Lịch sử Hồi Giáo

Angus-McBride_Umayyads

biên dịch: hongsonvh

Lược sử về sự hình thành và phát triển của Thế giới Hồi giáo cho đến cuộc thập tự chinh lần I

Vùng Arab và sự phát triển của Trăng lưỡi liềm.( cờ của người Hồi)

Năm 570 -> 632 Cuộc đời của nhà tiên tri Mohamed.
Năm 632 -> 661 Các vua Hồi giáo giòng Rashidun như Abur Bakr, Uthman, Umar, Ali.
Năm 633 Các cuộc nổi loạn bị đè bẹp ở Iraq, 642 Xâm chiếm Ai cập
Năm 643 ->707 Xâm chiếm Bắc Phi

Iran

Năm 643 ->650 Xâm chiếm toàn bộ Iran, trừ vùng duyên hải phía Nam biển Caspian
Năm 652 Hoàng Đế cuối cùng của nhà Sassania của Iran ( Đế quốc Batư) chết.

Byzantium
Năm 670-> 677 Cuộc vây hãm đầu tiên của người Hồi giáo vào thành phố Constantinople

Trung á
Năm 650 Cuộc đột kích đầu tiên của người Hồi giáo vượt qua sông Amu Darya.
Năm 675 ->715 Cuộc xâm chiếm Transoxania, lập chiến tuyến đầu tiên.

Thế kỷ thứ 8
Vùng Arab và sự phát triển của Trăng lưỡi liềm.
Năm 744 ->748 Cuộc nổi loạn của người Kharaji theo Hồi giáo chính thống loang rộng
Năm 749 ->750 Giòng Abbasid xâm lược Iraq, Syria và lật đổ vương triều Umayyad rồi lập nên vương triều Hồi giáo Abbasid.
Năm 763 Thành lập thành phố Baghdad

Ai cập và Bắc phiNăm 788 Vương triều Idrisid dành được độc lập ở Morocco

Iran
Năm 747 Bắt đầu cuộc nổi loạn của người giòng Abbasid ở Khurasan

Byzantium

Năm 712 ->717 Người Hồi giáo bao vây thành phố Constantinople lần thứ 2

Trung á và Ấn độ

Năm 710 -> 713 Người Hồi giáo xâm chiếm vùng hạ thung lũng Indus
Năm 737 người Turk xâm lược vùng Transoxania của người Hồi giáo, nổ ra trận Juzian.

Tây âu:

Năm 711-> 713 Người Hồi giáo xâm chiếm bán đảo Iberia, thành lập ra vùng Andalus của Hồi giáo ở Tây Âu
Năm 732 Nổ ra trận Poitiers

Năm 755 ->756 Abd al Rahman-Hoàng tử sống sót của vương triều Umayyad, năm quyền kiểm soát vùng al Andalus, tỉnh đầu tiên tách ra khỏi sự kiểm soát của vua Hồi giáo.

Vùng Arab và sự phát triển của Trăng lưỡi liềm.

Năm 812 ->813 Cuộc bao vây Baghdad trong thời gian nổ ra cuộc nội chiến của triều Abbasid
Năm 819 Vương triều Ziyadid dành được độc lập ở Yemen.
Năn 836 Thủ đô của vương triều Abbasid được chuyển tới thành phố Samara
Năm 877 Thống đốc Tulunid ở Ai cập xâm chiếm Syria

Ai cập và Bắc phi
Năm 800 Vương triều Aghlabid ở vùng lãnh thổ Tunisia dành được quyền tự trị
Năm 809 Vương triều Aghlabid xâm chiếm Sardinia

Năm 827 ->901 Vương triều Aghlabid xâm chiếm Sicily, đột kích vào Corsica, Ytalia, Pháp.
Năm 846 Vương triều Aghlabid công phá thành phố Rome.

Iran

Năm 820 Vương triều Tahirid ở vùng lãnh thổ Khurasan dành được quyền tự trị
Năm 825 Vương triều Dulayfid ở vùng lãnh thổ Khurdistan dành được quyền tự trị
Năm 864 Vương triều Alid giành được độc lập ở phía Tây Iran.
Năm 867 ->872 Vương triều độc lập Saffarid xâm chiếm phía đông Iran, Afghanistan, rồi đánh bại Vương triều Tahirid và chiếm toàn bộ vùng 

Iran.
Năm 898 -> 930 Vương triều Abbasid phục hồi vùng lãnh thổ ở phía Tây Iran

Byzantium
Thế kỷ thứ 9 Người Hồi giáo và Byzantine thiết lập một chiếm tuyến rộng rãi.

Trung á và Ấn độ

Thế kỷ thứ 9->10 Thống đốc địa phương ở vùng thung lũng Indus tiếp tục trung thành với vương triều Hồi giáo Abbasid.
Năm 874 Vương triều Samanid giành được quyền tự trị tại vùng Transoxania

Phía Tây Âu

Thế kỷ thứ 9 Người Hồi giáo và Thiên chúa giáo thành lập một chiến tuyến rộng lớn ở Andalus.

Vùng Arab và sự phát triển của Trăng lưỡi liềm.

Thế kỷ thứ 10 Vùng trung tâm Arab nằm dưới sự kiểm soát của người Hồi giáo chính thống Qarmati, vùng Hijaz nằm dưới sự kiểm soát của Ai Cập, Yemem và Oman năm dưới sự kiểm soát của chính quyền địa phương.
Năm 905 Triều đình Abbasid chiếm lại quyền kiểm soát của sự phát triển của Trăng lưỡi liềm.
Năm 929 Vương triều Hamdanid ở vùng lãnh thổ Syria và Lưỡng hà dành được quyền tự trị

Năm 941 Thống đốc Ikhshidid của Ai cập giành được quyền kiểm soát Palesione
Năm 945 Triều Buyid ở Iran xâm chiếm Iraq, vua Hồi giáo triều Abbasid bị giam lỏng trong cung điện.
Năm 969 Người Byzantine chiếm lại Antioch
Năm 971 Triều Buyid của Iran xâm lược Oman và tự đó vùng này nằm trong sự kiểm soát của người Iran.

Năm 929 Vương triều Marwanid ở phía bắc Lưỡng hà ( Diyarbakr ) dành được quyền tự trị.
Năm 991 Triều Buyid của Iran xâm lược phía bắc Lưỡng hà
Năm 996 Vương triều Uqaylid ở phía bắc Lưỡng hà ( Mosul ) dành được quyền tự trị.

Ai cập và Bắc phi

Năm 909 Giòng Fatimid thiết lập một vương triều Hồi giáo đối thủ ở Tunisia và xâm chiếm Sicily cùng với Sardinia
Năm 935 Vương triều Ikhshidid thiết lập nền tự trị tại Ai Cập
Năm 969 Vua Hồi giáo giòng Fatimid chiếm Ai cập
Năm 972 Vương triều Zirid kế thừa các tỉnh Bắc phi, Sicily và Sardinia của vương triều Fatimid.
Năm 975 Trân Sidon
Năm 985 Vương triều Idrisid bị lật đổ tại Morocco bởi những người Berber ở địa phương.

Năm 1017 -> 1173 Yemen bị chia rẽ thành rất nhiều vương quốc độc lập
Năm 1023 Vương triều Mirdasid ở vùng phía Bắc Syria giành quyền tự trị.
Năm 1094 -> 1096 Người Turk Saljuq xâm chiếm tất cả các thành bang ở địa phương ngoại trừ Mazyadid, một thành bang vùng duyên hải của Syria vẫn nắm trong sự kiểm soát của nhà Fatimid.
Năm 1097 Quân lính của cuộc thập tự chinh lần thứ nhất tiến vào Syria
Năm 1098 Triều đình Fatimid tái chính phục Palestine từ tay người Turk Saljuq
Năm 1099 Thập tự quân chiếm Palestine và Jerusalem.

Ai cập và Bắc phi

Năm 1007 Năm 1023 Vương triều Hamadid ở Algeria giành quyền tự trị.
Năm 1050 Bùng nổ phong trào Almoravid ở Mauretania, đột kích vào Gana ( năm 1054), xâm chiếm Morocco ( năm 1056-> 1069), Algeria ( năm 1082).
Năm 1050 -> 1057 Các bộ tộc du mục Banu Hilal di cư về phía Tây và chiếm Libya, Tunisia.

Iran

Năm 1037 -> 1051 Người Turk Saljuq xâm chiếm toàn bộ Iran

Byzantine

Năm 1071 Người Turk Saljuq đánh bại người Byzantine trong trận Manzikirt.
Năm 1072 Người Turk Saljuq được mời vào vùng Anatolia với tư cách đồng minh bởi một phe trong nội chiến Byzantine.
Năm 1077 Tiểu quốc Rum của người Turk Saljuq được thành lập ở trung tâm của vùng Anatolia.
Năm 1079 Vương triều Danishmandid giành được độc lập ở phía Đông vùng Anatolia.

Trung á và Ấn độ

Thế kỷ 11 Khara Khans cai trị vùng Transaxonia như là một chư hầu của người Turk Saljuq.
Năm 1001-> 1024 Vương triều Ghaznawid của Aghanistan đột kích vào Ấn độ và chiếm thung lũng Indus ( nay là Pakistan) và phía Tây của đồng bằng Ganges..

Tây Âu

Năm 1031 Sự sụp đổ của vương quốc Hồi giáo Umayyad và sự thành lập của 15 tiểu quốc Hồi giáo độc lập trên khắp vùng Andalus.
Năm 1085 Tiểu vương Hồi giáo Dhu al Nun sụp đổ và Toleo thất thủ vào tay Alfonso VI xứ Leon ( quốc vương người Thiên chúa giáo)
Năm 1086 Vương triều Almoravid của Morocco gửi tiếp viện tới tất cả các tiểu vương của xứ Andalus, nổ ra trận Zallaca.
Năm 1090 -> 1091 Vương triều Almoravid đã chiếm đóng toàn bộ vùng Andalus ngoại trừ vùng Saragossa và đảo Baleric vẫn còn nằm trong tay vương triều Hudid.

( các thông tin sưu tầm từ Osprey – The Armies of Islam 7th-11th Centuries)

Một số triều đại Hồi giáo huy hoàng từ thế kỷ thứ 7 -> thế kỷ 13

Triều đại nhà Umayyad

Umayyad Caliphate là Triều đại thứ hai trong bốn Triều đại chính của người Arab được thành lập sau cái chết của Muhammad. Nó đã được cai trị bởi các thành viên của nhà Umayyad xuất phát từ Umayya ibn Abd Shams-ông nội của khalip ( Vua Hồi) Umayyad đầu tiên. Mặc dù thủa ban đầu gia đình Umayyad đến từ thành phố Mecca, nhưng Damascus mới là thủ đô của Vương quốc Hồi giáo này. Vào lúc đỉnh cao nhất của nó, nó có diện tích hơn năm triệu dặm vuông và là một trong 5 đế quốc lớn nhất thế giới. Sau khi Vương triều Umayyad bị lật đổ bởi Abbasid Caliphate, những người còn sống sót chạy trốn qua Bắc Phi để đến Al-Andalus, nơi họ thành lập Vương quốc Hồi giáo Córdoba, vương quốc này kéo dài cho đến năm 1031.

Nguồn gốc

Theo truyền thống, gia đình Umayyad (còn được gọi là Abd Banu-Shams) và nhà tiên tri Muhammad có nguồn gốc từ một tổ tiên chung, ban đầu Abd Manaf ibn Qusai và Muhammad đều đến từ thành phố Mecca. Muhammad truyền qua Abd Manāf tới Hashim-con trai của ông ta, trong khi Umayyads lại được Abd Manaf truyền qua một người con trai khác, Abd-Shams, có con trai là Umayya. Do đó hai gia đình được coi là hai thị tộc khác nhau (tương ứng là nhà Hashim và nhà Umayya) trong cùng một bộ tộc (Quraish). Tuy nhiên các sử gia người Shia đã chỉ ra rằng Umayya là một con trai nuôi của Abd Shams vì vậy ông không phải là dòng máu của Abd Manaf ibn Qusai. Sau đó Umayya bị loại bỏ ra khỏi các gia đình quý tộc. 

Trong khi đó thì giữa người Umayyads và người Hashimites có thể có hận thù giữa hai gia tộc trước khi Muhammad thành danh, Sự cạnh tranh trở thành một sự thù địch giữa các bộ tộc nghiêm trọng sau trận chiến Battle of Badr. Trong cuộc chiến ba nhà lãnh đạo hàng đầu của gia tộc Ummayyad (Utba ibn Rabi’ah, Walid ibn Utba và Shaybah) bị giết bởi người nhà Hashmites (Ali, Hamza ibn ‘Abd al-Muttalib và Ubaydah) trong một trận cận chiến ba đấu ba. Sự kiện này đã kích thích sự chống đối của Abu Sufyan ibn Harb-cháu trai của Umayya với Muhammad và đạo Hồi. Abu Sufyan tìm cách tiêu diệt các tín đồ của các tôn giáo mới bằng cách tiến hành một cuộc chiến với người Hồi giáo lúc này có trụ sở tại Medina chỉ một năm sau trận Battle of Badr. Ông ta tiến hành chiến dịch này để trả thù cho thất bại tại Badr. Theo các học giả thì trận Uhud là thất bại đầu tiên của người Hồi giáo, và họ đã phải chịu thiệt hại lớn hơn so với người Mecca. Tuy nhiên trong vòng năm năm sau thất bại của ông trong Trận Uhud, Muhammad đã nắm quyền kiểm soát Mecca và công bố một lệnh ân xá chung cho tất cả. Lo sợ cho cuộc sống của họ và lòng thù hận từ người Hồi giáo, Abu Sufyan và vợ của ông ta đã gia nhập Hồi giáo vào đêm trước khi Mecca bị chinh phục và con trai của họ (Muawiyah I-vị vua Hồi giáo trong tương lai) cũng làm vậy. Những người chinh phục Mecca đã trấn áp nhà Ummayyads vào thời gian sau đó và càng làm dấy lên lòng căm thù của họ ( nhà Ummayyad ) đối với nhà Hashmites và rồi đây lại là kết quả của trận đánh giữa Muawiyah I và Ali dẫn đến việc Husayn ibn Ali cùng với gia đình và vài người bạn đã bị sát hại theo mệnh lệnh của Yazid ibn Muawiyah sau trận Karbala.

Hầu hết các sử gia đều xem Caliph Muawiyah (661-80) là vị vua thứ hai của triều đại Umayyad, mặc dù ông này là người đầu tiên khẳng định quyền cai trị của Umayyads trên một nguyên tắc triều đại. Thực sự thì vị vua Hồi giáo thứ nhất là Uthman Ibn Affan (644-656), một thành viên của gia tộc Ummayyad, người đã chứng kiến sự hồi sinh và sau đó là uy thế của gia tộc Ummayyad trước những hành lang quyền lực. Uthman, trong suốt triều đại của mình, đặt một số thành viên đáng tin cậy của các gia tộc của mình tại các vị trí nổi bật và mạnh mẽ trên toàn thành bang. Đáng chú ý nhất là việc bổ nhiệm Marwan ibn al-Hakam, người anh em họ đầu tiên của Uthman, là cố vấn hàng đầu của ông, việc này đã tạo ra một khuấy động trong gia tộc Hashmite của Muhammad, như việc Marwan cùng với cha ông ta là Al-Hakam ibn Abi al-‘As đã vĩnh viễn bị trục xuất khỏi Medina. Uthman cũng đã bổ nhiệm Walid ibn Uqba, người anh em cùng cha với Uthman là thống đốc Kufah, người bị buộc tội bởi gia tộc Hashmites là dẫn đầu cuộc cầu nguyện trong khi bị ảnh hưởng bởi rượu. Uthman cũng tăng quyền của Thống đốc Muawiyah của Syria bằng cách cấp cho ông này quyền kiểm soát một khu vực lớn hơn và bổ nhiệm anh trai nuôi của mình Abdullah ibn Saad là Thống đốc của Ai Cập. Tuy nhiên, vì Uthman không bao giờ có người thừa kế nên ông không được coi là người sáng lập ra triều đại Ummayyad.

Sau vụ ám sát Uthman vào năm 656, Ali-một thành viên của gia tộc Hashimite và một người em họ của Muhammad được bầu làm khalip. Ông đã sớm gặp sự kháng cự từ một số phe phái, do thiếu kinh nghiệm chính trị của ông. Lo ngại nguy hiểm cho cuộc sống của mình, Ali dời đô từ Medina tới Kufa. Kết quả là một cuộc xung đột, kéo dài từ năm 656 đến 661, được gọi là First Fitna (“Nội chiến đầu tiên”).

Đầu tiên Ali bị phản đối bởi một liên minh do Aisha-vợ của Muhammad và Talhah cùng với Al-Zubayr, Hai trong số những người đi cùng Muhammad. Hai bên đụng độ tại Trận Battle of the Camel tại 656, nơi mà Ali giành được một chiến thắng quyết định.

Ali bị ám sát năm 661, dường như bởi một thành viên của băng đả.ng Kharijite. Muawiyah hành quân đến Kufa, nơi ông đã thuyết phục một số người ủng hộ Ali công nhận ông ta là khalip thay vì Hasan-con trai của Ali. Sau khi nắm quyền lực, Muawiyah chuyển thủ đô của vương quốc Hồi giáo ở Damascus. Syria sẽ vẫn là căn cứ của sức mạnh của nhà Umayyad cho đến khi triều đại này kết thúc vào năm 750 AD. Tuy nhiên, nhà Ummayyad lại hồi sinnh ở Cordoba (Al Andalus, ngày hôm nay của Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha) dưới hình dạng một Tiểu vương Hồi giáo và sau đó là một vương quốc Hồi giáo, vương quốc này kéo dài cho đến năm 1031 AD. Nhưng chưa hết nhà Ummayyad tiếp tục sự cai trị của người Hồi giáo ở Iberia trong vòng một 500 năm sau đó trong hình thái của một số các tiểu quốc Hồi giáo như: vương quốc Taifas, Berber và Vương quốc Granada cho tới thế kỷ 16.

Trong năm 712, Muhammad bin Qasim, Một vị tướng nhà Umayyad khởi hành bằng đường thủy từ khaleej tiến tới Sindh và chinh phục cả vùng Sindh và vùng Punjab dọc theo sông Indus. Cuộc chinh phục các vùng Sindh và Punjab là tiền đề cho nhà nước Pakistan ngày nay. Mặc dù cuộc viễn chinh là rất tốn kém, nhưng nó đã thu được thành công lớn cho Quốc vương Hồi giáo Umayyad về mặt lãnh thổ. Tuy nhiên, một lợi ích lớn hơn nữa là nó đã chặn lại bước tiến của Vương quốc Hindu Rajput ở phía bắc Ấn Độ.

Trong giai đoạn sau của sự tồn tại của nó ( nhà Ummayyad ) và đặc biệt là từ năm 1031 AD trong hệ thống của tiểu vương Hồi giáo Ta’ifa (Princedoms ?) ở nửa phía nam của bán đảo Iberia, Tiểu vương hay còn gọi là Vương quốc Hồi giáo Granada đã duy trì được nền độc lập của nó phần lớn là do chấp nhận Triều cống cho vương quốc Kitô giáo ở phía Bắc và vương quốc Kitô giáo này bắt đầu mở rộng dần về phía nam từ năm 1031.

Sự cai trị của người Hồi giáo cai trị ở Iberia chỉ kết thúc vào ngày 02 tháng 1 năm 1492 với vương quốc Nasrid của Granada bị chinh phục. Vua Hồi giáo cuối cùng của Granada-Muhammad XII hay thường được gọi là Boabdil, đã chấp nhận đầu hàng trước nhà vua Ferdinand II của xứ Aragon và nữ hoàng Isabella I của xứ Castile-Vua Công Giáo – los Reyes Católicos.

Lịch sử ( những triều vua thuộc nhà Umayyad)

Triều đại Sufyanid

Triều đại của cá nhân Muawiyah được gọi là “Sufyanid” (con cháu của Abu Sufyan), trị vì từ năm 661-684, cho đến khi Muawiya II-cháu của ông lên ngôi. Triều đại của Muawiyah I được đánh dấu bằng việc ổn định nội bộ và mở rộng ra bên ngoài. Về mặt nội bộ, chỉ có một cuộc nổi loạn lớn được ghi nhận, đó là của Adi ibn Hujr tại Kufa. Hujr ibn Adi hỗ trợ cho đòi hỏi của con cháu của Ali về ngôi vị quốc vương Hồi giáo, nhưng cuộc nổi loạn của ông đã dễ dàng bị đàn áp bởi viên thống đốc của Iraq, Ziyad ibn Abi Sufyan.

Muawiyah cũng khuyến khích sống chung hòa bình với các cộng đồng Kitô hữu của Syria và một trong những cố vấn thân cận nhất của ông là Sarjun, cha của John của Damascus. Đồng thời, ông không ngừng tiến hành các cuộc chiến tranh chống đế quốc Byzantine. Trong suốt triều đại của ông, các đảo Rhodes và Crete đã bị chiếm đóng và một số cuộc tấn công đã được tiến hành nhằm vào Constantinople. Muawiyah cũng giám sát việc mở rộng quân sự ở Bắc Phi (nền tảng của vùng Kairouan) và ở Trung Á (các cuộc chinh phục nhằm vào Kabul, Bukhara và Samarkand). 

Sau cái chết của Muawiyah tại 680, ông được kế vị bởi Yazid I-con trai ông. Việc thừa kế ngôi vị của Yazid đã bị phản đối bởi một số người Hồi giáo nổi bật, đặc biệt là Abd-Allah ibn al-Zubayr, con trai của một trong những đồng minh của Muhammad và Husayn ibn Ali, cháu trai của Muhammad và con trai của Ali. Cuộc xung đột kết quả được biết đến như là Fitna ( nội chiến) thứ hai. 

Trong 680 Ibn al-Zubayr và Husayn bỏ chạy khỏi Medina và đến Mecca. Trong khi Ibn al-Zubayr vẫn ở lại Mecca cho đến khi ông chết, Husayn quyết định đi đến Kufa để tập hợp sự ủng hộ. Tuy nhiên, theo mệnh lệnh của Yazid, một quân đội Umayyad lớn (truyền thuyết đề cập lên đến 70.000 người) đã chặn đánh và tàn sát không thương tiếc Husayn, các thành viên gia đình và đồng minh của ông trong trận Karbala. Khoảng 72 người trong nhóm của Husayn bao gồm chính bản thân ông ta cùng với phụ nữ, trẻ em và người già cùng với đứa con nhỏ sáu tháng tuổi của ông đã bị giết chết. 

Sau cái chết của Husayn, Ibn al-Zubayr, lúc này còn lại ở Mecca, đã liên kết với hai lực lượng đối lập, một có căn cứ ở Medina và một nữa là những người Kharijites tại Basra và Arabia. Năm 683, Yazid phái một đội quân đi để chinh phục cả hai địa điểm trên. Quân đội của Yazid đã đánh bại phe đối lập ơt Medina trong trận al-Harra và tiếp tục vào bao vây thánh địa Mecca. Trong cuộc bao vây, Kaaba đã bị phá hủy bởi lửa cháy. Việc tiêu hủy Kaaba trở thành một nguyên nhân chính cho sự chỉ trích nhằm vào Triều đại Umayyads bởi những nhà chép sử sau này. 

Yazid đã chết trong khi cuộc bao vây vẫn còn dở dang và quân đội Umayyad trở về Damascus, mặc cho Ibn al-Zubayr chiếm lại quyền kiểm soát Mecca. Yazid được thừa kế bởi Muawiya II (683-84)-người con trai đầu tiên của ông, nhưng có vẻ như ông này không bao giờ được công nhận là một vị vua Hồi giáo ở những vùng bên ngoài Syria. Hai phe ra sức tập hợp lực lượng tại Syria: Liên minh của Qays ( the Confederation of Qays), những người ủng hộ Ibn al-Zubayr, và Quda’a, những người ủng hộ Marwan, một hậu duệ của giòng Umayya qua Umayyah ibn Wa’il. Những người ủng hộ Marwan đã chiến thắng trong một trận chiến tại Marj Rahit gần Damascus vào năm 684 và ngay sau đó Marwan trở thành vua Hồi giáo. 

Triều đại Marwanid

Nhiệm vụ đầu tiên của Marwan là để khẳng định sức mạnh của mình để chống lại những tuyên bố của Ibn al-Zubayr, đối thủ của mình, người tại thời điểm này được công nhận là vua Hồi giáo trong suốt hầu hết thế giới Hồi giáo. Marwan tái chiếm Ai Cập cho Triều đình Umayyads nhưng sau đó ông đã chết vào năm 685 trong khi mới trị vì chỉ có chín tháng.

Marwan được kế vị bởi con trai ông, Abd al-Malik (685-705), người kiểm soát Triều Umayyad và ra sức củng cố lại vương triều hồi giáo của mình. Thời gian đầu của triều đại Abd al-Malik được đánh dấu bởi cuộc nổi dậy của Al-Mukhtar nổ ra tại Kufa. Al-Mukhtar hy vọng sẽ đưa Muhammad ibn al-Hanafiyyah-một con trai của Ali lên làm quốc vương Hồi giáo, mặc dù bản thân Ibn al-Hanafiyyah có thể đã không có liên quan đến cuộc nổi dậy này. Quân của al-Mukhtar đã tham chiến với quân của nhà Umayyads vào năm 686 tại sông Khazir ở gần Mosul trận này là một thất bại cho nhà Umayyad nhưng Ibn al-Zubayr cũng bị thua trận vào năm 687, và sau đó cuộc nổi dậy của al-Mukhtar đã bị dẹp tan. Năm 691, quân đội của nhà Umayyad đã chinh phục Iraq và trong năm 692 đã chiếm Mecca. Ibn al-Zubayr bị giết trong cuộc tấn công này. 

Sự kiện lớn thứ hai ở đầu triều đại đầu của Abd al-Malik là việc xây dựng Nhà thờ Hồi giáo bằng đá (Dome of the Rock ) ở Jerusalem. Mặc dù niên đại của việc xây dựng này vẫn còn là điều chưa chắc chắn, nó dường như đã được hoàn thành vào năm 692 có nghĩa là nó đã được xây dựng trong thời gian nổ ra cuộc xung đột với Ibn al-Zubayr. Điều này đã khiến một số nhà sử học cả ở thời trung cổ và hiện đại đều cho rằng Dome of the Rock được xây dựng để cạnh tranh với nhà thờ Kaaba lúc này nằm dưới sự kiểm soát của Ibn al-Zubayr như là một điểm đến cho các chuyến hành hương. 

Abd al-Malik được cho là đã có công tập trung hóa việc quản lý vương quốc của mình và với thiết lập tiếng Ả Rập như là ngôn ngữ chính thức của nó. Ông cũng cho ban hành một tiền Hồi giáo được đúc duy nhất thay thế các đồng tiền của Byzantine và Sasanian được sử dụng trước đó. 

Sau cái chết của Abd al-Malik, con trai của ông, Al-Walid I (705-15) trở thành vua Hồi. Al-Walid cũng tài trợ cho công cuộc xây dựng nhà thờ Hồi giáo Al-Masjid al-Nabawi ở Medina và nhà thờ Hồi giáo lớn nhất của Damascus. 

Một nhân vật quan trọng trong cả hai triều đại của Walid-al và Abd al-Malik là thống đốc Umayyad của Iraq, Al-Hajjaj bin Yousef. Nhiều người Iraq vẫn chống lại sự cai trị của nhà Umayyad và al-Hajjaj phải đưa quân đội từ Syria đến để duy trì trật tự, ông cho quân đội đồn trú trong Wasit-một thị trấn mới. Lực lượng quân đội này có vai trò quan trọng trong việc đàn áp một cuộc nổi dậy được dẫn dắt bởi một vị tướng Iraq, Ibn al-Ash’ath, vào đầu thế kỷ thứ tám. 

Al-Walid được kế tục bởi anh trai của ông, Sulayman (715-17), người trong thời gian trị vì đã tiến hành một cuộc bao vây kéo dài vào thành phố Constantinople. Thất bại của cuộc bao vây đánh dấu sự kết thúc những tham vọng lớn của người Ả Rập nhằm vào thủ đô của người Byzantine. Tuy nhiên, hai thập niên đầu của thế kỷ thứ tám chứng kiến sự mở rộng liên tục của vương quốc Hồi giáo này ở bán đảo Iberia ở phía tây và vào Trung Á và miền bắc Ấn Độ ở phía đông. 

Sulayman được kế vị bởi người anh em họ của ông, Umar ibn Abd al-Aziz (717-20), người có vị thế độc đáo trong số các khalip của nhà Umayyad. Ông là chỉ cai trị Umayyad đã được công nhận bởi các truyền thống Hồi giáo sau này như là một khalip (Khalifa)chính thống-tức là thiên về làm thủ lĩnh tôn giáo chứ không chỉ đơn thuần là một vị vua thế tục (Malik). 

Umar được cho là đã được vinh danh bởi nỗ lực của ông để giải quyết vấn đề tài chính trong việc khuyến khích dân chúng chuyển sang đạo Hồi. Trong thời gian nhà Umayyad trị vì, đa số người dân sống trong vương quốc Hồi giáo này không phải là người Hồi giáo mà là Thiên chúa giáo, Zoroastrian, Do Thái giáo hoặc một tôn giáo nào đó. Những cộng đồng tôn giáo này đã không bị ép buộc phải chuyển đổi sang đạo Hồi, mà chuyển đổi theo một lý do kinh tế-thuế (jizyah) đã không bị áp đặt vào người Hồi giáo. Tình hình này thực sự có thể đã làm cho việc chuyển đổi sang đạo Hồi gây ra những thâm thủng về mặt ngân sách của vương quốc và có nhiều báo cáo rằng thống đốc các tỉnh tích cực khuyến khích cách chuyển đổi này. Người ta không biết rõ ràng rằng Umar cố gắng giải quyết tình trạng này như thế nào, nhưng có nhiều nguồn miêu tả rằng ông kiên định cách đối xử một cách bình đẳng giữa người Hồi giáo Ả-rập và phi Ả-rập (mawali), và loại bỏ các trở ngại đối với việc chuyển đổi những người phi Ả Rập sang theo Hồi giáo. 

Sau cái chết của Umar Yazid II (720-24)-một con trai của Abd al-Malik, trở thành khalip. Yazid được biết đến với “chỉ dụ iconoclastic” của mình, đây là chỉ dụ ra lệnh phá hủy hình ảnh của Thiên chúa giáo trong lãnh thổ của Vương quốc Hồi giáo này. Năm 720, một cuộc nổi dậy lớn đã nổ ra ở Iraq, lần này do ibn al-Yazid Muhallab lãnh đạo. 

Hisham và việc cắt giảm mở rộng các hoạt động quân sự 

Hisham (724-43)-người con út của Abd al-Malik đã nối ngôi trở thành khalip ( vua Hồi ), thời cai trị của ông được đánh dấu bởi thời gian trị vì lâu dài và nhiều sự kiện đặc biệt là việc cắt giảm mở rộng các hoạt động quân sự. 

Hisham thành lập triều đình của mình tại Resafa ở miền bắc Syria, đây là nơi gần biên giới với Byzantine hơn so với ở Damascus và ông này lại tiếp tục các cuộc chiến tranh chống lại người Byzantine, mà các cuộc chiến này vốn đã bị mất đi hiệu quả sau thất bại của cuộc bao vây cuối cùng vào thành phố Constantinople. Các chiến dịch mới dẫn đến không chỉ một số cuộc tấn công thành công vào Tiểu Á, mà còn có một thất bại lớn (trong trận Akroinon) và đã không tạo ra bất kỳ sự mở rộng đáng kể nào về mặt lãnh thổ. 

Hơn nữa triều đại của Hisham còn phải chứng kiến sự kết thúc của việc mở rộng ở phía tây, sau thất bại của quân đội Ả Rập trước người Frank ( Charles Matel ) trong trận Tours năm 732. Năm 739 một cuộc nổi loạn lớn của người Berber nổ ra tại Bắc Phi, và nó bị trấn áp một cách rất khó khăn. 

Hisham còn bị đánh bại một cách tồi tệ hơn nữa ở phía đông, nơi mà quân đội của ông đã cố gắng để chinh phục cả Tokharistan với thủ phủ của nó ở Balkh và Transoxia, với thủ phủ ở Samarkand. Cuối cùng thì cả hai vùng này đã bị chinh phục một phần, nhưng vẫn khó để cai trị ở đó. 

Một lần nữa, một câu hỏi khó khăn được đặc biệt quan tâm đến là việc chuyển đổi những người phi Ả Rập, đặc biệt là người Sogdian của xứ Transoxia. Ashras ibn ‘Abd al-Sulami Allah, thống đốc Khorasan, hứa giảm thuế cho những người Sogdian nếu họ chuyển đổi sang đạo Hồi, nhưng đã nuốt lời hứa của mình khi việc chuyển đổi là quá phổ biến và đe dọa sẽ làm giảm nguồn thu thuế. Năm 734, al-Harith ibn Surayj lãnh đạo một cuộc nổi dậy của người Sogdian, quân nổi dậy chiếm được Balkh nhưng không chiếm được Merv. Sau thất bại này, dường như cuộc nổi dậy của al-Harith đã bị giải tán, nhưng vấn đề về quyền lợi của người Hồi giáo phi Ả Rập không còn được quan tâm bởi nhà Umayyads. 

Cuộc nội chiến Fitna thứ ba 

Hisham được kế tục bởi Al-Walid II (743-44), con trai của Yazid II. Al-Walid được cho là quan tâm hơn đến những thú vui trần thế hơn so với niềm tin tôn giáo, một tiếng xấu của ông được xác nhận bởi các nhà sử học là cho dựng lên cái gọi là các “cung điện sa mạc” (bao gồm cả Qusayr Amra và Khirbat al-Mafjar). Ông này nhanh chóng thu hút sự hận thù của rất nhiều người, gồm cả những người phản đối sự lên ngôi của ông và những người thuộc phong trào thần học Qadariyya. 

Năm 744, Yazid III, con trai của Walid al-I, đã tuyên bố làm khalip tại Damascus và dẫn quân đội của mình tiến lên và giết chết al-Walid II. Yazid III đã có một danh tiếng nhất định về đạo đức và có thể chiếm được cảm tình của các thành viên của Qadariyya. Nhưng rất đáng tiếc là ông này đã qua đời chỉ sau một sáu tháng trị vì. 

Yazid đã bổ nhiệm Ibrahim-anh trai của mình làm người kế nhiệm của mình, nhưng Marwan II (744-50)-cháu trai của Marwan I dẫn một đội quân từ biên giới phía bắc và tiến vào Damascus vào tháng 12 năm 744, sau đó ông này cũng lại tuyên bố làm khalip. Marwan ngay lập tức chuyển thủ đô đến Harran-một vùng ở phía Bắc. ngày nay nay thuộc Thổ nhĩ kỳ. Một cuộc nổi loạn đã ngay lập tức nổ ra ở Syria, có lẽ do sự bất mãn về việc di dời thủ đô và trong năm 746 Marwan đã cho san bằng các bức tường của các thành phố Homs và Damascus để trả đũa.

Marwan cũng phải đối mặt với sự chống đối đáng kể từ băng đả.ng Kharijites ở Iraq và Iran, họ đã đưa ra đầu tiên là Dahhak ibn Qays và sau đó là Abu Dulaf như là những khalip đối thủ. Năm 747, Marwan cố gắng để thiết lập lại sự kiểm soát tới Iraq, nhưng trong thời gian này một mối đe dọa nghiêm trọng hơn đã phát sinh từ Khorasan ( vùng ngã tư phía bắc của Iran, bắc của Afghanistan, và phần phía nam của Turkmenistan và Uzbekistan.

Phong trào Hashimiyya (một chi nhánh nhỏ của người Shia Kaysanites), được lãnh đạo bởi nhà Abbasid, đã lật đổ quốc vương Hồi giáo nhà Umayyad. Nhà Abbasids là thành viên của gia tộc Hashim đối thủ của nhà Umayyads, nhưng từ “Hashimiyya” dường như là để nói đến Abu Hashim, một cháu nội của Ali và con trai của Muhammad ibn al-Hanafiyya. Theo truyền thống, Abu Hashim đã chết trong năm 717 tại Humeima trong ngôi nhà của Ali ibn Muhammad, người đứng đầu gia đình Abbasid và trước khi chết đã đặt Ali ibn Muhammad làm người kế nhiệm của ông. Truyền thống này cho phép nhà Abbasids tập hợp những người ủng hộ cuộc nổi dậy thất bại của Mukhtar-người đã đại diện cho những người ủng hộ Muhammad ibn al-Hanafiyya.

Bắt đầu từ khoảng năm 719, Hashimiyya đã bắt đầu sứ mệnh tìm kiếm tín đồ trong vùng Khurasan. Chiến dịch của họ được gói gọn trong công tác truyền đạo (dawah). Họ tìm cách tập hợp sự ủng hộ cho một “thành viên của gia đình” của Muhammad, mà không nói rõ ràng rằng đó là nhà Abbasids. Các tín sứ đã thu được thành công cả trong người Ả Rập và người phi Ả Rập (mawali) và sau này có thể người phi Ả Rập đã đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong sự phát triển của phong trào.

Khoảng năm 746, Abu Muslim-lãnh đạo của phong trào Hashimiyya ở Khurasan. Năm 747, ông bắt đầu thành công một cuộc nổi dậy chống lại sự cai trị của Triều Umayyad, cuộc nổi dậy được tiến hành với dấu hiệu là những lá cờ đen. Ông đã ngay lập tức chiếm quyền kiểm soát Khurasan và trục xuất Nasr ibn Sayyar-viên thống đốc của triều Umayyad và phái một đội quân hướng về phía tây. Kufa rơi vào tay Hashimiyya năm 749 và vào tháng 11 cùng năm Abu al-Abbas được công nhận là khalip mới tại nhà thờ Kufa.

Tại thời điểm này quân đội của Marwan được huy động từ Harran và tiến về phía Iraq. Trong tháng Giêng năm 750 lực lượng hai bên đã gặp trong trận Battle of the Zab và nhà Umayyad đã bị đánh bại. Damascus rơi vào tay nhà Abbasids vào tháng Tư và vào tháng Tám Marwan đã bị giết chết tại Ai Cập.

Những người chiến thắng đã cho quật mồ các ngôi mộ của nhà Umayyads tại Syria, chỉ chừa lại ngôi mộ của Umar II và hầu hết các thành viên còn lại của gia đình Umayyad đều bị giết. Một cháu trai của Hisham, Abd ar-Rahman I, sống sót và thành lập một vương quốc ở Al-Andalus ( người Moor xứ Iberia) và tuyên bố rằng giòng họ Umayyad-vua Hồi giáo đã hồi sinh.

Triều đại nhà Abbasid

Vương quốc Hồi giáo giòng Abbasid hay đơn giản là nhà Abbasids, là triều đại Hồi giáo thứ 3 của người Ảrập. Nó được cai trị bởi các vị khalip của nhà Abbasid, những người đã xây dựng thủ đô của họ ở Baghdad sau khi lật đổ chính quyền của nhà Umayyad trên tất cả các vùng đất của người Arab chỉ trừ có vùng Al Andalus ở Tây Âu.

Vương quốc Hồi giáo Abbasid được thành lập bởi các hậu duệ của Abbas ibn Abd al-Muttalib-người cậu trẻ tuổi nhất của nhà Tiên tri Hồi giáo Muhammad, ở Harran trong năm 750 và chuyển thủ đô của họ đến Baghdad trong năm 762. Vương quốc này phát triển mạnh mẽ trong hai thế kỷ, nhưng từ từ đi vào suy thoái cùng với sự gia tăng quyền lực của đội quân Thổ Nhĩ Kỳ mà nó đã tạo ra-người Mamluk. Trong vòng 150 năm giành quyền kiểm soát vùng đất Ba Tư, Các khalip đã bị buộc phải nhường quyền kiểm soát ở địa phương cho các tiểu vương-những người chỉ thừa nhận quyền của họ trên danh nghĩa. Vương quốc Hồi giáo cũng bị mất các tỉnh ở phía Tây và châu Âu như Al Andalus, Maghreb và Ifriqiya vào tay các Hoàng tử nhà Umayyad, Aghlabid và Fatimid.

Quyền cai trị của nhà Abbasid đã bị chấm dứt trong một thời gian ngắn khoảng ba năm kể từ năm 1258, khi Hulagu Khan-một khan người Mông Cổ công chiếm thành Baghdad và được nối lại khi người Mamluk chiếm Ai Cập năm 1261, kể từ đó họ được yêu cầu tiếp tục quản lý các vấn đề về tôn giáo ( chức danh khalip lúc này chỉ còn là chăm sóc phần hồn, không còn là vua thế tục ) cho đến 1519, khi quyền lực được chính thức chuyển giao cho Đế quốc Ottoman và thủ đô của Đế quốc được chuyển đến thành phố Constantinople-lúc này được đặt tên là Istambul.

Đứng lên giành chính quyền

Các khalip nhà Abbasid hậu duệ của Abbas ibn Abd al-Muttalib (566-662), một người cậu ít tuổi nhất của Muhammad, do đó họ tự coi mình là người thừa kế thực sự của Muhammad trái ngược với nhà Umayyad. Các vị vua Hồi giáo nhà Umayyad là hậu duệ của Umayya và là một gia tộc riêng biệt trong bộ lạc Quraish của Muhammad. Họ đã giành được sự ủng hộ của người Shiite ( người Hashimiyya, một nhánh nhỏ của người Shia Kaysanites) để đối đầu với triều đình Umayyad bằng cách tạm thời chuyển sang Hồi giáo Shia và cùng nhau chiến đấu chống lại sự trị vì của nhà Umayyad.

Các thành viên nhà Abbasids tạo sự khác biệt giữa chính họ với nhà Umayyads bằng cách tấn công vào đạo đức của họ và cách quản lý hành chính nói chung của nhà Umayyad. Theo sử gia Ira Lapidus, “Các cuộc nổi dậy của nhà Abbasid đã được hỗ trợ phần lớn bởi người Ả Rập, chủ yếu là những người định cư ở Marw bị gây thiệt hại bởi các chính sách của nhà Umayyad cùng với sự hỗ trợ từ người Yemen và người Mawali-những người theo đạo Hồi nhưng không phải là người Arab”. Nhà Abbasids cũng đặc biệt kêu gọi sự tham gia của người Hồi giáo phi Ả Rập được gọi là mawali, những người vẫn phải ở bên ngoài lề xã hội bởi mối quan hệ họ hàng của người Ả Rập và được xem là có một thứ hạng thấp hơn trong đế quốc Umayyad. Muhammad ibn ‘Ali-một người cháu trai lớn của Abbas, đã bắt đầu vận động cho sự trở lại cầm quyền của gia đình Muhammad-nhà Hashimites ( mời các bác quay trở lại phần trước để xem sự tranh giành quyền lực giữa nhà Umayyad và Hashimites) tại Ba Tư trong triều đại của vua Umar II ( có khả năng vua Umar II đã nhẹ tay với họ nên khi thành công họ đã trừa ra mà không quật mồ ông này).

Trong suốt thời trị vì của vua Marwan II, sự chống đối của nhà Abbasid đã lên đến đỉnh điểm trong cuộc nổi loạn của Ibrahim vị Imam thứ tư có nguồn gốc từ Abbas. Với sự hỗ trợ từu tỉnh Khorasan của Iran, ông này đã đạt được những thành công đáng kể, nhưng cuối cùng vẫn thất bại và đã bị bắt giữ vào năm 747 và chết trong tù, một số người cho rằng ông đã bị ám sát một cách bí mật. Ibrahim lại được thay thế bởi Abdallah-anh/ em trai của ông, người được biết đến với cái tên Abu al-‘Abbas as Saffah, ông này cũng là người đã đánh bại nhà Umayyads vào năm 750 trong Trận Zab ở gần Great Zab và sau đó đã tuyên bố trở thành quốc vương Hồi giáo.

Ngay sau chiến thắng của mình Abu al-‘Abbas as-Saffah đã gửi quân đến Bắc Phi và Trung Á, nơi mà lực lượng của ông đã phải chiến đấu chống lại sự mở rộng của nhà Đường ( Trung quốc ) trong Trận chiến Talas ( người Abbasids được biết đến với đối thủ của họ như là: “những người mặc choàng áo đen”). Barmakids ( một người gốc Batư và có tên Batư là Barmakīyān), người đã có tầm quan trọng trong việc xây dựng thủ đô Baghdad, cũng là người đầu tiên trên thế giới được ghi nhận làm giấy ở Baghdad, lúc này cũng bắt đầu một kỷ nguyên mới của sự hồi sinh việc sở hữu trí tuệ (nguyên văn a new era of intellectual rebirth ) trong vùng cai trị của nhà Abbasid. Trong thời gian 10 năm, nhà Abbasids đã cho xây dựng một nhà máy giấy nổi tiếng ở thành phố Córdoba-thủ đô của nhà Umayyad tại Tây Ban Nha.

Tình hình chính trị

Củng cố và phân ly

Sự thay đổi đầu tiên mà nhà Abbasids làm là cho di chuyển thủ đô của đế quốc từ Damascus-Syria đến ffice:smarttags” />Baghdad ở Iraq. Việc này dường như là để vừa xoa dịu cũng như để trở nên gần gũi hơn với người mawali Ba Tư ( người phi Ả rập ) trong khu vực này và một phần mong muốn của người mawali Ba Tư là có ít đi sự thống trị của người Ả Rập trong đế quốc. Thành phố Baghdad được tạo lập trên Sông Tigris trong năm 762. Một vị trí mới-tể tướng, cũng được lập nên để đại diện cho chính quyền trung ương và còn quyền lực lớn hơn được giao cho các tiểu vương ở địa phương. Cuối cùng thì điều này có nghĩa rằng là vị trí của nhiều khalip nhà Abbasid bị tụt xuống chỉ còn ở một vai trò nghi lễ hơn so với thời của nhà Umayyads, và các tể tướng bắt đầu gây ảnh hưởng lớn hơn và vai trò của tầng lớp quý tộc Ả Rập cũ đã dần dần bị thay thế bằng một bộ máy quan liêu người Ba Tư. 

Nhà Abbasid đã phụ thuộc rất nhiều vào sự hỗ trợ của người Ba Tư trong khi họ tìm cách lật đổ nhà Umayyad. Al-Mansur, người kế vị Abu al-‘Abbas đã cho chuyển thủ đô từ Damascus đến Baghdad-thành phố mới và hoan nghênh việc những người Hồi giáo Ả Rập không tới triều đình của họ. Trong khi sự kiện này đã giúp cho việc tích hợp các nền văn hóa Ả Rập và Ba Tư, thì nó cũng làm cho nhà Abbasid bị xa lánh bởi nhiều người Ả Rập ủng hộ họ, đặc biệt là người Ả Rập Khorasanian, những người đã hỗ trợ họ trong các trận chiến của họ chống lại nhà Umayyad.

Những vết rạn nứt với những người đã hỗ trợ họ đã tạo ra những vấn đề ngay tức thì. Nhà Umayyad thì lại không như vậy, trong khi bị đẩy ra khỏi quyền lực họ đã không bị tiêu diệt hoàn toàn. Thành viên duy nhất còn sống của gia đình hoàng gia Umayyad cuối cùng đã đến được Tây Ban Nha, nơi ông tự lập cho mình thành một Tiểu vương Ả rập độc lập (Abd ar-Rahman I năm 756). Năm 929, Abd ar-Rahman III đảm nhiệm chức danh Caliph ( vua Hồi ), và thành lập vương quốc Al Andalus từ Córdoba như là một đối thủ với Baghdad vốn là thủ đô hợp pháp của Đế quốc Hồi giáo.

Rạn nứt với người Hồi giáo Shia

Nhà Abbasids cũng có mâu thuẫn với người Hồi giáo Shia, đa số họ đã hỗ trợ cuộc chiến của nhà Abbasid chống lại nhà Umayyads, kể từ khi người giòng Abbasids và người Shia tuyên bố về tính hợp pháp của kết nối gia đình của họ với Muhammad. Sau khi nắm chính quyền, nhà Abbasids lại quay ra giữ rịt lấu tín ngưỡng Hồi giáo v và chối bỏ bất kỳ sự hỗ trợ cho niềm tin Shi’a. Sự kiện này đã dẫn đến nhiều cuộc xung đột, đỉnh điểm là một cuộc nổi dậy tại Meccatrong năm 786, tiếp theo là những cuộc tàn sát và đổ máu làm cho nhiều người Shi’a phải lãnh nạn đến Maghreb, nơi mà những người sống sót đã thành lập vương quốc Idrisid. Nhà Abbasids cũng đã cho hành hình những hậu duệ trực tiếp của Tiên Tri Muhammad-những người là lãnh tụ Hồi giáo giòng Shia, trong đó bao gồm Imam Jafar Sadiq và các quý tộc đáng tôn trọng khác. Ngay sau đó, người Berber ở Kharijites đã thành lập một nhà nước độc lập ở Bắc Phi trong năm 801. Trong vòng 50 năm các vương quốc Idrisids ở Maghreb và Aghlabid ở Ifriqiya và một chút sau đó, Tulunid và Ikshidid ở Misr đều tuyên bố độc lập ở Bắc Phi.

Thông tin liên lạc với các tỉnh

Các lãnh đạo nhà Abbas đã phải làm việc chăm chỉ trong nửa cuối của thế kỷ thứ tám (750-800), một số khalip có thẩm quyền và các vị tể tướng của họ đã phải vượt qua những thách thức về mặt chính trị được tạo ra bởi sự xa xôi của đế quốc và việc hạn chế của truyền thông vào thời điểm đó và phải đưa ra những thay đổi hành chính để giữ trật tự. Mặc dù Đế quốc Byzantine liên tục gây chiến với nhà Abbasid để thu hồi các vùng đất ở Syria và Anatolia, nhưng quân sự trong thời kỳ này chỉ ở mức tối thiểu ( so với thời đại trước đó ), vì vậy các quốc vương Hồi giáo có đủ thời gian để tập trung vào vấn đề nội bộ như các thống đốc địa phương, những người chủ yếu muốn chở nên độc lập với chính quyền trung ương. Vấn đề mà các vị khalip thường phải đối mặt là các thống đốc đã bắt đầu phát huy quyền tự chủ lớn hơn nữa bằng cách sử dụng quyền lực ngày càng tăng của họ để làm cho vị trí của họ được cha truyền con nối. 

Đồng thời, nhà Abbasid cũng phải đối mặt với những thách thức ở gần kề. Những người trước đây đã ủng hộ nhà Abbasids đã tách ra để tạo ra một vương quốc riêng biệt xung quanh Khorosan ở miền bắc Ba Tư. Nhà vua Harun al-Rashid (786-809) đã trở mặt với Barmakids, một gia đình Ba Tư đã có quyền lực đáng kể trong chính quyền của vương quốc và giết chết hầu hết các thành viên của gia đình này. Trong thời gian này, rất nhiều phe nhóm các nhà quý tộc chống đối bắt đầu hoặc rời khỏi đế quốc để đến những vùng đất khác hoặc nắm lấy quyền kiểm soát những phần xa xôi của đế quốc Abbasid.

Thời kỳ đỉnh cao

Thời kỳ đỉnh cao của người Hồi giáo được bắt đầu vào giữa thế kỷ thứ 8 cùng với thăng hoa của Vương quốc Hồi giáo Abbasid và việc chuyển thủ đô từ Damascus đến Baghdad. Các thành viên nhà Abbassids bị ảnh hưởng bởi huấn thị của Kinh Qur’an và hadith chẳng hạn như “mực của một học giả thì thánh thiện hơn so với máu của một kẻ tử vì đạo – the ink of a scholar is more holy than the blood of a martyr ” và điều này nhấn mạnh giá trị của tri thức. Trong giai đoạn này thế giới Hồi giáo đã trở thành trung tâm trí thức vô song của khoa học, y học, triết học và giáo dục cũng như việc nhà Abbasids ganh đua để bảo trợ cho tri thức và thành lập Tòa nhà Thông thái – House of Wisdom tại Baghdad, nơi mà cả người Hồi giáo và các học giả phi Hồi giáo tìm cách để biên dịch và thu thập tất cả kiến thức của thế giới sang Tiếng Ả Rập. Nhiều tác phẩm cổ điển của thời thượng cổ có thể sẽ bị thất truyền nếu không được dịch sang tiếng Ả Rập và Ba Tư rồi sau đó chúng lại lần lượt được dịch sang tiếng Thổ Nhĩ Kỳ, tiếng Do Thái và tiếng Latin. Trong giai đoạn này thế giới Hồi giáo giống như là một cái vạc của nền văn hóa để thu thập, tổng hợp và nâng cao đáng kể các kiến thức thu được từ các nền văn minh La Mã, Trung Quốc, Ấn Độ, Ba Tư, Ai Cập, Bắc Phi, Hy Lạp và Byzantine. ( đọc đến đây ta thấy tại sao người Ả rập và Batư có một nền Văn hóa + Khoa học huy hoàng vào thời đó, chứ như ở ta bậc lãnh đạo bước ra bắt tay, vỗ đầu một cái bác tên là Nờ Bờ Cờ nào đó rồi đút vào miệng bác ta một căn hộ hơn chục tỷ và coi đó là trọng tri thức thì chẳng biết đến lúc nào chúng ta mới có một nền văn hóa, khoa học huy hoàng nhỉ).

Ở thời kỳ đỉnh cao dưới sự trị vì của Triều đình nhà Abbasid, người Hồi giáo đã phát triển mạnh mẽ các môn như khoa học, kỹ thuật, văn chương, triết học, hóa học, ngôn ngữ học … nhưng những môn này không dính tới chủ đề nên người sưu tầm xin lược bỏ để khỏi làm mất thời gian của bạn đọc.

Chính quyền Trung ương bị gãy xương sống

Trung ương bị mất quyền lực trước những chính quyền tự trị

Ngay vào năm 820, người Samanids đã bắt đầu quá trình đòi quyền độc lập cho xứ Transoxiana và vùng Đại Khorasan, cũng như người Shia Hamdanids ở miền Bắc Syria, và các triều đại Tahirid và Saffarid ở Iran. Đến thế kỷ thứ 10, nhà Abbasid đã gần như đánh mất quyền kiểm soát Iraq vào tay các tiểu vương khác nhau, và vị khalip al-Radi đã buộc phải thừa nhận quyền lực của họ bằng cách tạo ra các vị trí “Hoàng tử của Hoàng tử” (Amir al-umara). Ngay sau đó, một phe phái Ba Tư được gọi là Buwayhid đến từ Daylam đã chiếm lấy việc kiểm soát quyền lực và hệ thống hành chính quan liêu ở Baghdad. Theo nhà chép sử Miskawayh người Batư, họ bắt đầu phân phối các iqtas ( các thái ấp theo hình thức trang trại nộp thuế) cho những người ủng hộ họ.

Bên ngoài Iraq, tất cả các tỉnh tự trị trên thực tế đã từ từ trở thành các tiểu quốc và nhà cầm quyền có quyền cha truyền con nối, có quân đội riêng và các khoản thu riêng và quyền bá chủ của khalip chỉ là trên danh nghĩa, và dường như họ không nhất thiết phải có nghĩa vụ trả bất kỳ khoản triều cống nào vào ngân sách của chính quyền Trung ương, chẳng hạn như Tiểu vương Soomro đã kiểm soát vùng Sindh và cai trị toàn tỉnh từ thủ đô của họ ở Mansura. Mahmud của Ghazni lấy danh hiệu là vua chứ không phải là danh hiệu tiểu vương vốn được sử dụng phổ biến và việc này đã đánh dấu sự ra đời của Đế quốc Ghaznavid độc lập khỏi nhà Abbasid, bất chấp việc Mahmud đã phô trương nghi lễ chính thống Sunni trước khalip này. Trong thế kỷ 11, sự mất tôn trọng vào quyền lực của khalip vẫn được tiếp tục, như việc một số nhà cai trị Hồi giáo không còn đề cập đến tên của khalip trong ngày lễ khutba hôm thứ sáu hoặc họ đã cho đúc đồng tiền riêng của họ. 

Thậm chí chính quyền của nhà Ismaili Fatimid ( theo Hồi giáo dòng Shia) đang cai trị Cairo còn tranh giành với nhà Abbasid ngay cả danh nghĩa và quyền năng của chức vị Ummah Hồi giáo. Họ có một số sự hỗ trợ trong những phần người Shia ở Baghdad (chẳng hạn như quận Karkh), bất chấp Baghdad là thành phố lớn gắn liền với quốc vương Hồi giáo, ngay cả trong Triều đại Buwayhid và Saljuq. Nhà Fatimids sử dụng cờ hiệu màu trắng để đối lập với màu đen của nhà Abbasids và những thách thức của nhà Fatimids chỉ kết thúc với sự sụp đổ của họ trong thế kỷ 12 ( mời các bác quay lại các trang trước thì sẽ thấy nhà Fatimid rơi vào tay Saladin-một tướng của nhà Ghazni và rồi thì xứ Syria của nhà Ghazni cũng rơi vào tay ông nốt)

Bất chấp sức mạnh của các tiểu vương nhà Buwayhid, nhà Abbasid vẫn giữ được một cung đình ở Baghdad với các nghi thức rất long trọng như theo các mô tả của Hilal al-Sabi ‘, một quan chức của tiểu vương Buwayhid, và họ đã giữ lại được một ảnh hưởng nhất định đối với Baghdad cũng như trong đời sống tôn giáo. Khi nhà Buwayhid bị suy yếu quyền lực sau cái chết của Al Baha ‘-Daula, quốc vương Hồi giáo đã có thể lấy lại được một phần sức mạnh của mình. Ví dụ như vị khalip al-Qadir đã dẫn đầu cuộc đấu tranh ý thức hệ chống lại người Shia với tác phẩm Tuyên ngôn Baghdad. Các vị khalip có tầm quan trọng trong việc giữ bình yên ở chính Baghdad và cố gắng để ngăn chặn sự bùng phát nội chiến ở thủ đô.

Quan hệ của nhà Abbasid với người Saljuq

Với việc nhà Buwayhid trở nên suy yếu dần, vùng chân không được tạo cuối cùng đã được lấp đầy bởi các triều đại của người Oghuz Turk còn được gọi là người Saljuq. Khi vị tiểu vương kiêm cựu nô lệ Basasiri dẫn đầu đội quân của triều đình Fatimid dòng Shia tiến về Baghdad năm 1058, vị khalip al-Qa’im thấy rằng không thể đánh bại ông ta mà không có sự giúp đỡ bên ngoài. Toghril Beg-vị sultan người Saljuq đã phục hồi được Baghdad dưới quyền cai trị của người Sunni và chiếm ffice:smarttags” />Iraq cho triều đại của ông ta. Một lần nữa, nhà Abbasids lại bị buộc phải đối phó với một sức mạnh quân sự mà họ không thể đủ tầm để kháng cự mặc dù các vị khalip nhà Abbasid vẫn về danh nghĩa là người đứng đầu của cộng đồng Hồi giáo. Các nhà vua kế tiếp Alp Arslan và Malikshah, cũng như tể tướng của họ là Nizam al-Mulk đã sống ở Ba Tư, nhưng vẫn nắm quyền lực qua nhà Abbasids ở Baghdad. Khi triều đại này bắt đầu suy yếu trong thế kỷ 12, nhà Abbasids lại một lần nữa giành được nhiều độc lập hơn nữa.

Hậu thời kỳ phục hồi sức mạnh quân sự năm 1118-1258

Trong khi al-Mustarshid là vị khalip đầu tiên đã cố xây dựng một đội quân có khả năng đáp trả một đội quân của người Saljuq trong trận chiến, tuy nhiên ông ta đã bị đánh bại trong 1135 và bị ám sát. al-Muqtafi là vị khalip nhà Abbasid đầu tiên đã lấy lại được độc lập hoàn toàn về mặt quân sự cho quốc vương Hồi giáo với sự giúp đỡ của Ibn Hubayra-tể tướng của ông ta. Sau gần 250 năm là đối tượng chinh phục của các triều đại nước ngoài, ông bảo vệ thành côngBaghdad chống lại cuộc bao vây Baghdad của người Saljuq (năm 1157), do đó ông đã giữ được Iraq cho nhà Abbasid. Triều đại al-Nasir (Mất năm 1225) mang quyền lực của quốc vương Hồi giáo đến suốt Iraq, dựa một phần lớn vào tổ chức Sufi futuwwa do các khalip đứng đầu. Al-Mustansir đã cho xây dựng Trường học Mustansiriya, Trong một nỗ lực để làm lu mờ trường Nizamiyya của người Saljuq được xây dựng bởi Nizam al-Mulk.

Sự kết thúc của triều đại Abbasid

Hulagu Khan công phá được Baghdad vào ngày 10 tháng 2 năm 1258 và đã tàn sát rất nhiều người dân vô tội. Người Hồi giáo sợ rằng một thảm họa siêu nhiên sẽ xảy ra nếu máu của Al-Musta’sim, một hậu duệ trực tiếp của người chú của nhà Tiên tri Muhammad và là khalip cuối cùng của nhà Abbasid giáo trị vìBaghdad sẽ đổ. Khi biết về kinh nghiệm của người Shiite Ba Tư nói rằng không có thiên tai như vậy đã xảy ra sau cái chết của Imam Hussein (lãnh đạo Hồi giáo dòng Shia), tuy nhiên, để đề phòng và phù hợp với một điều cấm kỵ của người Mông Cổ là cấm làm đổ máu người trong hoàng tộc, Hulagu đã cho bọc Al-Musta’sim vào trong một tấm thảm và cho chà đạp đến chết bởi ngựa trong ngày 20 tháng 2 năm 1258. Gia đình Al-Musta’sim cũng bị hành quyết chỉ trừ một trường hợp ngoại lệ duy nhất là người con trai út của ông đã được gửi đến Mông Cổ, và một con gái đã trở thành nô lệ trong cấm cung của Hulagu. Theo các sử gia Mông Cổ, người con trai còn sống sót đã kết hôn và là cha của những đứa trẻ. ( nhưng có vẻ như theo thực tế thì ông này sẽ thường bị thiến)

Nhà Abbasids tiếp tục duy trì sự hiện diện quyền lực của họ, nhưng chỉ được giới hạn trong các vấn đề tôn giáo ở Ai Cập dưới sự cai trị thực sự của người Mamluk. Triều đại nhà Abbasid cuối cùng đã kết thúc với Al-Mutawakkil III, người bị bắt đi như một tù nhân bởi Selim I ( vua Thổ nhĩ kỳ) đến Constantinoplenơi ông đóng một vai trò nghi lễ cho đến khi ông chết vào năm 1543.

Người Mamluk ( Mameluk)

Mamluk là tên để gọi một người lính có nguồn gốc nô lệ. ” hiện tượng Mamluk ” như nhà nghiên cứu David Ayalon gọi là sự sáng tạo của lớp chiến binh đặc biệt, là sự kiện chính trị có tầm quan trọng lớn lao và lạ thường kéo dài từ thế kỷ thứ 9 đến thế kỷ 19. Theo thời gian, Mamluk trở thành một đẳng cấp quân sự thế lực trong nhiều xã hội Hồi giáo. Đặc biệt không chỉ ở trong Egypt mà còn trong ở các quốc gia vùng Levant, Iraq và Ấn độ, người Mamluk nắm giữ quyền lực chính trị và quân sự. Trong một số trường hợp, họ đạt được đến vị trí sultan ( vua Thổ), trong khi ở những người khác nắm quyền kiểm soát vùng của họ như các Tiểu vương hoặc Thống đốc. Đáng chú ý nhất, các phe phái Mamluk nắm lấy vương quốc cho mình trong Egypt và Syria trong một giai đoạn được gọi là Vương quốc Hồi giáo Mamluk ( năm 1250->1517). Vương quốc Hồi giáo Mamluk đã trở nên nổi tiếng vì đánh bại quân Mông Cổ và chiến đấu với quân Thập tự chinh.

Họ có xuất xứ khác nhau nhưng thường là người Thổ Kipchak hoặc người Cumans, tùy thuộc vào thời gian và khu vực mà người ta đặt câu hỏi. Khi mà người Mamluk được mua về, đẳng cấp nô lệ của họ là cao hơn mức bình thường-những người không được phép mang vũ khí hoặc chỉ để làm những công việc nhất định. Ở những nơi như Ai Cập từ Triều đại Ayyubid đến thời gian của Muhammad Ali của Egypt, người Mamluk đã được xem là những “lãnh chúa thực sự” với những địa vị xã hội ở trên cả người Hồi giáo tự do. 

Câu chuyện về chế độ quân sự nô lệ trong các xã hội Hồi giáo bắt đầu bởi các nhà khalip Abbasid vào thế kỷ thứ 9 ở Baghdad. Những người Mamluk đầu tiên được biết đến như là ghilman (Một thuật ngữ để chỉ những người nô lệ theo nghĩa rộng) và được mua lại bởi các khalip đời đầu của nhà Abbasid. Đến giữa thế kỷ thứ 9, những người lính-nô lệ đã trở thành yếu tố thống trị trong quân đội Hồi giáo. Xung đột giữa các ghilman với dân cư của Baghdad khiến khalip al-Mu’tasim phải di chuyển thủ đô của mình đến thành phố Samarra, nhưng việc này đã không làm dịu căng thẳng, vị khalip al-Mutawakkil bị ám sát bởi một số trong những người lính-nô lệ ở năm 861. Nhà Abbasids mua binh lính-nô lệ chủ yếu là từ những vùng gần Caucasus (Chủ yếu là người Circassian đến từ Georgia), và từ các khu vực phía bắc Biển Đen ( người Kipchak và các vùng khác của Thổ Nhĩ Kỳ). Những người bị bắt có nguồn gốc không phải là Hồi giáo.

Việc sử dụng binh lính Mamluk đã cho người cầm quân không có bất kỳ mối liên kết nào với cơ cấu quyền lực đã được thành lập. Những chiến binh Mamluk không phải là người địa phương thường trung thành hơn với những lãnh tụ Hồi giáo ở các bộ tộc của họ, gia đình của họ-những người còn có dòng máu quý tộc hơn là các sultan hoặc khalip. Nếu một viên chỉ huy có âm mưu chống lại những người cai trị, thông thường không thể đối phó với âm mưu này mà không gây ra bất ổn trong số các nhà quý tộc. Các chiến binh nô lệ Mamluk là người lạ có đẳng cấp thấp nhất ( so với quý tộc ), những người thường không thể có âm mưu chống lại nhà cai trị và có thể dễ dàng bị trừng phạt nếu họ gây ra rắc rối, đã làm cho họ thành một tài sản quân sự lớn.

Sau khi Đế quốc Abbasid bị tan rã, nô lệ quân sự được biết đến như là Mamluk hoặc là ghilman, đã trở thành cơ sở của sức mạnh quân sự trên khắp thế giới Hồi giáo. Triều đình Fatimid ở Ai Cập đã mua các nô lệ-chiến binh Armenia, Turk và Sudan, những người đã hình thành phần lớn sức mạnh quân sự của họ và đôi khi cũng trở thành những nhà điều hành vương quốc. Ví dụ Badr al-Jamali, vị tể tướng mạnh là một lính Mamluk có nguồn gốc từ Armenia. Tại Iran và Iraq, nhà Buyid sử dụng các nô lệ gốc Thổ Nhĩ Kỳ trong suốt đế quốc của họ và rồi al-Basasiri, một chiến binh nổi loạn cuối cùng lại báo hiệu về sự trị vì của người Saljuq ở Baghdad sau khi cố gắng một cuộc nổi dậy thất bại. Sau đó khi nhà Abbasid lấy lại kiểm soát về mặt quân sự ở Iraq, họ cũng đã dựa vào một đội quân nô lệ được gọi là ghilman. 

Dưới sự trị vì của Saladin và Triều Ayyubid ở Ai Cập, sức mạnh của người Mamluk càng tăng lên cho đến khi họ tuyên bố làm chủ Vương quốc Hồi giáo vào năm 1250, nhà cầm quyền là Mamluk Sultanate. Chế độ nô lệ quân sự vẫn tiếp tục được sử dụng trên khắp thế giới Hồi giáo cho đến thế kỷ 19. Các devşirme của Đế quốc Ottoman, hoặc việc “thu mua” những người nô lệ trẻ cho quân đoàn Janissary kéo dài cho đến tận thế kỷ thứ 17, trong khi các chế độ dựa vào nền tảng người Mamluk tiếp tục phát triển mạnh ở các tỉnh của Ottoman như Iraq và Ai Cập vào thế kỷ 19.

Tổ chức

Dưới thời Sultane Mamluk của Cairo, các Mamluk được mua trong khi vẫn còn rất trẻ và được nuôi dưỡng trong các doanh trại của Cổ Thành ở Cairo. Do tình trạng cụ thể của họ (không có quan hệ xã hội hoặc đả.ng phái chính trị) và quá trình đào tạo quân sự khắc khổ của họ, họ thường rất đáng tin cậy. Việc đào tạo họ bao gồm giáo dục tôn giáo và quân sự một cách chặt chẽ để giúp họ trở thành ” một kỵ sỹ Hồi giáo và chiến binh chiến đấu xuất sắc” Khi công việc đào tạo của họ kết thúc họ được xuất trường, nhưng họ vẫn gắn liền với người bảo trợ-người đã mua họ. Mamluk dựa vào sự giúp đỡ của người bảo trợ của họ để có những thăng tiến trong binh nghiệp và tương tự như vậy danh tiếng và quyền lực của người bảo trợ phụ thuộc vào các tân binh của mình. Một chiến binh Mamluk cũng “bị ràng buộc bởi một tinh thần đồng đội mạnh mẽ “

Người Mamluk lại thường tự hào về nguồn gốc nô lệ của họ và những người được mua có đủ năng lực về phẩm chất để đạt được những vị trí cao nhất. Các đặc quyền của một Mamluk đã làm cho nhiều người Ai cập tự do mong muốn được tự bán để được gia nhập vào một xã hội đặc quyền đặc lợi. Người Mamluk nói tiếng Ả Rập và tạo danh tính của họ bằng cách giữ lại một cái tên Ai Cập. Tuy nhiên bất chấp nguồn gốc khiêm tốn và đẳng cấp thấp, người Mamluk được tôn trọng bởi những đối tượng Ả Rập của họ. Họ giành được sự ngưỡng mộ và uy tín như là “người bảo vệ thực sự của đạo Hồi bởi đẩy lùi cả Thập tự quân và người Mongol.” Nhiều người đã xem họ như là một phước lành mà Chúa đã gửi đến cho các tín đồ Hồi giáo.

Sau khi người Mamluk đã chuyển đổi sang đạo Hồi, nhiều người đã được đào tạo để trở thành các kỵ sỹ. Người Mamluk phải làm theo điều huấn thị củafurusiyya, đây là một bộ luật bao gồm giá trị của lòng dũng cảm và lòng hảo tâm và cũng còn có cả chiến thuật kỵ binh, cưỡi ngựa, bắn cung và cách điều trị các vết thương, vv

Người Mamluk sống trong đơn vị đồn trú của họ và chủ yếu dành thời gian của họ với nhau. Các cuộc vui chơi giải trí của họ bao gồm các sự kiện thể thao như các cuộc thi bắn cung và thể hiện các kỹ năng chiến đấu ít nhất một lần trong một tuần. Việc đào tạo chuyên sâu và nghiêm ngặt của từng đợt tuyển dụng mới đã giúp đảm bảo tính liên tục của người Mamluk.

Trong khi họ không còn thực sự là nô lệ sau khi đào tạo, họ vẫn còn có nghĩa vụ để phục vụ cho Sultan. Các Sultan giữ họ như là một lực lượng bên ngoài, dưới sự chỉ huy trực tiếp của ông, để sử dụng trong trường hợp có va chạm với các bộ tộc địa phương. Các Sultan cũng có thể gửi cho họ đi viễn chinh ở xa như các khu vực Hồi giáo thuộc Xứ Iberia.

Đương nhiên là các vị Sultan thường có số lượng Mamluk lớn nhất còn các Tiểu vương thì có ít hơn trong quân đội riêng của họ. Nhiều Mamluk đã vươn lên đến vị trí cao trong toàn đế quốc, bao gồm cả vị trí tư lệnh quân đội. Lúc đầu, vị trí của họ vẫn không cha truyền con nối và những người con trai bị ngăn cấm không được đi theo người cha của mình. Tuy nhiên qua thời gian, ở những nơi như Ai Cập, lực lượng Mamluk trở nên có liên kết với cấu trúc quyền lực hiện có và thu được một lượng đáng kể ảnh hưởng đến những quyền hạn của họ.

Một sự tiến hóa tương tự như vậy cũng đã xảy ra trong quân đoàn Janissaries của Đế quốc Ottoman.

Sức mạnh của người Mamluk ở Ai cập

Thủa ban đầu của người Mamluk ở Ai cập

Ahmed ibn Tulun là một Mamluk gốc người Turk được cha gửi đến như một món quà tặng cho vua Hồi al-Ma’mun nhà Abbasid ở khoảng năm 815-16 AD. Ibn Tulun đã được gửi đến Ai Cập năm 868 như là nhiếp chính cho thống đốc của nhà Abbasid, nhưng bằng các âm mưu về ngoại giao và quân sự, ông ta đã thành công trong việc tự dựng lên triều đại Tulunid tự chủ như một nhà cai trị người Mamluk đầu tiên ở Ai Cập. Tuy nhiên nhà Tulunid chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian khá ngắn ngủi và Ai Cập đã bị tái chiếm bởi quân đội củaà Abbassid vào mùa đông năm 904-05.

Trong suốt các thế kỷ tiếp theo, Ai Cập đã bị kiểm soát bởi một loạt các dòng họ, nhưng trong đó đặc biệt nhất là nhà Ikhshidid và Fatimid. Trong suốt các triều đại này, hàng ngàn vệ binh và sỹ quan người Mamluk vẫn tiếp tục được sử dụng và thậm chí còn đưa lên các cao cấp, bao gồm cả chức thống đốc của Damascus. Điều này ảnh hưởng đến mức độ gia tăng sự lo ngại của những nhà người cai trị Ả Rập về thế lực của người Mamluk và nó cũng cảnh báo về sự xuất hiện của một sultan ( vua Thổ) người Mamluk.

Nguồn gốc của Vương quốc Hồi giáo Mamluk của Ai Cập xuất phát từ Triều đại Ayyubid của Saladin ( người anh hùng của phe Hồi giáo trong cuộc chiến chống lại quân Thập tự chinh phương Tây) vốn được thành lập từ năm 1174. Với Shirkuh-người chú của mình, ông đã chinh phục Ai Cập cho vua nhà Zengid Nur ad-Din xứ Damascus trong năm 1169 ( mời các bác quay lại các trang trước để tham khảo về cuộc đời của Saladin). Vào năm 1189, sau khi chiếm được Jerusalem, Saladin đã hợp nhất kiểm soát các vương quốc trong vùng Trung Đông ( Ai cập, Syria và một phần Iraq). Sau cái chết của Saladin các con trai của ông lại quay ra hục hặc với nhau về việc phân chia lãnh thổ của đế quốc, và mỗi người cố gắng để dành về phía mình một đội quân người Mamluk càng đông càng tốt.

Vào năm 1200 Al-Adil-người anh em của Saladin đã thành công trong việc kiểm soát toàn bộ đế chế bằng cách lần lượt đánh bại và giết chết hay bỏ tù những người anh em và cháu trai của ông. Trong mỗi chiến thắng của mình Al-Adilt đã đánh bại từng đội tùy tùng người Mamluk của họ hàng nhà mình. Quá trình này được lặp đi lặp lại sau cái chết của Al-Adil vào năm 1218 và cũng sau cái chết Al-Kamil, con trai của ông trong năm 1238. Các thành viên của nhà Ayyubids ngày càng trở nên bị bao kín bởi sức mạnh của người Mamluk, thậm chí người Mamluk còn trở thành quan chức Atabegs ( tương đương Tổng đốc) phụ trách một vùng và họ nhanh chóng tham gia vào nội bộ chính trị của triều đình của vương quốc riêng của họ.

Năm 1315 họ xâm lư.ợc và chiếm một phần lớn vùng Nubia, nhưng một phần Nubia vẫn nằm trong quyền kiểm soát của một hoàng tử địa phương vốn đã chuyển đổi đạo giáo từ niềm tin Kitô giáo Orthodox Coptic sang Hồi giáo.

Người Pháp tấn công và người Manluk tiếm quyền

Trong tháng 6 năm 1249, các Thập tự quân của đợt Thập tự chinh lần thứ 7 dưới sự dẫn dắt của nhà vua Louis IX of France đã đổ bộ xuống Ai Cập và Damietta. Quân đội Ai Cập lúc đầu liên tục phải thoái lui, làm cho vị quân vương phải ra lệnh treo cổ 50 viên chỉ huy vì tội bỏ chạy. Khi sultan Ai Cập As-Salih Ayyub qua đời, trong một thời gian ngắn quyền lực được trao cho Turanshah-con trai ông và sau đó là Shajar Al-Durr ái phi của ông. Bà này nắm quyền kiểm soát với sự hỗ trợ của người Mamluk và đã phát động một cuộc phản công. Quân của vị chỉ huy Baibars xứ Bahri đã đánh bại đội quân của Louis. Nhà vua đã trì hoãn cuộc rút lui của mình quá lâu và ông ta đã bị bắt tù binh bởi người Mamluk. Tháng 3 năm 1250, người Pháp đã phải đồng ý trả một khoản tiền chuộc 400.000 đồng Livre (150.000 trong số đó là không bao giờ được giao tiền) để chuộc nhà vua về. Áp lực chính trị là cần có một nhà lãnh đạo là nam giới đã làm cho Shajar Al-Durr phải kết hôn với Aybak-vị chỉ huy của quân Mamluk, Ông này sau đó chết trong bồn tắm của mình và trong cuộc đấu tranh quyền lực xảy ra sau đó Phó nhiếp chính quan Qutuz ( cũng là một Mamluk) đã chiến thắng. Ông này chính thức thành lập vương quốc Mamluk đầu tiên và triều đại Bahri.

Triều đại Mamluk đầu tiên được đặt tên là Bahri, đó là tên của một trong những trung đoàn quân Mamkul ( các bác này có tinh thần đồng đội quá xá ). Các trung đoàn Mamluk bao gồm chủ yếu là người Thổ Kipchak ( còn đang quấy đảo ở vùng Anatolia là người Thổ Seljuq ).

Người Mamluk và người Mongol ( Mông cổ)

Khi Đại quân của Đế quốc Mongol dưới sự thống lĩnh của Hulagu Khan ( Húc Liệt Ngột ) công phạt thành Baghdad vào năm 1258 và tiếp tục tiến lên để chiếm Syria, Baibars-vị tiểu vương người Mamluk( theo tiếng Circassian: Bipars, một tên phổ biến ở Circassian có nghĩa là chiến binh bảo vệ biên giới) đã rời Damascus đến Cairo nơi ông được chào đón bởi Sultan Qutuz. Sau khi chiếm Damascus, Hulagu Khan yêu cầu Qutuz đầu hàng nhưng Qutuz đã chặt đầu sứ giả của Hulagu và với sự giúp đỡ của Baibars, ông đã huy động quân đội của mình. Mặc dù lúc đó Húc Liệt Ngột đã quay về phía Đông vì Mông Kha-Khan vĩ đại đã chết trong trận chiến chống quân Nam Tống ở thành Điếu ngư, Ông để lại phó tướng là Kitbuqa-một người Kitô giáo phụ trách quân đội. Qutuz đã nhử quân đội của người Mongol vào một cuộc phục kích ở gần sông Oronte, tại đó ông đã chiến thắng trong trận chiến Ain Jalut rồi bắt sống và hành quyết Kitbuqa.

Sau chiến thắng vĩ đại này, Qutuz bị ám sát bởi có thể là âm mưu của người Mamluk. Người ta nói rằng Baibars, người lên nắm quyền sau cái chết của Qutuz, đã tham gia vào vụ ám sát. Trong những thế kỷ sau sự cai trị của người Mamluk bị gián đoạn, với trung bình cứ khoảng bảy năm trên một thế kỷ.

Người Mamluk đánh bại người Mông Cổ lần thứ hai trong trận Homs năm 1260 và bắt đầu đẩy họ trở lại phía đông. Trong quá trình đó họ củng cố quyền lực của họ ở Syria, hình thành các tuyến thư trạm và hình thành các kết nối ngoại giao với các hoàng tử ở địa phương. Baibars tiến hành tấn công vào Acre-thủ đô của quân Thập tự chinh trong năm 1263 rồi chiếm Caesaria trong năm 1265 và Antioch trong năm 1268.

Người Mamluk cũng lại đánh bại những tấn công mới của quân Mông Cổ tại Syria trong các năm 1271, 1281 ( Trận Homs lần 2), 1303/1304 và 1312. Họ đã đánh bại quân Mông Cổ và đồng minh Cơ đốc giáo của họ tại Trận Wadi al-Khazandar năm 1299. Cuối cùng, quân Mông Cổ và quân Mamluk đã ký hiệp ước hòa bình vào năm 1323.

Triều đại Burji

Năm 1382 triều đại Bukri hay nhà Burji đã nắm lấy quyền lực khi Barkuk tuyên bố lên ngôi sultan và đây là thời điểm kết thúc của triều đại Bahri. Từ Burji là để phản ánh trung tâm của họ ( người Mamluk ) trong tòa thành của Cairo. Triều đại nay bao gồm chủ yếu là người Circassians (Trong tiếng Turk thì Bukri có nghĩa là gù lưng).

Barkuk trở thành kẻ thù của Timur ( vua của Đế quốc Tamerlane, người bộ tộc Babur), người lúc này đe dọa xâm lược Syria. Sau đó vị Sultan của Đế quốc Ottoman Bayezid I cũng tìm cách xâm lược Syria nhưng đã bị tái chiếm bởi Faraj-sultan của Mamluk khi Timur qua đời vào năm 1405, nhưng vì liên tục phải đối mặt với các cuộc nổi loạn từ những tiểu vương người địa phương, ông đã bị buộc phải thoái vị vào năm 1412. Cũng trong năm 1421 Ai Cập bị tấn công bởi quốc vương Cyprus ( đảo Síp ), nhưng người Ai Cập đã buộc Cypriotes phải chấp nhận quyền bá chủ của Barsbay-vua Ai Cập. Trong triều đại của Barsbay, dân cư của Ai Cập đã bị giảm đi rất nhiều so với con số mà nó đã có trong một vài thế kỷ trước, với chỉ 1/ 5 dân số sống ở thành thị.

Al-Ashraf lên nắm quyền trong năm 1453 và đã có quan hệ thân thiện với Đế quốc Ottoman, Đế quốc đã chiếm được thành phố Constantinople vào cuối năm đó, sự kiện này đã gây một sự hoan hỉ tuyệt vời ở Ai Cập. Tuy nhiên, dưới triều đại của Khoshkadam của Ai Cập, đã bắt đầu nổ ra các cuộc chiến giữa Ai Cập và các vị Sultan nhà Ottoman. Năm 1467 vua Kait Bey đã xúc phạm Bayezid II-Sultan nhà Ottoman. Bayezid II liền chiếm các vùng Adana, Tarsus và những nơi khác trong lãnh thổ Ai Cập, nhưng cuối cùng đã bị đánh bại. Kait cũng đã cố gắng để giúp đỡ những người Hồi giáo ở Tây ban nha bằng cách đe dọa các Kitô hữu ở Syria, nhưng không có hiệu lực. Ông qua đời năm 1496 và để lại món nợ trăm ngàn đồng Ducat trước các gia đình Venetian giàu có.

Cuộc chiến Bồ đào nha-Mamluk

Năm 1497 Vasco da Gama đã tìm ra con đường đi qua mũi Hảo vọng để đến được Biển Ấn độ dương và cập bờ ở Malabar và Kozhikode, rồi hạm đội của Bồ đào nha đã tấn công vào tuyến đường vận chuyển hàng hóa và người Hồi giáo hành hương từ Ấn độ đến biển Hồng hải và các cuộc tấn công ăn cướp đã được tiến hành vào tất cả các vùng xung quanh. Nhiều cuộc đụng độ đã nổ ra. Sultan Mamluk Al-Ashraf Qansuh al-Ghawri của Cairo đã bị mất mặt bởi các cuộc tấn công vào Biển Đỏ, ông ta cũng bị thất thu khoản phí giao thông, đồng thời với sự lă.ng nhục mà thánh địa Mecca và hải cảng của nó đã phải chịu. Ông này thề sẽ trả thù người Bồ đào nha, đầu tiên khi ông gửi các thầy tu từ Nhà thờ Thánh Sepulchre ( như ở phần trước đã nói, nhà thờ của Kitô giáo này được phép tồn tại ở Jerusalem-thuộc quyền kiểm soát của Hồi giáo nên các thầy tu của nhà thờ này trở thành tín sứ Đông-Tây ) làm sứ giả, ông đã đe dọa Giáo hoàng Julius II rằng nếu ông không kiểm soát hành động của Manuel I của Portugal để hạn chế hành động của họ tại biển Ấn Độ Dương, ông ta sẽ cho phá hủy tất cả các những Thánh địa của Kitô giáo. 

Các vị vua của Gujarat và Yemen cũng quay sang để được sự giúp đỡ từ Vương quốc Hồi giáo Mamluke. Mối quan tâm chính của họ lúc này là tập hợp một hạm đội tại biển Hoàng Hải để bảo vệ các tuyến đường biển từ các cuộc tấn công của người Bồ Đào Nha. Jeddah nhanh chóng được tăng cường như là một bến cảng của người tị nạn Arabia và Biển Đỏ đã được bảo vệ, nhưng các đội tàu trong biển Ấn độ dương lại bị bỏ mặc cho lòng thương xót của kẻ thù.

Sau đó Sultan Mamluk Al-Ghawri tìm được cách để vũ trang cho một hạm đội gồm 50 tàu chiến. Bởi vì người Mamluk có rất ít hiểu biết về hải chiến ( họ là những tay kỵ sỹ cự phách), cho nên các đội tầu hải quân đã được thành lập với sự giúp đỡ của Đế quốc Ottoman. Năm 1508 tại Trận Chaul hạm đội của người Mamluk đã chiến thắng hạm đội của Lourenço de Almeida-con trai của phó vương Bồ Đào Nha ( nếu không nhầm thì lúc này Bồ đào nha đang là thuộc địa của Tây ban nha nên người đứng đầu chỉ là phó vương) nhưng trong năm sau người Bồ Đào Nha lại giành chiến thắng ở Trận Diu và chiếm được thành phố cảng Diu từ quyền kiểm soát của Sultan xứ Gujarat. Một vài năm sau, Afonso de Albuquerque lại tấn công thành phố Aden ( thủ đô Yemen ngày nay), trong khi quân Ai Cập phải chịu một thảm họa ở Yemen. Al-Ghawri đã tung ra một hạm đội được trang bị vũ khí mới để trừng phạt kẻ thù và bảo vệ tuyến thương mại trên biển Ấn Độ Dương, nhưng trước khi hạm đội này tạo ra được bất cứ thay đổi nào thì Ai Cập đã mất chủ quyền của mình và biển Hoàng hải cùng với thánh địa Mecca và tất cả các lợi ích khác của người Ả Rập đã rơi vào tay của Đế quốc Ottoman.

Đế quốc Ottoman và chấm dứt thời tự chủ của các Sultan Mamluk 

Trong lúc Sultan Bayezid II của Đế quốc Ottoman đang tham chiến tại châu Âu thì một sự thù địch mới với với Ai cập xuất hiện vào năm 1501. Mối thù này phát sinh trong quan hệ với nhà Safavid của Batư. Shah Ismail I gửi một sứ đoàn đến Venice qua ngả Syria để mời họ tham gia vào quân đội của mình và thu hồi lại những lãnh thổ của họ bị chiếm bởi Đế quốc Ottoman. sultan Mameluk của Ai Cập Al-Ghawri bị buộc tội bởi Selim là đã cho phép các phái viên của Ismail thuộc nhà Safavid đi qua Syria trên đường đến Venice và chứa chấp những người tị nạn. Để xoa dịu ông ta, Al-Ghawri đã tống vào xà lim các thương gia người Venetian lúc này đang làm ăn buôn bán ở Syria và Ai Cập, nhưng chỉ sau một năm lại phóng thích họ ra.

Sau đó trong trận Chaldiran năm 1514, Selim I đã tấn công Bey ( Tổng đốc ) Dulkadir, một chư hầu của Ai Cập đã đứng tự lập và gửi đầu của ông này đến Mamluk Sultan Al-Ghawri. An toàn sau khi kết thúc cuộc chiến với Shah Ismail I của Batư, vào năm 1516 ông này ( Salim I) thành lập một đội quân lớn nhằm chinh phục Ai Cập nhưng để đánh lừa họ, ông làm như đối tượng của mình sẽ vẫn là người Batư và vẫn muốn tiếp tục theo đuổi cuộc chiến với Shah Ismail I. Năm 1515 bắt đầu cuộc chiến tranh mà sau này việc lập quốc của Ai Cập phải phụ thuộc Đế quốc Ottoman, lúc này các kỵ binh người Mamluk đã trở nên lỗi thời và không thể nào chống lại các khẩu đội pháo của Đế quốc Ottoman và các xạ thủ hỏa mai của quân đoàn Janissary. Ngày 24 tháng 8 năm 1515, tại trận Dabik Merj Sultan Al-Ghawri đã bị giết. Syria đã trở thành một tỉnh của Thổ Nhĩ Kỳ, người đã được chào đón ở nhiều nơi bởi việc giải thoát họ khỏi người Mameluk

Vương quốc Hồi giáo Mamluke còn tồn tại cho đến năm 1517 lúc nó bị chinh phục hoàn toàn bởi Đế quốc Ottoman. Sultan Ottoman Selim I chiếm Cairo vào ngày 20 tháng 1 cùng năm, trung tâm quyền lực này sau đó được chuyển giao về Istanbul. Mặc dù không còn chở nên giống một dạng nào của một Vương quốc Hồi giáo, Đế quốc Ottoman vẫn giữ người Mamluk lại làm một giai cấp thống trị ở Ai Cập và người Mamluk và nhà Burji đã thành công trong việc giành lại nhiều ảnh hưởng của họ nhưng vẫn phải là một chư hầu của Đế quốc Ottoman.

Người Mamluk đấu tranh giành độc lập từ nhà Ottoman

Vào năm 1768, Sultan Ali Bey Al-Kabir tuyên bố độc lập khỏi Đế quốc Ottoman. Tuy nhiên, nhà Ottoman đã nghiền nát phong trào này và giữ nguyên vị trí của họ sau thất bại của ông kia. Đây cũng là thời điểm mà họ tuyển nô lệ mới từ Georgia ở vùng Caucasus.

Napoleon đã đánh bại quân đội Mamluk trong trận Pyramid khi ông tấn công Ai Cập năm 1798 và đẩy họ lên vùng thượng Egypt ( quấn Napoleon của E. Tacle nói rằng ông này chẳng biết làm gì với đám tù binh người Makul vốn chỉ biết mỗi nghề khua gươm múa kiếm nên mang chặt đầu tuốt). Người Mamluk vẫn sử dụng chiến thuật kỵ binh của họ, các thay đổi là chỉ thêm vào những khẩu súng hỏa mai.

Sau sự ra đi của quân đội Pháp vào năm 1801 Mamluk tiếp tục tranh đấu cho độc lập, lần này là để chống lại Đế quốc Ottoman và Ang quốc. Trong năm 1803, các nhà lãnh đạo Mamluk Ibrahim Beg và Usman Beg đã viết thư cho Tổng lãnh sự Nga và đề nghị ông ta đóng vai như là một trung gian hòa giải với Sultan Thổ nhĩ kỳ để cho họ có thể thương lượng cho một lệnh ngừng bắn và sự hồi hương của họ về Georgia ( lúc này đã nằm trong Đế quốc Nga ). Đại sứ Nga tại Istanbul dứt khoát từ chối lời hòa giải bởi vì chính phủ Nga sợ việc cho phép Mamluk trở về Georgia, nơi một phong trào giải phóng dân tộc mạnh mẽ ngày càng gia tăng và có thể họ lại được khuyến khích bởi sự trở lại người Mamluk.
Năm 1805, dân cư của Cairo nổi loạn. Đây là cơ hội tuyệt vời cho người Mamluk nắm lấy quyền lực, nhưng những đấu đá nội bộ và sự phản bội đã làm vuột mất việc khai thác cơ hội tuyệt vời này. Trong năm 1806, người Mamluk đã nhiều lần đánh bại quân đội Thổ Nhĩ Kỳ, và vào tháng 6 năm đó các đối thủ thù địch đã đi đến ký kết về một hiệp ước hòa bình mà Muhammad Ali-người được bổ nhiệm làm thống đốc của Ai Cập vào ngày 26 tháng 3 năm 1806, đã phải ra đi và chính quyền Ai Cập trở về tay người Mamluk. Tuy nhiên, họ lại không thể tận dụng cơ hội này do các cuộc xung đột giữa các gia tộc, Muhammad Ali lại chiếm lại được quyền lực của mình.

Kết thúc quyền lực của người Mamluk tại Ai cập

Muhammed Ali biết rằng cuối cùng thì ông vẫn sẽ phải đối phó với người Mamluk nếu ông còn muốn kiểm soát Ai Cập. Họ vẫn còn các sở hữu phong kiến của Ai Cập và đất của họ vẫn là nguồn của cải và quyền lực. Những căng thẳng liên tục vào việc duy trì nhân lực vào những hoạt động quân sự cần thiết để bảo vệ hệ thống của người Mamluk khỏi bị chiếm đóng từ người châu Âu và người Mông Cổ cuối cùng sẽ làm họ suy yếu đến độ sụp đổ. 

Ngày 01 tháng 3 1811, Muhammad Ali gửi thiệp mời tất cả những người Mamluk đến cung điện của mình để ăn mừng tuyên bố chiến tranh chống lại nhà Wahhabis của Ả Rập Saudi. Khoảng 600 -> 700 người Mamluk diễu hành đến Cairo. Gần cổng Al-Azab, trong một con đường hẹp đi xuống từ ngọn đồi Mukatam Hill, lực lượng phục kích của Muhammad Ali và giết chết tất cả những người Mamluk và vụ thảm sát này được biết đến như là Massacre of the Citadel. Theo ghi chép của thời gian đó, chỉ có một Mamluk, có tên là Amim (hoặc Amyn), hoặc Heshjukur còn sống sót sau khi ông này buộc được con ngựa của mình làm một bước nhảy vọt từ bức tường của tòa thành cổ này và con ngựa chết ngay khi nó chạm đất. 

Trong tuần sau, hàng trăm người Mamluk đã bị giết trên khắp Ai Cập, trong thành lũy của Cairo có khoảng hơn 1.000 người đã thiệt mạng. Trong toàn Ai Cập ước tính có khoảng 3000 người Mamluk và thân nhân của họ đã thiệt mạng.

Bất chấp những cố gắng của Muhammad Ali để tận diệt người Mamluk ở Ai Cập, một toán nhỏ những người này đã trốn thoát và chạy về phía nam vào nơi mà bây giờ người ta gọi là Sudan. Năm 1811, người Mamluk thành lập một thành bang Dunqulah tại Sennar như là một căn cứ để kinh doanh nô lệ. Trong năm 1820, vị Sultan của Sennar thông báo với Muhammad Ali rằng ông không thể thực hiện yêu cầu trục xuất người Mamluk. Để đáp lại, vị pasha này (Muhammad Ali) đã gửi đi 4.000 quân để xâm lược Sudan để dọn sạch người Mamluk ở vùng này và chiếm lại nó cho Ai Cập. Quân đội của vị Pasha đã làm tan rã căn cứ của người Mamluk ở Dunqulah, chinh phục được Kordofan và chấp nhận sự đầu hàng của Badi VII-vị Sultan cuối cùng của nhà Funj ở Sennar.

Những triêù đại khác của người Mamluk

Nam Á

Năm 1206, Qutb-ud-din Aybak, chỉ huy người Mamluk của các lực lượng Hồi giáo ở tiểu lục địa Ấn độ đã tự xưng vương và trở thành Sultan-e-Hind độc lập đầu tiên. Triều đại Mamluk này kéo dài cho đến năm 1290.

Iraq

quân đoàn Mamluk vốn là một phần trong quân đội của Pasha Hasan-Tổng đốc Iraq của triều đình Ottoman ở Baghdad từ năm 1702. Từ năm 1747->1831 ( chỉ có một vài khoảng gián đoạn ngắn) Iraq đã được cai trị bởi các sĩ quan Mamluk có nguồn gốc từ Georgia, những người này đã thành công trong việc khẳng định quyền tự chủ khỏi Đế quốc Ottoman, đàn áp thành công những cuộc nổi dậy của các bộ lạc địa phương, kiềm chế sức mạnh của quân đoàn Janissary, phục hồi và áp dụng một chương trình hiện đại hóa nền kinh tế và quân đội của Iraq. Năm 1831 Đế chế Ottoman phải rất mất nhiều công sức mới lật đổ được Daud Pasha-người Mamluk cuối cùng cai trị Iraq và nắm lấy quyền kiểm soát trực tiếp vào Iraq. 

Người Mamluk dưới thời Napoleon 

Napoleon thành lập quân đoàn Mamluk riêng của ông, lực lượng chính quy cuối cùng của người Mamluk được người ta biết đến trong những năm đầu của thế kỷ 19 và ông này đã sử dụng người Mamluk trong một số chiến dịch của mình. Ngay cả lực lượng vệ binh của Đế chế của ông cũng có những binh sĩ người Mamluk trong chiến dịch nước Bỉ, thậm trí Nalopeon còn có cả một người hầu kiêm vệ sĩ nổi tiếng-Roustam Raza vốn là một người Mamluk bị bán cho Ai Cập. 

Trong suốt thời đại của Napoleon, có một quân đoàn Mamluk đặc biệt trong quân đội Pháp. Trong quấn sách sử của ông về quân đoàn 13 Chasseurs Đại tá Desca.ves đã thuật lại chi tiết việc Napoleon đã sử dụng người Mamluk như thế nào ở Ai Cập. Trong chỉ thị mà Bonaparte trao cho tướng Kleber sau khi khởi hành, Napoleon đã viết rằng ông đã mua từ các thương gia người Syria khoảng 2.000 người Mamluk-những người mà ông dự định thành lập một đội quân đặc biệt. 

Ngày 14 tháng chín 1799 tướng Kleber thành lập một đại đội hỗn hợp gồm lính Mamluk và Janissary Thổ Nhĩ Kỳ ở Syria-những người bị bắt tù binh trong cuộc vây hãm Acre. Tướng Menou biến chế lại đại đội này vào ngày 7 tháng 7 năm 1800 và hình thành lên 3 đại đội 100 người và đổi tên họ thành “Mamluk de la Republique – người Mamluk của nền cộng hòa”. Năm 1801 tướng Rapp được gửi đến Marseille để biến chế một tiểu đoàn gồm khoảng 250 lính Mamluk dưới sự chỉ huy của mình. Ngày 7 tháng 1 năm 1802 biến chế trước đó đã bị hủy bỏ và các tiểu đoàn bị cắt giảm xuống còn 150 người. Danh sách các đơn vị chủ lực vào 21 tháng 4 năm 1802 cho thấy 3 sĩ quan và 155 binh sỹ người Mamluk ở các bậc khác. Theo một chỉ thị vào ngày 25 tháng 12 năm 1803 người Mamluk lại được biến chế thành một đại đội trực thuộc Cheval-à-Chasseurs của Lực lượng Vệ binh của Đế chế. 

Người Mamluk cũng đã tham gia chiến đấu trong trận Austerlitz vào ngày 02 tháng 12 năm 1805, và trung đoàn của người Mamluk cũng được cấp cờ hiệu và đội ngũ của nó cũng được tăng lên để phù hợp với số cờ hiệu và nhạc hiệu được cấp. Một mệnh lệnh vào ngày 15 tháng tư năm 1806 đã xách định rõ ràng rằng một bán tiểu đoàn của người Mamluk sẽ bao gồm 13 sĩ quan và 147 quân nhân. Một bức tranh nổi tiếng của họa sỹ Francisco de Goya cho thấy một đợt tấn công của người Mamluk vào Madrilene ngày 2 tháng năm 1808.

Mặc dù Mệnh lệnh được ra vào ngày 21 tháng ba năm 1815 có nói rằng người nước ngoài không được nhận vào lực lượng vệ binh của Đế quốc nhưng chỉ thị của Napoleon vào ngày 24 tháng tư lại quy định một số những điều khác hẳn, trong đó nói rằng Lực lượng Chasseurs-à-Cheval của vệ binh Đế chế sẽ bao gồm một bán tiểu đoàn gồm hai đại đội Mamluk cho Chiến dịch Bỉ. Sau sự phục hồi đầu tiên, đại đội Mamluk thuộc lực lượng vệ binh cũ được hợp nhất trong trung đoàn Royal des Chasseurs de France. Những Mamluk của lực lượng vệ binh trẻ được tập hợp vào quân đoàn thứ 7 Chasseurs-à-Cheval.

 

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s