Orchard – Chiến dịch Israel “xóa sổ” lò phản ứng hạt nhân Syria

Long Phan

Thực ra, trong nhiều năm trước khi triển khai Chiến dịch Orchard, Mỹ và Israel đều rất lo ngại về tham vọng hạt nhân của Syria. Trong thập niên 1990, Tổng thống Haez Assad (cha của ông Bashar al-Assad) đã có nỗ lực mua các lò phản ứng hạt nhân từ Argentina và Nga, nhưng mọi kế hoạch giao dịch đều bị Mỹ ngăn cản. Sau khi ông Bashar Al Assad lên nắm quyền ở Syria vào năm 2001, mối quan hệ giữa Damascus và Bình Nhưỡng đã phát triển mạnh. Ông Assad đã có chuyến thăm thường xuyên tới Triều Tiên. Aman – Cơ quan Tình báo Quân sự của Israel – nhận thấy điều đáng ngờ đó, đã mật báo cho Mossad nhưng bị phủ nhận. Cuối năm 2004, Cơ quan tình báo Mỹ CIA cho biết, có nhiều cuộc gọi giữa Triều Tiên và Syria liên quan đến một địa điểm sa mạc có tên là al-Kibar, khiến giới chức Mossad mất ngủ. Đơn vị 8200 – tình báo và giải mã tín hiệu của Israel – đã thêm vị trí này vào danh sách theo dõi của mình.

Giai đoạn đầu của Chiến dịch Orchard bắt đầu khi Mossad tăng cường hoạt động ở Triều Tiên. Họ cũng đã thuê một nữ đặc vụ và dùng kế mỹ nhân bẫy thành công một nhà khoa học người Syria; các điệp viên Mossad đã mở khóa cửa và đột nhập căn phòng anh ta ở. Từ máy tính xách tay của “con mồi” hoàn toàn không được bảo vệ, họ chuyển tất cả dữ liệu sang đĩa cứng mà không tốn nhiều thời gian. Dữ liệu ngay lập tức được gửi đến Trưởng bộ phận Mossad tại Tel Aviv lúc đó là Meir Dagan. Mossad đã bị sốc mạnh khi biết dữ liệu liên quan đến chương trình hạt nhân. Theo thông tin từ Mossad, cơ sở ở Deir al-Zor được xây dựng vào khoảng năm 2002 và trở thành lò phản ứng hạt nhân từ năm 2004. Theo nhà báo Israel Ronen Bergman của nhật báo Yedioth Ahronoth, những chuyên gia liên quan đến chương trình hạt nhân bí mật của Syria liên lạc với nhau qua những phong bì niêm phong cẩn mật được chuyển giao bởi mạng lưới giao liên đặc biệt nhằm mục đích phòng ngừa khả năng lộ tẩy từ máy tính hay Internet. Trong khi đó, Mossad có trong tay 10 hình ảnh chụp bên trong cơ sở ở Deir al-Zor cho thấy đó là lò phản ứng hạt nhân plutonum.

Dagan ngay lập tức ra lệnh cho trạm vũ trụ của Israel chụp ảnh. Mossad đã bị choáng khi nhìn thấy một tòa nhà biệt lập và hệ thống thông tin liên lạc xung quanh nó; đã xác nhận sự tồn tại của chương trình hạt nhân đang hoạt động ở Al-Kibar. Vì Syria là một trong những quốc gia thề loại bỏ Israel khỏi bản đồ thế giới và coi đây là một mối đe dọa nghiêm trọng, Dagan đã báo cáo lên Thủ tướng của họ khi đó là Ehud Olmert. Ý tưởng táo bạo liên quan đến hành động của Thủ tướng tiền nhiệm Menachem Begin bất chợt nảy sinh trong đầu Olmert. Năm 1981, Begin quyết định tấn công lò phản ứng hạt nhân Osirak ở Iraq với lý do Israel không cho phép một quốc gia thù địch trang bị sức mạnh hạt nhân. Đó là lúc Chiến dịch Orchard được hình thành.

Vào tháng 12/2006, một quan chức hàng đầu của Syria đã đến London dưới một cái tên giả. Mossad đã cử ít nhất mười điệp viên bí mật đến London, chia thành ba nhóm – một nhóm được cử đến sân bay Heathrow để xác nhận đối tượng đến, nhóm thứ hai để đặt phòng cùng khách sạn của đối tượng, và nhóm thứ ba để theo dõi di chuyển của đối tượng. Một số đặc vụ đến từ Đội Kidon, chuyên thực hiện các vụ ám sát và Đội Negev, chuyên đột nhập vào nhà, đại sứ quán và phòng khách sạn để cài đặt thiết bị nghe trộm. Trong ngày đầu tiên của chuyến thăm, đối tượng đã đến Đại sứ quán Syria, sau đó đi mua sắm. Các đặc nhiệm Kidon theo sát đối tượng, trong khi các đặc nhiệm Negev đột nhập vào phòng khách sạn của đối tượng, tìm máy tính xách tay của ông ta, sau đó đã cài đặt phần mềm cho phép Mossad theo dõi các hoạt động của anh ta trên máy tính. Tại trụ sở Mossad, các quan chức đã tìm thấy bản thiết kế và hàng trăm bức ảnh về cơ sở Kibar trong các giai đoạn xây dựng khác nhau, cùng thư từ và một bức ảnh quan chức hạt nhân Triều Tiên Chon Chibu gặp gỡ Ibrahim Othman – Giám đốc cơ quan năng lượng nguyên tử của Syria.

Mặc dù ban đầu đã lên kế hoạch giết quan chức Syria ở London, nhưng Mossad đã quyết định tha mạng cho ông ta. Được báo cáo, Thủ tướng Israel Olmert đã thành lập một hội đồng gồm ba thành viên đặc trách về chương trình hạt nhân của Syria. Sáu tháng sau, Chuẩn tướng Ya’akov Amidror – một trong những thành viên của hội đồng, thông báo với Olmert rằng Syria đang làm việc với Triều Tiên và Iran về một cơ sở hạt nhân. Iran đã đầu tư 1 tỷ USD cho dự án và có kế hoạch sử dụng cơ sở Kibar để thay thế các cơ sở của Iran nếu Iran không thể hoàn thành chương trình làm giàu uranium của mình. Cuối năm 2006, Israel bắt đầu nhận được thông tin về sự tiếp tục hoạt động liên quan đến hạt nhân ở khu vực miền Bắc Syria.

Đầu tháng 3/2007, Giám đốc Cơ quan năng lượng nguyên tử Syria Ibrahim Othman tham dự một hội nghị của Cơ quan Năng lượng nguyên tử Quốc tế (IAEA) ở thành phố Vienna nước Áo. Vào một ngày trong thời gian diễn ra hội nghị, Ibrahim Othman đột nhiên rời khỏi căn hộ đang lưu trú và không hiểu tại sao ông không mang theo bên mình chiếc laptop cá nhân. Chộp cơ hội, một nhóm điệp viên Mossad đột nhập căn hộ và sao chép toàn bộ tài liệu chứa trong laptop, cài đặt phần mềm kiểm soát thiết bị từ xa rồi nhanh chóng rời di. Sau khi phát hiện ra cơ sở al-Kibar, bằng mọi cách, giới chức Israel muốn biết lò phản ứng hạt nhân đã được xây dựng hoàn thành chưa và có trong tình trạng hoạt động? Và điều đầu tiên xuất hiện trong đầu họ là Sayeret Matkal – đơn vị đặc nhiệm tinh nhuệ của Israel. Giai đoạn thứ hai của Chiến dịch Orchard bắt đầu khi Mossad ra lệnh cho Sayeret Matkal lấy nước và mẫu đất bên ngoài lò phản ứng để quyết định liệu lò phản ứng có thể phá hủy được hay không. Biệt kích Sayeret Matkal đã sử dụng ba trực thăng Sikorsky CH-53 có khả năng bay ở độ cao rất thấp và không gây ồn, lấy mẫu nước và đất bên ngoài lò phản ứng của Syria.

Mẫu đã được gửi đến trung tâm thử nghiệm hạt nhân của Israel và may mắn thay, cơ sở của Syria không hoạt động hoàn toàn. Mossad chỉ còn lại lựa chọn duy nhất là “Hành động, hoặc Chết” và họ phải chọn phá hủy lò phản ứng. Đối với hành động này, họ đã sử dụng các máy bay chiến đấu nổi tiếng và giàu kinh nghiệm (loại máy bay phản lực được sử dụng để phá hủy lò phản ứng hạt nhân của Iraq dưới thời Saddam Hussein) của Không quân Israel – Phi đội 69 “Hammers”. Sứ mệnh do Bộ trưởng Quốc phòng Israel Ehud Barak “trực tiếp chỉ đạo”. Quyết định bí mật tấn công hủy diệt lò phản ứng hạt nhân được Thủ tướng Israel Ehud Olmert đưa ra nhưng vẫn chưa xác định chính thức thời gian triển khai.

Hai tháng trước cuộc tấn công, Israel đã phóng vệ tinh do thám Ofek-7 vào không gian, được định vị địa lý để theo dõi hoạt động tại khu phức hợp. Các phi công của Không quân Israel tham gia hoạt động đã được đích thân Tướng Eliezer Shkedy – Tư lệnh Không quân Israel – lựa chọn. Shkedy đã chọn những phi công có kỹ năng bay phù hợp với mình. Họ bắt đầu huấn luyện nhiều tuần trước cuộc đột kích để bắn trúng mục tiêu nhỏ ở góc nghiêng ba mươi độ, trên sa mạc Negev vào ban đêm. Các phi công không được biết mục tiêu cho đến khi được Shkedy thông báo ngắn gọn trước khi chiến dịch bắt đầu. Trong cuộc họp giao nhiệm vụ, Shkedy đảm bảo với các phi công rằng hệ thống phòng không của Syria sẽ bị nhiễu, và cảnh báo họ rằng không có quả bom nào được rơi xuống khu dân cư.

Vào giữa tháng 4/2007, ông Ehud Olmert quyết định “cập nhật” thông tin cho Washington đồng thời đề xuất kế hoạch ném bom và muốn Mỹ tham gia. Đầu tiên, Bộ trưởng Quốc phòng Israel Amir Peretz mở cuộc họp kín với đối tác Mỹ Robert Gates khi người này đến Israel. Ngay sau đó, ông Meir Dagan được phái đến Washington cùng với 2 trợ lý của Olmert – Yoram Turbowicz và Shalom Turgeman – với nhiệm vụ báo cáo tình hình khẩn cấp với Giám đốc Cục Tình báo Trung ương Mỹ (CIA) Michael Hayden, Phó tổng thống Richard Cheney và Cố vấn An ninh Quốc gia Stephen Hadley. Tất cả đều bất ngờ sau khi xem những bức ảnh về lò phản ứng hạt nhân ở Syria mà Meir Dagan đưa ra. Ngay lập tức, họ nhận được lệnh từ Tổng thống George Bush xác minh tính chân thực của những bức ảnh cũng như báo cáo của Israel. Trong khi đó, giới chức CIA cũng chỉ định một đội chuyên gia đặc biệt nghiên cứu vấn đề và những bức ảnh được đem đối chiếu với mọi hình ảnh do vệ tinh cung cấp. Không dừng lại ở đó, Cục Tình báo Địa-Không gian Mỹ (NGA) và các chuyên gia hạt nhân cũng được huy động để thẩm định những bức ảnh do Israel cung cấp. Một nguồn của Mỹ viết: “Nếu như đó không phải là lò phản ứng hạt nhân thì dám chắc nó là bản mô phỏng”. Tuy nhiên, người Mỹ vẫn có thái độ chần chừ chưa biết có nên hành động theo yêu cầu từ Israel hay không.

Trước mắt thấy cần thiết phải tiến hành chiến dịch ngoại giao cho nên Cố vấn An ninh Quốc gia Stephen Hadley liền triệu tập một ủy ban bao gồm: hai cấp phó của ông là Elliott Abrams và James Jeffrey; ông Eric Edelman, chuyên gia về các vấn đề Trung Đông thuộc Bộ Ngoại giao; trợ lý của Bộ trưởng Quốc phòng Robert Gates và cựu Đại sứ Mỹ ở Thổ Nhĩ Kỳ. Nội dung những cuộc họp kín của ủy ban không được tiết lộ với bất cứ ai, các email trao đổi giữa họ với nhau được giữ bí mật tuyệt đối và bất cứ tài liệu nào cũng bị cấm đưa ra khỏi phòng tình huống ở Nhà Trắng. Một vài thành viên ủy ban có vẻ hoài nghi về sự thành công của chiến dịch ngoại giao và tin rằng Tổng thống Syria al-Assad sẽ cố gắng tranh thủ thời gian để lò phản ứng hạt nhân ở Deir al-Zor không bị cản trở giữa chừng.

Thực ra, có 2 lý do chính khiến cho Washington không dám quyết định mở chiến dịch tấn công Syria. Thứ nhất, Washington sợ phản ứng mạnh từ người dân Mỹ vốn đã chán ngấy sự can thiệp quân sự của nước này ở Trung Đông. Thứ hai, Washington phải giải quyết hai sáng kiến quốc tế của Bộ trưởng Ngoại giao lúc đó là bà Condoleezza Rice có thể cản trở cuộc tấn công lò phản ứng của Syria – đó là những cuộc đàm phán của các cường quốc với Triều Tiên về chương trình hạt nhân nước này và một hội nghị Trung Đông sắp được tổ chức ở thành phố Annapolis bang Maryland.

Ngày 19/6/2007, Thủ tướng Israel Ehud Olmert chính thức gặp Tổng thống Bush để tiếp tục bàn luận về vấn đề lò phản ứng hạt nhân của Syria. Nhưng, ông Bush vẫn tiếp tục tỏ thái độ do dự đồng thời nghi ngờ giá trị thông tin của Israel. Ngày 13/7/2007, Tổng thống Bush trao đổi với Thủ tướng Olmert rằng nếu Mỹ muốn ném bom lò phản ứng thì chính phủ cần giải thích với Quốc hội rằng thông tin tình báo đến từ Israel. Nhưng, ông Olmert – người luôn cam kết thông tin của Mossad rất đáng tin – lập tức bác bỏ sự lựa chọn này của ông Bush. Về sau, Phó Cố vấn An ninh Quốc gia Elliott Abrams tiết lộ câu nói cương quyết của ông Olmert: “Nếu các ông không ném bom thì chúng tôi sẽ làm điều đó. Đó là tất cả những gì mà tôi muốn nói với các ông”.

Ngay sau nửa đêm ngày 5/9/2007, các lực lượng Israel đã tấn công để vô hiệu hóa hệ thống phòng không Syria. 10 máy bay chiến đấu F-15I Ra’am của Israel thuộc Phi đội 69 của Không quân Israel được trang bị bom dẫn đường bằng laser, tên lửa AGM-65 Maverick và thùng nhiên liệu bên ngoài; được hộ tống bởi máy bay chiến đấu F-16I Sufa và một số máy bay ELINT, cất cánh từ căn cứ không quân Ramat David. Ba trong số những chiếc F-15 đã được lệnh quay trở lại căn cứ, trong khi bảy chiếc còn lại tiếp tục hướng về Syria, ít nhất bốn máy bay trong số này đã bay vào không phận Syria. Không quân Israel đã phá hủy một trạm radar của Syria ở Tall al-Abuad bằng bom chính xác thông thường, tấn công điện tử và gây nhiễu. Một đội biệt kích tinh nhuệ của lực lượng đặc biệt Shaldag của Israel đã đến địa điểm một ngày trước đó để họ có thể đánh dấu mục tiêu bằng máy chỉ định laser, trong khi một báo cáo sau đó xác định các biệt kích của lực lượng đặc biệt Sayeret Matkal có liên quan. Máy bay phi đội 69 đột nhập không phận Syria và ngay lập tức phát hiện ra lò phản ứng Al-Kibar vùng Deir ez-Zor, phá hủy nó bằng 1,5 tấn thuốc nổ.

Ngay sau vụ tấn công, Thủ tướng Israel Ehud Olmert đã gọi điện cho Thủ tướng Thổ Nhĩ Kỳ lúc đó là Erdogan, giải thích tình hình và yêu cầu ông chuyển một thông điệp tới Tổng thống Syria Bashar al-Assad rằng, Israel sẽ không khoan nhượng với một nhà máy hạt nhân khác, nhưng không có hành động nào khác đã được lên kế hoạch; rằng, Israel không muốn ngụy tạo vụ việc và vẫn quan tâm đến hòa bình với Syria, đồng thời nói thêm rằng, nếu Assad chọn không thu hút sự chú ý vào vụ việc, ông ấy cũng sẽ làm như vậy. Trong một bức thư gửi cho Tổng thư ký Liên Hợp Quốc Ban Ki-moon, Syria đã gọi vụ xâm nhập là “sự xâm phạm không phận của Syria”, cáo buộc cộng đồng quốc tế phớt lờ các hành động của Israel. Nước này đã không yêu cầu một cuộc họp của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc và Pháp, vào thời điểm Chủ tịch Hội đồng Bảo an, không nhận được thư từ Syria. Sau vụ việc, theo nguồn tin từ WikiLeaks, Syria đã đặt các tên lửa tầm xa trang bị đầu đạn hóa học trong tình trạng báo động cao sau vụ tấn công nhưng không trả đũa, vì lo ngại Israel sẽ phản công hạt nhân.

Các quan chức cấp cao của Mỹ sau đó tuyên bố rằng họ không tham gia hoặc chấp thuận cuộc tấn công, nhưng đã được thông báo trước. Trong cuốn hồi ký của mình, Tổng thống George W. Bush viết rằng Thủ tướng Olmert đã yêu cầu Mỹ ném bom vào khu vực Syria, nhưng ông từ chối, nói rằng thông tin tình báo không rõ ràng liệu nhà máy có nằm trong chương trình vũ khí hạt nhân hay không. Bush tuyên bố rằng Olmert đã không yêu cầu bật đèn xanh cho một cuộc tấn công và ông ta cũng không đưa ra lời khuyên nào, nhưng Olmert đã hành động một mình và làm những gì ông ta nghĩ là cần thiết để bảo vệ Israel. Mặc dù không nắm được chứng cứ rõ ràng trong tay, song IAEA vẫn yêu cầu được thanh tra 3 cơ sở hạt nhân khác do nghi ngờ có mối liên quan đến al-Kibar, nhất là cơ sở làm giàu uranium Marj al-Sultan nằm ở cách Damascus 15 km về phía bắc. Tuy nhiên, chính quyền Syria thẳng thừng từ chối, cho rằng đó là “tin đồn không có cơ sở”. Trong cuộc phỏng vấn của tờ báo Đức Der Spiegel năm 2009, Tổng thống Basar al-Assad đã kiên quyết phủ nhận tham vọng hạt nhân của mình: “Chúng tôi muốn một Trung Đông không vũ khí hạt nhân, bao gồm cả Israel”.

Triều Tiên lên án mạnh mẽ hành động của Israel, coi “đây là một hành động khiêu khích rất nguy hiểm, vi phạm chủ quyền của Syria và quấy rối nghiêm trọng hòa bình và an ninh khu vực”. Không có chính phủ Arab nào ngoài Syria chính thức bình luận về vụ việc ngày 6/9/2007, tuần báo Al-Ahram của Ai Cập gọi đó là “sự im lặng đồng bộ của thế giới Arab. Một cuộc điều tra của Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) đã cho thấy bằng chứng về uranium và graphite và kết luận rằng địa điểm này có các đặc điểm giống một lò phản ứng hạt nhân chưa được khai báo. Tháng 4/2011, IAEA chính thức xác nhận rằng địa điểm này là một lò phản ứng hạt nhân.

Sau vụ tấn công phá hủy lò phản ứng, điều duy nhất còn lại khiến Meir Dagan bận tâm là, Syria đã làm cách nào để chế tạo hạt nhân một cách tuyệt đối bí mật? Sau rất nhiều nghiên cứu, Mossad nhận thấy người đứng sau thành công này chính là Tướng Syria Mohammed Suleiman. Mossad báo cáo với Thủ tướng Olmert rằng, Syria sẽ có thể xây dựng một lò phản ứng hạt nhân hoạt động hoàn chỉnh nếu Tướng Suleiman còn sống.

Vì vậy, nhiệm vụ cuối cùng của Mossad là ám sát kẻ đứng sau chương trình đó, và Mossad đã ra tay bằng lực lượng khét tiếng nhất của họ – Kidon (một số nguồn tin cho đó là đơn vị Shayetet 13). Kidon là một trong những đơn vị ám sát tàn nhẫn nhất trên thế giới, không dung tha bất cứ kẻ thù nào của Israel. Năm 2008, thu được thông tin tình báo rằng, Suleiman sẽ về thăm quê ở Tartous và có một cuộc gặp gỡ nhỏ, Mossad và Kidon đã chuẩn bị cho việc này.

Họ gửi những xạ thủ bắn tỉa giỏi nhất của Kidon đến Tartus. Các tay súng bắn tỉa đã thực hiện một cuộc lặn cùng bình khí, tìm cách vào gần bờ và phục chờ thời điểm thích hợp. Ngày 1/8/2008, vào khoảng 18h00 giờ địa phương, các tay súng bắn tỉa nhắm mục tiêu và bắn trúng Suleiman khi ông đang dùng bữa tối trong căn biệt thự ở khu nghỉ dưỡng bãi biển Rimal al Zahabiya (Cát vàng) hai viên, một vào ngực và một vào cổ. Sau khi xong việc, nhóm biệt kích Israel lặng lẽ thoát ra hướng biển. Trong khi giới chức Israel chưa bao giờ lên tiếng về vụ việc, hồ sơ mật của Cơ quan An ninh Quốc gia Mỹ (NSA) do Edward Snowden cung cấp khẳng định chính lực lượng ám sát đặc biệt của Israel thực hiện nhiệm vụ này. Chiến dịch Orchard được đánh giá là thành công, Mossad đã sử dụng lực lượng lục quân, không quân và Kidon để kết liễu mối đe dọa đối với họ theo cách bất ngờ và hiệu quả nhất. Sự dính líu của Israel trong vụ ám sát tướng Suleiman dẫn đến câu hỏi về mục đích giết người cũng như việc Israel đã vi phạm luật quốc tế khi thực hiện chiến dịch ám sát như thế nào. Bà Mary Ellen O’Connell, giáo sư Khoa Luật quốc tế Đại học Notre Dame (Mỹ), phân tích: Người Israel có lẽ có lý do chính đáng để giết Suleiman. Song, theo luật quốc tế về chiến tranh thì rõ ràng là vào năm 2008 ở Syria không có xảy ra xung đột vũ trang cho nên người Israel không có quyền ám sát tướng Suleiman.

Chính quyền Tổng thống Bashar al-Assad giữ bí mật thông tin về vụ ám sát tướng Suleiman 4 ngày trước khi có thông báo chính thức. Ngay sau đó, người Israel không phủ nhận hay khẳng định sự liên quan của họ. Năm 2011, Wikileaks tiết lộ tình báo Pháp tin rằng Suleiman bị ám sát do cuộc chiến tranh giành quyền lực đẫm máu trong nội bộ chính quyền Syria. Đây được coi là 2 giả thuyết hàng đầu về cái chết bí ẩn của tướng Muhammad Suleiman. Đến năm 2014, lãnh đạo tổ chức Hez.bol.lah Hassan Nasrallah tiết lộ với giới báo chí rằng Suleiman bị ám sát do dính líu vào cuộc chiến tranh tháng 7/2006 giữa Israel và Hezbollah.

Vụ ám sát Suleiman diễn ra chưa đầy 6 tháng sau chiến dịch phối hợp giữa Cục Tình báo trung ương Mỹ (CIA) và Tình báo Mossad của Israel giết chết Imad Mughniyeh – thủ lĩnh quân sự tối cao của Hez.bol.lah – ngay giữa thủ đô Damascus của Syria. Từ lâu, CIA đã coi Mughniyeh có vai trò trong các vụ tấn công khủ.ng b.ố chống người Mỹ, trong đó có vụ đánh bom doanh trại lính thủy đánh bộ Mỹ năm 1983 ở thủ đô Beirut của Lebanon giết chết 241 người. Sau 2 mục tiêu hàng đầu này trong danh sách ám sát của Israel còn có 3 nhân vật tiếp theo bao gồm tướng Hassan Tehrani Moghaddam, lãnh đạo chương trình phát triển tên lửa cho lực lượng Vệ binh Cách mạng Hồi giáo Iran (IRGC) và cung cấp tên lửa cho Hez.bol.lah, Ha.mas cũng như Thánh chiến Hồi giáo Pa.les.tine. Thứ hai là Mahmoud al-Mabhouh, quan chức Ha.mas chịu trách nhiệm xây dựng mối quan hệ chiến thuật với Iran; và cuối cùng là Hassan Lakkis (hồ sơ Cục Điều tra liên bang Mỹ – FBI – gọi là Haj Hassan Hilu Laquis). Theo hồ sơ mật Bộ Ngoại giao Mỹ được Wikileaks tiết lộ, cuộc điều tra cái chết của Suleiman dẫn đến việc chính quyền Syria tình cờ tìm thấy số tiền mặt khổng lồ 80 triệu USD trong căn nhà của ông. Phát hiện bất ngờ đã gây sốc cho Tổng thống Bashar al-Assad.


Nguồn:

https://amp.cand.com.vn/…/ho-so-chien-dich-orchard-cua…/

https://vov.vn/…/orchard-chien-dich-israel-xoa-so-lo…

https://www.google.com/…/ho-so-nsa-tiet-lo-biet-kich…

Hình : Ehud Olmert, Thủ tướng Israel.

         : Lò phản ứng hạt nhân.

          : Sơ đồ đường bay của không quân Israel trong chiến dịch.

          : Tướng Mohammed Suleiman của Syria.

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s