của vương quốc. Edward Bruce nhận được sự ủy thác của người anh của mình cho cuộc bao vây Lâu đài Stirling, nhưng vì không các dụng cụ bao vây công thành nên ông không làm được gì nhiều ngoại trừ việc phong tỏa tòa lâu đài và chờ đợi. Philip Moubray-vị thống đốc bị bao vây, nhận ra rằng Stirling thất thủ chỉ là vấn đề thời gian và đã tiến hành một thỏa thuận với Edward rằng nếu ông không được giải vây trước ngày 24 tháng 6 ông ta sẽ nộp lại tòa lâu đài. Sự thỏa thuận mang tính nghĩa hiệp như vậy xảy ra khá phổ biến trong thời đó và trên thực tế cho phép nhà vua tiến hành cứu viện cho nơi đang bị bao vây. Trong ngày 27 tháng 5 Edward II, người đã đang trên đường đi về phía bắc để tập hợp quân đội của mình ở Berwick, đã được thông báo về thỏa thuận, sự kiện này đã gây áp lực với ông ta là phải cứu viện cho Stirling ngay trước thời hạn này. Có thể ông ta đã được cảnh báo bởi các tín sứ rằng địa hình ở phía nam của lâu đài là không thuận lợi và thực tế là quân đội Scotland đã chiếm một vị trí rất mạnh ở đó. Vua Robert đã tỏ ra không hài lòng với cử chỉ nghĩa hiệp của người em trai của mình đối với Moubray. Ông ta nhận ra rằng thời hạn cuối cùng này sẽ thúc ép vua Anh phải hành động và rằng trong khoảng thời gian đã thỏa thuận thì lâu đài có thể được giải vây. Phải cần đến một trận chiến để ngăn chặn quân tiếp viện và ông không muốn tiến hành một hành động sai lầm nào mà nó có thể sẽ phá hủy những gì mà ông đã gây dựng được cho đến lúc đó.
Đầu tháng 3 năm 1314 Edward II bắt đầu ban bố hàng loạt mệnh lệnh để tập hợp người và vật tư cho cuộc xâm lược vào Scotland. Tiền để chi trả cho chiến dịch này được tài trợ bằng một khoản vay từ Giáo hoàng-khoản vay này được thế chấp bằng thu nhập từ các vùng đất của Edward ở Pháp. Aymer de Valence-Bá tước Pembroke được chỉ định là trung úy của Vua tại Scotland. Ngày tập hợp được ban bố là ngày 10 tháng 6 và từ sở chỉ huy của mình ở Berwick, Pembroke tổ chức các đội thu gom dọc theo Tweed dưới sự che trở của các pháo đài lớn như Norhann và Wark dọc biên giới. Một số lượng lớn thực phẩm và trang thiết bị đã được đưa tới phía bắc bằng đường biển và bởi vì người Anh không có cơ sở cung cấp an toàn ở Scotland, một đoàn xe khổng lồ được tập hợp để vận chuyển đồ cung cấp cho quân đội bằng đường bộ. Ông đã cho dự trữ và vận chuyển tất cả mọi thứ cần thiết cho chiến dịch. Tiến quân một cách thong dong và vào ngày 29 tháng 5 Edward II đã ở phía bắc Bắc và gặp ông ta (Aymer de Valence-Bá tước Pembroke) ở Lâu đài Newminster Abbey ở vùng Northumberland. Các thành viên của chính phủ cũng đi kèm với ông ta và việc kiểm soát hàng ngày cần thiết cho việc quản lý vương quốc đã không còn được kiểm soát trong suốt chiến dịch (vì các thành viên của chính phủ đã đang đi cùng nhà vua ). Mặc dù nhiều thành viên của chính phủ đã ở lại Berwick khi mà Edward hành quân vào Scotland, một số lượng đáng kể tài liệu cùng con dấu của Viện Cơ mật của Anh cùng được mang theo ông ta đến Scotland. Từ Newminster Edward đã viết thư cho mình Ủy viên của mình ở Array yêu cầu họ gửi cho ông bộ binh, ông đã cho triệu tập khẩn cấp một lực lượng bộ binh lớn bởi vì “ người Scotland đang cố gắng tập trung một số lượng lớn bộ binh ở những địa điểm hiểm yếu và vùng đầm lầy, đây là những địa điểm vô cùng khó khăn cho sự xâm nhập của kỵ binh giữa chúng ta ( quân đội Anh ) và lâu đài Stirling”. Đây là bằng chứng cho thấy Edward đã nhận được các báo cáo tình báo tốt và đã ông đã đánh giá cao sự cần thiết phải có một lực lượng bộ binh đủ mạnh để đánh bại người Scotland lúc này đang chiếm các vị trí ở phía trước con đường tiến tới Lâu đài Stirling trong chiến dịch sắp tới. Một lời kêu gọi huy động quân đội vào cuối của tháng 5 làm cho họ chỉ có ít thời gian để đến được nơi tập hợp, vì các tay nỏ được triệu tập từ Bristol phải mất ít nhất ba tuần để hành quân đến Berwick. Các tay giáo ở miền Bắc xứ Wales có thể đến địa điểm tập hợp trong khoảng 17 ngày nhưng các cung thủ ở miền Nam xứ Wales có thể phải cần đến hơn một tuần dài hơn nữa. Có thể vì thiếu bộ binh mà cuộc xâm lược này đã bị trì hoãn cho đến thời điểm cuối cùng. Khi ông đến Berwick, Edward-một người vốn hào phóng một cách vô hạn bằng tài sản của người khác, đã khuyến khích những người đi theo mình bằng cách phân phối đất đai và các chức danh ở Scotland trước khi ông bắt đầu cuộc chinh phục của mình.
EDWARD II HÀNH QUÂN VỀ PHÍA BẮC NGÀY 17-22 THÁNG 6 NĂM 1314
Ngày 17 tháng 6 quân Anh vượt sông Tweed tại Wark và Coldstream theo rất nhiều đội hình hàng dọc và đi trên con đường nhấp nhô từ Merse of Berwickshire về phía chân đồi Lamermuir Hil, một ngày hành quân dễ dàng. Edward đã xem xét những lợi thế của việc sử dụng ven biển để đi về phía trước từ Berwick, nhưng rồi ông lại chọn con đường trong nội địa bởi vì nó thích hợp cho việc sử dụng xe vận tải và công việc cung cấp quân nhu qua nó trở thành nhanh hơn và trực tiếp hơn về phía bắc cho quân đội của ông. Thời tiết mùa hè năm đó rất đẹp và đã không làm trì hoãn việc tiến quân và trong thực tế dường như nó ( thời tiết ) đã không có ảnh hưởng gì vào cả quá trình chiến dịch. Chúng tôi có một bằng chứng gián tiếp về thời tiết trong năm 1 314 từ tác giả của quấn “ Biên niên sử của London” người đã lên các danh sách về thương vong tại Bannockburn với những thông tin rằng năm sau năm của trận chiến mới là năm mưa. Từ đây chúng ta có thể suy luận rằng thời tiết của năm 1314 là ổn hoặc ít nhất là không có gì bất thường. Bá tước Pembroke-người biết rất rõ về đất nước này đã cưỡi ngựa dẫn đầu quân đội cùng với một toán kị binh mà không gặp sự kháng cự nào.
Vào ngày sau đó, ngày 18 tháng 6, quân Anh vượt qua Lammermuir Hill theo con đường La Mã và vượt qua một cánh đồng hoang để đến Soutra, nơi mà họ cắm trại qua đêm ở đó. Ngày hôm sau quân Anh hành quân 15 dặm trên những con đường uấn khúc đưa họ đến Edinburg. Tại đây họ phải ở lại đến ngày 21 tháng 6 để đợi đoàn xe vận tải gồm hơn 200 chiếc xe ngựa chở hành lý và đồ cung cấp vốn đi tụt lại sau đội hình kị binh và bộ binh. Edward hy vọng phần còn lại trong ngày sẽ cho phép lực lượng bộ binh mà ông ta rất cần-những người đến tập trung quá muộn, có thể đuổi kịp bọn họ. Tại cảng Leith ở gần đó, các con tầu chở hàng cung cấp của Anh đã cập bến để bốc rỡ hàng cho quân đội-những lực lượng đang nghỉ ngơi ở cách chúng khơngr 35 dặm và họ sẽ mang chúng ( đồ hậu cần ) đến lâu đài Stirling trước thời hạn cuối cùng là ngày 24 tháng 6. Vào tối ngày Chủ nhật 22 tháng 6, các đội tiền quân của quân Anh đã tiến hành bao vây Falkirk. Quân đội của Bruce tập hợp ở phía nam của Stirling, lúc này lại chuyển đến đóng ở giữa quân Anh và mục tiêu của họ và hai bên chỉ cách nhau dưới 10 dặm
The Vita ( quấn sách sử nào đó ) mô tả một bức tranh xác thực về các bước tiến của Edward vào Scotland “ Chỉ được chợp mắt nhữn giấc ngắn, thời gian để ăn còn ngắn hơn nữa. Ngựa, kị sỹ và bộ binh… di chuyển một cách nặng nhọc và không thể đổ lỗi cho việc thiếu lương thực cho thất bại của họ trên chiến trường.” Đây dường như là một sự đổ lỗi khó chấp nhận vì quân đội dường như có đủ thức ăn và hành quân 15 dặm một ngày cho đến khi họ tới được Edinburgh. Để so sánh ta có thể thấy quân đội La Mã hành quân 18 dặm 1 ngày. Tuy nhiên cuộc hành quân từ Edinburgh đến Falkirk là khá dài, khoảng 24 dặm và dường như là trong ngày hôm đó lực lượng Clifford của Beaumont cùng với lực lượng kị binh hạng nặng cùng với các thành phần kỵ binh khác của đội quân tiên phong đã vượt lên trước lực lượng bộ binh di chuyển chậm và đoàn xe hậu cần. Một sự so sánh lý thú được thực hiện giữa quãng đường quân đội của vua Edward II đã hành quân mà với quãng đường mà quân của vua Henry III đã phải vượt qua trong tháng 4 năm 1264. Trong khoảng thời gian chiến dịch Lewes, một đội quân lớn đã hành quân từ Grantham tới Aylesbury, một khoảng cách 80 dặm trong 5 ngày, trung bình 16 dặm một ngày. Các sử gia đương thời luôn nhấn mạnh vào tốc độ hành quân của Edward, và đề cập đến các buổi đêm ít ngủ. Vua Henry và lực lượng kỵ binh của ông vượt lên phía trước, thậm trí đến tận Croydon khi mà bộ binh và hành lý mới đến được Aylesbury cách xa chỗ đó 45 dặm. Dường như là khi quân Anh đến gần được vị trí của quân Scotland ở New Park trong ngày 23 tháng 6, phần lớn lực lượng kị binh-chứ không chỉ lực lượng tiên phong đã vượt lên phía trước còn lực lượng bộ binh hỗ trợ bị tụt lại phía sau còn đoàn xe tải thì bị bỏ rơi hàng dặm cách xa lực lượng bộ binh.
Trong lúc này người Scotland ở Torwood đã rút lui theo đội hình 3 đạo quân. Thomas Randolph-Bá tước của Moray chỉ huy đạo quân tiên phong-cũng là lực lượng ở gần Stirling nhất. Đạo trung quân được chỉ huy bởi Edward Bruce chiếm vị trí ở gần đạo quân của Moray. Ở xa Stirling nhất và phía Nam của đạo quân của Edward Bruce là Robert Bruce cùng với đạo hậu quân. Kị binh Scotland đã mang tin tức về việc quân Anh đã tiến đến Falkirk và Bruce ra lệnh rút lui khỏi Torwood. Vào buổi tối quân Scotland đã chiếm vị trí ở New Park phía sau Lâu đài Stirling.
TRẬN BANNOCKBURN
TRẬN BANNOCKBURN NGÀY 23-> 24 THÁNG 6 NĂM 1314
Quân đội Anh
Tổng chỉ huy-Vua Edward II
Lực lượng tiên phong
Đồng chỉ huy bởi Gilbert de Clare-Bá tước Gloucester và Humphrey de Bohun, Bá tước Hereford-Nguyên soái của Anh quốc.
Kỵ binh
600 Kỵ binh thiết giáp
250 Kỵ binh Hobelar xứ Wales được chỉ huy bởi Sir Henry de Bohun.
Bộ binh
1.500 Cung thủ trường cung
150 Xạ thủ bắn nỏ
1.500 Giáo binh
Lực lượng Trung tâm ( Đạo quân chính)
Chỉ huy bởi vua Edward II
Kỵ binh
200 hiệp sĩ và kị sỹ ở phía trước như một lực lượng vệ binh dưới sự chỉ huy của Bá tước Pembroke.
300 kỵ binh dưới sự chỉ huy của Sir Robert Clifford
300 kỵ binh Ngự lâm của vua dưới sự chỉ huy của Sir Edmund Mauley
Bộ binh
2.500 Cung thủ trường cung
150 Xạ thủ bắn nỏ
2,500 Giáo binh
Lực lượng hậu quân
Kỵ binh
600 Kỵ binh
Bộ binh
1.500 Cung thủ trường cung
150 Xạ thủ bắn nỏ
1.500 Giáo binh
Tổng cộng: 2.000 kỵ binh hạng nặng, 250 kỵ binh hạng nhẹ 11.450 bộ binh
(Cung thủ trường cung, Xạ thủ bắn nỏ, Giáo binh)
Quân đội Scotland (23/6/1314)
Tổng chỉ huy-vua Robert I
Đạo hậu quân ( Đạo quân Trung Tâm trong ngày 24 tháng 6)
Chỉ huy của bởi vua Robert I.
4 tiểu đoàn với tổng số 2.400 tay giáo
Đạo quân trung tâm (Đạo quân cánh phải trong ngày 24 tháng 6)
Chỉ huy bởi Bruce Edward-Bá tước của Carrick.
3 tiểu đoàn với tổng số 1.800 tay giáo
Đạo tiên phong (Đạo quân cánh trái vào ngày 24 tháng 6)
Chỉ huy bởi Thomas Randolph-Bá tước Moray.
3 tiểu đoàn tổng cộng 1.800 tay giáo
Kỵ binh nhẹ
Chỉ huy bởi James Douglas và Sir Keith Robert,
Marshal của Scotland
350 Kị binh Hobelar những người chiến đấu như bộ binh
Cung thủ
1.500 Cung thủ trường cung.
Địa hình tại Bannockburn
Carse of Stirling, trong đó Carse of Balquhiderock là một phần của nó, trong năm 1314 vùng đồng bằng có diện tích lớn, bằng phẳng, thấp với mặt đất lầy lội với các vỉa than bùn ẩm ướt. Nó bị khoanh vùng ở phía bắc bởi sông Forth và phía nam bởi một bờ sông hoặc vách đá dốc đứng cao đến 20 mét chạy vòng quanh, rồi sau đó chạy gần như thẳng về phía đông nam từ Stirling. Trên bờ phía tây nam địa hình khô hơn và và vững chắc hơn, mặt đất nhấp nhô và rừng dần dần xuất hiện ở khoảng hai hoặc ba dặm về phía thượng nguồn và vùng đồi hoang xung quanh đầu nguồn của Carron và Bannock phía trên the Carse 500m. Ngoài ra mùa xuân đến làm cho nước trên bề mặt của các vách đá chảy xuống từ các ngọn đồi thoát xuống Carse phẳng và vỉa than bùn, kết quả là đã ra nơi giao nhau trong của rất nhiều con suối chảy chậm các bể than bùn sâu và làm bờ sông nứt vỡ trong Thế kỷ 14, chúng được biết bởi người Celtic như là các “ pol”. Toàn bộ Carse of Stirling đã được biết đến tại thời điểm của cuộc chiến như là “ les Polles “ và nó sẽ tạo ra một trở ngại nghiêm trọng cho một đội quân lớn với đoàn xe chở hành lý của họ. Ngày hôm nay Carse of Stirling chủ yếu là đất nông nghiệp có hệ thống thoát nước tốt, phần lớn các “ pol” đã biến mất, mặc dù các địa danh của khu vực này đã tiết lộ sự tồn tại trước đó của chúng. Do vậy việc lựa chọn lối tiến quân cho quân Anh để tiếp cận Stirling từ phía nam-đông là rất hạn chế. Cách thiết thực nhất là đi dọc theo hành lang nhấp nhô trong nước giữa vùng đất hoang cao ở phía tây và bãi lầy ở phía đông. Do đó tuyến đường lý tưởng là đi dọc theo con đường cao chạy qua giữa khu vực này. Con đường trải dài tới khu rừng New Park, đó thực sự là con đường tiếp tục đi về phía bắc của Torwood, nhưng tách ra từ nó là một phần đất canh tác của thung lũng Bannock Burn. Bãi đất đã được rào chắn từ thời của Alexander III trong năm 1264 và được gọi là New Park ( Công viên Mới ) để phân biệt nó với Công viên của nhà vua trước đó ở bên dưới Stirling Castle. Phía đông New Park là các vùng đất của Balquhiderock, trong đó bao gồm một phần là cánh đồng khô ráo có thể trồng trọt và một phần là Carseland. Cánh đồng khô ráo mở rộng khoảng nửa dặm giữa khu rừng của công viên và bờ dốc đi xuống Carse đầm lầy của Balquhiderock, nó nằm giữa Bannock Burn và Pelstrearn Burn. Cả hai dòng suối chảy qua Cánh đồng khô ráo ở chỗ cao, các bờ dốc, bụi rậm và cây cối. Những hẻm núi của Bannock Burn vẫn còn giữ lại một số đặc điểm này và vẫn còn gây ấn tượng cho đến ngày nay. Năm 1314 những người sinh sống ở các điểm trên các hẻm núi của Bannock Burn được biết đến như Bannock và sau đó lại được gọi Bannockburn. Có ý kiến khác nhau là không biết trận lấy tên từ vùng này hoặc từ con suối cùng tên.
Nguồn tài liệu đương đại về trận đánh
Có ba nguồn tài khoản quan trọng bằng tiếng Anh về trận đánh; theo Vita Edwardi Secundi viết bởi Thầy tu nổi tiếng ở Malmeshury có thể được viết vào đầu 1315. Quấn Biên niên Lanercost viết bởi một Thầy tu dòng Augustin gần Carlisle, bao gồm một tài liệu đó có lẽ là bằng văn bản đồng thời với thông tin được cung cấp bởi một hiệp sĩ đã chiến đấu trong trận chiến. Trong quấn Scalacronica của Sir Thomas Grev chúng tôi có một tài liệu viết về trận chiến Bannockburn từ cha của tác giả người đã từng chiến đấu trong trận chiến. Tuy nhiên quấn biên niên này đã không được biên soạn cho đến năm 1355, khi câu chuyện về trận chiến đã phải được kể lại rất nhiều lần bởi tác giả trước khi ông cuối cùng đã đúc kết nó bằng văn bản. Ít quan trọng hơn là quấn Annales Edwardi Secundi của John de Trokelowe, được viết vào khoảng năm 1327, và quấn biên niên của Geoffrey le Baker năm 1341. Cả hai mô tả máy móc trận chiến, nhưng lại xóa đi các sự kiện, thiếu kết luận và thêm bớt vào so với các tài liệu trước đó. Quấn Canon của Bridlington, viết trong Thập kỷ 1330 cũng có chút ít bổ sung thêm bớt.
Từ quan điểm của người Scotland nguồn chính của trận Bannockburn được lấy từ các bài viết của John Barbour, phó chủ giáo của Aberdeen, người đã hoàn thành quấn sử thi về tiểu sử của Robert Bruce trong năm 1376. Nó có một đoạn dài và thuyết phục mô tả về trận chiến, trong đó thống nhất về nhiều mặt với các tài liệu mà chúng tôi ( Peter Amstrong và Graham Turner tác giả quấn này) có từ các nguồn tiếng Anh. Barbour có thể đã viết quấn sử thi này 60 năm sau cuộc chiến, nhưng đối với tác phẩm của mình, ông đã dựa vào các nguồn văn bản mà bây giờ đã thất lạc và câu chuyện ông đã nghe trong những năm qua từ một cựu binh sống sót, mặc dù chỉ còn lại đúng cái tên của ông là Sir Alan Cathcart, đã nói với ông về cuộc phiêu lưu của mình với Edward Bruce ở Galloway. Đây là phương pháp thực tế của bất kỳ việc nghiên cứu về lịch sử, cổ đại hay hiện đại.
Từ quan điểm của người Scotland nguồn chính của trận Bannockburn được lấy từ các bài viết của John Barbour, phó chủ giáo của Aberdeen, người đã hoàn thành quấn sử thi về tiểu sử của Robert Bruce trong năm 1376. Nó có một đoạn dài và thuyết phục mô tả về trận chiến, trong đó thống nhất về nhiều mặt với các tài liệu mà chúng tôi ( Peter Amstrong và Graham Turner tác giả quấn này) có từ các nguồn tiếng Anh. Barbour có thể đã viết quấn sử thi này 60 năm sau cuộc chiến, nhưng đối với tác phẩm của mình, ông đã dựa vào các nguồn văn bản mà bây giờ đã thất lạc và câu chuyện ông đã nghe trong những năm qua từ một cựu binh sống sót, mặc dù chỉ còn lại đúng cái tên của ông là Sir Alan Cathcart, đã nói với ông về cuộc phiêu lưu của mình với Edward Bruce ở Galloway. Đây là phương pháp thực tế của bất kỳ việc nghiên cứu về lịch sử, cổ đại hay hiện đại. Barbour đã đưa ra phần xương của câu chuyện với các chi tiết đã kết nối các sự kiện một cách sống động nhưng ông đã bị cáo buộc là đã sáng tạo một cách trầm trọng và bởi vì các chi tiết của ông đã không được chứng thực bởi các tài liệu khác và không khớp với các bài viết của rất hiếm các tác giả ở trận chiến. Các tài liệu Vita, Lanenosl và Scalaronica-tất cả đều không đầy đủ và làm trầm trọng hơn các sai lệch về chi tiết. Ngay cả nguồn tài liệu giá trị nhất -Vila
Người Scotland triển khai – thứ Bảy ngày 22 tháng 6
New Park là một khu rừng săn bắn được bảo vệ bằng một hàng rào khoảng một dặm từ phía bắc tới phía nam và khoảng hai dặm từ phía đông sang phía tây. Công viên được định vị ở khoảng nửa dặm về phía bắc của Bannock Burn tại điểm mà con đường chính, đây chính là con đường mà người Anh dự kiến sẽ đi vào để tiến vào khu rừng. Tại đây, tại “lối vào” New Park, vua Robert đã cho dừng lại và cho dấu hậu đội của ông vào khu rừng thưa. Bá tước Moray với đội tiên phong đã ở tại Kirk of St Ninian-phía bắc của hậu đội của nhà vua. Đạo quân của Edward Bruce ở vào vị trí nào đó giữa hai người để khống chế con đường. Người Scotland vẫn còn duy trì lệnh hành quân để rút lui của họ, nhưng họ đã ẩn nấp trong rừng để người Anh không thể biết được là họ sẽ đối mặt với kẻ thù từ bên cánh hay đối mặt: trong trường hợp họ tấn công từ cả hai hướng, the “ Smal Folk”-những người đi theo phục vụ chiến đấu được gửi đến thung lũng có thể là một trong những hốc ở Coxet Hill, nơi họ được an toàn ở xa khỏi bãi chiến trường vì Bruce muốn chỉ những người có thể chiến đấu được sẽ đứng bên cạnh ông khi người Anh kéo đến gần.
Bruce đã ra lệnh cho đào hàng loạt các hố được ng.uỵ trang hoặc bẫy ngựa ở trên bờ ruộng hoặc bên cạnh con đường, nơi mà ông nghĩ rằng người Anh sẽ phải đi qua nếu-họ muốn di chuyển qua công viên để đến được Tòa lâu đài Stirling. Có bằng chứng rằng họ đã ở một bên của con đường khi mà có thể ông dự kiến về một cuộc tấn công vỗ mặt vào New Park.
Chủ nhật 23 tháng 6 năm 1314 – những động thái đầu tiên
Vào đầu ngày chủ nhật buổi sáng người Scotland vẫn còn ở các vị trí mà họ đã rút về từ ngày hôm trước và chờ đợi quân Anh với tinh thần hăng hái cao. Kỵ binh của Douglas và Keith được tung ra để trinh sát hướng tiến quân của quân Anh từ Falkirk. Sir Philip Mouhray-quan trấn thủ của Lâu đài Stirling Castle, có lẽ đã có được sự cho phép của Robert Bruce, đã cưỡi ngựa ra gặp nhà vua (Edward II) khi ông này tiến quân qua Torwood. Moubray nói với Edward rằng lúc này quân Anh chỉ còn cách Lâu đài Stirling có 6 dặm và sẽ đến đó trước Ngày thánh St John’s tức là ngày 24 tháng 6, và theo điều khoản của thỏa thuận của ông ta với người Scotland có nghĩa là lâu đài đã được giải vây, lời hứa danh dự vẫn được giữ trọn vẹn và ông ta khuyên nhà vua không cần phải tiến xa hơn nữa. Có thể là người Scotland muốn rút lui mà không phải chiến đấu và cũng có thể là Moubray-vốn cũng là người Scot nên không muốn chiến tranh. Ông ta biết rằng lực lượng của Bruce là cực kỳ nguy hiểm và cảnh báo Edward về thực lực của người Scotland ở New Park, nơi mà rừng cây đã cản trở sự qua lại bằng cách chắn ngang con đường nhỏ hẹp. Người ta không biết rằng lời khuyên khôn ngoan này có lọt vào những đôi tai điếc nặng không? Chỉ biết rằng rồi sau đó một nhóm nhỏ của đạo quân tiên phong của Anh đã nôn nóng tiến lên và lực lượng kỵ binh trinh sát của Scotland liên tục rút lui. Có vẻ như lúc này mọi việc đã ngoài tầm kiểm soát dù rất kém hiệu quả của Edward II
Trong khi đó, Robert Bruce đã rất chăm chú khi nghe Douglas báo cáo về lực lượng của quân Anh đang kéo tới và chỉ nói rằng ông này không được đưa ra các cảnh báo gây hoang mang mà chỉ thông báo với quân Scotland rằng người Anh đang tiến đến trong một đội hình vô cùng rối loạn. Trong thực tế điều này là đúng, những toán quân đi đầu lao lên phía trước bất chấp toàn quân bị rơi lại phía sau và bị tản mát trong nhiều dặm ở phía sau. Sự chỉ huy cũng ở trong tình trạng lộn xộn tương tự như vậy, King Edward đã có một hành động dại dột khi tỏ ra thiên vị đối với người cháu trai của ông-vị Bá tước trẻ tuổi của Gloucester khi bổ nhiệm ông này không những vừa làm Nguyên soái của quân đội mà còn là đồng chỉ huy của đội quân tiên phong cùng với Humphrey de Bohun-Bá tước của Hereford. Bá tước Hereford là người cao tuổi hơn, có nhiều kinh nghiệm chiến trận hơn và theo luật phong kiến thì ông ta phải là Nguyên soái của Anh quốc. Vì họ đều là những lãnh chúa láng giềng ở vùng Marches xứ Wales ( vùng đệm giữa xứ Wales và Anh quốc ), và đã có một thời gian dài tranh cãi gay gắt giữa Bohuns De Brecknock và Glares của Glamorgan. Bằng cử Bá tước Gloucester làm chỉ huy với một sự thiếu cân nhắc về mặt quân sự, Edward đã làm suy yếu Bá tước Hereford và làm cho đạo tiền quân Anh chở nên mất phương hướng một cách quyết định.
Robert Bruce hạ gục Henry de Bohun
Cuối cùng đã xế chiều khi Edward và đoàn tùy tùng của ông dừng lại để quyết định xem quân đội có nên cắm trại nghỉ qua đêm hay triển khai chiến đấu ngày hôm đó. Đội quân tiên phong không về biết gì về sự chậm trễ này mà vẫn phi ngựa để đối mặt với Park New. Khi họ xuất hiện từ Torwood, họ đã nhìn thấy lực lượng trinh sát Scotland đang rút lui ngay trước mắt, các kị sỹ Anh liền thúc thúc giục những con ngựa của họ để truy đuổi hướng về phía trước và tiến vào New Park. Ở hàng đầu là Bá tước Hereford với đoàn tùy tùng mạnh mẽ của ông gồm các hiệp sĩ và kị sỹ, trong số đó Gilbert de Bohun-người em trai và Henry de Bohun-người cháu trai máu nóng của ông. Khi thấy toán đầu tiên trong số các kị sỹ đã băng qua thung lũng mở của Bannock Burn, các giáo binh Scotland đã bắt đầu tiến lên từ khu rừng phía trước và tập hợp đội hình để chặn đứng bước tiến của họ. Henry de Bohun quan sát về phía quân Scotland bằng đôi mắt sắc lém như của một tay cung thủ nhà nghể và cố kiềm ngựa trước người Scotland, ông nhìn thấy một hiệp sĩ cưỡi trên một con ngựa cái nhỏ mầu xám, đang chỉ huy đội giáo binh của mình với một cây rìu chiến trong tay, trên áo khoác của ông có con sư tử được trang trí bằng họa tiết đôi và các tia sáng phản chiếu từ chiếc vương miện bằng vàng của ông và Henry đã xác định rằng đó là Robert Bruce. Henry de Bohun cảm thấy rằng thời điểm vinh quang của ông đã đến và quyết định thúc ngựa tấn công vào nhà vua với một nụ cười chế nhạo kiêu ngạo trên môi. Bruce điều khiển con ngựa hướng về phía đối thủ của mình, người lúc này đang cúi rạp như trong một trận đấu thương. Khi họ ở gần nhau Bruce lái con ngựa nhanh nhẹn của mình sang một bên để tránh ngọn thương của de Bohun và đứng thẳng trên bàn đạp của mình rồi giáng vào đầu ông kia (Henry de Bohun) một cú đánh trời giáng bằng chiếc rìu chiến của mình, cú đánh cắt xuyên qua chiếc mũ sắt của vị hiệp sĩ Anh và bổ sâu vào não của ông này. Cán của chiếc rìu gãy đôi vì tác động của lực chém quá mạnh và Henry De Bohun ngã nhào từ trên yên ngựa xuống-ông đã chết trước khi rơi xuống đất.
Viên hộ sỹ của ông này (Henry de Bohun) cũng đã bị giết chết khi những giáo binh Scotland tiến về phía trước, họ cực kỳ phấn khích chiến thắng lạ lùng của vua Robert. Hàng ngũ các tay giáo lập thành một hàng rào không thể xuyên thủng gồm những ngọn giáo có đầu bằng thép để chống lại các đợt tấn công của kỵ binh thuộc đội tiên phong của Anh-lúc này đã bỏ xa lực lượng bộ binh hỗ trợ của họ và trong trận chiến đẫm máu Bá tước Gloucester-luôn dẫn đầu đội quân của mình đã được kéo đến chỗ an toàn vì con ngựa chiến của ông đã bị giết chết trong cuộc xung đột. Sau đó, đạo binh của Edward Bruce tiến ra khỏi rừng cây nhằm hỗ trợ cho đạo hậu đội, người Anh đã bị đẩy lui trở lại. Với một tiếng hét lớn, người Scotland tiếp tục tiến lên và các kỵ binh Anh phải quay lại và bỏ chạy, bị đánh tơi bời và rối loạn. Quân Scotland cố gắng truy kích họ nhưng các kỵ sỹ Anh đã trốn thoát với một số nhỏ thiệt hại nữa. Bruce ra lệnh cho quân của mình ngừng truy kích và rút lui vào vùng cây cối rậm rạp an toàn của New Park.Những lãnh chúa người Scotland đã trách nhà vua của họ vì đã dám chấp nhận rủi ro cho chính bản thân ông ta khi đã đương đầu với thách thức từ Henry de Bohun mà trong tình huống xấu thì ông cũng sẽ trở thành không khác gì chàng thanh niên kia. Robert Bruce không trả lời mà chỉ luôn mồm phàn nàn vì đã làm hỏng mất chiếc rìu chiến tốt nhất của mình. ( Đúng là dân Scotland có khác keo kiệt quá he he)
Quấn Vita thì chỉ đưa ra những thông tin ít anh hùng hơn nhiều về trận đánh này. “Henry thấy rằng ông không thể chống lại vô số các tay giáo Scotland liền quay ngựa với ý định quay trở lại với đoàn tùy tùng của mình, nhưng Robert đã chặn ông ta và đánh vào đầu ông ta bằng chiếc rìu … viên hộ sỹ của ông lúc đó đang cố gắng để bảo vệ hoặc giải cứu chúa của mình cũng đã bị hạ gục bởi những tay giáo Scotland.”
Lực lượng của Clifford bị đẩy lùi
Khi mà các kỵ binh của Gloucester và Hereford chạy dọc theo con đường chính hướng tới mục tiêu là New Park, một lực lượng kỵ binh mạnh mẽ dưới sự chỉ huy của Sir Robert Clifford thúc ngựa phi về phía trước về bắc của Lâu đài Stirling, nhằm đi vòng vèo qua New Park và tới được lâu đài vượt qua cánh trái của Scotland. Các ước tính về sức mạnh của lực lượng kỵ binh này là rất khác nhau, nhưng chắc chắn có một điều là nó mạnh hơn nhiều so với một toán đột kích hoặc tuần tra, chắc chắn đây là một lực lượng chiến đấu cực kỳ tinh nhuệ. Barbour nói rằng có khoảng 800 kị sỹ dưới sự chỉ huy của các hiệp sỹ cầm cờ tài giỏi, bao gồm cả Sir Robert Clifford. Sir Henry Beaumont và các hiệp sĩ vùng Yorkshire như Sir Miles Stapleton, Sir Thomas Grey-người có bố là Hiệp sỹ cao tuổi Sir Thomas Grey của Heaton tại Till, nói rằng lực lượng kỵ binh đi cùng với của Clifford chỉ có khoảng 300 người và vì ông này đã ở đó nên chúng ta phải nghiêng về con số này của ông. Có thể là lực lượng của Clifford dự định để tiến hành một cuộc trinh sát xem liệu quân Anh có thể đến được Stirling mà không cần đi qua New Park hay không. Tuy nhiên, điều này đã không được xác nhận bởi các tác giả đương đại. Grey đã không đưa ra các giải thích. Barbour nói rằng nhiệm vụ của Clifford là đi đến được lâu đài, cho nếu thực sự họ có thể đến được đó, họ đã nghĩ rằng đã được an toàn.Theo nhà sử học Lanercost, Clifford “muốn đi vòng qua rừng cây để ngăn chặn người Scotland rút lui”. Có vẻ như là người Anh ở thời điểm này vẫn tự tin rằng người Scotland không có ý định chiến đấu ở bên ngoài Stirling. Chúng tôi không thể chắc chắn những gì mà Clifford muốn làm bởi có thể cuộc tiến quân của ông là hoàn toàn tách rời sự chỉ huy của nhà vua như các Bá tước Gloucester và Hereford. Tuy nhiên, chúng ta có thể chắc chắn một điều rằng không có liên lạc cũng không sự phối hợp giữa các đội quân đang tiến lên của quân Anh và có thể cả hai ( quân tiên phong và quân của Clifford) đều bắt đầu với một ảo tưởng rằng họ đang truy một một kẻ thù đang hoàn toàn rút lui.
Cả Grey và Barbour đều nhấn mạnh rằng lực lượng của Clifford đã phi ngựa trên cánh đồng mở và con đường đã được dọn sạch từ New Park để tới Stirling. Con đường mà họ đã sử dụng có lẽ được gọi là “ the way” dọc theo vách núi dốc đứng qua một Carse phẳng và dẫn đến một khúc lội nơi ở hẻm núi nơi dòng suối bắt đầu Bannock Burn để chảy xuống Carse của Balquhiderock. Họ cưỡi ngựa vượt qua St Ninian’Kirk, phía dưới là đầm lấy Pelstream mà con suối này chảy vào. Họ đã không gặp sự kháng cự nào và chắc chắn là đã nghĩ rằng đường đến Stirling là hoàn toàn dễ dàng. Tuy nhiên, một phần lực lượng của Bá tước Moray đã chiếm vị trí ở gần St Ninian để bảo vệ con đường chính đi về phía Bắc để ngăn chặn một đòn tấn công ngang sườn, chẳng hạn như toán quân này của người Anh. Bruce đã không bố trí ngăn chặn đối phương ở xa hơn nữa trên chiếc Carse, có lẽ ông cho rằng với địa hình như vậy thì ( đòn đánh vào sườn ) là không thực tế. Clifford đã vượt qua vị trí phía dưới của Moray trước khi vị bá tước này kịp phản ứng, svua Bruce đã không hài lòng và nói thẳng thừng vơi bá tước rằng “ một bông hoa đã rơi từ vòng hoa đội đầu của ngài”. Moray đã cảm thấy khó chịu và tức giận với chính mình và quyết tâm khôi phục lại tình hình, và vội vã tập hợp 500 người để đối đầu với Clifford. Trước sự quan sát của người Scot từ New Park, người Anh đã kiềm cương ngựa và với sự dứt khoát của Beauiuont, họ đã tự tin tiến ra khỏi nơi trú ẩn ở trong khu rừng.
Trận chiến trong ngày 23 tháng 6
Bá tước Moray thấy nguy cơ là có thể bị quân Anh bao vây nên cho hàng quân cuối cùng của mình chĩa giáo về phía sau để hình thành một đội hình lông nhím bằng giáo ở cả hai mặt trước và mặt sau. Trong tài liệu của mình, Sir Thomas Grey nói rằng đã can gián sự tự tin thái quá của Beaumont trong nhưng ông đã bị quở trách với lời buộc tội là hèn nhát. Tức giận vì sự chế nhạo này, Thomas đã thúc con ngựa của ông một cách thiếu thận trọng giữa Beaumont và Sir WilliamDevncourt và tấn công vào một đội hình dày đặc các tay giáo của đối phương. Rất nhanh Deyncourt bám theo ông và cả hai con ngựa của ông này và của Sir Thomas Grey đã bị xuyên thủng bởi các ngọn giáo. Thomas đã được kéo vào trong schiltron và bị bắt làm tù binh, nhưng Deyncourt không may hơn đã bị giết chết cùng với Reginald-người anh trai trẻ tuổi của mình. Những kị sỹ còn lại tập hợp lại và chở nên thận trọng hơn nhiều, họ phi ngựa xung quanh người Scotland, nhưng không thể đột nhập vào đội hình được xử lý với một kỷ luật chặt chẽ của họ. Các tay giáo Scotland đâm chết những con ngựa mon men đến gần họ và giết chết kị sỹ khi họ đã ngã xuống, trong khi những người khác từ trong đội hình đã đâm xốc vào những con ngựa và và làm các hiệp sĩ ngã gục. Vì không có sự hỗ trợ của các cung thủ và trong một tâm trạng thất vọng, các kị sỹ không thể phá vỡ các schiltron của Scotland. Barbour nói rằng sự nổi tiếng của Douglas bắt đầu tại thời điểm này khi ông yêu cầu vua Robert cho phép mình đi hỗ trợ Bá tước Moray-người lúc này đang bị ép mạnh, nhưng lời yêu cầu của ông đã bị từ chối. Sau đó, không giải thích nguyên nhân tại sao, Barbour nói rằng Bruce đã đổi ý và Douglas cùng với người của mình, có khả năng là vào lúc này vẫn đang ngồi trên yên ngựa, vội vã đến cứu viện cho vị bá tước lúc này đang bị đối phương áp đảo về số lượng. Tuy nhiên, trong trường hợp chúng ta theo quan điểm của Sir Thomas Grey là người Anh có số lượng ít hơn! Khi người Anh thấy được mối đe dọa mới sắp xảy đến họ đã quay trở lại và Douglas thấy rằng cuộc tấn công của Clifford đã ngày càng chở nên yếu đi, ông đã thu người của mình trở lại một cách cao thượng và để mặc cho Moray hoàn tất chiến thắng của mình.
Một số người sống sót trong lực lượng của Clifford vội vã phi ngựa về phía Lâu đài Stirling và những người khác bao gồm cả bản thân Sir Clifford “bỏ chạy trở lại với lực lượng chính của quân đội Anh. Vị thầy tu của Malmesbury cho rằng Clifford đã bị giết chết vào ngày hôm sau cùng với Bá tước Gloucester, Payn Tibetot và William Marshall. Sau Bá tước Gloucester, Clifford là người nổi bật nhất trong những người thiệt mạng tại Bannockburn. Đoàn tùy tùng của ông gồm 50 hiệp sĩ và kị sỹ có 13 người gồm cả Sir Miles Stapleton dường như đã bị giết chết trong cuộc chiến.
Kết quả của ngày đầu tiên của trận chiến
Thất bại của lực lượng kỵ binh của Clifford đã kết thúc trận chiến của ngày 23 tháng 6, đã là cuối ngày và quân Ang đã không còn có những cố gắng hơn nữa để phá vây đến Stirling Castle. Thất bại với việc các Bá tước Hereford và Gloucester bị đẩy lùi, u ám và buồn chán lây lan làm nản lòng trong tất cả các cấp của quân đội Anh. Tầm quan trọng của các hành động quy mô lớn dẫn đến sự thất bại của đội quân tiên phong Anh trong các tài liệu hiện đại đã bị phai nhạt bởi sự kiện về cuộc đối đầu giữa Robert Bruce và Henry de Bohan.
Sir Thomas Grev, nhân chứng tận mắt của chúng tôi, mặc dù ông đã nằm trong tay của người Scotland vào tối ngày 23, nói rằng các sự kiện trong ngày đã có thể làm tan biến sự tự tin và lòng quyết tâm của người Anh. Có thể đúng là như vậy, tuy nhiên sự chán nản của người Anh có thể đã được phóng đại để làm nhẹ đi thất bại của ngày hôm sau. Chỉ một phần nhỏ của quân Anh đã đối mặt với kẻ thù và hầu hết thậm chí còn chưa nhìn thấy người Scotland. Theo John của Trokelowe thì nhiều người đã được nếm mùi cay đắng vì bị người Scotland đẩy lùi đã tuyên bố sẽ trả thù vào ngày hôm sau.
Chiến thắng của Moray không chỉ dừng lại việc chặn không cho người Anh mở một tuyến đường đến Stirling Castle mà quan trọng hơn, nó còn chứng minh hiệu quả của các giáo binh Scotland trong việc chống lại quân kỵ binh người Anh. Rất có thể kế hoạch của Edward II là cho quân của mình đóng trại ở Park-Công viên của vua dưới sự che chở của Lâu đài Stirling vào đêm 23/24 tháng sáu. Ông đã dự kiến người Scotland hoặc sẽ rút lui trước khi ông ta đến mà không chiến đấu hoặc có thể dễ dàng bị đánh bại. Bây giờ ngày đã sắp kết thúc, kế hoạch của ông đã bị cản trở và phá hoại. Hai trong số các đội quân của ông đã bị đánh tơi tả và bị đẩy lùi bởi người Scotland và tuyến đường để đến Stirling và kế hoạch cắm trại trên vùng đất an toàn của ông đã bị chặn lại. Quân đội Anh cần một nơi để nghỉ nghơi vào ban đêm, bởi vì người của họ đói và kiệt sức sau một cuộc hành quân dài và ngựa cần nước để uống. Vì vậy mà người Anh đã quyết định chuyển tất cả kỵ binh và có thể cùng với một số phần của bộ binh từ Bannock Burn sang Carse of Balquhiderock nơi những con ngựa sẽ tìm thấy một nguồn cung cấp nước dồi dào và người thì có thể nghỉ qua đêm.
Cái cồn ( carse) không phải nơi mà người Anh đã lên kế hoạch để nghỉ qua đêm; Grey gọi đó là một đầm lầy với dòng nước sâu và không có nghi ngờ rằng tại thời điểm của trận đánh đó là một nơi ẩm ướt hơn và lầy lội hơn ngày hôm nay. Barbour nói rằng có các “pows” hoặc dòng suối chảy chậm trong chiếc carse, họ ( quân Anh ) đã dỡ nhà và chặt các cây gỗ để làm cầu vượt qua các dòng suối. Các công việc này không thể kết thúc trước nửa đêm vào thời gian này trong năm ở phía bắc. Người Anh đã mất cả một đêm không ngủ và lo lắng; những con ngựa luôn được thắng cương và những người đàn ông luôn có vũ trang kè kè, luôn có cảnh báo về sự hung dữ của người Scotland với khả năng của một cuộc tấn công ban đêm. Edward đã đánh giá cao sự lúng túng của vị trí của mình và nhận ra rằng vẫn còn một khả năng tiếp tục chiến đấu vào ngày hôm sau, nhưng cuối cùng ông chẳng có thể làm gì để cải thiện tình hình. Có khả năng là đội hình chính của bộ binh Anh đã không vượt Bannock Burn sang chiếc cồn tắc nghẽn mà ngủ qua đêm trong khu vực phía nam của con suối, vẫn còn ở trong tình trạng rối loạn như khi họ đến vào cuối buổi tối từ hướng Falkirk.
Trong khi người Anh bị lúng túng ở chiếc cồn, Robert Bruce cho gọi các sĩ quan của ông đến để bàn bạc trong một cuộc họp hội đồng quân sự. Ông đã được khuyến khích rất nhiều bởi những thành công trong ngày, kế hoạch của ông vẫn còn nguyên vẹn và quân đội Scotland sôi sùng sục muốn có chiến thắng. Tuy nhiên, sự thận trọng làm ông muốn rút quân vào sâu trong những vùng có địa hình gồ ghề. Sự hiểm yếu của Lennox, nơi mà các vùng đất trở nên quá hoang dã đối với người Anh nếu họ muốn truy kích. Kinh nghiệm khắc nghiệt đã dạy Bruce tránh những trận đánh và làm ông nghiêng về phía các chiến thuật ít mã thượng và chiến tranh du kích. Các các đạo quân của quân Scotland vẫn ở nguyên vị trí như lúc mới rút lui lúc đầu, vào buổi tối, Sir Alexander Seton-một hiệp sĩ Scotland đã lợi dụng sự nhầm lẫn trong doanh trại quân Anh để vượt qua để bước vào sở chỉ huy của Robert Bruce. Seton nói với Bruce của tình trạng vô tổ chức và chán nản và thiếu lãnh đạo của người Anh và lấy cuộc sống của mình ra để đảm bảo rằng nếu Bruce tấn công vào buổi sáng ngày hôm sau ông sẽ chiến thắng, Barbour nói rằng vua Robert quay sang phía các sĩ quan của mình để hỏi họ xem có nên chiến đấu hay không và tất cả bọn họ đều cùng đồng thanh trả lời quyết chiến. Phải đến thời điểm này thì vua Robert mới quyết định chấp nhận rủi ro của một trận chiến tổng lực vào buổi sáng hôm sau. Tu viện trưởng Bernard của Arbroath cũng có mặt ở đó, ông đã mang chiếc thánh tích nổi tiếng của Saint Columba được giữ gìn cẩn thận cùng với ông ta để truyền cảm hứng cho quân đội Scotland.Ông sáng tác những lời cảm hứng để Robert Bruce phát biểu trước toàn quân của ông vào đêm trước của trận Bannockburn và rõ ràng họ đã tạo được một ấn tượng sâu sắc.
trận đánh ngày 24 tháng 6
Các sự kiện trong ngày chiến đấu đầu tiên có thể được mô tả với một số tự tin và không có quá nhiều mâu thuẫn. Đó là việc mô tả các sự kiện của ngày thứ 2 của cuộc chiến, cao trào của trận đánh mà những khó khăn đã xảy ra. Mô tả của tôi về trận chiến được đặt vào Cánh đồng khô (Dryfield) của Balquhiderock, nhưng cũng ý kiến có ý kiến khá và nhiều người đã ủng hộ the Carse của Balquhiclerock như là địa điểm chính của trận đánh. Quyết định để chọn giữa hai điểm là khá khó khăn vì đã có những thay đổi về cảnh quan qua nhiều thế kỷ. Chắc chắn rằng là có rất nhiều rừng hơn trong năm 1314. Đầm lầy và những chỗ lầy lội cũng được mở rộng hơn rất nhiều và Carse của Balquhiclerock thì gần như chắc chắn không thể thoát nước tốt như đất canh tác nông nghiệp mà chúng ta thấy ngày nay.
Chúng ta biết từ Sir Thomas Grey rằng, “Đội hình hàng dọc của Anh … đã bị kẹt lại với nhau và không thể tiến hành chống lại họ [người Scotland]. Lanercost cũng nói về một điều gì đó tương tự “người Anh ở đạo hậu quân không thể chiến đấu được với người Scotland vì đạo quân tiên phong đã bỏ chạy”. Có tình trạng này bởi là vì khoảng không gian của mặt đất rất hạn chế và người Anh đã bị bao vây, vì vậy họ đã không thể triển khai ưu thế về số lượng cũng như đưa các cung thủ của họ vào hoạt động. Địa hình của cả Dryfield và Carse của Balquhiclerock có thể phù hợp với tình hình đó.
Trên chiếc Carse, dòng suối Bannock Burn và Pelstream Burn là những nhân tố để hạn chế sức mạnh của quân Anh, vì chỗ tiếp cận gần nhất của cách xa nửa dặm. tuy nhiên dòng Pelstream Burn đã không chạy theo hướng ban đầu của nó vào chiếc carse hoặc bất cứ đầm lầy và vũng lầy có liên quan đã từng tồn tại nào để thoát nước, do đó không có nhiều hơn một dòng suối như chúng ta nhìn thấy trong ngày hôm nay.
Trên địa điểm của Cánh đồng khô, dòng Pelstream đi qua Dryfield trong một chiếc kênh sâu mặt dốc, mà ngay cả ngày hôm nay một phần còn lại của chúng vẫn còn được che phủ bởi cây cối và bụi rậm như trước kia, điều này cho thấy rằng nó sẽ ngăn cản việc chuyển các đội hình chính của quân đội trong năm 1314. Nó tạo nên phần cực bắc của bãi chiến trường trên địa điểm cánh đồng khô-Dryfield. Phía Nam là khu rừng Balgithiderock, mặc dù đã giảm độ dốc, nó vẫn còn bao gồm các vách dốc và tạo nên các trở ngại trong việc tiến quân giữa carse và Dryfield giữa điểm mà dòng suối Bannock Burn đã chuyển trở lại carse và định cư ở Broomridge. Từ Broomridge Pelstream Burn có những điểm mở rộng đủ để cho phép dễ dàng cánh đồng khô, ở đây có một lỗ hổng mà qua đó kỵ binh nặng của Anh vẫn tiến được theo cách của họ vào ngày 24 tháng 6 để tạo một…
Quân Scotland tấn công
Thứ Hai ngày 24 tháng 6 năm 1314, đầu buổi sáng, nhìn từ phía đông nam. Sau cuộc các đợt bắn tên dữ dội của các cung thủ người Scot bắt đầu tấn công vào kỵ binh Anh lúc này đang đóng ở trên Dryfield. Bá tước Gloucester dẫn các kỵ binh của đội tiên phong Anh tấn công một cách bốc đồng và, tai hại vào schiltron của Edward Bruce. Các tay giáo Scotland tiến vào gần đội hình vô tổ chức của kị binh Anh và một cuộc hỗn chiến đẫm máu bắt đầu tạo thành dòng từ phía tây bắc đến đông nam đối diện với New Park. Sự mở rộng cũ của rừng Wood of Balquhiderock tại Dryfield là không rõ ràng nhưng chúng ta chỉ chắc chắn rằng nó rộng hơn so với ngày nay và làm hạn chế chiều rộng của chiến trường ở phía nam.
Nếu đây là trường hợp mà sau đó quân Anh có thể đã bị đẩy lùi trở lại từ Dryfield đến bờ một con kênh hẹp được hình thành bởi gỗ của rừng Wood of Balquhiderock và con suối Pelstream Burn, kết quả là họ ngày càng dúm lại với nhau thành một đám đông chật chội. Từ đây những kẻ bị đánh bại vượt qua chiếc carse ở phía sau họ rồi sau đó họ có thể thoát ra hoặc là về phía bắc, hướng tới lâu đài Stirling, hoặc theo hướng sông Forth hay lại Bannock Burn. Điều này phù hợp với những gì chúng ta biết về cuộc tháo chạy của người Anh trên chiến trường. Tuy nhiên, không thể chắc chắn trong việc xác định đặc điểm của cảnh quan ở đầu thế kỷ thứ mười bốn làm cho chúng ta khó biết chính xác địa điểm của trận chiến. Bất chấp sự đô thị hóa liên tục của vùng Dryfield, việc đến thăm nó là vẫn rất thú vị và đáng giá. Người tavẫn còn có thể đi bộ qua vùng này, các đặc điểm chính của địa hình vẫn còn đó và với một chút trí tưởng tượng độc giả có thể hình thành nên ý kiến của mình địa điểm của trận chiến.
Bình minh thứ Hai ngày 24 tháng 6 năm 1314 – quân Scotland tấn công
Khi ánh sáng đầu tiên bắt đầu chiếu sáng trên bầu trời của Firth of Forth vào khoảng 03:15 (thời tiết phương Bắc) vào ngày thứ hai định mệnh này, trong rừng của New Park người Scotland đã chuẩn bị sẵn sàng cho trận chiến. Vua Robert đã ra lệnh cho một cuộc tấn công lúc bình minh, và các đội hình đầy kỷ luật của các giáo binh đã tiến vào trong chiến trường mở cùng với các lá cờ của các chỉ huy của họ. Khi đã quan sát đầy đủ đối phương, người Scot quỳ xuống cầu nguyện trong một thời gian ngắn để cầu Chúa và để được Chúa tha tội.
Các kỵ binh Anh đã lợi dụng những đoạn đường vòng dễ dàng hơn giữa Pelstream Burn và rừng Wood of Balquhiderock để bắt đầu thiết lập đội hình hoặc ở trên Dryfield trên con đường vòng khoảng 20 m. Họ cảm thấy vui mừng khi rời khỏi Carse of Balquhiderock và mặc dù họ đã lường trước các cuộc tập kích nhằm vào họ, họ vẫn không chờ đợi việc người Scotland tiến ra từ khu rừng và lập đội hình tấn công với số đông như vậy. Việc đạo quân của Edward Bruce, vốn có thể đã đóng quân ở đâu đó giữa Borestone và Saint Ninian, lúc này xuất hiện ở bên phải của đội hình hàng ngang của quân Scotland và có vinh dự dẫn đầu cuộc tấn công. Bên trái và hơi lùi về phía sau một chút là đạo quân của vua Robert. Đạo quân của Bá tước Moray tạo thành trái cánh của quân đội Scotland, nhưng đối với người Anh thì họ dường như chỉ thấy một đám rất lớn đông đặc những người Scotland đang tiến lên. Vua Edward II đứng nhìn người Scotland tiến ra ầm ầm từ rừng cây và dườgng như ông vẫn không biết họ xuất hiện để làm gì và hỏi “ Cái gì vậy, người Scotland muốn đánh nhau à” Sir Ingram d’Umfraville-một người Scot, đã khẳng định chắc chắn với nhà vua rằng họ muốn chiến đấu. Khi người Scotland tạm dừng và quỳ xuống và cầu nguyện, Edward-theo sử gia Barbour, đã hiểu nhầm và nói với Umfraville “ có phải bọn chúng đang quỳ xuống để xin lòng thương xót”. “ Họ cầu xin lòng thương xót, chắc chắn rồi, nhưng không phải từ Ngài. Họ xin Chúa thương xót cho tội lỗi của họ” Sir Ingram trả lời “những người đàn ông này sẽ giành chiến thắng hoặc nằm xuống, không một người nào sẽ chạy trốn vì sợ chết. “ Umfraville và một số hiệp sĩ có kinh nghiệm hơn-những người đánh giá cao những phẩm chất chiến đấu của người Scotland, đã thông báo trì hoãn việc tiến binh một ngày vì tình trạng mệt mỏi của quân đội sau khi hành quân dài ngày về phía Bắc. Gloucester-người đã chia sẻ ý kiến này của ông đã đề nghị với nhà vua, nhưng các hiệp sĩ trẻ hơn đã gọi ý tưởng đúng đắn này là sự hèn nhát và Edward đã cãi nhau với vị Bá tước rồi lại cáo buộc ông tội phản bội. Lời khuyên chiến thuật của Umfraville cho vua là tiến hành một cuộc trá rút là không thực tế và có khả năng để lại hậu quả tai hại và Edward-duy nhất một lần đúng đắn, đã bác bỏ nó. Đã là quá muộn để áp dụng chiến thuật này. Sự chủ động đã được chuyển qua phía người Scotland và người Anh đã không có sự lựa chọn nào khác, họ đã ở một góc quá hẹp và phải chiến đấu để thoát ra khỏi đó. Nhà Sử học Lanercost theo hồi ký của một nhân chứng, đã nói rằng trước khi các binh lính Scotland áp được vào gần với kẻ thù của họ thì “các cung thủ Anh đã được tung về phía trước trước đội hình hàng ngang và các cung thủ người Scotland đã tấn công, có một số bị giết và bị thương ở cả hai bên, nhưng rồi các cung thủ của Anh đã nhanh chóng bị đẩy vào thế phải bỏ chạy” Việc các cung thủ hai bên có giao chiến qua lại bằng cung tên chỉ là một phần cá biệt của trận đánh và nó không có hiệu lực để ngăn cản bước tiến quân của người Scotland. Các cung thủ Scotland có thể đã bị làm phiền trong trận đánh qua lại lúc đầu nhưng không có nghĩa là họ bị đánh bại và có thể là họ đã chiến đấu ở quy mô lớn, ở thời điểm đỉnh cao của trận chiến. đóng góp của họ vào chiến thắng đã bị đánh giá thấp hơn nhiều so với thực tế.
Khi bộ binh Scotland đang tiến lên thì phía trước của quân Anh vẫn còn đang ở tình trạng vô tổ chức, Bá tước Gloucester vội vã lập lại đội hình cho các kỵ binh của đội quân tiên phong và chính ông đã dẫn đầu họ lao vào các hàng đầu của schiltron của Edward Bruce. Vị Bá tước đã bỏ xa những người hỗ trợ mình và vội vã lao vào hàng ngũ các tay giáo của Scotland, con ngựa của ông đã lập tức bị hạ gục và ông ta cũng bị thiệt mạng. Người ta nói rằng ông đã quá vội vàng trong lúc mặc trang phục và quên không mặc chiếc áo choàng có chiếc gia huy bên ngoài chiếc áo giáp của mình và như vậy không có ai nhận ra ông và ông đã bị giết bởi các tay giáo. Vì vậy sau đó Robert Bruce đã lấy làm tiếc vì bị mất một khoản tiền chuộc một đại quý tộc ( cũng đồng thời là anh em đồng hao của ông). Cuộc tấn công của Gloucester là một thất bại thảm hại và đội tiên phong Anh đã bị tàn sát một cách đẫm máu trước khi bỏ chạy trước một rừng các tay giáo người Scotland vốn không thể xuyên thủng.
Hai đạo quân Scotland tiến về phía trái của Edward Bruce với một sự kết hợp gần như đồng thời và họ tấn công vào đội hình dàn hàng ngang của Anh-lúc này đang bị rối loạn tơi bời ở phía trước, lúc này quân Anh chỉ hơn một khối lượng lớn người tụ lại với nhau và ở trong tình trạng lộn xộn, nhầm lẫn, “ tất cả giống như trong một schiltrom” như Barbour đã nói. Grey thì mô tả người Anh dường như bị kẹt lại với nhau và giống như Lanercost đã nói trước đó.
Có vẻ như lúc này một số lớn bộ binh Anh đã lên đến nơi nhưng họ đã không thể triển khai vì khoảng không gian bị giới hạn giữa rừng cây Wood of Balquhiderock vướng víu và cả dốc mặt của con kênh Pelstream Burn rồi những kỵ binh của đội tiên phong bại trận lao vào gây nhầm lẫn. Phần lớn bộ binh Anh vì lý do này mà dường như đã không thể tham chiến, mặc dù có thể rất nhiều người vẫn còn ở phía nam của Bannock Burn và do sương mù trên bãi chiến trường đã không biết về những gì đang xảy ra trong đội hình hàng ngang của. Trong khi đó, một số lượng đáng nguy hiểm cung thủ Anh đã cố gắng để chiếm vị trí bên sườn của cuộc hỗ chiến và bắt đầu bắn tên “ nếu họ tiếp tục bắn tên thì có thể đã có khó khăn cho người Scot ” Barbour đã viết. Robert Bruce còn biết nhiều hơn so với các chỉ huy Anh về mối nguy hiểm của các tay cung và ông ra lệnh cho Marischal-Sir Robert Keith, người nắm giữ lực lượng dự bị, để tấn công vào họ với đội kỵ binh hạng nhẹ của ông. Cuộc tấn công của họ đã được triển khai ngay lập tức và nó có hiệu lực làm các cung thủ bị phân tán và đẩy họ vào hàng ngũ của những người tiến lên từ phía sau, gây ra nhiều nhầm lẫn và báo động.
Vào thời điểm này thì trận đánh là khá cân bằng, toàn bộ toàn bộ lực lượng của quân đội Scotland lúc này đã tham chiến và trận chiến đấu nổ ra rất quyết liệt ở toàn bộ mặt trước của đội hình hàng ngang của cả hai bên. Không gian tràn đầy tiếng kêu la, thét gào hỗn loạn của trận chiến cùng với sức nặng không thể lay chuyển nổi của những schiltrons tua tủa những mũi giáo thép nhọn nhấn xuống một khối lượng lẫn lộn của kị binh và bộ binh đang bị mắc bẫy. Người Anh đã bị kẹt chặt lại với nhau và thậm chí không có khoảng không để hua vũ khí của họ lên và nhiều người bị ngã rồi bị chà đạp đến chết. Các cung thủ Scotland được khuyến khích bởi sự thất bại của các cung thủ Anh, đã đổ những trận mưa tên chết người vào đội hình chiến đấu của đối phương. Người Anh bắt đầu lùi lại, lúc đầu thì từ từ sau đó kháng cự của họ sụp đổ và những toán nhỏ rút dần về phía sau để tìm đường sống đã trở thành một cơn lũ khi họ tản ra và bỏ chạy. Vào lúc này, một tiếng hét ” chiến thắng ” đã được cất lên từ hàng ngũ của người Scotland và các chiltrons giáo binh tăng tốc rảo bước về phía trước.
Vào giữa buổi sáng người Anh bị đánh bại hoàn toàn
Trận chiến là một kỷ niệm đáng buồn cho người Anh và quân bại trận chỉ còn lo nghĩ làm thế nào để sống sót và chạy thoát. Tại thời điểm này ở phía hậu quân của người Scotland đã xuất hiện một đám đông những người không phải là chiến binh như những người đánh xe ngựa, wagoners, đầu bếp, những người đi theo doanh trại, người giúp việc… những “ small folk “, những người đã được gửi đến một nơi an toàn ở phía Bắc Coxet Hill bởi Robert Bruce trước khi trận chiến nổ ra. Lúc này với vũ khí của những binh sỹ mới tử trận và các lá cờ tự tạo trong tay họ đã lao vào đoàn quân đang nao núng với một sự khát máu khủng khiếp. Sự can thiệp của họ có rất ít hoặc thậm chí chẳng có tí hiệu quả quân sự nào vào kết quả của trận đánh, mặc dù tàn quân Anh đang chạy trốn có thể đã nghĩ rằng họ là một lực lượng tiếp viện mới đến và càng làm tăng nỗ lực của họ để trốn thoát. Robert Bruce khó mà có thể hoan nghênh sự xuất hiện của đám người vô kỷ luật và chỉ khoái cướp bóc này.
Khi các chỉ huy Anh nhìn thấy rằng tất cả đã mất hết, Bá tước Pembroke và Sir Giles dArgentan, những người luôn ở bên cạnh vua Edward, nhận ra rằng an toàn của nhà vua là rất quan trọng và rằng ông ta không phải rơi vào tay của người Scotland vì hậu quả của vụ bắt bớ này là không thể tưởng tượng được. Mọi người hộ tống cho nhà vua an toàn đến được lâu đài Stirling Castle theo những con đường dọc theo cạnh của the carse vẫn hoàn toàn rộng mở. Người Scotland đã tổ chức những đợt vây bắt nhà vua nhưng ông đã chạy ra ngoài và tấn công họ bằng chiếc búa của mình. Ông đã có một con ngựa bị giết khi đang tìm cách thoát khỏi những kẻ đang vây bắt mình, Sir Roger Northhurgh đã bị kéo xuống ngựa và bị bắt. Khi chắc chắn về trận đánh, nhà vua đã cố gắng thoát về lâu đài Stirling cùng với Bá tước Pembroke và một phần lớn các kỵ binh. Ngay sau khi ông nhìn thấy nhà vua đã thoát khỏi nguy hiểm, Giles d’Argentan, cảm thấy sợ bị mất danh dự và không quen với việc phải bỏ chạy, đã cho quay ngựa của mình trở lại vào trận chiến nơi dày đặc nhất và ông đã bị giết. Chuyến bỏ chạy của Edward II từ chiến trường báo hiệu sự tan vỡ của quân đội Anh. Một số người chạy theo nhà vua và hướng về phía Lâu đài Stirling, những người khác bỏ chạy qua the carse (chiếc cồn) về phía sông Forth nhưng chỗ này là không thể vượt qua và nhiều người bị chết đuối khi cố gắng để vượt qua con sông. Một số lượng người rất đông và hỗn loạn đã cố chạy về phía Nam và họ đã cố gắng để vượt qua Bannock Burn. Việc hàng ngàn người chạy qua lại đã biến bờ của con suối thành một đám bùn lầy nguy hiểm và tạo ra một cái bẫy và bẫy rất nhiều người đang bỏ chạy. Ở đây quân đội bại trận phải chịu đựng một số cú đánh với những thiệt hại nặng nhất của nó, bao gồm cả Sir Edmund Manley-người chỉ huy Ngự lâm quân của nhà vua. Barbour đã vẽ lên bằng chữ viết một bức tranh sống động về Bannock Burn.
Sự sụp đổ của quân đội Anh
Thứ Hai ngày 24 tháng 6 năm 1314 vào giữa cuối buổi sáng, quan sát từ phía đông nam. Kỵ binh Anh bị đẩy lùi bởi các tay giáo người Scotland và cuộc rút lui của họ đã chuyển thành bị đánh bại và bỏ chạy, nhà vua phải rời bỏ chiến trường. Lực lượng bộ binh nhanh chóng tiến lên, nhiều người trong số họ không thể chiến đấu với đối phương vì họ ở phía sau kỵ binh và bị bao quanh bởi địa hình. Chỉ một phần nhỏ của quân Anh đã bị đánh bại nhưng thế là đủ, người Scotland đã giành được một chiến thắng tuyệt vời.
Khi vua Edward và các hiệp sĩ của ông đến trước Lâu đài Stirling Castle họ thấy rằng Sir Phillip Moubray đã cho kéo chiếc cầu rút lên và cấm cửa không cho họ vào tòa Lâu đài. Nếu Edward đã vào tòa lâu đài thì chắc chắn ông đã rơi vào tay của người Scotland khi tòa lâu đài bị thất thủ vì đây chắc chắn sẽ là hậu quả của trận đánh. Hành động của Moubrav có thể được hiểu là ông đã đoán trước được điều này. Và như vậy nhà vua đã trốn thoát. Ông ta (Edward II) phi ngựa xung quanh King’s Park, sau đó vượt qua hậu quân của quân Scotland trước khi giành lại con đường chạy đến Torwood, đây chính là con đường mà ông đã tiến lên một cách tự tin vào ngày hôm trước.
Hậu quả của trận đánh
Vua Edward đã chạy trốn khỏi chiến trường kèm theo viên sủng thần của mình, Sir Hugh Despencer-vốn kỳ vọng về các vùng đất của Bá tước Moray lúc này đã tiêu tan và bởi Sir Henry Beaumont-người cũng đang tham vọng một lãnh địa bá tước, ít nhất đến thời điểm này thì ông này cũng tràn đầy thất vọng. Đoàn tùy tùng của Bá tước Pembroke gồm các hiệp sĩ và những kị sỹ có thể đã hình thành một hậu đội và bảo vệ đường rút lui của Edward. Đoàn tùy tùng của Pembroke đã bị tổn thất nặng nề trong cuộc chiến đấu, bao gồm cả Sir John Comyn-con trai của Comyn “the Red” vốn bị sát hại bởi Bruce tại Dumfries trong năm 1306. Những kẻ đào tẩu đã phi ngựa đến cảng Dunbar sau khi vượt qua 60 dặm với tốc độ mà như Barbour đã nói “ thậm chí không có thời gian để đi tè”. Sir James Douglas tiếp tục truy kích dù ông chỉ có ít hơn 60 kị sỹ được thu thập vội vàng cùng với ông ta. Khi ông phi ngựa qua Torwood ông gặp Sir Lawrence Abernethy với 80 kị sỹ-vốn đến để giúp đỡ người Anh, nhưng khi thấy tình hình này, ông ta lựa chọn tốt hơn là tham gia vào cuộc săn đuổi cùng với Douglas. Trước khi đến được Linlithgow, người Scot đã đuổi kịp người Anh lúc này đang chạy trốn và cất lời chế nhạo và la hét nhưng Douglas đã đánh giá rằng họ quá ít để tấn công trong một trận chiến mở. Barbour khẳng định về sức mạnh của Edward, ông có khoảng 500 kị sỹ so với lực lượng của Douglas và Abernethy, người Scot chỉ có khoảng 120 người, có lẽ đây là giải thích cho thất bại của ông trong việc ngăn chặn Edward tẩu thoát. Douglas vẫn bám sát hậu đội Anh và tiêu diệt những người lạc ngũ. Tại Vinchburgh người Anh xuống ngựa và cho những con ngựa mệt mỏi của họ nghỉ ngơi trong khi Douglas vẫn lảng vảng ở gần đó. Sau khi dừng lại ở Winchburgh Edward đã chỉ huy một cách thận trọng cũng có tổ chức lực lượng kị binh và dẫn dắt họ rút lui một cách có trật tự. Edward đến được Dunbar nơi Bá tước Patrick trung thành đã chuẩn bị một con tàu để đưa nhà vua an toàn đến Bamburgh ở vùng Northnmhcrlaud. Douglas thấy rằng những cố gắng để bắt vua Anh đã không thành công và từ bỏ việc truy đuổi rồi quay trở về Stirling. Đoàn hộ tống của Edward từ Dunbar đã đi theo con đường ven biển đến Berwick-cách khoảng 25 dặm và trở lại thị trấn vào tối ngày 26 tháng 6, chỉ 11 ngày sau khi họ xuất phát. Nhà vua cưỡi ngựa đến Berwick từ Baniburgh và ở lại đó trong hai tuần tiếp theo từ ngày 27 tháng Sáu.
Khi quân đội Anh bị vỡ trận, một số lượng lớn các binh sĩ muốn thoát khỏi sự trả thù của người Scotland, đã chạy theo nhà vua đến Lâu đài Stirling, ở đây họ đã không thể vào tòa lâu đài mà bị dồn vào phần nổi trên mặt đá bên dưới của tòa lâu đài. Họ đã tạo ra một mối đe dọa ở phía sau và Bruce đã buộc phải tách một phần lực lượng mạnh mẽ của mình để bao vây cho đến khi họ đầu hàng vào cuối ngày. Barbour cho rằng sự cố này đã tạo nên một phần thất bại của Robert Bruce và Douglas trong việc tập trung một lực lượng kỵ binh đủ mạnh để truy đuổi Edward II. Quân Anh đào tẩu đã không bị truy đuổi quyết liệt ở ngoài Bannock Burn và ngay khi những toán quân còn lại của đối phương ở lâu đài Stirling Castle đã được xử lý ( bị giết hoặc đầu hàng), người Scotland đã dành phần còn lại của ngày hôm đó để cướp bóc chiến lợi phẩm trên chiến trường và đoàn xe hậu cần của người Anh. Quấn Vita nói với chúng ta rằng ” Người của chúng tôi đã chạy thoát một cách an toàn là do một phần quân Scotland đã mải mê cướp bóc … nếu tất cả người Scotland đã cùng tham gia vào việc truy kích người của chúng tôi, rất ít người có thể trốn thoát được. “
Nhiều binh sĩ Anh rời khỏi cuộc chiến trong một vẻ bề ngoài có tổ chức, thậm trí một số còn không tham dự tí nào vào chiến đấu và một tài liệu nguồn tiếng Anh viết “ Hơn 200 hiệp sĩ đã không kịp rút gươm và cũng không phải chiến đấu một tí nào”. Sir Maurice Berkeley đã rời trận chiến cùng với “ cuộc rút lui vĩ đại của các binh sỹ xứ Wales của ông”. Bá tước Hereford cùng “ với một đám đông các hiệp sỹ, sáu trăm kị sỹ khác và khoảng một nghìn lính bộ binh bỏ chạy về phía lâu đài Carlisle”. Tại lâu đài Bothwell ở vùng Clyde lúc này vẫn còn trong tay người Anh. Walter Gilbertson-quan trấn thủ, đã đón tiếp vị Bá tước và 50 người đi theo hộ tống. Bá tước Hereford hiểu nhầm rằng nhà Vua đã đi lánh nạn ở Stirling và ông sẽ tự chui vào bẫy ở đó, nhưng lúc này Edward Bruce lại nghĩ là vị Bá tước vẫn ở Bothwell, ông này liền tập hợp một lực lượng mạnh mẽ và không chậm chễ hành quân đến lâu đài Bothwell (Bá tước Hereford là một khoản tiền chuộc lớn ), khi ông ta xuất hiện ở trước tòa lâu đài Gilbertson-bản thân cũng là một người Scotland, đã thay đổi lòng trung thành của mình một cách nhanh chóng và mở cửa đầu hàng cùng với Bá tước Hereford và Bá tước Angus và rất nhiều Đại quý tộc cùng với các hiệp sĩ cấp cao.
Phần còn lại của những kẻ đào tẩu đã chạy chốn đến thung lũng Clyde Valley. Họ vẫn phải hành quân trong bốn ngày từ vùng biên giới và vẫn phải chiến đấu liên tục trong vòng 20 dặm từ vùng Southern Upland cho đến vùng Annandale. Vùng nông thôn của Scotland đã sẵn sàng và dân chúng đã mài dao với thái độ thù địch. Rất nhiều binh sỹ đào tẩu đã trở thành nạn nhân của các bộ tộc Scotland ở vùng biên giới-những người liên tục bám sát và tập kích vào họ cho đến tận Solway Firth
Tính toán con số thương vong và bị bắt tù binh
Bá tước Hereford là anh rể của nhà Vua và là một giải thưởng rất giàu có mà Bruce đã dùng để trao đổi lấy 15 nhà quý tộc Scotland bị giam cầm ở Anh. ; Trong số những người được thả có Elizabeth-Nữ hoàng của ông, Marjory- con gái lớn, Christina-chị gái của ông và Robert Wishart-Giám mục của Glasgoss, người đã trở nên già đi và bị mù lòa trong thời gian bị giam giữ ở Anh. Donald, vị Bá tước trẻ tuổi ở Mar-cháu trai Robert Bruce, đã quyết định không quay trở lại Scotland vì ông đã có một mối quan hệ cá nhân thân thiết với Edward II.
Yêu cầu về tiền chuộc là rất lớn và không có các ví dụ trực tiếp về một trường hợp của bất kỳ một vị bá tước nào bị bắt trong trận Bannockburn, chúng ta biết rằng John de Bretagne-Bá tước Richmond, người bị Bruce bắt tại trận Byland năm 1322, đã phải trả một khoản tiền chuộc rất lớn khoảng 20.000 Bảng cho sự tự do của mình. Robert con trai của Sir Ralph Robert Neville vốn được biết đến như là “ chú công của miền Bắc “ đã bị bắt tù binh tại trận Bannockburn và cho dù người Scotland chỉ đòi một khoản tiền chuộc 2,000 đồng Mark ( một đồng Mark tương đương 2/3 một đồng bảng Anh). Trận đánh làm nhà Neville phải trả giá là Alexander và John Neville cũng bị bắt làm tù binh và làm Chúa Neville suy sụp vì phải lo tiền chuộc. Sir Walter Fauconberg mất người con trưởng ở Bannockburn, người con thứ đã có nhiều may mắn hơn-ông này bị bắt và tiền chuộc yêu cầu là 500 đồng Mark. Trong tháng 11 năm 1314 nhà vua đã ra lệnh mở kho bạc để giúp cho Aylen de Walingford-trung sĩ kỵ binh của mình một khoản tiền £ 100 để chuộc con trai, người cũng đang ở trong tay của người Scotland.
Bruce hối tiếc về cái chết của Gloucester-người anh em rể của ông, cũng như bị mất một khoản tiền chuộc và đã gợi ý đưa xác của ông này đến một nhà thờ gần đó, nơi ông tiến hành một buổi cầu nguyện trong đêm sau trận chiến. Bá tước Gloucester và Sir Robert Clifford là những hiệp sĩ nổi tiếng nhất đã bị giết chết tại Bannockburn và Bruce đã cho ngâm xác của họ trong các thùng rượu và trở về Berwick. Vị Bá tước trẻ tuổi đã được chôn cất tại Tewkesbury Abbey. Bruce cho mọi người thấy sự rộng lượng của ông đối với một số tù nhân của mình. Khi Marmaduke de Thweng, anh hùng của trận chiến Stirling Bridge và nhiều người khác đã đầu hàng trước Bruce một cách cá nhân sau khi trải qua một đêm lẩn trốn trong bụi rậm sau trận chiến, ông được đối xử như một người bạn cũ và được gửi về nhà ở Yorkshire mà không phải trả tiền chộc. Sir Ralf Monthermer được trả tự do mà cũng không phải trả tiền chuộc, sự kiện này cho thấy câu chuyện lãng mạn của ông ta về việc đã giúp Bruce chạy trốn khỏi sự giận dữ của Edward I trong những ngày của ông này ở tại Triều đình Anh là có thất. Tuy nhiên, không phải tất cả mọi người đều may mắn thoát khỏi cơn trả thù thịnh nộ của người Scotland, và chúng tôi nghe thấy rằng con trai của Robert Bottel của Merstone “ đã bị xẻo mất cả hai bên tai do bạo lực của người Scotland”.
Hàng trăm con ngựa và các xe tải chở đồ dự trữ có giá trị đã bị bỏ rơi bởi người Anh và rơi vào tay của người Scotland. Con dấu của vua Anh-Privy Seal đã bị bỏ lại và được tìm thấy trong một đống những hỗn độn mà bộ máy chính phủ của Edward đã để lại. Robert Baston-thầy tu dòng Carmelite Friar đã sáng tác một bài thơ khi ông đi lang thang trên chiến trường; Ông là một nhà thơ đáng chú ý thời đó và vua Edward II đã đưa ông cùng đi với mình để sáng tác những bài thơ kỷ niệm chiến thắng của ông trước người Scotland. Thay vào đó, để được chuộc lại tư do, Bruce đã gợi ý ông sáng tác một bài thơ ca ngợi chiến thắng của người Scotland. Nó còn tồn tại đến ngày hôm nay, nhưng tiếc là Brother Baston đã chỉ quan tâm nhiều đến câu thơ hơn là việc truyền đạt thông tin và bài sử thi tiếng Latin của ông là khá tẻ nhạt và ít giá trị thực tế. Philip Mowbray cho lâu đài Stirling Castle đầu hàng vào buổi sáng ngày hôm sau trận chiến và được phép thay đổi lòng trung thành của mình và được đối xử một cách thân thiện từ vua Robert. Người Scotland theo chính sách thông thường của họ, ngay lập tức dỡ bỏ hệ thống phòng thủ của lâu đài ( vì họ không muốn tốn một lực lượng để đồn trú cũng không muốn quân Anh tái chiếm và sử dụng tòa lâu đài này ).
Không thể để ước tính con số thương vong của bộ binh Anh, mặc dù tổn thất có thể là một số không cân xứng, một đơn vị đã không tham gia vào trong chiến đấu và có thể đã rút lui mà không bị thương vong. Số lượng hiệp sĩ và Quý tộc bị giết tại Bannockburn là cao đáng kinh ngạc theo tính toán của Anh. Danh sách nạn nhân là các hiệp sĩ của họ thường là ngắn, vì như tập quán hồi đó một hiệp sĩ thường là đầu hàng và trở thành tù nhân hơn là bị giết trong trận chiến bởi vì họ sẽ mang lại một khoản tiền chuộc lớn. Ở các trận đánh Lewes và Evesham ( những trận chiến ở biên giới Scotland và nước Anh sau này ) đã có một số lượng lớn các kị sỹ quý tộc chiến đấu với nhau nhưng chỉ một số ít những hiệp sĩ đã bị giết chết. Trong thời gian trước đó ở Scotland tình hình cũng xảy ra tương tự. Thậm chí trong trận chiến thảm khốc Stirling Bridge, vốn được thêu dệt rất khủng khiếp trong dân gian, ngoài Sir Hugh Cressingham vốn không được thương xót thì một số hiệp sĩ dường như cũng đã phải trả tiền chuộc tự do cho Wallace. Trong trận chiến Falkirk ở năm sau vốn có đầy đủ tài liệu hơn có thấy trận chiến nổ ra trên quy mô lớn và mặc dù chúng ta biết từ danh sách tổn thất của những con ngựa của các hiệp sỹ bị giết chết nhưng không có bằng chứng nào cho thấy tổn thất của các kị sỹ là rất cao.
Các sử gia thời Trung Cổ có một quy tắc cực kỳ hay đánh giá quá cao số lượng quân đội tham gia vào trận chiến, có thể vì họ không được cung cấp thông tin và dường như họ luôn bị ám ảnh trong đầu về một số lượng lớn sự thật. Barbour đã cho rằng quân đội của Edward II theo nguồn tin đáng tin cậy là phải lên đến 100.000 người. Tuy nhiên, khi ông viết về số lượng các hiệp sĩ Anh bị thiệt mạng tại Bannockburn ông cho biết., “Hai trăm cặp đinh thúc ngựa được lấy ra từ chân của các hiệp sĩ đã tử trận”. Đây chắc chắn là một ước tính tỉnh táo và đáng tin cậy. Đặc biệt là khi ông có thể có thể liệt kê thương vong theo tên của các nạn nhân. Đáng chú ý, có tồn tại hai danh sách nạn nhân trong trận chiến Bannockburn được biên dịch ngay sau khi trận đánh kết thúc quan tâm đến thảm họa ở số lượng lớn nạn nhân.
Các sử gia thời Trung Cổ có một quy tắc cực kỳ hay đánh giá quá cao số lượng quân đội tham gia vào trận chiến, có thể vì họ không được cung cấp thông tin và dường như họ luôn bị ám ảnh trong đầu về một số lượng lớn sự thật. Barbour đã cho rằng quân đội của Edward II theo nguồn tin đáng tin cậy là phải lên đến 100.000 người. Tuy nhiên, khi ông viết về số lượng các hiệp sĩ Anh bị thiệt mạng tại Bannockburn ông cho biết., “Hai trăm cặp đinh thúc ngựa được lấy ra từ chân của các hiệp sĩ đã tử trận”. Đây chắc chắn là một ước tính tỉnh táo và đáng tin cậy. Đặc biệt là khi ông có thể có thể liệt kê thương vong theo tên của các nạn nhân. Đáng chú ý, có tồn tại hai danh sách nạn nhân trong trận chiến Bannockburn được biên dịch ngay sau khi trận đánh kết thúc quan tâm đến thảm họa ở số lượng lớn nạn nhân. Một là quấn biên niên sử được gọi là Annal of London-nó đưa tên 37 hiệp sĩ bị giết tại trận chiến. Nguồn thứ hai được gọi là quấnContinuation of Nicholas Trevet và là một quấn sách được viết bởi các nhà sử học phương Tây ở khoảng năm 1307->1318. Nó đã liệt kê tên của 80 người thiệt mạng và bị cầm tù trong trận đánh này. Bá tước Gloucester đứng đầu danh sách, sau đó là tên của 27 Quý tộc và hiệp sỹ cao cấp đã thiệt mạng, trong đó có 18 cái tên cũng đã xuất hiện trong quấn Biên niên sử của London. Danh sách này được tiếp tục với các tên của 22 Bá tước, quý tộc và hiệp sỹ cao cấp cùng với 31 hiệp sĩ thường bị bắt. Tổng số các hiệp sĩ thiệt mạng và bị bắt theo Trevet là 154 người, trong đó có hơn một trăm mà chúng tôi đã biết tên. ( theo quấn sách Battle: A visual journey through 5,000 years of combat của Grant, R.G. DK Publishing, trang 118. thì người Anh có 700 kị binh, 4.000 bộ binh thiệt mạng, nhưng theo tài liệu Statutes of the Parliament of December 1318 (1318/29) thì có đến 11.000 bộ binh Anh thiệt mạng trong trận đánh này. Giải thích về sự khác nhau có thể là do một tài liệu thì tính toán số thương vong tại chiến trường còn một tài liệu tính cả số thiệt hại dọc đường rút chạy)
Cũng có những tổn thất trong các hiệp sĩ người Scotland, mặc dù họ chỉ bị tổn thất không đáng kể, theo sử gia Barbour chỉ có William Vipoint và Walter Ross là bị giết trong trận chiến. Edward Bruce đã cảm thấy có nhiều buồn đau bởi cái chết của Walter-đây là người em trai trẻ tuổi của Isabella, con gái của Bá tước của Ross, người đã kết hôn với Edward năm 1308. Sir William Airth cũng đã bị giết chết, mặc dù không phải trong hoàn cảnh chiến đấu. Ông ta đang ởCambuskenneth, phía bắc của sông Forth, bảo vệ kho cung cấp của người Scotland và vào đêm 23/21 tháng 6, Bá tước của Atholl ( cũng là một người Scotland) đã tấn công cướp bóc các kho hàng, để lại Sir William và một cơ số người của ông này bị giết chết. Sự bất mãn của Atholl với nhà Bruce có nguyên nhân là do Isabella-em gái đã sinh cho Edward Bruce một con trai ngoài giá thú và như vậy làm cho ông ta điên tiết khi đứng về phía nhà Ross.
LÝ DO CHO SỰ THẤT BẠI CỦA QUÂN ANH
Trận Bannockburn là một cuộc đối đầu giữa nhà vua-chiến binh vĩ đại nhất của Scotland và một vị vua luôn thất bại của Anh-người đã cho thấy là ông có rất ít những kiến thức thực tế về quân sự. Sử gia Lauercost đã không có nghi ngờ gì về người bị đổ lỗi cho thất bại nhục nhã, cũng không phải là một trong số các nhà bình luận đương đại đổ lỗi thẳng cho Edward II.
Người Anh đã giả định sai lầm rằng khi họ tiến những bước tiến ban đầu dọc theo con đường cái đến Falkirk sẽ dễ dàng xua người Scotland đi xa và rằng họ sẽ cắm trại một cách an toàn ở bên dưới Lâu đài Stirling Castle. Kế hoạch của họ đã bị phá sản khi hai lần họ bị đẩy lui trong ngày 23 , dẫn đến việc các kỵ binh phải cắm trại trên chiếc cồn lầy lội và bộ binh bị tản mát quá xa. Trong khi người Anh bị mất thế chủ động và bị buộc phải phân tán rộng ra để ngủ qua đêm ở một vị trí không thoải mái mà không có trong kế hoạch của họ. Trong buổi sáng người Scotland đã lợi dụng triệt để tình hình và tấn công và trận chiến đã trở thành một nỗ lực của người Anh để chui vào trong một cái bẫy do chính họ tạo lập nên.
Edward đã bỏ ngoài tai những lời khuyên và vẫn có thể đã nghĩ rằng người Scotland sẽ tránh né một trận chiến dốc vào ngày 24 tháng 6 và kết quả là đã tạo ra những nhầm lẫn khi họ (người Scotland) tấn công vào lúc bình minh. Chiến thuật yêu cầu có sự kết hợp của kị binh và bộ binh đã bị bỏ qua. Tuy nhiên, chiến thuật này dựa vào khả năng tổ chức và lãnh đạo quân đội và dường như những phẩm chất này đã không được thể hiện tại Bannockburn, và gì đi chăng nữa thì chắc chắn chiến thuật này không phải là một lựa chọn của họ. Việc thiếu sự lãnh đạo trong quân đội cho phép lực lượng kỵ binh của các bá tước kiêu ngạo không tuân theo mệnh lệnh để đảm nhận vai trò mà các hiệp sĩ cấp trên yêu cầu, trong khi vai trò của bộ binh bị giảm xuống nhỏ hơn so với tình trạng mà họ phải có. Cán cân về số lượng đã nghiêng về người Anh, nhưng chiều rộng bị hạn chế của chiến trường, nơi người Anh thấy họ ở đó vào lúc bình minh ngày 24 đã vô hiệu hóa lợi thế này. Lực lượng của Robert Bruce đã không bao giờ phải đối mặt với toàn bộ quân đội Anh, người Scotland đã đánh bại chỉ là một phần của nó nhưng thế là đủ để đảm bảo chiến thắng. Đặc biệt, các kỵ binh hạng nặng của các Quý tộc đã bị đánh bại và thất bại của họ đã được chứng minh là có ý nghĩa quyết định. Bất chấp những kỳ vọng vào các hiệp sĩ, cuộc tấn công vội vã của họ là tất cả những gì họ có thể làm và nó nhanh chóng bị đánh bại. Khi họ bị đuổi khỏi chiến trường trước các tay giáo Scotland, nhà vua đã bỏ trốn để đảm bảo an toàn tính mạng ở Lâu đài Stirling Castle và nhiều lính bộ binh-những người thậm chí đã không rút kiếm, đã theo gương của ông và bỏ chạy.
Những đội hình schiltron được luyện tập tốt của các tay giáo Scotland được chỉ huy bởi những người mà Robert Bruce biết rằng ông có thể tin tưởng họ sẽ thực hiện được ý định của ông. Ông cũng đã nhận thức được khả năng cũng như tính dễ tổn thương của các tay giáo nếu không được hỗ trợ và ông đã chứng minh trong cuộc chiến rằng ông biết sử dụng họ như thế nào trong cả vai trò phòng thủ lẫn tấn công. Ngược lại sự lãnh đạo không hiệu quả của người Anh thể hiện ở chỗ họ không có chiến thuật nào khác hơn là cố gắng sử dụng kỵ binh nặng-hoàn toàn không được hỗ trợ bởi bộ binh, để tấn công và cố khoan thủng các hàng giáo binh Scotland.
Mối đe dọa lớn nhất đối với các schiltron của Scotland là những cung thủ trường cung Anh nhưng một khi quân đội hai bên đã áp sát vào nhau một cách chặt chẽ trong chiến trường thì họ (cung thủ trường cung Anh) cần phải chiếm một vị trí ngang sườn để bắn trực tiếp vào các hàng ngũ của giáo binh Scotland. Họ lại thấy mình bị kẹt vào một khối lượng đông đảo binh lính ở phía sau hàng đầu tiên của kị binh Anh và làm cho họ không thể v hoặc triển khai một cách hiệu quả vì sự trật hẹp của chiến trường. Thất bại tại Bannockburn bị đổ lỗi cho Edward II nhưng chiến thắng chắc chắn thuộc về Robert Bruce, người mà chiến thắng này đã đảm bảo vị thế của ông là một vị vua vĩ đại nhất của Scotland.
KẾT QUẢ CỦA TRẬN CHIẾN-CHIẾN TRANH VẪN TIẾP TỤC TỪ NĂM 1314-1328
Với chiến thắng áp đảo của ông, Robert Bruce đã tự lập cho mình một vị thế không thể công kích nổi cũng như là vua của Scotland và giành được độc lập cho Scotland ngay cả khi người Anh vẫn cứng đầu không chịu chấp nhận thực tế này. Nếu kị binh Scotland đã có truy đuổi hiệu có hiệu quả hơn sau trận chiến và vị Bá tước của Dunbar cũng hành động như Walter Gilbertson tại Bothwell thì sau đó Edward II có thể đã bị bắt. Như vậy, việc nhà vua Anh may mắn trốn thoát đã làm cho chiến thắng trở thành không đầy đủ và việc giải quyết hòa bình đã được chứng tỏ là khó nắm bắt. Bannockburn đánh dấu thời điểm tệ hại nhất của triều đại của Edward II không may mắn, nhưng nó không phải là sự kết thúc của những bất hạnh của ông bởi những cuộc tấn công vượt qua biên giới của người Scotland trở nên ngày càng thường xuyên hơn và rằng thực tế có vẻ như là họ muốn sát nhập phía bắc nước Anh, từ sông Tees vào Scotland. Northumberland đã trở nên ở trong tình trạng hỗn loạn không chỉ bởi sự phá huy của người Scotland mà còn bởi những đơn vị đồn trú địa phương ( những kẻ uống máu người không tanh ) và các toán kẻ cướp. Nhiều người dân của Cumberland và Northumberland đã tuyệt vọng trông mong vào “ cứu trợ từ chính phủ Anh” và họ đã trở thành “ người Scotland “, cũng giống như nhiều người ở Lothians trước đây đã trở thành “ người Anh”. Một vùng lớn các quận ở phía Bắc đã bị tàn phá và bị buộc phải trả cho người Scotland những khoản “ tiền chuộc” để họ có thêm tài chính cho chiến tranh Scotland. Trong tháng 7 năm 1315 vua Robert đã mạnh dạn tiến hành bao vây Carlisle, nhưng thành phố vẫn đứng vững, nó được bảo vệ và tổ chức tốt bởi Sir Andrew Harcla. Trong tháng 4 năm 318 Berwick-thị trấn duy nhất của Scotland vẫn nằm trong tay đối phương sau trận Bannockburn, đã trở lại với người Scotland bởi các cuộc tấn công dưới sự chỉ huy của Sir, James Douglas. Sự sụp đổ của Berwick là một đòn nặng nề giáng vào người Anh và sự mất mát của họ lại vẫn tiếp tục tăng lên với việc các lâu đài Wark-on-Tweed Harbottle và Mitford ở vùng Northumbrian thất thủ,. Trong năm đó một cuộc đột kích của người Scotland được tiến hành sâu vào tận vùng Yorkshire và đã đốt cháy Northallerton, Boroughbridge và Knaresborough và làm cư dân của Ripon phải hoảng sợ-họ đã phải trả 1.000 đồng Mark để có hòa bình.
Trong nỗ lực tuyệt vọng nó để bảo vệ niềm kiêu hãnh của mình, Edward II đã cùng tham gia với lực lượng của đối thủ trong nước của ông-Bá tước Thomas của Lancaster để bao vây lâu đài Berwick, nhưng ông này lại tiếp tục không thành công. Hai Bá tước Moray và Douglas với một lực lượng gồm 8.000 người đã đột kích sâu vào vùng Yorkshire trong một nỗ lực để đánh lạc hướng cuộc bao vây của Edward ( chiến thuật vây Ng.ụy cứu Triệu). Viên thị trưởng và Đức tổng-giám-mục của York đã huy động tất cả những người mà họ có thể và hành quân ra để đương đầu với các quân cướp bóc người Scotland. Tại Myton-on-Swale lực lượng hỗn tạp của họ đã bị đánh bại một cách nặng nề bởi một lực lượng không cân xứng của người Scotland-trận này được gọi là “ Chapter of Myton” vì một số lượng lớn các giáo sĩ Anh đã thiệt mạng và bị bắt tù binh. Edward đã từ bỏ cuộc bao vây vào Berwick và rút lui về phía nam của sông Trent, cho phép người Scotland tàn phá Cumberland và Westmorland một cách không thương xót. Trong tháng 12 người Anh đã chấp nhận đàm phán và ký một thỏa thuận ngừng bắn kéo dài hai năm, nhưng để có một nền hòa bình lâu dài vẫn còn rất xa vì sự kiêu ngạo của Edward-ông này đã từ chối từ bỏ tuyên bố chủ quyền của mình đối với Scotland. Năm 1320 ngườiScotland đã gửi tới Đức giáo hoàng Tuyên ngôn độc lập nổi tiếng Decrelation of Arbroath với, trong đó họ tuyên bố rõ rằng Scotland đã và luôn luôn là một vương quốc độc lập. Đàm phán hòa bình tiếp theo trong năm 1321 đã lại kết thúc trong bế tắc.Cuối năm quan hệ giữa nhà Lancaster và người ủng hộ ông với nhà vua và sủng thần của ông ta là Despencers ngày càng xấu đi và một cuộc nội chiến đã nổ ra. Trong tháng 3 năm 1322 các Đại quý tộc nổi loạn đã bị đánh bại bởi Sir Andrew Harcla tại trận Boroughbridge, kết quả là Bá tước Lancaster đã bị bắt và bị hành hình. ( sau này chiến tranh hai bông hồng là cuộc chiến giữa nhà Lancaster-Bông hồng đỏ với Nhà York-Bông hồng trắng kiêm hậu duệ của Edward II Plantagenet)
Với vị thế của mình ngày càng được tăng cường Edward lại tổ chức một cuộc chinh phạt cuối cùng của ông vào Scotland trong tháng 8 năm 1322. Người Anh hành quân qua Lothian đến tận Edinburgh, nhưng cái đói sớm buộc họ phải dừng các bước tiến của họ vì người Scotland đã rút lui sau khi đốt cháy mọi thứ, họ không để lại bất cứ thứ gì mà quân xâm lược có thể ngoài ngọn lửa phía sau họ. Khi Edward rút lui về phía nam, Robert Bruce đã dẫn đầu một lực lượng đột kích mạnh tấn công từ Solway xuống thung lũng Eden vào phía Bắc Yorkshire. Tại Northallerton, khi nghe tin Edward đang ở Rievaulx Abbey cách đó 15 dặm, Bruce và người của ông đã không chậm trễ phi ngựa đến Abbey để hy vọng bắt sống vua Anh. Tại Old Bvland quân Scotland họ bị chặn đường bởi John Brittany-Bá tước của Richmond với một toán quân Anh không quá mạnh. Nếu chậm trễ Douglas và Moray cho người của mình xuống ngựa và phát động một cuộc tấn công khủng khiếp lên ngọn đồi nơi mà người Anh đang đóng quân trên đó. Đồng thời vua Robert và những người đến từ vùng Cao nguyên của ông đã vượt qua người Anh và tiến hành một cuộc tấn công bên sườn và làm đối phương bị bất ngờ rồi tan rã. Edward đã được cảnh báo về nguy hiểm của mình và lần thứ hai ông suýt bị bắt nhưng ông đã một lần nữa bị buộc phải bỏ lại các trang bị cá nhân của mình, vàng bạc, đồ nữ trang và ngựa khi ông bỏ chạy. Đây không phải là một thảm họa trên quy mô như của Bannockburn nhưng đối với Edward thì sự sỉ nhục lặp lại thậm chí còn lớn hơn. Năm 1323 một thỏa thuận ngừng bắn mới giữa Anh và Scotland đã được ký kết và dự định kéo dài trong 13 năm, nhưng nền hòa bình cuối cùng đã chỉ đến sau nhiều cuộc chiến nữa. Edward II đã bị lật đổ vào 20 tháng 1 năm 1327 và người con trai 14 tuổi của ông đã lên ngôi như Edward III vào ngày đầu tiên của tháng Hai. Một hội đồng nhiếp chính đã được thành lập để cai trị đất nước do Henry-Bá tước mới của nhà Lancaster cầm đầu, mặc dù ảnh hưởng của Nữ hoàng Isabella-người mẹ của nhà vua và Mortimer người tình của bà là rất sâu rộng trong chính phủ mới. Vào mùa hè một chiến dịch cực kỳ tốn kém đã được tiến hành ở Northumberland, đã kết thúc với thất bại đáng xấu hổ của người Anh ở Stanhope Park, đồng thời họ không chặn nổi những cuộc tấn công mới cực kỳ dữ dội của người Scotland vào miền Bắc nước Anh. Tình hình dường như tuyệt vọng vì vào thời gian này Robert Bruce có ý định chiếm lấy vùng Northumberland vốn đã bị mất tinh thần và chiếm các vùng đất ở đó cho người của mình. Isabella và Mortimer muốn lựa chọn chiến tranh nhưng sợ hãi trước các phản ứng dữ dội của thất bại, thay vì thế họ đã chọn hòa bình. Các điều khoản của hiệp ước Edinburgh đã kết thúc cuộc chiến lâu dài và cuối cùng người Anh đã từ bỏ tất cả các tuyên bố về chủ quyền đối với Scotland. Đó là một giải quyết tranh chấp công bằng và nó thực sự sẽ tốt cho cả hai vương quốc nếu các thỏa thuận của năm 1328 đã điều chỉnh mối quan hệ của hai trong phần lớn thời gian còn lại ở thời trung cổ. Nhưng thực tế lại không như vậy Edward III đã lại chọn quyết chiến và tình trạng chiến tranh đã lại kéo dài trong thời gian 5 năm nữa và một thời kỳ mới của cuộc chiến tranh Anh-Scotland lại bắt đầu.
Chiến thuật quân sự sau trận Bannockburn
Trận Bannockburn đã thiết lập ưu thế về quân sự cho người Scotland trước người Anh và điều này còn được duy trì cho phần còn lại của triều đại của vua Robert. Các trận đánh Myton-on-Swale trong 1319, Old Bvland trong 1322 và Stanhope Park trong năm 1327 đã tạo ra những nỗi nhục nhã cho người Anh. Đây là những trận đánh thành công của họ với quy mô nhỏ dựa vào tính động, bất ngờ và tài lãnh đạo của Robert Bruce cùng với những trung úy của ông. Những chỉ huy cao cấp người Scotland vẫn biết rằng chiến thắng tại Bannockburn là do sự kết hợp của giáo binh, cung thủ và kỵ binh nhẹ kết hợp với sự thuận lợi của địa hình và họ tiếp tục khai thác chiến thuật này. Robert King đã qua đời trong năm 1329, James Douglas đã bị giết chết ở Tây Ban Nha trong năm 1330 ( ông đã tham gia vào phong trào Thánh chiến chống lại người Hồi giáo Moor) và với việc Moray cũng qua đời trong năm 1332… người Scotland đã không còn những chiến binh giàu kinh nghiệm nữa.
Trận Bannockburn đã thiết lập ưu thế về quân sự cho người Scotland trước người Anh và điều này còn được duy trì cho phần còn lại của triều đại của vua Robert. Các trận đánh Myton-on-Swale trong 1319, Old Bvland trong 1322 và Stanhope Park trong năm 1327 đã tạo ra những nỗi nhục nhã cho người Anh. Đây là những trận đánh thành công của họ với quy mô nhỏ dựa vào tính động, bất ngờ và tài lãnh đạo của Robert Bruce cùng với những trung úy của ông. Những chỉ huy cao cấp người Scotland vẫn biết rằng chiến thắng tại Bannockburn là do sự kết hợp của giáo binh, cung thủ và kỵ binh nhẹ kết hợp với sự thuận lợi của địa hình và họ tiếp tục khai thác chiến thuật này. Robert King đã qua đời trong năm 1329, James Douglas đã bị giết chết ở Tây Ban Nha trong năm 1330 ( ông đã tham gia vào phong trào Thánh chiến chống lại người Hồi giáo Moor) và với việc Moray cũng qua đời trong năm 1332… người Scotland đã không còn những chiến binh nhiều kinh nghiệm nữa. Bài học của trận Bannockburn đã trở nên bị lu mờ và các chỉ huy Scotland lúc này lại chỉ đặt niềm tin vào các đợt tấn công không được yểm trợ của các schiltron gồm chỉ một mình các tay giáo. Tuy nhiên, người Anh lại đã trải qua nhiều cay đắng và đã có những bài học tốt, như Sir Andrew Harcla đã chứng minh tại Boroughbridge vào năm 1322 (ông này đã đánh bại và bắt sống vị Bá tước Lancaster nổi loạn ). Harcla đã ra lệnh cho các hiệp sĩ và kỵ sỹ của ông xuống ngựa và đưa họ vào một đội hình schiltron, hai bên sườn là các cung thủ. Sử gia Lanercost tại thời điểm đó đã viết Harcla đã chiến đấu theo kiểu Scotland, nhưng ngay sau đó sự kết hợp vô đối của cung thủ và các kị sỹ xuống ngựa để chiến đấu trên bộ đã được biết đến như là đội hình chiến đấu nổi tiếng của người Anh. Khi Edward III chính thức lên ngôi vua Anh vào năm 1328 chiến tranh đã sớm trở lại với Scotland-những người đã nhận ra cái giá phải trả của họ khi mà người Anh đã ghi nhớ đến tâm can những bài học từ trận Bannockburn. Không bao giờ kỵ binh Anh lại còn tấn công một cách vô kỷ luật và vội vã vào các schiltron giáo binh của Scotland nữa. Thất bại của Scotland tại Dupplin Moor trong năm 1322 không chỉ là một sự báo trước của thảm họa lớn hơn nữa ở Halidon Hill vào năm sau mà còn báo trước hàng loạt thất bại nữa của họ về tay người Anh. Tại Halidon Hill chiến thuật kết hợp giữa cung thủ và hiệp sĩ, kị sỹ xuống ngựa chiến đấu đã được phát triển đầy đủ cùng với sự lựa chọn một vị trí chiến đấu cẩn thận và được chỉ huy bởi đích thân nhà vua ( Edward III ) đã trở thành chiến thuật của riêng người Anh. Các đợt tấn công của schiltrons giáo binh của người Scotland đã bị chặn đứng khi phải đối mặt với những cơn bão của các mũi tên từ các cung thủ trường cung Anh và họ lại thoái lui trở lại và những kị sỹ lại nhảy lên ngựa rồi biến cuộc tấn công thất bại của đối phương thành một cuộc tháo chạy đẫm máu. chiến thuật trường cung của Anh đã có dưới 20 năm để được phát triển thành một công thức của chiến thắng và công thức đó sẽ được lặp lại ở Pháp trong Chiến tranh Trăm năm. Trong khi đó người Scotland lại quên béng những bài học của Robert Bruce và những tháng năm của chiến thắng.