Đoàn Hưng Quốc
Nuôi dưỡng nền dân chủ giống như kẻ trồng cây: khi còn là hạt giống phải chống đỡ quạ tha gà mổ; cây còn non trẻ cần ngăn ngừa sâu bọ; đến lúc trưởng thành già nua phải chặt bớt những cành lớn không thì một cơn bão lớn sẽ làm đổ ngã thân cây.
Nền dân chủ non trẻ tại Phi Luật Tân bị đe dọa trở lại độc tài. Dân chủ ở Mỹ trưởng thành lâu đời nay lại nảy sinh ra dấu hiệu già nua thoái hóa thành một hình dạng gì chưa nhận biết được.
Churchill từng nói “Dân Chủ là mô hình nhà nước tệ hại nhất nhưng tất cả các mô hình nhà nước khác đều đã được thử qua.” Cho đến giờ này Churchill vẫn đúng, nhưng mọi sinh hoạt xã hội và con người đều không tránh được định luật của Tạo Hóa là sanh, lão, bệnh, tử. Nền dân chủ lâu đời ở Hoa Kỳ hiện đang đối diện với những vấn nạn sống còn, liệu nó có thể tự cách mạng hóa để trở thành một nhà nước trẻ trung đương đầu với thử thách, hay sẽ kéo dài tình trạng trì trệ do hai phe tả và hữu tranh giành quyền lợi để rơi vào suy thoái trong thế kỷ 21?
Nhưng cần phân biệt giữa ý thức và chế độ. Athens giờ này chỉ còn là một đống gạch vụn nhưng tư tưởng dân chủ vốn bắt nguồn từ Athens lớn mạnh hơn bao giờ hết. Đế quốc La Mã đã tan rã 1800 năm trước nhưng tổ chức hành chánh và luật pháp của La Mã vẫn còn là nền tảng cho xã hội ngày nay. Nếu một ngày nào đó nước Mỹ không còn là cường quốc hàng đầu, hay Hoa Kỳ quay mặt tự cô lập như đã từng làm sau Thế Chiến Thứ Nhất thì những tư tưởng dân chủ, nhân quyền, bình đẳng, v.v… sẽ không vì đó mà mai một. Thế giới không thể dựa mãi vào nước Mỹ để duy trì dân chủ và trật tự quốc tế, và ngược lại Hoa Kỳ cũng không thể phung phí nhân vật lực để áp đặt dân chủ hay đi bảo vệ những nước khác trong khi không tự lo cho mình trước nhất.
Chính quyền Hoa Kỳ do dân Mỹ bầu lên chớ không phải của công dân quốc tế, nên trách nhiệm đầu tiên phải bảo vệ quyền lợi của dân Mỹ và nền dân chủ của Hoa Kỳ. Vị Tổng Thống đời thứ sáu John Quincy Adams từng cảnh giác đất nước đừng hung hăng đi tìm diệt những con quái vật bên ngoài châu Mỹ (“She goes not abroad in search of monsters to destroy”), câu này áp dụng ngày nay khi Hoa Kỳ bị chia rẽ sâu xa nội bộ do 50% dân Mỹ bất mãn vì đời sống không thăng tiến mà còn thụt lùi trong 30 năm kể từ ngày toàn cầu hóa. Hoa Kỳ phung phí hàng triệu tỷ đô-la vào các cuộc chiến ở Trung Đông và để bảo vệ Âu Châu trong khi các nước này không tự bảo vệ chính mình.
Trong khi đó nền dân chủ trong nước Mỹ đang thoái trào. Nước Mỹ ngày nay có kiểm duyệt – không do chính quyền mà do dư luận cực đoan cánh tả – ngày nay ai bước ra đường tuyên bố bất cẩn về màu da, chủng tộc, nam nữ, giàu nghèo thì sẽ bị đuổi sở làm hay bị đánh cho tán gia bại sản. Nền dân chủ vững mạnh nhờ vào tính chính danh và các định chế nhưng ba đời Tổng Thống liên tiếp bị một thiểu số không nhỏ từ tả đến hữu tố cáo là soán ngôi: George W. Bush thắng năm 2000 nhờ vào quyết định của Tối Cao Pháp Viện trong đó đa số thẩm phán do đảng Cộng Hòa đề cử; Obama bị ám ảnh dai dẳng bởi tin đồn không sinh ra ở Mỹ; Trump thắng nhờ vào lá phiếu cử tri đoàn trong khi thua bà Clinton 2 triệu phiếu phổ thông. Tính chính danh của Hành Pháp bị soi mòn trong khi chỉ còn 30% dân chúng tin tưởng vào Quốc Hội. Tổng Thống không có sự hợp tác của Quốc Hội nên điều hành bằng các sắc lệnh hành chánh (executive oders), khi đổi sang đời Tổng Thống đối lập các sắc lệnh này bị hủy bỏ dễ dàng khiến chính sách nhà nước trở nên bất nhất và hổn loạn.
Tính chính danh của Đệ Tam Quyền tức Tối Cao Pháp Viện bị cánh tả bôi nhọ qua các lần đề cử thẩm phán Clarence Thomas, Neil Gorsuch và Brett Kavanaugh. Đệ Tứ Quyền hay báo chí thì truyền thông dòng chính (mainstream media) bị Trump và cánh hữu lên án như kẻ thù của quần chúng (enemy of the people) chuyên loan tin vịt (fake news) do cánh tả giựt dây. Các định chế hành chánh độc lập như cảnh sát bị chỉa mũi dùi tấn công vì xem như công cụ của đàn áp bất công.
Người viết có đọc một tam đoạn luận thú vị: “Người Việt trong và ngoài nước yêu nước phải chống Tàu. Trump chống Tàu. Người Việt trong và ngoài nước phải yêu Trump.” Nhưng một số đông ở ngoài nước ngày nay đã là người Mỹ gốc Việt thì sự trung thành (loyalty) trước hết phải dành cho nước Mỹ. Giả sử Trump chống Tàu kịch liệt nhưng kinh tế suy sụp, thất nghiệp gia tăng lại cắt trợ cấp và tiền hưu trí thì chắc người Mỹ gốc Việt cũng đều đắn đo trước khi bỏ phiếu.
Nói cách khác, vận mệnh của người Mỹ gốc Việt gắn liền với tương lai và nền dân chủ trong nước Mỹ. Nếu đảng Dân Chủ thắng cả Hành Pháp và Quốc Hội trong năm 2020 thì áp lực tiến gần đến xã hội chủ nghĩa sẽ vô cùng lớn: medicare for all (bảo hiểm sức khỏe cho mọi người), education for all (giáo dục cho mọi người), housing for all (nhà ở cho mọi người), basic income for all (lương bổng cho mọi người) – cái gì cũng for all (cho mọi người) tức là xã hội chủ nghĩa vì người dân đừng có lo để nhà nước no đủ thu tóm tài sản xã hội bằng đánh thuế triệt tiêu nhà giàu gọi là cho nhà nghèo. Ngược lại Trump tái đắc cử thì người viết không còn biết bộ mặt nước Mỹ sẽ thay đổi như thế nào trong 4 năm sắp tới.
Nhưng nước Mỹ dù thăng hay trầm, hay khi nền dân chủ của Hoa Kỳ không còn là mẫu mực thì người viết tin rằng ước vọng dân chủ trên toàn thế giới không vì thế suy mòn – cũng giống như cổ thành Athens đã để lại món quà dân chủ muôn đời cho nhân loại.
Nhận Thức Về Tự Do
Ở Mỹ không có dân chủ nhưng đối với đại đa số chỉ là chuyện đọc tin tức rồi cãi nhau trên báo chí, sách vỡ hay bàn ăn, trong cuộc sống hàng ngày vẫn đi làm, đi chơi, đi chợ mà không bị giới hạn nào. Khi nhận thức và nhu cầu về tự do dân chủ khác biệt nhau xa như vậy thì có phải là nhà giàu đứt tay bằng ăn mày đổ ruột, làm sao có thể so sánh giữa một bên đòi quyền cãi nhau rồi xé to sinh chuyện trong khi bên kia tranh đấu tìm quyền sống?
Nhiều người sẽ biện hộ rằng dân chủ là tranh luận và bất đồng ý kiến. Dù vậy cộng đồng người Mỹ gốc Việt tuy đấu đá gay gắt về Trump, màu da, di dân, giới tính v.v… nhưng chỉ trong phạm vi tiếng Việt. Giả sử vài phát biểu quá khích trong cộng đồng lại viết bằng tiếng Anh trên blog hay Facebook thì nội dung có thể gây ra bạo loạn với những cộng đồng khác dẫn đến việc hàng quán tiệm ăn bị đốt phá, hay người đi làm bị đuổi việc! Đến khi đó thì nhiều người sẽ tự kiểm duyệt giữ gìn lời ăn tiếng nói, tức là nền dân chủ đã bị sứt mẻ.
Không phải chỉ những lý luận hồ đồ hay cực đoan mới bị tấn công. Bà J.K. Rowling tác giả nổi tiếng của tập truyện Harry Potter bị đám cảnh sát tư tưởng đánh tơi bời khi thận trọng trình bày quan điểm của mình về những người chuyển giới. Tổng Biên Tập của tờ New York Times buộc phải từ chức khi cho đăng bài viết của Thượng Nghị Sĩ cánh hữu Tim Cotton về việc huy động quân đội giữ gìn an ninh trong các cuộc biểu tình đập phá gần đây. Câu nói của nhà thơ Voltaire “Tôi không đồng ý với điều bạn nói nhưng tôi sẽ bảo vệ đến chết quyền bạn được nói” ngày nay không còn áp dụng ở Hoa Kỳ (và Tây Âu) bởi vì dư luận cánh hữu hay tả sẽ đánh tơi bời một người bất đồng ý kiến cho đến thân bại danh liệt, tán gia bại sản mà không cần lắng nghe những gì họ nói. Vậy là có kiểm duyệt và khủng bố.
Trước đây cánh cấp tiến (liberals – dùng lẫn lộn với cánh tả trong nhiều bài viết) chiếm độc quyền trên báo chí và đại học, một phần vì gồm số đông những nhà trí thức. Nhưng từ ngày có Internet thì thông tin không còn lệ thuộc vào truyền thông dòng chính (mainstream media) mà nảy sinh ra thông tin dòng nghịch (alternative media) trên Facebook và Twitter. Hai dòng chính và nghịch tố cáo lẫn nhau là tung tin giả (fake news) trong cuộc chiến sống còn nhằm triệt hạ đối phương. Thí dụ đơn giản ở Cali, New York đa số dân chúng xem CNN, CNBC (dòng chính) và bầu cho đảng Dân Chủ; trong khi Texas, Oklahoma nhiều người lại theo dõi Fox News (dòng nghịch) lại bỏ phiếu cho đảng Cộng Hòa; ai phe nào thì nghe đài bên đó.
Truyền thông hướng dẫn dư luận để từ đó quyết định lá phiếu bầu cử. Chính những tranh cãi trên Twitter và Facebook là phương tiện truyền thông giúp cho Trump thắng cử năm 2016 và làm thay đổi bộ mặt chính trị nước Mỹ. Cho nên khác với mọi Tổng Thống tiền nhiệm Trump khích động chia rẽ chớ không hô hào đoàn kết, và trớ trêu thay thái độ này lại phù hợp với cả cánh tả lẫn hữu vốn chuẩn bị triệt tiêu lẫn nhau. Trump và những người ủng hộ xem cuộc bầu cử năm 2020 là cơ hội cuối cùng để đập tan những âm mưu của cánh tả, giới cấp tiến và chủ trương toàn cầu hóa vốn phá hoại những nền tảng từng xây dựng nước Mỹ vĩ đại. Ngược lại những kẻ chống Trump và phe thân Trump xem năm 2020 là cơ hội không thể đảo ngược để ngăn chận những phá hoại nền trật tự tự do toàn cầu (liberal world order), nhằm sửa đổi những tội lỗi nguyên thủy (nạn nô lệ) khi lập quốc, để triệt tiêu thành phần dân tộc chủ nghĩa và nhằm thay thế mô hình tư bản hiện giờ bằng kiểu mẫu Dân Chủ Xã Hội Bắc Âu. Cho nên ở Mỹ hiện tượng “cuồng Trump” hay “cuồng chống Trump” nên hiểu trong ý nghĩ cuộc chiến văn hóa sống còn này. Nền dân chủ Hoa Kỳ rạn nứt vì không có hòa giải giữa hai quan điểm cực đoan
Cho nên cái miệng khi nói cũng quan trọng không kém cái miệng được ăn vì làm run chuyển một chế độ.
Tính Độc Đoán Của Chủ Nghĩa Tuyệt Đối
Bà Aung Sang Suu Kyi từng được Tây Phương ca ngợì như một nữ thần tranh đấu cho tự do của dân tộc Miến Điện. Nhưng nay cũng chính Tây Phương phỉ báng cho rằng bà bênh vực nạn diệt chủng đối với người thiểu số Hồi Giáo đòi ly khai ở Rohyndia. Chính quyền Miến Điện không còn chỗ tựa nên mở lại cánh cửa cánh cửa đầu tư đón tiếp Trung Quốc.
Bà J. K. Rowling vốn được thế giới mến mộ vì là tác giả của tập sách nổi tiếng Harry Potter nhưng nay bị đánh hội đồng chỉ vì bày tỏ quan điểm về việc cải giới (transgender).
Nhiều trường hợp khác đang xảy ra cho thấy tính độc đoán của giới cấp tiến Tây Phương vốn tự cho họ sở hữu tuyệt đối (absolutism) những giá trị bó buộc (straight jacket) của nhân loại nên chống phá mọi quan điểm bất đồng. Dùng thí dụ cho dễ hiểu, giả sử một nhà tranh đấu cho Việt Nam có tự do dân chủ và toàn vẹn lãnh thổ nhưng chống đối phong trào dân tộc thiểu số đòi ly khai tự trị, hoặc không ủng hộ hôn nhân đồng tính thì cũng sẽ bị Tây Phương cô lập và triệt hạ. Bà Aung Sang Suu Kyi tranh đấu cho đa số người Miến Điện thoát khỏi ách độc tài quân phiệt và đô hộ kinh tế của Trung Quốc nhưng bị kẹt giữa đa số Phật Giáo và phong trào đòi cách ly của thiểu số Hồi Giáo. Tình trạng tương tự một ngày nào đó xảy đến cho những nhà tranh đấu Việt, Lào hay Cam Bốt thì Tây Phương lại có chọn lựa sẽ cô lập và đẩy lùi phong trào dân chủ đi trở ngược vào vòng tay của Bắc Kinh!
Tất nhiên không phải giá trị truyền thống nào cũng đúng và cần được bảo vệ. Tự Lực Văn Đoàn đã bức phá chống hủ tục như nạn mẹ chồng nàng dâu. Những người sinh ra đồng tính vẫn có quyền bình đẳng so với mọi người khác, nhưng muốn cổ võ một nền luân lý mới công nhận lối sống LGBTQ như một “chọn lựa” cần có tranh luận và tự do ngôn luận thay vì bóp chẹt những tư tưởng đối lập như cánh cấp tiến Tây Phương hiện thời.
Có lập luận cho rằng những quan điểm cực đoan cánh tả không phản ảnh thành phần cấp tiến ở Tây Phương. Nhưng rồi cũng giống như ở Việt Nam vào thập niên 50 hay 60 khi cán bộ cộng sản trà trộn giựt giây các phong trào đấu tranh dành độc lập hay tự do tôn giáo, trào lưu MeToo, Black Life Matter, dẹp bỏ tượng đài, Defund Police và Cancel Culture trở thành cơ bắp của cánh tả đe dọa quyền tự do ngôn luận nhằm áp đặt một nền văn hóa mới. Đối với một chính trị gia như ông Biden tuy trung tả nhưng lập trường dễ dàng thay đổi thì mối quan ngại sẽ “cuốn theo chiều gió” bị cánh tả cực đoan điều khiển đưa nước Mỹ vào một dạng xã hội chủ nghĩa kiểu mới về cả kinh tế và xã hội là có thể xảy ra.
Xin nói thêm về Cancel Culture – tạm dịch là nền văn hóa triệt hạ – hiện đang gây tranh luận sôi nổi trên báo chí và trong cuộc bầu cử 2020. Cho dễ hiểu, cá nhân hay cơ sở thương mại nào không ủng hộ tuyệt đối trào lưu xã hội cấp tiến đều bị đánh hội đồng triệt tiêu cho đến mức thân bại danh liệt và không còn đất sống. Bà Aung Sang Suu Kyi là một trường hợp bị “triệt”.
Cụm từ Cancel Culture chỉ mới ra đời gần đây như một hiện tượng của mạng xã hội: trẻ em không thích nhau thì “nghĩ chơi”, nay trên mạng cái gì mình ghét thì “cancel” cắt đứt liên lạc (như unfriend trên Facebook). Nhưng khác với tẩy chay (boycott) hàm ý thụ động, Cancel Culture cổ võ huy động đám đông cuồng nộ (mob) từ Twitter, Facebook, YouTube, báo chí dòng chính, khuôn viên đại học cho đến bạo loạn (riots) nhằm ném đá phá hoại thanh danh và công ăn việc làm của cá nhân hay hoạt động thương mại của doanh nghiệp. Vài trường hợp tương tự đã xảy ra tại Việt Nam hay Nam Hàn khi nhiều chê bai trên mạng xã hội khiến thanh thiếu niên tự vẫn, thì nay ở Mỹ Cancel Culture chính là cơ bắp của cánh tả kiểm duyệt quyền tự do ngôn luận bằng cách áp lực đe dọa các doanh nghiệp, giáo sư đại học, thành phần trí thức và giới trẻ sợ hãi không còn dám phát biểu ý kiến.
Như vậy ở Mỹ hiện có đám cuồng nộ cánh tả (leftist mob) chống cánh cuồng Trump cánh hữu. Tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa, chống Trump vì quan ngại độc tài cánh hữu chưa chắc đã bảo vệ tự do dân chủ mà có khi còn mang lại ách độc tài cánh tả. Chọn lựa nào cho năm 2020?
Bước Thoái Trào Của Nền Dân Chủ Toàn Cầu
Một nhận xét đáng kinh ngạc là chỉ trong vòng 4 năm 2015-19 trào lưu dân tộc chủ nghĩa và dân túy cánh hữu đồng loạt nở rộ nắm các chính quyền cử từ Đông sang Tây: Á Châu có Duterte (Phi), Hun Sen (Cam Bốt), Modi (Ấn), Erdogan (Thổ); Đông Âu gồm Viktor Orban (Hung), Law and Justice (Ba Lan); Tây Âu có Brexit (Anh), Marie Le Pen (Pháp – bà thất cử Tổng Thống nhưng hứa hẹn sẽ còn hiệp hai); Bắc Mỹ là Trump (Hoa Kỳ); Nam Mỹ gồm Obrador (Mễ) và Bolsonaro (Brazil). Trường hợp của Hun Sen, Viktor Orban, Law and Justice, Erdogan đã lãnh đạo từ trước năm 2015 nhưng chỉ ra mặt đối đầu với khối Tây Phương trong khoảng 5 năm trở lại đây.
Liệu có mối tương đồng nào giữa những nền dân chủ lâu đời (Anh, Ấn, Mỹ, Thổ), các nước vừa lật đổ chế độ cộng sản (Ba Lan, Hung), những nền dân chủ yếu ớt (Brazil, Mễ) hay non trẻ (Phi, Cam Bốt)? Có lẽ sẽ không bao giờ tìm ra câu trả lời dứt khoát, nhưng người viết xin đưa ra 5 điểm sau đây:
- Toàn cầu hóa và điện toán hóa dây chuyền sản xuất: tạo ra hố sâu giàu nghèo giữa một bên là giới trung lưu cấp thấp và công nhân thợ thuyền đánh mất công ăn việc làm khi công ăn việc làm được tự động hóa hay các nhà máy hảng xưởng di dời sang Á Châu, còn bên kia gồm những chuyên viên sống trong các đô thị lớn miền duyên hải cùng giới tinh hoa ưu tú (elite) hưỡng lợi lộc nhờ vào kiến thức chuyên môn và thương mại toàn cầu. Đây là trường hợp của Anh, Mỹ và Pháp.
- Cuộc chiến văn hóa (cultural war) chống chủ nghĩa tự do (liberalism): từ sau khi Chiến Tranh Lạnh chấm dứt chủ nghĩa tự do nhanh chóng lan tràn khắp thế giới trở thành một thứ giáo điều do giới cấp tiến Tây Phương rao giảng (và ép buộc qua các biện pháp phong tỏa kinh tế) như là xu thế của , và bao gồm 4 điểm mấu chốt: di dân (immigration), bao dung (tolerance), tính đa dạng xã hội (diversity) và bảo vệ môi trường (môi trường là một khái niệm được cánh cấp tiến ôm gồm vào chủ nghĩa tự do gần đây.)
Tình trạng di dân ồ ạt ở Âu-Mỹ đe dọa đến nếp sống và nền tảng văn minh Thiên Chúa Giáo (Christianity) của Tây Phương đã là chủ đề được Trump (Mỹ), Viktor Orban (Hung), Law and Justice (Ba Lan), Brexit (Anh) và Marie Le Pen (Pháp) khai thác.
Tính bao dung và đa dạng xã hội bị Trump (Mỹ), Viktor Orban (Hung), Law and Justice (Ba Lan), Marie Le Pen (Pháp) cáo giác làm băng hoại nền tảng Thiên Chúa Giáo (LGBTQ, phá thai, hôn nhân đồng tính) để thay thế nền văn hóa truyền thống với Hồi Giáo, vô thần và vô luân lý. Cuộc chiến văn hóa quyết định cho các giá trị Tây Phương nên số người này không chống đối Putin (Nga) dù độc tài nhưng bảo vệ nền tảng Thiên Chúa Giáo còn ít tai hại hơn so với chủ nghĩa tự do của giới cấp tiến Âu-Mỹ. Erdogan (Thổ) khoát lên màu áo Hồi Giáo. Modi (Ấn) tuy không chống Tây Phương nhưng nghiêng hẳn về Ấn Độ Giáo. Duterte (Phi) thẳng thừng sỉ vả LGBTQ và việc Tây Âu can thiệp vào nội bộ khi Phi xử bắn nghi phạm cần sa ma túy tại hiện trường mà không cần tòa án.
Trump (Mỹ) và Bolsonaro (Brazil) phản đối chủ nghĩa bảo vệ môi trường cực đoan vốn bị Trung Quốc và Ấn Độ là hai nước nhiều khí thải nhất lợi dụng trong khi làm tổn hại công ăn việc làm của dân Mỹ và Brazil.
- Một nhà nước hữu hiệu: thế giới – và dân chúng Hoa Kỳ – đều nhận thấy sự rối loạn (dysfunctional) của các chính quyền dân chủ ở Mỹ (Hành Pháp – Lập Pháp bất hợp tác) Anh (Brexit) Pháp (phong trào áo vàng) cùng thảm họa nhân loại từ Cách Mạng Hoa Nhài ở Tunisia rồi đến Ai Cập và Syria, cộng thêm cách ứng phó hổn loạn đối với đại dịch Vũ Hán của các nước Âu-Mỹ. Trong khi đó nền kinh tế Trung Quốc nhảy vọt phi thường trong suốt 30 năm, các chuyên viên Tây Phương lúc nào cũng tiên đoán sẽ sụp đổ mà nước Tàu cứ ngày thêm giàu mạnh. Không ai cho rằng Trung Quốc có dân chủ nhưng ổn định xã hội và đời sống của 700 triệu người được cải thiện chỉ trong một thời gian kỷ lục (Mô hình phát triễn Trung Quốc mang nhiều khuyết điểm trầm trọng nhưng không phải là đề tài phân tích của bài này!) Dân chủ đặt tính chính đáng (legitimacy) của nhà nước nơi bầu cử (suffrage) thay vì dựa trên việc điều hành tốt bộ máy chính quyền (good governance), nên mô hình Trung Quốc không khỏi có sức thu hút về sự cần thiết một chính quyền mạnh (đảng) với đấng minh quân (Đặng hay Tập) chọn lọc xử dụng nhân tài (meritocracy – cán bộ phối hợp với khu vực tư nhân) để cải thiện dân sinh một cách hiệu quả hơn là dân chủ.
-
Trật tự thế giới tự do (liberal world order) do Mỹ lãnh đạo từ sau Chiến Tranh Lạnh bị hai lần tổn thương khi Hoa Kỳ sa lầy thảm hại trong cuộc chiến Iraq, rồi sau đó mô hình phát triễn kiểu Mỹ (Washington consensus) làm bùng nổ khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 do thiếu kiểm soát thị trường tự do. Trump và một số đông dân chúng Mỹ ngày nay phản đối khuynh hướng quốc tế hóa (internationalism), chống Mỹ làm sen đầm quốc tế (interventionalism), chống các hợp tác quốc tế như NATO, WTO và TPP nếu bất lợi cho Hoa Kỳ. Brexit cùng Đông Âu chống EU và Brussel độc đoán. Các phong trào dân túy ở Nam Âu giận dữ đòi tách ly ra khỏi khu vực Eurozone để không bị nước Đức chèn ép.
- Đại chúng hóa thông tin: điện thoại cầm tay và mạng xã hội đã thay đổi sinh hoạt của nhân loại. Những nước như Hoa Kỳ trước đây tự do nhưng sự chọn lựa được gạn lọc chỉ trong hai hay ba quan điểm bởi giới tinh hoa: chống hay theo Walter Cronkite (đài CBS) trong chiến tranh Việt Nam; chống hay ủng hộ Martin Luther King về phong trào Dân Quyền (Civil Rights). Ngày nay ai ghét Trump thì nghe CNN; thân Trump cứ theo dõi Fox News; không thích xem Tivi lại lấy tin tức từ Facebook hay YouTube; không muốn đọc báo Mỹ cứ chọn The Economist (Anh) hay Sputnik News (Nga). Trump gọi là tin giả (fake news) nhưng trong nhiều trường hợp lại là sự thật đa chiều (alternate realities) của đám mù mò chân voi: CNN đăng tít hàng đầu về Black Live Matters và cảnh sát bắn chết người da đen; Fox News chạy hàng tít lớn về cửa hàng thương mại bị đập phá; thông tin không sai lạc nhưng từ người viết tin cho đến người đọc tin đều nhận xét theo thiên kiến chính trị của mình. Kết quả là cả hai bản tin đều nhằm khích động một thành phần độc giả, còn dân chúng tự chọn nguồn tin theo định kiến sẳn có của mình (confirmation bias). Nền dân chủ thật khó sinh hoạt trong khung cảnh ồn ào hổn loạn (cacophony) khi đám đông tụ họp lại theo nền chính trị bản sắc (identity politic – bản sắc nơi đây không giới hạn vào màu da, giới tính mà gồm những người cùng chia xẻ một quan điểm bảo thủ hay cấp tiến) để loại trừ (cancel culture) lẫn nhau mà không thể nào đạt đến sự tương nhượng và đồng thuận.
Năm điểm nói trên vô cùng phức tạp nên trường hợp của mỗi quốc gia và mỗi lãnh tụ đều có một sắc thái khác nhau. Dù vậy người viết gượng ép chia ra thành từng nhóm dù hiểu rằng nhiều độc giả có thể sẽ chê trách với cách xếp hạng này.
- Độc tài và cơ hội chủ nghĩa: Hun Sen (Cam Bốt), Erdogan (Thổ), Viktor Orban (Hung), Law and Justice (Ba Lan)
- Dân túy cánh hữu: Trump (Hoa Kỳ), Brexit (Anh), Marie Le Pen (Pháp), Duterte (Phi), Viktor Orban (Hung), Law and Justice (Ba Lan), Obrador (Mễ), Bolsanaro (Brazil), Modi (Ấn), Erdogan (Thổ)
- Dân tộc chủ nghĩa: Trump (Hoa Kỳ), Modi (Ấn), Marie Le Pen (Pháp), Brexit (Anh), Erdogan (Thổ), Hun Sen (Cam Bốt)
- Chống chủ nghĩa tự do của cánh tả cấp tiến (progressive left) Tây Phương: Trump (Hoa Kỳ), Duterte (Phi), Erdogan (Thổ), Viktor Orban (Hung), Kaczynski (Ba Lan), Erdogan (Thổ)
- Phục hưng các giá trị văn minh truyền thống: Viktor Orban (Hung), Morawlecki (Ba Lan); Trump (Hoa Kỳ), Marie Le Pen (Pháp) Erdogan (Thổ), Modi (Ấn)
- Chống thương mại khu vực hay toàn cầu: Brexit (Anh) Trump (Hoa Kỳ) Marie Le Pen (Pháp)
- Chống di dân: Viktor Orban (Hung), Law and Order (Ba Lan); Trump (Hoa Kỳ), Brexit (Anh), Marie Le Pen (Pháp)
Một đặc điểm là những phong trào dân túy cánh hữu Âu-Mỹ liên lạc và chia xẻ kinh nghiệm với nhau: Steve Bannon (Mỹ), Viktor Orban (Hung), Law and Justice (Ba Lan), Marie Le Pen (Pháp), khuynh hướng ly khai khỏi EU của Nam Âu – và họ tiếp xúc với Putin (Nga). Ngược lại Duterte (Phi) và Hun Sen (Cam Bốt) thẳng thừng đuổi Âu Châu trong khi dựa vào Trung Quốc.
Trái với cánh hữu những phong trào cánh tả cấp tiến (progressive left) nở rộ nhưng chỉ giới hạn ở Âu-Mỹ và đều thua cuộc: Jeremy Corbyn (Anh), Bernie Sanders và Elizabeth Warren (Mỹ). Ngoài ra còn phải kể thêm đến cô gái Na Uy Geta Thunberg nay trở thành đại diện cho khuynh hướng bảo vệ môi trường mà bị Trump (Mỹ) Putin (Nga) và Bolsonaro (Brazil) khinh ghét. Dù vậy thế lực của cánh tả cấp tiến không hề suy yếu mà còn tăng nhanh theo các trào lưu LGTBQ, Me Too, Black Live Matter và Medicare For All nên chưa biết khi nào sẽ bất ngờ lật ngược bàn cờ không khác gì Trump và Brexit trước đây.
Nhưng trong u tối vẫn có nhúm lửa hy vọng: phong trào Dù Vàng ở Hồng Kông, các nhà dân chủ ở Việt Nam và Trung Quốc và nhiều nơi khác vẫn không nản lòng cho dù bị đàn áp trong lúc nền dân chủ thoái trào trên toàn thế giới. Đảng Cộng Sản Trung Quốc đang ở thế mạnh nhưng vô cùng thiếu tự tin vì họ không biết sẽ kéo dài thêm 70 năm nửa hay bất ngờ sụp đổ trong khoảng khắc. Điều gì sẽ lật ngược làn sóng thoái trào của dân chủ: chính là niềm tin vững mạnh để chống lại tâm lý hoài nghi lạc lỏng.
Cuộc Chiến Văn Hóa
Trump là một nghịch lý: tỷ phú địa ốc nhưng được giới công nhân thợ thuyền bỏ phiếu; thô lỗ và thiếu đạo đức nhưng được giới tôn giáo và thành phần bảo thủ liêm chính ủng hộ. Ngay nhiều người bỏ phiếu cho Trump cũng không chối cãi ông ta thiếu tư cách lãnh đạo nhưng tại sao vẫn còn tiếp tục ung hộ? Bởi vì họ xem Trump là cơ hội cuối cùng trong cuộc chiến văn hóa sống còn đối với chủ nghĩa tự do (liberalism) để phục hồi nước Mỹ.
Những lời phát biểu của Trump tuy bề ngoài thay đổi như chong chóng nhưng từ thập niên 80 đến nay lại thể hiện hai quan điểm vô cùng thống nhất, rằng Mỹ bị Tàu gạt và Hoa Kỳ bị suy đồi do chủ nghĩa tự do. Báo chí dùng chữ Trumpism (chủ nghĩa Trump) ám chỉ tâm lý cuồng Trump, còn giả sử hỏi Trump rằng Trumpism nghĩa là gì có lẽ ông ta cũng không biết vì không phải là người trọng sách vở! Dù vậy với nỗ lực phân tích một hoàn cảnh xã hội mù mịt (và mù quáng) nên người viết định nghĩa Trumpism bao gồm hai khía cạnh như sau:
(1) chống chủ nghĩa tự do
(2) ngăn chận sự bành trướng của Trung Quốc.
Trước tiên nên tìm hiểu thế nào là tự do, vì ở Mỹ các chữ liberal, liberalism và liberal world order lại mang nhiều ý nghĩa khác nhau tùy theo cách sử dụng:
- Nhìn về cánh tả cổ điển (classical left – từ khoảng sau 1930), liberalism đồng nghĩa với công đoàn và Mác-Xít hô hào chủ nghĩa xã hội (socialism) dùng nhà nước cướp đoạt tài sản và hạn chế quyền tự do cá nhân (để khích động quần chúng cánh hữu nên ngày nay gọi là theo kiểu Bernie Sander)
- Nhìn sang cánh tả cấp tiến (progressive left), liberalism bắt đầu với trào lưu Nhân Quyền (Civil Rights), Phụ Nữ Bỏ Phiếu (Women Suffrage) và chống chiến tranh Việt Nam (Anti-War, Peace & Love) của thập niên 60. Đến gần cuối thế kỷ 20 thêm vào LGTBQ, hôn nhân đồng tính, tự do phá thai, di dân, xã hội đa văn hóa (multi-cultural), đa dạng (diversity), đặt vai trò trọng tâm của nhà nước nhằm tạo bình đẳng và xóa bỏ khoảng cách giàu nghèo, và gần đây là bảo vệ môi trường. Các phong trào cánh tả như Black Live Matter và Antifa bị giới bảo thủ lên án do thành phần Mác-Xít và vô chính phủ (anarchist) giật dây – tương tự như phong trào sinh viên và tôn giáo ở miền Nam Việt Nam trong thập niên 60 bị cộng sản trà trộn. Di dân, xã hội đa văn hóa và đa dạng đều bị xem là đe dọa đến nền tảng văn hóa Ki-Tô Giáo (Chistianity) của Hoa Kỳ và Tây Phương. Nhà nước lớn mạnh (big government) và bảo vệ môi trường đe dọa tính cạnh tranh và công ăn việc làm của dân chúng.
- Bước sang cánh hữu cổ điển (classical right), tự do tức là thị trường tự do (free market); hoặc mô hình tư bản (capitalism) đối nghịch với chủ nghĩa xã hội (socialism).
- Nhìn về hai cánh tân bảo thủ (neo-conservatism) và tân tự do (neo-liberalism) thì tự do lại hàm ý liberal world order (trật tự thế giới tự do) do Hoa Kỳ dẫn đầu từ sau khi Chiến Tranh Lạnh chấm dứt. Cánh hữu đề cao can thiệp quốc tế (interventionism) để phát huy thế giới tự do (free world). Hai cánh tả và hữu đều hô hào toàn cầu hóa (globalization) và tự do giao thương (free trade). Vì thế giới tự do và tự do mậu dịch được xem là điểm chung cuộc của lịch sử (the End of History) nên Mỹ có trách nhiệm phải bảo vệ và phát triển qua hình thức liên minh và hợp tác quốc tế với NATO, WTO, TPP, v.v… bằng ngoại giao (diễn tiến hòa bình ở Trung Quốc và Việt Nam, dân chủ hóa Trung Đông), thương mại (cấm vận Iran, Bắc Hàn, Nga) hay quân sự (Kosovo, Iraq, biển Đông.)
Trumpism chỉ đồng ý với điểm 3 (free market) mà chống 1 (socialism), 2 (immigration, diversity, multi-culturalism, big government, environmentalists) và 4 (Mỹ không làm sen đầm quốc tế, không để cho Tàu gạt và không bị đồng minh “ăn quịt” (free riders).) Nhìn như vậy mới hiểu tại sao Trump vừa thóa mạ đối thủ Dân Chủ lại mạt sát đảng Cộng Hòa phía George W. Bush, John McCain,… do không đặt quyền lợi nước Mỹ trước tiên (American First) mà lại khờ khạo đi làm sen đầm quốc tế trong khi bị thế giới lợi dụng qua WTO, NATO, v.v…
Để so sánh:
- Cánh tả của Bernie Sander và Elizabeth Warren thiên về điểm 1 (socialism), đề cao điều 2 (immigration, diversity, multi-culturalism, big government, environmentalists), hạn chế điểm 3 (free market) mà lại tương đồng với Trump chống điều 4 (không can thiệp quốc tế (interventionalism) và giới hạn tự do mậu dịch (free trade).)
- Cánh trung tả của Biden lại chấp vá ủng hộ cả ba điểm 2-4 ngoại trừ điều 1 (socialism), nói cách khác là trở lại tình trạng với nước Mỹ mê ngủ mà tưởng mình dẫn đầu thế giới.
Thêm một so sánh khác thì cuộc chiến văn hóa ở Mỹ hiện nay làm lung lay xã hội không khác gì Cách Mạng Văn Hóa (Cultural Revolution) ở Tàu trong thập niên 60.
Khi nhìn vấn đề như trên thì mới hiểu tại sao:
Trump căm ghét bà Merkel vì nước Đức đòi duy trì NATO (nhưng ăn quịt không chi tiền), mở cửa cho tỵ nạn Hồi Giáo (đe dọa nền văn minh Ki-Tô Giáo của Tây Phương) và tự do mậu dịch (có lợi cho Tàu.)
Trump thân thiện với Putin (Nga), Viktor Orban (Hung), Duterte (Phi) dù độc tài nhưng đều chống LGTBQ và xã hội đa văn hóa. Nga và Đông Âu còn tuyên truyền ngăn chận cuộc xâm lăng của Hồi Giáo vào Âu Châu.
Trump hợp ý với Modi (Ấn) và Erdogan (Thổ) cho dù họ không thuộc Ki-Tô Giáo nhưng tự hào và phát huy hai nền văn hóa truyền thống của Ấn Độ Giáo và Hồi Giáo.
Với Việt Nam thì Trump nửa tin nửa ngờ: biết Việt Nam mánh khoé gian lận trong thương mại (còn tệ hơn cả Tàu) nhưng bù lại dùng Việt Nam để chận Trung Quốc
Cho nên ở ngoại quốc khi đọc tin tức về Mỹ dễ hiểu lầm nếu không quen thuộc cách dùng những chữ như liberal, liberalism, liberal world order trong khung cảnh xã hội Mỹ. Đối với người Việt và Mỹ gốc Việt ủng hộ Trump thì chống Tàu là chính, trong khi đối với dân Mỹ dù Dân Chủ hay Cộng Hòa thì cuộc chiến văn hóa (cultural war) giữa hai quan điểm cấp tiến và bảo thủ mới định đoạt cho tương lai nước Mỹ.
Theo cách nhìn này nên trong đại dịch Vũ Hán Trump lên án Trung Quốc là nguyên nhân gây dịch bệnh; ngược lại đảng Dân Chủ tố cáo lề lối ứng xử hổn loạn đối với đại dịch của Trump. Nhưng đến lúc Black Live Matter nổi lên đảng Dân Chủ kêu gọi bình đẳng màu da và xoá bỏ các di tích nô lệ thì Trump phản đòn bằng cách nhấn mạnh đến trật tự xã hội (Law and Order) và công lao các nhà lập quốc. Cho dù không phủ nhận những ma thuật chính trị mỵ dân nhưng cần nên thấy đây chính là hai bộ mặt trong cuộc chiến văn hóa muôn hình vạn trạng quyết định cho bầu cử 2020.
Tối Cao Pháp Viện và Cuộc Chiến Văn Hóa
Việc qua đời của Thẩm Phán Ruth Ginsberg và Tổng Thống Donald Trump đề cử Tân Thẩm Phán Amy Coney để được Thượng Nghị Viện (với đa số thuộc đảng Cộng Hòa) gấp rút thông qua không đầy 40 ngày trước bầu cử đã khiến báo chí và dư luận nổi lên làn sóng tranh luận gay gắt gọi đây là cuộc chiến văn hóa sống còn trong nước Mỹ. CNN hôm 09/26/2020 chạy hàng đầu bài bình luận rằng đây là cuộc đão chánh do phe bảo thủ chuẩn bị từ nửa thế kỷ nay [1]. Bài viết này sẽ tìm hiểu giữa Tòa Án Tối Cao lại có liên hệ gì đến cuộc chiến văn hóa vốn âm ỷ trong suốt 50 năm nhưng nay bùng nổ làm rạn nứt xã hội Hoa Kỳ, không kém gì cuộc Cách Mạng Văn Hóa tại Trung Quốc vào thập niên 70.
Nhưng trước cả cuộc chiến văn hóa của thập niên 60 còn có cuộc chiến kinh tế từ thập niên 30. Sau Đại Khủng Hoảng 1929 Tổng Thống Franklin Roosevelt đưa ra chương New Deal bảo vệ công đoàn và quyền lợi người lao động theo mô hình Dân Chủ Xã Hội do John M. Keynes đề xướng. Ngược lại không ít dân Mỹ chủ trương tiếp tục tư bản kinh tế thị trường (free market) mà không có sự can thiệp của nhà nước dựa trên quan điểm của Adam Smith; cộng thêm vào đó là cuộc Cách Mạng Tháng Mười năm 1917 ở Nga khiến cánh tự do (libertarian) ở Mỹ cho rằng các tư tưởng xã hội hô hào giải quyết giàu nghèo và bình đẳng xã hội sẽ dẫn đến cộng sản tước đoạt quyền tự do và tài sản của dân chúng. Văn hóa nơi đây hiểu theo nghĩa rộng là cuộc chiến giữa hai lý tưởng tự do và cộng sản.
Nhảy vọt sang thế kỷ thứ 21 thì bài bình luận của CNN cho rằng bà Amy Comey nếu được bỏ phiếu vào Tối Cao Pháp Viện sẽ đưa cánh bảo thủ chiếm đa số 6-3 để đão ngược truyền thống New Deal gần 100 năm nay với các quyết định không thuận lợi về mức lương tối thiểu của người lao động, về số ngày nghĩ sau khi sinh con (maternity leave), hay quyền hạn (giới hạn) của nhà nước trong các phán quyết liên quan đến cạnh tranh và độc quyền của thị trường. Cho nên ngành Tư Pháp có ảnh hưởng trực tiếp đến vai trò của nhà nước trong nền kinh tế Hoa Kỳ. Cánh cấp tiến cho rằng chính quyền phải can thiệp để tạo công bằng xã hội, còn đối với phe bảo thủ thì tự do kinh tế chính là tự do.
Nhưng tiếp theo cuộc chiến kinh tế từ thập niên 30 là cuộc chiến văn hóa của thập niên 60, khi Tổng Thống Lyndon B. Johnson đưa ra The Great Society thúc đẩy trào lưu dân quyền (Civil Rights) bình đẳng màu da, giới tính (women suffrage) và gọi đây là bước mở rộng của truyền thống New Deal của Franklin Roosevelt. Ngược lại trong khi đảng Dân Chủ dưới thời Roosevelt bênh vực giới thợ thuyền (blue collar) sang giai đoạn Johnson lại nghiêng sang bảo vệ nử quyền, di dân và người thiểu số, LGBTQ, hôn nhân đồng tính, phá thai và xã hội đa văn hóa (multi-cultural). Thành phần lao động lại bị mất việc vì toàn cầu hóa do các Tổng Thống vừa Dân Chủ lẫn Cộng Hòa đề xướng (Clinton, Bush, Obama). Giới công nhân ở vòng đai han rỉ (Rust Belt) xem rằng bị phản bội nên tức giận ngả theo trào lưu dân túy của Donald Trump năm 2016.
Trong khi đó giới bảo thủ và trung lưu thành phố lại phẩn nộ vì truyền thống và các giá trị lịch sử của Hoa Kỳ bị đe dọa. Cánh cấp tiến (progressive) chủ trương một xã hội đa văn hóa thay vì đặt trên nên tảng Ki-Tô Giáo; quyền phá thai, LGBTQ, hôn nhân đồng tính, di dân; giới hạn các sinh hoạt của Tin Lành hay Thiên Chúa Giáo ngoài công cộng; xóa bỏ hình ảnh của các nhà lập quốc (Founding Fathers); người da trắng sẽ trở thành thiểu số trên chính đất nước họ dựng nên. Một số đông trong giới trung lưu thành phố đổ dồn phiếu cho Donald Trump năm 2016 và họ sẽ quyết định cho kết quả bầu cử năm 2020. Cho nên cuộc chiến đưa pheo bảo thủ chiếm đa số ở Tối Cao Pháp Viện có giá trị quyết định cho cuộc chiến văn hóa trong một thế hệ sắp tới (mỗi Thẩm Phán có thể tại vị 30-40 năm) khi xem xử liên quan đến tôn giáo, LGBTQ, hôn nhân đồng tính, di dân, v.v…
Nếu cuộc chiến văn hóa sẽ quyết định cho cuộc bầu cử 2020 thì đối với xã hội Mỹ không có mặt trận nào quan trọng hơn Tối Cao Pháp Viện với các chiến trường tiêu biểu gồm Roe vs. Wade (phá thai), quyền cầu nguyện trong trường công (school prayer) và Obamacare (bảo hiểm y tế).
Nhưng không nên hiểu lầm là các vị quan toà trong Tối Cao Pháp Viện phán xử thiên vị theo quan điểm cá nhân hay bè phái. Trái lại các Thẩm Phán đều tôn trọng Hiến Pháp và tính độc lập của Tòa Án. Vấn đề là chính trong ngành Tư Pháp cũng chia ra hai trường phái diễn giải Hiến Pháp theo nghĩa rộng hay hẹp, tức là Originalism (Nguyên Thủy) hay Cấp Tiến.
Các Thẩm Phán bảo thủ theo lập trường Originalism diễn giải Hiến Pháp theo ý nghĩa nguyên thủy của các nhà Lập Quốc vì đây mới là nền tảng của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Nếu cần sửa đổi thì phải theo tiến trình Tu Chính chớ quan tòa không được quyền tùy tiện thêm bớt.
Các Thẩm Phán Cấp Tiến quan niệm rằng Hiến Pháp là một văn kiện sống cần được diễn giải thích hợp theo khung cảnh xã hội. Thí dụ năm 1779 y khoa không có phá thai hay chuyển giới, không có Facebook và Google, chưa có nhu cầu bảo vệ môi trường nên nay Hiến Pháp phải được hiểu trên nghĩa rộng để thích hợp theo những thay đổi nhanh chóng mà tiến trình tu chính không thể nào bắt kịp.
Một cánh trong giới cấp tiến còn chủ trương Judicial Activism (ngành Tư Pháp năng động) tức là Tòa Án không chỉ thụ động áp dụng luật pháp mà còn là nhân tố tích cực (active) thúc đẩy tiến bộ theo nghĩa rộng của Hiến Pháp. Cánh này bị giới bảo thủ chỉ trích là Judicial Legislation, tức là quan tòa làm ra luật thay vì thi hành pháp luật.
Xã hội Mỹ lúc nào cũng sôi sục như một phòng thí nghiệm trưng bày không che dấu các vấn nạn của thời đại như màu da (Black Live Matter), nữ quyền (Me Too), di dân, LGTBQ, hôn nhân đồng tính, phá thai, fake news, Facebook v.v… Có người cho rằng Hoa Kỳ không đơn thuần là một quốc gia mà còn là một vùng đất của những ý tưởng, cho nên Mỹ dù bị chê cười hay tán thưởng thì thế giới vẫn sát sao theo dõi. Liệu những tranh luận gay gắt này có thể giúp nền dân chủ Hoa Kỳ mạnh vì nhiều sức sống, hay là lực ly tâm khiến xã hội rạn nứt? Chúng ta đang sống trong một của những khúc quanh lịch sử đó.
[1] The nomination of Amy Coney Barrett to the Supreme Court could solidify a revolution that has been a half-century in the making – CNN 09/26/2020
Tự Do Báo Chí
Hậu quả của thời đại Trump là những cơ quan ngôn luận như CNN, New York Times… trước đây được xem như mẫu mực của nền tự do báo chí toàn cầu với các thông tin trung thực, nhưng nay thiên vị về một phía mà trở nên phiếm diện một chiều.
Không một nhà báo hay cơ quan ngôn luận nào có thể hoàn toàn trung lập giữa tả và hữu. Nhưng các báo lớn (báo chí nơi đây dùng theo nghĩa rộng gồm thông tin trên tivi, radio, Internet, báo giấy, v.v…) đều cố gắng giữ uy tín và tiêu chuẩn nghề nghiệp bằng cách phân biệt giữa phần thông tin đa chiều-trung thực và những bình luận thể hiện quan điểm của người viết hay của tờ báo.
Nhưng tiêu chuẩn ngành báo ở Mỹ nay lại là phân biệt tin thật phe ta chống tin giả phe địch, tức là nhà báo trở nên quan tòa. Uy tín đối với quần chúng nơi lập trường bênh Trump (Fox) hay chống Trump (CNN) còn thái độ trung lập bị gọi là thiếu xương sống.
Thông tin bị che dấu giữa các hàng tít lớn Black Live Matter biểu tình đòi công lý (CNN) thay vì bạo loạn cướp phá tài sản (Fox); bị bóp méo khi tin về phe địch bị toà soạn phê bình là thiếu kiểm chứng, thiếu trung thực hay bị giới chuyên gia bác bỏ (phe nào cũng viện dẫn chuyên gia phía mình.)
Phần quan điểm trở thành tuyên truyền khi những nhà bình luận nổi tiếng như Paul Krugman (Nobel kinh tế) hay Thomas Friedman (tác giả quyển Thế Giới Phẳng The World Is Flat) trên New York Times nay không cần đọc nửa do các lập luận ra rả một chiều. Nhiều ký giả uy tín trên CNN như Christian Amanpour hay Fareed Zakaria (tác giả của sách nổi tiếng The Future of Freedom và The Post-American World) nay trở thành hẹp hòi thiên vị. Thông tin bị kiểm duyệt khi toà soạn tờ New York Times quyết định không đăng bài của Thượng Nghị Sĩ Tom Cotton vì cho rằng kích động cánh hữu mà trong khi lại đăng 100% những bình luận từ cánh tả, cánh cực tả hay trung hữu.
Những tiểu chuẩn của nền tự do báo chí đều bị xâm hại: không thiên vị, không bóp méo sự thật, không tuyên truyền và không kiểm duyệt.
Uy tín của nền báo chí Hoa Kỳ xuống thấp đến mức ngay trong cộng đồng Mỹ gốc Việt có nhiều độc giả mặc nhiên gạt bỏ các bản tin trên Fox hay CNN là “tin giả”. Điều này chưa từng xảy ra trước Trump lúc mà CNN vẫn được xem như cơ quan thông tấn hàng đầu.
Nhưng để tránh ngộ nhận, các báo như CNN và New York Times vẫn là nguồn thông tin uy tín về quốc tế và những khía cạnh không liên quan đến Trump như Trung Quốc, Việt Nam, Bắc Hàn, Trung Đông v.v… Tuy nhiên do ảnh hưởng của Trump bao trùm lên chính sách ngoại giao nên người đọc phải cẩn thận khi các báo này hạ thấp nhiều tin tức quan trọng như Bắc Kinh đàn áp Hồng Kông hay bang giao giữa Do Thái và nhiều nước Ả Rập trong những ngày gần đây, một phần vì không còn chổ trống trên trang đầu (90% bài vở bênh hay chống Trump) phần khác không thể giúp Trump tăng uy tín trước ngày bầu cử.
Hai tập san Foreign Affairs và The Economist vốn được xem là khuôn vàng thước ngọc cho các tư tưởng về nền Trật Tự Tự Do Toàn Cầu (Liberal World Order) nay xuống cấp khi bị phong trào dân túy lên án là khăng khăng bảo vệ quan điểm của thành phần tin hoa ưu tú (elites) mà xa rời giới bình dân và công nhân Tây Phương.
Trong khi thông tin dòng chính (mainstream media) bị soi mòn thì thông tin dòng phụ (alternative media) bùng phát trong các e-mail dẫn giải tin tức bài vở và trên Facebook, Twitter,… Facebook được xem là sàn thông tin thật ở các nước độc tài (cho đến khi bị các nhà độc tài ép buộc xóa bỏ thông tin) nhưng lại là sàn thông tin giả ở Âu-Mỹ (cho đến khi bị chính quyền Âu-Mỹ áp lực đục bỏ thông tin.) Làm thế nào một công ty lợi nhuận tư nhân như Facebook, Youtube hay Twitter đủ thẩm quyền để kiểm duyệt ngôn luận?
Tự do báo chí là nền móng thứ tư trong dân chủ nhưng hiện không có phương sách cũng cố vai trò báo chí khi mà phương tiện truyền thông tăng vọt cùng lúc với xã hội bị chia rẽ sâu sắc như ở Mỹ hiện nay. Điều soi mòn dân chủ không phải là tin giả mà khi người dân mang tâm lý hoang mang hoài nghi mọi thông tin để trở thành cuồng nộ hoặc là vô cảm.
Nếu so sánh thì nền chuyên chế Trung Quốc như một chiếc lòng vàng bưng bít thông tin. Nhà nước toàn quyền quyết định con chim nào xui xẻo bị mang ra làm thịt trong khi vẫn nuôi số còn lại no đủ ca hát trong lồng dù không có tự do!
Độc Tài Mềm
Đã có quyền lực mềm tất phải có độc tài mềm (soft totalitarian). Quyền lực mềm dựa trên sự thuyết phục. Độc tài mềm dựa trên áp lực dư luận và tư duy một chiều (political correctness).
Một chế độ độc tài tức là thiếu dân chủ và cai trị bằng bạo lực, công an hay quân đội. Dân chủ phi tự do gồm những nhà nước do dân bầu nhưng sau đó dựa vào sự ủng hộ của một thành phần trong quần chúng để đàn áp tiếng nói đối lập. Độc tài mềm gồm những thế lực tuy không nắm quyền hành cai trị nhưng xử dụng sức mạnh trong truyền thông và giáo dục nhằm xây dựng hệ thống tư duy một chiều, rồi sau đó vận động biểu tình, tẩy chay hay dựa vào áp lực của dư luận để bóp chết khác biệt.
Cụ thể thì Việt Nam và Trung Quốc là độc tài. Hung, Ba Lan và Phi tức dân chủ phi tự do. Ở Mỹ có độc tài mềm cánh tả, riêng trong cộng đồng người Mỹ gốc Việt lại có độc tài mềm cánh hữu. Xã hội loài người thật phong phú với muôn vàn màu sắc!
Cuộc chiến văn hóa hiện thời ở Mỹ có thể xem như do phe hữu chống lại nền độc tài mềm của thành phần ưu tú cánh tả vốn nắm uy quyền gần như tuyệt đối trên báo chí, các sàn thông tin (Facebook, Twitter…) và trong học đường nhằm xây dựng hệ thống tư duy một chiều, một xã hội đa văn hóa (multi-culturalism) và của toàn dân (for all) mà giới bảo thủ cho là sặc mùi xã hội chủ nghĩa – cái gì bình đẳng và của toàn dân là nhà nước hốt trọn!
Những vấn đề mà cánh tả gọi là sự thật hiển nhiên (self-evident truths) rồi nâng lên thành quyền con người (human rights) như quyền phá thai, quyền hôn nhân đồng tính, quyền của giới LGBTQ, quyền di dân dù bất hợp pháp, quyền có nhà ở, quyền có bảo hiểm y tế, quyền được hưỡng giáo dục, quyền có mức lương cao tối thiểu…thì cánh hữu cho rằng mỗi người phải tự có trách nhiệm với đời sống của chính mình mà không đòi hỏi được nhà nước bao che, nên không đồng ý và tiếp tục tranh luận.
Nói một khác, những quyền hạn phổ thông của nhân loại (universal human rights) nếu chỉ gồm mưu cầu hạnh phúc và chống độc tài, chống kỳ thị màu da, giới tính và tôn giáo thì ai cũng gật đầu đồng ý. Nhưng diễn dịch mở rộng để bao gồm thêm đủ mọi tự do như đã nói trên thì vẫn còn nhiều phản ứng ngập ngừng e ngại. Rồi dùng độc tài mềm để áp đặt tư duy một chiều (political correctness) ép buộc chấp nhận như sự thật hiển nhiên (self-evident truth) không thể tranh cãi thì gặp chống đối.
Ở Mỹ trong học đường nếu bài tỏ quan điểm chống phá thai, hôn nhân đồng tính, LGBTQ… thì thầy bị đuổi, học trò bị điểm xấu rồi bạn bè tẩy chay cô lập.
Nhiều cơ sở thương mại vì không phục vụ cho hôn nhân đồng tính và LGBTQ đã bị áp lực biểu tình tẩy chay đến khánh tận.
Báo chí dòng chính (mainstream media) và các sàn thông tin (Facebook, Twitter,…) không chỉ đưa tin mà tự phong cho chức năng đạo đức (moral authority) để thông tin một chiều, tự quyết định thật hay giả mà đục bỏ các mẫu tin không phù hợp với quan điểm của tòa soạn hay giới thượng lưu.
Đối với các nước nhỏ, giới tinh hoa Tây Âu và Hoa Kỳ dùng quyền lực kinh tế và quyền lực mềm để hù dọa áp đặt những mẫu mực đạo đức như LGBTQ, hủy bỏ án tử hình, ép buộc di dân lên các nước nhỏ…cho nên mới có làn sóng dân chủ phi tự do nổi lên ở Đông Âu, Phi, Brazil chống lại áp lực độc tài mềm từ Tây Phương.
Nghịch lý là một nhân vật như Trump lại dẫn đầu trào lưu dân túy chống độc tài mềm ở Mỹ. Điều này chẳng khác gì theo Hitler để chống Stalin!
Khoảng phân nửa dân chúng rồi sẽ bỏ phiếu cho mỗi phe và không chắc sẽ nhìn nhận kết quả bầu cử là chính đáng, như vậy là dân chủ hay nội chiến?
Di Dân, An Sinh Xã Hội và Đếm Phiếu
Kết quả bầu cử tại Georgia cho thấy quyền lực chính trị ở Mỹ thay đổi chỉ vỏn vẹn 10 ngàn lá phiếu nhất là đến từ dân thiểu số. Cho nên đảng Dân Chủ dưới thời Biden sẽ gấp rút đẩy mạnh các chính sách nhập cư và an sinh xã hội nhằm biến đỏ thành xanh ở các tiểu bang như Arizona, Georgia hay ngay cả Florida và Texas vốn là những thành trì của đảng Cộng Hòa cho đến nay.
Tưởng cũng nên nhắc đảng Dân Chủ nắm trọn đa số từ Hành Pháp cho đến Lập Pháp sau khi chiến thắng ở Georgia vào tuần rồi (nếu tính bà Phó Tổng Thống Kamala Harris bỏ lá phiếu quyết định trong trường hợp 50-50 ở Thượng Nghị Viện.) Đông đão người gốc Việt từ Cali và Việt Nam sang định cư ở thành phố Atlanta thuộc Georgia trong những năm gần đây góp phần cho tập thể thiểu số gốc châu Á lớn mạnh và trở nên trọng điểm cho đảng Dân Chủ vận động trong mùa tranh cử vừa rồi.
Người gốc Việt cũng di dân đông đão sang Arizona (đỏ sang xanh), Texas (đỏ sắp thành hồng) và Florida (xanh đỏ theo mùa). Dân thiểu số da đen và gốc Nam Mỹ đông hơn gốc Á nhưng khi kết quả bầu cử vô cùng sát sao thì chỉ vài ngàn lá phiếu có thể làm thay đổi kết quả.
Nếu Biden mở cửa nhập cư thì hàng trăm ngàn hay triệu người từ Nam Mỹ sẽ đến từ vùng biên giới của Arizona, New Mexico và Texas; hàng chục triệu người gốc Nam Mỹ hiện sinh sống bất hợp pháp ở Hoa Kỳ sẽ gấp rút hợp thức hóa để vào quốc tịch. Chính sách đoàn tụ gia đình cho cha mẹ và vợ chồng lại được mở rộng nhằm thu hút các gia đình di dân kể cả người gốc Việt, cọng thêm triển vọng tăng trợ cấp xã hội và bảo hiểm y tế cho mọi người sinh sống ở Mỹ khi phát triễn ObamaCare.
Trong khi Canada và Úc chọn lọc di dân dựa trên nghề nghiệp chuyên môn nhằm góp sức làm giàu cho nước họ thì chính sách nhập cư ở Mỹ đặt ưu tiên vào nhân đạo cho đoàn tụ gia đình và tỵ nạn từ Nam Mỹ.
Là một người tỵ nạn được hưởng nhân đạo của quốc tế nên người viết rất thông cảm với những kẻ tỵ nạn khốn cùng từ Nam Mỹ. Người gốc Việt vào Hoa Kỳ lạm dụng an sinh xã hội không thua mà còn hơn những dân di dân khác, nhưng chỉ một thế hệ rồi sau đó phần đông con cái trở thành bác sĩ, kỹ sư và luật sư đóng góp cho nước Mỹ. Người gốc Nam Mỹ siêng năng lao động cực khổ trong các ngành trồng trọt và xây dựng nhưng lại không có truyền thống học vấn, cho nên số đông người vào Hoa Kỳ sẽ ảnh hưởng lâu dài đến xã hội Mỹ khi mà khoảng cách giàu nghèo giữa người ít học và có bằng đại học ngày càng sâu rộng. Một nhận xét chung là các chính trị gia gốc Nam Mỹ – ngoại trừ từ Cuba – đa số thuộc cánh tả đòi tăng thuế, di dân, y tế và bình đẳng xã hội.
Trải qua bài học Georgia nên có một khuynh hướng trong đảng Dân Chủ vận động khuyến khích dân da đen di cư từ các tiểu bang xanh miền Bắc xuống các tiểu bang đỏ miền Nam. Vừa nắm cả Hành Pháp lẫn Thượng và Hạ Viện nên chính quyền Biden có thể sẽ đưa ra nhiều chương trình tài trợ cho hình thức di dân đó một cách kín đáo, chẳng hạn như ngân quỹ tạo công ăn việc làm cho dân da màu ở các tiểu bang miền Nam. Lại một lần nửa, không cần phải di cư ồ ạt mà chỉ tăng giảm một vài ngàn lá phiếu cũng đủ để làm nghiêng ngữa cán cân chính trị.
Di dân và an sinh xã hội bắt đầu với lý tưởng cao đẹp nhưng dần rơi vào những tính toán lạnh lùng của các phe phái chính trị đếm phiếu.

Thực ra, bản nhân cực kỳ thương xót cho dân Mỹ: họ được quyền hưởng cái thứ tự do do bọn chó đẻ ban phát: Họ phải bỏ ra gần 40% thuế thừa kế và tưng đấy thuế thu nhập để có tự do cho mình. Ô hô… i hi…, dân chủ kiểu này thì TỊT PẸ TÚNG PÁY!!
ThíchThích
Lời giới thiệu của tác giả: Sau 10 năm nghiên cứu trong trường đại học và cao học Hoa Kỳ và 3 năm làm việc toàn thời của Thư Viện Đại Học, tôi đã có cơ hội tham khảo và sưu tập nhiều tài liệu sách báo để viết thành luận án mà nộp cho nhà trường, đồng thời tổng kết thành một bài phê bình chính trị Lưỡng Đảng của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ với 26 trang sách đánh máy chứa khoảng 7750 chữ, ước mong của tôi cũng như cụ Nguyễn Du: “Lời quê chắp nhặt dông dài – Mua vui cũng được một vài trống canh!” Thân chúc quý bạn đọc nhiều an vui, lành mạnh, thăng tiến và hạnh phúc. PVB.
I. Thành Lập Đảng Dân Chủ Cộng Hòa (Democratic Republican Party)
Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ vào đầu thế kỷ 18 thì đảng chính trị được xuất hiện với danh xưng là Đảng Dân Chủ Cộng Hòa (Democratic Republican Party). Đảng này được gọi tắt là Cộng Hòa (Republican) do hai ông Thomas Jefferson và James Madison khởi xướng để chống lại chủ trương, chính sách của Đảng Liên Bang (Federalist Party) lãnh đạo bởi Alexander Hamilton, hoạt động hùng hậu về kinh tế, xã hội, ngoại giao Hoa Kỳ.
Chủ trương của Đảng Dân Chủ Cộng Hòa là bãi bỏ Chế Độ Nô Lệ (Slavery), và đưa ra những yêu sách đòi hỏi về nhân quyền, dân quyền, ủng hộ quyền tự chủ của các tiểu bang được gọi là Phân Quyền (Decentralization). Đảng này chống lại hệ thống ngân hàng quốc gia, và những thế lực giàu có, tài phiệt trong Đảng Liên Bang đang giữ nguyên tắc Tập Quyền (Centralization) thời bấy giờ.
2. Hoạt Động Đảng Dân Chủ Cộng Hòa
Khởi thủy sinh hoạt của đảng này còn lỏng lẻo và chưa đi vào nề nếp của tổ chức chính trị, nhưng tới năm 1800 Luật Sư Thomas Jefferson đắc cử và giữ được quyền lực Tổng Thống Hoa Kỳ từ năm1801 tới năm 1809. Ông là tổng thống thứ ba của Hoa Kỳ sau ngày lập quốc, là một nhà triết học chính trị có ảnh hưởng rộng lớn trên chính trường thế giới, và là một trong những người theo Chủ Nghĩa Tự Do (Liberalism) nhiệt thành lớn nhất thời cận đại.
Do đó Đảng Dân Chủ Cộng Hòa của ông có cơ hội phát triển và thành lập một hệ thống chính trị quy mô nhằm hoạt động hung hậu trong các tiểu bang và liên bang của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ.
Tiếp đến là cuộc Chiến Tranh Hoa Kỳ và Anh Quốc khởi sự vào năm 1812, thì Đảng Liên Bang tan rã. Tới thời Tổng Thống John Quincy Adams vào năm 1824, là một chính khách Hoa Kỳ và phục vụ trong ngành ngoại giao, thượng nghị sĩ, dân biểu bang Massachusetts, và là tổng thống thứ 6 từ năm 1826 tới năm 1829. Ông là thành viên của Đảng Liên Bang hoạt động từ năm 1792 tới năm1808, là thành viên của Đảng Dân Chủ Cộng Hòa từ năm 1808 tới năm 1830.
Trong thời gian làm tổng thống Quincy Adams đã quyết định bỏ chữ Cộng Hòa, mà chỉ dùng chữ Dân Chủ (Democratic Party) trong danh xưng của Đảng Dân Chủ Cộng Hòa. Bên cạnh hoạt động của Đảng Dân Chủ còn có Đảng Tự Do (Whig Party) của người Anh cũ, tuy ít người biết đến nhưng đảng này chuyên về thương mại.
Tiếp theo là năm 1840 Tổng Thống Tự Do William H Harrison nhậm chức thì đảng có cơ hội hoạt động, nhưng chỉ có một năm sau khi tổng thống này qua đời. Cho nên Đảng Tự Do cũng bị ngưng hoạt động vì Phó Tổng Thống John Tyler (1841) là người không theo đảng phái lên giữ chức Tổng Tư Lệnh Quốc Gia
Cho tới năm 1844 Tổng Thống Dân Chủ James K Polk lại đắc cử thì lực lượng tổ chức Đảng Dân Chủ lai tái sinh hoạt và đối lập song hành với Đảng Tự Do, kéo dài cho tới thời kỳ Nội Chiến Hoa Kỳ (American Civil War) từ năm 1861 tới bốn năm sau là năm 1865, vì Đảng Dân Chủ tan rã và chia rẽ trong việc phân bổ quyền lợi.
Ngay từ thời Tổng Thống Dân Chủ Franklin Pierce (1852) người Dân Chủ đã bất mãn với đảng mình khi đảng ủng hộ Hai Đạo Luật Fugitive Slave Law, đòi hỏi những phần tử nô lệ đã tẩu tán phải trở về chủ cũ, và Kansas – Nebraska Act, là thành lập thêm hai vùng Kansas và Nebraska, cho phép những cư dân nơi này có quyền quyết định qua đầu phiếu là nên duy trì hay bãi bỏ chế độ nô lệ.
Hành động mỵ dân và chủ trương duy trì chế độ nô lệ ở các tiểu bang miền Nam của Đảng Dân Chủ là duy trì Thời Đại Nông Nghiệp (Agricultural Age), đã khiến cho nhiều thành viên trong đảng muốn chống lại chế độ nô lệ, và họ ly khai bỏ đảng mà hợp cùng những người của Đảng Tự Do để thành lập Đảng Cộng Hoà (Republican Party) với chủ trương xây dựng Thời Đại Công Nghiệp (Industrial Age) và thực hành Chủ Nghĩa Tư Bản (Capitalism) nhằm thay thế Thời Đại Nông Nghiệp của Đảng Dân Chủ đã lỗi thời.
3. Hoạt Động Đảng Cộng Hòa
Đảng Cộng Hòa sinh hoạt mạnh mẽ vào năm 1860, khi Tổng Thống Hoa Kỳ thứ 16 Abraham Lincoln đắc cử. Đảng Cộng Hòa theo nguyên tắc tổ chức Tập Quyền (centralization) quyền hành tập trung ở chính quyền Liên Bang, cùng khai xướng Thời Đại Công Nghiệp (Industrial Age) và Chủ Nghĩa Tư Bản (Capitalism) chủ trương hủy bỏ Thời Đại Nông Nghiệp (Agricultural Age) và Chế Độ Nô Lệ (Slavery) của Đảng Dân Chủ (Democratic Party) đã từng xây dựng từ thời lập quốc tới nay, nên đã lỗi thời.
Đảng Cộng Hòa gồm có 25 Tiểu Bang ủng hộ chính phủ Liên Bang Miền Bắc (Union) dưới thời điều hành lãnh đaọ của Tổng Thống Abraham Lincoln và Đại Tướng Ulysses Grant chỉ huy trong cuộc Nội Chiến Hoa Kỳ (American Civil War).
Đảng Dân Chủ (Democratic Party) theo nguyên tắc tổ chức Phân Quyền (decentralization) quyền hành được chia cho các tiểu bang, lúc đó đang có 11 Tiểu Bang ủng hộ chế độ nô lệ, và tuyên bố ly khai khỏi Hiệp Chủng Quốc để thành lập Liên Minh Miền Nam (Confederate States) do Tổng Thống Jefferson Davis và Đại Tướng Robert E. Lee chỉ huy, nhằm bảo vệ thời đại nông nghiệp, và kéo dài trong suốt 4 năm chiến tranh công nghiệp cho tới khi thất trận. Lực lương quân đội của Dân Chủ gồm toàn là người da trắng chiến đấu, không có da đen. Mặt khác, lực lượng quân sự người da đen chỉ có trong phía Cộng Hòa.
Nhìn chung thì Nội Chiến Hoa Kỳ là cuộc chiến tranh giữa Nông Nghiệp và Công Nghiệp còn gọi là đối kháng thời đại (Confrontation of the Age). Bởi vì mỗi khi thời đại mới, chuyển đổi và thay thế cho thời đại cũ, đã xảy ra chiến tranh do những giai cấp đang cầm quyền, mà bị tước quyền thì họ đứng lên bảo vệ tư bản và đặc quyền đặc lợi và đảng phái của họ.
Nội chiến Hoa Kỳ là một trong những cuộc chiến tranh công nghiệp và nông nghiệp thực sự diễn ra đầu tiên. Đường sắt, điện báo, tàu hơi nước và vũ khí sản xuất hàng loạt đã được sử dụng một cách rộng rãi. Các học thuyết chiến tranh toàn diện được Sherman phát triển ở Georgia, và chiến tranh chiến hào quanh Petersburg là điềm báo trước cho cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất ở Châu Âu. Cho đến nay, đây vẫn là cuộc chiến tranh đẫm máu nhất trong lịch sử Hoa Kỳ, dẫn đến cái chết của khoảng 750.000 binh sĩ cùng số lượng thương vong dân sự không thể xác định.
Theo Sử Gia John Huddleston ước tính số người trận vong chiếm 10% toàn bộ số nam giới miền Bắc từ 20 đến 45 tuổi, và 30% đàn ông da trắng miền Nam trong độ tuổi từ 18 đến 40.
Trong trận đánh cuối cùng, quân miền Bắc chiếm được Richmond là thủ đô của miền Nam vào ngày 2 tháng 4 năm 1865. Hai ngày sau Tổng Thống Abraham Lincoln của Hoa Thịnh Ðốn đến thị sát Richmond, bước vào dinh tổng thống miền Nam Jefferson Davis đã bỏ chạy.
Tiếp theo là Tướng Lee đầu hàng vào ngày 9 tháng 4, và tới ngày 15 tháng 4 năm 1865 thì Tổng Thống Abraham Lincoln bị ám sát, lúc đó Phó Tổng Thống Dân Chủ Andrew Johson thay thế. Rồi thời gian tiếp nối Đảng Cộng Hòa lại thịnh hành và cầm quyền qua bốn đời Tổng Thống liên tiếp với mỗi nhiệm kỳ bốn năm.
4. Lịch Sử Chính Trị Hoa Kỳ
Theo hành trình lịch sử chính trị, Đảng Dân Chủ Cộng Hòa hoạt động từ năm 1800, nhưng Đảng Dân Chủ chính thức đi vào sinh hoạt độc lập từ năm 1828, thời Tổng Thống Andrew Jackson là một luật sư, quân nhân và chính khách, ông là tổng thống thứ bảy của Hoa Kỳ từ năm 1829 đến năm 1837.
Hai mươi sáu năm sau Đảng Cộng Hoà mới xuất hiện vào năm 1854, hoạt động giúp cho Abraham Lincoln đắc cử tổng thống vào năm 1860. Vì trung thành với chủ trương ban đầu của đảng mẹ là Dân Chủ Cộng Hòa, cho nên Đảng Cộng Hoà tự xưng là Đảng Kỳ Cựu (Grand Old Party, G.O.P.)
Nhìn chung Đảng Dân Chủ Cộng Hòa ngay tự thủa ban đầu đã không song sinh, không ruột thịt, không cá biệt mà chỉ là một tâp hợp, một thực thể, một con người mang ý tưởng như người một nhà. Bởi thế theo dòng thời gian hoạt động đã nảy sinh biến chứng, dị biệt, bất đồng vì các thành viên tuy sống trong một tổ chức, nhưng không cùng quan điểm, không cùng chính kiến, không cùng đối thoại.
Người ta đã xử dụng hình thức đối thoại (Conversation) thành đối thọi (Confrontation) lẫn nhau trong những lần bầu cử tổng thống. Hậu quả là gia đình chính trị này phải ly dị, phải chia tay, chia con và chia gia tài thành ra Lưỡng Đảng (Dân Chủ và Cộng Hòa) mỗi bên nhận lấy một nửa, đường ai nấy đi, việc ai nấy làm, và ai muốn phò đảng nào thì tự quyết định ghi danh mà theo.
Tổng quan thì Đảng Cộng Hoà (Republican Party) có huy hiệu (Logo) là Con Voi và Ba Ngôi Sao (Elephan and 3 Stars) trước đây có nơi dùng huy hiệu là Chim Đại Bàng (Eagle) với biệt danh là Đảng Kỳ Cựu (Grand Old Party, G.O.P.) – Đảng Dân Chủ (Democratic Party) ngày trước có huy hiệu Gà Trống (Rooster) nhưng nay là Con Lừa (Donkey). Tuy nhiên chúng ta chưa bao giờ thấy Đảng Dân Chủ công bố huy hiệu Con Lừa, nhưng lại dùng biểu tượng Con Lừa một cách công khai.
Ngoài ra Hoa Kỳ còn có những Đảng Độc Lập (Independent Party), Đảng Tự Do (Libertarian Party), Đảng Xanh (Green Party), Đảng Xã Hội (Socialist Party)… Nhưng hai đảng lớn Dân Chủ và Cộng Hòa thường có đủ lực tranh cử và thay phiên nhau ngôi vị tổng thống để điều hành quốc gia.
5. Khác Biệt Cộng Hoà và Dân Chủ
Hai đảng có những nền tảng tổ chức khác biệt – Đảng Cộng Hoà gồm có những thành phần bảo thủ (Conservative) – Đảng Dân Chủ là đất dụng võ cho những người có chủ trương phóng khoáng về mặt xã hội (Liberal).
Đảng Cộng Hoà quan tâm đến con người – Đảng Dân Chủ phục vụ cho xã hội.
Đảng Cộng Hoà chú trọng sự sống con người, dù trong thời kỳ thai nhi nên đã chủ trương cấm phá thai, phò sinh (Pro-Life) – Đảng Dân Chủ không khuyến khích phá thai hay giết người, mà chỉ đề ra quan niệm là tự do chọn lựa tùy thuộc vào quyền quyết định của mỗi cá nhân (Pro-Choice), ai muốn giữ hay phá thai là thuộc quyền của người ấy với ý thức và trách nhiệm của họ.
Về đồng tính luyến ái thì Đảng Cộng Hoà chống triệt để – Đảng Dân Chủ thì tùy theo sở thích và quyết định của mỗi cá nhân để tự do chọn lựa.
Những vấn đề trên đã được tranh cãi hằng trăm năm qua, chớ không phải là chuyện thời sự, nhưng nhìn chung quan điểm này của Đảng Cộng Hoà đã phù hợp với giáo luật của các tôn giáo, gần gủi với phong tục của người Việt, thân quen với văn hóa của nhiều quốc gia Châu Á. Mặt khác xét về tình người và mọi người đều là con Thiên Chúa, ai cũng như ai thì bạn nghĩ sao?
Đảng Cộng Hoà muốn có một chính phủ trung ương gọn nhẹ, thay vì thành lập ra cơ quan chính quyền kồng kềnh để lo cho dân, và ủng hộ việc thành lập những tổ chức bất vụ lợi (Non-Profit) với hy vọng những tổ chức ấy sẽ giúp cho người nghèo có hiệu quả hơn là cơ quan công quyền – Đảng Dân Chủ lại có chủ trương thành lập những cơ quan chính phủ lớn mạnh để đủ sức điều hành quản trị và chăm sóc tất cả các lãnh vực đời sống nhân dân.
Đảng Cộng Hoà chủ trương thị trường súng đạn tự do, phò súng và ai muốn mua sắm vũ khí đạn dược cũng được, ngoại trừ thành phần tội phạm. Hội Súng Đạn NRA (National Rifle Association) gồm có những thành viên thuộc Đảng Cộng Hoà nhiều thế lực và giàu có, tài phiệt – Đảng Dân Chủ muốn hạn chế và kiểm soát việc lưu hành, xử dụng súng đạn trong cộng đồng xã hội. Nhưng tới ngày nay cho dù Tổng Thống Barack Obama tận tình tranh luận, đưa ra nhiều bằng chứng, luật kiểm soát súng đạn vẫn không được thông qua.
Đảng Cộng Hòa duy trì và bảo quản Thời Đại Công Nghiệp và Chủ Nghĩa Tư Bản (Industrial Age & Capitalism) – Đảng Dân Chủ ngày nay cổ vũ Thời Đại Tín Nghiệp và Chủ Nghĩa Tự Do (Information Age & Liberalism).
Như trước đây nhiều học giả ở thế kỷ 19 tiên đoán rằng, đợt sóng văn minh Thời Đại Công Nghiệp (Industrial Age) đã chiến thắng và hủy bỏ Chế Độ Nô Lệ của nền nông nghiệp cơ năng trong Thời Đại Nông Nghiệp (Agricultural Age) một cách vẻ vang, với sức mạnh cơ giới của đợt sóng thứ hai đã phát triển và mở mang đô thị, đường xá cầu cống, hãng xưởng sản xuất hàng loạt, vận tốc nhanh chóng, giáo dục phổ thông.
Tới nay khi đợt sóng thứ hai vẫn còn “công nghiệp hóa” trên nhiều quốc gia nghèo đói chậm tiến như ở Châu Á, Châu Phi… và con người nơi đó chưa được hưởng bình minh kỹ nghệ, thì đợt sóng thứ ba cũng lại được bắt đầu, khơi nguồn tại Hoa Kỳ từ khi phát minh máy điện toán (Computer) và liên thị tín liệu (Information). Nếu như máy hơi nước vào thế kỷ 18 đã mở ra thời đại công nghiệp, thì máy điện toán (Computer) đã bắt đâu khai trương một kỷ nguyên mới, một nền văn minh mới là hệ thống liên thị tín liệu, (Internet) một thời đại mới với tốc độ cực nhanh, siêu âm siêu sáng, được gọi là Thời Đại Tín Nghiệp (Information Age) do Đảng Dân Chủ phát huy.
Nhìn lại đợt sóng thứ hai là công nghiệp bắt đầu thực hành tại Hoa Kỳ vào khoảng năm 1650, thì đợt sóng thứ ba lại khởi sự chuyển đổi thời đại công nghiệp tiến sang thời đại tín nghiệp từ năm 1953 khi Hoa Kỳ phát minh ra máy điện toán. Vào thập niên này, lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại ghi nhận là giới công nhân lao động trí óc nhiều hơn, công nhân lao động chân tay.
Biểu tượng thời đại là máy điện toán, máy này đã làm cho tiền bạc chuyển ngân nhanh như tốc độ ánh sáng, đó cũng là điều mà các nhà kinh tế học thuở trước khó lường về vận tốc thời đại cực nhanh, như vừa chớp mắt thì đã xảy ra.
Thứ đến là các cấu trúc tổ chức chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao, giáo dục, xã hội… cải hóa và mang chiều hướng lưỡng hệ hay đa nguyên, tức có tính bình đẳng, bình quyền, bình nhiệm để thiết lập thể chế chính trị mới: Tân Dân Chủ (New Democracy) trong một Hiến Pháp mới của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ sẽ ra đời, mà cựu tổng thống Cộng Hòa đại diện công nghiệp đang vốn có sẵn chủ trương và làm sói mòn.
6. Thời Đại Tín Nghiệp (Information Age)
Luận bàn chuyện Thời Đại Tín Nghiệp (Information Age), trước hết chúng ta cần nhận diện về con người mới với nhu cầu Kiến Thức (Knowledge) và Thông Toàn (Wisdom) của nền kinh tế trong kỷ nguyên mới là “Điều kiện của tự do là tự chủ – điều kiện của tự chủ là tự quyết, là quyền được tự mình quyết định – điều kiện của tự quyết là khả năng nhận định và ý thức trách nhiệm mà dân chúng Hoa Kỳ hiện nay đang thực hành quyền làm người.
a. Quyền Tự Do Cá Nhân (Personal Freedom) được xem là tiêu chuẩn đầu hạng của mẫu người tín nghiệp hay người có kiến thức trong thời đại mới. Quyền tự do cá nhân đã được người bản xứ cổ súy, tôn trọng và được ghi trong Hiến Pháp Hoa Kỳ từ khi khởi sự thời đại kỹ nghệ.
Quyền này đã tạo cho người dân biết suy nghĩ, biết nhận xét, biết quyết định về những tư tưởng, sự vật, sự kiện mà mình được chọn lựa để mình được làm chủ chính mình. Người ta hành động theo nguyên tắc tự do lựa chọn (Freedom to choose), không bị ai lôi kéo, không bị ai sai khiến, không bị ai ép buộc, không bị ai chỉ đạo, động viên, tảy não, học tập cải tạo hay tuyên truyền một chiều, hoặc là độc tài, độc đảng, độc tôn như cựu tổng thống Donald Trump đang cổ vũ.
b. Quyền Tự Chủ (Free) thể hiện qua sự tự do lựa chọn, tự quyết về hành động của chính mình, tức là người ta có quyền lựa chọn một trong hai (tư tưởng, sự kiện, sự vật) sẵn có, mà không bị ép buộc, không bị hạn chế, không bị lệ thuộc bởi tác động bên ngoài. Người Hoa Kỳ có lối sống riêng biệt, từ cách thức sinh hoạt cho tới thói quen hành xử hàng ngày, quyền tự do cá nhân là bất khả xâm phạm, luôn được bảo vệ và sẵn sàng phản kháng.
Từ quyền tự do cá nhân được thể hiện phổ quát dẫn tới những quyền tự do trong sinh hoạt cộng đồng xã hội có tầm kích rộng lớn được suy tôn, như tự do phát biểu và diễn đạt tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do truyền thông… trở thành điều kiện quan trọng và là nhu cầu thiết yếu trong đời sống chính trị xã hội Hoa Kỳ.
c. Quyền Độc Lập (Independence) cũng là nét đặc trưng của người Hoa Kỳ. “Độc lập tự lực” là tự mình hành động, tự động là không ỉ lại, không nương tựa, không lệ thuộc, không ua dua theo bất cứ ai hay đảng phái phe nhóm nào. Người Hoa Kỳ thể hiện tinh thần độc lập, tự lập, tự túc, tự cường trong nguyên lý “tự do cá nhân,” và mong đợi người khác cũng hành xử như họ, để được xem là bình đẳng với nhau.
Nếu con người không có tinh thần độc lập, không tự hào về quyền tự lực cánh sinh của mình thì lại tự biến thành người nô lệ tân thời hay sinh vật kinh tế phục vụ tư bản đầu cơ (Speculator Capitalism).
d. Quyền Bình Đẳng (Equality) là điều kiện tối thượng của nhân quyền được xác quyết trong Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ, “mọi người sinh ra đều bình đẳng.” Bình đẳng để thăng tiến, để thành công, để đạt được hạnh phúc làm người. Bình đẳng trong luật pháp, bình đẳng trong hãng xưởng, bình đẳng trong học đường, bình đẳng trong xã hội, sắc tộc, giới tính.
Muốn có bình đẳng, bình quyền, bình nhiệm thì chúng ta cần thực hành những quyền nói trên. Bình đẳng có nghĩa là thượng tôn luật pháp và khác biệt với đồng đẳng vô nhân tính, hay sinh quái thai Cá Nhân Vị Kỷ (Personal Ego).
Tóm lại, quyền tự do cá nhân đã tạo ra mẫu người có khả năng nhận định (Identify) và ý thức trách nhiệm (Responsibility). Người Hoa Kỳ sống ngay thẳng, cởi mở, thành thật, giữ kỷ luật, đúng giờ và luôn tìm tòi, học hỏi, sáng tạo. Người Hoa Kỳ sống không bảo thủ, cố chấp, khuôn định và nhìn về cuộc sống tương lai với tinh thần lạc quan, tự tin tự hào.
Lịch sử chính trị Hoa Kỳ từ ngày lập quốc tới nay trải qua bao nhiêu thử thách, lúc thăng lúc trầm, lúc thịnh vương cũng như lúc gian nan… đã làm cho dân chúng luôn luôn tin tưởng về một tương lai tươi sáng hơn, tốt đẹp hơn, tự do hơn, hoàn hảo hơn. Tự lực và tự tin vào cá nhân để hướng về tương lai với niềm tự hào của dân tộc chớ người Hoa Kỳ không mê tín dị đoan, hay số phận, định mệnh an bài.
7. Công Bằng Xã Hội (Social balance)
Sự bình đẳng của Hoa Kỳ đã không mặc nhiên mà có, mà hưởng, mà phải trải qua bao cuộc tranh đấu Chống Bất Công Xã Hội và Phân Biệt Chủng Tộc (Fighting Social Injustice and Racism) bằng máu, bằng nước mắt và bằng sinh mạng của những người biểu tình xưa nay để bảo đảm cho quyền tự do cá nhân.
Chính quyền của bất cứ quốc gia nào cũng có nhóm đặc quyền đặc lợi (Privilege) hưởng thành quả công sức lao động của dân nước ấy mà chúng không trực tiếp tham gia sản xuất những giá trị khả dụng, để mà gây ra bất công và kỳ thị trong xã hội.
Thành thật mà nói rõ ràng rằng, nhóm đặc quyền hay tư bản đầu cơ (Speculator Capitalism) mà cựu tổng thống Donald Trump đã cổ súy cho các hoạt động mua bán các công cụ tài chính như ngoại tệ, cổ phiếu, trái phiếu… khi ông còn là tổng thống là nhằm mục đích “săn hái” kiếm tiền cho ông và nhóm tài phiệt của ông. Quả thế Săn Hái (Hunting) là hoạt động kiếm ăn dễ dàng nhất của con người ở thời đại tiền sử (Pre History).
Tư bản đầu cơ là sự tích luỹ của quá trình hình thành tỷ lệ lãi chung của hệ thống tư bản, và giá trị giao dịch của hoạt động đầu cơ tích trữ này là rất lớn.
Mặt khác, tư bản đầu cơ không tồn tại độc lập với tư bản kinh doanh sản xuất (Entrepreneurial Capitalism) mà chúng đứng trên vai, trên cổ hay trên đầu của tư bản sản xuất, chúng giám sát hoạch định và điều khiển tư bản sản xuất để chiếm phần đặc lợi.
Theo nhà nghiên cứu kinh tế xã hội ghi nhận rằng, chỉ tính riêng lượng tiền được luân chuyển qua thị trường tài chính hàng ngày cũng lên tới khoảng 25 nghìn tỷ Mỹ kim. Hoa Kỳ hiện có khoảng 10 phần trăm số người giầu đang nắm giữ tổng sản lượng quốc gia, và là nhóm đặc quyền đang gây bất công xã hội vì hưởng lợi vượt quá nhiệm vụ của họ.
Ví dụ, hàng ngày giới đặc quyền Hoa Kỳ có thể kiếm hàng triệu Mỹ kim, đang khi 90 phần trăm giới công nhân lao động thì nghèo khổ, lãnh đồng lương rẻ mạt, và chịu sưu cao thuế nặng.
Không giống các tư bản tài chính khác, tư bản đầu cơ không tạo ra giá trị thặng dư mà chỉ phân bổ lại giá trị thặng dư đó. Tư bản đầu cơ không tái đầu tư để thuê thêm nhân công, không mở rộng sản xuất, không mua nguyên vật liệu hay công nghệ mới.
Thay vào đó, lượng tư bản này được dùng vào các hoạt động đầu cơ, trong đó các nhà đầu tư đánh cược (Stake – Stakeholer Capitalism) với những biến động trong giá cã của thị trường chứng khoán với các công cụ tài chính.
Tóm lại, tư bản kinh doanh và sản xuất (business and production capitalism) là điều cần được phát huy, phát hành và phát triển mạnh, đẩy lùi hoạt động đầu cơ tiền tệ, chứng khoán, bất động sản nhằm mục đích ưu tiên cho sản xuất tạo của cải cho xã hội mới và thực hành công cuộc Cải Hóa Con Người (Human Transformation/ Information).
Bởi thế các khám phá về khoa học, kỹ thuật của thời gian công nghiệp ắt trở thành lỗi thời với thời đại tín nghiệp hiện tại. Hệ thống gíao dục cũng phải đổi mới để phù hợp với hiện cảnh và đáp ứng nhu cầu thời đại. Các cơ cấu tổ chức kinh doanh, xã hội, chính trị, quân sự, ngoại giao cũng được nghiên cứu phát triển và canh tân cải tiến theo kịp thời đại văn minh tín liệu.
Kiến thức là sự hiểu biết thấu đáo một hay nhiều vấn đề. Từ công ty cho tới cường quốc đều thu thập kiến thức trong mọi lãnh vực: truyền thông, văn hóa, nghiên cứu và phát triển bằng nhiều nguồn tài nguyên rộng lớn với những phương tiện tối tân. Phương cách để thu thập tin tức có gía trị là qua hệ thống điệp viên, tình báo, phản tình báo.
Chiến lược kiến thức của quá khứ, hiện tại, và tương lai là tìm cách chuyển các nhân tài/ thiên tài của nước người thành ra của nước mình. Vì nhân tài/ thiên tài là người thông minh, là kho tàng kiến thức, do đó các sinh viên/ học sinh ưu tú khắp nơi đều được cấp học bổng, cấp thông hành du học.
Ngay tự ngàn xưa, vấn đề nhân tài và mỹ nữ đã trở thành mối quan tâm đối với triều đình đế quốc, và trong nhiều giai thoại, nhân tài hay mỹ nữ đã làm thay đổi cuộc diện chính trường hay chiến trường của quốc gia. Để thâu nạp và chiếm hữu nhân tài của các nước lân bang, thì đế quốc thời đại nông nghiệp “chiêu hiền đãi sĩ” hoặc tìm bắt nhân tài qua hình thức ngoại giao triều cống.
Triều cống là dâng nạp phẩm vật hoặc người tài cho nước thống trị. Thời kỳ ngàn năm đô hộ ngày xưa Việt Nam phải triều cống Trung Quốc theo ưu tiên thuộc lòng: “Thứ nhất nhân tài, thứ nhì mỹ nữ, thứ ba tiền vàng.” Thời nay chính sách thâu nạp nhân tài để phục vụ “thiên triều” vẫn còn áp dụng qua những chương trình “săn người” như viện trợ, học bổng, di dân, tuyển mộ chuyên viên nghiên cứu, du học sinh, và kể cả lớp người tỵ nạn hiện nay.
Tiếp đến quân sự hay dân sự, cũng đều xử dụng chiến thuật “Tát cạn thông minh” bằng cách một là hủy diệt nhà thông thái của đối phương, hai là thâu nạp các nhà bác học. Và một trong những bí quyết của siêu cường ngày nay, là “ăn trộm thông minh” của các nước chậm tiến.
Đảng Cộng Hoà muốn dành ngân sách tối đa cho quốc phòng, như chương trình xây rào dậu biên giới Hoa Kỳ và Mễ Tây Cơ của Tổng Thống Donald Trump – Đảng Dân Chủ lại muốn dùng tiền ấy cho những mục đích an sinh xã hội.
Đảng Cộng Hoà thiên về giải pháp quân sự trong xung đột quốc tế – Đảng Dân Chủ lại chủ trương giải quyết xung đột bằng đường lối ngoại giao trước khi phải xử dụng quân đội.
Đảng Cộng Hoà chống chương trình y tế công cộng và ủng hộ sự lựa chọn cá nhân Pro-Choice, dựa vào chế độ bảo hiểm y tế tư của các hãng xưởng, công ty xí nghiệp – Đảng Dân Chủ lại cho rằng bảo hiểm y tế không phải là một đặc ân (Privilege) mà là một thứ quyền phải được bảo đảm (Right) cho nên chính phủ phải quan tâm. Lưỡng đảng khi ra tranh cử tổng thống đều hứa hẹn không biết bao lần, nhưng thực tế là sau khi đắc cử từ xưa tới nay vẫn có hàng triệu người Mỹ không có bảo hiểm y tế hay sức khỏe.
Ví dụ: Hai Ứng Viên Tổng Thống kỳ trước, Cộng Hòa John McCain hứa rằng nếu ông đắc cử thì mỗi công dân sẽ nhận lãnh 2,500 Mỹ Kim. Và mỗi gia đình được 5,000 Mỹ Kim trích ra từ nguồn tiền mà ông gọi là Tax Credits để tự mua bảo hiểm ở các công ty tư nhân.
Đang khi Dân Chủ Barrack Obama lại phát biểu, những ai đã có bảo hiểm dưới bất cứ dạng thức nào thì giữ nguyên trạng. Còn những người chưa có bảo hiểm sẽ được chính phủ Liên Bang lo liệu. Bên nào nói thì chúng ta nghe cũng đều hấp dẫn, nhưng chưa biết Tổng Thống Hoa Kỳ có thực hiện được không, vì đó chỉ là lời hứa của các ứng viên khi ra tranh cử xưa nay.
Về giáo dục Đảng Cộng Hoà chủ trương tư nhân hoá, không ủng hộ hệ thống trường công lập, và đã từng lên án hệ thống này cũng như tổ chức công đoàn (Union) của ngành giáo chức. Thậm chí trước đây nhiều người Cộng Hoà đã chống đối sự hình thành của Bộ Giáo Dục (The United States Department of Education) khi bộ nầy được thành lập vào năm 1979.
Đang khi Đảng Dân Chủ Pro-Choice về vấn đề phá thai và đồng tính luyến ái, thì Đảng Cộng Hoà lại Pro-Choice về vấn đề giáo dục, với chủ trương cấp tín phiếu (Vouchers) cho sinh viên để có thể tự chọn theo học bất cứ trường tư nào mà người ấy muốn.
Đảng Cộng Hoà có truyền thống giảm thuế cho mọi người nhằm khuyến khích dân chúng mạnh dạn chi tiêu, mua sắm và cho rằng sự tiêu dùng của người dân sẽ thúc đẩy kinh tế phát triển tốt hơn là sự chi tiêu của chính phủ. – Đảng Dân Chủ thì làm ngược lại, tin tưởng rằng chính phủ phải đóng vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu sự nghèo đói và bất công xã hội. Để có thể làm chuyện nầy, họ chủ trương tăng thuế.
Theo đúng chủ trương của đảng mình, ví dụ: Tổng Thống Cộng Hoà Donald Trump cũng thực hiện chính sách của Tổng Thống Bush, chủ trương giảm thuế cho tất cả mọi người, kể cả người giàu. Kỳ trước Tổng Thống Dân Chủ Barack Obama tuyên bố không tăng thuế cho bất cứ người nào có thu nhập hàng năm 250,000 Mỹ Kim trở xuống, và tăng thuế những ai có thu nhập trên số ấy vì cần đánh thuế vào người giàu có, những triệu phú hay tỷ phú.
Song song với sự giảm thuế, Cộng Hoà chống sự tăng lương cho công nhân, viên chức vì như thế sẽ ảnh hưởng đến việc làm ăn của các ngành nghề. Nếu đòi tăng lương, chủ nhân của những ngành nầy sẽ sa thải công nhân, giảm các dịch vụ cung cấp, ảnh hưởng xấu đến sinh hoạt kinh tế. – Chính sách của Dân Chủ thì ngược lại, thay vì giảm thuế và giữ mức lương cố định, đảng chủ trương tăng lương để giúp đỡ giới lao động nghèo, và khi giới này có thu nhập khá, nhờ tăng lương thì cũng sẵn sàng mua sắm để thúc đẩy kinh tế.
Phần lớn người Cộng Hoà tin rằng sinh hoạt của con người không ảnh hưởng lớn đến bầu khí quyển và trái đất. Nhưng nếu có hiện tượng gọi là toàn cầu bị nóng lên (Global Warming) thì đó là chuyện tự nhiên không phải do con người làm ra.
Cộng Hòa cho rằng, nếu áp đặt những điều luật khắt khe để bảo vệ môi trường thì sẽ ảnh hưởng xấu đến sinh hoạt kinh tế. – Ngược lại Đảng Dân Chủ tin rằng ngoài thiên nhiên, chính sự sinh hoạt bừa bãi của con người đã làm cho trái đất nóng dần, bầu khí quyển trở nên ô nhiểm, tạo môi trường cho virus phát sinh. Công trình nghiên cứu của cựu Phó Tổng Thống Dân Chủ Al Gore đã chứng minh điều này và đoạt giải Nobel.
Vì thế quan điểm môi sinh của phía Cộng Hoà cũng dần dà thay đổi trước những công trình nghiên cứu khoa học và sức ép của quốc tế. Ví dụ, vào năm 2008 Chính phủ Bush đã chấp nhận và giảm lượng khí thải nhà kính trước sự thay đổi khí hậu của quả địa cầu.
Nhưng Tổng Thống Cộng Hòa Donald Trump lại rút tên khỏi Hiệp Định Paris (2015) với chính sách “Nước Mỹ Trước Tiên” vì gây tổn hại cho Hoa Kỳ và không giúp các quốc gia gây ô nhiễm làm giàu.
Đảng Dân Chủ mang tiếng là thủ phạm của các chương trình trợ cấp xã hội. Nhưng vào năm 1996, dưới thời Tổng Thống Bill Clinton (1993-2001) đã thực hiện việc Cải Tổ Trợ Cấp (Welfare Reform) đòi hỏi những người nhận trợ cấp phải có việc làm bán thời gian. Chương trình cải tổ này của Dân Chủ cũng được Đảng Cộng Hoà ủng hộ mạnh mẽ.
Đảng Cộng Hoà chủ trương một nền kinh tế gọi là Laissez-Faire Economics, chính sách kinh tế để mặc cho tư nhân vận hành, chính phủ không nên đóng một vai trò uốn nắn nào cả. Đảng Dân Chủ thì ngược lại với chủ trương chính phủ phải để mắt vào tất cả mọi sinh hoạt của quốc gia, kể cả kinh tế.
Nhưng vụ khủng hoảng kinh tế đã làm Tổng Thống Cộng Hòa George W. Bush (2000) phải tạm quên truyền thống Cộng Hoà mà hành động như người Dân Chủ can thiệp mạnh mẽ vào kinh tế, kêu gọi quốc hội chuẩn thuận ngân sách 700 tỷ để cứu nguy các hệ thống ngân hàng và thị trường chứng khoán sụp đổ.
Tổng Thống Bush đã bị đa số các dân biểu và thượng nghị sĩ Cộng Hoà chống đối và kết án ông là người đầu hàng Dân Chủ. Nhờ sự ủng hộ đông đủ của phía Dân Chủ nên dự luật can thiệp vào kinh tế mới được thông qua.
Từ khi thành lập Đảng Cộng Hoà đi tiên phong trong cuộc giải phóng chế độ nô lệ, nên đã thu hút đa số người da đen. Nhưng hiện nay người ta cho rằng Cộng Hoà là Đảng của người da trắng, của những người có thế lực giàu có, cho nên đảng không còn nhiều người da đen ủng hộ.
Đảng Dân Chủ lập trường lúc đầu cũng chao đảo, khi thì ủng hộ chủ trương giải phóng nô nệ, khi thì lại muốn duy trì hai đạo luật “phò nô” Fugitive Slave Law và Kansas-Nebraska Act. Nhưng tới nay lại được coi là đảng của những người thiểu số, được đa số người da đen và các nhóm dân thiểu số ủng hộ, vì đảng phục vụ theo nhu cầu của thời đại tín nghiệp.
Theo tài liệu Thư Viện, thì đa số người Việt thế hệ già thường bầu cho Cộng Hoà, ngược lại thế hệ trẻ có khuynh hướng ủng hộ Dân Chủ, và các sắc dân Á Đông: Nhật, Tàu, Ấn Độ, Đại Hàn cũng phần lớn bầu cho Dân Chủ.
Dư luận đồn rằng về khả năng quốc phòng thì Cộng Hoà có ưu thế hơn Dân Chủ, nhưng Đảng Dân Chủ lại điều hành về kinh tế tốt hơn Cộng Hoà. Nhìn lại lịch sử, những cuộc khủng hoảng kinh tế đều rơi vào thời Tổng Thống Cộng Hoà.
Cuộc Đại Khủng Hoảng I (Great Depression) vào năm1929 dưới thời Tổng Thống Cộng Hoà Herbert Clark Hoover, từ thị trường chứng khoán Phố Wall, khủng hoảng lan rộng ra tất cả các lĩnh vực khác, và trở thành cuộc khủng hoảng toàn diện kinh tế, chính trị, xã hội khiến cho hàng triệu người thất nghiệp, hàng triệu người bị mất nhà cửa, hàng triệu người chết đói không có của ăn trong khi hãng sản xuất thực phẩm thừa thãi phải đổ xuống biển.
Mọi thứ chỉ thay đổi khi Tổng Thống Dân Chủ Franklin Delano Roosevelt đắc cử vào năm 1932, can thiệp và khởi động chương trình trợ cấp thất nghiệp cho người dân, ổn định thị trường bằng cách hạn chế sản xuất vì cung nhiều hơn cầu, khuyến khích phát triển chương trình an sinh xã hội (social security program).
Thực là chuyện có một không hai trong lịch sử chính trị, Dân Chủ đã cải tổ các hoạt động của cơ quan chính quyền, chấn hưng được nền kinh tế từ thời đó tới nay. Dân Chủ cũng đạt một kỳ công là thiết lập được chương trình Phúc Lợi Xã Hội (Welfare and Social Security) giúp đỡ người nghèo, giải quyết vấn đề bất công xã hội mà cho tới nay nhiều người vẫn còn được hưởng.
Suy trầm kinh tế (Economic Recession) toàn cầu 2007-2008 là Cuộc Đại Khủng Hoảng II lại xảy ra dưới thời Tổng Thống Cộng Hòa George W. Bush (2001-2009), tình hình cũng tương tợ thời Thế Chiến II. Bên cạnh chiến sự khó khăn tại Iraq và A Phú Hãn, tình trạng kinh tế Hoa Kỳ cũng trên bờ vực thẳm, đổ vỡ hàng loạt hệ thống ngân hàng, đói tín dụng, sụt giá chứng khoán và mất giá tiền tệ quy mô lớn khiến cho hãng xưởng xí nghiệp phải đóng cửa, đa số người dân thiệt hại. Cuộc khủng hoảng từ Hoa Kỳ lan rộng ra khắp nơi trên thế giới, dẫn tới đổ vỡ tài chính, suy thoái kinh tế, suy giảm tốc độ tăng trưởng của nhiều nước trên thế giới.
Tổng Thống Dân Chủ Barack Obama (2009-2017) trong nhiệm kỳ đầu với sáng kiến kích thích nền kinh tế dẫn đến việc ban hành Đạo Luật Phục Hồi và Tái Đầu Tư (2009), Đạo Luật Giảm Thuế và Tạo Việc Làm (2010) để có thể đối phó với suy thoái trong giai đoạn 2007-2009 của Cộng Hòa. Tiếp đến Dân Chủ ban hành các Đạo Luật Chăm Sóc và Bảo Vệ Bệnh Nhân Hợp Túi Tiền, Bảo Vệ Người Tiêu Dùng, và bãi bỏ Đạo Luật Don’t Ask, Don’t Tell Repeal Act (2010).
Sự bùng phát nạn dịch Ebola Virus ở Châu Phi, thì ngày 16 tháng 9 năm 2014 Tổng Thống Dân Chủ cảnh báo về dịch bệnh không chỉ đe dọa đến an ninh khu vực, mà còn là mối đe dọa tiềm ẩn đối với an ninh thế giới. Vì nếu các nước sụp đổ, kinh tế nổ bùng thì toàn dân hoảng loạn và ảnh hưởng trầm trọng tới Hoa Kỳ.
Hoa Kỳ đã cấp tốc gởi 3000 quân nhân phòng chống Ebola Virus đến vùng Tây Phi, và kêu gọi cả thế giới hành động nhanh chóng để cứu giúp cho hàng trăm ngàn người bị lây nhiễm. Hoa Kỳ sẵn sàng đóng vai trò trọng yếu trong việc đối phó với dịch bệnh đang lây lan rất nhanh, với tỷ lệ tử vong rất cao.
Hoa Kỳ đã thiết lập một trung tâm chỉ huy ở Monrovia thủ đô Liberia, một trong ba quốc gia bị Ebola Virus hoành hành. Hoa Kỳ đã lập một cầu không vận để vận chuyển thiết bị và nhân viên y tế một cách nhanh chóng đến Châu Phi. Hoa Kỳ đã xây dựng những trung tâm điều trị mới, những bệnh viện dã chiến, và lập một trung tâm huấn luyện đào tạo y khoa mỗi tuần 500 nhân viên cho các nước bị nạn dịch.
Theo thống kê của Tổ Chức Y Tế Thế Giới (WHO), Ebola Virus vừa lây lan đã khiến cho hơn 2.400 người thiệt mạng, trong tổng số gần 5,000 ca nhiễm. Theo dự báo thì có tới 20,000 người bị lây nhiễm trong một thời gian rất ngắn, nhưng nhờ sự can thiệp nhiệt tâm nhiệt tình của Hoa Kỳ đã kịp thời chận đứng cơn đại dịch và giải cứu nhân loại.
Theo BBC: Vào năm 2019 Bộ Y tế và Nhân Sự Vụ dưới quyền Tổng Thống Cộng Hòa Donald Trump đã tiến hành một cuộc diễn tập đại dịch Bệnh truyền nhiễm Đỏ, trong đó Hoa Kỳ giả định là có một đại dịch cúm xuất phát từ Trung Quốc và lây lan ra khắp thế giới.
Nhưng Đại Khủng Hoảng III vẫn tái diễn bao gồm khủng hoảng y tế, khủng hoảng kinh tế, khủng hoảng tài chánh khi chỉ số thị trường chứng khoán suy thoái do tác động của đại dịch Corona Virus trên toàn thế giới, toàn bộ các quốc gia, toàn thể nhân loại.
Corona Virus chủ yếu truyền bệnh ở động vật, nhưng đã tiến hóa và lây nhiễm sang người, như đã thấy ở SARS, MERS và 4 loại Corona Virus khác được tìm thấy ở người gây ra các triệu chứng nhẹ về hô hấp như cảm lạnh thông thường. Cả 6 loại đều có thể lây từ người sang người.
Năm 2002, với nguồn gốc từ cầy hương từ các chợ động vật sống, một đợt bùng phát SARS bắt đầu ở đại lục Trung Quốc và lan đến tận Canada và Hoa Kỳ, khiến hơn 700 người tử vong trên toàn thế giới. Trường hợp cuối cùng xảy ra vào năm 2004. Vào thời điểm đó, Trung Quốc bị WHO chỉ trích vì cách xử lý dịch bệnh.
Mười năm sau khi xuất hiện SARS, Corona Virus liên quan đến Lạc Đà một bướu, MERS, khiến 750 người tử vong ở 27 quốc gia.
Trước khi bùng phát dịch Corona Virus 2019–2020, một nghiên cứu tiến hành trong tự nhiên công bố năm 2015 đã cảnh báo nguy cơ tiềm tàng tái phát dịch SARS-CoV, dựa trên các chủng Virus tồn tại trong quần thể dơi ở Trung Quốc.
Dựa trên nguyên lý kỹ thuật di truyền ngược mã gen SARS-CoV, một nhóm nghiên cứu tên là Ralph Baric đã tạo ra và miêu tả tính chất của coronavirus SHC014, một loại virus Chimera có Protein gai (Protein S, Spike Protein) lấy từ chủng SARS-CoV đã thích nghi với chuột.
Việc sử dụng kháng thể và Vaccine đơn dòng đều thất bại trong việc vô hiệu hóa và phòng ngừa nhiễm CoV có Protein gai trên bề mặt nêu trên. Nhiều trường hợp “viêm phổi không rõ nguyên nhân” tập trung ở chợ bán động vật và cá của thành phố Vũ Hán, tỉnh Hồ Bắc của Trung Quốc từ cuối tháng 12 năm 2019.
Trong khu chợ này có khoảng ngàn quầy bán gà, mèo, gà lôi, dơi, marmota, rắn độc, hươu đốm, các bộ phận của thỏ và nhiều loài động vật hoang dã khác, do đó đã dẫn đến sự nghi ngờ rằng nguyên nhân gây bệnh có thể là một loại Corona Virus mới được bắt nguồn từ động vật. Trái lại những tin tức Corona Virus -19 khác đều không có chứng cớ đích xác.
Việc dịch bệnh ở Vũ Hán có nguồn gốc liên quan đến một thị trường lớn chuyên bán hải sản và động vật để tiêu thụ đã dẫn đến khả năng bệnh bắt nguồn từ động vật. Điều này dẫn đến nỗi lo ngại rằng dịch bệnh sẽ tương tự như sự bùng phát SARS trước đó, thậm chí một mối lo ngại trầm trọng hơn trước bởi một lượng lớn người dân dự kiến sẽ đi du lịch vào dịp Tết Nguyên Đán này khiến cho dịch bệnh dễ dàng lây lan nhanh chóng ở nhiều nơi trên thế giới, bắt đầu từ ngày 25 tháng 1 năm 2020.
Khi Covid-19 mới bùng phát, Tổng Thống Cộng Hòa Donald Trump đã hạ thấp mức độ nghiêm trọng của bệnh dịch và cho rằng đến tháng 4, dịch bệnh sẽ “biến mất diệu kỳ.” Tuy nhiên, cuối tháng ba Mỹ trở thành vùng dịch bệnh lớn nhất toàn cầu và hiện cũng là vùng dịch bệnh chết chóc nhất thế giới với hơn 760.000 ca nhiễm và hơn 40.000 người chết.
Đang khi thế giới thì trong tình trạng mâu thuẫn và đối nghịch gia tăng giữa các cường quốc, giữa chủ nghĩa dân túy và toàn cầu… khiến cho nạn dịch bùng phát, truyền thông dối trá (Fake News) đang được cổ vũ và có tổ chức bài bản… Tất cả đang tạo cho Trung Quốc một cơ hội thuận lợi để chi phối tiến trình toàn cầu hóa, xâm lược giống như Cô Vi nhằm thực hiện chính sách mượn đất đã có từ thời Hán Vũ Đế, một đối sách với dân nước Việt Nam xưa nay.
Phạm Văn Bản
ThíchThích