Lịch sử chính trị Liberia bắt đầu vào năm 1822, khi người Mỹ gốc phi châu đến sống tại đậy dưới sự bảo trợ của Hiệp Hội thuộc địa Mỹ.
Hiệp hội Thực dân Mỹ được Robert Finley, một người Mỹ, thành lập vào năm 1816, để đưa những nô lệ người Mỹ gốc Phi được trả tự do trở về châu Phi. Năm 1820, những nô lệ đầu tiên đã từ Mỹ đến thuộc địa Sierra Leone của Anh, và vào năm 1821, hiệp hội đã thành lập thuộc địa Liberia nằm ở phía nam Sierra Leone với mong muốn biến nó thành một quê hương mới cho các cựu nô lệ, nằm ngoài chủ quyền của Anh.
Năm 1847 người Liberia gốc Mỹ tuyên bố Cộng hòa Liberia độc lập. Họ coi vùng đất mà xưa kia tổ tiên họ đã bị bắt bán làm nô lệ sang châu Mỹ là “đất hứa”, nhưng họ không cố ý tái hội nhập vào xã hội và trong mô thức bộ tộc phi châu.
Dưới áp lực của Anh, Mỹ dù không muốn nhưng đã phải chấp nhận chủ quyền của Liberia, biến quốc gia Tây Phi trở thành nước cộng hòa dân chủ đầu tiên trong lịch sử châu Phi. Một hiến pháp mô phỏng theo Hiến pháp Hoa Kỳ được phê chuẩn, và vào năm 1848, Joseph Jenkins Roberts đã được bầu làm tổng thống đầu tiên của Liberia.
Họ tự coi mình là “người Mỹ” và cũng được nhìn nhận như thế bởi các bộ tộc địa phương và chính quyền thuộc địa Anh quốc của nước Sierra Leone láng giềng. Họ lấy tên nước là Liberia để cố ý ảm chỉ họ là “những người tự do”. Tâm thức này khiến cho họ có cung cách coi người thuộc các bộ lạc là “kém cỏi” hơn họ, tuy vùng đất mà họ chiếm đóng rất nhỏ hẹp. Việc thành lập nước Liberia được các nhà hảo tâm và tôn giáo Mỹ tài trợ, với sự cộng tác chính thức của chính quyền Hoa Kỳ. Do đó mô thửc chính trị của Liberia cũng rập khuôn theo mô thức của Hoa Kỳ.
Cộng hòa Liberia nằm trong vùng Tây Phi châu, rộng 11.370 cây số vuông, có khoảng 3.5 triệu dân, gồm người da đen Sudan và nhiều bộ lạc khác nhau như: Kpelle, Bassa, Gio, Krumen, Grebbo, Mano, Krahn, Gola, Gbandi, Mende, Mangingo và Viau. 43.6% tổng số dân của Liberia là người trẻ dưới 14 tuổi, 52.8% là người lớn từ 14 tới 64 tuổi, và 3.7% là người già từ 65 tuổi trở lên. Về phương diện tôn giáo 66% tổng số dân Liberia theo Kitô giáo, nhất là Tin Lành. Hồi giáo chiếm 15%, còn lại 19% theo đạo thờ vật linh. Ngoài tiếng Anh là ngôn ngữ chính thức trong nước, người dân Liberia còn nói tiếng Mande, Gola và Kpelle.
Vào năm 1926, và đặc biệt trong thời Ðệ Nhị Thế Chiến, Hoa Kỳ đã trợ giúp kinh tế và kỹ thuật giúp Liberia phát triển mạnh. Năm 1980 một nhóm hạ sĩ quan của quân đội bộ tộc do Samuel Kanyon Doe lãnh đạo, nổi lên đảo chánh và xử tử tổng thống William Tolbert ngay trong dinh của ông. Họ thành lập Hội đồng nhân dân cứu quốc, rồi lên nắm quyền và thi hành chính sách độc tài, đóng cửa báo chí, cấm các đảng phái đối lập hoạt động, và và tổ chức trưng cầu dân ý.
Chính sách cai trị độc tài ấy khiến cho cuộc nội chiến bùng nổ lần đầu tiên năm 1989 và năm sau đó tổng thống Doe bị giết chết bởi các lực lưng của “Mặt trận ái quốc quốc gia độc lập”, do ông Yormie Johnson lãnh đạo cùng với nhiều thành phần của bộ lạc Gio. Như điều kiện chấm dứt nội chiến, năm 1994 ông Amos Sawyer, quyền tổng thống, phải từ chức và nhường quyền cho Hội đồng lãnh đạo quốc gia. Sau đó từ địa vị của một “ông chúa chiến tranh” Charles Taylor được bầu làm tổng thống năm 1997, nhưng chính sách cai trị tàn ác và độc tài của ông đã gây ra rất nhiều bất mãn và khiến cho đảng đối lập gặp rất nhiều khó khăn. Một trong các tội của ông Taylor là bắt cóc trẻ em và biến chúng thành chiến binh.
Năm 1999 cuộc nổi loạn của các bộ tộc khiến cho Liberia lâm cảnh nội chiến lần thứ hai kéo dài cho tới năm 2003, làm cho 250.000 dân thiệt mạng. Tháng 8 năm 2003, qua trung gian của nước Ghana, các thỏa hiệp hòa bình ký kết tại Accra chấm dứt 14 năm nội chiến. Tổng thổng Charles Taylor bị bắt buộc chấp nhận sống lưu vong bên Nigeria.
Với các cuộc bầu cử năm 2005 bà Ellen Johnson Sirleaf lên làm tổng thống thay thế ông Gyude Bryant. Bà là nữ tổng thống đầu tiên của toàn đại lục Phi châu.
—
(tổng hợp)