Lần theo dấu chân người Nhật trong lưu vực sông Cửu Long (1)

Trần Thanh Ái

(Bài đã đăng trên tạp chí Xưa & Nay, số tháng 9 năm 2022)

Trên báo Trung Lập số 6155 phát hành ngày 24 tháng 5 năm 1930 tại Sài Gòn, nhà văn Phan Khôi có viết bức thư ngỏ nhờ độc giả giúp đỡ, nội dung như sau: “Có một người Nhựt Bổn, là nhà khảo cứu, viết thơ hỏi tôi điều sau nầy: Số là trước đây vài ba trăm năm, người Nhựt Bổn đã có qua trú ngụ ở đất nầy. Cứ theo lời họ nói thì bây giờ còn có dấu vết người Nhựt tại Mỹ Tho.”

Thực hư câu chuyện này như thế nào? Có khá nhiều tài liệu nói về hoạt động thương mại của người Nhật ở Hội An, nhưng về việc người Nhật trú ngụ tại đất Mỹ Tho thì hình như không có ai viết gì, kể cả tài liệu của người châu Âu. Để tìm kiếm câu trả lời, chúng tôi đã dò tìm theo dấu vết của người Nhật còn được lưu giữ trong các tài liệu xưa.

  1. Những địa danh ở Nam Bộ mang tên Nhật Bản/Nhựt Bổn

Nhà nghiên cứu người Nhật nói trên biết được manh mối về sự hiện diện của đồng bào ông ta ở Mỹ Tho qua tài liệu nào? Theo nghĩa của cụm từ “cứ theo lời họ nói” mà Phan Khôi đã viết, nhà nghiên cứu này đã đọc được tài liệu nào đó do những người trong cuộc truyền lại từ vài ba trăm năm trước. Nếu đúng như vậy thì ông đã đọc được những gì trong những tài liệu ấy, và kết quả khảo cứu của ông như thế nào? Tiếc là Phan Khôi không ghi họ tên của nhà nghiên cứu nên ngày nay ta không thể biết được việc tìm hiểu của ông ấy đã đến đâu, để có thể kế thừa một cách hiệu quả. Vì thế chúng tôi không thể khai thác được gì ở manh mối này, nếu không, biết đâu nó có thể giúp ta tìm ra một vài tia sáng về một góc lịch sử đã rơi vào quên lãng hơn ba trăm năm nay.

1.1. Tài liệu được biên soạn ở Việt Nam

Về ghi chép của người Việt, Phan Khôi đã trích dẫn sách Gia Định Thành thông chí của Trịnh Hoài Đức như sau: “Giồng Nhựt Bổn(1) ở cồn Nhựt Bổn, trồng bông vải, khoai lang, khoai nước. Nhà cửa ẩn hiện trong bóng tre trúc, cổ thụ um tùm”. Theo cách tổ chức địa lý hành chánh thời ấy, các địa danh này thuộc trấn Định Tường.

Đại Nam Nhất thống chí có ghi: “Gò Nhật Bản 日本阜ở phía đông huyện Kiến Hòa 5 dặm, gần với bãi Nhật Bản, có rừng nhiều lùm tre và cây cổ thụ” (Quốc sử quán Triều Nguyễn, 1959, tr. 106).

Hoàng Việt Nhất thống dư địa chí của Lê Quang Định cũng có nói đến cù lao Nhật Bản: “đằng trước có hòn đảo, tục gọi là cù lao Nhật Bản, trên đó có cư dân ước chừng trăm nhà, ở đó có đồn phân thủ để canh chừng giặc biển” (Lê Quang Định 2005, tr. 319).

Còn trong Nam kỳ lục tỉnh địa dư chí của Duy Minh Thị (1872), Thượng Tân Thị dịch: “Hướng Tây là cù lao Nhựt Bổn, trên cù lao có đồn thủ ngự đóng, trước có cồn cát nổi tục danh là cồn Tàu” (Thượng Tân Thị, 1944, tr. 59).

Trong quyển Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn do Nguyễn Đình Đầu biên soạn, phần huyện Kiến Hòa, tổng Hòa Thanh có nói đến một vùng được gọi là “xứ Nhựt Bổn”, gồm các thôn: “4. Minh Đức thôn, ở xứ Nhựt Bổn. Đông giáp bờ biển, Tây giáp địa phận thôn Thọ Phú, Nam giáp địa phận thôn Thới Thuận, Bắc giáp bờ biển”, “15. Thọ Phú thôn, ở xứ Nhựt Bổn. Đông giáp địa phận thôn Minh Đức, Tây giáp bờ biển, Nam giáp địa phận thôn Thới Thuận, Bắc giáp bờ biển.” (Nguyễn Đình Đầu, 1994, tr. 238 và 242)

Nhờ các chỉ dấu địa lý này mà ta có thể hình dung vị trí xứ Nhựt Bổn: nó nằm ở một doi đất trên bờ Nam của cửa Đại, ba phía Đông, Bắc và Tây đều là biển nước mênh mông, chỉ có phía Nam là đất liền là vị trí của thôn Thới Thuận. Doi đất này được chia ra thành 2 thôn: thôn Minh Đức ở phía Đông, thôn Thọ Phú ở phía Tây. Dựa theo những gì được ghi chép trong các tài liệu này, ta hiểu là người xưa đã tạo ra ba địa danh có liên quan đến người Nhật Bản: đó là giồng Nhựt Bổn, nằm trên cồn Nhựt Bổn và khu vực đó được gọi là xứ Nhựt Bổn.

Vùng đất ấy còn lại gì ngoài địa danh mà sách báo ngày nay cũng hiếm khi nhắc đến? Trong một luận án tiến sĩ, cồn Nhật Bản/Nhựt Bổn cũng chỉ được nhắc qua để làm thí dụ về địa mạo vùng đồng bằng sông Cửu Long: “Nhưng ngoài thuật ngữ cù lao khá phổ biến, trên các sông vùng Bến Tre, Tiền Giang… còn dùng thuật ngữ “cồn” chỉ một khái niệm tương tự, như Cồn Khương, Cồn Khế, Cồn Phụng, cồn Tầu, cồn Nhật Bản v.v.” (Trần Bá Hoàng, 2014, tr.76). Hoặc trong một bút ký được đăng năm 2004, tác giả Huy Khanh có ghi:

“Trên sông Cửa Đại phía Bến Tre thời ấy cồn Phụng chưa nổi cao lên như bây giờ. Từ cồn Thới Sơn (thuộc Tiền Giang) xuống đã có cù lao Quí Sơn, cồn Tàu và cồn Nhựt Bổn. […] Cồn Nhựt Bổn ở về phía Tây cảng Đại Hải (tức cửa Đại) ‘trên cồn có Thủ ngự đồn trú, trước mặt có cồn cát nằm chìm dưới nước tục danh cồn Tàu’. Trên cồn còn gọi là bãi cát Nhựt Bổn có giồng Nhựt Bổn, giồng Tổng Đồ, giồng Cây Da ‘trồng nhiều bông vải, khoai lang, khoai nước. Nhà cửa ẩn hiện trong các rặng tre và cổ thụ’. […] Cồn Nhựt Bổn hay bãi cát Nhựt Bổn ở vào vị trí xã Thừa Đức, huyện Bình Đại…”  (Huy Khanh, 2004)

Khi người Pháp đặt chân đến Việt Nam, họ vẫn còn ghi nhận sự tồn tại của địa danh Rạch Nhựt Bổn: trong bản đồ Plan topographique de l’arrondissement de Mytho (1885), dòng chữ Rạch Nhựt Bổn được ghi bên cạnh một lạch nước đổ ra sông Tiền ở vùng Cửa Đại, theo hướng Đông Nam – Tây Bắc, cũng như trên bản đồ Carte de la Cochinchine franҫaise (1889) của A. Koch. Vì hình vẽ là một nhánh sông cụt nên chúng ta có thể cho rằng rạch này chỉ có giá trị sử dụng trong phạm vi làng xã mà thôi.

Hình 1: Plan topographique de l’arrondissement de Mytho (1885) có ghi “Rạch Nhựt Bổn” (Gallica.bnf.fr) Hình 2: Carte de la Cochinchine française, (1889) có ghi “R. Nhựt Bổn” (Gallica.bnf.fr)

Ngày nay cả vùng này đã trở thành khu dân cư trù phú, mắt thường không còn nhận ra vết tích của dòng chảy ngày xưa nữa.

Liên kết các sự việc đó với nhau, chúng ta có thể đưa ra giả định ban đầu là đã có thời người Nhật có mặt tại địa điểm trên, và đã tạo được một dấu ấn đủ sâu đậm để tên gọi của dân tộc họ được gán vào vùng đất ấy. Nhưng người Nhật đến đó vào lúc nào? Họ là ai? Tại sao họ đến đó? Họ đã hòa nhập hoàn toàn vào cộng đồng bản địa hay chỉ ở đó một thời gian rồi bỏ đi? Nếu đó chỉ là một chặng dừng chân thì họ bỏ đi khi nào? Và ai đã đặt tên vùng đất ấy như vậy? Đó là những câu hỏi cơ bản mà các nhà nghiên cứu phải tìm chứng cứ để trả lời. Thế mà về chứng cứ khảo cổ thì chỉ là con số không: từ trước đến nay theo chúng tôi biết thì không có phát hiện khảo cổ học nào chứng tỏ người Nhật đã từng hiện diện trên vùng đất này. Vì thế chúng ta chỉ còn hy vọng rất mong manh ở nguồn sách vở mà thôi.

Gần đây, tác giả Lê Ngọc Quốc (2019) có bài viết tập hợp được một số dữ liệu liên quan đến Xứ Nhật Bảnsông Nhựt Bổn ở Nam Bộ, nhưng cũng chưa lần ra manh mối về lai lịch của địa danh này. Tài liệu nước ngoài cho biết vào thế kỷ XVII có nhiều đợt di dân của người Nhật đến các nước vùng Đông Nam Á như Đàng Trong, Campuchia, Xiêm, Philippines… sau các xung đột quân sự và nhất là các vụ đàn áp tôn giáo bắt nguồn từ chính sách cấm đạo Thiên Chúa ở Nhật. Vì vậy, để tìm hiểu nguồn gốc địa danh Giồng/Cồn/Xứ/Rạch Nhựt Bổn, chúng tôi thấy cần phải theo dấu chân cuộc di dân của người Nhật đến nước Việt nói riêng, và cả trên bán đảo Đông dương nói chung, đặc biệt là ở Campuchia, vì cho đến giữa thế kỷ XVIII các nhánh sông Cửu Long vẫn là cửa ngõ chính đi vào kinh đô của vương quốc này.

1.2. Tài liệu được biên soạn ở phương Tây

Chúng tôi không thấy tài liệu phương Tây nào nói về một cái cồn, hay cù lao, con rạch hoặc một vùng đất ở Nam bộ mang tên Nhật bản như tài liệu tiếng Việt. Nhưng bù lại, tên gọi Sông Nhật Bản xuất hiện trong nhiều sách xưa bằng tiếng Pháp (rivière japonoise/japonaise), tiếng Anh (Japanese River), tiếng Hà Lan (Japansche Rivier). Quyển 5 bộ từ điển Dictionnaire Géographique Universel do Société des Géographes (Hội các nhà nghiên cứu địa lý) biên soạn và xuất bản năm 1829 tại Paris có mục từ JAPONAISE (RIVIÈRE), tức Sông Nhật Bản, với lời giải thích như sau:

“là nhánh sông lớn nhất và nằm xa nhất về phía Đông của sông May-kang [sic!] (còn gọi là sông Camboge) đoạn gần với cửa sông, nằm trong đế quốc An Nam, tỉnh Đồng Nai, thuộc Đàng Trong. Nó đổ ra biển Trung Hoa, ở phía Tây của mũi St-Jacques [Vũng Tàu], và hòa dòng chảy cùng với sông Đồng Nai” (Société des Géographes, 1829, tr. 378)

Một số tác giả còn cung cấp thông tin hé lộ những người đầu tiên đã nhắc đến tên này: L. Pallu một sĩ quan Pháp tham gia các chiến dịch chinh phục Nam kỳ Lục tỉnh đã ghi chép trong hồi ký của mình: “Các nhà chép sử Hà Lan kể lại rằng sông Cambodge đổ ra biển qua ba cửa sông: cửa Umbequamme, nghĩa là Bất tiện, cửa sông Nhật Bản và cửa sông Sài Gòn” (Pallu L. 1864, tr. 21). Một số khác cũng tìm cách giải mã nguồn gốc tên gọi con sông này, như C.E. Bouillevaux (1858).

Không hài lòng với những thông tin sơ sài trên đây, thậm chí trái ngược nhau về nhiều chi tiết, chúng tôi tiến hành khảo sát những ghi chép của người phương Tây từ xa xưa đến nay về những thông tin liên quan đến sông Mêkong, để xem tên gọi Sông Nhật Bản được bắt đầu từ khi nào, do ai đặt ra, và tại sao. Khai thác chức năng nhận dạng mặt chữ của các công cụ tìm kiếm như Google, chúng tôi lần lượt sử dụng các từ khóa “rivière japonaise”, “Japanese River”, “Japansche Rivier” để truy tìm những tài liệu lần lượt bằng tiếng Pháp, tiếng Anh và tiếng Hà Lan có nói về dòng sông này(2). Kết quả khảo sát cho thấy rằng các tác giả có nói đến sông Nhật Bản đều ít nhiều dựa vào thông tin từ chuyến đi Viễn Đông từ năm 1631 đến 1638 của H. Hagenaar, trưởng đại diện của Công ty Đông Ấn Hà Lan. Nói các khác, bản tường trình từ chuyến đi của H. Hagenaar là tài liệu phát hành sớm nhất có ghi tên gọi dòng sông này. Và dường như trong mấy thập niên sau đó nó chỉ được sử dụng nội bộ dưới dạng bản thảo viết tay(3) nên từ giữa thế kỷ XVII chỉ có một số nhà làm bản đồ của Công ty Đông Ấn Hà Lan kịp bổ sung tên sông Nhật Bản vào bản đồ lưu vực sông Mêkong. Mãi đến năm 1706, bản tường trình này mới được xuất bản bằng tiếng Pháp ở Amsterdam trong quyển 5 của bộ Recueil des voiages qui ont servi à l’Etablissement et au progrès de la Compagnie des Indes Orientales…, trong đó gọi sông Nhật Bản là “rivière du Japon”, và từ đó nó được lan truyền ra khắp châu Âu.

1.2.1. Tên gọi sông Mêkong trong các tài liệu trước Hagenaar

Các tài liệu được biên soạn trước chuyến đi của Hagenaar đều chỉ dùng chữ Mecon hay Meccon, Mecom, Mekhong hoặc sông Camboie, Camboia, Camboje, Camboja, Camboge… để nói về dòng sông Mêkong ngày nay, và chỉ từ sau chuyến đi của Hagenaar tên gọi Sông Nhật Bản mới bắt đầu xuất hiện, trước hết là trong các tài liệu của Hà Lan.

Thật vậy, người đầu tiên nói đến sông Mêkong là J. Barros (1496-1570), nhà chép sử người Bồ Đào Nha thế kỷ XVI: trong bộ sách đồ sộ Decadas da Asia được dịch ra nhiều ngôn ngữ châu Âu, ông đã cung cấp cho người đọc phương Tây những mô tả đầu tiên về vương quốc Campuchia với nhiều thông tin chi tiết hơn bộ The Suma Oriental của Tomé Pires: “Và quốc gia nằm cạnh Xiêm là vương quốc Camboja, có dòng sông Mecon hùng vĩ bắt nguồn từ nhiều vùng miền của Trung Hoa chảy xuyên qua vương quốc này.” (Barros J., 1552, tờ 109b)

Nhưng có lẽ người đầu tiên khắc ghi tên dòng sông Mêkong vào ký ức của nhân loại là đại thi hào Bồ Đào Nha Camoens trong sử thi Os Lusiadas được viết khi ông bị đi đày ở Macao. Trên đường từ Macao trở về Ấn Độ năm 1560, thuyền của Camoens đã bị chìm ở biển Đông, đoạn gần cửa sông Mêkong, và ông đã bơi một tay vào bờ với bản thảo trên tay kia. Trong ca khúc thứ X, Camoens đã ngợi ca sự hùng vĩ và hào phóng của sông Mêkong mà ông gọi là Mecom và ví dòng sông như là một thủ lĩnh nhận lễ vật từ các con sông nhỏ cống nạp rồi ban phát lại cho muôn loài:

Trên đất Camboja, khắp cánh đồng

Mecom, chúa tể các dòng sông

Nhân từ ban phát cho muôn vật

Cống phẩm chư hầu dâng lập công!

(dịch theo Millié J.B.J. 1825, tr. 181)

F. Mendez Pinto, nhà hải hành lừng danh người Bồ Đào Nha vào thế kỷ XVI cũng có ghi chép khá chi tiết về vùng biển phía Nam nước ta và cửa sông Cửu Long với cách định vị hiện đại của người châu Âu dựa theo tọa độ trên trái đất: “Sau bảy ngày dong buồm trên hải trình, chúng tôi thấy một hòn đảo tên là Pullo Condor [Côn Đảo], ở vĩ độ 8 độ 1/3 Bắc, và nằm ở trục Tây-Bắc Đông-Nam hướng về cửa sông Camboja” (Mendez Pinto F. 1614, tr. 39b).

Các nhà biên soạn sách địa lý cũng không đợi quá lâu để cập nhật kiến thức về vùng đất mới được người châu Âu khám phá: năm 1575, A. Thevet nhà nghiên cứu địa lý người Pháp đã đưa thông tin về sông Mêkong vào bộ sách đồ sộ Cosmographie universelle của ông như sau:

“Dòng sông Mecon (mà dân bản xứ gọi là Mesollam) chảy dọc theo vương quốc này [Campuchia], nó bắt nguồn từ xứ Catai [tức Cathay, Trung Hoa], và từ vùng núi non Cambalu [tức Cambaluc, theo cách gọi của Marco Polo]; sông dài khoảng 1.000 hay 1.200 dặm lớn(4), hình thành từ rất nhiều con sông nhỏ, đến nỗi mà trước khi đổ ra biển, sông Mecon tạo ra một hồ dài hơn 60 dặm lớn và rộng hơn 15 dặm lớn, và có nhiều cửa sông lớn và mênh mông đến độ không một con sông nào bằng được” (Thevet A., 1575, tr. 414)

Cũng trong năm ấy, F. Belle-Forest, nhà nghiên cứu cũng người Pháp, cho xuất bản bộ Cosmographie universelle đã dành một đoạn nói về sông Mêkong (Belle-Forest F. 1575, cột 1703). Hughen van Linschoten, nhà hàng hải người Hà Lan, trong khoảng thời gian ở Ấn Độ từ năm 1583 đến 1588 đã sưu tầm tài liệu liên quan đến hải trình đi đến phương Đông qua mũi Hảo Vọng và viết thành quyển Itinerario xuất bản bằng tiếng Hà Lan năm 1596. Quyển sách ấy được xem là cẩm nang cho các thuyền buôn người Hà Lan lúc bấy giờ, trong đó cũng có nhắc đến vương quốc Campuchia và sông Mêkong: “Sông Mecom chảy qua vương quốc này [Cambaja] và đổ ra biển, mà người Ấn Độ gọi là thủ lĩnh của các dòng sông, vì vào mùa hè nó nhiều nước đến độ cả vương quốc bao phủ bằng một màn nước, như sông Nilus tràn bờ ở xứ sở Ai Cập” (Linschoten H., 1596, tr. 27).

Những năm cuối thế kỷ XVI, người Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha đã xuôi ngược dòng sông Mêkong, đặc biệt là trong chiến dịch cứu viện cho vua Campuchia lúc đó là Apram Langara, thế mà các tài liệu thời ấy chỉ gọi sông này là sông Meccon, mặc dù họ đã biết có một cộng đồng người Nhật ở thủ đô Campuchia lúc bấy giờ. Năm 1604, nhà truyền giáo G. de San Antonio đã viết về sông Mêkong như sau: “Dòng sông chính là Meccon có hai mùa ngập lụt và khô ráo; thủy triều tiến sâu vào nội địa đến 170 dặm lớn” (San Antonio G. de 1604, tr.5). Hoặc như Cristoval Jaque là một thành viên trong đoàn viện binh của Tây Ban Nha cho vua Campuchia năm 1596 cũng có một bản ghi chép năm 1606, trong đó ông gọi sông Mêkong là sông Camboge:

“Chúng tôi đi dọc theo bờ biển cho đến khi chúng tôi nhận ra một cảng nằm ngay biên giới của hai nước này [Champa và Camboge], nơi mà viên hoa tiêu Vincent Fernandez của chúng tôi gọi là Cinq-Plaies(5), bởi vì người ta thấy ở đó có năm ngọn núi cao. Chúng tôi ở đó hai ngày trong tình trạng rất ngổn ngang tuy không có hiểm nguy nào, bởi vì viên hoa tiêu không biết đâu là cửa sông Camboge để đi vào vương quốc này.” (Jaque C., 1840. tr. 262)

Có lẽ các tài liệu liên quan đến chuyến đi của Hagenaar được xem là bí mật quốc gia, nên các ghi chép về cuộc hành trình này vẫn được giữ kín trong một thời gian dài, và vì thế những nhà hàng hải châu Âu vẫn tiếp tục gọi sông Mêkong như trước đây. Năm 1668, tác giả người Anh P. Heylin vẫn chỉ biết mỗi cái tên Mecon mà thôi (Heylin P., 1668, tr. 213). Năm 1687, trong chuyến đi vòng quanh thế giới lần đầu, nhà du hành người Anh W. Dampier khi đi ngang qua Côn Đảo đã gọi sông Mêkong là sông Cambodia(6) (Dampier W., 1729, tr. 389-390). Năm 1695 nhà truyền giáo người Ý Gemelli Careri đi vào vùng biển Đông của Việt Nam cũng có nhắc đến sông Cửu Long mà ông gọi là Sông Vua Camboya:

“Thứ bảy, ngày 23 [tháng 7 năm 1695], lúc mặt trời mọc, chúng tôi đang ở ngoài khơi năm ngọn đồi, mà người Bồ Đào Nha gọi là Cinco Chagas hoặc Năm Vết thương, trước khi đến cửa sông Vua Camboya, cách kinh đô Pontay pret khoảng 240 dặm. Tàu thuyền có thể ngược dòng đến đó, vì ở cửa sông sâu 3 sải nước, và khi gần đến kinh đô thì sâu 7 sải. Người Bồ Đào Nha gọi cửa sông này là Cửa Caranchescio(7).” (Careri G., 1700, tr. 355)

Về bản đồ, cho đến nửa đầu thế kỷ XVII tất cả các bản đồ có liên quan đến vùng này đều dùng chữ Mecon và các dạng chính tả tương tự để chỉ sông Mêkong, và phải đến năm 1658-1659 mới có bản đồ khuyết danh của người Hà Lan (Hình 3) dùng chữ Japansche R. (sông Nhật Bản) để chỉ một nhánh sông Mêkong thì tên này mới bắt đầu được sử dụng rộng rãi.

1.2.2. Sông Nhật Bản trong tường trình Hagenaar

Mặc dù nhiều người phương Tây đã biết sự hiện diện của người Nhật ở Campuchia từ cuối thế kỷ XVI, nhưng như đã nói bên trên, mãi sau chuyến đi của Hagenaar thì tên gọi sông Nhật Bản mới bắt đầu xuất hiện trong các tài liệu phương Tây. Trong bản tường trình có đoạn nói về sông này như sau:

“Ngày 16 tháng 5 năm 1637, chúng tôi đi vào sông Matsiam có cửa sông rất hẹp, hai bờ sông cây cối tốt tươi. Nhờ thủy triều và gió chúng tôi đi ngang qua mấy cù lao, và gặp cửa sông Simmeding, nơi mà năm trước chiếc Oudewater đã đến. […] Hai ngày sau đó chúng tôi tiếp tục những thao tác gần giống nhau, và chúng tôi luôn bực bội vì những đàn muỗi mòng. Ngày 23 chúng tôi gặp dòng sông rộng hơn một chút. Chính ở chỗ đó người ta bắt đầu gọi nó là sông Nhật Bản. Chúng tôi cho lắp đặt các khẩu pháo bên mạn thuyền và chuẩn bị sẳn sàng chiến đấu khi cần.” (Hagenaar H. 1706, tr. 259-260)

Đoạn trên đây ghi lại cuộc hành trình của đoàn Hagenaar đi vào một trong các cửa sông Cửu Long vào năm 1637 để ngược dòng đến kinh đô vương quốc Campuchia. “Người ta” là ai mà gọi đó là sông Nhật bản? Được biết người Hà Lan đã đặt một thương điếm nhỏ trên đất Campuchia từ năm 1623 rồi xây dựng cơ sở vào tháng 10 năm 1627 (Cabaton A. 1914, tr. 159), và trong thập niên 1630 có rất nhiều thuyền buôn Hà Lan tới lui Campuchia. Vì thế có thể các thương nhân Hà Lan đến Campuchia vào những năm trước đã gọi dòng sông ấy như thế. Nói cách khác, tên gọi sông Nhật Bản đã được sử dụng trước khi Hagenaar đến Campuchia năm 1637! Thật vậy, sông Nhật Bản đã được nhắc đến trong tài liệu hướng dẫn do những người đi trước biên soạn, mà bản tường trình Hagenaar đã trích một đoạn dài, nhằm giới thiệu đất nước, con người và việc mua bán ở đó (Hagenaar H. 1706, tr 282-283).

Năm 1917 H. Muller xuất bản quyển De Oost-Indische Compagnie in Cambodja en Laos trong đó tác giả công bố một tập nhật ký của Galen (tr. 61-124) ghi chép sự việc xảy ra từ ngày 18 tháng 6 đến ngày 8 tháng 11 năm 1636 ở Campuchia. Trong nhật ký này, Galen cũng có nói tới Japansche riviere (tr. 89) mà không cho biết tại sao có tên gọi ấy. Tuy được ghi chép từ năm 1636, nhưng gần 300 năm sau nhật ký mới được công bố, nên tường trình của Hagenaar là tài liệu đầu tiên được lan truyền ngay từ đầu thế kỷ XVIII.

1.2.3. Sông Nhật Bản trong các tài liệu sau chuyến đi của Hagenaar

Như đã nói bên trên, các ghi chép về chuyến đi của Hagenaar mãi đến năm 1706 mới được công bố rộng rãi ở châu Âu. Tuy nhiên, trong giới hàng hải Hà Lan đã bắt đầu phổ biến tên gọi Sông Nhật Bản trên các bản đồ. Một bản đồ không ghi tên tác giả nhưng có các chú thích bằng tiếng Hà Lan được vẽ năm 1658-1659, hiện được lưu trữ tại Cục Lưu trữ quốc gia tại La Haye (Hà Lan) trong đó có ghi Japansche R. (Japansche Rivier, Sông Nhật Bản) hơi chếch lên trên sông Tiền của Việt Nam, ở cửa sông là đảo Krabben Eil. (Đảo Cua). Đây là tấm bản đồ xưa nhất có ghi tên sông Nhật Bản. Chắc hẳn rằng tấm bản đồ này là kết quả của nhiều chuyến thám hiểm phương Đông mà người Hà Lan đầu tiên đã thực hiện là Cornelis Houtman từ năm 1595, phá thế độc quyền của người Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha.

Hình 3: Sông Nhật Bản (Japansche R.) phóng to từ bản đồ vẽ năm 1658-1659 được lưu trữ tại Cục Lưu trữ Quốc gia tại La Haye (Hà Lan). (Buch W.J.M. 1936, tr. 100b.)

Sau đó, Hà Lan lần lượt cho ra đời nhiều bản đồ chi tiết hơn, như bản đồ của Peter Goos, xuất bản tại Amsterdam năm 1662 có dòng chữ Sông Nhật Bản nằm phía trên sông Tiền một quãng khá xa.

Hình 4: Bản đồ của Peter Goos (1662) phóng to vùng hạ lưu sông Cửu Long.

Ngoài ra, người ta cũng còn tìm thấy tên sông Nhật Bản trong các bản đồ của người Hà Lan được vẽ sau đó như Nicolaes Visscher (1670), Johannes van Keulen (1690). Thế là các nước khác ở châu Âu cũng nối bước người Hà Lan cập nhật tên Sông Nhật Bản vào bản đồ của họ. Người đầu tiên ngoài nước Hà Lan là linh mục Coronelli (người Ý) năm 1687 đã xuất bản tại Paris bản đồ Royaume de Siam avec les Royaumes qui luy sont tributaries et les Isles de Sumatra, Andemaon, etc., khổ 24 x 17.5 inches, trong đó có tên sông Nhật Bản, nhưng dòng chữ R. Japante (?) lại viết lệch bên trên, sát với đường biên giới Cambodia và Champa thời bấy giờ. Phần ghi chú vắn tắt trên bản đồ cho biết nó được vẽ theo ghi chép của sáu nhà truyền giáo dòng Tên tại Ấn Độ và Trung Hoa, mà sau này người ta xác định đó là các thành viên trong đoàn sứ giả đầu tiên của Pháp đi Xiêm năm 1685 do Chaumont dẫn đầu.

Hình 5: Bản đồ của Coronelli năm 1687 phóng to đoạn hạ lưu sông Mêkong.

Bản đồ của Coronelli (1687) còn mang dấu ấn đặc biệt của người Hà Lan: đó là dòng sông Hậu được ghi chú (sai) bằng tiếng Hà Lan, sông Oubequame(8), được nhiều tác giả giải thích là dòng sông “bất tiện”, “vô dụng”. Sau đó, năm 1700, bản đồ này được Pierre Mortier xuất bản lại ở Amsterdam nhưng không đề tên Coronelli và cũng không có nhiều thay đổi.

Năm 1702, Thomas Page & Richard Mount xuất bản tại London bản đồ A Chart of the Eastermost part of the East Indies and China from Cape Comarin to Japan with the Adjacent Islands, trong đó hàng chữ Japanese R. không nằm cặp theo sông Tiền mà nằm thẳng góc (đoạn gần ngã ba sông Vàm Nao và sông Tiền, nơi mà các bản đồ trước đó thường ghi Loukin R. hoặc Lonchin R., như thể để gán cho một nhánh sông nhỏ chảy từ tả ngạn sông Tiền ngược lên phía Bắc.

Hình 6: Bản đồ của T. Page & R. Mount năm 1702 phóng to đoạn hạ lưu sông Mêkong.

Mãi đến năm 1726, tác giả người Hà Lan F. Valentyn đã cho xuất bản bộ Oud en nieuw Oost-Indiën, vervattende een naaukeurige en uitvoerige, trong đó ở quyển 3 có phần nói về việc buôn bán ở Campuchia “Beschryvinge van onsen Handel in Cambodia” có nói đến sông Nhật Bản (Japanſche Rivier) và sông Matsiaanse (tr. 38).

(xem tiếp kỳ sau)


Tài liệu tham khảo

Barros J. de, 1552. Primeira Decada da Asia. Lisboa: Impressa per Sermão Salbar.

Belle-Forest F. de, 1575. Cosmographie universelle, Tome 2. Paris: Chez Michel Sonnius.

Bouillevaux C.E., 1858. Voyage dans l’Indochine. Paris: Librairie de Victor Palmé.

Buch W.J.M. 1936. La Compagnie des Indes néerlandaises et l’Indochine. Tạp chí BEFEO, số 36.

Cabaton A. 1914. Les Hollandais au Cambodge au XVIIe siècle. Tạp chí Revue de L’Histoire des Colonies françaises, 2e trimester 1914.

Cabaton A. 1919. Les Hollandais au Cambodge et au Laos au XVIIe siècle. Tạp chí Tijdschrift van het Koninklijk Nederlandsch Aardrijkskundig Genootschap số 36. Leiden: Brill.

Careri G., 1700. Giro del Mondo del Dottor D. Gio Francesco Gemilli Careri, Parte Terza. Napoli: Nella Stamperia di Giuſeppe Roſelli.

Dampier W. 1729. The Travel of Captain William Dampier. Trong A Collection of voyages, quyển 1. London: For James and John Knapton.

Duy Minh Thị 1944. Nam kỳ lục tỉnh địa dư chí (Thượng Tân Thị dịch). Đại Việt Tập chí, số 50-51-52 tháng 11-12 năm 1944.

Fenning D., Collyer J, & others 1766. A New System of Geography: or a General Description of the World. London: For S. Crowder…

Hagenaar H., 1706. Voiage aux Indes Orientales. Trong quyển 5 bộ Recueil des voiages qui ont servi à l’établissement et aux progress de la Compagnie des Indes Orientales formée dans les Provinces Unies des Païs-bas. Amsterdam: Etienne Roger, Libraire.

Heylin P. 1668. Cosmography, The Third Book. London: For A. Seile.

Huy Khanh, 2004. Cồn bãi và sông nước trên đất cù lao xưa. Văn chương Việt: https://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=1203

Jaque C. de 1840. Voyage aux Indes orientales et occidentales. Trong quyển Archives des Voyages ou Collection d’anciennes relations inédites ou très rares (quyển 2), H. Ternaux-Compans. Paris: Chez Arthus Bertrand.

Lê Ngọc Quốc, 2019. Xứ Nhật Bản ở Nam Bộ xưa. Bài trên trang Nghiên cứu lịch sử, tại:  https://nghiencuulichsu.com/2019/10/04/xu-nhat-ban-o-nam-bo-xua/

Lê Quang Định 2005. Hoàng Việt Nhất thống dư địa chí (Phan Đăng dịch). Huế: Nxb Thuận Hóa.

Linschoten H. van, 1596. Itinerario, Voyage ofte Schipvaert. Amstelredam: By Cornelis Claesz.

Mendez Pinto F., 1614. Peregrinaҫam. Lisboa: Por Pedro Crasbeeck.

Millié J.B.J. 1825. Les Lusiades ou Les Portugais, quyển 2 (bản tiếng Pháp của sử thi Os Lusiadas). Paris: Firmin Didot Père et Fils.

Muller H. 1917. De Oost-Indische Compagnie in Cambodja en laos. ‘s-Gravenhage: Martinus Nijhoff.

Nguyễn Đình Đầu, 1994. Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn – Định Tường. TP. Hồ Chí Minh: Nxb TP. Hồ Chí Minh.

Pallu L. 1864. Histoire de l’expédition de Cochinchine en 1861. Paris: Librairie Hachette et Cie.

Quốc sử Quán triều Nguyễn, 1959. Đại Nam Nhất thống chí Lục tỉnh Nam Việt, tập thượng (Tu Trai Nguyễn Tạo dịch). Sài Gòn: Nha Văn Hóa, Bộ Quốc Gia Giáo dục.

Rees A. 1819. The Cyclopædia, Or, Universal Dictionary of Arts, Sciences. London: Longman, Hurst, Rees, Orme, & Brown.

San Antonio G. de, 1604. Breve y verdadera relacion de los succesos del reyno de Camboxa. Valladolid.

Société des Géographes, 1829. Dictionnaire Géographique Universel, Q. 5. Paris: Chez A.J. Kilian & Ch. Picquet.

Thevet A. 1575. Cosmographie universelle, Vol. 1. Paris: Chez Pierre l’Huilier.

Trần Bá Hoàng, 2014. Nghiên cứu diễn biến và giải pháp chỉnh trị đoạn
sông phân lạch – Ứng dụng cho sông Cửu Long. Luận án tiến sĩ kỹ thuật, bảo vệ tại Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam.

Trịnh Hoài Đức 1972. Gia Định Thành thông chí, tập thượng (Tu Trai Nguyễn Tạo dịch). Sài Gòn: Nha Văn Hóa.

Valentyn F. 1726. Beschryvinge van onsen handel in Cambodia. Trong Omſtandig Verhaal van de Geschiedenissen en Zaaken het Kerkelyke ofte den Godsdienst Betreffende, zoo in Amboina… Dordrecht: Joannes van Braam Boekverkooper.

CHÚ THÍCH:

(1) Phan Khôi chuyển sang chữ quốc ngữ thành Nhựt Bổn, trong khi các bản dịch khác gọi là Nhựt-bản, Nhật Bản như bản dịch của Tu Trai Nguyễn Tạo (tập Thượng 1972, tr.55) hay bản dịch của Phạm Trọng Điềm (tập 5, 2006). Từ điển của Pigneaux de Béhaine – Taberd chỉ có dạng chính tả Nhựt bổn mà thôi (1838, tr.369). Chúng tôi nghĩ cách viết của Pigneaux de Béhaine và Phan Khôi sát với cách phát âm của người dân Nam bộ thời xưa hơn,

(2) Chúng tôi cũng đã thử tìm tài liệu bằng tiếng Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha với lần lượt các từ khóa “Rio Japonês” và “Río Japonés” nhưng không có kết quả.

(3) Vì nhà xuất bản không cung cấp thông tin liên quan đến nguồn gốc của tài liệu này, nên độc giả không biết nó được dịch từ tiếng Hà Lan hay là tác giả viết bằng tiếng Pháp. Mặc dù đã cố gắng tìm kiếm bản tường trình gốc viết bằng tiếng Hà Lan, nhưng chúng tôi vẫn chưa có thông tin nào.

(4) Nguyên văn là lieue, tiếng Anh là league, tiếng Tây Ban Nha là leguas, là đơn vị đo chiều dài thời xưa ở châu Âu, có giá trị khác nhau tùy theo quốc gia, nhưng dao động từ 4 km đến 5,556 km. Chúng tôi dịch là dặm lớn để phân biệt với đơn vị thông dụng hiện hành là mile thường được dịch là dặm.

(5) Tiếng Bồ Đào Nha gọi là Cinco Chagas, tiếng Tây Ban Nha là Cinco Llagas nghĩa là Năm Vết thương, là tên gọi của Vũng Tàu ngày nay, là sự liên tưởng tới các vết thương của Chúa Jesus bị đóng đinh trên thập tự. Từ đó người Hà Lan gọi là Cinke ’t Jaeges, người Pháp gọi là Saint-Jacques và người Anh gọi là Saint-James (Cabaton A. 1919, tr. 608).

(6) Trong bản rút gọn năm 1814, R. Kerr thêm vào sau chữ Cambodia cụm từ “otherwise called the Japanese river” nghĩa là “còn được gọi là sông Nhật Bản”.

(7) Các bản tiếng Anh (1704) và tiếng Pháp (1727) của sách của Careri ghi là Caranguejo. Bản tiếng Anh có thêm chú thích là Crab (Con Cua).

(8) Cũng như nhiều địa danh khác ở phương Đông, nhiều tác giả phương Tây đã “tam sao thất bổn” tên con sông này: bản đồ của Pieter Mortier xuất bản ở Amsterdam 1700 viết là Onbequame, bản đồ của Herman Moll (1717) viết Oubequaume, Fenning D., Collyer J, & others (1766) viết là Occbequane, Payne J (1793) viết Ochequane, bản đồ Laurie & Whittle năm 1794 viết là Oubequam nhưng năm 1802 lại viết là Ubequam, A. Rees viết Oubequame (quyển 6, 1819 và Oubequeme, quyển 23, 1819), Maiseau (1833) viết là Oubequam, Pallu (1864) viết là Umbéquamme

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Twitter picture

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Twitter Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s