Truy sát Bin Laden: Cuộc săn lùng 10 năm từ ngày 11/9 đến Abbottabad (Bài 11)

Peter l. Bergen

Trần Quang Nghĩa dịch

10  CHIẾN BINH BÍ MẬT

HÀNG TRĂM DẶM NGOÀI KHƠI bờ biển Somalia, khi hoàng hôn buông xuống trên Ấn Độ Dương, vào buổi tối oi ả ngày 13 tháng 4 năm 2009, ba phát súng vang lên. Tất cả những viên đạn đều tìm thấy mục tiêu của chúng: ba tên cướp biển Somali trên một chiếc xuồng cứu sinh nhỏ đang bồng bềnh trên mặt biển tối đen.

Trong năm ngày qua bọn cướp biển đã bắt giữ con tin Richard Phillips, thuyền trưởng người Mỹ của tàu container Maersk Alabama. Tổng thống Obama đã cho phép sử dụng lực lượng chết người nếu cuộc sống của Phillips gặp nguy hiểm. Các tên cướp biển không hay biết, những ngày trước đó đội đột kích chống khủng bố của Hải quân đã nhảy dù ban đêm xuống đại dương gần con tàu USS Bainbridge, đang theo dõi bọn cướp biển. Các chiến sĩ SEAL đã chiếm vi trí trên đuôi tàu Bainbridge và đang giám sát cẩn thận Phillips trong khi ông đang bị bọn cướp biển giam giữ. Một tên cướp biển vừa chĩa mũi súng AK-47 vào viên thuyền trưởng Mỹ như thể sắp bắn ông ta. Ngay lúc đó chỉ huy đội SEAL trên Bainbridge ra lệnh hạ thủ bọn cướp biển. Ba tay súng bắn tỉa của SEAL đã đồng loạt bắn vào bọn cướp biển từ khoảng cách 30 thước trên vùng biển động vào lúc màn đêm buông xuống, giết chết tất cả.

Obama đã gọi điện cho Phó Đô đốc William McRaven, người đứng đầu Bộ Chỉ huy Tác chiến Đặc biệt Liên quân và của sứ mệnh giải cứu Phillips, nói với ông: “Làm tốt lắm”. Cuộc giải cứu hoàn hảo Thuyền trưởng Phillips là lần đầu tiên Obama -chỉ nhận nhiệm vụ mới được ba tháng – đích thân tiếp xúc với khả năng của “các chuyên gia thầm lặng” của Mỹ, các đơn vị chống khủng bố bí mật của lực lượng Tác chiến Đặc biệt, mà những kỹ năng thiện xảo của họ vị tổng thống ngày càng phải trông cậy nhiều hơn sau mỗi năm nhiệm kỳ tổng thống trôi qua.

Nhưng không phải lúc nào cũng vậy. Bộ Chỉ huy Tác chiến Đặc biệt Liên quân sinh ra từ đống tro tàn của một thảm bại của Mỹ trên sa mạc Iran ba thập niên trước khi Obama nhậm chức tổng thống. Khi 52 người Mỹ bị các tín đồ nhiệt thành của ayatollah Ruhollah Khomeini bắt làm con tin tại đại sứ quán Mỹ ở Tehran năm 1979, Tổng thống Jimmy Carter đã ủy quyền cho một sứ mệnh giải cứu họ. Sứ mệnh này chưa bao giờ dễ dàng: nó bao gồm việc bay gần một nghìn dặm vào một vùng sa mạc xa xôi của Iran, di chuyển đến Tehran mà không bị phát hiện và sau đó giải cứu các con tin được Lực lượng Vệ binh Cách mạng cuồng tín của Iran bảo vệ.

Chiến dịch Móng Vuốt Đại Bàng, đôi khi còn được gọi là Sa mạc Một, gần như đã thất bại ngay khi nó bắt đầu. Ba trong số tám chiếc trực thăng thực hiện sứ mệnh đã gặp các vấn đề về cơ khí do bão cát. Nhiệm vụ bị hủy bỏ và sau đó một trong năm chiếc trực thăng còn hoạt động đã va chạm với một máy bay vận tải của Mỹ khi đang tiếp nhiên liệu ở sa mạc Iran, khiến 8 quân nhân Mỹ thiệt mạng. Trở lại Washington, một quan chức CIA đang lên ở độ tuổi ngoài 40 tên là Robert Gates đang ở Nhà Trắng theo dõi với sự thất vọng ngày càng tăng khi toàn bộ thảm họa diễn ra.

Một cuộc điều tra của Lầu Năm Góc đã phát hiện ra vô số vấn đề với Chiến dịch Móng vuốt Đại bàng: Sự cạnh tranh giữa các quân chủng có nghĩa là lục quân, không quân, hải quân và thủy quân lục chiến đều muốn đóng một vai trò trong chiến dịch quan trọng này và mặc dù trước đây bốn quân chủng chưa bao giờ làm việc cùng nhau trong loại nhiệm vụ này, mỗi quân chủng đều có một nhiệm vụ riêng. Việc quá chú trọng đến an ninh vận hành đã ngăn cản các binh chủng chia sẻ thông tin quan trọng với nhau và cũng ngăn cản việc viết ra toàn bộ kế hoạch để có thể nghiên cứu tổng thể. Hải quân để mặc việc bảo trì kém các máy bay trực thăng làm nhiệm vụ, các phi công của lực lượng không quân thực hiện nhiệm vụ không có kinh nghiệm trong các hoạt động biệt kích và không có buổi diễn tập toàn diện nào về tất cả các yếu tố của kế hoạch.

Một cái gì đó cần phải được sửa chữa. Cách khắc phục là việc thành lập Bộ Tư lệnh Tác chiến Đặc biệt Liên quân (JSOC) vào năm 1980, đặt tại Ft. Bragg ở Bắc Carolina, để “những nhà tác chiến đặc biệt” của các lực lượng khác nhau có thể bắt đầu làm việc cùng nhau một cách trơn tru hơn. Các thành phần chính của JSOC là các đơn vị Hải quân SEAL bí mật, “đen”, Lực lượng Delta của quân đội và Biệt động quân Trung đoàn 75, các phi công trực thăng của Trung đoàn Không quân Tác chiến Đặc biệt 160 và Phi đội Chiến thuật Đặc biệt của lực lượng không quân. (Nhiệm vụ chính của các đơn vị Lực lượng Đặc biệt “trắng”, hoạt động hoàn toàn công khai và được biết dưới tên Mũ Nồi Xanh, là huấn luyện lực lượng quân sự người bản địa.)

Các sĩ quan cấp cao điều hành quân đội Hoa Kỳ thường nghi ngờ những “kẻ ăn rắn” [Trong chiến tranh Việt Nam lực lượng Mũ Nồi Xanh chiêu nạp và huấn luyện các chiến sĩ thuộc đồng bào Thượng Miền Nam để cùng tác chiến với họ. Vì các chiến binh rừng núi này có biệt tài bắt rắn và ăn rắn nên các anh cả của họ cũng được gán biệt danh “kẻ ăn rắn”] trong Lực lượng Đặc biệt, những người mà họ có xu hướng coi là cao bồi. Sau đó là sự thất bại ở Mogadishu, Somalia vào đầu tháng 10 năm 1993. Một cuộc tấn công bằng trực thăng vào ban ngày của các phi công của Trung đoàn Không quân Tác chiến Đặc biệt và các thành phần của Lực lượng Delta, Đội SEAL 6 và Biệt động quân 75 với mục tiêu bắt giữ các thủ lĩnh gia tộc Somali tấn công quân đội Hoa Kỳ đang đóng quân ở Somalia, đã trở thành một thảm họa trong đó hai chiếc trực thăng Black Hawk bị bắn hạ bởi súng chống tăng (RPG) và 18 quân nhân Mỹ thiệt mạng.

Vào thời điểm đó, không ai trong chính phủ Hoa Kỳ biết rằng al-Qaeda đã cử một số huấn luyện viên hàng đầu từ căn cứ lúc bấy giờ ở Sudan đến Somalia để huấn luyện các thành viên gia tộc Somali đang chiến đấu chống người Mỹ  cách tốt nhất để bắn hạ trực thăng bằng RPG. Điều này không hề dễ thực hiện, vì RPG được thiết kế để làm vũ khí chống tăng; việc bắn một vật thể bay bằng RPG rất khó thực hiện do độ giật mạnh của nó.

Bị tổn thương bởi Trận Mogadishu, Lầu Năm Góc đã từ chối sử dụng Lực lượng Tác chiến Đặc biệt để đối đầu với al-Qaeda ở Afghanistan sau khi nhóm khủng bố này tái lập trụ sở ở đó vào năm 1996. Tổng thống Bill Clinton đã thúc đẩy Lầu Năm Góc triển khai các đơn vị tinh nhuệ của JSOC vào Afghanistan để tiêu diệt bin Laden, nói với Tướng Hugh Shelton, cố vấn quân sự hàng đầu của ông ta, “Anh biết đấy, bọn al-Qaeda sẽ khiếp sợ nếu đột nhiên một nhóm ninja đen lao ra khỏi trực thăng xông vào giữa trại của họ. Điều đó sẽ là sự răn đe to lớn và cho bọn chúng thấy chúng ta không sợ.” Michael Scheuer, người đứng đầu đơn vị truy lùng bin Laden tại CIA vào thời điểm đó, nói, “Tôi không mang theo bản báo cáo tóm tắt nào cho Tổng thống Clinton. Nhưng nhiều lần, ông đã yêu cầu quân đội sử dụng biệt kích hoặc Lực lượng Đặc biệt để cố gắng tiêu diệt bin Laden. Và Tướng Shelton, lúc đó là Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân, luôn mang đến cho ông ta các kế hoạch cho những chiến dịch giống như cuộc đổ bộ Normandy!” Tổng thống Clinton đang tìm kiếm một chiến dịch bí mật chứ không phải một cuộc tấn công quân sự quy mô lớn.

Sau vụ tấn công 11/9, Bộ trưởng Quốc phòng Donald Rumsfeld vô cùng thất vọng vì lực lượng Mỹ đầu tiên trên bộ ở Afghanistan là của CIA chứ không phải của các đơn vị được huấn luyện chống khủng bố cao độ của JSOC. Vào ngày 17 tháng 10 năm 2001, mười ngày sau chiến dịch chống lại Taliban của Hoa Kỳ, Rumsfeld đã viết một bản ghi nhớ  gửi cho Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân, Tướng Richard Myers, bày tỏ sự khó chịu của mình: “Có phải việc Bộ Quốc phòng không thể làm bất cứ điều gì trên thực địa ở Afghanistan cho đến khi người của CIA vào cuộc trước để chuẩn bị cho thấy rằng Bộ Quốc phòng đang thiếu khả năng cần thiết hay không? Cụ thể, với bản chất của thế giới chúng ta, việc Bộ Quốc phòng không nên ở vào tình thế gần như phụ thuộc hoàn toàn vào CIA trong những tình huống như thế này là không thể hình dung được hay sao?

Các quan chức làm việc cho Rumsfeld ủy quyền Richard Shultz, nhà sử học của Lực lượng Đặc biệt, tìm hiểu lý do tại sao các đơn vị JSOC không được triển khai để tấn công al-Qaeda trước các cuộc tấn công vào New York và Washington. Suy cho cùng, việc chống lại bọn khủng bố chính là lý do tại sao các đơn vị này được thành lập ngay từ đầu. Shultz kết luận rằng trong những năm trước vụ 11/9, các quan chức cấp cao tại Lầu Năm Góc đã trở thành những người “bị Somali hóa”. Kết quả là, họ có xu hướng đề xuất các hoạt động “dấu chân lớn” với sự tham gia của hàng trăm binh sĩ, “những màn trình diễn được vỗ tay đôm đốp” khiến cho các nhiệm vụ trở nên bất khả thi về mặt chính trị vào thời điểm mà công chúng Mỹ  được cho là không chịu đựng được số thương vong của Hoa Kỳ. Một điểm đáng chú ý khác: trước khi triển khai một chiến dịch, Lầu Năm Góc yêu cầu thứ “tình báo  bảo đảm” có chất lượng cao, điều này đơn giản là không tồn tại ở Afghanistan do Taliban kiểm soát. Chỉ huy Tác chiến Đặc biệt, Tướng Peter Schoomaker nhớ lại, “Các Tác chiến Đặc biệt chưa bao giờ được giao nhiệm vụ. Nó rất, rất bực bội. Nó giống như việc có một chiếc Ferrari mới cáu cạnh trong gara và không ai muốn phóng nó vì sợ có thể làm móp cái chắn bùn.”

Các cuộc tấn công vào Trung tâm Thương mại Thế giới và Lầu Năm Góc cho phép Rumsfeld đẩy bộ phận Tác chiến Đặc biệt  vào trung tâm của “Cuộc chiến Chống Khủng bố Toàn cầu”. Trong một dấu hiệu cho thấy Rumsfeld muốn nắm quyền điều hành quân đội, vào mùa hè năm 2003, ông đã thực hiện một bước chưa từng có là yêu cầu Tướng Schoomaker đang nghỉ hưu trở lại làm chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân. Và vào ngày 6 tháng 9 năm 2003, Rumsfeld đã ký một sắc lệnh dài 80 trang trao quyền cho JSOC truy lùng al-Qaeda ở 15 quốc gia. Đó không phải là một sự cho phép chung chung, vì ở một số quốc gia, tổng thống hoặc Bộ Ngoại giao vẫn có quyền ký kết các nhiệm vụ, nhưng nó cho phép JSOC có phạm vi hoạt động độc lập đáng kể.

Điều quan trọng là, JSOC, không giống CIA, không phải thông báo ngắn gọn cho Quốc hội về hành động của mình ở 15 quốc gia đó. Đó là bởi vì JSOC hoạt động theo Tiêu đề 10 của Bộ luật Hoa Kỳ, trong đó nêu ra các quy tắc mà quân đội Hoa Kỳ hoạt động, không giống như CIA, hoạt động theo Tiêu đề 50 và được yêu cầu thông báo ngắn gọn cho Quốc hội bất cứ khi nào họ tiến hành các hoạt động bí mật ở nước ngoài. Điều này có vẻ giống như một lỗ hổng quan liêu điển hình, nhưng nó sẽ có một kết quả quan trọng: JSOC giờ đây được trao quyền thực hiện các hoạt động bí mật ở nhiều quốc gia trên thế giới với ít trách nhiệm hơn CIA. Các hoạt động ở nước ngoài của JSOC đều được giữ bí mật nên nhận được rất ít sự giám sát từ giới truyền thông hoặc công chúng. Trong nhiều năm, Lầu Năm Góc thậm chí còn không thừa nhận sự tồn tại của JSOC.

Trong thập niên sau ngày 11/9, JSOC đã phát triển mạnh mẽ từ một lực lượng 1800 lên 4 nghìn người, trở thành một đội quân nhỏ trong quân đội. Nó có máy bay không người lái riêng, lực lượng không quân riêng (được gọi là Không lực Liên minh), và các hoạt động tình báo của riêng mình. Sự nổi lên của JSOC gắn bó chặt chẽ với tầm nhìn của Thiếu tướng Stanley McChrystal, một người nghiện công việc xuất thân từ một gia đình quân nhân, được quân nhân yêu quý và là người trong Chiến tranh Iraq sẽ cùng họ thực hiện các nhiệm vụ truy bắt/tiêu diệt quân nổi dậy. Tùy theo quan điểm của bạn, đây là sự lãnh đạo liều lĩnh hoặc xuất sắc – hoặc có thể là cả hai – vì việc giết một vị tướng hai sao của Mỹ sẽ là một cú tuyên truyền quan trọng đối với quân nổi dậy ở Iraq.

Chính McChrystal là người đã đưa chiếc Ferrari của Lực lượng Đặc biệt ra khỏi gara và điều khiển nó trở thành một cỗ máy giết chóc với sự nhanh nhẹn và hung dữ chưa từng thấy. Chiến tranh Iraq đã tạo cơ hội để thực hiện sự thay đổi đó bởi vì, để đánh bại quân nổi dậy, các Tác chiến Đặc biệt cần phải được trang bị không chỉ cho các nhiệm vụ một lần mà còn cho toàn bộ chiến dịch. McChrystal nói rằng Tác chiến Đặc biệt phải từ chỗ chỉ là “người bán sách trở thành Amazon.com.”

McChrystal nhận ra rằng nhóm nổi dậy nguy hiểm nhất ở Iraq, đặc biệt là “al-Qaeda ở Iraq,” không chiến đấu giống như quân đội của Saddam Hussein dựa trên xe tăng – như mọi quân đội có thứ bậc khác đã làm trước đó – mà bao gồm, đúng hơn, những mạng lưới lính hoạt với các chiến binh hoạt động theo các nhóm phần lớn độc lập.

Không giống như hình ảnh vệ tinh về đội hình xe tăng của Saddam, thông tin tình báo về quân nổi dậy vừa  chỉ thoáng qua vừa dễ biến mất. JSOC sẽ phải trở nên giống al-Qaeda hơn nếu muốn đánh bại al-Qaeda; theo công thức của McChrystal, sẽ cần “một mạng lưới để đánh bại một mạng lưới”. Một phần quan trọng trong chiến lược của McChrystal là truy lùng không chỉ những kẻ cầm đầu cuộc nổi dậy mà còn cả những kẻ nổi dậy cấp trung đang duy trì hoạt động của các đoàn tàu. (Một trong những điều trớ trêu nho nhỏ trong lịch sử là bản thân al-Qaeda lại được thành lập như một nhóm giống như JSOC. Người huấn luyện chính của al-Qaeda trong những năm trước vụ 11/9 là Ali Mohamed, một trung sĩ quân đội người Mỹ gốc Ai Cập từng phục vụ tại Ft. Bragg, trụ sở của JSOC. Vào những năm 1980, Mohamed dạy các khóa học về Trung Đông và Hồi giáo tại Trung tâm Chiến tranh Đặc biệt ở căn cứ quân đội. Trong thời gian rời quân đội, y đã huấn luyện các đặc vụ al-Qaeda ở Afghanistan sử dụng sổ tay hướng dẫn của Lực lượng Đặc biệt mà y đã lấy trộm từ Ft. Bragg. Cuộc đời làm điệp viên hai mang của al-Qaeda của y chỉ được phát hiện vào năm 1998.)

Để làm cho JSOC giống al-Qaeda hơn có nghĩa là làm cho nó trở nên “nhạy và nhanh”, hai phẩm chất hiếm khi được đề cập trong cùng một câu như với “quân đội Hoa Kỳ”. Để có được JSOC ổn định và nhanh nhạy như quân nổi dậy, McChrystal đã đưa ra một số quyết định quan trọng. Vào mùa hè năm 2004, ông thiết lập cơ sở hoạt động của mình trong một nhóm nhà chứa máy bay tại Căn cứ Không quân Balad ở miền trung Iraq. Ở đây cách xa cái ghì chặt làm ngộp thở của Washington và Lầu Năm Góc, thậm chí cũng cách xa Baghdad, và điều đó cho phép JSOC thoát ra ngoài tất cả những hạn chế quan liêu điển hình khiến không thể đưa ra quyết định nhanh chóng. Sau đó, để phá bỏ những kênh liên lạc chật hẹp tồn tại giữa JSOC và cộng đồng tình báo, McChrystal bắt đầu tuyển dụng các nhà phân tích của CIA và Cơ quan An ninh Quốc gia (NSA) về làm việc tại Balad, đồng thời ông cũng cử Đại tá Michael T. Flynn, sĩ quan tình báo hàng đầu của mình, làm việc tại trạm CIA ở Baghdad trong 8 tháng vào năm 2004. Dần dần,  các đối thủ quan chức tiềm năng khác đã được lôi kéo vào nhóm hoạt động của McChrystal, nhờ vậy ông ta có thể nhanh chóng và dễ dàng huy động nguồn lực của các cơ quan tình báo quan trọng như CIA và NSA.

McChrystal cũng khai thác công nghệ để chuyển đổi hoạt động của JSOC. Thông qua việc áp dụng sớm và mạnh mẽ các cuộc họp thu hình  trực tuyến (VTC), McChrystal đã kết nối các hoạt động xa xôi của JSOC, trải dài từ Balad đến Ft. Bragg đến Tampa (trụ sở của Bộ Tư lệnh Tác chiến Đặc biệt), đến các căn cứ quan trọng khác, chẳng hạn như tại Bagram ở Afghanistan, quản lý các nhiệm vụ của JSOC  ở Afghanistan và Pakistan. Dần dần, những VTC dài chín mươi phút hàng ngày đã trở thành những chỉ dẫn toàn cầu về cuộc chiến chống lại al-Qaeda và các đồng minh của nó, cũng thu hút CIA và các viên chức Bộ Ngoại giao. Các cuộc thảo luận kéo dài dài khắp Châu Phi, Trung Đông và Nam Á và McChrystal muốn nghe từ bất cứ ai với chuyên môn thực sự, không phân biệt cấp bậc. Một trong các nhà lãnh đạo cấp cao trong Lầu Năm Góc đã bắt đầu tham gia vào các hội nghị truyền hình này là tư lệnh tác chiến hải quân, Đô đốc Michael Mullen.

Lúc đầu JSOC chỉ có một máy bay không người lái Predator ở Iraq. Vì vậy, họ đã ứng biến và thuê một vài chiếc máy bay nhỏ có gắn camera. Khi lực lượng chỉ huy tăng lên, JSOC đã mua các máy bay không người lái chuyên dụng cho riêng mình để có thể duy trì “con mắt không chớp” 24/7 đối với các mục tiêu.

Xu hướng tự nhiên của cộng đồng tình báo là tích trữ thông tin. McChrystal yêu cầu các đội của mình chia sẻ thông tin tình báo, tạo ra một mạng nội bộ JSOC mà mọi người trong bộ chỉ huy đều có thể truy cập, và ông ta  đã hợp tác với một đơn vị tình báo quân sự ít người biết đến ở Washington, Trung tâm Khai thác Truyền thông Quốc gia, để biến khối lượng lớn giấy tờ, đĩa CD, ổ USB, máy tính và các loại “giấy tờ bỏ túi” khác mà những người điều hành của ông ta nhặt được trên chiến trường thành “thông tin tình báo có thể sử dụng được”. JSOC đã xây dựng cơ sở hạ tầng máy tính để khi các đơn vị trên chiến trường nắm bắt được bất cứ điều gì đáng quan tâm, họ sẽ chuyển nó đến Balad và tài liệu đó sau đó sẽ nhanh chóng được tải về Hoa Kỳ, nơi các nhân viên tại Trung tâm Khai thác Truyền thông Quốc gia làm việc suốt ngày đêm để chuyển tải nó. thành tình báo có thể sử dụng được. “Chúng tôi đã đến điểm mà họ có thể biến đổi những thứ có số lượng lớn trong khoảng 24 giờ, trong khi trước đây nó bị mất trong không khí,” một trong những cấp phó của McChrystal cho biết. Tất cả điều này đòi hỏi băng thông tăng lên rất nhiều, mà JSOC có được trên các vệ tinh thương mại, trong nhiều năm đã xây dựng một “trang trại” đĩa vệ tinh quan trọng tại trụ sở chính ở Balad.

Đối với JSOC, mọi nhiệm vụ giờ đây đều trở thành điều mà McChrystal gọi là “cuộc chiến giành tình báo”. Thông tin tình báo được sử dụng để thâm nhập vào “chu kỳ quyết định” của quân nổi dậy sao cho  thông tin thu thập được trong một cuộc đột kích có thể được sử dụng để tiến hành cuộc đột kích tiếp theo. Đôi khi thông tin tình báo thu được từ một địa điểm dẫn đến một cuộc tấn công vào nơi ẩn náu khác của quân nổi dậy trong cùng một đêm.

Các kỹ thuật viên của JSOC rất sáng tạo. Họ đã thiết kế một “que dò điện tử” chỉ phát ra tín hiệu khi nó ở gần một chiếc điện thoại di động được kết nối với quân nổi dậy cụ thể. Căn cứ ở Balad tràn ngập điện thoại di động mà quân nổi dậy sử dụng đã bị bắt trong các cuộc đột kích. Nhưng vì căn cứ này được che chắn khỏi nghe lén điện tử, nên các điện thoại di động không còn nhận được cuộc gọi đến, những cuộc gọi có thể cung cấp manh mối quan trọng đến quân nổi dậy khác. Vì vậy, các kỹ thuật viên của JSOC đã thiết lập một trạm gốc điện thoại di động bên trong trụ sở Balad để điện thoại có thể bắt đầu nhận cuộc gọi trở lại. Sau khi trạm được bật, hàng chục chiếc điện thoại bị tịch thu bắt đầu đổ chuông và kêu u u, thu được nhiều đầu mối hơn cho JSOC.

Tất cả các biện pháp này được thực hiện để tạo ra một chuỗi được gọi là “F3EA”, trong đó JSOC sẽ “tìm, sửa chữa, hoàn tất, khai thác và phân tích” (Find, Fix, Finish, Exploit, Anayse) các mục tiêu nổi dậy của nó. Dấu đằng sau những mật danh tẻ nhạt luôn thay đổi như Lực lượng Tác chiến 121 đã bắt giữ Saddam Hussein, JSOC đã gặt hái được kết quả. Năm 2006, nó đã giết chết Abu Musab al-Zarqawi, thủ lĩnh tâm thần của al-Qaeda ở Iraq. Sau khi Zarqawi bị giết, Tổng thống Bush đã thực hiện một bước đi bất thường là gọi đích danh Tướng McChrystal mà từ trước đến giờ vẫn còn lu mờ và ca tụng JSOC thật “tuyệt vời”.

Thành tích của JSOC không phải là không có tì vết. Vào năm đầu tiên của Chiến tranh Iraq, tại Trại Nama, gần Baghdad, một lực lượng Tác chiến Đặc biệt đã duy trì một nhà tù cơ sở nơi tù nhân thỉnh thoảng bị đánh đập; 34 thành viên của đội đặc nhiệm đã bị kỷ luật vì ngược đãi tù nhân, và cơ sở này bị đóng cửa vào năm 2004. Cùng năm đó, bản thân McChrystal là một trong số nhiều sĩ quan đã giấu nhẹm việc Pat Tillman, ngôi sao bóng bóng bầu dục chuyển sang làm lính Biệt động, bị giết chết trong một vụ bắn nhầm ở Afghanistan, chứ không phải bởi phe  Taliban, như quân đội đã miêu tả ban đầu. Quân đội từ chối kỷ luật McChrystal vì ông ta thực sự đã cố gắng cảnh báo các sĩ quan cấp cao rằng Tillman có thể đã bị giết bởi đồng đội của mình.

JSOC đã tăng từ nửa tá hoạt động mỗi tháng ở Iraq vào mùa xuân năm 2004 lên 300 hoạt động mỗi tháng vào mùa hè năm 2006. Kỷ luật làm việc rất khắc nghiệt. Tại JSOC, phương châm hằng ngày “17-5-2” – 17 giờ làm việc, 5 giờ để ngủ và 2 giờ cho mọi việc khác. Vào năm 2006, McChrystal đã viết cho tất cả người của mình: “Vấn đề sẽ không phải là điều gì dễ dàng, hay thậm chí là những gì chúng ta thường liên kết với các tiêu chuẩn quân sự thông thường. Nó thậm chí sẽ không phải là điều gì hiệu quả. Nó sẽ là cách hiệu quả NHẤT để vận hành-và chúng ta sẽ làm mọi thứ để tăng hiệu quả ngay cả ở mức độ nhỏ bé. Nếu bất cứ ai thấy điều này bất tiện hoặc khó khăn, thì lực lượng này sẽ không có chỗ cho bạn. Đây là vấn đề về chiến thắng – và thực hiện ít chuyến đi đến Nghĩa trang Arlington trên đường tới mục tiêu đó.” McChrystal, người điều hành JSOC cho đến năm 2008, chỉ gặp bà xã một tháng mỗi năm trong suốt 5 năm ông nắm quyền chỉ huy. “Nhịp điệu chiến đấu” khốc liệt đến mức một sĩ quan JSOC thường nói đùa: “Chúng tôi sống ở Balad và đi nghỉ xả hơi ở Kabul hoặc Bagram.”

Những lý do tại sao Iraq đã phục hồi từ bờ vực của một cuộc nội chiến tiêu hao vào năm  2007 chủ yếu là nhờ vào tài chỉ huy của Tướng David Petraeus; một chiến lược chống nổi dậy hiệu quả hơn giúp quân đội Hoa Kỳ rời khỏi các căn cứ khổng lồ của họ và tiến vào các khu dân cư của Iraq; sai lầm ngoạn mục của al-Qaeda trong áp đặt lối cai trị theo phong cách Taliban đối với các bộ tộc Sunni bất mãn ở Iraq, dẫn đến phong trào Thức tỉnh trong bộ tộc Sunni nổi lên chống  al-Qaeda; và cuộc thanh lọc giáo phái trước đây đã buộc hơn 4 triệu người Iraq phải rời bỏ nhà cửa, khiến các đội tử thần của giáo phái khó tìm thấy nạn nhân của mình hơn. Góp vào danh sách đó phải thêm chiến tích của JSOC, đã giết chết các thủ lĩnh của các nhóm giáo phái chiến binh, cả người Sunni và người Shia, với quy mô công nghiệp.

Nỗ lực chính của JSOC trong gần như toàn bộ thời gian của Chiến tranh Iraq là ở Iraq; còn Afghanistan và Pakistan chỉ là những màn trình diễn phụ. Minh chứng cho điều này là khi McChrystal nắm quyền chỉ huy JSOC vào tháng 10 năm 2003, ông chỉ thấy có 20 người của mình ở Afghanistan và 250 người ở Iraq. Và sáu năm sau, vào mùa xuân năm 2009, JSOC vẫn chỉ thực hiện 20 hoạt động mỗi tháng ở Afghanistan. Lực lượng Delta của quân đội đã nhận được màn biểu diễn chính ở Iraq, trong khi Lực lượng Hải quân SEAL nhận lãnh Afghanistan, điều này hơi mỉa mai vì thực tế là đất nước này  hoàn toàn bao quanh bởi đất liền.

ĐỂ TRỞ THÀNH THÀNH VIÊN SEAL RẤT KHÓ. Trước tiên, bạn phải vượt qua được khóa huấn luyện thường được coi là khắc nghiệt nhất trên thế giới. Đỉnh cao của quá trình lựa chọn khốc liệt là Tuần lễ Địa ngục được đặt tên rất hợp lý, bao gồm việc chạy ít nhiều liên tục, thực hiện các động tác chống đẩy, di chuyển các khúc gỗ lớn theo đội, bơi một quãng đường dài trong nước biển lạnh giá và chỉ ngủ vài giờ trong suốt cả tuần. Các bài kiểm tra khác bao gồm bơi dưới mặt nước trong 50 thước với hai tay bị trói sau lưng và hai chân bị trói vào nhau. Tỉ lệ bị loại là 90%. Eric Greitens, một học giả người Rhodes có bằng tiến sĩ ở Oxford và sau này trở thành trung úy chỉ huy trong lực lượng SEAL, nhớ lại quá trình đào tạo của mình, “Chúng tôi đã tuyển mộ được những con người đáng kinh ngạc gia nhập—các ngôi sao điền kinh ở trường trung học, các vận động viên bóng nước liên đại học, các vận động viên bơi lội có đẳng cấp quốc tế.” Và rất nhiều người trong số họ cuối cùng đã bỏ cuộc. Cũng thời gian đó, chúng tôi nhận được những anh chàng gặp khó khăn khi chạy, những anh chàng gặp khó khăn khi chống đẩy, những anh chàng răng bắt đầu lập cập khi nhìn vào đại dương lạnh lẽo, nhưng kỳ lạ thay họ đã vượt qua được. Và một trong những lý do khiến họ thành công là do họ có lòng kiên trì.”

Sau Tuần địa ngục là đến khóa huấn luyện Năng lực Bơi lội, trong đó các thành viên SEAL  bơi lặn với thiết bị lặn và bị tấn công bởi những huấn luyện viên, những người này sẽ giật ống ngậm thở  và mặt nạ của họ cũng như tắt bình oxy. Trong quá trình kiểm tra này, những thí sinh phải giữ bình tĩnh và tìm ra cách để vượt qua, thiết lập lại đường truyền oxy mang lại sự sống trong khi cơ thể họ đang rất cần không khí. Greitens nói: “Mục đích của tất cả những điều này là thách thức mọi người hết mức có thể. Bạn thúc đẩy họ đến giới hạn về tinh thần, thể chất và cảm xúc để khi xảy ra chiến đấu, họ đã sẵn sàng”.

Nếu việc gia nhập SEAL đã khá khó khăn, thì một thách thức lớn hơn nữa là được chọn vào lực lượng hàng đầu chống khủng bố của SEAL, được đặt tên có vẻ vô hại là  Nhóm Phát triển Tác chiến Đặc biệt Hải quân, có trụ sở tại Dam Neck, Virginia, gần khu vực nhộn nhịp của thị trấn nghỉ mát Virginia Beach. Nó được biết bên trong quân đội dưới tên DevGru, và phổ biến hơn là SEAL Đội 6, và là đội tinh nhuệ trong lực lượng SEAL tinh nhuệ. Các thành viên DevGru, tổng cộng khoảng 250 người, là những người kiên cường chiến đấu và thường ở giữa tuổi ba mươi. DevGru được chia theo đội được đặt tên theo màu sắc: Đỏ, Xanh, và Vàng là biệt đội tấn công; Xám xử lý xe cộ và thuyền; và Đen là đội bắn tỉa. Những biệt đội lùng tìm ở các đội SEAL khác, khoảng hai nghìn người,  để lôi kéo những ai có kỹ năng đặc biệt họ cần.

Căn cứ của DevGru tại Dam Neck không được công bố. Đằng sau hàng rào dây thép cao ngăn cách lực lượng SEAL với phần còn lại của thế giới là một chuồng chó lớn, nơi sinh sống của những chú khuyển được huấn luyện kỹ càng đồng hành cùng người huấn luyện trong nhiệm vụ của họ. Có những bức tường khổng lồ để mài giũa kỹ năng leo núi; một nhà kho chứa đầy những chiếc thuyền cực kỳ nhanh; những nhà kho khác chứa các  xe đẩy thử nghiệm chạy trên cồn cát thích hợp trên chiến trường sa mạc và vùng núi của Afghanistan, và những kho vũ khí chứa đầy những loại súng kỳ lạ.

Ngay cả khi JSOC trở thành một lực lượng nhanh và nguy hiểm hơn sau ngày 11/9, khi phải cử SEAL hoặc Delta đi tiêu diệt các thủ lĩnh của al-Qaeda, những cân nhắc chính trị tiếp tục ảnh hưởng đến các quyết định về hoạt động. Các thủ lĩnh của nhóm khủng bố có trụ sở tại Pakistan, một đồng minh khó tính, hoặc ở Iran, một kẻ thù không đội trời chung, và hậu quả chính trị của việc đem bộ binh Mỹ sang một trong hai quốc gia là rất lớn.

Như chúng ta đã thấy, Saad bin Laden và một số thủ lĩnh al-Qaeda khác đã chuyển đến Iran sau khi chế độ Taliban ở Afghanistan sụp đổ. Tình báo cho biết họ sống ở thị trấn Chalus phía bắc Iran, trên Biển Caspian. Năm 2002, một đợt điều động SEAL vào Chalus đã được lên kế hoạch và sau đó diễn tập ở đâu đó dọc theo Bờ Vịnh Hoa Kỳ. Cuối cùng, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân, Tướng Richard Myers, đã hủy bỏ chiến dịch, vốn có khả năng trở thành một Chiến dịch Móng Vuốt Đại Bàng thứ hai, bởi vì thông tin tình báo về nơi các thành viên al-Qaeda đang sống ở Chalus không bao giờ chính xác.

Ba năm sau, CIA và JSOC đang theo dõi nhân vật thứ ba của al-Qaeda, Abu Faraj al-Libi, kẻ đã lái xe đi vòng quanh các vùng bộ tộc ở Pakistan trên chiếc mô tô màu đỏ đặc biệt. Thông tin tình báo cho biết Libi sẽ tham dự một cuộc họp tại một khu nhà nhỏ ở khu vực bộ tộc phía bắc gần biên giới với Afghanistan, có thể với Ayman al-Zawahiri. Một kế hoạch đã được phát triển để thả 30 lính SEAL đến gần khu nhà và tấn công. McChrystal và giám đốc CIA Porter Goss ủng hộ kế hoạch này, nhưng các quan chức hàng đầu của Lầu Năm Góc lo lắng về khâu rút lực lượng SEAL về an toàn và muốn có thêm hỏa lực. Kế hoạch phình ra nhanh như nấm lên đến khoảng 150 Biệt động quân. Khi Rumsfeld xem xét kế hoạch này, nó càng lúc càng  giống một cuộc xâm lược Pakistan, một điều ắt sẽ gây tổn hại khá lớn về mặt chính trị đối với Tổng thống Pakistan, Tướng Pervez Musharraf, do tình cảm chống Mỹ ở Pakistan rất cao. Rumsfeld đã hủy bỏ cuộc đột kích.

Những người dưới quyền chỉ huy của McChrystal ngày càng thất vọng với những trở ngại chính trị ngăn cản họ vượt biên sang Pakistan, nơi các thủ lĩnh của al-Qaeda đang ẩn náu. Năm 2006, Frances Townsend,  cố vấn chống khủng bố hàng đầu của Bush, đã chấp nhận lời đề nghị của McChrystal để gặp gỡ các sĩ quan và quân nhân cấp cao của ông ta tại Ft. Bragg. Họ ngồi quanh một chiếc bàn hình chữ U và Townsend nói với cả nhóm, “Các bạn không thể làm tổn thương cảm xúc của tôi. Tôi đến từ New York, tôi không có cảm xúc nào cả, vì vậy chuyến đi này sẽ chỉ có giá trị nếu bạn nói cho tôi biết mối quan tâm của bạn là gì.” Nỗi thất vọng của họ tuôn trào: không được phép vượt biên; việc thiếu thông tin tình báo cấp chiến thuật tốt về các thủ lĩnh của al-Qaeda; và cơ bản nhất là câu hỏi: “Ai chịu trách nhiệm tìm kiếm bin Laden?” Có phải là CIA, vốn không có nhiều khả năng hoạt động ở vùng chiến sự dọc biên giới Afghanistan-Pakistan? Hay đó là JSOC, nơi không có được thông tin tình báo tốt về các thủ lĩnh của al-Qaeda? Townsend nói với họ rằng bên ngoài chiến trường, CIA chịu trách nhiệm, nhưng ở vùng chiến sự, JSOC nhất thiết phải dẫn đầu, và kết luận, “Vì vậy, đó là sự khác biệt, nói theo khía cạnh quân sự, giữa mệnh lệnh hậu thuẫn và mệnh lệnh được hậu thuẫn.” Townsend có thể thấy rằng nhóm không đồng tình với lời giải thích này. “Sự thật là tôi rất khó giải thích, các anh  nghĩ điều đó có thể diễn giải như thế nào đối với anh chàng trên thực địa? Nếu khó giải thích ở đây, ở Hoa Kỳ, các anh nghĩ việc hoạt động trong môi trường đó khó đến mức nào? Và nhân tiện, điều đó giải thích cho các anh  biết lý do tại sao chúng ta hoạt động không hiệu quả.” Townsend quay trở lại Nhà Trắng và bắt đầu thúc đẩy việc bổ dụng thêm nhiều sĩ quan CIA triển khai ra nước ngoài cùng với quân đội và nới lỏng các quy tắc xung quanh việc đánh phá bằng máy bay không người lái ở các khu vực bộ tộc ở Pakistan.

Vào ngày 11 tháng 8 năm 2006, các chỉ huy của Taliban và al-Qaeda đã gặp nhau để thảo luận về việc tăng nhịp độ tấn công ở miền đông Afghanistan, đặc biệt là các nhiệm vụ chung vào năm sau tại tỉnh Nangarhar. Vào tháng 7 năm 2007, JSOC nhận được thông tin tình báo rằng chính bin Laden có thể vượt biên giới từ Pakistan vào Afghanistan để tham dự một cuộc họp thượng đỉnh các chiến binh ở Nangarhar trên vùng đất Tora Bora cũ của y. CIA nhận thấy rằng có sự gia tăng đáng kể các lực lượng al-Qaeda và Taliban ở đó. Lầu Năm Góc đã lên kế hoạch tấn công bằng máy bay ném bom tầm xa, nhưng khi máy bay ném bom tàng hình B-2 đang bay, các chỉ huy đã ra lệnh họ quay trở lại vì lo ngại về tính tin cậy của thông tin tình báo về bin Laden lẫn số thương vong dân sự có thể xảy ra sau một cuộc tấn công ném bom quy mô lớn. Thay vào đó, JSOC tiến hành một chiến dịch nhỏ hơn kéo dài ba hoặc bốn ngày nhằm tiêu diệt hàng chục chiến binh ở Tora Bora. Giống như mùa đông năm 2001, bin Laden một lần nữa dường như đã biến mất không khác một bóng ma.

Bình luận về bài viết này