Jerusalem: Những thăng trầm lịch sử – Phần 2

jerusalem

Simon Sebag Montefiore

 Trần Quang Nghĩa dịch

CHƯƠNG 7

NGƯỜI MACEDON (336–166 TCN)

ALEXANDER ĐẠI ĐẾ 

Trong vòng ba năm sau khi vua cha băng hà vào năm 336 TCN, Alexander đã hai lần đánh bại vua  Ba Tư Darius III, buộc y phải rút quân về đông. Lúc đầu Alexander không truy đuổi, mà hành quân dọc theo bờ biển hướng về Ai Cập và ra lệnh cho Jerusalem đóng góp lương thảo cho quân đội ông.  Giáo trưởng lúc đầu từ chối. Nhưng không được lâu: khi Tyre kháng cự ông, Alexander vây hãm thành phố và khi nó thất thủ, ông đóng đinh tất cả người còn sống sót trong thành.

Alexander ‘cấp tốc hành quân đến Jerusalem’, sử gia Do Thái  Josephus viết sau đó rất lâu, cho rằng nhà chinh phục được các giáo trưởng  trong lễ phục tím và đỏ tía và tất cả cư dân Jerusalem thì lễ phục trắng tinh chào đón tại cổng thành. Họ rước ông vào Đền Thờ làm lễ hiến tế Chúa Trời Do Thái. Câu chuyện trên có lẽ do tưởng tượng mơ mộng: chắc chắn hơn là giáo trưởng, cùng với các lãnh đạo dân Samaritan xứ Samaria bán-Do Thái đến trình diện Alexander tại bờ biển ở Rosh Ha Ayim nơi ông đóng quân và rằng, bắt chước Cyrus, ông công nhận quyền được sống theo luật lệ của họ.*

Người Samaritan đã phát triển giáo phái bán-Do Thái riêng rẽ của họ, dựa trên Do Thái giáo được tạo ra trước khi đưa vào những luật lệ mới thuộc Babylon. Dưới đế chế Ba Tư, Samaria được cai trị bởi các thống đốc thuộc dòng dõi Sanballat. Việc họ tách ra khỏi Jerusalem khuyến khích họ xây dựng Đền Thờ của riêng mình trên Núi Gerizim và họ có mối thù truyền kiếp với người Do Thái và Jerusalem. Như tất cả những hiềm khích giữa các gia đình, nó thường xuất phát từ những khác biệt nhỏ nhoi. Người Samaritan trở thành những công dân hạng hai, bị người Do Thái khinh bỉ xem là tà giáo. Cho nên khi Jesus giảng về ‘người Samaritan tốt lành’, đó được coi như một phát biểu gây kinh ngạc. Có khoảng 1,000 người Samaritan còn sống ở Israel: rất lâu sau khi tập tục hiến tế Do Thái đã bị hủy bỏ, trong thế kỷ 21 người Samaritan hàng năm vẫn còn hiến tế cừu trên Núi Gerizim trong ngày lễ Vượt Qua.

Sau đó ông dấn tới chinh phục Ai Cập, tại đó ông thiết lập thành phố Alexandria trước khi thẳng tiến về đông, và không bao giờ quay trở lại.

Sau khi kết liễu đế chế Ba Tư và mở rộng bá quyền đến tận Pakistan, Alexander bắt đầu kế hoạch vĩ đại của mình, xáp nhập Ba Tư và Macedon thành một siêu cường duy nhất để thống trị thế giới. Dù không hoàn toàn thành tựu, ông vẫn biến đổi thế giới nhiều hơn bất kỳ nhà chinh phục nào trong lịch sử nhờ công cuộc truyền bá phiên bản của ông về Hellenikon – văn hóa, ngôn ngữ, thi ca, tôn giáo, thể thao và triều đại Homer của Hy Lạp – từ các sa mạc ở Lybia cho đến các chân đồi ở Afghanistan. Phong cách sống Hy Lạp đã trở thành phổ biến tựa như phong cách Anh trong thế kỷ 19 hoặc phong cách Mỹ trong thế giới ngày nay. Từ giờ trở đi, thậm chí các kẻ thù Do Thái độc thần của nền văn hóa mang tính triết lý và đa thần này cũng không thể không nhìn thế giới qua lăng kính mang bản chất Hy Lạp.

Vào ngày 13/6/323, tám năm sau khi chinh phục thế giới được biết đến vào thời bấy giờ, Alexander qua đời ở Babylon vì sốt cao hay vì bị đầu độc, ở tuổi 33. Những chiến binh trung thành của ông lần lượt diễu qua chiếc giường  ông nằm mà đầm đìa nước mắt. Khi họ hỏi ông sẽ trao đế quốc của mình cho ai, ông trả lời: ‘Cho người hùng mạnh nhất.’

PTOLEMY: CƯỚP BÓC TRONG NGÀY SABBATH

Trận so tài để tìm ra người hùng mạnh nhất là cuộc chiến 20 năm giữa các tướng lĩnh của Alexander. Jerusalem bị quăng ném giữa các chúa tể Macedon này, khiển ‘những điều xấu ác nhân lên trên mặt đất’. Trong cuộc so tài giữa hai kình địch hàng đầu, Jerusalem sang tay qua lại sáu lần. Cô nàng bị Antigonos độc nhãn cai trị 15 năm, cho đến năm 301 thì y bị giết trong một trận đánh và người đắc thắng, Ptolemy, đến bên ngoài tường thành để tuyên bố chủ quyền đối với Jerusalem.

Ptolemy là anh em họ với Alexander, một cựu tướng lĩnh đã từng chinh chiến từ Hy Lạp đến Pakistan, tại đó ông đã chỉ huy hạm thuyền Macedon trên sông Ấn. Ngay sau khi Alexander băng hà, ông được ban cho xứ Ai Cập. Khi nghe tin đám đưa tang của Alexander Đại Đế đang trên đường về Hy Lạp, ông vội vã vượt qua Palestine để chặn lại và mang thi hài ông trở về an táng tại kinh thành của ông, Alexandria. Người bảo vệ cho tay cự phách Hy Lạp trở thành người giữ lửa của ông. Ptolemy không chỉ là một chủ tướng: chiếc cằm nhọn và mũi thấp của một chiến binh trong hình in trên đồng tiền trái ngược với tính tinh tế và lương tri thông thường của ông.

Giờ Ptolemy bảo với người Jerusalem rằng ông muốn vào thành phố trong ngày lễ Sabbath để hiến tế Thần Do Thái. Người Do Thái cả tin vào ‘thiện ý’ này và thế là Ptolemy chiếm lấy thành phố, nhờ đó mới phát hiện được mức cuồng tín trong việc hành lễ của người Do Thái. Nhưng khi mặt trời lặn (thời khắc lễ Sabbath kết thúc), người Do Thái chiến đấu lại. Thế là binh lính Ptolemy càn quét khắp thành phố –  ‘nhà cửa bị vơ vét, phụ nữ bị hãm hiếp; và phân nửa dân thành phố bị cầm tù’. Ptolemy cắt đặt lực lượng đồn trú tại Pháo đài Baris, do Nehemiah xây dựng ở phía bắc Đền Thờ, và lưu đày hàng ngàn người Do Thái đến Ai Cập. Tại đó ông thành lập một cộng đồng Do Thái nói tiếng Hy Lạp trong kinh thành tráng lệ Alexandria của ông. Ở Ai Cập, Ptolemy và những người kế vị ông trở thành những pha-ra-ông; ở Alexandria và vùng Địa Trung Hải họ là những vì vua Hy Lạp. Ptolemy Soter – ‘vị Cứu Tinh’ như cách ông được gọi – công nhận các thần linh bản xứ, Isis và Osiris, và những truyền thống vua chúa Ai Cập, xiển dương triều đại mình như những vị vua thần thánh Ai Cập đồng thời là những quân vương Hy Lạp á thần. Ông và các con chinh phục Cyprus,  Cyrenaica và rồi Anatolia và các đảo Hy Lạp. Ông hiểu rằng không những cần sự hoành tráng mà còn  cần văn hóa mới tạo cho ông tính hợp pháp và sự vĩ đại. Vì thế ông biến Alexandria thành một kinh đô Hy Lạp vĩ đại nhất thế giới, giàu sụ và tinh tế, thiết lập các viện Bảo tàng và Thư viện, chiêu mộ các học giả Hy Lạp và cho xây dựng Tháp Hải đăng Pharos, một trong Bảy Kỳ Quan Thế giới. Đế chế ông kéo dài 300 năm đến tận hậu duệ cuối cùng – Cleopatra.

1

Đồng tiền in hình Ptolemy Soter

Ptolemy sống đến tuổi bát tuần, và viết một tiểu sử về Alexander. Ptolemy II Philadelphos ưa chuộng người Do Thái, trả tự do cho 120,000 nô lệ Do Thái và gởi vàng về tô điểm cho Đền Thờ. Ông hiểu rõ sức mạnh của sự phô trương và vẻ diễm lệ. Năm 275 ông tổ chức một lễ diễu hành cho một số quan khách được tuyển chọn nhân danh Dionysus, thần rượu vang và sự sung túc, trong đó một túi đựng rượu rất lớn làm bằng da báo chứa được 200,000 ga-long rượu vang và một dương vật dài 180 bộ và rộng 9 bộ được rước đi cùng với đàn voi và những thần dân từ mọi miền của đế chế mình. Ông cũng là một nhà sưu tập sách tham lam. Khi giáo trưởng gởi ông 20 cuốn sách của bộ Kinh thánh Tanakh * Do Thái đến Alexandria, nhà vua ra lệnh dịch ngay sang tiếng Hy Lạp. Ông kính trọng sự uyên bác của các học giả Do Thái ở Alexandria và mời họ đến bàn tiệc để thảo luận về bản dịch: ‘mọi thứ’, nhà vua hứa, ‘sẽ được phục vụ tùy theo thói quen của các ông và cả tôi nữa.’ Người ta kể rằng trong 70 ngày 70 học giả mỗi người đều đưa ra những bản dịch y chang. Kinh Thất Thập này đã thay đổi lịch sử Do Thái và nhờ đó sau này Kitô giáo mới có thể được truyền bá. Nhờ Alexander, tiếng Hy Lạp trở thành ngôn ngữ quốc tế; và giờ đây, lần đầu tiên, gần như mọi người đều có thể đọc được Kinh thánh.

*  Tanakh là một từ ghép từ những chữ Hebrew có nghĩa là Luật, Nhà Tiên tri và Bài viết, những bộ sách sau này người Kitô gọi là Cựu Ước. 

 Chú thích: Sau khi Alexander qua đời, đế chế của ông được bốn tướng lĩnh đồng ý phần chia như sau:

  1. Lysimachus – lấy Thrace và phần lớn vùng Tiểu Á.
  2. Cassander – kiểm soát Macedon và Hy Lạp. Về sau bị tướng Antigonos Độc Nhãn cướp quyền cai trị.
  3. Ptolemy I – cai trị Ai Cập, Palestine, Cilicia, Petra và Cyprus.
  4.  Seleucus I Nicator – cai trị phần còn lại của châu Á và thành lập Đế chế Seleucid gồm Mesopotamia, Levant, Ba Tư, và một phần Ấn Độ.

JOSEPH NHÀ TOBIAD

Jerusalem vẫn duy trì là một tiểu quốc bán độc lập bên trong đế chế Ptolemy, và xứ Judah ban hành đồng tiền riêng của mình, có khắc chữ ‘Yehud’. Nó không chỉ là một thực thể chính trị mà còn là một thành phố riêng của Chúa Trời được cai trị bởi các giáo trưởng. Những chồi mầm của dòng dõi Onias, nhận mình là hậu duệ của giáo trưởng Zadok trong kinh thánh, mặc tình thừa dịp tích lũy của cải và quyền lực, miễn là họ nộp cống cho triều đình Ptolemy. Vào thập niên 240, Giáo trưởng Onias II cố giữ lại 20 ta-lăng bạc phải nộp cho Ptolemy III Euergetes. Sự kiện này tạo cơ hội cho một thanh niên Do Thái giao thiệp rộng quyết định qua mặt vị giáo trưởng không chỉ vì Jerusalem mà còn vì toàn đất nước.

Gã phiêu lưu này là cháu ruột của giáo trưởng, Joseph,* lên đường đến Alexandria nơi nhà vua đang tổ chức một buổi đấu giá: những người tham gia đấu giá sẽ trả một số tiền triều cống lớn nhất để đổi lấy quyền cai trị và đánh thuế vùng lãnh thổ của họ. Những ông lớn  Syria chế giễu chàng trai Joseph nhưng anh chàng chơi trội hơn họ với một sự tự tin quá mức. Anh xoay sở gặp được nhà vua trước tiên và lấy lòng được ngài. Khi Ptolemy III yêu cầu mọi người đưa ra giá đấu, chàng Joseph bốc trời này đấu thắng các đối thủ trên mọi lãnh thổ ở Coele-Syria, Phoenicia, Jerusalemudah và Samaria. Nhà vua yêu cầu Joseph nộp con tin như diều lệ để bảo đảm tiền triều cống đã hứa của chàng. ‘Thần sẽ không giao nộp bệ hạ ai cả,’ chàng trai Jerusalem ngạo nghễ trả lời, ‘ngoài chính bệ hạ và hoàng hậu.’ Joseph có thể đã bị tử hình cho lời nói phạm thượng này nhưng Ptolemy chỉ cười vang và chấp thuận.

  *  Gia đình Joseph là người Do Thái có nguồn gốc pha tạp, có thể là dòng dõi của một ông bố Tobiah người ở Ammom đã từng chống đối Nehemiah. Cha Tobiah của ông là một người có thế lực và thân cận với  Ptolemy II – văn khố của một quan triều tên Zenon cho thấy ông đã từng buôn bán với nhà vua – và cai quản những điền sản đồ sộ ở Ammon (thuộc Jordan ngày nay).

Joseph trở lại Jerusalem với 2,000 bộ binh Ai Cập. Anh còn nhiều việc phải làm. Khi Ashkelon không chịu nộp thuế, anh tàn sát 20 công dân hàng đầu của thành phố. Ashkelon chịu nộp.

Joseph đã chơi trội nhất ở Ai Cập và thắng cuộc. Ở Alexandria, nơi ông thường thù tạc với nhà vua, ông trót yêu một cô đào. Khi ông đến đoạn kết của cơn say đắm, anh trai ông thay thế cô đào bằng con gái ruột của mình. Trong đêm, Joseph quá say nên không nhận ra và khi ông tỉnh dậy, ông rơi vào lưới tình với cô cháu gái mình và cuộc hôn nhân của họ làm triều đại thêm vững mạnh.  Tuy nhiên, con trai họ Hyrcanus trưởng thành thành một tên lừa đảo như chính bố Joseph. Sống xa hoa, cai trị nghiêm khắc và đánh thuế gắt gao, Joseph dù sao cũng được sử gia Josephus đánh giá là ‘một người tốt bụng có lòng độ lượng’, được khâm phục là ‘người nghiêm túc, khôn ngoan và công minh. Ông giúp người Do Thái thoát khỏi tình trạng nghèo khó và khổ nhục để mở mày mở mặt với thiên hạ.’

Joseph nhà Tobiad quan trọng với các ông vua Ai Cập vì họ giờ liên tục đánh nhau với triều đại kình địch Macedon, Seleucid, để giành quyền kiểm soát Trung Đông. Vào khoảng 241, Ptolemy III tỏ lòng biết ơn, sau khi đánh thắng các kẻ thù của mình, bằng cách đến thăm Jerusalem và ở đó hiến tế một cách thành kính trong Đền Thờ, ắt hẳn được Joseph tiếp đón trọng thị. Tuy nhiên, khi nhà vua qua đời, người Ai Cập thấy mình bị thách thức bởi ông vua Seleucid còn thanh thiếu niên mà đã đầy tham vọng không kềm chế được.

ANTIOCHUS ĐẠI ĐẾ: ĐỤNG ĐỘ VỚI VOI

Người thách thức là vua người Macedon châu Á, Antiochus III. Vào năm 223, ông vua 18 tuổi không chịu ngồi yên này thừa kế một tước hiệu kỳ vĩ và một đế chế đang tan rã,* nhưng ông sở hữu tài năng thiên phú có thể đảo ngược thời vận. Antiochus tự xem mình là người thừa kế Alexander, và như mọi ông vua người Macedon, ông liên kết mình với các vị thần Apollo, Hercules, Achilles và, trên hết, Zeus. Trong một chuỗi các chiến dịch choáng váng, Antiochus tái chinh phục đế chế phía đông của Alexander đến tận Ấn Độ, xứng đáng với danh hiệu Đại Đế. Ông lại tấn công Palestine nhưng bị quân của dòng dõi Ptolemy đẩy lùi và Joseph nhà Tobiad đã luống tuổi còn tiếp tục cai trị Jerusalem. Nhưng con trai ông Hyrcanus làm phản, tấn công thành phố. Không lâu trước khi chết, Joseph đánh bại con trai, nhưng y vẫn cắt xén những vùng lãnh thổ của ông ở Jordan ngày nay.

 *   Antiochus là người thừa kế  một triều đại hùng mạnh khác do các tướng lĩnh chia nhau đế chế của Alexander Đại Đế lập ra. Khi Ptolemy I lấy được vương quốc của mình ở Ai Cập, ông ủng hộ ông tổ Seleucos của Antiochus, một viên tướng của Alexander, trong nỗ lực đánh chiếm Babylon. Cũng tài năng như Ptolemy, Seleucos chinh phục lại hầu hết các lãnh thổ ở châu Á của Alexander – từ đó ông nhận được tước hiệu Seleucid Vua châu Á. Seleucos cai trị từ Hy Lạp đến sông Ấn – và để rồi bị ám sát khi ở thời cực thịnh.

 Vào năm 201, Antiochus Đại Đế, giờ ở tuổi tứ tuần, trở về từ những thắng lợi của mình ở phương đông. Jerusalem bị ‘vằn ném qua lại như con thuyền trong cơn giông tố’. Cuối cùng, Antiochus đánh đuổi quân Ai Cập, và Jerusalem đón tiếp một chủ nhân mới. ‘Người Do Thái, khi chúng tôi vào đến thành phố của họ,’ Antiochus tuyên bố, ‘đón tiếp chúng tôi trọng thể và cũng hỗ trợ chúng tôi trục xuất lực lượng đồn trú Ai Cập.’ Cảnh tượng một ông vua Seleucid và quân đội ông ta trông rất ấn tượng. Antiochus ắt hẳn mang một vương miện hoàng gia, giày ống thắt nơ tía thêu chỉ vàng, một mũ rộng vành và một áo choàng xanh đậm đính những ngôi sao vàng, cài trâm tía ở cổ.

Các cư dân Jerusalem cũng ứng quân lương cho đội quân đa quốc gia của ông kể cả những đội hình pha-lăng mang giáo sarissa, chiến binh sơn cước Cretia, khinh binh Cilicia, lính bắn ná Thrace, cung thủ Mysia, lính phóng lao Lydia, cung thủ Ba Tư, bộ binh Kurdia, kỵ binh giáp sắt trang bị nặng Iran trên ngựa chiến và, uy lực hơn hết là các thớt voi – chắc hẳn người Jerusalem nhìn thấy lần đầu tiên.*

Đây là thời kỳ có sử dụng voi trận. Kể từ khi Alexander trở về sau chiến dịch Ấn Độ với một lữ đoàn voi, những chiến binh da dày có mặc giáp đã trở thành vũ khí uy lực nhất (và đắt tiền) cho bất kỳ vị vua Macedon tự phụ nào – mặc dù chúng thường dẫm đạp lên phe mình thấy vì phe địch. Trong khi đó ở phương tây, người Carthage, hậu duệ của người Phoenicia từ xứ Tyre, và người La Mã, đang chiến đấu giành quyền làm chủ vùng Địa Trung Hải. Hannibal, vị tướng Carthage kiệt xuất, xâm lược Ý, đã xua đàn voi trận qua vùng núi Alps. Antiochus dàn đội hình voi Ấn Độ, các vua Ptolemy có voi Phi châu và Hannibal sử dụng giống voi nhỏ hơn, giờ đã tuyệt chủng từ vùng Núi Atlas ở Morocco.

Antiochus hứa sẽ tu sửa Đền Thờ và tường thành, đón dân về cư ngụ và khẳng định quyền tự trị của người Do Thái ‘theo luật lệ của cha ông họ’. Thậm chí ông còn ngăn cấm người ngoại bang bước vào Đền hoặc mang ‘vào thành phố thịt sống của ngựa hoặc lừa hoặc các động vật hoang dã hoặc thuần hóa’. Simon, giáo trưởng, chắc chắn ủng hộ: chưa bao giờ Jerusalem từng được một nhà chính phục ưu ái và rộng lượng đến như vậy. Người Jerusalem nhớ lại thời điểm này như là thời hoàng kim được cai trị bởi một giáo trưởng lý tưởng mà, họ nói, giống như vì sao mai giữa vầng mây’.

SIMON NGƯỜI CÔNG CHÍNH: NGÔI SAO MAI

Khi Simon bước ra từ Nơi Chí Thánh vào Lễ Đền tội, vị Giáo trưởng ‘ăn mặc lễ phục trịnh trọng, khi ông bước lên áng thờ’. Ông là kiểu mẫu toàn bích của những giáo trưởng cai trị Judah như những hoàng thân được xức dầu thánh, một kết hợp giữa một quân vương, giáo hoàng và ayatollah (chức lãnh đạo tôn giáo cao nhất của đạo Hồi), ông như một thân cây bạch vươn tới tầng mây.

Jerusalem đã trở thành một nền thần quyền – chính cái từ đã được sử gia Josephus sáng chế để mô tả tiểu quốc này với ‘quyền lực toàn bộ và tuyệt đối nằm trong tay Chúa Trời’. Những luật lệ khắt khe qui định mọi chi tiết của đời sống, bởi vì không có phân biệt giữa chính trị và tôn giáo. Ở Jerusalem không có tượng hoặc hình ảnh chạm khắc. Việc hành lễ Sabbath là một nỗi ám ảnh. Mỗi tội ác chống tôn giáo đều phải tội chết. Có bốn hình thức hành hình – ném đá, thiêu sống, chặt đầu và thắt cổ. Những người phạm tội ngoại tình bị ném đá, một hình phạt được thực thi bởi toàn cộng đồng (mặc dù người bị kết tội trước tiên bị ném xuống ghềnh đá để họ bất tỉnh trước khi bị ném đá đến chết). Con đánh cha mẹ sẽ bị thắt cổ. Ai thông dâm với mẹ lẫn con gái sẽ bị thiêu sống.

Đền Thờ là trung tâm của đời sống Do Thái: giáo trưởng và hội đồng tôn giáo của ông, Sanhedrin, họp ở đó. Mỗi buổi sáng, một hồi kèn báo hiệu lượt cầu nguyện thứ nhất trong ngày, như tục muezzin của đạo Hồi. Một ngày bốn lần, bảy chiếc kèn bạc thổi lên kêu gọi tín đồ đến cúi đầu lễ bái trong Đền. Mỗi ngày hai lần hiến tế một con cừu đực, một con bò cái hay chim bồ câu không tì vết tại áng thờ, sáng và chiều, lúc nào cũng đi kèm với việc dâng hương và xông dầu thơm, là những nghi thức chính của tục thờ cúng Do Thái. Từ ‘holocaust’, rút ra từ chữ Hebrew olah  có nghĩa là ‘bay lên’, ám chỉ việc thiêu đốt các con vật hiến tế tỏa khói ‘bay lên’ đến Chúa Trời. (Từ ‘holocaust’ sau này chỉ việc diệt chủng dân Do Thái do Đức Quốc xã chủ trương trong Thế Chiến II: ND). Thành phố ắt hẳn bốc mùi của áng thờ trong Đền, mùi hương trầm và quế hòa lẫn với mùi thịt cháy khét của các con vật hiến tế. Nên không có gì ngạc nhiên khi dân chúng thường xức nhiều nhựa thơm, cam tùng, dầu gió như xức dầu thơm.

Khách hành hương tràn về Jerusalem dự lễ hội. Tại Cổng Cừu ở phía bắc Đền, cừu và gia súc được nhốt lại, sẵn sàng để được hiến tế. Vào dịp lễ Vượt Qua, 200,000 cừu non bị làm thịt. Nhưng lễ Tabernacles (Hòm Thánh) là tuần lễ linh thiêng và náo nức nhất của năm, khi các cậu và các cô gái khoác lễ phục trắng nhảy nhót trong sân Đền, ca hát, vung vẩy đuốc cháy sáng và ăn tiệc. Họ kết cành và lá cọ để xây những túp lều trên nóc nhà họ hoặc trong sân Đền. *

*  Các lễ Do Thái giáo chính – Lễ Vượt Qua, Lễ Tuần và Lễ Lều Tạm – vẫn còn tiến hành. Lễ Vượt Qua là lễ mùa xuân, trong thời gian đó họ thường chỉ dùng bánh mì chưa lên men để tưởng nhớ thời Xuất Hành trốn chạy khỏi Ai Cập, không có thì giờ để lên men bánh mì. Dần dần Lễ Vượt Qua thay thế Lễ Lều Tạm (tưởng nhớ thời kỳ đầu tìm về Miền Đất Hứa, họ phải cất giữ Hòm Giao ước linh thiêng trong các lều tạm) trở thành lễ chính ở Jerusalem.

Ngay cả dưới thời Simon thanh khiết, cũng có nhiều người Do Thái thế tục ắt hẳn có dáng dấp của người Hy Lạp giàu có, sống trong những lâu đài mới trên sườn đồi phía tây gọi là Thành Thượng. Những gì người Do Thái bảo thủ cuồng tín xem là ô uế, bọn trưởng giả này coi là văn minh. Đây là khởi đầu của một kiểu dạng mới ở Jerusalem: thành phố càng trở nên linh thiêng, nó càng trở nên chia rẽ. Hai lối sống cùng tồn tại sát bên nhau trong không khí thù hằn ghê tởm nhau. Giờ thì thành phố – và ngay chính sự tồn tại của Do Thái – bị đe đọa bởi con quái vật bỉ ổi nhất kể từ Nebuchadnezzar.

ANTIOCHUS EPIPHANES: VỊ THẦN ĐIÊN

Vị mạnh thường quân của Jerusalem, Antiochus Đại Đế, không chịu nghỉ ngơi: giờ ông quay ra chinh phục Tiểu Á và Hy Lạp. Nhưng vị Vua châu Á  quá đỗi tự tin đã đánh giá thấp quyền lực đang trỗi dậy của Cộng Hòa La Mã, vừa đánh bại Hannibal và Carthage để khống chế vùng Địa Trung Hải. La Mã đập tan tham vọng chiếm Hy Lạp của Antiochus, buộc Đại Đế phải đầu hàng hạm thuyền và tượng quân và phải gởi con trai đến La Mã làm con tin. Antiochus tiến về phương đông để làm đầy kho bạc của mình nhưng, trong khi cướp bóc một đền thờ Ba Tư, ông bị ám sát.

Người Do Thái, từ Babylon đến Alexandria, giờ phải nộp thuế thập phân hàng năm cho Đền Thờ, và Jerusalem quá giàu có đến nỗi của cải của nó khiến cuộc tranh giành quyền lực trong giới lãnh đạo Do Thái càng thêm ác liệt và bắt đầu lôi kéo các vị vua Macedon kẹt tiền. Vị vua mới ở châu Á cũng mang tên Antiochus như vua cha, vội vã đến kinh thành Antioch để chiếm lấy ngôi vua, ra tay khử tất cả đối thủ tranh giành trong gia đình. Lớn lên ở La Mã và Athens, Antiochus IV thừa kế những tài năng lấp lánh, không thể kềm chế được của vua cha nhưng tính dọa nạt khoác lác và tính trưng diện sặc sỡ mê cuồng thì giống chứng bệnh phô bày tâm thần của Caligula hoặc Nero.

Là con trai của một Đại Đế vừa nằm xuống, ông có nhiều điều phải chứng tỏ. Đẹp nhưng phóng đãng, Antiochus khoái vẻ lộng lẫy của nghi thức triều đình nhưng cũng chán phèo những gò bó của nó, tự cho mình toàn quyền gây kinh ngạc cho mọi người. Ở Antioch, ông vua trẻ say khướt trong quảng trường chính, tắm rửa và được mát xa nơi công cộng với dầu thoa bóp đắt tiền, làm bạn với nài ngựa và phu khuân vác nhà tắm công cộng. Khi một người phàn nàn ông dùng quá phung phí nhựa thơm, Antiochus ra lệnh đập vỡ nguyên bình nhựa thơm lên đầu hắn, khiến mọi người rối rít tìm cách thu hồi chất nhựa thơm quí giá giữa tiếng cười khoái trá điên cuồng của nhà vua.

Ông thích trưng diện, xuất hiện trên đường phố với vương miện hoa hồng và một áo choàng bằng vàng, nhưng khi thần dân trố mắt nhìn, ông liền ném đá vào họ. Ban đêm, ông hóa trang chui vào các nhà thổ ở xóm bình dân của kinh thành. Thân thiết một cách bất chợt với người lạ, những mơn trớn của ông đáng sợ như móng vuốt báo vì ông có thể bất ngờ hóa ra hiểm ác, nhẫn tâm.

2

Antiochus IV

Những nhân vật tiềm năng của thời đại ưa chuộng Hy Lạp thường tuyên bố mình là hậu duệ của Hercules và những vị thần khác, nhưng Antiochus đi một bước xa hơn. Ông tự phong mình là Epiphanes – hiện thân Chúa Trời – trong khi thần dân của ông đặt cho ông biệt hiệu Epumanes – Gã Điên. Nhưng bằng cái điên dại có mục đích, ông hi vọng buộc chặt đế chế của mình chung quanh việc tôn thờ một ông vua, một tôn giáo. Ông hoàn toàn kỳ vọng các thần dân sẽ tôn thờ các vị thần của họ rồi hòa trộn những vị thần ấy vào hệ thần Hy Lạp và thờ cúng theo kiểu của mình. Nhưng đối với người Do Thái thì lại khác. Họ có mối quan hệ yêu-ghét với văn hóa Hy Lạp. Họ ao ước nền văn minh đó nhưng bất mãn trước sự khống chế của nó. Josephus cho rằng họ xem người Hy Lạp là yếu ớt, phóng đãng, tầm thường, vậy mà nhiều cư dân Jerusalem đang sống theo phong cách thời thượng, đặt tên Hy Lạp và Do Thái để chứng tỏ mình có thể là cả hai. Những kẻ bảo thủ Do Thái không đồng ý; đối với họ, bọn Hy Lạp chỉ đơn giản là kẻ tôn thờ ngẫu tượng, trong đó những bức tượng các vận động viên trần truồng làm họ ghê tởm.

Bản năng đầu tiên của các ông lớn Do Thái là đua nhau đến Antioch để đấu giá cao nhất cho quyền lực ở Jerusalem. Khủng hoảng bắt đầu bằng mối thù dòng họ với tiền bạc và ảnh hưởng. Khi Giáo trưởng Onias III ra giá cho nhà vua, em trai ông Jason đưa ra giá cao hơn 80 ta-lăng và trở về làm giáo trưởng với một chương trình tái thiết Jerusalem như một thành phố Hy Lạp: ông đặt tên lại cho cô nàng là Antioch-Hierosolyma (Antioch-ở-Jerusalem) để vinh danh nhà vua, hạ bớt tầm quan trọng của kinh Torah (Kinh Ngũ Thư) và xây dựng một vận động trường Hy Lạp có lẽ trên ngọn đồi phía tây đối diện với Đền Thờ. Những cải cách của Jason được dân chúng đón nhận. Giới trẻ Do Thái hào hứng xuất hiện đúng phong cách tại vận động trường, tại đó họ luyện tập hoàn toàn khỏa thân chỉ đội mũ Hy Lạp. Họ phần nào xoay sở để đảo ngược tình trạng cắt bao da qui đầu, vốn là dấu hiệu được giao ước với Chúa Trời, khiến nom có vẻ như lớp da bao đã được phục hồi, chắc chắn là thắng lợi về mặt phong cách nhưng thua sút về mặt thoải mái. Nhưng chính Jason cũng bị tước đoạt Jerusalem khỏi tay mình: ông phái thuộc hạ tin cậy Menelaos mang tiền triều cống đến Antioch. Nhưng tên Menelaos lừa đảo trộm cắp ngân khoản của Đền, gộp với tiền triều cống, y ra giá cao hơn Jason và mua được quyền giáo trưởng, cho dù y thiếu điều kiện về dòng dõi Zadok như yêu cầu. Menelaos chiếm lấy Jerusalem. Khi người Jerusalem phái đại biểu đến nhà vua để khiếu nại, nhà vua liền hành hình họ, và thậm chí còn cho phép Menelaos sắp xếp một vụ mưu sát cựu Giáo Trưởng Onias.

Antiochus chỉ quan tâm đến việc gây quỹ cho công cuộc tái chinh phục đế chế – và ông chuẩn bị mở màn một cú gây kinh ngạc: thống nhất các đế chế Ptolemy và Seleucid. Vào năm 170 TCN Antiochus chinh phục Ai Cập, nhưng người Jerusalem phá hỏng thắng lợi của ông, nổi dậy dưới sự lãnh đạo của Jason đã bị phế truất. Gã Điên hành quân trở lại băng qua Sinai, và tràn vào Jerusalem cho đi đày 10,000 dân Do Thái.* Đồng hành cùng với thuộc hạ của mình, Menelaos  bước vào Nơi Chí Thánh, một sự phạm thánh không thể tha thứ được, và lấy cắp những bảo vật vô giá – áng thờ bằng vàng, giá nến và bàn cúng bánh thánh. Tệ hơn nữa, Antiochus ra lệnh cho người Do Thái hiến tế đến ông với tư cách hiện thân Chúa Trời, để thử lòng trung thành của nhiều người Do Thái ắt hẳn say mê văn hóa Hy Lạp – và rồi, với những rương đầy vàng của Đền Thờ, ông vội vã trở lại Ai Cập để đập tan một vụ phản kháng nào đó.

*  Jason lại trốn thoát lần nữa, tìm nơi trú ẩn với người hậu thuẫn mình, ông hoàng Hyrcanus nhà Tobiad. Hyrcanus đã cai trị lãnh thổ Jordan trong 40 năm, vẫn còn là đồng minh của các vua dòng Ptolemy cho dù họ để mất Jerusalem. Ông mở những chiến dịch đánh người Ả Rập và xây dựng một pháo đài nguy nga tại Araq e-Emir với hình điêu khắc xinh đẹp và những khu vườn trang trí. Khi Antiochus chinh phục Ai Cập và chiếm lại Jerusalem, Hyrcanus không còn lựa chọn nào: người cuối cùng của nhà Tobiad phải tự sát. Phế tích của cung điện ông ngày nay là một điểm du lịch ở Jordan. 

Antiochus thích chơi trò La Mã, chưng diện áo choàng toga và tổ chức bầu cử giả hiệu ở Antioch, trong khi bí mật gầy dựng lại hạm thuyền và đoàn tượng quân. Nhưng La Mã, quyết tâm thống trị vùng phía đông Địa Trung Hải, sẽ không để yên cho đế chế mới của Antiochus. Khi phái đoàn La Mã do Popillius Laenas cầm đầu gặp nhà vua ở Alexandria, ông ngạo nghễ vạch một đường tròn trên cát bao quanh Antiochus, yêu sách ông ta rút quân khỏi Ai Cập trước khi bước ra khỏi đường tròn – từ đó xuất xứ thành ngữ ‘vạch một đường trên cát’ (có nghĩa ‘ra một điều kiện tới hạn không được vượt qua). Antiochus, ‘rên rỉ và với vẻ cay đắng’, đành phải cúi đầu khuất phục trước quyền lực La Mã.

Trong khi đó người Do Thái không chịu làm lễ hiến tế cho Antiochus hiện thân Chúa Trời. Để bảo đảm Jerusalem không nổi dậy lần thứ ba, Gã Điên quyết tâm xóa sổ đạo Do Thái.

ANTIOCHUS EPIPHANES (CHÚA HIỆN THÂN): MỘT NỖI GỚM GHIẾC KHÁC CỦA SỰ TÀN PHÁ

Năm 167, Antiochus đánh chiếm Jerusalem bằng một mưu mẹo vào ngày Sabbath, tàn sát hàng ngàn người, phá hủy tường thành và xây lên một thành lũy mới, Acra. Ông giao thành phố cho một thống đốc Hy Lạp và tên hợp tác Menelaos.

Sau đó Antiochus ngăn cấm việc hiến tế hoặc hành lễ trong Đền Thờ, bãi bỏ ngày Sabbath, Luật Do Thái và tục cắt bao da qui đầu, ai vi phạm phải chịu tội chết, và ra lệnh đem thịt heo để làm ô uế Đền Thờ. Vào ngày 6/12, Đền Thờ được phong làm điện thờ cho vị thần nhà nước, thần Zeus trên núi Olympus – đúng là nỗi gớm ghiếc của sự tàn phá. Một lễ hiến tế được cử hành dâng lên Antiochus vị Vua-Chúa Trời, ắt hẳn dưới sự hiện diện của ông, tại áng thờ bên ngoài Nơi Chí Thánh. ‘Đền Thờ đầy hỗn tạp, bọn Gentile uyên náo giỡn hớt với gái gú, thông dâm tại chốn linh thiêng. Menelaos ngầm tán thành việc này, dân chúng vào ra Đền Thờ đầu đội vương miện bện dây nho, và, sau khi cầu nguyện, thậm chí nhiều giáo sĩ còn xuống dưới để xem những trò thi đấu khoả thân tại vận động trường.

Những ai hành lễ Sabbath sẽ bị thiêu sống hoặc chịu một hình tội ghê rợn nhập từ Hy Lạp: đóng đinh trên thập giá. Một ông lão thà chịu chết còn hơn là ăn thịt heo; các bà mẹ cắt bao qui đầu cho con mình sẽ bị ném cùng với con mình qua tường thành Jerusalem. Kinh Torah bị xé nát và thiêu đốt nơi công cộng: ai bắt gặp còn giữ một bản sẽ bị hành hình. Vậy mà kinh Torah, như Đền Thờ, còn quí hơn mạng sống. Những cái chết này tạo thành một giáo phái mới tử vì đạo và cổ vũ cho sự mong ngóng ngày Apocalypse. ‘Nhiều người họ đang ngủ vùi trong cát bụi trần thế sẽ thức dậy và bước vào cuộc sống vĩnh hằng’ ở Jerusalem, điều xấu ác sẽ thảm bại, và cái tốt sẽ chiến thắng với sự xuất hiện của một đấng Cứu Thế – và Con trai của Người, được trao vầng vinh hiển vĩnh hằng.

Antiochus trở lại Antioch, tại đó ông làm lễ mừng những thắng lợi đầy khiếm khuyết. Những kỵ binh người Scythia mặc giáp vàng, những thớt voi Ấn Độ, các võ sĩ giác đấu và những chiến mã Nisaea với dây cương vàng diễu hành qua kinh thành, theo sau là những vận động viên trẻ đội vương miện mạ vàng, một ngàn con bò được hiến tế, những xe diễu hành chở các bức tượng, các phụ nữ phun nước hoa vào đám đông. Các võ sĩ giác đấu đánh nhau trong các gánh xiếc và vòi phun ra rượu vang đỏ trong khi nhà vua chiêu đãi một ngàn quan khách tại cung điện của mình. Gã Điên giám sát mọi việc, đi lên xuống đám rước, hướng dẫn khách, nói đùa với các diễn viên hài. Vào cuối bữa tiệc, các diễn viên hài mang ra một hình nhân được quấn chặt trong lớp vải. Họ đặt hình nhân xuống đất rồi, sau một tiếng nhạc cắt lên từ dàn nhạc, hình nhân thình lình bung lớp vải quấn quanh ra và ô kìa chính là nhà vua trần truồng đang nhảy múa.

Rất xa về phía nam của cảnh đồi trụy say sưa này, các vị tướng của Antiochus đang cưỡng chế thi hành những lệnh bức hại của ông. Trong ngôi làng Modin, gần Jerusalem, một giáo sĩ già tên là Mattathias, một người cha của năm đứa con trai, bị ra lệnh làm vật hiến tế cho Antiochus để chứng minh mình không còn là người Do Thái, nhưng ông đáp lại: ‘Nếu mọi quốc gia của đế chế nhà vua lắng nghe ông ta, thì tôi và con tôi sẽ bước vào phòng Giao ước của ông cha chúng tôi.’ Khi một người Do Thái khác tới trước để làm vật hiến tế, ‘Mattathias bừng bừng nhiệt huyết, mạch máu mấp máy’, và, rút ra thanh gươm của mình, ông giết chết trước tiên tên phản bội, và sau đó vị tướng của Antiochus, rồi lật đổ áng thờ. ‘Ai muốn giữ Giao ước,’ ông nói, ‘hãy bước tới theo tôi.’ Ông và năm con trai trốn thoát vào núi, được những tín đồ Do Thái cực kỳ  mộ đạo nhập bọn được biết dưới tên những Người Công chính – Hasidim. Thoạt đầu họ quá sùng đạo đến nỗi họ vẫn hành lễ Sabbath thậm chí trong khi đánh nhau: quân Hy Lạp lợi dụng nên cứ  chọn ngày Sabbath mà đánh nhau với họ.

Mattathias mất không lâu sau đó, nhưng con trai thứ ba của ông Judah, nắm quyền chỉ huy trong vùng đồi quanh Jerusalem, đánh bại quân Syria ba trận liên tiếp. Thoạt đầu Antiochus không coi vụ khởi nghĩa của người Do Thái là quan trọng vì ông đang tiến quân về đông để chinh phục Iraq và Ba Tư, ra lệnh cho phó vương của ông Lysias đè bẹp phe khởi nghĩa. Nhưng Judah vẫn đánh bại y.

Dù đang hành quân rất xa ở Ba Tư, Antiochus biết rằng các thắng lợi của Judah sẽ đe doạ cho đế chế của mình, nên bèn hủy bỏ chủ trương khủng bố. Người Do Thái, ông viết cho các thành viên thân Hy Lạp của Hội đồng Sanhedrin, có thể ‘sử dụng loại thịt thích hợp theo ý họ và hành lễ theo giáo luật mình’. Nhưng đã quá muộn, và chẳng bao lâu sau đó Antiochus Epiphanes trải qua một con động kinh và rơi từ chiến mã xa xuống bỏ mạng. Judah đã giành được cái tên anh hùng làm nên đế hiệu của một triều đại:  Búa Tạ.

CHƯƠNG 8

TRIỀU ĐẠI MACCABEES (164–66 BC)

JUDAH BÚA TẠ.

Vào mùa đông 164 TCN, Judah Búa Tạ đã chinh phục toàn Judaea và Jerusalem trừ Pháo đài Acra mới xây dựng. Khi Judah trông thấy Đền Thờ đồ vật bề bộn và hoang vắng, ông than vãn. Ông thắp hương, sắp xếp lại Nơi Chí Thánh, và vào ngày 14/12 chủ trì lễ hiến tế tái lập. Trong thành phố bị cướp phá, thiếu hụt dầu để đốt đèn trên giá thờ trong Đền, nhưng dù sao nến cũng không hề tắt. Công cuộc giải phóng và thánh hóa trở lại Đền Thờ vẫn còn được ăn mừng trong lễ hội Hanukkah Do Thái – Lễ Dâng Hiến.

Búa Tạ – tiếng Latinh là Maccabeus * – hành quân băng qua Jordan và phái em ông Simon đi giải cứu dân Do Thái ở Galileo. Không có mặt Judah, người Do Thái bị đại bại. Maccabee giáng trả, bắt sống Hebron và Edom và phá nát điện thờ ngoại đạo ở Ashdod trước khi vây hãm Acra ở Jerusalem.

Nhưng nhiếp chính Seleucid đánh bại quân Maccabee tại Beth-Zacharia, phía nam Bethlehem, sau đó vây hãm Jerusalem, nhưng rồi ông phải lui quân về dẹp loạn nổi lên ở Antioch. Do đó ông cho người Do Thái được quyền sống theo giáo luật của mình và cúng tế trong Đền Thờ. Bốn thế kỷ sau thời Nebuchadnezzar, nền độc lập của Do Thái mới được phục hồi.

 *  Dòng dõi ông chính xác được biết dưới tên triều đại Hasmonea, nhưng đơn giản  trong sách này ta gọi là Maccabee. Dòng dõi Maccabee trở thành kiểu mẫu thời trung cổ cho tính hiệp sĩ Cơ đốc song hành cùng Vua Arthur và Charlemagne. Charles ‘Martel’ – Búa Tạ – người đánh bại quân Ả Rập tại Trận Tours vào năm 732; Richard Tim Sư Tử trong thế kỷ 12 và Edward I (1272–1303) tự ca tụng mình là nhà Maccabee đời nay. Sau đó, Rubens hoạ Judah the Maccabee; Handel soan một bản giao hưởng oratorio dâng tặng ông. Nhà Maccabee gây cảm hứng đặc biệt cho người Israel, nơi có nhiều đội bóng đá lấy tên Maccabee. Như những người hùng của Hanukkah, người Do Thái theo truyền thống xem họ là những chiến sĩ của tự do chống lại tên độc tài diệt chủng, tiền thân của Hitler. Nhưng một số người có quan điểm khác, lấy cảm hứng từ cuộc đấu tranh ngày nay giữa nền dân chủ Mỹ và chủ nghĩa khủng bố jihad, trong đó người Hy Lạp là dân văn minh đánh với dân cuồng tín Maccabee chẳng khác bọn Taleban Do Thái.

Nhưng người Do Thái vẫn chưa được bình an. Người Seleucid, bận bịu vì nội chiến, bớt gây hấn những vẫn còn đáng sợ, quyết tâm đè bẹp người Do Thái và lấy lại Palestine. Cuộc chiến phức tạp và xấu xa này kéo dài 20 năm. Không cần phải kể lại mọi chi tiết, nhưng có những lúc dòng dõi Maccabees gần như bị tận diệt. Vậy mà gia đình tài năng, tháo vát vô bờ này luôn khéo xoay sở để phục hưng và giáng trả lại.

Pháo đài Acra, nhìn sang Đền Thờ, vẫn tiếp tục giày vò Jerusalem bị chia cắt. Khi hồi kèn vang lên và các giáo sĩ một lần nữa tiến hành lễ hiến tế, bọn lính đánh thuê ngoại đạo và bọn phản trắc Do Thái ở Acra thỉnh thoảng ‘ùa ra thình lình’, Josephus nói, ‘và tàn sát những ai đi lên Đền Thờ’. Người Jerusalem hành hình giáo trưởng Menelaos, ‘tác giả của những điều xấu ác’, và bầu ra một giáo trưởng mới. * Nhưng người Seleucid lại quấy phá lần nữa. Vị tướng Nicanor của họ chiếm lại Jerusalem. Chỉ vào áng thờ, tướng Hy Lạp đưa ra lời đe doạ: ‘trừ khi Judah và chủ nhân của nó được giao nộp ngay vào tay ta, ta sẽ đốt rụi Ngôi Nhà này.’

* Giáo trưởng mới này không thuộc dòng dõi Zadok của Onias. Người kế thừa chính thức là Onias IV, giờ đang trốn thoát với tùy tùng đến Ai Cập nơi ông được Vua Ptolemy VI Philometer tiếp đón. Philometer cho phép ông xây dựng một đền thờ Do Thái tại địa điểm một đền thờ Ai Cập không được sử dụng tại Leontopolis ở Châu thổ Sông Nile, và tại đó ông tạo dựng thành phố Jerusalem của riêng mình, còn được biết dưới tên Tell al-Jahudiya – Ngọn Đồi Do Thái. Những hoàng thân Do Thái này trở thành những chỉ huy quân sự quyền lực ở Ai Cập. Đền của Onias tồn tại cho đến khi Titus ra lệnh phá hủy nó vào 70 SCN.

Judah, liều mình chiến đấu, cầu cứu với La Mã, vốn là kẻ thù của các vương triều Hy Lạp, và La Mã ngay lập tức công nhận chủ quyền của người Do Thái. Năm 161, Búa Tạ đánh tan quân Nicator, ra lệnh chặt đầu và cánh tay y và mang về Jerusalem. Tại Đền Thờ ông trình lên chiến lợi phẩm gớm ghiếc này – bàn tay và cái lưỡi cắt đứt đã từng dùng để hăm dọa Đền Thờ giờ được xắt nhỏ và ném cho chim chóc trong khi thủ cấp bị treo trên pháo đài. Người Jerusalem kỷ niệm Ngày Nicator như là ngày lễ giải phóng. Sau đó người Seleucid đánh bại và giết chết Búa Tạ; Jerusalem thất thủ. Judah được chôn cất tại Modin. Mọi thứ dường như đã mất. Nhưng ông được sống lại nhờ các anh em của mình.

3

Judah Búa Tạ

SIMON VĨ ĐẠI: KHÚC KHẢI HOÀN CỦA NHÀ MACCABEE

Sau hai năm trốn thoát, Jonathan, em của Judah, xuất hiện từ sa mạc và đánh tan tác quân Seleucid một lần nữa, thiết triều tại Michmas, phần Jerusalem do Hy Lạp chiếm giữ ở phía bắc. Jonathan, được biết dưới tên Nhà Ngoại giao, chơi trò ngoại giao với hai đối thủ chính trị là vua Syria và Ai Cập để giành lại Jerusalem. Sau đó ông phục dựng tường thành, thờ cúng lại Đền Thờ và, vào năm 153, thuyết phục vua Seleucid bổ nhiệm mình tước hiệu kim bằng hữu với nhà vua – và Giáo trưởng. Ông được xức dầu thánh và kết hoa hoàng gia và khoác áo choàng giáo trưởng tại một trong ngày lễ náo nhiệt nhất, lễ Tabernacles (Lễ Lều Tạm). Vậy mà Jonathan chỉ xuất thân từ một giáo sĩ tỉnh lỵ không có liên hệ gì với Zadok. Ít nhất có một giáo phái coi ông là ‘Giáo sĩ Tội lỗi’.

Trước tiên Jonathan được vua Ai Cập Ptolemy VI Philometer ủng hộ. Ông thân chính theo bờ biển đến Joppa (cảng Jerusalem  gần nhất, Jaffa), để gặp Jonathan, trong sự long trọng của một pha-ra-ông và một giáo trưởng. Tại Ptolemais (giờ là Acre), Philometer thành tựu được mơ ước của mọi ông vua Hy Lạp kể từ Alexander Đại Đế: ông là nhà vua đăng quang của Ai Cập và của châu Á. Nhưng đúng ngay thời khắc huy hoàng của mình, con ngựa ông lồng lên vì thấy đàn voi Seleucid, và ông ngã chết.*

* Người kế vị Philometer  thù địch với người Do Thái vì Onias và dân Do Thái ở Alexandria hậu thuẫn Philometer. Cho dù xét theo chuẩn mực độc ác của dòng họ, Ptolemy VIII Euergetes, được dân chúng Alexandria đặt biệt danh Phì lũ  (Physkon), là một quái vật. Phì Lũ trả thù người Do Thái ở Ai Cập, xua đàn voi giẫm đạp họ, nhưng, có lẽ nhờ phép mầu ơn trên, đàn với lại quay ra dẫm đạp đoàn tùy tùng của nhà vua. Cực điểm của hành vi tàn bạo của y là giết chết đứa con trai ruột 14 tuổi của mình vốn hoàn toàn tin cậy bố: Phì Lũ cho người chặt đầu và tứ chi rồi gởi đến mẹ ruột cậu, Cleopatra II. Khi một thành viên khác của gia đình, Cleopatra Thea, kết hôn với nhà vua Syria Demetrius II, quyết định giết chết con trai ruột của mình, bà đưa cậu một cốc độc dược. Nhưng cậu con trai ép bà mẹ uống trước. Những chuyện trong hoàng gia dòng dõi Ptolemy đại loại như thế.

Là những đối thủ người Seleucid đánh nhau giành quyền lực, Jonathan Nhà Ngoại giao khi theo phe này lúc ngã về phe kia. Một đối thủ pretender Seleucid, bị vây hãm trong cung điện của y ở Antioch, cầu cứu  Jonathan để đổi lấy nền độc lập toàn vẹn cho Do Thái. Jonathan dẫn theo 2,000 quân tức tốc từ Jerusalem vượt qua những vùng lãnh thổ ngày nay là Israel, Lebanon và Syria, đến Antioch. Binh lính Do Thái, bắn tên từ lâu đài rồi nhảy từ mái nhà này đến mái nhà khác băng qua thành phố đang bốc cháy, giải cứu và phục hồi nhà vua. Trở lại Judaea,  Jonathan chinh phục Ashkelon, Gaza, và Beth-Zur – và bắt đầu bao vây Pháo đài Acra ở Jerusalem. Nhưng ông bị dụ đến Ptolemais mà không có cận vệ đi theo để gặp đồng minh Hy Lạp mới nhất của mình. Y liền tóm lấy ông và xua quân tiến vào Jerusalem.

Dòng dõi Maccabee tuy vậy vẫn chưa tận diệt: vẫn còn có một người em nữa. Đó là Simon, ra sức củng cố lại Jerusalem và chiêu mộ binh sĩ. Cùng với cơn bão tuyết ập xuống, buộc quân Hy Lạp phải rút quân, nhưng họ trả thù bằng việc hành hình ông anh bị bắt Jonathan của Simon. Mùa xuân 141, Simon tràn vào và phá hủy Acra, * san bằng chính ngọn đồi mà trên đó pháo đài toạ lạc rồi mới ăn mừng tưng bừng ở Jerusalem ‘bằng lời chúc tụng, lá cọ, đàn hạc, chập chả, đàn viôn và thánh ca.’ ‘Ách cai trị của bọn ngoại đạo đã được lấy đi khỏi Israel’ và một Đại Hội đồng đón mừng Simon như một nhà cai trị có tính kế thừa, khoác cho ông hoàng bào màu tím dành cho vua có dây nịt vàng, đủ cả nghi thức của một nhà vua trừ đế hiệu. ‘Dân chúng bắt đầu viết vào khế ước của họ: “Vào năm đầu của Simon Vĩ đại, Giáo trưởng, Tổng Tư lệnh và Lãnh đạo dân Do Thái”‘.

Không còn vết tích gì về Acra được tìm thấy. Một số học giả tin rằng nó toạ lạc ngay phía nam Núi Đền. Herod Vĩ Đại sau này mở rộng Núi Đền, vì thế chắc hẳn ngọn đồi Acra bị san bằng giờ ở bên dưới nền móng Đền Thờ nơi Thánh đường Hồi giáo al-Aqsa đứng hiện giờ. Nếu có ai thắc mắc tại sao có quá ít tàn tích còn sót lại từ thời trị vì của David chẳng hạn, thì lý do là có quá nhiều công trình xây dựng bề thế đã làm biến mất những dấu vết khảo cổ.

JOHN HYRCANUS: NGƯỜI XÂY DỰNG ĐẾ CHẾ

Simon Vĩ đại đang ở đỉnh cao của sự trọng vọng thì, vào năm 134 TCN, ông được mời ăn tối với con rể của mình. Tại đó, người cuối cùng của thế hệ đầu tiên trong nhà Maccabee bị ám sát, và người con rể sau đó bắt giữ bà vợ của Simon cùng hai con trai. Bọn sát thủ tính bắt đứa con trai khác của ông John – tiếng Hebrew là Yehohanan – nhưng cậu đã đào thoát đến Jerusalem và cố thủ thành phố.

John đương đầu với tai họa từ mọi phía. Khi cậu truy đuổi bọn âm mưu đến tận căn cứ, mẹ cậu và các anh em bị xé ra từng mảnh trước mặt mình. Là con trai thứ ba, John không hi vọng được trị vì nhưng cậu thừa hưởng mọi tài năng của gia đình để trở thành nhà cai trị Do Thái lý tưởng, với ‘những đặc tính thu hút-Cứu thế’. Đúng ra, Josephus viết, Chúa Trời ban cho John ‘ba đặc quyền lớn nhất – cai trị quốc gia, nhậm chức Giáo trưởng và thiên tài tiên tri’.

Vua Seuleucid, Antiochus VII Sidetes, lợi dụng cuộc nội chiến Do Thái này để chiếm lại Palestine và vây hãm Jerusalem. Người Jerusalem bắt đầu chết đói, khi Vua Sidetes tỏ ý muốn thương thuyết bằng cách gởi đến ‘vật hiến tế hoành tráng’ gồm bò đực với sừng mạ vàng trong dịp lễ Tabernacles. John thương lượng hòa bình, đồng ý thôi chinh phục lãnh thổ ngoài Judaea và trả 500 ta-lăng bạc và phá hủy tường thành.

John phải hậu thuẫn ông chủ mới của mình trong những chiến dịch chống lại quyền lực đang trỗi lên ở Iran và Iraq, người Parthia. Cuộc viễn chinh hóa ra là một thảm họa cho người Hy Lạp nhưng là phúc lành cho người Do Thái. Có thể  John đã bí mật thương thảo với Vua Parthia, vốn có nhiều thần dân gốc Do Thái. Vua Hy Lạp bị hạ sát và John thoát khỏi tình trạng sa lầy này, trở về với nền độc lập được phục hồi.

Các cường quốc đang bận bịu với những mưu mô nội bộ, nhờ thế John tự do tiến hành những cuộc chinh phục trên một qui mô chưa từng thấy kể từ thời David, và mỉa mai thay David lại là người tài trợ cho các cuộc chiến của ông: John vơ vét lăng mộ đầy châu báu của tiên vương, được cho là ở trong Thành phố David cổ. Ông chinh phục Madaba đối diện với Jordan, buộc người Edom ở phía nam cải đạo (trở thành dân có tên Idumea), và tàn phá Samaria trước khi chiếm Galilee. Ở Jerusalem, John xây dựng Tường thành Thứ nhất bao quanh thành phố.* Vương quốc ông có thế lực trong khu vực, và Đền Thờ là trung tâm của đời sống Do Thái, mặc dù những cộng đồng đang lớn mạnh quanh Địa Trung Hải điều hành việc cầu nguyện thường nhật trong những nhà thờ địa phương. Ắt hẳn trong giai đoạn tự tin mới mẻ này mà bộ 24 sách trở thành văn bản được chấp thuận của Cựu Ước Do Thái.

*   Tường thành mở rộng từ Núi Đền đến Hồ Siloam và từ đó đến Thành Lũy, nơi nền móng của những tháp canh của ông còn sót lại đến ngày nay. Những đoạn tường thành của ông còn sót lại ở một vài chỗ: trên bờ dốc phía nam Núi Zion, ngày phía tây Nghĩa trang Thiên chúa giáo, một đoạn tường thành của John còn đứng cạnh những khối đá lớn hơn của Hezekiah và những khối đá về sau này của nữ hoàng Byzantine Eudocia. Vào năm 1985, các nhà khảo cổ Irael phát hiện một ống dẫn nước ngầm được xây bởi John và nhà Maccabee, dùng để dẫn nước vào Hồ Struthion đã được các nhà khảo cổ Anh, Đức và Pháp phát hiện vào năm 1870.

Sau khi John mất, con trai ông Aristobulos tự tuyên bố là vua xứ Judaea, vương triều đầu tiên ở Jerusalem kể từ 586, và chinh phục Iturea ngày nay là bắc Israel và nam Lebanon. Những người Maccabee giờ đây hầu như có tính Hy Lạp không kém kẻ thù mình. Họ sử dụng cả hai tên Hy Lạp và Hebrew. Họ bắt đầu xử sự với tất cả sự hung bạo của những ông vua độc tài Hy Lạp. Aristobulos tống mẹ mình vào ngục tối và sát hại người em được dân chúng yêu mến hơn, một tội ác làm cho ông hóa điên vì mặc cảm tội lỗi. Vậy mà khi chết nôn ra máu, ông còn sợ người em còn sống xấc xược của mình, Alexander Jannaeus, là một quái vật sẽ hủy diệt dòng họ Maccabee.

ALEXANDER NGƯỜI XỨ THRACE: SƯ TỬ TRẺ HUNG DỮ

Ngày khi đã làm chủ Jerusalem,Vua Alexander (Jannaeus là phiên bản Hy Lạp của tên Hebrew của ông Yehonatan) cưới người vợ góa của ông anh và tiến hành công cuộc chinh phục một đế chế Do Thái. Alexander hư đốn và vô tâm – chẳng bao lâu dân Do Thái ghê tởm ông vì thói bạo dâm trụy lạc của mình. Nhưng Alexander mặc tình gây chiến với các nước lân bang – các vương quốc Hy Lạp đang tan rã, còn người La Mã vẫn chưa đến. Alexander lúc nào cũng xoay sở sống sót được sau những lần thảm bại thường xuyên nhờ vào may mắn của quỷ sứ* và thói man rợ đeo bám: người Do Thái đặt biệt danh ông là ‘người xứ Thrace’ vì thói man rợ và đạo quân đánh thuê Hy Lạp của ông.

Khi ông tấn công thành phố Hy Lạp Ptolemais, Ptolemy IX Soter, khi đó đang cai trị ở Cyprus, can thiệp và đánh bại Alexander. Nhưng ông được một thân nhân Do Thái giải cứu: Soter đang trong tình trạng chiến tranh với mẹ mình, vốn e sợ quyền lực của con trai mình ở Judaea. Tư lệnh của Cleopatra bấy giờ là Ananias người Do Thái, con trai của cựu giáo trưởng Onias, đã giải cứu nhà vua Maccabee. Cleopatra đề xuất việc xáp nhập Judaea, nhưng tư lệnh Do Thái của bà khuyên không nên, và bà không ở tư thế có thể làm gì hơn.

 Alexander chinh phục Gaza và Raphia trên biên giới Ai Cập và Gaulanitis (Golan) ở phía bắc. Bị quân Ả Rập xứ Nabataea phục kích ở Moab, Alexander thoát được về Jerusalem. Khi ông chính thức nhậm chức giáo trưởng trong ngày Lễ Tabernacles, dân chúng thi nhau ném trái cây vào ông. Được người Pharisee mộ đạo hơn (tu theo truyền thống truyền khẩu cũng như kinh viết Torah) cổ vũ, họ chế nhạo ông không xứng đáng làm giáo trưởng vì mẹ từng là tù nhân. Alexander đáp trả bằng cách xua bọn lính đánh thuê Hy Lạp tàn sát 6,000 người trên đường phố. Người Seuleucid lợi dụng vụ nổi loạn này để tấn công Judaea. Alexander chuồn vào vùng đồi.

Ông đợi thời cơ, bàn tính kế hoạch trả thù. Khi nhà vua trở về lại Jerusalem, ông làm thịt 50,000 đồng bào mình. Ông mở tiệc mừng thắng lợi, trửng giỡn với các thê thiếp tại một bữa tiệc trong khi ông ngắm nhìn 800 người nổi dậy bị đóng đinh trên thập giá quanh các ngọn đồi. Các bà vợ và con cái họ bị cắt họng trước mắt họ. ‘Con sư tử trẻ hung dữ’, như kẻ thù gọi ông, chết vì chứng nghiện rượu, bỏ lại cho bà vợ Salome Alexandra một đế chế Do Thái bao gồm những vùng thuộc Israel, Palestine,  Jordan, Syria và Lebanon ngày nay. Ông khuyên bà giấu nhẹm tin mình chết với binh lính cho đến khi bà đã làm chủ Jerusalem, rồi trị vì nó cùng với người Pharisese.

Nữ hoàng mới là phụ nữ đầu tiên cai trị Jerusalem kể từ thời con gái của Jezebel. Nhưng nhân tài của triều đại đã cạn kiệt. Salome Alexandra (Salome là tên tiếng Hy Lạp của Shalomzion – Thái Bình ở Zion), một goá phụ sắc sảo của hai ông vua, cai trị đế chế nhỏ bé của mình đến tận tuổi lục tuần với sự hỗ trợ của các người Pharisee, nhưng bà vất vả trong việc kiểm soát hai con trai của mình: đứa lớn, giáo trưởng John Hyrcanus II, không đủ năng động, trong khi đứa nhỏ hơn Aristobulos thì lại năng động hơn quá nhiều.

Về phía bắc, La Mã tiến lên không ngừng nghỉ quanh Địa Trung Hải, nuốt trọn trước tiên là Hy Lạp rồi Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay, tại đó họ gặp sức kháng cự của người Mithridates, vị Vua Pontus của Hy Lạp. Năm 66 TCN, tướng La Mã Pompey đánh tan quân Mithridates, và chuyển quân về phương nam để lấp đầy khoảng trống. La Mã đang tiến đến Jerusalem.

  CHƯƠNG 9

 NGƯỜI LA MÃ ĐẾN : 66-40 TCN

POMPEY TRONG NƠI CHÍ THÁNH

Khi Nữ Hoàng Salome qua đời, các con trai bà xâu xé nhau. Hyrcanus II bị em trai Aristobulos II đánh bại gần Jericho. Sau đó anh em hòa giải, ôm nhau trước mặt dân Jerusalem tại Đền Thờ, và Aristobulos lên ngôi vua. Hyrcanus rút lui, nhưng được cố vấn và điều khiển bởi một một người ngoài mưu trí,  Antipater. Nhà cai trị * xứ Idumea này là sẽ trỗi dậy ở tương lai. Con trai ông sẽ trở thành Vua Herod. Gia đình tài năng và vô đạo này sẽ thống trị Jerusalem hơn một thế kỷ và thực tế đã tạo ra Núi Đền và Tường thành phía Tây như chúng ta thấy hôm nay.

Người Idumea, tức người Edom trong Kinh thánh, là những chiến binh ngoại đạo dạn dày sống ở phía nam Jerusalem, đã được John cải sang đạo Do Thái tập thể. Antipater là con trai của một người đã cải đạo và được Vua Alexander chỉ định làm Thống đốc xứ Edom, mặc dù gia đình có gốc gác ở các thành phố bờ biển xứ Phoenicia.

Antipater giúp Hyrcanus trốn thoát đến Petra, thành phố hoa hồng cổ, kinh thành Ả Rập xứ Nabataea. Vua Aretas (tiếng Ả Rập là Harith), giàu sụ nhờ buôn bán gia vị Án Độ và có liên hệ họ hàng với người vợ Ả Rập của Antipater, giúp họ đánh bại Vua Aristobulos, phải chuồn về Jerusalem. Vua Ả Rập truy đuổi, vây hãm Aristobulos trong Núi Đền kiên cố. Nhưng tất cả âm thanh và cuồng nộ này không có ý nghĩa gì, vì ở phương bắc Pompey đang xây dựng bộ chỉ huy ở Damascus.

 Gnaeus Pompeius, người hùng mạnh nhất La Mã, là một chỉ huy độc lập không có một vị trí chính thức nào đã dẫn binh sĩ của mình đi đến chiến thắng trong những cuộc nội chiến La Mã ở Ý, Sicily và Bắc Phi. Ông đã ăn mừng hai Lễ Khải Hoàn và được thưởng nhiều của cải. Ông là một vị tướng thận trọng với gương mặt bầu bĩnh, dễ thương khiến người ta dễ mắc lừa. Sử gia Sallust viết rằng Pompey ‘mặt nhìn tưởng lương thiện, nhưng lòng dạ thì vô sỉ’, và thói bạo dâm và tham lam sớm thể hiện trong nội chiến đã tạo cho ông biệt danh ‘đồ tể trẻ’. Giờ ông đã tạo được uy thế tại La Mã, những vòng nguyệt quế của người hùng La Mã cần được đổi mới liên tục. Biệt hiệu ‘Magnus’ – Bậc Vĩ Đại – ít nhất có chút mỉa mai. Khi còn trẻ ông đã tôn thờ Alexander Đại Đế, và vương triều anh hùng kiểu Homer của ngài, cùng với những tỉnh lỵ và của cải chưa được chinh phục ở phương Đông, từ rày trở đi sẽ cho thấy là tham vọng không thể kềm nén được của mọi nhân vật đầu sỏ La Mã trên bước đường chinh phục.

Vào năm 64 TCN, Pompey hủy diệt vương quốc Seuleucid, xáp nhập Syria và sung sướng được làm trung gian giữa những phe Do Thái đấu đá nhau. Những phái đoàn từ Jerusalem đến không chỉ đại diện cho cả hai anh em đang thù địch nhau mà còn đại diện cho những người Pharisee, đến xin xỏ với Pompey loại trừ nhà Maccabee dùm họ. Pompey ra lệnh cho cả hai ông hoàng đợi nghe phán xét của mình, nhưng Aristobulos, vốn hoàn toàn không nắm vững sức mạnh sắt thép của La Mã, trở mặt với ông một cách thô lỗ.

Pompey xà xuống Jerusalem. Ông bắt được Aristobulos, nhưng những thành viên Maccabee còn chiếm đóng Núi Đền kiên cố, phá sập cây cầu nối với Thành Thượng. Pompey hạ trại ở phía bắc Hồ Bethesda, vây hãm Đền Thờ trong ba tháng, sử dụng súng bắn đá để xạ kích nó. Thêm một lần nữa lợi dụng sự sùng đạo của người Do Thái – đó là ngày hành lễ Sabbath và chay tịnh – quân La Mã tràn vào Đền từ phía bắc, cắt cổ các giáo sĩ đang bảo vệ áng thờ. Người Do Thái phóng hỏa nhà cửa mình; những người khác gieo mình từ bệ cao trên tường thành xuống đất. 12,000 người bị tàn sát. Pompey phá hủy các công sự, bãi bỏ vương triều, thâu tóm hầu hết vương quốc Maccabee và bổ nhiệm Hyrcanus làm giáo trưởng, chỉ cai trị Judaea cùng với bộ trưởng Antipater của ông.

Pompey không thể cưỡng lại cơ hội nhìn tận mắt Nơi Chí Thánh. Người La Mã tò mò thích thú với các nghi thức phương Đông tuy rất tự hào với hệ thần linh của mình và khinh thị thói mê tín sơ khai của đạo độc thần Do Thái. Người Hy Lạp nhạo báng là người Do Thái lén lút thờ cúng đầu lừa bằng vàng hoặc vỗ béo người dành hiến tế để ăn thịt sau đó. Pompey và quần thần bước vào Nơi Chí Thánh, một chốn linh thiêng không thể nói hết được, thậm chí bậc giáo trưởng một năm chỉ được đến thăm một lần. Người La Mã ắt hẳn chỉ là người thứ hai không phải Do Thái (sau Antiochus IV) từng xâm nhập Điện. Ông thành kính khảo sát chiếc bàn vàng và giá đèn linh thiêng – và nhận ra rằng ngoài ra không có gì khác trong đó, không thánh thần, chỉ là một sự linh thiêng trọng đại. Ông không lấy cắp gì cả.

Pompey vội vã trở về La Mã để dự lễ Khải Hoàn chào mừng những chiến tích Á châu của mình. Trong khi đó Hyrcanus bị quẫn trí vì những cuộc nổi dậy của Aristobulos và các con trai của ông ta, nhưng người cai trị thực sự chính là bộ trưởng của ông Antipater. Ông này sở hữu một năng khiếu tranh thủ được sự hậu thuẫn của La Mã, hiện giờ là cội rễ của mọi quyền lực. Tuy nhiên, thậm chí những nhà chính trị lươn lẹo nhất cũng không thể lường được những lắt léo của chính trị La Mã. Pompey buộc phải chia sẻ quyền lục trong một tam đầu chế với hai lãnh đạo khác là Crassus và Caesar, người sau chẳng bao lâu sẽ làm nên tên tuổi khi chinh phục xứ Gaul (nước Pháp hiện nay). Năm 55 TCN, Crassus, nhân vật đầu sỏ La Mã tiếp theo muốn tìm kiếm vinh quang ở phương Đông, đến Syria, tha thiết muốn mình không thua kém những đối thủ khác.

CAESAR VÀ CLEOPATRA

Crassus, ở La Mã được biết dưới tên Dives, Đại Phú, tai tiếng vì tính hám lợi và tàn bạo. Y đã góp thêm nạn nhân trong danh sách án tử của tên độc tài La Mã Sulla chỉ vì muốn vơ vét tiền bạc của họ, trong khi y làm lễ ăn mừng chiến công đánh dẹp cuộc nổi dậy của Spartacus * bằng cách đóng đinh 6,000 nô lệ nổi dậy dọc theo Đường Appian. Giờ thì y lên kế hoạch cho một cuộc viễn chính để đẩy lùi vương quốc Parthia đã thâu tóm Ba Tư và Seuleucid ở vùng đất ngày nay thuộc Iraq và Iran.

Spartacus (sinh năm 111 TCN – 71 TCN), theo các sử gia, là một đấu sĩ nô lệ, người đã trở thành một trong các thủ lĩnh của cuộc nổi dậy không thành công của các nô lệ chống lại Cộng hòa La Mã.

Crassus tài trợ cuộc xâm lăng của mình bằng cách cướp bóc Đền Thờ ở Jerusalem, lấy được 2,000 ta-lăng mà Pompey chưa đụng tới và ‘cây xà nhà bằng vàng ròng’ ở Nơi Chí Thánh. Nhưng quân Parthia tiêu diệt Crassus và đạo quân của y. Vua Parthia là Orad II đang xem hát kịch Hy Lạp thì thủ cấp của Crassus được ném lên sân khấu. Orad cho đổ vàng lõng vào miệng Crassus, nói, ‘Vậy là bây giờ nhà ngươi thỏa mãn với ước muốn suốt đời của nhà ngươi rồi đó.’

Giờ ở La Mã chỉ còn hai kình địch Caesar và Pompey tranh quyền bá chủ. Năm 49 TCN, Caesar từ xứ Gaul vượt Sông Rubicon và xâm nhập Ý, đánh bại Pompey 18 tháng sau đó. Pompey chạy đến Ai Cập. Được bầu làm nhà độc tài La Mã, Caesar truy đuổi, đến tận Ai Cập hai ngày sau khi người Ai Cập đã sát hại Pompey. Ông rụng rời khi đón nhận món quà chào đón là thủ cấp ngâm dấm của Pompey nhưng đồng thời cũng nhẹ nhõm. Ông đã tham gia chiến dịch ở phương Đông cách đây 30 năm. Giờ ông tìm thấy Ai Cập bị chia rẽ trong một cuộc tranh giành hiểm ác giữa Vua Ptolemy XIII và vợ đồng thời là em gái mình Cleopatra VII để biến Ai Cập thành miếng mồi đắt giá nhất cho La Mã. Nhưng ông không thể dự đoán trước bằng cách nào hoàng hậu trẻ này, bị hạ bệ khỏi ngai vàng và đang trong thời điểm quẫn bách, sẽ hướng ý chí của ông theo cứu cánh của bà.

Cleopatra xin được bí mật diện kiến ông chủ của đế chế La Mã. Bà đạo diễn một màn kịch câm có tính chính trị lẫn tình dục bằng cách quấn kín trong túi đựng quần áo giặt giũ (chứ không phải tấm thảm như trong phim chiếu rạp) rồi cho người mang đến cung điện của Caesar – có lẽ nghĩ rằng ông này cũng ưa thích tình tiết kịch trường hấp dẫn.  Gaius Julius Caesar, mệt mỏi vì chinh chiến, tóc đã hoa râm, đã 52 tuổi và tự biết đầu mình đang bắt đầu hói. Nhưng con người đầy sức sống đến kinh ngạc này sở hữu mọi tài năng của chiến tranh, thi văn và chính trị, và một khí lực không chùn bước của một thanh niên, cũng là một gã phiêu lưu tình ái đã ngủ với bà vợ của cả Crassus lẫn Pompey. Còn Cleopatra chỉ mới 21 tuổi: ‘vẻ đẹp của bà không phải là không có đối thủ nhưng sức hấp dẫn xác thịt, cộng với nét duyên dáng đầy mê hoặc và vầng hào quang tỏa ra’ tạo ra một sức mê hoặc không kềm chế được, cho dù, theo hình khắc trên đồng tiền và tượng, mũi bà hơi quặp và cằm hơi nhọn do di truyền của tổ tiên. Bà có một vương quốc để nắm giữ lại và một dòng dõi siêu việt để noi theo. Cả Ceasar lẫn Cleopatra đều là những thực tập viên nhiệt thành của trường phái chính trị phiêu lưu. Họ lao vào cuộc tình – chẳng bao lâu bà sinh hạ cho ông một con trai, Caesarion – nhưng quan trọng hơn, ông bảy giờ toàn tâm hậu thuẫn bà.

Caesar bỗng thấy mình kẹt ở Alexandria khi người Ai Cập nổi lên chống lại Cleopatra và người bảo trợ La Mã của bà. Trong khi đó ở Jerusalem, Antipater, đồng minh của Pompey, thấy đây là một cơ hội để chuộc lỗi với Caesar. Ông dẫn 3,000 quân Do Thái đến Ai Cập, thuyết phục những người Do Thái ở Ai Cập ủng hộ mình, rồi tấn công phe chống lại Caesar. Caesar chiến thắng và phục hồi ngai vàng cho Cleopatra. Trước khi trở về La Mã, Caesar tỏ lòng tri ân bằng cách bổ nhiệm lại Hyrcanus làm giáo trưởng và nhà cai trị dân Do Thái và cho phép tu bổ tường thành Jerusalem, nhưng ông giao hết quyền lực cho Antipater với chức vị trưởng đại diện Judaea cùng các con trai làm thống đốc địa phương: anh lớn, Phasael, điều hành Jerusalem; em nhỏ, Herod, được giao Galilee.

Herod, tuổi chỉ 15, ngay lập tức cho thấy dũng khí của mình khi cậu săn lùng và giết sạch một băng Do Thái cuồng tín. Ở Jerusalem, Hội đồng Sanhedrin tức giận vì việc giết chóc không phép của chàng trai trẻ Herod nên triệu tập cậu về để xét xử. Tuy nhiên, người La Mã đánh giá Antipater và các con trai ông chính là loại đồng minh cần thiết để trị vì dân tộc hay nổi loạn này. Thống đốc La Mã ở Syria ra lệnh tha bổng Herod và ban thưởng cậu quyền hành lớn hơn.

Herod đã là người phi thường.  Josephus viết: ‘Ông được trời ban cho vẻ đẹp, thân thể và trí óc’. Được đặt tên là một anh hùng, ông đủ khôn ngoan để lấy lòng và gây ấn tượng với những người La Mã kiệt xuất của thời đại. Ông rất ham hố về tình dục – hoặc, như cách nói của Josephus, ‘nô lệ cho đam mê của mình’, nhưng ông không quê kệch. Ông có khẩu vị về kiến trúc, thông thạo tiếng Hy Lạp, Latinh và văn hóa Do Thái và, khi không bận bịu với chính trị và lạc thú, ông thích luận bàn về lịch sử và triết lý. Nhưng quyền lực luôn là ưu tiên hàng đầu và sự khao khát này sẽ đầu độc mọi mối quan hệ ông có. Là con trai của một người Idumea thế hệ thứ hai cải sang đạo Do Thái và có người mẹ Ả Rập (do đó anh ông mới được đặt tên là Phasael – Faisal), Herod là một nhân vật quốc tế có thể đối phó với người La Mã và Hy Lạp và Do Thái. Nhưng người Do Thái không thể hoàn toàn bỏ qua nguồn gốc lai căng của ông. Được nuôi dưỡng trong một gia đình quyền quí nhưng cẩn mật và nhẫn tâm, ông sẽ chứng kiến sự hủy diệt của những người thân gần gũi nhất và cảm nhận được sự mong manh của quyền lực và sự tiện lợi của khủng bố. Ông lớn lên sử dụng cái chết như một công cụ chính trị: hoang tưởng, nhạy cảm, gần như là điên dại, gã thiếu niên lì lợm này, ‘một người dã man bậc nhất’ và vô cùng nhạy cảm, mưu tính để sống còn và thống trị bằng mọi giá.

Sau khi Caesar bị ám sát vào năm 44, Cassius (một đồng bọn sát thủ) đến để cai trị Syria. Cha của Herod Antipater đổi phe. Nhưng trò nhào lộn mưu mô này cuối cùng cũng tóm được ông, và ông bị một đối thủ đầu độc, và người này xoay sở chiếm được Jerusalem – cho đến khi Herod cho người mưu sát y. Chẳng bao lâu sau đó, Cassius và sát thủ đồng loã Brutus bị đánh bại tại Philippi. Người chiến thắng là con trai của cháu và là con nuôi của Caesar, Octavian, mới 22 tuổi, và vị tướng hung hăng Antony. Họ cùng chia cắt đế chế, Antony lấy phần phía Đông. Khi Antony hành quân về hướng Syria, hai kẻ thống trị trẻ tuổi, với lợi ích xung đột căn cơ, vội vã chạy đến gặp người hùng La Mã. Một người muốn phục hồi vương quốc Do Thái, còn người kia muốn nuốt nó vào đế chế cổ xưa của mình.

ANTONY AND CLEOPATRA

Cleopatra đến với Antony, như một nữ hoàng ở đỉnh cao sự quyến rũ, mầm chồi của dòng dõi Ptolemy, triều đại có uy thế nhất trên thế giới được biết lúc bấy giờ, và, như Isis-Aphrodite gặp Dionysus của mình, người có thể ban cho mình những tỉnh lỵ của tiên đế bà. (Isis: nữ thần Ai Cập, Aphrodite: nữ thần tình yêu của Hy Lạp, Dionysus: tửu thần Hy Lạp: ND).

Cuộc gặp gỡ của họ là định mệnh cho cả hai. Antony hơn bà 14 tuổi nhưng đang trong phong độ sung mãn: tửu lượng cao,  cổ bạnh, ngực căng, cằm vuông và tự hào về đôi chân gân guốc của mình. Ông choáng váng trước Cleopatra và tha thiết muốn ôm trọn văn hóa Hy Lạp và vẻ lộng lẫy kiêu xa của phương Đông, thấy mình như người thừa kế của Alexander, hậu duệ của Hercules – và tửu thần Dionysus tất nhiên. Nhưng ông cũng cần tiền bạc và quân nhu của Ai Cập cho cuộc xâm lược Parthia như dự tính của mình. Vì vậy họ cần nhau, và nhu cầu thường là mẹ của tình yêu lãng mạn. Antony và Cleopatra ăn mừng sự hợp tác và cuộc tình của mình bằng việc ám sát em gái của Cleopatra (bà đã mưu sát anh mình).

4

Herod, cũng thế, vội vã chạy đến với Antony. Khi còn là một chỉ huy kỵ binh trẻ ở Ai Cập, vị tướng đã từng được cha của Herod trau dồi. Vì vậy ông chỉ định Herod và ông anh làm người cai trị thực sự của Jerusalem và Judaea và Hyrcanus làm Giáo trưởng bù nhìn. Herod ăn mừng quyền lực trỗi dậy của mình bằng một lễ đính hôn hoàng gia. Vợ chưa cưới của ông là Mariamme, một công chúa dòng họ Maccabee mà, do hôn phối giữa những người trong gia đình, nên là cháu gái của hai nhà vua. Theo Josephus, cô có thân hình lẫn gương mặt đều tuyệt đẹp. Mối quan hệ này, diễn tiến ở Jerusalem, sẽ mang tính hủy diệt ác liệt.

Antony đi theo Cleopatra, giờ đang mang bầu cặp song sinh, đến kinh thành của bà, Alexandria. Nhưng, ngay khi việc Herod nổi lên có vẻ như bảo đảm, thì người Parthia xâm lược Syria. Antigonos, một ông hoàng dòng Maccabee cháu của Hyrcanus, giao ước sẽ nộp cho người Parthia 1,000 ta-lăng và 500 mỹ nữ để đổi lấy Jerusalem.

PACORUS: CÚ ĂN MAY CỦA PARTHIA

Thành phố Do Thái nổi lên chống lại bọn tay sai La Mã Herod và ông anh Phasael. Bị vây hãm trong cung điện đối diện với Đền Thờ, hai anh em đánh bại phe nổi dậy – nhưng quân Parthia lại là vấn đề khác. Jerusalem đông nghẹt người hành hương – đó là Lễ Tuần – và những ủng hộ Maccabee mở cổng thành cho ông hoàng Parthia là Parcorus* và người được y bảo trợ Antigonos. Jerusalem tưng bừng chào đón sự trở lại của dòng họ Maccabee.

Pacorus là con trai và là người thừa kế hiển nhiên của Arsacid  Vua của các vì Vua, Orad II, người đã đánh bại Crassus. Người Parthia đã bành trướng từ quê hương họ ở phía đông Biển Caspian, thoát ra khỏi sự đô hộ của người Seleucid khoảng 250 TCN, để thành lập một đế chế mới thách thức quyền lực La Mã. Dẫn đầu đội hình của quân Pacorus là các hiệp sĩ Pahlavan, mặc giáp sắt nặng và quần lùng thùng, cầm thương dài 12 bộ, rìu và rựa. Phi ngựa tấn công hết tốc độ, những kỵ binh này đã đánh tan các quân đoàn La Mã ở Carrhae. Họ được yểm trợ bởi các cung thủ phi ngựa nổi tiếng vì tốc độ và tài thiện xạ bắn qua vài – ‘kiểu bắn Parthia’. Nhưng người Parthia có một khiếm khuyết có tính phong kiến: các nhà vua của họ ở dưới quyền của giới quý tộc cực mạnh, bất phục tùng.

Người Parthia giả vờ chơi trò môi giới lương thiện giữa Herod và Antigonos. Mặt khác họ lừa anh của Herod Phasael vào bẫy. Herod đối mặt với việc bị loại bỏ khi người Parthia cướp bóc thành phố rồi sau đó giao quyền lại cho Antigonos làm vua xứ Judaea và giáo trưởng. Y gây tàn phế, cắt xẻo tai chú y Hyrcanus để ông không thể giữ chức giáo trưởng. Về phần ông anh của Herod là Phasael, thì bị sát hại hoặc đập vỡ sọ.

Herod đã mất Jerusalem và người anh. Ông đã ủng hộ La Mã, nhưng chính người Parthia lại chinh phục Trung Đông. Ông ắt hẳn vô cùng sầu uất, nhưng ý chí vươn tới quyền lực và trí thông minh sắc sảo, và bản năng muốn sống vẫn còn rất mãnh liệt. Đợi đêm xuống, ông tập họp tùy tùng cho một cuộc đào thoát tuyệt vọng, và chờ đợi thời cơ.

HEROD: TRỐN THOÁT ĐẾN CLEOPATRA

Herod, với đoàn tùy tùng – 500 hầu thiếp, bà mẹ, chị em và quan trọng hơn hết là vợ sắp cưới, công chúa Maccabee Mariamme – phi ngựa ra khỏi Jerusalem vào tận vùng đồi Judaea khô cằn. Vua Antigonos, giận dữ trước tin Herod bỏ trốn với thê thiếp của mình (rõ ràng đây là số gái hậu cung hứa dâng cho Parthia để trả công), phái kỵ binh truy đuổi. Khi chạy băng qua đồi, Herod lần nữa suy sụp và toan tự sát, nhưng cận vệ ông tước lấy thanh gươm đã giơ lên. Sau đó chẳng mấy chốc đội kỵ binh của Antigonos bắt kịp đoàn người chạy trốn. Herod phục hồi lòng tự tin và quay ra đánh bại chúng. Để lại đoàn tùy tùng trong pháo đài trên núi bất khả xâm nhập Masada, ông dong ruổi đến Ai Cập.

Antony đã bỏ về La Mã, nhưng Herod được Nữ Hoàng Cleopatra đón tiếp. Bà giao cho ông việc làm để giữ chân ông ở Alexandria. Nhưng Herod giong buồm đến La Mã, tháp tùng là người em nhỏ Jonathan của cô vợ hứa hôn, một ông hoàng Maccabee và là ứng viên cho ngôi vua xứ Judaea. Nhưng Antony, giờ đang lên kế hoạch gây chiến để đánh đuổi người Parthia, biết rằng đây không phải là công việc của một đứa trẻ; phải cần đến năng lực quyết liệt của Herod.

Antony và Octavian, đối tác với ông trong công cuộc cai trị đế chế, hộ tống Herod đến Viện Nguyên Lão tại đó ông được tuyên bố là vua xứ Judaea và đồng minh của La Mã: rex socius et amicus populi Romani. Vua Herod ‘mới bóc tem’ bước ra khỏi Viện đi kèm hai bên là Octavian và Antony, hai cột trụ của thế giới, đúng là một khoảnh khắc trọng đại cho một người mang hai dòng máu Do Thái và Ả Rập đến từ vùng núi Edom. Mối quan hệ của ông với hai người đàn ông này sẽ là nền tảng của thời trị vì 40 năm bằng trò khủng bố và vẻ lộng lẫy. Tuy nhiên, con đường đến đó còn dài: quân Parthia còn chiếm phía đông; Antigonos còn cai trị Jerusalem. Đối với người Do Thái, Herod là tên ngáo ộp La Mã và đứa con lai gốc Idumea. Ông phải chiến đấu từng tấc đất cho vương quốc mình, và sau đó là Jerusalem.

CHƯƠNG 10

 TRIỀU ĐẠI HEROD –40 TCN – 10 SCN

ANTIGONOS SỤP ĐỔ: NGƯỜI MACCABEE CUỐI CÙNG

Herod giong buồm đến Ptolemais, chiêu mộ một đội quân và bắt đầu chinh phục vương quốc mình. Khi bọn nổi loạn cố thủ trong những hang động không thể xâm nhập ở Galileo, ông cho sử dụng thùng buộc dây để hạ thấp binh sĩ xuống hang và, trang bị móc sắt, các binh sĩ này móc các địch thủ rồi ném chúng xuống khe vực phía dưới. Nhưng Herod phải cần đến hậu thuẫn của Antony để chiếm lại Jerusalem.

Người La Mã đang đẩy lùi bọn Parthia. Vào năm 38 TCN, Antony bao vây một pháo đài Parthia tại Samosata (đông-nam Thổ Nhĩ Kỳ) khi Herod hành quân về phía bắc để tiếp ứng và cầu viện. Quân Parthia đã mai phục Antony nhưng Herod phản công và cứu được đoàn xe chở quân nhu. Antony chân thành chào đón Herod như hai đồng chí cũ, ôm ông một cách thân tình trước mặt ba quân, diễu hành danh dự dành cho nhà vua trẻ của Judaea. Để tỏ lòng biết ơn, Antony gởi 30,000 bộ binh và 6,000 kỵ binh vây hãm Jerusalem nhân danh Herod. Khi quân La Mã hạ trại ngay phía bắc Đền Thờ, Herod kết hôn với nàng Mariamme 17 tuổi. Sau 40 ngày vây hãm, quân La Mã tràn vào vòng thành phía ngoài. Hai tuần sau, họ xông vào Đền Thờ, tàn phá thành phố ‘như một đám điên cuồng’, hạ thủ những cư dân Jerusalem gặp trên đường phố. Herod phải hối lộ quân La Mã để dừng việc tàn sát và gởi Antigonos cho Antony xử tội. Vị vua Maccabee cuối cùng bị xử trảm. Người hùng La Mã sau đó lên đường xâm lược Parthia với 100,000 quân. Tài mưu lược quân sự của ông thường được đề cao quá đáng; thật ra cuộc viễn chinh của ông suýt gặp thảm bại, và ông mất một phần ba quân số. Những binh sĩ sống sót được tiếp cứu nhờ lực lượng tiếp viện của Cleopatra. Tiếng tăm của Antony ở La Mã không hề được phục hồi.

Vua Herod ăn mừng việc chinh phục Jerusalem bằng cách thủ tiêu 45 trong số 71 thành viên của Hội đồng Sanhedrin. Phá hủy Pháo đài Baris ở phía bắc Đền Thờ, ông xây một tháp kiên cố hình vuông có 4 tháp pháo, Tháp Antonia, đặt theo tên người bảo trợ ông, và đủ đồ sộ để khống chế thành phố. Không còn lại tàn tích gì của Antonia trừ những dấu vết của nền được cắt ra từ đá, nhưng chúng ta có thể mường tượng nó sẽ trông như thế nào vì nhiều pháo đài của Herod còn tồn tại: mỗi cứ điểm trên núi của ông được thiết kế để kết hợp tính an toàn bất khả xâm nhập với sự xa hoa không đâu sánh được. Vậy mà ông không bao giờ thấy an tâm, và bây giờ ông phải bảo vệ vương quốc của mình thoát khỏi mưu mô của hai hoàng hậu, bà vợ của mình – và Cleopatra.

HEROD AND CLEOPATRA

Herod có thể gieo rắc nỗi khiếp sợ nhưng chính ông cũng lo lắng về dòng dõi Maccabee, và thành viên nguy hiểm nhất đang nằm cùng giường với mình. Nhà vua, giờ 36 tuổi, đã từng yêu Mariamme, người có văn hóa, trinh trắng và bướng bỉnh. Nhưng mẹ bà, Alexandra, một phiên bản ngoài đời thực của mẫu mẹ vợ từ địa ngục lên, lập tức bắt tay âm mưu với Cleopatra để hủy diệt Herod. Những phụ nữ dòng họ Maccabee tự hào về dòng dõi mình và bà bất mãn khi cô con gái lấy một tên lai. Nhưng Alexandra không biết rằng, thậm chí theo tiêu chuẩn tàn độc của nền chính trị thế kỷ một, bà không phải là đối thủ của gã tâm thần Herod.

Vì lão Hyrcanus tàn phế không còn có thể điều hành chính thức Đền Thờ, Alexandra muốn con trai thanh thiếu niên Jonathan, em trai của Mariamme, nắm chức giáo trưởng, một chức vụ mà Herod, không có dòng máu Do Thái thuần khiết, không thể mơ tới. Jonathan hóa ra không chỉ là vị vua chính đáng nhưng cũng là người có một vẻ đẹp thu hút vào một thời đại mà vẻ bên ngoài được tin tưởng là do hồng ân của thần linh. Anh đi đến đâu dân chúng cũng quì mọp đến đó. Herod lo sợ gã thanh thiếu niên và giải quyết vấn đề bằng cách đưa một người Do Thái ở Babylon vô danh lên làm giáo trưởng. Alexandra bí mật cầu cứu Cleopatra. Antony đã góp vào vương quốc của Cleopatra những vùng đất ở Lebanon, Create và phía bắc châu Phi và cũng tặng bà một trong những vật sở hữu quí giá nhất của Herod – những vườn cây nhựa thơm và chà là vùng Jerusalemericho. Herod phải thuê bà lại nhưng rõ ràng là bà thèm muốn Judaea, lãnh thổ của tổ tiên bà.

Nhử chàng Jonathan trẻ đẹp như một miếng mồi ngon, Mariamme và bà mẹ gởi một bức chân dung của cậu đến Antony, như hầu hết mọi người đàn ông của thời mình, cũng đánh giá cao vẻ đẹp nam tính cũng như nữ tính. Cleopatra hứa sẽ ủng hộ cậu lên ngôi vua. Vì thế khi Antony cho triệu chàng trai trẻ, Herod đâm hoảng và không cho cậu lên đường. Herod đặt bà mẹ vợ dưới sự giám sát nghiêm nhặt ở Jerusalem, trong khi Cleopatra chuẩn bị chỗ cư trú cho hai mẹ con. Alexandra cho người đóng hai hòm gỗ để lén lút đưa họ ra khỏi cung điện.

Cuối cùng Herod, không thể chống lại sự yêu mến của nhân dân đối với dòng họ Maccabee và sự nài nỉ của bà vợ, nên bổ nhiệm Jonathan làm giáo trưởng tại buổi lễ Tabernacles. Khi Jonathan bước lên áng thờ trong bộ lễ phục rực rỡ và mũ miện hoàng gia-giáo sĩ, người Jerusalem hoan hô cậu nhiệt liệt. Herod giải quyết vấn đề của mình theo kiểu Herod: ông mời giáo trưởng đến cung điện nguy nga của mình ở Jericho. Herod tỏ ra tử tế một cách đáng cảnh giác; nhưng trong một buổi tối nóng bức ngột ngạt, Jonathan được khuyên nên đi bơi. Dưới các hồ bơi khoái lạc, các bộ hạ của Herod đã chực sẵn và dìm cậu dưới nước. Thi thể cậu được tìm thấy nổi lên vào sáng hôm sau. Mariamme và bà mẹ vừa đau sầu vừa căm hận; còn Jerusalem thì tiếc thương. Tại tang lễ Jonathan, Herod sụp xuống giàn giụa nước mắt.

Alexandra báo tin vụ mưu sát cho Cleopatra, người mà tình cảm chỉ thuần túy mang tính chính trị: chính bà đã sát hại ít nhất hai và có thể là ba anh chị em mình. Bà thuyết phục Antony triệu Herod đến Syria. Nếu Cleopatra toại nguyện, ông sẽ không trở về. Herod chuẩn bị cho chuyến đối đầu liều lĩnh này – và thể hiện tình yêu dành cho Mariamme theo kiểu gớm ghiếc của mình: ông đặt bà dưới sự canh giữ của chú Joseph, người đại diện ông khi ông vắng mặt, nhưng ra lệnh nếu ông bị Antony hành hình, Mariamme ngay lập tức phải bị xử trảm. Khi Herod đi rồi, Joseph không ngớt nhắc nhở bà là nhà vua yêu bà biết bao, nhiều đến nỗi, y nói thêm, nhà vua thà giết bà còn hơn là để bà sống thiếu ông. Nghe thế Mariamme bị sốc. Jerusalem âm ỉ tin đồn là Herod đã chết. Trong lúc vắng mặt Herod, Mariamme chủ trì Jerusalem qua mặt em gái nhà vua, Salome, một trong những tay chơi ác hiểm nhất trong một triều đình độc địa.

Ở Laodicea, Herod, chuyên gia khai thác các nhà thống trị La Mã, lấy được lòng Antony vốn đã tha thứ cho ông; cả hai tiệc tùng bên nhau ngày và đêm. Khi Herod trở lại Salome mách với anh mình ông chú họ đã quyến rũ Mariamme ra sao trong khi bà mẹ vợ ông thì đang lên kế hoạch nổi dậy. Herod và Mariamme phần nào đã làm lành. Giờ đây ông bày tỏ tình yêu của mình đối với bà. ‘Cả hai ngả vào vòng tay nhau trong nước mắt’ – cho đến khi bà thổ lộ là mình biết việc ông dự tính hành hình bà. Herod, bị ray rứt vì ghen tuông, quản thúc Mariamme tại gia và hành hình chú Joseph của mình.

Năm 34 TCN, Antony tái xác lập quyền lực La Mã, sau chuyến viễn chinh thất bại, bằng chuyến xâm lược thành công vào vùng Armenia của Parthia. Cleopatra tháp tùng ông đến Euphrates và, trên đường về nhà, ghé thăm Herod. Hai quái vật gian xảo này trải qua những ngày bên nhau, ve vãn và tìm cách giết nhau. Herod cho rằng Cleopatra cố rù quến mình: đây chắc chắn là phương cách quen thuộc của bà với bất kỳ gã đàn ông nào mà bà muốn lợi dụng. Nó cũng là cái bẫy chết người. Herod cự tuyệt và quyết tâm giết cho được con rắn độc sông Nile, nhưng các cố vấn cực lực khuyên hãy dừng.

Nữ hoàng Ai Cập lên đường về nhà đến Alexandria. Tại đó Antony, trong một nghi lễ long trọng, nâng cấp bà lên thành ‘Nữ hoàng của các vì Vua’. Caesarion, con trai bà với Caesar, giờ đã 13 tuổi, trở thành đồng-pha-ra-ông với bà, trong khi ba đứa con với Antony trở thành vua xứ Armenia, Phoenicia và Cyrene. Tại La Mã, lối sắp đặt Đông phương này không có vẻ La Mã, yếu đuối và không khôn ngoan. Antony ra sức biện minh cho những tiệc vui Đông phương của mình bằng một bài văn duy nhất được biết đến có tựa ‘Bàn về Việc Uống Rượu’ – và ông viết cho Octavian, ‘Tại sao cậu đã thay đổi? Có phải vì mình đang chịch nữ hoàng? Có vấn đề gì ở đâu và với ai cậu nhúng cái bấc của cậu vào?’ Nhưng hóa ra là có vấn đề. Cleopatra được coi như là một điềm gở chết người. Octavian càng ngày càng mạnh hơn lên khi sự hợp tác của hai người tan rã. Vào 32 TCN, Viện Nguyên Lão hủy bỏ chức vị imperum của Antony. Sau đó Octavian tuyên chiến với Cleopatra. Hai phe đụng độ nhau ở Hy Lạp: Antony và Cleopatra gom quân của ông và đội thuyền chiến Ai Cập-Phoenicia của bà. Đó là chiến tranh vì thế giới.

AUGUSTUS AND HEROD

Herod phải hậu thuẫn phe chiến thắng. Ông đề nghị tiếp tay với Antony ở Hy Lạp nhưng thay vào đó được lệnh tấn công xứ Nabataea Ả Rập thuộc  Jordan ngày nay. Lúc Herod quay về, Octavian và Antony đang đối đầu nhau tại Actium. Antony không phải là đối thủ của tư lệnh Marcus Agrippa của Octavian. Trận hải chiến là một thảm bại. Antony và Cleopatra chạy thoát về Ai Cập. Liệu Octavian có tiêu diệt nhà vua xứ Judaea thuộc phe Antony không?

Herod lần nữa chuẩn bị chết, để lại việc điều hành cho người em Pheroras, và để an toàn, cho người thắt cổ lão Hyrcanus. Ông đặt mẹ và em gái mình ở Masada trong khi giữ Mariamme và Alexandra ở Alexandrium, một pháo đài khác trên núi. Nếu có gì xảy ra với ông, ông lần nữa ra lệnh, Mariamme phải chết. Rồi ông giong buồm đến cuộc gặp gỡ quan trọng nhất đời mình.

Octavian tiếp ông ở Rhodes. Herod điều hành cuộc họp một cách khôn khéo và thẳng thắn. Ông hạ mình đặt dưới chân Octavian vương miện của mình. Rồi thay vì chối bỏ Antony, ông xin Octavian không nên xét đoán ông là bạn của ai mà nên xét đoán ‘ông là người bạn thế nào.’ Octavian đội lại vương miện cho ông. Herod trở về Jerusalem trong sự khải hoàn, rồi theo chân Octavian xuống Ai Cập, đến Alexandria ngay sau khi Antony và Cleopatra tự tử, ông bằng gươm, bà bằng rắn độc.

Octavian giờ nổi lên như hoàng đế La Mã đầu tiên, nhận đế hiệu là Augustus. Chỉ mới 33 tuổi, nhà quản trị chi li, tinh tế, vô cảm và xét nét này, trở nên người bảo trợ trung thành nhất của Herod. Đúng ra hoàng đế và người phó của mình, đồng thời gần như là cộng sự quyền lực, tư lệnh Marcus Agrippa thẳng thắn, trở thành gần gũi với Herod đến độ, theo cách diễn đạt của Josephus, ‘Caesar không thích ai hơn Herod trừ Agrippa và Agrippa không có người bạn nào lớn hơn Herod trừ Caesar.’

Augustus mở rộng vương quốc của Herod bằng cách ban tặng ông nhưng vùng lãnh thổ thuộc Israel, Jordan, Syria và Lebanon ngày nay. Như Augustus, Herod cũng là nhà quản trị đầy năng lực một cách lạnh lùng: khi nạn đói ụp xuống, ông bán số vàng của mình để nhập khẩu gạo của Ai Cập, cứu dân Do Thái khởi chết đói. Ông chủ trì một triều đình nửa Hy Lạp, nửa Do Thái, được các hoạn quan và cung nữ phục vụ. Nhiều tôi tớ trước đây phục vụ Cleopatra. Trợ lý của ông Nikolaus xứ Damascus từng là thầy dạy các con nữ hoàng,* và đội cận vệ 400 chiến binh xứ Galatia từng là cận vệ của bà: Augustus tặng Herod làm quà và họ gia nhập cùng với đội cận vệ riêng của ông người xứ German và Thrace. Những tên man rợ tóc vàng này lo việc tra khảo và tàn sát cho ông vua có tính quốc tế nhất này: ‘Herod thuộc dòng dõi Phoenicia, theo văn hóa Hy Lạp, xuất thân Idumea, theo đạo Do Thái, cư trú tại Jerusalem và mang quốc tịch La Mã.’

Học giả Hy Lạp gốc Syria này trở thành người tin cẩn của Herod cũng như bạn thân của Augustus. Ông ắt hẳn phải rất khôn khéo mới sống sót được trong triều đình tàn độc của Cleopatra và Herod. Sau này ông viết tiểu sử của cả Augustus lẫn Herod, mà nguồn tài liệu tham khảo của ông là chính Herod. Tiểu sử Herod của Nikolaus nay đã biến mất nhưng nó cung cấp cho Josephus nguồn tư liệu chính, chính, khó tưởng tượng có một nguồn nào tốt hơn. Về phần những học trò hoàng gia trước đây của Nikolaus, Augustus đã ra lệnh giết Caesarion, con trai của Caesar và Cleopatra. Nhưng ba đứa trẻ kia được em gái của hoàng đế, vợ cũ Octavia của Antony. Kết cục cuối cùng của hai cậu trai không được biết nhưng cô gái, Cleopatra Selene, kết hôn với Juba II, Vua xứ Mauretania. Con trai của cô là Vua Ptolemy xứ Mauretania bị Caligula hành hình. Như thế là kết thúc triều đại Ptolemy kéo dài 363 năm sau Alexander Đại Đế.

Ở Jerusalem, ông và Mariamme cư ngụ tại Pháo đài Antonia. Tại đó ông là nhà vua Do Thái, đọc Đệ Nhị Luật trong Đền Thờ mỗi bảy năm một lần và bổ nhiệm giáo trưởng, mà bộ lễ phục ông giữ trong pháo đài Antonia. Nhưng ở ngoài Jerusalem ông là quốc vương Hy Lạp hào phóng mà những thành phố đa thần mới – chủ yếu là Caesarea trên bờ biển và Sebaste (là từ Hy Lạp có nghĩa là Augustus) trên vùng Samaria – là các phức hợp trù phú những đền thờ,  trường đua ngựa, và lâu đài. Thậm chí ở Jerusalem, ông xây một hí viện và trường đua ngựa kiểu Hy Lạp tại đó ông cho trình diễn những cuộc Thi đấu Actian (gồm đấu vật, đua ngựa, đánh trận, âm nhạc…) để kỷ niệm những thắng lợi của Augustus. Khi những cảnh tượng ngoại giáo này xúi giục người Do Thái phản đối, bọn cầm đầu đều bị hành hình. Nhưng bà vợ yêu quí của ông không tán dương thành tựu của ông. Triều đình bị nhiễm độc bởi cuộc đấu đá giữa phe cánh Maccabee và Herod.

MARIAMME: HEROD TRONG THƯƠNG VÀ HẬN

Trong khi Herod đi xa, Mariamme lại lần nữa mê hoặc cận vệ mình tiết lộ cho bà những kế hoạch của chồng dành cho mình nếu ông không trở về. Herod về mặt cá nhân thấy bà hết sức thu hút nhưng về mặt chính trị thì quá độc địa: bà công khai kết án ông giết đứa em trai của mình. Đôi khi bà hạ nhục ông trước mặt bá quan văn võ khí nói toạc ra là bà không cho ông ngủ với mình; những lúc khác hai người lại quấn quýt lấy nhau. Bà sinh cho ông hai con trai, vậy mà cũng dự tính hủy diệt ông. Bà mắng nhiếc Salome, em gái Herod, một cách thô lỗ. Herod bị ‘giằng xe giữa thương và hận’, nỗi ám ảnh của ông càng mãnh liệt hơn vì nó hòa quyện với đam mê lấn át khác của ông: quyền lực.

Em gái Salome của ông khăng khăng cho rằng ông bị Mariam xài ma thuật. Bà đưa ra chứng cứ cho thấy công chúa Maccabee này đã mê hoặc ông bằng bùa yêu. Các hoạn quan của Mariamme bị tra khảo cho đến khi họ khai ra âm mưu của bà. Tên cận vệ theo dõi Mariamme khi ông vắng mặt bị giết. Chính Mariamme cũng bị cầm tù ở pháo đài Antonia rồi sau đó đưa ra xét xử. Salome tiếp tục trưng ra những bằng chứng, nhất định cho rằng hoàng hậu Maccabee phải chết.

Mariamme bị kết án tử, còn mẹ bà thì vạch mặt bà, hi vọng sẽ toàn mạng. Để đáp lại, đám đông la ó phản đối bà mẹ vô lương. Khi Mariamme được dẫn đến nơi hành hình, bà xử sự với ‘sự vĩ đại của tâm hồn’ khiến ai cũng kinh ngạc, cho rằng thực là một điều sỉ nhục cho một người mẹ khi hành xử như thế. Ắt hẳn bị thắt cổ, Mariamme chết như một người Maccabee đúng nghĩa ‘gương mặt không hề biến sắc’, thể hiện một thái độ ‘cho thấy tính cao quí của dòng dõi mình đối với khán giả’. Herod muốn điên vì sầu khổ, cho rằng tình yêu của mình dành cho Mariamme là do thần linh trả thù nhằm mục đích hủy diệt mình. Ông la hét tìm bà khắp cung điện, ra lệnh cho tôi tớ tìm kiếm bà, và cố tìm quên trong yến tiệc. Nhưng khi mọi người ra về người ta thấy ông khóc than Mariamme. Ông ngã bệnh và người nổi nhọt. Thừa dịp Alexandra thực hiện một nước đi cuối cùng nhằm chiếm lấy quyền lực. Herod cho người giết bà, và sau đó tàn sát bốn người bạn thân thiết của ông ắt hẳn đã gần gũi với hoàng hậu quyến rũ. Ông không bao giờ hoàn toàn nguôi ngoai nỗi nhớ Mariamme, một lời nguyền sẽ trở lại để huy diệt một thời đại khác. Sách Talmud sau này cho rằng Herod lưu giữ thi thể Mariamme trong bồn mật ong, và điều này có thể là thật – bởi vì nó vừa ngọt ngào vừa rùng rợn một cách thích hợp.

Ngay sau khi bà chết, Herod bắt đầu thực hiện tuyệt phẩm của mình: Jerusalem. Cung điện Maccabee không đủ lớn đối với ông. Pháo đài Antonia ắt hẳn đã bị hồn ma Mariamme ám ảnh. Vào năm 23 TCN, ông mở rộng công sự phía tây bằng cách xây thêm một thành lũy có tháp canh mới và một phức hợp cung điện, một Jerusalem – bên trong – Jerusalem. Bao quanh bởi một tường thành cao 45 bộ, Thành lũy phô trương ba tháp canh có tên rất tình cảm, cái cao nhất tên Hippicus (lấy tên một người bạn thời trẻ bị chết trận), cao 128 bộ, chân đế vuông vức 45 bộ, tháp Phasael (tên ông anh đã chết) và tháp Mariamme. Trong khi Antonia khống chế Đền Thờ thì pháo đài này cai trị thành phố.

Về phía nam Thành lũy, Herod xây dựng Cung điện của mình, một mái vòm lạc thú chứa hai căn phòng mênh mông đặt theo tên các người bảo trợ ông, Augustus và Agrippa, với tường đá, rầm gỗ tuyết tùng, các trang trí khảm vàng bạc tinh xảo. Quanh cung điện được thiết kế những sân vườn, những hàng cột đá và cổng, hoàn thiện với sân cỏ xanh tươi, rặng cây xum xuê và hồ mát rượi và các con kênh chấm phá với những thác nước nhân tạo, bên trên là chuồng bồ câu (Ắt hắn Herod liên lạc với các tỉnh của ông bằng bồ câu đưa thư). Tất cả những công trình này được tài trợ bằng của cải kết xù của Herod: ông là người giàu nhất vùng Địa Trung Hải, chỉ sau hoàng đế. Sự nhộn nhịp của cung điện, với tiếng kèn phát ra từ Đền Thờ và tiếng rầm rì của thành phố từ xa vẳng tới, chắc hẳn đã lắng xuống nhờ tiếng chim cúc cu và tiếng róc rách của thác nước.

Nhưng triều đình thì có đủ mọi thứ trừ sự bình lặng. Anh em ông là những tên mưu tính không thương xót: cô em gái thì đúng là nữ quái có một không hai và hậu cung gồm các phi tần tất cả bọn họ đều đầy tham vọng và hoang tưởng như chính nhà vua. Khẩu vị tình dục của Herod làm phức tạp thêm chính trị – ông là, như Josephus viết, “một con người của những món khoái khẩu’. Ông đã cưới một bà vợ, Doris, trước Mariamme; và, sau Mariamme, ông cưới ít nhất tám bà khác, luôn chọn những mỹ nhân vì yêu đương và nhục dục, không bao giờ vì huyết thống của họ thêm một lần nào nữa. Cũng như với hậu cung 500 cung nữ, khẩu vị Hy Lạp của ông cũng mở rộng đến những hầu nam trẻ và hoạn quan trong cung cấm. Nhưng gia đình sinh sôi gồm những đứa con trai nửa hư hỏng, nửa bị bỏ bê, mỗi đứa được một bà mẹ đói khát quyền lực hậu thuẫn, trở thành tổ quỷ. Thậm chí người điều khiển các con rối bậc thầy cũng phải vất vả mới quản lý được mọi chuyện hận thù và đố kỵ này. Tuy vậy việc triều chính không làm ông xao nhãng dự án mà ông ấp ủ nhiều nhất. Biết rằng uy thế của Jerusalem liên kết với uy thế của mình, nên Herod quyết tâm sánh ngang với Solomon.

HEROD: ĐỀN THỜ

Herod cho đập bỏ Đền Thờ Thứ Hai và xây dựng tại nơi đó một kỳ quan của thế giới. Người Do Thái sợ ông phá hủy Đền Thờ cũ mà không hoàn tất đền thờ mới, vì thế ông mở cuộc họp thành phố để thuyết phục họ, chuẩn bị mọi chi tiết. Một ngàn giáo sĩ được đào luyện thành thợ xây dựng. Các rừng cây tuyết tùng ở Lebanon được đốn sạch, các thanh xà thả trôi dọc theo bờ biển. Tại các mỏ đá chung quanh Jerusalem, những khối đá đồ sộ, loại đá vôi lấp lánh vàng và gần như trắng, được đo đạc và cắt ra. Một ngàn toa xe được kết ráp để di chuyển những khối đá hết sức khổng lồ. Trong những đường hầm dọc theo Núi Đền, có một khối đá dài 44,6 bộ, cao 11 bộ, nặng 600 tấn.* Không âm thanh đinh tai, không tiếng búa đập làm ô nhiễm nơi tôn nghiêm như khi Solomon xây dựng Đền Thờ, vì vậy Herod cũng đảm bảo mọi công việc đều được hoàn tất ở bên ngoài và lặng yên lắp ráp vào đúng vị trí. Nơi Chí Thánh được hoàn thành trong hai năm, nhưng toàn bộ phức hợp đến 80 năm còn chưa hoàn tất.

Herod đào xuống tận đá nền và xây dựng trên đó, vì thế ông ắt phải phá hủy mọi vết tích của các Đền Thờ do Solomon và  Zerubbabel xây lên. Mặc dù ở phía đông bị giới hạn bởi sườn dốc của Thung lũng Kidron, ông cho mở rộng khoảng đất của Núi Đền về phía nam, lấp đầy khoảng trống bằng một tiểu kết cấu được chống đỡ bằng 88 cột đá và 12 cung vòm, giờ gọi là Chuồng Ngựa Solomon, để tạo ra một nền tảng rộng ba mẫu, lớn gấp hai lần Quảng trường La Mã. Ngày nay, có thể nhìn thấy đường phân giới trong bức tường phía đông từ góc tây-nam thành phố cách đó 105 bộ, với những khối đá thời Herod bên trái và khối đá Maccabee nhỏ hơn về bên phải.

5

Mô hình tái thiết Đền Thờ do Herod xây dựng

Các sân Đền Thờ càng vào chốn linh thiêng hơn càng giảm dần kích cỡ. Người Gentile (người không phải dân Do Thái nói chung) và Do Thái đều có thể đi vào Khu Gentile to rộng, nhưng một bức tường bao quanh Khu Phụ nữ với bảng cảnh báo sau đây:

NGƯỜI NGOÀI CHÚ Ý! KHÔNG ĐƯỢC BƯỚC VÀO BÊN TRONG RÀO VÀ KHU VỰC BAO QUANH ĐỀN THỜ. AI VI PHAM CHẮC CHẮN PHẢI CHIU TỘI CHẾT.

6

Cáo thị bằng tiếng Hy Lạp cấm người không phải Do Thái vào sân trong của Đền, vi phạm sẽ bị tội chết

Năm mươi bậc thang dẫn lên cổng mở vào Khu Do Thái, chỉ dành cho đàn ông Do Thái, dẫn đến Khu Giáo sĩ dành riêng. Bên trong đó là Điện Thờ, Hekhal, chứa đựng Vật Chí Thánh. Nó nằm trên tảng đá được cho là nơi Abraham suýt hiến tế Isaac, và nơi David xây dựng áng thờ. Tại đây lễ hiến tế được tiến hành trên Bệ thờ Hiến tế, đối diện với Khu Phụ nữ và Núi Olives.

Pháo đài Antonia của Herod canh gác Núi Đền ở phía bắc. Tại đây, Herod xây đường hầm bí mật của riêng mình chạy vào Đền Thờ. Ở phía nam có thể đi đến Đền bằng những bậc thang đồ sộ băng qua các Cổng Cấp Hai và Ba đến những lối đi ngầm được trang trí hình chim bồ câu và hoa lá dẫn vào trong Đền. Về phía tây, một cây cầu bề thế đồng thời dùng làm ống dẫn nước chảy vào các hầm chứa khổng lồ ẩn giấu, vươn dài qua thung lũng vào tận Đền Thờ. Trong bức tường phía đông thẳng đứng là Cổng Shushan, chỉ được sử dụng độc quyền cho các giáo sĩ khi cần lên Núi Olives để lễ bái trăng tròn, hoặc để hiến tế những nạn nhân quí hiếm và linh thiêng nhất, bò cái tơ đỏ không tì vết.*

* ‘Hãy nói với con dân Israel,’ Chúa Trời phán với Moses và Aaron trong Dân số Ký 19, ‘bảo họ mang đến một con bò cái không tật nguyền, không tì vết chưa mang ách.’ Con bò cái sẽ được thiêu trên giàn hỏa cây bá hương và bài hương và ném sợi chỉ len đỏ sậm vào giữa đống lửa, sau đó lấy tro của nó hoà trộn với nước thánh. Theo Sách Mishnah, việc này đã chỉ xảy ra được 9 lần và đến lần thứ 10, Đấng Cứu Thế sẽ xuất hiện. Kể từ sự kiện người Israel chinh phục lại Jerusalem vào năm 1967 sau hàng ngàn năm mong đợi, các giáo sĩ Do Thái và Cơ đốc bảo thủ tin rằng hai trong ba điều kiện tiên quyết cho Ngày Phán Xét và sự xuất hiện của Đấng Cứu Thế (hoặc Sự Trở Lại Lần Hai đối với người Cơ đốc) đã hội đủ: Israel đã được phục hồi và Jerusalem trở về người Do Thái. Điều kiện thứ ba là phục hồi Đền Thờ. Một số người Do Thái và Kitô chính thống tin rằng điều này chỉ có thể khi Núi Đền được thanh tẩy bằng việc hiến tế con bò cái đỏ. Vì vậy đến ngày nay một nhà truyền giáo ở Misissippi có tên Clyde Lott cùng hợp tác với Giáo sĩ Do Thái Richman thuộc Viện Temple, ra sức lai tạo giống bò đỏ từ 500 bò Red Angus nhập từ Nebraska đến một trại ở Thung lũng Jordan. Họ tin rằng mình sẽ gây được giống ‘bò đỏ làm thay đổi thế giới’.

Ở bốn phía đều có cổng vòm có cột nhưng cổng lớn nhất là Cổng Hoàng gia, nhìn bao quát toàn bộ vùng núi. Khoảng 70,000 người sống trong thành phố của Herod nhưng vào dịp lễ hàng trăm  ngàn người đến hành hương. Như bất kỳ điện thờ tấp nập nào, thậm chí ngày nay, Đền Thờ cần một nơi cho bạn bè tụ họp và cho việc tổ chức nghi lễ. Nơi đó chính là Cổng Hoàng gia. Khi khách đến, họ có thể mua sắm trên những con phố mua sắm nhộn nhịp chạy bên dưới những mái vòm to sầm dọc theo các bức tường phía tây. Khi đến giờ thăm Đền, khách hành hương phải tắm thanh tẩy trong nhiều hồ nghi thức đã được tìm thấy quanh lối vào phía nam. Họ sẽ trèo lên các cầu thang bề thế dẫn vào Cổng Hoàng gia tại đó họ có thể chiêm ngưỡng toàn cảnh của thành phố, chờ đến giờ cầu nguyện.

Tại góc đông nam, những bức tường và ghềnh đá cao nhất của Thung lũng Kidron tạo ra một đỉnh dốc mới, Cực Điểm, nơi Phúc âm nói Quỷ Sa tăng đã cám dỗ Jesus. Tại góc tây-nam, đối diện Thành Thượng giàu có, các giáo sĩ tuyên bố khai mạc buổi lễ và bắt đầu ngày Sabbath vào mỗi chiều thứ sáu với hồi kèn vang dội âm vang qua các hẻm núi hoang vu. Một khối đá đồ sộ bị Titus ném xuống vào 70 SCN có khắc cụm từ ‘Nơi Thổi Kèn’.

Thiết kế của Đền, được nhà vua và các kiến trúc sư vô danh giám sát (một bình đựng hài cốt đã được tìm thấy ghi ‘Simon người xây dựng Đền Thờ’, xem hình dưới), cho thấy một sự am hiểu xuất sắc về không gian và nghệ thuật. Choáng ngợp và kính sợ, Đền Thờ của Herod được ‘bao phủ toàn bộ bằng những miếng vàng và khi ánh mặt trời đầu tiên ló dạng phản chiếu một vẻ rực rỡ chói lóa’ sáng đến nỗi khách viếng phải quay mặt đi. Đến Jerusalem từ Núi Olives, nó nhô cao ‘như một ngọn núi phủ tuyết’. Đây là Đền Thờ mà Jesus biết và Titus đã phá hủy. Chỉ có phần xây thêm  ở phía Thung lũng Kidron là còn khi Haram al-Sharif người Hồi chống đỡ ba mặt bằng khối đá thời Herod đến nay vẫn còn lấp lánh, đặc biệt ở Bức Tường phía Tây được người Do Thái tôn kính.

7

Bình đựng cốt của Simon được khai quật

Ngay khi Điện và khu đắp thêm được hoàn tất – người ta nói rằng không có mưa vào ban ngày, nên công trình không hề đình hoãn – Herod, người không thể bước vào Nơi Chí Thánh vì ông không phải là giáo sĩ, ăn mừng bằng lễ hiến tế 300 bò. Ông đã đến thời điểm cực thịnh của mình. Nhưng sự vĩ đại không thể chối cải được của ông sẽ bị các con trai ông thách thức khi các tội ác của quá khứ quay về ám ảnh người thừa kế của tương lai.

CÁC HOÀNG TỬ CỦA HEROD: THẢM KỊCH GIA ĐÌNH

Herod giờ có ít nhất 12 người con với 10 bà vợ. Ông dường như phớt lờ hầu hết trừ hai con trai của ông với Mariamme, Alexander và Aristobulos. Họ nửa Maccabee, nửa Herod và sẽ là người kế vị ông. Ông đã gởi họ đến La Mã nhờ Augustus giám sát việc giáo huấn. Sau năm năm, Herod mang hai hoàng tử thanh thiếu niên về để lấy vợ: Alexander cưới con gái của Vua Cappadocia trong khi Aristobulos cưới cháu gái của Herod.*

* Cây gia hệ của Herod rất phức tạp vì người thân trong gia đình thường kết hôn lẫn nhau, và tái hôn nhiều lần giữa hai dòng họ Herod và Maccabee để mong giảng hòa với nhaue: chẳng hạn Herod gả em mình Pheroras cho em của Mariamme và con trai trưởng của mình Antipater cho con gái của vị vua cuối cùng Antigonos (bị trảm thủ theo yêu cầu của Antony). Những các cuộc hôn nhân đan xen với những vụ hành hình: Hai ông chồng đầu tiên của Salome bị Harod giết. Những người trong dòng họ Herod cũng được gã cho các gia đình hoàng gia xứ Cappadocia, Emesa, Pontus, Nabataea và Cilicia, đều là các đồng minh La Mã. Ít nhất có hai cuộc hôn nhân bị hủy vì người chồng không chịu cải sang Do Thái giáo và cắt bao qui đầu.

Vào năm 15 ,TCN,  Marcus Agrippa đến thanh sát Jerusalem của Herod, tháp tùng có bà vợ mới là Julia, đứa con gái cuồng dâm của Augustus. Agrippa, cộng sự của Augustus và người đã chiến thắng tại Actium, bạn thân của Herod được dẫn đi thăm thú ở Jerusalem. Ông cư ngụ tại biệt thự mang tên ông ở Thành lũy, tại đó ông mở yến tiệc chiêu đãi Herod. Augustus đã gởi tiền làm lễ hiến tế cho Chúa Trời Do Thái trong Đền Thờ, còn Agrippa cúng thêm 100 con bò. Ông xử sự rất tinh tế khiến ngay cả những người Do Thái khó tính nhất cũng chào đón ông bằng cách trải lá cọ trên lối ông đi qua và người dòng họ Herod đặt tên con theo tên ông. Sau đó, hai người đi du lịch Hy Lạp trên chiến thuyền của họ. Khi các người Do Thái địa phương cầu cứu ông về việc bị người Hy Lạp áp bức, Agrippa ủng hộ quyền lợi của người Do Thái. Herod cảm tạ ông và hai người ôm ghì lấy nhau như hai kẻ ngang hàng. Nhưng khi ông trở về sau chuyến đi chơi với người hùng La Mã, Herod bị đám con mình thách thức.

Hoàng tử Alexander và Aristobulos, được đánh bóng bởi nền giáo dục La Mã, kế thừa những quan điểm và thái độ hống hách của cha lẫn mẹ, chẳng mấy chốc đổ tội cho cha đã gây ra cái chết cho mẹ mình và, như bà, khinh thường những người mang nửa huyết thống Herod. Alexander, người kết hôn với con gái một ông vua, đặc biệt hợm hĩnh; cả hai gã con trai đều chế giễu cô vợ dòng Herod của Aristobulos, do đó sỉ nhục mẹ cô ta, chính là cô ruột hiểm ác Salome của mình. Họ ba hoa rằng khi mình lên ngôi sẽ cho các bà vợ của bố Herod đi lao động cùng với bọn nô lệ và sử dụng các đứa con trai khác của bố làm thư ký.

Salome mách lại những điều này với Herod. Ông nổi doá vì sự vô ơn và cảnh giác trước sự phản trắc của những hoàng tử trẻ hư đốn này. Lâu rồi ông không đoái hoài tới Antipater, trưởng nam của mình, với người vợ đầu tiên Doris. Nhưng bây giờ năm 13 TCN, Herod nhớ lại Antipater và nhờ Agrippa mang anh đến La Mã mang theo một văn kiện niêm phong cho hoàng đế. Đó là di chúc của ông, trong đó ông truất quyền thừa kế của hai cậu con trai ngỗ nghịch và thay vào đó giao vương quốc lại cho Antipater. Nhưng người thừa kế mới này, chắc hẳn chỉ trong độ tuổi hai mươi lăm, thấy xót xa vì bị cha bỏ phế và các em ganh ghét. Cậu và mẹ đang âm mưu tiêu diệt các hoàng tử bị truất quyền thừa kế, mà họ cho là đồ phản quốc.

Herod nhờ Augustus, đang dừng chân ở Aquilegia trên Biển Adriatic, phán xét ba vị hoàng tử. Augustus cố hòa giải hiềm khích giữa cha con, kết quả là Herod giong buồm về nhà, triệu tập một buổi họp trong sân Đền và thông báo rằng ba con trai sẽ cùng nhau chia sẻ vương quốc. Doris, Antipater và Salome tiến hành lật ngược sự sắp xếp này vi mục đích của riêng mình, nhưng họ được sự giúp đỡ bởi sự xấc xược của các chàng trai: Hoàng tử Alexander bảo với mọi người là bố Herod nhuộm tóc để trông trẻ hơn và tiết lộ rằng mình cố tình bắn hụt mục tiêu khi đi săn là để khiến bố thấy dễ chịu hơn. Cậu cũng dụ dỗ ba hoạn quan của nhà vua để họ tiết lộ những bí mật của bố. Herod liền bắt giữ và tra khảo các tôi tớ của Alexander cho đến khi một tên khai ra chủ nhân mình đang lên kế hoạch ám sát nhà vua trong một chuyến đi săn. Cha vợ của Alexander, Vua xứ Cappadocia, đang đến thăm con gái mình, đứng ra hòa giải cha con một lần nữa. Herod biểu lộ lòng biết ơn bằng cách tặng vua xứ Cappadocia một món quà rất có tính Herod: một kỹ nữ hạng cao cấp có cái tên rất gợi cảm Pannychis – Suốt-Đêm-Dài.

Hòa bình kéo dài không bao lâu: việc tra khảo các tôi tớ giờ phát lộ ra một bức thư Alexander gởi cho chỉ huy Pháo đài Alexandrium, nói rằng: ‘Khi chúng tôi đã hoàn thành mọi việc chúng ta tiến hành làm, chúng tôi sẽ nhờ đến anh.’ Herod nằm mơ thấy Alexander vung con dao găm trên đầu mình, một ác mộng quá sống động đến ông bắt giữ hai đứa con trai, đều nhìn nhận là mình đang cố tìm cách tẩu thoát. Herod phải nhờ Augustus tư vấn, chắc ông ta giờ đã oải vì sự nhờ cậy quá mức của ông bạn già – mặc dù bản thân ông không lạ gì đối với những đứa con ngỗ ngược và sự tranh giành thừa kế rối rắm. Augustus xử rằng, nếu các chàng trai đã âm mưu ám hại Herod, thì ông có mọi quyền hạn để trừng phạt chúng.

Herod mở phiên xét xử ở Berytus (Beirut), nằm ngoài quyền tài phán chính thức của mình – do đó được coi là một địa điểm công bình cho phiên tòa. Các chàng trai bị xử tội chết như Herod mong muốn, điều không mấy ngạc nhiên vì ông đã hào phóng làm đẹp cho thành phố Berytus. Các trợ lý của Herod khuyên ông khoan hồng – nhưng khi có người gợi ý là họ mua chuộc quân đội, Herod xử tử 300 sĩ quan. Các hoàng tử được đưa về Judaea và bị thắt cổ. Thảm kịch của mẹ họ Mariamme, lời nguyền cho dòng dõi Maccabee đã khép kín một vòng tròn. Augustus không hài lòng. Biết người Do Thái kiêng cữ thịt heo, ông điềm nhiên bình luận: ‘Tôi thà làm con heo của Herod hơn là con trai ông ta.’ Nhưng đó chỉ là màn đầu của cuộc phân rã khủng khiếp của Herod Đại Đế.

HEROD: THỐI RỮA KHI CÒN SỐNG

Nhà vua, giờ ở độ tuổi lục tuần, bệnh hoạn và hoang tưởng. Antipater là người duy nhất được nêu danh thừa kế, nhưng nhiều con trai khác cũng có quyền được thừa kế vương quốc, và em gái Salome của Herod đang bày mưu chống lại ông. Bà tìm một tôi tớ khai rằng Antipater đang lên kế hoạch đầu độc Herod bằng một thứ thuốc bí mật. Antipater, đang ở La Mã họp với Augustus, vội vã quay về nhà và phi ngựa đến cung điện ở Jerusalem, nhưng ông bị bắt tại đó trước khi đến giáp mặt cha. Tại phiên xử, chất thuốc vật chứng được cho một phạm nhân uống và anh này ngã chết ngay lập tức. Tra khảo thêm phát hiện rằng một nữ nô lệ Do Thái phục vụ Hoàng hậu Livia, vợ của Augustus, cũng là một chuyên gia về độc dược, đã ngụy tạo những bức thư để khép tội Salome.

Herod gởi những chứng cứ cho Augustus và soạn di chúc thứ ba của mình, giao vương quốc lại cho một người con trai khác, Antipas, người sau này sẽ gặp gỡ John the Baptist và  Jesus. Cơn bạo bệnh làm Herod phán đoán lệch lạc và buông lỏng việc trừng trị sắt máu sự chống đối của dân Do Thái. Ông đặt một tượng đại bàng bằng đồng mạ vàng lên trên cổng lớn của Đền. Một số học viên trèo lên mái, thòng dây xuống trước mặt sân đông người và cắt tượng rơi xuống. Binh lính trong Pháo đài Antonia vội vã chạy vào Đền để chặn bắt họ. Bị giải đến trước mặt Herod trên giường bệnh, họ khăng khăng mình làm theo lời dạy của Kinh Torah. Các thủ phạm bị thiêu sống.

Herod suy sụp, chịu đựng một căn bệnh thối rữa nhức nhối, ghê tởm: bắt đầu là ngứa ngáy toàn thân với cảm giác rát buốt tận trong ruột, sau đó phát triển thành chứng phù bàn chân và bụng, phức tạp thêm với ruột kết bị u xơ. Cơ thể ông bắt đầu ứ ra chất lỏng trong suốt khiến ông rất khó thở, một mùi tanh tưởi tiết ra từ ông, và bộ phận sinh dục của ông phồng to một cách kỳ cục cho đến khi dương vật và bìu giái vỡ ra chất hoại tử mưng mũ làm ổ cho đám vòi lúc nhúc.

Vị vua thối rữa hi vọng ông sẽ hồi phục trong thời tiết ấm áp của cung điện Jericho, nhưng khi cơn đau đớn tăng lên, ông được đưa tới suối nước nóng lưu huỳnh tại Callirhoe, vẫn còn tồn tại trên Biển Chết, chỉ khiến cho chất lưu huỳnh làm trầm trọng cơn thống khổ.* Được chữa bằng dầu nóng, ông bất tỉnh và được đưa về lại Jericho tại đó ông ra lệnh triệu tập giới lãnh đạo Đền Thờ từ Jerusalem đến và nhốt tất cả trong trường đua ngựa. Không chắc là ông có kế hoạch tàn sát họ. Ắt hẳn ông muốn việc truyền ngôi diễn ra trơn tru khi nhốt những nhân vật quan trọng hay gây rối.

* Các bác sĩ thời nay đã tranh luận về những triệu chứng của bệnh ông. Sự chẩn đoán đáng tin nhất là Herod bị cao huyết áp và bệnh xơ vữa động mạch phức tạp thêm bởi bệnh sa sút trí tuệ tiến triển và bởi phù tim và suy thận.  Xơ vữa động mạch dẫn đến phù tĩnh mạch, trầm trọng thêm bởi trọng lực, kết quả là chất dịch tích tụ trongZAbàn chân và bộ phận sinh dục, trở nên trầm trọng đến nỗi chất dịch ứ qua da, dòng máu lưu thông kém đến nỗi da thịt bị hoại tử. Hơi thở hôi và ngứa ngáy là do suy thận. Chất hoại tử ở dương vật và bìu dái là môi trường lý tưởng cho ruồi nhặng đẻ trứng và sinh ra vòi bọ. Có thể vòi bọ ở bộ phận sinh dục là tuyên truyền ác ý, tượng trưng cho sự trả thù của thần linh đối với một ông vua tàn ác: Antiochus IV Epiphanes, cháu nội của Herod, Agrippa I, và nhiều tội đồ khác kể cả Judas Iscariot, đều được gán cho chứng bệnh ấy.

Cũng khoảng thời gian này, một đứa bé có tên Joshua ben Joseph, hay Jesus (tiếng Aramaic), ra đời. Cha em là thợ mộc, tên Joseph, và cô vợ chưa cưới còn thiếu nữ, Mary (tiếng Hebrew là Mariamme), quê quán ở Nazareth, tận trên xứ Galilee. Họ không giàu có gì hơn nông dân, nhưng người ta nói rằng họ thuộc dòng dõi vua David. Họ đi xuống Bethlehem tại đó cho ra đời  một đứa bé, Jesus,  ‘người sẽ cai trị nhân dân Israel của tôi’. Sau khi bé được cắt bao qui đầu theo truyền thống vào ngày thứ tám, theo St Luke, ‘họ mang em đến Jerusalem, để trình lên Chúa Trời’ và làm lễ hiến tế truyền thống trong Đền Thờ. Một gia đình giàu có sẽ cúng một con cừu thậm chí một con bò, nhưng Joseph chỉ đủ tiền hiến tế hai chim bồ câu.

Khi Herod hấp hối, theo Phúc âm Matthew, ông ra lệnh thủ tiêu đứa bé dòng dõi David này bằng cách tàn sát mọi hài nhi mới sinh ra, nhưng  Joseph đến Ai Cập lánh nạn chờ đến khi nghe tin Herod qua đời mới trở về. Ắt hẳn có tin đồn về lời tiên tri lan truyền và Herod đã sợ một người mạo danh hậu duệ David, nhưng không có chứng cứ là nhà vua đã từng nghe về Jesus hoặc tàn sát bất kỳ trẻ vô tội nào. Mỉa mai thay tên quái vật này được đặc biệt nhớ tới cho một tội ác mà y bỏ sót. Về phần đứa bé từ Nazareth, chúng ta không nghe nói gì về Jesus một lần nào nữa trong khoảng 30 năm.*

Việc ra đời của Jesus là một thách đố về mặt lịch sử, dữ kiện của Phúc âm có khi xung đột nhau. Không ai biết ngày tháng nhưng chắc chắn là trước khi Herod qua đời, vào 4 TCN có nghĩa là Jesus mất trong những năm đầu tuổi tam tuần nếu ông bị đóng đinh vào 29-30 SCN, 40 tuổi nếu vào 36 SCN. Câu chuyện về kiểm tra dân số buộc gia đình phải đến Bethlehem không hợp với lịch sử vì việc kiểm tra dân số của thống đốc Quirinius, toàn quyền La Mã ở Syria và Judaea, xảy ra sau khi người kế vị Herod, Archelaus, bị truất phế vào 6 SCN, hầu như 10 năm sau khi Jesus ra đời. Trong việc kể lại chuyến đi đến Bethlehem và dòng dõi David của Jesus, Phúc âm Matthew ban cho Jesus huyết thống hoàng gia và hoàn mãn lời tiên tri – ‘vì đấng tiên tri đã viết như thế.’ Vụ Tàn sát Hài nhi và trốn thoát đến Ai Cập rõ ràng lấy cảm hứng từ câu chuyện Vượt Qua: một trong Mười Tai Hoạ mà Chúa Trời giáng xuống Ai Cập vì họ không chịu để người Do Thái xuất hành là việc Giết hại Trưởng Nam trong gia đình dân Ai Cập. Dù Jesus sinh tại đâu, chắc chắn là gia đình có đi đến Đền Thờ để làm lễ hiến tế. Truyền thống Hồi giáo, được các Thập Tự quân loan truyền, tin rằng Jesus được nuôi dưỡng trong nhà nguyện bên dưới Thánh đường Hồi giáo al-Aqsa, Nôi của Jesus. Gia đình Jesus cũng bí ẩn: sau khi sinh ra Jesus, Joseph đơn giản biến mất khỏi Phúc âm. Matthew và Luke khẳng định Mary vẫn còn là trinh trắng và Jesus có cha là Chúa Trời (một ý tưởng quen thuộc trong thần thoại La Mã và Hy Lạp, và cũng được đề xuất trong lời tiên tri của Isaiah về Emmanuel). Nhưng  Matthew, Mark và John cũng nêu tên những em của Jesus: James, Joses, Judas và Simon cùng với một em gái, Salome. Khi sự trinh nguyên của Mary trở thành một giáo điều Cơ đốc, sự tồn tại của những đứa con khác trở nên bất tiện. John đề cập ‘Mary của nhà Cleophas’. Nếu Joseph chết trẻ, Mary có thể đã lấy ông Cleophas này và sinh thêm con nữa vì, sau vụ Đóng Đinh, Jesus được người em trai James tiếp quyền lãnh đạo lúc đầu rồi đến ‘Simon con trai của Cleophas’.

ARCHELAUS: CÁC ĐẤNG TIÊN TRI VÀ NHỮNG VỤ TÀN SÁT

Hoàng đế Augustus gởi phúc đáp cho Herod: ông đã cho người đập chết nữ nô lệ của Livia và Herod tự ý trừng phạt Hoàng tử Antipater. Giờ đây Herod trong một tâm trạng dày vò đến nỗi ông rút dao găm tự sát. Vụ việc ồn ào đến tai Antipater, bị giam trong xà lim gần đó, ngỡ rằng tên độc tài già đã chết. Y hớn hở gọi cai ngục mở khóa xà lim. Cuối cùng thì có phải chắc chắn Antipater sẽ là Vua Do Thái hãy không? Tên cai ngục cũng đã nghe tiếng la ó. Chạy vội đến nơi, y thấy Herod chưa chết, chỉ lên cơn điên loạn. Các người hầu đã giật phắt con dao khỏi tay ông. Tên cai ngục báo cáo sự phản trắc của Antipater. Cái thây ma đầy mụn nhọt nhưng còn sống nầy đập đầu, hú thét và ra lệnh cận vệ đi giết đứa con ngỗ ngược này ngay lập tức. Rồi ông viết lại đi chúc, chia vương quốc cho ba đứa con trai thanh thiếu niên – với Jerusalem và Judaea về tay Archelaus.

Năm ngày sau, vào tháng 3 năm 4 TCN, sau khi trị vì được 37 năm, Herod Vĩ đại, người đã sống sót qua ‘10,000 tai họa’, qua đời. Gã Archelaus 18 tuổi nhảy múa, hát hò và hớn hở như thế một kẻ thù, chứ không phải bố mình, đã chết. Ngay cả gia quyến quái đản của Herod cũng bị sốc. Thi hài, đội vương miện và cầm vương trượng, được rước trên giá phủ vải tím, đính trang sức bằng vàng, đi đầu là Archelaus và theo sau là đội cận vệ gốc German và Thrace, và 500 tôi tớ mang hương dầu (mùi ắt hẳn sẽ nồng nặc) – đi một đoạn đường 24 dặm đến pháo đài trên núi Herodium. Tại đó, Herod được an táng trong một lăng mộ * đã mất dấu 2,000 năm.

* Lăng mộ của Herod được Giáo sư Ethud Netzer phát hiện vào năm 2007. Ông tìm thấy một quách đỏ hoa mỹ,  có trang trí hoa tiết hoa lá, bị đập vỡ từng miếng  gần như chắc chắn bởi bọn nổi loạn Do Thái chống Herod vào 66-70 SCN. Hai quách khác màu trắng, cũng trang trí hình hoa: có phải của các con trai ông không? Herodium là một kỳ tích khác của công trình Herod – một ngọn đồi nhân tạo đường kính   210 bộ trên đỉnh là một cũng điện xa hoa bề thế chứa nhà tắm có mái vòm, tháp, phù điêu và hồ. Lăng mộ hình kim tự tháp của Herod nằm trên Đồi Herodium bên dưới tháp phía đông của pháo đài, cũng bị tàn phá vào năm 66-70.

Archelaus trở lại để làm chủ Jerusalem, bước lên ngai vàng ở Đền Thờ, nơi ông tuyên bố sẽ không theo chính sách hà khắc như vua cha. Thành phố đông nghẹt người hành hương dự lễ Vượt Qua, nhiều người, tin chắc rằng cái chết của nhà vua báo trước một sự cứu rỗi khải huyền, chạy tứ tán trong Đền Thờ. Các cận vệ của Archelaus bị ném đá. Archelaus, mặc dù mới vừa hứa giảm nhẹ áp bức, phái kỵ binh đến: kết quả là 3,000 người bị tàn sát trong Đền.

Tên độc tài thanh thiếu niên này giao việc triều chính cho người anh vững chãi Philip còn mình thì giong buồm đến La Mã để xác lập quyền kế vị với Augustus. Nhưng đứa em, Antipas, chạy theo anh đến La Mã, hi vọng tranh thủ được vương quốc cho mình. Ngay sau khi Archelaus đi rồi, viên đại diện của Augustus tại địa phương, Sabinus, lùng sục Cung điện Jerusalem của Herod để tìm của cải cất giấu của ông, làm dấy lên nhiều vụ nổi dậy hơn nữa. Thống đốc Syria, Varus, đem quân đến để ổn định trật tự nhưng các băng nhóm người Galilee và Idumea, đến để dự lễ Gặt, chiếm lấy Đền Thờ và tàn sát bất kỳ người La Mã nào họ gặp khi Sabinus thu mình trong Tháp canh Phasael.

Bên ngoài Jerusalem, ba người nổi loạn – các cựu nô lệ – tự phong mình là vua, phóng hỏa cung điện của Herod và cướp bóc một cách điên cuồng. Những ông vua tự phong này là những tên tiên tri giả mạo, cho thấy đúng là Jesus sinh ra trong một thời kỳ mà việc đầu cơ tôn giáo rất thịnh hành. Đã sống qua thời cai trị của Herod, chờ đợi nhà lãnh đạo cứu thế như thế trong vô vọng, giờ người Do Thái bỗng nhiên thấy cả ba người đến cùng một lúc: Varus đánh bại và giết chết cả ba tên mạo danh, * nhưng các nhà tiên tri giả tiếp tục đến và người La Mã tiếp tục giết. Varus đóng đinh 2,000 người phiến loạn quanh Jerusalem.

*  Một trong các ‘ông vua’ này là Simon, một nô lệ lớn xác của Herod, chẳng mấy chốc bị người La Mã trảm thủ. Simon có thể là chủ thể của sự kiện gọi là Thiên Khải Gabriel, một bảng khắc trên phiến đá  được tìm thấy ở miền nam Jordan trong đó Tổng Thiên sứ Gabriel loan tin một ‘ông hoàng của những ông hoàng’ tên là Simon sẽ bị giết chết nhưng sẽ sống lại ‘ba ngày sau’ khi đó ‘ngươi sẽ biết được rằng cái ác sẽ bị công chính đánh bại. Trong ba ngày ngươi sẽ sống lại, ta, Gabriel, ra lệnh cho nhà ngươi.’ Các chi tiết – phục sinh và phán xét – có trước sự kiện Jesus bị đóng đinh hơn 30 năm. Sau khi giết Simon, Varus lên nắm quyền tư lệnh đạo quân biên giới Đức. Khoảng 10 năm sau, vào 9 SCN, ông bị phục kích, mất cả ba quân đoàn. Thảm họa này làm u ám những năm trị vì cuối cùng của Augustus. Người ta nói ông thường lang thang trong cung điện, kêu khóc, ‘Varus ơi, trả lại các quân đoàn cho ta!’

Ở La Mã, Augustus, giờ đã 60, ngồi nghe các người trong gia đình Herod cãi cọ và xác nhận di chúc của Herod nhưng, không ban tước vua cho ai, chỉ bổ nhiệm Archelaus làm ethnarch (một chức vụ như thống đốc) cai quản Judaea, Samaria và Idumea còn Antipas giữ chức tetrarch của  Galilee và Peraea (thuộc Jordan ngày nay), và em cùng cha khác mẹ Philipas giữ chức tetrarch phần lãnh thổ còn lại. Cuộc sống của bọn nhà giàu trong các biệt thự kiểu La Mã ở Jerusalem của Archelaus rất  mờ ám, mang phong cách Hy Lạp cổ và phi Do Thái: một bình bạc, được chôn gần đó, bị thất lạc cả hai ngàn năm trước khi một nhà sưu tập Mỹ đưa ra vào 1911, mô tả rõ ràng sự cặp đôi đồng tính – một bên, một gã đàn ông sử dụng một ròng rọc hạ thấp người xuống đè lên một thiếu niên trai đang nhìn trộm qua cửa, trong khi phía bên kia hai gã trai mảnh dẻ quấn quýt lấy nhau trên ghế dài. Nhưng Archelaus hóa ra quá độc ác, thiếu năng lực và hoang phí. Sau mười năm, Augustus bãi nhiệm y, đày y đến xứ Gaul (Pháp ngày nay). Judaea trở thành một tỉnh của La Mã, còn Jerusalem được cai trị từ Caesarea trên bờ biển bởi một loạt các  thái thú cấp thấp. Chính lúc này người La Mã mới tiến hành điều tra dân số để đăng ký những người phải đóng thuế. Sự thần phục La Mã này đủ nhục để xúi giục một cuộc nổi dậy nhỏ của dân Do Thái và là cuộc kiểm tra dân số mà Luke đề cập, ắt hẳn là không đúng, khi cho đó là lý do khiến gia đình Jesus đến Bethlehem.

Trong 30 năm, Herod Antipas cai trị Galilee, tiếc nuối về vương quốc của vua cha mà mình suýt được thừa kế, cho đến khi John the Baptist, một nhà tiên tri thu hút mới, bỗng từ sa mạc xuất hiện để chế giễu và thách thức ông.

    CHƯƠNG 11

  JESUS CHRIST  10–40 SCN

 

JOHN THE BAPTIST VÀ CON CÁO XỨ GALILEE

Cha mẹ của John,  Zacharias, một giáo sĩ trong Đền Thờ, và Elizabeth sống trong một ngôi làng Ein Kerem, ngay phía ngoài thành phố. Zacharias chắc hẳn là một trong những giáo sĩ cấp thấp thường rút thăm để chia nhau gánh vác công việc trong Đền Thờ, rất khác biệt với những giáo sĩ có chức sắc. Nhưng John có lẽ đến thăm Đền thường khi còn là đứa trẻ. Có nhiều cách để làm một người Do Thái tốt và ông chọn sống kham khổ trong chốn hoang sơ như Isaiah đã kêu gọi: ‘Hãy chuẩn bị con đường của Yahweh (Chúa Trời đạo Do Thái) trong sa mạc.’

Vào những năm cuối thập niên 20 SCN, John  bắt đầu tranh thủ người đi theo ông trước tiên trên vùng sa mạc không xa Jerusalem – ‘mọi người đều suy nghĩ trong lòng về John xem ông ta có phải đấng Christ hay không’ – rồi sau đó xa hơn về phía bắc ở xứ Galilee của Antipas, tại đó ông có gia đình. Mary là em họ với mẹ của John. Khi có mang Jesus, bà trú tại nhà cha mẹ John. Jesus đến từ Nazareth để nghe anh họ giảng đạo và John rửa tội ông trên sông Jordan. Anh em họ bắt đầu đi giảng cùng nhau, thực hành lễ rửa tội để tội lỗi được thuyên giảm, nghi thức mới của họ phỏng theo truyền thống tẩy uế Do Thái trong hồ nghi thức. Tuy nhiên, John cũng bắt đầu phản đối Herod Antipas.

8

Con trai của Herod Vĩ Đại, Herod Antipas, người cai trị Galilee, chế nhạo Jesus nhưng từ chối xét xử ông.

Quan Tetrarch xứ Galilee sống một cách vương giả, thói xa hoa của ông lấy từ tiền sưu cao thuế nặng khiến nhân dân căm ghét. Antipas không ngừng nịnh bợ hoàng đế mới của La Mã, Tiberius, con trai riêng hay ủ ê của Augustus, mong hoàng đế giao cho ông toàn bộ vương quốc của vua cha. Ông đặt tên kinh đô của mình là ‘Livia’ theo tên người vợ góa bụa của Augustus, mẹ của Tiberius, một người bạn của gia đình. Rồi vào năm 18 SCN, ông xây dựng một thành phố mới trên Biển Galilee lấy tên là Tiberius. Jesus, cũng như John, khinh bỉ Antipas vì sự bại hoại và làm tay sai cho La Mã: ‘con cáo đó’, Jesus gọi ông như vậy.

Antipas đã cưới con gái của vua Ả Rập xứ Nabataea Aretas IV, một cuộc hôn nhân để làm đồng minh bảo đảm hòa bình giữa người Do Thái và người Ả Rập lân bang. Sau 30 năm trên chiếc ngôi bé nhỏ, Antipas, đang tuổi trung niên, bỗng đâm ra yêu cháu gái của mình, Herodias. Cô nàng là con gái của Aristobulos, đứa con trai bị bố Herod Vĩ đại tử hình và đã kết hôn với ông anh cùng cha khác mẹ. Giờ cô ta yêu cầu Antipas phải ly dị bà vợ Ả Rập. Antipas điên khùng chấp nhận, nhưng công chúa xứ Nabataea không ra đi một cách bình lặng. Đứng trước đám đông, John the Baptist, chế nhạo cặp đôi ngoại tình này như Ahab và Jezebel ngày trước cho đến khi Antipas ra lệnh bắt giữ ông. Nhà tiên tri bị giam trong Pháo đài Machaerus của Herod Vĩ đại trên bờ sông Jordan, 2,300 bộ phía trên Biển Chết. John không một mình trong nhà ngục này bởi vì còn có một tù nhân tiếng tăm khác: bà vợ Ả Rập của Antipas.

Antipas và triều thần mở yến tiệc mừng lễ sinh nhật của ông với Herodias và con gái bà, Salome, kết hôn với quan tetrarch Philip. (Các sàn nhà cẩn đá khảm của sảnh yến tiệc Machaerus có một phần còn nguyên vẹn, cũng như một số xà lim bên dưới.) Salome ‘bước vào và bắt đầu nhảy múa, khiến Herod hài lòng’, có lẽ thậm chí trình diễn màn thoát y bảy lớp áo choàng mỏng,* quá duyên dáng đến nỗi ông nói: ‘Cứ yêu cầu điều gì con ao ước, ta sẽ chìu theo ý ngày.’ Được mẹ nhắc, Salome trả lời, ‘Cái đầu của John the Baptist.’ Một lúc sau, thủ cấp từ ngục thất được mang lên, đưa vào phòng tiệc trên một chiếc đĩa lớn và đưa cho ‘tiểu thư và tiểu thư đưa cho mẹ mình’.

* Salome nhảy múa biểu tượng cho tính thất thường vô cảm và sự sa đọa của người nữ, nhưng cả hai Phúc âm Mark và Matthew không hề nêu tên cô. Josephus cho ta cái tên con gái của Herodias trong một ngữ cảnh khác nhưng chỉ đơn giản kế là Antipas ra lệnh hành hình John mà không có sự cổ vũ của trò nhảy nhót. Trò thoát y vũ bảy lớp áo là thêm thắt về sau này. Có nhiều tên Salome dòng họ Herod (chính em gái của Jesus cũng tên Salome). Nhưng chắc chắn nhất cô gái nhảy là vợ của Herod Philip, quan Tetarch xứ Trachonitis. Sau khi ông này chết, cô cưới một người anh họ khác sau này được bổ nhiệm làm vua Tiểu quốc Armenia. Thế là người nhảy múa đã trở thành một hoàng hậu. Rốt cục chiếc đầu của John sẽ trở thành một trong những thánh tích vô giá của Cơ đốc giáo. Có ít nhất 5 điện thờ nhìn nhận mình có bản gốc: điện thờ chiếc đầu của John ở Thánh đường Hồi giáo Umayyad ở Damascus được người Hồi giáo tôn kính.

Jesus, biết rằng mình gặp nguy hiểm, liền bỏ trốn vào sa mạc, nhưng ông thường lui tới Jerusalem. Ông là giáo chủ duy nhất trong số giáo chủ của ba tôn giáo có nguồn gốc tổ phụ Abraham đã từng bước đi trên những con phố của nó. Thành phố và Đền Thờ là trung tâm của sự tự thấu thị của Jesus. Cuộc sống của Jesus dựa vào việc nghiên cứu các tiên tri, hành lễ Luật và hành hương đến Jerusalem, mà Jesus gọi là ‘Thành phố của Vị Vua Vĩ Đại’. Mặc dù ba thập niên đầu trong cuộc đời Jesus chúng ta không được biết tới, nhưng rõ ràng là ông tinh thông Kinh thánh Do Thái và mọi điều ông làm là sự hoàn tất tỉ mỉ lời tiên tri của nó. Vì ông là người Do Thái, Đền Thờ là một phần thân thiết của cuộc sống Jesus và ông bị ám ảnh bởi số phận của Jerusalem. Khi ông 12 tuổi cha mẹ dắt ông đến thăm Đền nhân ngày lễ Vượt Qua. Khi họ ra về, Luke nói ông vụt khỏi tay họ và sau ba ngày lo lắng ‘họ tìm thấy ông đang ngồi trong đền thờ giữa các thầy giảng, lắng nghe và đặt câu hỏi cho họ’. Khi ông bị cám dỗ, quỷ dữ ‘mang ông lên tận chóp đền thờ’. Khi ông tiết lộ sứ mạng của mình cho các đệ tử, ông nhấn mạnh là diễn tiến của định mệnh ông sẽ xảy ra ở Jerusalem: ‘Từ lúc đó trở đi Jesus bắt đầu chứng tỏ với các đệ tử của mình ông phải đến Jerusalem ra sao và chịu nhiều khổ ải. . . và bị giết và sống lại vào ngày thứ ba.’ Nhưng Jerusalem phải trả giá cho điều này: ‘Và sẽ tới những ngày quân thù đắp lũy chung quanh, bao vây và công hãm ngươi tư bề. Chúng sẽ đè bẹp ngươi và con cái đang ở giữa ngươi, và sẽ không để hòn đá nào trên hòn đá nào. . .’

Được sự hỗ trợ của 12 Tông đồ (trong đó có người em trai

James), Jesus xuất hiện lần nữa tại quê nhà ở Galilee, di chuyển về nam, vừa đi vừa giảng đạo điều mà ông gọi là ‘tin lành’, theo phong cách tinh tế và mộc mạc của riêng mình, hay sử dụng dụ ngôn. Nhưng thông điệp thì trực tiếp và đầy xúc cảm: ‘Hãy ăn năn: vì nước Chúa đang đến gần.’ Jesus không để lại bút tích nào và những lời dạy của ông đã được phân tích không ngừng, nhưng bốn sách Phúc âm tiết lộ rằng tinh túy trong lời giảng của ông là lời cảnh báo ngày Khải Huyền – Ngày Phán Xét và Nước Chúa – đang đến gần

Đây là một khải thị căn cơ và khủng khiếp trong đó Jesus đóng một vai trò trung tâm như Con Chúa Trời bán-tiên tri thần bí, một cụm từ được rút ra từ Sách Isaiah và Daniel: ‘Con Chúa Trời sẽ phái đến các thiên sứ, và họ sẽ gom ra khỏi vương quốc của người mọi thứ xúc phạm, mọi người vi phạm đạo lý; và ném chúng vào hoả ngục: ở đó sẽ có tiếng kêu gào và nghiến răng. Rồi những người công chính sẽ chiếu rực rỡ như mặt trời trong vương quốc của Cha họ.’ Ông nhìn thấy trước sự hủy diệt của mối thâm tình: ‘Và anh sẽ đem đến cái chết cho em mình, cha đêm cái chết cho con cái mình: và những đứa con sẽ đứng lên chống lại cha mẹ chúng, và đưa họ đến chỗ chết. . . Đừng nghĩ ta đến để mang lại hòa bình trên mặt đất: Ta đến không phải để mang lại hòa bình, mà mang đao kiếm.’

Đây không phải là một cuộc cách mạng dân tộc hay xã hội: Jesus quan tâm nhiều nhất với thế giới sau Ngày Tận Thế; òng giảng về công bằng xã hội trong thế giới này không nhiều như trong thế giới sau: ‘Phước cho kẻ bần hàn: vì nước Trời là của họ.’ Những người thu thuế và gái điếm sẽ bước vào nước Chúa trước bọn uy quyền và các giáo sĩ. Jesus gợi lên Ngày Khải Huyền một cách gây sốc khi ông chỉ ra rằng các luật cũ không còn dùng được nữa: ‘Hay để kẻ chết chôn người chết của họ.’ Khi thế giới tận diệt, ‘Con Chúa Trời sẽ ngồi trên chiếc ngai đầy huy hoàng’ và tất cả quốc gia sẽ tập họp trước mặt người chờ phán xét. Sẽ có ‘cuộc trừng phạt vĩnh hằng’ cho kẻ ác và ‘cuộc sống vĩnh hằng’ cho người công chính.

Tuy nhiên, Jesus thận trọng, trong đa số trường hợp, giữ đúng giáo luật Do Thái và đúng ra toàn bộ rao giảng của ông đều nhấn mạnh rằng mình đang hoàn thành những tiên tri của kinh thánh: ‘Đừng nghĩ rằng ta đến để hủy hoại giáo luật, hoặc các đấng tiên tri: ta không đến hủy hoại, mà để làm viên mãn.’ Nghiêm nhặt tuân thủ giáo luật Do Thái mặc dù như thế cũng chưa đủ: ‘trừ ra sự công chính của ngươi phải vượt qua sự công chính của bọn thư lại và người Pharisee, nếu không ngươi không thể nào vào được nước Chúa’. Nhưng ông không phạm sai lầm dám thách thức trực tiếp hoàng đế La Mã, hoặc ngay cả Herod. Nếu Ngày Khải Huyền lấn át lời giảng của ông, ông đưa ra một chứng cứ thuyết phục hơn cho quyền lực thần thánh của mình: ông là người chữa bệnh, ông chữa lành người què và làm người chết sống dậy và ‘đám đông người tụ tập chung quanh ông’.

Jesus thăm viếng Jerusalem ít nhất ba lần trong lễ Vượt Qua và những lễ khác trước chuyến đi cuối cùng, theo John, và có hai lần may mắn trốn thoát

thành công. Khi ông giảng đạo trong Đền Thờ dịp lễ Tabernacles, ông được một số người ca ngợi là đấng tiên tri và những người khác xem là đấng Christ – cho dù có người Jerusalem hợm hĩnh mỉa mai, ‘Đấng Christ mà xuất thân từ Galilee à?’ Khi ông tranh luận với những người có thẩm quyền, đám đông thách thức ông: ‘Rồi họ nhặt đá ném ông nhưng Jesus tránh khỏi và bước ra đền thờ, chen qua giữa họ.’ Ông trở lại vào dịp Hanukkah (Lễ Dâng Hiến), nhưng khi ông tuyên bố ‘Ta và Cha ta là một, người Do Thái lần nữa nhặt đá ném vào ông, nhưng ông thoát được’. Ông hiểu chuyến đến thăm Jerusalem có ý nghĩa như thế nào.

Trong khi đó ở Galilee, cô vợ Ả Rập bị bỏ rơi của Antipas thoát ra được ngục thất Machaerus và về đến triều đình cha mình, Aretas IV, vị vua giàu nhất xứ Nabataea, người xây dựng Điện thờ Khazneh và lăng mộ hoàng gia nổi tiếng ở vùng Petra ‘đỏ như hoa hồng’. Thịnh nộ vì bị sỉ nhục, Aretas xâm lược lãnh thổ Antipas. Herodias trước đã gây ra cái chết cho một nhà tiên tri giờ làm phát khởi cuộc chiến Ả Rập-Do Thái và Antipas thảm bại. Các đồng minh của La Mã không được phép tự ý đánh nhau: Hoàng đế Tiberius, người đang đắm chìm trong cảnh trụy lạc lúc tuổi già ở Capri, bực tức vì hành động điên rồ của Antipas nhưng ủng hộ y.

Herod Antipas giờ mới nghe nói về Jesus. Dân chúng thắc mắc không rõ ông là ai. Một số cho ông là ‘John the Baptist nhưng số khác nói ông là Elias hoặc một trong số các tiên tri’, trong khi đệ tử Peter của ông tin thầy mình là đấng Cứu Thế. Jesus đặc biệt được phụ nữ quí kính, trong số đó có những người dòng họ Herod – vợ của quản gia của Herod cũng là người theo ông. Antipas biết về mối liên hệ của Jesus với the Baptist: ‘Chính là John, người mà ta đã trảm thủ: gã đã từ chết sống lại.’ Y đe doạ bắt giữ Jesus, nhưng một cách có ý nghĩa một số người Pharisee, tất nhiên thân thiết với ông, báo cho ông: ‘Hãy trốn đi ngay vì Herod đang tìm giết ông.’

Thay vào đó Jesus thách thức Antipas. ‘Hãy đi và bảo với con cáo đó’ là ông sẽ tiếp tục chữa bệnh và giảng đạo hai ngày nữa và đến ngày thứ ba ông sẽ đến thăm nơi duy nhất mà Con Chúa Trời Do Thái có thể hoàn tất định mệnh của mình: ‘Một nhà tiên tri không thể chết ở bên ngoài Jerusalem.’ Thông điệp đầy tính thi ca siêu việt gởi đến con trai của vị vua đã xây dựng Đền Thờ thấm đẫm tình yêu của Jesus dành cho thành phố tận số của mình: Hỡi Giê-ru-sa-lem, Giê-ru-sa-lem, ngươi giết các tiên tri, và quăng đá các đấng chịu sai đến cùng ngươi, ghe phen ta muốn nhóm họp con cái ngươi, như gà mái túc và ấp con mình dưới cánh, mà các ngươi chẳng muốn!

JESUS XỨ NAZARETH: BA NGÀY Ở JERUSALEM

Tại ngày lễ Vượt Qua 33 SCN,* Jesus và Antipas đến Jerusalem gần như đồng thời. Jesus dẫn đầu đám rước đến Bethany trên Núi Olives, từ đây có thể nhìn thấy cảnh tượng ngoạn mục của núi tuyết lấp lánh của Đền Thờ. Ông phái các Tông đồ vào thành phố mang về một con lừa – không phải con lừa của chúng ta mà con vạm vỡ của các nhà vua. Các Sách Phúc âm, nguồn tham khảo duy nhất của chúng ta, mỗi cuốn đưa ra một phiên bản hơi khác nhau về sự kiện xảy ra trong ba ngày tiếp theo. ‘Tất cả điều này được thực hiện’, Matthew giải thích, ‘để những lời thánh giáo của các đấng tiên tri được thành tựu’.

*   Không ai biết chính xác khi nào Jesus đến Jerusalem. Luke ấn định việc Jesus bắt đầu truyền đạo bằng việc được John làm lễ rửa tội, khoảng 28-29 SCN, cho rằng ông khoảng 30, như vậy ông mất trong khoảng 29 và 33 SCN. John cho rằng việc truyền đạo của ông chỉ kéo dài một năm; Matthew và Luke nói đến ba năm. Jesus có thể đã bị giết vào khoảng 30, 33 hoặc 36. Nhưng sự tồn tại lịch sử của ông được khẳng định không chỉ trong Phúc âm mà còn trong sử do Tacitus và Josephus soạn, cũng đề cập đến John the Baptist. Ít nhất, chúng ta biết rằng Jesus có đến Jerusalem vào ngày lễ Vượt Qua sau khi Pilate đến làm thái thú (26) và trước khi ông ra đi (36), trong thời trị vì của Tiberius (chết năm 37) và Antipas (trước 39) và  thời gian Caiaphas làm giáo trưởng (18-36): chắc chắn nhất là giữa 29 và 33. Tính cách của Pilate được khẳng định bởi cả Josephus lẫn Philo Judaeus xứ Alexandria, và sự tồn tại của ông được khẳng định bằng một bảng khắc chữ được tìm thấy ở Caesarea. 

Đấng Cứu Thế được tiên tri là sẽ vào thành phố trên lưng lừa, và khi Jesus đến gần, những người theo ông trải lá cọ trước bước đi của ông và tung hô ông là ‘Con Trai David’ và ‘Vua Israel’. Ông ắt hẳn bước vào thành phố, như nhiều khách viếng, qua cổng phía nam gần Hồ Siloam và sau đó bước lên Đền Thờ bằng cầu thang bề thế của Cung Vòm Robinson. Các Tông đồ của ông, những dân tỉnh lẻ Galilee chắc chưa hề được tham quan thành phố, bị choáng ngợp trước vẻ hoành tráng của Đền Thờ: ‘Thưa thầy, hãy ngắm khối đá và các tòa nhà đẹp đẽ xiết bao!’ Jesus, vốn đã quen thuộc với Đền Thờ, trả lời, ‘Ngươi có thấy những tòa nhà vĩ đại kia không? Rồi đây sẽ không còn khối đá nào chồng lên khối đã nào mà không bị ném xuống.’

Jesus bày tỏ tình yêu và nỗi bất mãn đối với Jerusalem nhưng ông nhìn thấy trước sự gớm ghiếc của sự tàn phá. Các sử gia cho rằng những lời tiên tri này được viết thêm sau này, bởi vì Sách Phúc âm được soạn sau khi Titus đã phá hủy Đền Thờ. Song Jerusalem đã từng bị đập phá và xây lại trước đây, nên có thể Jesus đang nghĩ về những truyền thống chống-Đền thờ phổ biến. ‘Cứ phá hủy Đền Thờ này và ta sẽ xây một đền thờ khác không làm bởi tay người,’ ông nói thêm, vang vọng những lời đầy cảm hứng có tính tiên tri của Isaiah. Cả hai đều nhìn thấy vượt quá thành phố thực tại đến một Jerusalem ở thiên đường có mãnh lực làm rung chuyển thế giới, song Jesus hứa chính mình sẽ xây lại Đền Thờ trong ba ngày, có lẽ để chứng tỏ rằng chính sự bại hoại, chứ không phải Ngôi Nhà Thánh, là điều mà ông chống đối.

Ban ngày, Jesus giảng đạo, và chữa bệnh tại Hồ Bethesda ngay phía bắc Đền và tại Hồ Siloam ở phía nam,  ở hai nơi đó tấp nập khách hành hương Do Thái đến thanh tẩy trước khi bước vào Ngôi Nhà Thánh. Bạn đêm ông trở lại tá túc ở nhà bạn ở Bethany. Vào sáng thứ hai, ông đi vào thành phố lần nữa nhưng lần này ông đến gần Cổng Hoàng gia của Đền Thờ.

Vào ngày lễ Vượt Qua, Jerusalem là nơi đông người nhất và nguy hiểm nhất. Quyền lực được thiết lập trên tiền bạc, chức tước và mối liên hệ với La Mã. Nhưng người Do Thái không chia sẻ với người La Mã sự tôn trọng các thế lực quân sự hoặc tiền bạc lạnh lùng. Sự tôn kính ở Jerusalem dựa vào gia đình (những chức sắc Đền Thờ và các ông hoàng dòng Herod), sự uyên bác (các thầy giảng Pharisee) và nhân tố bất ngờ về cảm hứng thần thánh. Ở Thành Thượng, băng qua sa mạc từ Đền Thờ, các ông lớn sống trong các lâu đài kiểu La-Hy với những đặc điểm Do Thái: Khu Cư ngụ Cao cấp được khai quật ở đó cho thấy những phòng tiếp khách rộng lớn và những hồ thanh tẩy. Ở đó toạ lạc những cung điện của Antipas và giáo trưởng

Joseph Caiaphas. Nhưng quyền hành thực sự ở Jerusalem nằm trong tay thái thú Pontius Pilate, người thường cai trị tỉnh lỵ của mình từ Caesarea trên bờ biển nhưng luôn đến Jerusalem thị sát trong ngày lễ Vượt Qua, cư trú ở Thành lũy của Herod.

Antipas không phải là thành viên hoàng gia Do Thái duy nhất có mặt ở Jerusalem. Helena, Nữ Hoàng xứ Adiabene, một vương quốc nhỏ trong vùng thuộc bắc Iraq ngày nay, đã cải sang đạo Do Thái và chuyển đến sống ở Jerusalem, xây dựng một cung điện trong thành phố David, hiến tặng giá đèn bằng vàng bắc qua khung cửa của  Điện Thờ và cứu tế lương thực những khi mất mùa. Nữ Hoàng Helena ắt hẳn cũng ở đó trong ngày Vượt Qua, có lẽ mang một kiểu nữ trang được phát hiện gần đây ở Jerusalem: một hạt ngọc trai to cẩn trong vàng với hai bông tai bằng ngọc thạch cẩn trong vàng.

Josephus ước đoán có đến hai triệu rưỡi người Do Thái dự lễ. Con số này quả là phóng đại nhưng ở mỗi quốc gia đều có người Do Thái, từ Parthia và Babylonia đến Crete và Libya. Cách duy nhất để tưởng tượng đám đông này là nhìn Mecca trong ngày lễ Haj (ngày lễ linh thiêng nhất của người Hồi giáo, hành hương đến thánh địa Mecca ít nhất một lần trong đời). Tại lễ Vượt Qua, mỗi gia đình phải hiến tế một con cừu vì thế thành phố ken cứng cừu kêu be he – 255,600 con được hiến tế. Có nhiều việc phải làm: khách hành hương phải nhúng trong hồ thanh tẩy mỗi lần họ đến gần Đền Thờ cũng như mua cừu hiến tế ở Cổng Hoàng gia. Không phải ai cũng được phép ở lại thành phố. Hàng ngàn người phải tìm chỗ trọ trong các ngôi làng lân cận, như Jesus, hoặc cắm lều quanh tường thành. Khi mùi thịt cháy và khói hương xực nức – và những hồi kèn, báo hiệu giờ cầu nguyện và hiến tế, vang dội khắp thành phố, mọi thứ đều tập trung vào Đền Thờ, trong khi bọn lính tráng La Mã lo lắng theo dõi từ trên Pháo đài Antonia.

Jesus giờ bước vào Cổng Vòm Hoàng cung sừng sững, trung tâm náo nhiệt, đầy màu sắc và ngồn ngộn sức sống, với khách hành hương tụ tập để bố trí chỗ họp mặt, để gặp gỡ bạn bè, và đổi tiền ra đồng bạc Tyrian dùng để mua vật hiến tế: cừu, chim bồ câu, hoặc, bò đối với người giàu. Đây không phải thuộc phạm vi Đền Thờ cũng không phải khu vực bên trong Đền mà là khu vực công cộng dành cho mọi người trong toàn bộ  phức hợp, được thiết kế để phục vụ như một quảng trường. Chính tại nơi đây Jesus tấn công ban quản lý Đền Thờ: ‘Ngôi nhà này, với tên tuổi như thế, đã trở thành hang ổ của bọn trộm cắp rồi sao?’ ông nói, lật đổ bàn của các người đổi tiền trong khi trích dẫn và chuyển tải những lời tiên tri của Jeremiah, Zachariah và Isaiah đến với người nghe. Hành động của ông lôi kéo sự chú ý nhưng không quá đáng để có thể kích động sự can thiệp của bảo vệ Đền hay binh lính La Mã.

Sau một đêm nữa ở Bethany, ông trở lại Đền Thờ vào sáng hôm sau để tranh luận với bọn chỉ trích. Phúc âm coi người Pharisee là kẻ thù của Jesus, nhưng quan điểm này chắc chắn phản ánh tình hình 50 năm sau đó khi tác giả soạn sách. Người Pharisee thuộc nhóm giáo phái dân túy hơn và mềm dẻo hơn, có một số giáo điều tương tự với lời Jesus giảng dạy. Kẻ thù thực sự của Jesus là những chức sắc Đền Thờ. Những người dòng Herod giờ thách thức ông về việc đóng thuế cho La Mã, nhưng ông trả lời rất khéo léo, ‘Hãy trả lại cho Caesar những gì của Caesar và trả lại cho Chúa Trời những gì thuộc về Ngài.’ (Ý nói vì đồng tiền có in hình Caesar do La Mã phát hành nên đóng thuế tức là trả lại cho Caesar).

Song ông không xưng mình là đấng Cứu Thế, nhấn mạnh đến Shema, kinh cầu căn bản của Do Thái dâng đến một Chúa Trời duy nhất, và tình thương đối với đồng bào mình: ông là một người rất Do Thái. Nhưng rồi ông cảnh báo các đám đông phấn khích về ngày Khải Huyền sắp đến tất nhiên sẽ xảy ra ở Jerusalem: ‘Các người không ở xa nước Chúa.’ Trong khi người Do Thái có những quan điểm khác nhau về sự xuất hiện của Đấng Cứu Thế, hầu hết đều đồng ý rằng Chúa Trời sẽ chủ trì vào ngày tận thế, và sau đó là sự ra đời của vương quốc của Đấng Cứu Thế tại Jerusalem: ‘Ở Zion hãy trỗi kèn lên để triệu tập các thánh,’ Thánh thi Solomon đã tuyên bố như thế, được viết không lâu sau khi Jesus mất, ‘hãy loan báo ở Jerusalem tiếng nói của một người mang đến tin lành vì Chúa Trời của Israel đã có lòng thương xót.’ Vì thế những tín đồ của ông hỏi ông: ‘Kể cho chúng tôi đâu là dấu hiệu của thời điểm thầy đến và dấu hiệu ngày tận thế?’ ‘Hãy trông chừng vì các ngươi sẽ không thể biết lúc nào Chúa Trời sẽ đến,’ ông trả lời, nhưng rồi ông lại buột miệng về ngày Khải Huyền đang đến: ‘Quốc gia sẽ nổi lên để chống lại quốc gia, và vương quốc chống lại vương quốc, và khắp nơi đói kém và bệnh dịch và động đất,’ trước khi họ nhìn thấy ‘Con của Người sẽ đến trong những tầng mây trên trời với quyền năng và sự vinh quang vĩ đại’.

Bước đi đầu tiên có tính khích động của Jesus ắt hẳn đã đánh động tới thái thú La Mã và giáo sĩ cao cấp, mà ông cảnh báo, có thể không nhận được sự tha thứ trong Ngày Cuối Cùng: ‘Các ngươi loài rắn độc, các ngươi loài hiểm ác, làm sao các ngươi có thể thoát khỏi bị đày đọa dưới địa ngục?’

Jerusalem lúc nào cũng căng thẳng trong dịp lễ Vượt Qua nhưng các giới thẩm quyền thậm chí còn bồn chồn hơn ngày thường, Mark và Luke còn phát biểu, trong một hai phiên bản không được để ý đến, rằng đã vừa mới xảy ra một hình thức bạo loạn nào đó của người Galilee ở Jerusalem, bị Pilate đàn áp, sau khi tàn sát 18 người Galilee xung quanh ‘tháp canh Siloam’ phía nam Đền Thờ. Một trong những kẻ làm loạn có Barabbas, mà Jesus sẽ sớm gặp, ‘đã phạm tội sát nhân trong vụ bạo loạn’. Các giáo sĩ có chức sắc quyết định sẽ không nương tay cho một người Galilee nào khác dám tiên đoán họ sẽ bị hủy diệt trong một Ngày Khải Huyền đến gần:  Caiaphas và Annas, giáo sĩ cao cấp trước đây có ảnh hưởng, bàn luận điều gì cần làm. Chắc chắn sẽ tốt hơn, Caiaphas lập luận theo Phúc âm của John, ‘rằng một người nên chết đi cho dân chúng và toàn quốc gia không bị tiêu diệt’. Họ vạch kế hoạch.

Ngày hôm sau Jesus chuẩn bị cho lễ Vượt Qua tại Phòng Trên – the Cenacle, hoặc Coenaculum – trên ngọn đồi phía tây của Jerusalem (về sau được biết dưới tên Núi Zion). Tại bữa ăn chiều cuối cùng, Jesus nghe phong thanh rằng một Tông đồ của ông, Judas Iscariot, đã phản bội ông chỉ vì 30 đồng tiền bạc, nhưng ông vẫn không thay đổi kế hoạch là đi bộ vòng quanh thành phố đến các rặng ô liu yên tĩnh ở Vườn Gethsemane ở phía bên kia Thung lũng Kidron kể từ Đền Thờ. Judas lẻn đi. Chúng ta không biết liệu y phản bội Jesus vì giáo lý – do quá cực đoan hay không đủ cực đoan – hoặc vì tham tiền hoặc đố kỵ.

Judas trở lại với một đội vũ trang gồm những giáo sĩ có chức sắc, bảo vệ Đền và binh lính La Mã. Vì trời tối nên không ai nhận ra Jesus ngay, vì thế Judas phản bội ông bằng cách nhận diện ông bằng ôm hôn và lãnh bạc thưởng. Dưới ánh đuốc hỗn loạn diễn ra khi các Tông đồ rút kiếm, Peter xén đứt vành tai của một tên hầu của giáo sĩ  và một gã trai vô danh chạy đi trong đêm, thân thể trần truồng, một nét chấm phá quá kỳ cục, nghe như thật. Jesus bị bắt và các Tông đồ giải tán trừ hai người đi theo từ đằng xa.

Giờ gần như nửa đêm. Jesus, bị canh giữ bởi binh lính La Mã, được dẫn đi quanh các bức tường phía nam xuyên qua Cổng Siloam đến lâu đài của nhân vật Annas nhiều thế lực tuy không giữ chức vụ gì  ở Thành Thượng. Annas khống chế Jerusalem và là hiện thân của mạng lưới hà khắc, loạn luân của dòng họ giữ Đền Thờ. Chính y trước đây là giáo trưởng, cha vợ của Caiaphas giữ chức giáo trưởng hiện thời và có không ít hơn năm người con trai sẽ là giáo sĩ cao cấp. Nhưng y và Caiaphas bị hầu hết người Do Thái khinh bỉ cho là bọn hợp tác (với La Mã), đồi bại, ác ôn, chỉ chạy theo tiền bạc. Jesus, trái lại, đã đánh lên một hợp âm được mọi người yêu mến và có người ngưỡng mộ ngay trong hàng giáo phẩm Sanhedrin. Việc xét xử thầy giảng vô úy và được dân chúng yêu quí này sẽ phải được tiến hành lén lút, ban đêm.

Khoảng đầu nửa đêm một chút, khi các lính gác đốt lửa trong sân (và đệ tử Peter của Jesus đã ba lần chối là không hề quen biết thầy mình), Annas và con rể tập họp những thành viên trung thành trong Hội đồng Sanhedrin – nhưng không phải tất cả, vì ít nhất có một người,  Joseph xứ  Arimathea, ngưỡng mộ Jesus và chắc chắn không bao giờ tán thành việc bắt giữ Jesus. Jesus bị giáo trưởng thẩm vấn: ông có đe doạ phá hủy Đền Thờ và xây nó lại trong ba ngày hay không? Ông có tự xưng mình là Đấng Cứu Thế không? Jesus không nói gì nhưng cuối cùng nhìn nhận, ‘ngươi sẽ trông thấy Con Chúa Trời ngồi bên phải đầy quyền năng, và từ mây trên trời hạ xuống’.

‘Y đã nói ra lời phạm thánh,’ Caiaphas nói.

‘Y đáng tội chết,’ đám đông đáp lại, dù đã khuya họ còn tụ tập ở đó. Jesus bị bịt mắt và suốt đêm bị mắng nhiếc trong sân cho đến bình minh, khi hoạt động thực sự có thể bắt đầu. Pilate đang đợi.

PONTIUS PILATE: VỤ XỬ ÁN JESUS

Thái thú La Mã, được binh lính canh gác và đám đông theo dõi, mở phiên xử tại Praetorium (Toà án Binh) trên một bệ cao ở bên ngoài Thành lũy của Herod, bộ chỉ huy La Mã gần Cổng Jafta ngày nay. Pontius Pilate là một người thô lỗ, kỷ luật thép, hung hăng ở tận xứ Judaea xa xôi. Y đã bị dân chúng ở Jerusalem ghét bỏ, tai tiếng vì ‘tội nhận hối lộ, bạo lực, ăn cắp, đàn áp, bóc lột, hành hình thẳng tay và tàn bạo dã man’. Thậm chí một trong những hoàng thân dòng Herod gọi y ‘là người hay thù oán với một tính khí hung dữ’.

Y đã từng làm người Do Thái bất bình vì ra lệnh cho binh sĩ diễn hành vào Jerusalem, phô trương các tấm khiêng có vẽ chân dung hoàng đế. Herod Antipas dẫn phái đoàn yêu cầu xóa bỏ hình vẽ đó. Luôn ‘cứng ngắt và tàn bạo’, Pilate từ chối. Khi số người Do Thái chống đối tăng lên, y xua binh lính nhưng các đại biểu liền nằm xấp trên mặt đất, ngửa cổ cho họ chém. Pilate đành phải xóa bỏ những hình ảnh xúc phạm. Gần đây hơn y đã tàn sát bọn nổi loạn Galilee mà ‘máu của họ Pilate đã hòa lẫn với máu của vật họ hiến tế’.

‘Ngươi có phải là Vua của người Do Thái?’ Pilate hỏi Jesus. Suy cho cùng, những tín đồ theo Jesus đã tung hô ông là vua khi ông bước vào Jerusalem. Nhưng ông trả lời, ‘Là nhà ngươi nói,’ và từ chối nói thêm điều gì. Nhưng Pilate biết chắc ông là người Galilee. ‘Ngay khi ông biết Jesus là người thuộc địa phận pháp lý của Herod’, Pilate liền giải tù nhân của mình đến Herod Antipas, người cai trị Galilee, và có mối quan tâm đặc biệt với Jesus. Chỉ đi bộ một quãng ngắn là đến lâu đài của Antipas. Herod Antipas, Luke nói, ‘vô cùng hớn hở’ vì y đã muốn gặp người kế vị của John the Baptist từ lâu rồi’ và y hi vọng sẽ được chứng kiến một phép lạ nào đó của ông’. Nhưng Jesus khinh bỉ ‘con cáo’, người đã giết John, nhiều đến nỗi ông thậm chí không thèm giả đò trả lời y.

Antipas trêu chọc Jesus, yêu cầu ông biểu diễn trò lạ, khoác lên người ông một áo choàng hoàng gia và xưng ông là ‘vua’. Quan tetarch này không có chút ý muốn cứu sống người kế vị của John the Baptist, nhưng y lợi dụng cơ hội để cật vấn ông. Pilate và Antipas từ lâu đã thù ghét nhau nhưng bây giờ họ ‘làm bạn với nhau’. Dù sao đi nữa, Jesus là một vấn đề của La Mã. Herod Antipas trả ông lại cho Pilate. Tại đó, Pilate xử Jesus, hai người cho là kẻ trộm và Barabbas, theo Mark, ‘bị trói chung với những kẻ nổi dậy với gã’. Điều này ám chỉ một nhóm người nổi loạn, có thể bao gồm hai ‘tên trộm cắp’, bị xử chung với Jesus.

Pilate đùa với quyết định thả một trong số các tù nhân này. Một số người trong đám đông xin thả Barabbas. Theo Phúc âm, Barabbas được phóng thích. Câu chuyện nghe không hợp lý: người La Mã thường hành hình những người nổi loạn gây chết người. Jesus bị kết án chịu đóng đinh trong khi, theo Matthew, Pilate ‘lấy nước và rửa tay mình trước đám đông, nói rằng, ta vô can với máu của người công chính này’. 

‘Để máu y cho chúng tôi và con cháu chúng tôi chịu,’ đám đông đáp lại.

Còn lâu mới là con người dao động quanh co, gã Pilate cố chấp và dữ tợn trước đây chưa hề thấy cần phải rửa tay trước bất kỳ vụ đổ máu nào. Trong một lần tranh cãi trước đây với người Do Thái, y đã xua binh sĩ mặc thường phục trà trộn vào đám người Jerusalem hòa bình; sau một dấu hiệu của Pilate, họ đã tuốt gươm và giải tán đường phố, tàn sát nhiều người. Giờ đây Pilate, đã đương đầu với bọn nổi loạn Barabbas tuần đó, rõ ràng sẽ không tha bất kỳ vụ nổi dậy nào của các ‘ông vua’ và các ‘tiên trị giả hiệu’ đã hoành hành ở Judaea kể từ khi Herod chết. Jesus có tính kích động theo cách quanh co của ông, và ông không nghi ngờ gì được dân chúng ái mộ. Thậm chí nhiều năm sau đó, Josephus, chính là người Pharisee, cũng mô tả Jesus là một thầy giảng thông thái.

Văn bản ghi chép truyền thống về phiên xử án do đó nghe không có thực. Phúc âm cho rằng các giáo sĩ khăng khăng nói mình  không có quyền thông qua bản án tử, nhưng  rõ ràng điều này không đúng. Josephus viết rằng giáo trưởng ‘sẽ tuyên án trong những trường hợp tranh cãi, trừng phạt những người bị kết tội’. Phúc âm, được viết hoặc hiệu đính sau khi Đền Thờ bị hủy diệt vào năm 70, đổ tội người Do Thái và tha bổng người La Mã, vì hăng hái chứng tỏ lòng trung thành đối với đế chế. Vậy mà bản án chống Jesus, và chính tiến trình xử phạt , đã nói lên sự thật: đây là hoạt động của người La Mã.

Jesus, như hầu hết các nạn nhân bị đóng đinh, bị đánh bằng roi da đầu có gắn xương  hoặc mảnh kim loại, đau đến thấu xương thường khiến nạn nhân chết trước khi bị đóng đinh. Đeo một yết thị ‘VUA CỦA NGƯỜI DO THÁI’ do bọn lính La Mã viết để trêu ghẹo, nhiều người trong số đó gốc Syria-Hy Lạp, và ra máu nhiều sau trận đòn roi, Jesus bị giải đi, ắt hẳn là vào sáng ngày 14 Nisan tức thứ sáu ngày 3/4/33. Cùng với hai tội nhân khác, ông phải vác thanh gỗ ngang của thập giá  được sử dụng để đóng đinh mình bước ra khỏi ngục thất trong Thành lũy và qua đường phố của Thành Thượng. Những tín đồ đi theo năn nỉ một Simon nào đó xứ Cyrene giúp vác thanh ngang dùm ông trong khi các người nữ của ông kêu khóc. ‘Hỡi các con gái của Jerusalem,’ ông nói, ‘chớ khóc than cho ta mà hãy khóc than cho chính mình và cho con cái ngươi,’ vì ngày Khải Huyền đang đến gần – ‘ngày đó đang đến rồi’.

Jesus rời Jerusalem lần cuối cùng, rẽ trái qua Cổng Gennath (Vườn) vào khu vực những vườn cây trên đồi, những lăng mộ cắt ra từ đá và ngọn đồi hành hình của Jerusalem, có cái tên rất thích hợp Đồi Sọ: Golgotha.*

* Đây là lộ trình (đặt tên The Passion) hoàn toàn khác với lộ trình truyền thống (có tên Via Dolorosa). Cổng Gennath, được Josephus đề cập, được nhận diện bởi nhà khảo cổ Israel  Nahman Avigad tại phần phía bắc của Khu Do Thái  trong một khu vực của Tường thành Thứ Nhất. Trong thời kỳ Hồi giáo, người Cơ đốc đã tin tưởng một cách sai lầm là Pháo đài Antonia là Praetorium nơi Pilate tiến hành xét xử. Các thầy tu dòng Francis thời Trung Cổ phát triển truyền thuyết về những Trạm dừng của Thánh giá dọc theo lộ trình Via Dolorosa, từ địa điểm Antonia đến Nhà Thờ Mộ Thánh – hầu như chắc chắn là lộ trình sai. Golgotha xuất phát từ chữ Aramaic có nghĩa là ‘Sọ người’.

 JESUS CHRIST: CUỘC KHỔ NẠN

Một đám đông kẻ thù lẫn bạn bè đi theo Jesus ra khỏi thành phố để chứng kiến một việc hành hình có tính kỹ thuật và ghê rợn, luôn là một cảnh tượng đầy mê hoặc. Mặt trời đã lên khi ông đến nơi hành hình chỗ cây cọc thẳng đứng đang đợi ông, như đã từng đợi những người trước ông và rồi đây những kẻ sau ông. Binh lính cho Jesus uống thứ rượu vang pha nhựa thơm truyền thống để ổn định thần kinh, nhưng ông từ chối. Sau đó ông bị đóng chặt vào thập giá và được kéo lên cọc.

Bị đóng đinh, Josephus nói, là ‘cái chết khổ sở nhất” * được dàn dựng để hạ nhục nạn nhân một cách công khai. Vì vậy Pilate ra lệnh treo tấm yết thị Jesus đeo lên thập giá – VUA CỦA NGƯỜI DO THÁI. Các tội nhân có thể bị buộc hoặc đóng đinh. Phải khéo léo để nạn nhân không chảy máu đến chết. Đinh thường đóng qua cánh tay dưới – không đóng qua lòng bàn tay – và mắt cá chân: xương của một người Do Thái bị đóng đinh đã được tìm thấy trong một ngôi mộ ở phía bắc Jerusalem với một cây đinh sắt dài 4.5 in-xơ còn cắm qua xương mắt cá. Đinh của các nạn nhân bị đóng đinh thường được người Do Thái và Gentile mang quanh cổ như một loại bùa, để xua đuổi bệnh tật, vì thế tập tục người Cơ đốc sau này thờ những di vật liên quan đến đóng đinh thực sự là một truyền thống lâu đời. Những nạn nhân thường bị đóng đinh với thân thế trần truồng – đàn ông thì quay mặt ra, phụ nữ thì úp mặt vào.

*  Hình phạt đóng đinh xuất xứ ở phương đông – Darius Đại Đế đóng đinh các bọn phản loạn Babylon – và người Hy Lạp cũng làm theo. Như chúng ta đã thấy, Alexander Đại Đế đóng đinh người Tyre; Antiochus Epiphane và vua Do Thái Alexander Jannaeus đóng đinh những người Jerusalem nổi loạn; người Carthage đóng đinh những vị tướng cingws đầu. Vào năm 71 TCN việc đàn áp vụ nổi dậy của nhóm nô lệ Spartacus kết thúc bằng việc đóng đinh tập thể. Gỗ sử dụng cho thập giá được cho là lấy từ địa điểm sau này là Tu viện Thánh giá xây dựng từ thế kỷ 11, gần Knesset của Israel ngày nay.

Người hành hình là những chuyên gia về việc kéo dài cơn thống khổ hoặc kết thúc nhanh chóng. Mục đích là không giết Jesus quá nhanh để làm gương cho những ai dám thách thức quyền lực La Mã. Ông chắc chắn bị đóng đinh vào thập giá với hai tay giang ra như trong các bức họa Cơ đốc, được nâng đỡ bởi một cái nêm nhỏ đặt dưới mông và một gờ chận dưới hai bàn chân. Việc sắp xếp này có nghĩa là ông có thể sống sót hàng giờ, thậm chí vài ngày. Cách duy nhất để gây ra cái chết nhanh chóng là đập gãy đôi chân, khi đó sức nặng toàn thân chỉ được nâng đỡ bằng cánh tay và nạn nhân sẽ ngạt thở chỉ trong mười phút.

Nhiều giờ trôi qua; kẻ thù của ông chế nhạo ông; người qua đường giễu cợt. Bạn ông Mary xứ Magdala vẫn ở dưới canh chừng cũng với mẹ Mary của ông và ‘người đệ tử ông yêu mến’ không tên, có thể là em trai James của ông. Người ủng hộ ông là Joseph xứ Arimathea cũng đến thăm ông. Cái nóng bức của một ngày đến rồi đi. ‘Ta khát,’ Jesus kêu lên. Các phụ nữ theo ông nhúng miếng xốp vào dấm với nước bài hương, rồi móc vào đầu cây sào đưa tận miệng cho ông mút. Thỉnh thoảng ông có vẻ như tuyệt vọng: ‘Chúa Trời của con, Chúa Trời của con, tại sao ngài đã bỏ rơi con?’ ông kêu lên, trích đoạn kinh thánh thích hợp, Thánh thi 22. Vậy thì ông có ý gì khi nói Chúa đã bỏ rơi mình? Có phải Jesus mong đợi Chúa sẽ phát động Ngày Tận Thế?

Khi ông yếu đi, ông nhìn thấy mẹ mình, ‘Đó là con trai mẹ,’ ông nói, nhờ người đệ tử ông yêu mến chăm sóc cho bà. Nếu đúng là em ông, thì điều này có nghĩa, vì người đệ tử dìu bà đi nghỉ. Đám đông ắt hẳn đã giải tán. Đêm buông xuống.

9

Jesus trên Thập giá do van Eyck vẽ. Đây chắc chắn đúng là biện pháp xử tội của người La Mã, được sự tán thành của lãnh đạo Đền Thờ.

Hình phạt đóng đinh là một cái chết đến chậm do sốc nhiệt, đói, ngạt thở, khát, và Jesus ắt hẳn mất máu sau trận đánh roi. Thình lình ông thở hắt ra. ‘Thế là hết,’ ông nói, và bất tỉnh. Đã trải qua căng thẳng ở Jerusalem và ngày Sabbath và lễ Vượt Qua đang đến gần, Pilate ắt hẳn đã ra lệnh cho bọn hành hình đẩy nhanh tiến độ. Các binh lính chặt gãy chân của hai tên trộm hoặc nổi loạn, để làm họ ngạt thở, nhưng khi chúng đến bên Jesus thì ông hình như đã chết, vì thế ‘một tên lính lấy giáo đâm vào sườn ông và máu cùng dịch phun ra’. Có thể đúng ra là ngọn giáo đã giết ông.

Joseph xứ Arimathea vội vàng đến xin Pilate cho nhận thi hài. Thường thì nạn nhân bị để cho thối rửa trên thập giá, làm mồi  cho diều hâu, nhưng người Do Thái tin tưởng vào việc chôn cất tử tế. Pilate chấp thuận. 

Người Do Thái chết không được chôn dưới đất trong thế kỷ đầu tiên mà được quấn trong tấm vải liệm và đặt vào một nhà mồ đá, mà người nhà luôn đi kiểm tra, một phần để xem người quá cố có chết thực không hay chỉ hôn mê: hiếm gặp nhưng không phải không có trường hợp ‘người chết’ tỉnh dậy vào sáng hôm sau. Những thi thể rồi sẽ để như thế trong một năm để khô quắt, sau đó xương cốt sẽ được đặt vào hòm đựng cốt, bên ngoài khắc tên người quá cố, đặt vào mộ đục trong đá.

Gia đình Joseph và Jesus và các đệ tử mang thi thể xuống và nhanh chóng tìm một hầm mộ đã bỏ không trong ngôi vườn gần đó để đặt ông vào. Thi hài được thoa xức chất thơm đắt tiền và quấn vải liệm – như tấm vải liệm thế kỷ 1 được tìm thấy trong một hầm mộ nằm ở phía nam bức tường thành phố trong Cánh Đồng Máu, vẫn còn dính những chùm tóc (nhưng không giống Vải liệm Turin nổi tiếng, mà giờ đây được định niên đại là giữa 1260 và 1390, như vậy nó không phải là tấm vải liệm Jesus như lời đồn thổi). Chắc chắn Nhà thờ Mộ Thánh hiện giờ, chứa địa điểm Jesus bị đóng đinh và nhà mồ, đúng là vị trí thực sự vì truyền thống được giữ nguyên bởi những người Kitô trong suốt ba thế kỷ sau đó. Pilate cho lính canh gác quanh nhà mồ của Jesus theo yêu cầu của Caiaphas e rằng các đệ tử của ông đến đêm sẽ lén vào lấy cắp thi thể đi và rao với dân chúng rằng ‘Người đã sống lại từ cõi chết’.

Cho đến điểm này, câu chuyện về Cuộc Khổ nạn của Jesus – chỉ dựa vào nguồn tư liệu duy nhất của chúng ta, Sách Phúc âm, nhưng không cần có lòng tin mới tin tưởng được vào cuộc sống và cái chết của một nhà tiên tri và nhà thần thông Do Thái. Tuy nhiên, ba ngày sau khi bị đóng đinh, vào sáng chủ nhật, theo Luke, một vài nữ thân nhân và đệ tử của Jesus (bao gồm mẹ ông và Joana, vợ của quản gia nhà Herod Antipas) đến thăm nhà mồ: ‘Họ thấy phiến đá đã lăn đi khỏi cửa nhà mồ và khi bước vào họ không thấy thi thể  Chúa Jesus đâu cả. . . Trong khi đang bối rối thì kìa có hai người đứng bên cạnh họ trong y phục chói lóa và khi họ đâm hoảng sợ thì hai người ấy nói với họ: Tại sao lại đi tìm người sống trong chỗ của người chết? Người không còn ở đây mà đã sống lại.’ Các đệ tử sợ hãi đang ẩn nấp trên Núi Olives trong tuần lễ Vượt Qua, nhưng Jesus xuất hiện vài lần trước mặt họ và mẹ mình, nói với họ, ‘Đừng sợ.’ Khi Thomas tỏ ra nghi ngờ sự Phục Sinh, Jesus chìa ra cho y thấy những vết thương trên bàn tay và trên sườn. Sau một vài ngày, ông dẫn họ lên Núi Olives rồi bay lên trời. Sự Phục Sinh này, vốn biến cái chết thê thảm thành một cuộc khải hoàn của sự sống đối với cái chết, là khoảnh khắc quyết định của niềm tin Kitô, được chào mừng vào ngày chủ nhật của lễ Phục Sinh.

Đối với những ai không chia sẻ niềm tin này, sự thật là điều không thể kiểm chứng được. Matthew tiết lộ điều chắc chắn là phiên bản thay thế đương đại về các sự kiện, ‘thường được người Do Thái kể lại cho đến tận ngày nay’: các giáo sĩ cao cấp ngay lập tức hối lộ các binh lính được cắt đặt canh giữ nhà mồ, bảo họ loan báo với mọi người rằng ‘các đệ tử của ông đã lẻn vào ban đêm lấy cắp thi thể khi chúng tôi đang ngủ’.

Các nhà khảo cổ thiên về ý kiến cho rằng thi thể chỉ đơn giản được chuyển đi và chôn cất bởi bạn bè và người thân trong một nhà mồ cắt trong đá khác nằm đâu đó quanh Jerusalem. Họ đã khai quật được những nhà mồ, với những bình đựng cốt khắc những tên như ‘James em của Jesus’ và thậm chí ‘Jesus con của Joseph’. Những phát hiện này đã phát sinh những tít lớn trên phương tiện truyền thông. Một số đã bị vạch trần là giả mạo nhưng phần đông là những mộ thật ở thế kỷ 1 với những cái tên Do Thái – nhưng không có cái nào liên quan đến Jesus.*

* Phúc âm Peter, một kinh chép tay của Ngộ giáo có niên đại từ thế kỷ 2 hay 3, được phát hiện vào thế kỷ 19 ở Ai Cập, chứa một câu chuyện bí ẩn về việc chuyển thi thể đi. Phúc âm xưa nhất, Mark, được viết khoảng 40 năm sau vào năm 70 SCN, kết thúc với việc Jesus được đặt trong nhà mồ, không hề đề cập đến việc Phục Sinh. Câu chuyện của Mark về sự phục sinh là bổ sung về sau này. Matthew, viết vào khoảng 80 SCN, và Luke đều dựa vào Mark và một nguồn tư liệu khác không được biết. Luke giảm thiểu vai trò của gia đình Jesus tại sự kiện Đóng Đinh, nhưng Mark đề cập đến mẹ Mary của James, Joses và em gái Jesus. John, Phúc âm muộn nhất, được viết chắc chắn vào cuối thế kỷ, thể hiện một Jesus thần thánh hơn những Jesus khác.

Jerusalem tưng bừng làm lễ Vượt Qua. Judas đầu tư số bạc vào bất động sản – Cánh đồng Thợ gốm ở Akeldama phía nam thành phố, trong Thung lũng Địa ngục nghe có vẻ thích hợp đối với y – tại đó ‘y bỗng vỡ bụng và tất cả ruột rà đều tuôn ra’.* Khi các đệ tử ra khỏi nơi ẩn nấp, họ gặp nhau vào lễ Gặt ở Phòng Thượng trên Núi Zion, ‘và thình lình từ trời một cơn gió lớn thổi đến’ – Thánh Linh cho phép họ nói được nhiều ngôn ngữ của các dân tộc đang ở Jerusalem và có khả năng chữa lành bệnh nhân danh Jesus. Peter và John bước vào Đền Thờ qua Cổng Đẹp để cầu nguyện như thường ngày thì một người què tiến tới xin bố thí. ‘Hãy đứng dậy và bước đi,’ họ nói, và người đó làm đúng như vậy.

*   Sách Hoạt Động của các Tông Đồ kể ra như thế, nhưng Matthew có một phiên bản khác: Judas ăn năn ném bỏ số bạc vào trong Đền Thờ, nhưng giáo trưởng (vốn không thể sung nó vào quỹ Đền Thờ vì đó là số bạc nhuộm máu) đầu tư vào Cánh đồng Thợ gốm ‘dùng để chôn cất người lạ’. Sau đó Judas treo cổ tự tử. Akeldama – Cánh đồng Máu vẫn còn là nghĩa địa đến tận thời Trung Cổ.

Các Tông đồ bầu em trai của Jesus làm ‘Giám sát viên của Jerusalem’, lãnh đạo của những thành viên Do Thái này được biết dưới tên Nazarene. Giáo phái này ắt hẳn cũng phát triển vì không lâu sau khi Jesus mất, ‘xảy ra một vụ bức hại lớn chống lại giáo hội ở Jerusalem’. Một trong những tín đồ của Jesus nói tiếng Hy Lạp, Stephen, đã tố cáo Đền Thờ, nói rằng ‘Bậc Tối Thượng không cư ngụ trong các đền thờ xây dựng bằng tay’. Chứng tỏ rằng giáo trưởng có thể xử tội hình, Stephen bị Hội đồng  Sanhedrin xét xử và chịu hình phạt ném đá bên ngoài tường thành, có lẽ là ở phía bắc của Cổng Damascus ngày nay. Ông là thánh tử đạo của đạo Cơ đốc. Tuy vậy James và những người Nazarene vẫn tiếp tục hành đạo Do Thái, trung thành với Jesus, cũng giảng dạy và cầu nguyện trong Đền Thờ trong 30 năm tiếp sau đó. Tại đó James được nhiều người ngưỡng mộ là một người Do Thái thánh thiện. Đạo Do Thái của Jesus rõ ràng không có gì đặc biệt hơn đạo của các thầy giảng khác đã đến trước và sau ông.

Kẻ thù của Jesus không khấm khá lắm. Ngay sau hành hình ông, Pilate lại bận bịu một vụ tiên tri giả hiệu khác ở xứ Samaria, tuyên bố trước đám đông kích động rằng y đã tìm thấy bình đựng cốt của Moses trên Núi Gerizim. Pilate phái một đội kỵ binh đến để làm thịt nhiều người nghe theo y. Thái thú đã đẩy Jerusalem đến bờ vực của một vụ nổi dậy công khai; giờ đến lượt người Samaria cũng vạch trần tính tàn bạo của y.

Thống đốc Syria phải vãn hồi trật tự ở Jerusalem. Ông cách chức cả Caiaphas và Pilate, trả họ về La Mã.  Việc này quá hợp lòng dân nên dân chúng hớn hở chào đón thống đốc La Mã. Pilate biến mất khỏi lịch sử. Trong lúc đó thì hoàng đế Tiberius đang mệt mỏi với Herod Antipas. Nhưng vẫn chưa đến ngày tàn của triều đại đó: dòng dõi Herod sắp sửa có được một cuộc phục hồi phi thường nhờ vào ông hoàng Do Thái có đầu óc phiêu lưu nhất, người sẽ kết thân với hoàng đế điên cuồng của La Mã và lấy lại Jerusalem.

10

Jerusalem vào thế kỷ thứ nhất và Đoạn Đường Khổ Nạn của Jesus

HEROD AGRIPPA: BẠN CỦA CALIGULA

Chàng thanh niên Herod Agrippa lớn lên ở La Mã giữa chốn hoàng gia và trở thành bạn thân nhất của con trai Hoàng đế Tiberius là Drusus. Anh chàng hướng ngoại duyên dáng và tiêu xài xả láng này – cháu nội của Herod Vĩ đại và Mariamme, con trai của đứa con trai bị hành quyết Aristobulos  của họ – vay mượn ngập đầu để theo kịp lối tiêu xài của con trai hoàng đế và đám bạn trác táng.

Khi Drusus chết trẻ vào năm 23 TCN, hoàng đế ưu sầu không muốn gặp mặt bạn bè của con trai vắn số và Herod Agrippa, giờ đã cạn túi, lui về Galilee, do Antipas cai trị, người đã cưới chị mình Herodias. Antipas tìm cho anh chàng một công việc buồn tẻ ở Tiberius, nhưng sự buồn tẻ không phải là phong cách của Agrippa nên chàng dông đến Idumea, quê quán của gia đình, và ở đó chàng tính đến việc tự tử. Tuy nhiên, với anh chàng láu cá phóng đãng này, luôn có chuyện gì đó xuất hiện.

Khoảng thời gian Jesus bị đóng đinh, Philip, quan tetrarch cai quản vùng đất phía bắc của gia đình, qua đời. Antipas hỏi xin hoàng đế mở rộng vùng cai quản của mình. Tiberius luôn yêu mến Herod Agrippa; vì thế anh chạy bay đến nơi cư ngụ của hoàng đế ở Capri để phỏng tay trên vùng đất đang khuyết đó trước  chú Antipas của mình.

Tiberius chào đón Agrippa, nhưng rồi thất vọng khi nghe tin anh mắc nợ hàng loạt chưa trả quanh Địa Trung Hải. Nhưng anh chàng Agrippa, một tay cờ bạc bẩm sinh, thuyết phục một người bạn của mẹ anh là Antonia cho anh vay tiền và nói giúp dùm mình với hoàng đế. Antonia, người con gái nghiêm túc và tiết hạnh của Mark Anthony, được Tiberius rất quí trọng, xem bà như là một nhà quí tộc lý tưởng. Ông nghe lời khuyên của Antonia và tha thứ cho tên nhãi ranh Do Thái.

Agrippa không dùng tiền vay được để trả nợ mà mua quà cáp hoành tráng tặng một hoàng tử khánh kiệt khác là Caligula, người cùng với bé Gemellus, con của người bạn yểu mạng Drusus của mình, là cặp thừa kế ngôi vua của Tiberius. Hoàng đế còn nhờ anh chàng dòng Herod chăm coi dùm bé Gemellus.

Ngoài ra gã Agrippa cơ hội này cũng trở thành một trong những bạn thân nhất của Gaius Caligula. Caligula được yêu mến vì là con trai của vị tướng Germanicus rất được lòng dân. Giờ đã ở tuổi 24, bắt đầu hói và cao khều , Caligula đã trở nên hư hỏng, phóng đãng và hoàn toàn có khả năng điên khùng, nhưng ông vẫn còn là con cưng của nhân dân và nóng lòng lên kế vị hoàng đế. Caligula và Herod Agrippa ắt hẳn đã chia sẻ một cuộc sống trụy lạc xa xỉ. Khi họ đi ngựa quanh Capri, hai người mơ tưởng về cái chết của Tiberius, nhưng tên đánh xe nghe lóm được trao đổi của họ. Khi Agrippa định bắt giữ y vì tội phao tin, tên đánh xe chạy lên mách hoàng đế. Agrippa bị ném vào ngục và xiềng xích nhưng, được bạn Caligula che chở, anh được phép tắm rửa, tiếp bạn và thưởng thức những món khoái khẩu.

Cuối cùng khi Tiberius mất vào tháng ba năm 37, Caligula, đã ám hại bé Gemellus, lên ngôi hoàng đế. Ông lập tức thả tự do cho bạn mình, tặng anh một xiềng xích bằng vàng để kỷ niệm thời gian ở tù và phong anh làm vua, ban cho lãnh địa của Philip. Đúng là vận số đảo chiều.

Đồng thời chị của Agrippa là Herodias cùng với con ‘cáo’ Antipas mà Jesus ghét, đi đến La Mã để xin hủy bỏ quyết định này và giành lại vương quốc cho mình. Nhưng Agrippa đã dựng chuyện, khẳng định họ đang âm mưu phản loạn. Caligula liền giáng chức Antipas, người đã giết John the Baptist – và sau đó chết ở Lyons – và giao hết đất đai cho Herod Agrippa.

Ông vua mới hiếm khi thăm vương quốc của mình, mà thích ở bên Caligula hơn, người mà thói giết người lạ thường đã nhanh chóng biến y từ một người được ưa chuộng của La Mã thành tên áp bức. Thiếu tiếng tăm quân sự như các vua tiền nhiệm, Caligula muốn củng cố uy thế của mình bằng cách ra lệnh chân dung của mình phải được tôn thờ trên khắp đê chế – và trong Nơi Chí Thánh của Đền Thờ. Jerusalem thách thức; người Do Thái sẵn sàng nổi dậy, cử đại biểu đến gặp Thống đốc Syris báo rằng ‘y phải trước tiên hiến tế toàn bộ quốc gia Do Thái’ trước khi họ sẽ tha thứ cho hành động xúc phạm như thế của y.

Cuộc chiến sắc tộc bùng nổ giữa người Hy Lạp và Do Thái ở Alexandria. Khi hai bên gởi phái đoàn đến Caligula, người Hy Lạp khai rằng người Do Thái là dân tộc duy nhất sẽ không tôn thờ tượng của Caligula.

May thay, Vua Agrippa còn ở La Mã, càng ngày càng thân thiết hơn với Caligula tính khi càng lúc càng thất thường. Khi hoàng đế phát động cuộc viễn chinh đến Gaul, ông vua Do Thái có mặt trong đám tùy tùng của y. Nhưng thay vì giao chiến, Caligula tuyên bố mình thắng lợi trên biển, sưu tập vỏ sò cho cuộc Khải Hoàn của mình.

Caligula ra lệnh cho Petronius, Thống đốc Syria, cưỡng chế lệnh của mình và đè bẹp Jerusalem. Các đại biểu Do Thái do các hoàng thân dòng Herod dẫn đầu khẩn khoản xin Petronius thay đổi ý kiến. Petronius do dự, biết rằng nếu tiến hành thì chiến tranh, nếu từ chối thì chết. Nhưng Vua Herod Agrippa, một con người chỉ ham chơi bời, bỗng thình lình trở thành chiến binh cứu tinh Do Thái gây kinh ngạc mọi người. Ông bạo gan viết một bức thư cho Caligula vì lợi ích của Jerusalem.

Thần, như ngài biết, là người xuất thân Do Thái và thành phố quê quán của thần là Jerusalem trong đó toạ lạc ngôi đền thiêng liêng của Chúa Trời tối cao. Đền thờ này, thưa Hoàng thượng, ngay từ đầu chưa hề nhận bất cứ hình ảnh nào do con người tạo ra, bởi vì đó là nơi linh thiêng của đấng Chúa Trời thực sự. Ông nội của ngài (Marcus) Agrippa đã đến thăm và tỏ lòng tôn kính Đền Thờ và Augustus cũng thế. (Tiếp theo y cám ơn Caligula về những ân huệ mình nhận được nhưng) xin đổi tất cả (những phúc lợi đó)  lấy một điều duy nhất – những định chế của tổ tiên không được xáo trộn. Hoặc thần trở thành kẻ phản bội với đất nước hoặc không còn được coi như là người bạn của hoàng thượng như trước đây; không có lựa chọn nào khác.

 Cho dù nếu thái độ hiên ngang ‘tự do hay là chết’ này được phóng đại, thì đây cũng là bức thư liều lĩnh viết cho Caligula – nhờ vậy sự can thiệp của nhà vua rõ ràng đã cứu được Jerusalem.

Tại một buổi tiệc, hoàng đế cám ơn Vua Agrippa đã giúp đỡ ông trước khi ông lên ngôi, tỏ ý muốn ban cho nhà vua bất cứ yêu cầu nào. Nhà vua chỉ xin hoàng đế đừng đặt chân dung mình trong Đền Thờ. Caligula đồng ý.

11

Vua Herod Agrippa là kẻ phiêu lưu may mắn và là người Do Thái có quyền lực nhất trong lịch sử La Mã.

HEROD AGRIPPA VÀ HOÀNG ĐỂ CLAUDIUS: ÁM SÁT, VINH QUANG VÀ  SÂU BỌ

Sau khi hồi phục một căn bệnh lạ vào cuối năm 37, hoàng đế trở nên càng ngày càng mất quân bình. Trong những năm sau đó, các tư liệu cho biết ông phạm tội loạn luân với ba em gái, ban họ cho những người đàn ông khác lạm dụng và bổ nhiệm một con ngựa làm quan chấp chính. Rất khó để kiểm chứng sự thật của những vụ tai tiếng này, mặc dù những hành vi của ông chắc chắn làm giới ưu tú La Mã thù ghét và khiếp sợ. Ông kết hôn với em gái, rồi, khi bà có bầu, người ta cho rằng ông đã rạch bụng lấy hải nhi ra khỏi tử cung bà. Khi hôn các tình nhân, ông trầm ngâm nói, ‘Cái cổ xinh đẹp này sẽ bị cắt bất cứ khi nào ta muốn’ và bảo với các quan chấp chính rằng, ‘Ta chỉ cần gật đầu là cổ nhà ngươi sẽ bị cắt ngay tại chỗ. Nhưng ông không mấy khôn ngoan khi cũng thích đùa với Đội Vệ sĩ Hoàng đế Praetorian oai phong của mình bằng những mật khẩu bất lịch sự như ‘Priapus’ (một vị thần Hi Lạp có dương vật quá khổ và cương cứng vô hạn). Điều đó không thể tiếp tục.

Vào nửa đêm ngày 24 tháng 1 năm 41, Caligula, có Herod Agrippa tháp tùng, đang từ nhà hát đi ra qua một lối đi được bảo vệ bỗng một Vệ sĩ Praetorian rút gươm và hét lên, ‘Hãy nhận cái này!’ Lưỡi gươm chém trúng vai của Caligula, gần như cắt ông ra làm hai, nhưng ông vẫn quát to,’Tao vẫn còn sống.’ Bọn đồng loã la lên, ‘Chém tiếp đi,’ và thế là ông rồi đời. Bọn cận vệ gốc German (Đức bây giờ) của ông cướp bóc khắp đường phố, còn bọn Vệ sĩ Hoàng đế Praetorian thì lùng sục cung điện trên đồi Palatine và giết chết vợ Caligula và đập nát óc con nhỏ của ông. Viện Nguyên Lão lập tức ra sức phục hồi nền cộng hòa, chấm dứt chế độ chuyên chế của các hoàng đế.

Herod Agrippa cho người canh giữ thi thể Caligula, câu giờ bằng cách tuyên bố hoàng đế vẫn còn sống chỉ bị thương, trong khi đó ông dẫn một toán vệ sĩ Praetorian vào cung điện. Họ chú ý thấy có gì lay động sau bức màn và phát hiện ra nhà học giả khập khiễng và nói lắp, Claudius, chú của Caligula và là con trai của người bạn gia đình Antonia của Agrippa. Họ cùng nhau tung hô ông là hoàng đế, mang ông đến căn cứ trên một tấm khiêng. Claudius, một nhà cộng hòa, khăng khăng từ chối vinh dự, nhưng nhà vua Do Thái khuyên ông nhận vương miện và thuyết phục Viện Nguyên Lão giao vương miện cho ông ta. Không có người Do Thái nào, trước hoặc sau, thậm chí trong thời hiện đại, có quyền lực mạnh đến thế. Vị hoàng đế mới Claudius, cho thấy mình là nhà cai trị khôn ngoan và kiên định, ban thưởng cho người bạn Jerusalem và toàn thể vương quốc của Herod Vĩ đại, cũng như phong ông chức chấp chính tối cao. Thậm chí em trai của Agrippa cũng nhận được một vương quốc.

Herod Agrippa đã bỏ Jerusalem ra đi như một tên vô dụng không tiền; ông trở về là vua của Judaea. Ông làm lễ hiến tế trong Đền Thờ, và đọc Đệ Nhị Luật một cách thành khẩn cho dân chúng tụ tập lắng nghe. Người Do Thái xúc động khi ông khóc vì xuất thân lai tạp của mình và hiến tặng chiếc xiềng xích bằng vàng, một biểu tượng của sự may mắn, cho Đền Thờ. ‘Thành phố thánh,’ mà ông xem như ‘thành phố mẹ’ không chỉ của Judaea mà của người Do Thái trên khắp châu Âu và châu Á, được tranh thủ nhờ nhân vật Herod mới này, có in hình trên đồng tiền tôn vinh ông là ‘Vua Agrippa Vĩ đại, Bạn của Caesar’. Bên ngoài Jerusalem ông sống như một ông vua La-Hy, nhưng khi về thành phố ông xử sử như một người Do Thái và hiến tế mỗi ngày trong Đền Thờ. Ông tô điểm và củng cố Jerusalem đang mở rộng, bổ sung tường thành thứ ba bao quanh khu ngoại ô mới Bezetha – phần phía bắc của nó đã được khai quật.

Nhưng tuy vậy Agrippa vẫn phải cố hết sức mới quản lý được thành phố Jerusalem đầy căng thẳng: ông bổ nhiệm ba giáo trưởng liên tiếp nội trong hai năm và ra sức chống lại người Do Thái Cơ đốc. Việc này có thể xảy ra đồng thời với  việc Claudius cấm đạo Kitô của người Do Thái gay gắt ở La Mã – họ bị trục xuất vì tội làm mất trật tự ‘do sự xúi giục của Chrestus’ (Christ). ‘Giờ khoảng thời gian này’, theo Sách Hoạt Động của các Tông đồ, ‘Herod nhà vua giang thẳng bàn tay để quấy nhiễu một số nhà thờ,’ và cho lệnh trảm thủ John (không phải em của Jesus mà là một đệ tử có cùng tên). Ông cũng ra lệnh bắt giữ Peter và dự tính sẽ hành hình đầu ngày lễ Vượt Qua. Nhưng Peter sống sót: Người Cơ đốc tung hô việc này như một phép lạ nhưng các nguồn tư liệu khác cho rằng nhà vua đơn giản chỉ thả ông ra, có thể như một món quà tặng đám đông dân chúng.

Việc dựng lên hoàng đế La Mã đã khiến Agrippa đâm ra kiêu ngạo, khi ông triệu tập một hội nghị thượng đỉnh gồm các nhà vua khu vực đến Tiberias mà không hỏi ý La Mã. Người La Mã bị đánh động và ra lệnh các vua giải tán. Claudius cho ngừng việc xây dựng thêm công sự ở Jerusalem. Sau đó, Agrippa thiết triều như một vị vua thần linh kiểu Hy Lạp mặc long bào phủ vàng ở triều đình Caesarea. Ở đó ông ngã bệnh đau quặn thắt dạ dày: ‘ông bị giun sâu ăn thịt’, Sách Hoạt Động các Tông đồ nói. Dân Do Thái mặc y phục sám hối ngồi cầu nguyện cho ông mau lành bệnh nhưng vô ích. Agrippa có uy tín và sự tinh tế có thể hòa giải nhưng phe Do Thái ôn hòa, quá khích và người La Mã; chết đi là mất con người duy nhất có thể cứu được Jerusalem.

HEROD AGRIPPA II: BẠN CỦA  NERO

Cái chết của nhà vua tháo tung những cuộc bạo loạn. Mặc dù con trai ông Agrippa II chỉ mới 17 tuổi, Claudius muốn giao anh vương quốc, nhưng các cận thần khuyên anh ta quá trẻ để có thể trị vì một gia sản thừa kế đầy bất ổn. Vì vậy hoàng đế phục hồi chế độ cai trị bởi những đại diện La Mã và giao cho em trai của nhà vua quá cố, Vua Herod xứ Chalcis quyền bổ nhiệm các giáo trưởng và quản lý Đền Thờ. Trong 25 năm tiếp theo, Jerusalem được điều hành bởi sự phối hợp mơ hồ giữa các đại diện La Mã và các ông vua dòng  Herod nhưng họ không thể nào dẹp yên sự bất ổn gây ra do một loạt những lang băm tiên tri, những xung đột sắc tộc giữa người Hy Lạp, Do Thái và Samaritan, và độ cách biệt giữa giới thống trị giàu có thân La Mã và dân nghèo Do Thái mộ đạo lớn dần.

Các tin đồ Cơ đốc Do Thái, người  Nazarene, do em James của Jesus lãnh đạo, và các trưởng lão của họ, còn sống tại Jerusalem nơi các đệ tử chính gốc thờ cúng như người Do Thái trong Đền Thờ. Nhưng Jesus còn lâu mới là thầy giảng cuối cùng dám thách thức trật tự La Mã. Josephus liệt kê một loạt các tiên trị giả mạo xuất hiện hết lượt này đến lượt khác, phần đông đều bị La Mã hành hình.

Những đại diện La Mã không giúp giải quyết vấn đề. Như Pilate, phản ứng của họ đối với việc nở rộ các tiên tri là tàn sát những người đệ tử đi theo đồng thời vắt kiệt tỉnh lỵ để thu lợi. Một năm, tại lễ Vượt Qua ở Jerusalem, có một tên lính La Mã vạch mông mình ra trước mặt người Do Thái, gây ra một cơn bạo loạn. Quan đại diện đem binh lính đến dẹp khiến đám đông chen nhau chạy vào một ngõ hẹp khiến hàng ngàn người bị dẫm đạp ngạt thở. Một vài năm sau đó, khi cuộc chiến bùng nổ giữa người Do Thái và Samaritan, người La Mã đóng đinh nhiều người Do Thái. Cả hai phe đều cầu cứu đến La Mã. Người Samaritan có thể đã thắng kiện nhưng chàng Herod Agrippa trẻ tuổi, vốn được giáo dục tại La Mã, tranh thủ được bà vợ có uy quyền của Claudius, Agrippina: hoàng đế không chỉ hậu thuẫn người Do Thái mà còn ra lệnh khiển trách và hành hình quan bảo dân La Mã phạm tội tại Jerusalem. Như vua cha với Caligula, Agrippa II không chỉ được Claudius thương mến mà còn được lòng người kế vị ông là Nero. Khi chú ông Herod xứ Chalcis mất, Agrippa được phong làm vua của thái ấp Lebanon với quyền hành đặc biệt đối với Đền Thờ ở Jerusalem.

Ở La Mã, hoàng đế lão suy Claudius bị Agrippina đầu độc,* được cho là bằng một đĩa nấm độc. Hoàng đế mới thiếu niên Nero ban thưởng Agrippa thêm nhiều lãnh thổ ở Galilee, Syria và Lebanon. Agrippa tỏ lòng biết ơn bằng cách đổi tên kinh đô của mình Caesarea Philippi thành Neronias và phô trương mối quan hệ nồng ấm với Nero trên mặt đồng tiền với dòng chữ ‘Philo-Caesar’(Yêu quí Caesar).

*   Claudius không gặp may mắn trong hôn nhân: ông giết một bà vợ và một bà vợ khác giết ông. Ông hành hình người vợ không chung thủy còn nhỏ tuổi Mesalina vì tội phản trắc rồi cưới cô cháu gái của mình, Julia Agrippina, em gái Caligula. Caligula nâng đỡ Nero, con trai đời chồng trước của em gái mình, làm người thừa kế. Claude cũng ép Nero nhận đồng thừa kế với con trai riêng của mình Britannicus, được đặt tên để kỷ niệm cuộc chinh phục nước Anh của ông. Khi lên đăng cơ, Nero mưu sát Britannicus.

Tuy nhiên, những quan đại diện của Nero đều tham ô và vụng về. Một tên tệ nhất là Antonius Felix, một người nô lệ Hy Lạp được giải phóng mà, như sử gia Tacitus viết ‘thực hiện mọi hành vi tàn ác và dục vọng, nắm quyền lực của một ông vua với bản năng của một tên nô lệ’. Vì y là anh em với thư ký của Claudius và của Nero (trong một thời gian), người Do Thái không còn cách kêu cứu La Mã. Những em gái đầy tai tiếng của Vua Agrippa hiện thân cho sự bại hoại của giai cấp thống trị. Drusilla, ‘người có sắc đẹp vượt trội mọi phụ nữ’, được gã cho vua Ả Rập Azizus xứ Emesa, nhưng Felix mê say đắm nàng. Nàng khổ sở vì bị gã ép và muốn thoát khỏi ác ý của bà chị nàng là Berenice, bèn trốn về sống với Felix. Berenice, vốn là Hoàng hậu xứ Chalcis (kết hôn với cậu mình), bỏ người chồng mới nhất, Vua xứ Cilicia, để sống với ông anh: người La Mã đồn có sự loạn luân. Felix vắt kiệt tiền bạc của Judaea trong khi ‘một loại cướp mới’ có tên Sicarii bắt đầu ám sát những người tai to mặt lớn Do Thái tại những lễ hội ngay giữa Jerusalem – thành công đầu tiên của họ là giết được một cựu giáo trưởng. Đối đầu với việc tàn sát vì sắc tộc và các vụ tiên tri giả mạo nổi lên, Felix vừa ra sức giữ yên tình hình vừa vơ vét làm giàu.

Giữa cơn hỗn loạn này, giáo phái nhỏ của Jesus giờ bị chia tách làm hai giữa các lãnh đạo Do Thái ở Jerusalem và những tín đồ không phải Do Thái trong thế giới La Mã rộng lớn hơn. Giờ đây con người quá khích năng động nhất trong các tin đồ Jesus, người mà hơn ai hết, sẽ gầy dựng một tôn giáo mới có qui mô thế giới, trở về để lên kế hoạch cho tương lai đạo Cơ đốc.

PAUL XỨ TARSUS: NGƯỜI SÁNG LẬP CƠ ĐỐC GIÁO

Jerusalem đang bình phục sau cơn oằn oại bạo lực gần đây nhất. Một người Do Thái ở Ai Cập đã vừa dẫn một đám người lên Núi Olives, loan báo, nghe như âm vang lời của Jesus, rằng mình sẽ làm sụp đổ những tường thành và chiếm lấy Jerusalem. Nhà tiên tri giả mạo này cố tràn vào thành phố, nhưng cư dân Jerusalem tiếp tay cùng lính La Mã đẩy lùi bọn tín đồ. Sau đó binh đoàn viễn chính của Felix gần như giết sạch họ. Binh lính săn lùng tên ‘phù thủy’ cầm đầu, ngay khi Paul đến thành phố mà ông biết quá rõ.

Cha của Paul là người Pharisee làm ăn phát đạt đủ để trở thành công dân La Mã. Ông gởi con mình – ra đời gần như cùng lúc với Jesus nhưng ở Cilicia (thuộc Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay) – đến học tập trong Đền Thờ ở Jerusalem. Khi Jesus bị đóng đinh, Saul, như ông được gọi lúc đó, ủng hộ việc ‘đe dọa và tàn sát’: ông giữ áo choàng cho những người ném đá Stephen ‘và cho rằng ông ta đáng chết’. Một người làm công quả, con người Pharisee gốc La Mã nói tiếng Hy Lạp này, phục dịch với tư cách một đặc vụ tình nguyện cho giáo trưởng cho đến khi, khoảng năm 37, trên đường đến Damascus ông trải nghiệm ‘sự khải thị’ của mình: ‘ Thình lình một ánh sáng từ trời chiếu sáng quanh người ông’ và ông nghe có tiếng nói ‘đến với ông: Saul, Saul, tại sao ngươi bức hại ta?’ Christ sống lại ủy nhiệm ông là Tông đồ 13 có nhiệm vụ giảng tin lành cho những người không phải Do Thái.

James và tin đồ Cơ đốc ở Jerusalem nghi ngờ một cách có thể hiểu được người mới cải đạo này, nhưng Paul cảm thấy bức bách phải thực hiện thông điệp mình nhận được với tất cả năng lượng như bị ám ảnh của mình: ‘Khốn khổ cho tôi nếu tôi không giảng Phúc âm.’ Cuối cùng, ‘James, em của Chúa Jesus’ công nhận đồng chí mới này. Trong 15 năm tiếp theo, nhân vật kích động không thể trấn áp này đi về phương đông, giảng những giáo điều theo phiên bản của riêng mình về Phúc âm Jesus, bác bỏ cực lực tinh độc quyền của người Do Thái. ‘Tông đồ cho người Gentile’ (người không phải Do Thái) tin tưởng rằng ‘vì chúng ta’ Chúa Trời đã khiến Jesus ‘thành một người nhận tội, dù không hề phạm tội, để trong ông, chúng ta có thể trở thành người công chính của Chúa Trời’. Paul tập trung chú ý vào sự Phục Sinh, mà  ông thấy như chiếc cầu nối giữa nhân loại và Chúa Trời. Jerusalem của Paul là Vương Quốc Thiên Đường, không phải là Đền Thờ thực sự; ‘Israel’ của ông là bất kỳ ai theo Jesus, không phải là quốc gia Do Thái. Ông là, theo nhiều phương diện, tân kỳ một cách lạ lùng, bởi vì, trái với đặc tính khắt khe của thế giới cổ đại, ông tin tưởng vào tình thương, bình đẳng và không phân biệt sắc tộc: Hy Lạp và Do Thái, đàn ông và phụ nữ, tất cả đều là một, tất cả đều có thể được cứu rỗi chỉ bằng lòng tin vào Christ. Các bức thư của ông khống chế Tân Ước, tạo thành một phần tư bộ sách. Tầm nhìn của ông là vô biên, vì ông muốn cải tạo mọi người.

Jesus đã tranh thủ được một ít tín đồ không Do Thái, nhưng Paul đặc biệt thành công  trong tập thể người không Do Thái và những người gọi là kính sợ Chúa, những người không Do Thái này đã tuân thủ những lĩnh vực của đạo Do Thái nhưng không cần cắt bao qui đầu. Những người Syria cải đạo đầu tiên của Paul là những người đầu tiên được biết dưới tên ‘tín đồ Cơ đốc’. Khoảng năm 50, Paul trở lại Jerusalem để thuyết phục James và Peter cho phép những người phi Do Thái vào đạo. James đồng ý một thỏa hiệp, nhưng những năm sau đó ông hay tin Paul khiến những người Do Thái quay sang chống lại giáo luật của Moses.

Một người đơn độc thuần khiết độc thân, Paul đã sống sót qua những vụ đắm tàu, cướp giật, đánh đập và ném đá trên hành trình của mình, vậy mà không có gì khiến ông xao nhãng khỏi sứ mạng của mình – là tái tạo hình ảnh người Galilee Do Thái quê mùa thành đấng Jesus Christ, người cứu rỗi nhân loại hứa hẹn sẽ sắp sửa trở lại trong Lần Xuất Thế  Thứ Hai – Vương Quốc của Thiên Đường. Thỉnh thoảng ông vẫn là một người Do Thái và có thể đã trở về Jerusalem đến năm lần, nhưng đôi khi ông coi Do Thái giáo như một kẻ thù mới. Trong văn bản Kitô sớm nhất, Thư Đầu Tiên của ông gởi người Thessalonia (người phi Do Thái ở Hy Lạp đã cải sang Cơ đốc giáo), ông sỉ vả thậm tệ người Do Thái vì tội giết Jesus và các nhà tiên tri của mình. Ông cho rằng tục cắt bao qui đầu, Giao ước của dân Do Thái với Chúa Trời, là một nghĩa vụ của Do Thái nhưng không thích hợp cho người ngoài:  ‘Hãy coi chừng loài chó;  hãy coi chừng kẻ cắt bì giả.

Vì chính chúng ta là kẻ cắt bì thật, là kẻ cậy thánh linh Ðức Chúa Trời và nương uy phong trong Ðấng Jesus Christ.’

Bây giờ thì James và các trưởng lão ở Jerusalem bất mãn với Paul. Họ đã quen biết với Jesus bằng da bằng thịt, vậy mà Paul khăng khăng: ‘Ta đã chịu đóng đinh với Christ. Cuộc sống ta sống bây giờ không phải là cuộc sống của ta mà là cuộc sống Christ sống trong ta.’ Ông tuyên bố, ‘Tôi mạng dấu vết của Jesus in trên cơ thể tôi.’ James, con người thánh thiện đáng kinh đó, kết án ông chối bỏ đạo Do Thái. Thậm chí Paul không thể phớt lờ em ruột của Jesus. Năm 58, ông đến để làm hoà với triều đại Jesus.

CÁI CHẾT CỦA JAMES NGƯỜI CÔNG CHÍNH: TRIỀU ĐẠI JESUS

Paul cùng đi với James đến Đền Thờ để thanh tẩy mình và cầu nguyện như một người Do Thái, nhưng ông bị một số người Do Thái đã nhìn thấy ông giảng đạo trên những chuyến đi nhận ra và túm lấy ông. Đội bách binh La Mã , được giao nhiệm vụ giữ gìn trật tự trong Đền Thờ, phải giải cứu trước khi ông bị treo cổ. Khi Paul một lần nữa lên tiếng giảng đạo, người La Mã cho rằng ông là ‘tên phù thủy’ Ai Cập trốn tránh, vì thế ông bị bắt trói và giải đến lâu đài Antonia để chịu phạt roi. ‘Anh phạt roi một người La Mã có đúng luật không?’ Ông hỏi. Tên lính chưng hửng khi biết rằng tên mê sảng  mắt hoang dại này là một công dân La Mã chính cống có quyền kháng cáo lên Nero phán xử. Người La Mã cho phép giáo trưởng và Hội đồng Sanhedrin thẩm vấn Paul trước một đám đông giận dữ đang theo dõi. Câu trả lời của ông quá xúc phạm đến nỗi ông suýt bị treo cổ lần nữa. Bọn bách binh La Mã khiến đám đông bình tâm khi ra lệnh giải ông về Caesarea.

Kỳ công của Paul có thể đã gây tiếng xấu cho người Cơ đốc Do Thái. Năm 72, giáo trưởng Ananus, con trai của Annas người đã xử Jesus, ra lệnh bắt giữ James, xử ông trước Hội đồng Sanhedrin và ném ông qua bức tường Đền Thờ, ắt hẳn từ đỉnh cao nhất nơi anh ông bị Sa tăng cám dỗ. Sau đó James bị ném đá và nhận một phát chày vồ ân huệ. Josephus, đang sống ở Jerusalem, tố cáo Ananus là ‘đồ man rợ’, cho biết phần đông dân Do Thái đều kinh hoàng: em của Jesus được nhiều người tôn kính. Vua Agrippa II lập tức cách chức Ananus. Nhưng các tín đồ Cơ đốc vẫn tiếp tục là một triều đại: Jesus và James được kế vị bởi em họ hoặc em cùng cha khác mẹ, Simon.

Trong khi đó, Paul đến Caesarea với tư cách một tù nhân: Felix quan đại diện tiếp nhận Paul đồng thời với bà vợ dòng Herod của mình, hoàng hậu Drusilla trước đây, và đề nghị sẽ tha ông nếu ông chịu hối lộ. Paul từ chối. Felix giờ đang gặp nhiều lo lắng thúc bách. Cuộc chiến đã bùng phát giữa Do Thái và Syria. Ông tàn sát một số lớn người Do Thái và bị triệu về La Mã, để lại Paul trong ngục thất. Herod Agrippa II và và em gái ông Berenice, nguyên hoàng hậu của cả Chalcis lẫn Cilicia (và được cho là người tình loạn luân của ông), đến thăm Caesarea để nghênh đón quan đại diện mới, người đã mang vụ Cơ đốc lên nhà vua, cũng như Pilate đã mang Jesus cho Antipas trước ông.

Paul giảng Phúc âm Kitô cho cặp hoàng gia đang cúi mình trịnh trọng lắng nghe, khéo léo diễn giải thông điệp của mình cho phù hợp với ông vua ôn hòa: ‘Ta biết ngài là một người am hiểu tất cả tập tục Do Thái. Hoàng thượng Agrippa, ngài có tin vào các tiên tri không? Ta biết ngài tin.’

‘Gần như ông đã thuyết phục được ta vào đạo Cơ đốc,’ nhà vua trả lời. ‘Người này có thể đã được trả tự do nếu ông ta đã không chống án lên Caesar.’ Nhưng Paul đã chống án lên Nero – nên ông ta phải đi đến Nero.

JOSEPHUS: ĐẾM NGƯỢC ĐẾN CÁCH MẠNG 

Paul không phải là người Do Thái duy nhất chờ đợi Nero phán xét. Felix cũng giải một số giáo sĩ xui xẻo của Đền Thờ đến hoàng đế xét xử. Bạn của họ, một người 26 tuổi có tên là   Joseph ben Matthias, quyết định đến La Mã để cứu các bạn giáo sĩ của mình. Được biết nhiều hơn dưới tên Josephus, ông cáng đáng mọi việc – chỉ huy nổi dậy, người được hoàng gia Herod bảo trợ, một quan triều – nhưng trên hết, ông sẽ trở thành sử gia kiệt xuất của Jerusalem.

Josephus là con trai một giáo sĩ, xuất thân từ dòng dõi Maccabee, một điền chủ ở Judaea, lớn lên ở Jerusalem, nơi đó ông được khâm phục vì học vấn và sự minh triết. Khi là thiếu niên ông đã thực tập ba giáo phái Do Thái chủ yếu, thậm chí gia nhập một số giáo sĩ tu khổ hạnh trong sa mạc, trước khi trở về Jerusalem.

Khi đến La Mã, Josephus liên lạc với một kịch sĩ Do Thái được hoàng đế độc địa nhưng yêu sân khấu ưu ái. Nero đã giết vợ mình và yêu say đắm Poppaea, một mỹ nhân đã có chồng với mái tóc đỏ và làn da xanh tái. Khi trở thành hoàng hậu, Poppaea gây cho Nero sự tin cẩn đến nỗi ông giết luôn người mẹ nham hiểm Agrippina của mình. Vậy mà Poppaea cũng trở thành một trong những người ‘kính sợ Chúa’ mang nửa dòng máu Do Thái. Qua giới thiệu của người bạn nghệ sĩ, Josephus diện kiến hoàng hậu, giúp trả tự do cho những bạn mình. Josephus đã làm rất tốt, nhưng khi ông và các bạn trở về đến nhà, họ thấy Jerusalem sôi sục ‘phong trào khởi nghĩa chống lại La Mã.’ Tuy vậy cuộc nổi dậy không phải là không tránh được: việc Josephus quen biết được với Poppaea cho thấy con đường tiếp xúc giữa La Mã và Jerusalem còn rộng mở. Hàng năm thành phố đông kịt những khách hành hương Do Thái mà không thấy có nhiều biểu hiện hỗn loạn cho dù chỉ có một đội quân La Mã hỗ trợ (khoảng 600 – 1200 người) hiện diện ở Antonia. Thành phố Đền trù phú tồn tại ‘trong không khí hoà bình và thịnh vượng’, được điều hành bởi một giáo trưởng Do Thái được vua Do Thái chỉ định. Chỉ đến lúc này Đền Thờ cuối cùng mới hoàn tất việc xây dựng, đem đến tình trạng thất nghiệp cho 18,000 thợ xây dựng. Vì thế Vua Agrippa tạo ra việc làm cho họ bằng cách giao phó việc xây dựng những con phố mới.

Bất cứ thời nào, nếu hoàng đế chăm chỉ hơn một chút, quan đại diện công minh hơn một chút, họ có thể vãn hồi trật tự giữa các phe phái Do Thái. Trong khi đế chế được điều hành bởi những người Hy Lạp có năng lực của Nero, thì việc hoàng đế chỉ biết đóng kịch và tranh đua điền kinh, thậm chí những thanh trừng đẫm máu, cũng có thể tha thứ được. Nhưng khi nền kinh tế bắt đầu suy sụp, sự bất tài của Nero lan xuống đến xứ Judaea, nơi giờ đây không có hành vi ô nhục nào mà quan đại diện bỏ qua không làm. Ở Jerusalem, quan đại diện tại vị hoạt động việc bảo kê, nhận tiền hối lộ của các nhà có chức quyền mà đàn em du đảng của họ cạnh tranh với bọn Sicarii để khủng bố dân chúng. Không có gì ngạc nhiên khi xuất hiện một tiên tri khác, cũng có tên Jesus, la lớn lên giữa Đền Thờ, ‘Khổ sở cho Jerusalem!’  Được xét là điên khùng, y bị đánh roi nhưng không bị hành hình. Vậy mà Josephus kể lại không nhiều tình cảm chống La Mã.

Vào năm 64, La Mã bốc cháy. Nero chắc hẳn đã giám sát việc chữa cháy và y mở cửa vườn cho những người mất nhà cửa đến trú ngụ. Nhưng bọn âm mưu loan tin chính Nero đã phóng hỏa để có thể xây dựng một cung điện lớn hơn và y đã phớt lờ việc chữa cháy vì mãi mê khảy đàn lia. Còn Nero thì đổ tội cho giáo phái nửa Do Thái, tức bọn Cơ đốc, đã làm hoả hoạn tràn lan. Y bắt nhiều người trong số đó thiêu sống, cho thú hoang xé xác hoặc đóng đinh. Trong số nạn nhân có hai người bị bắt ở Jerusalem nhiều năm trước: Peter được cho là bị đóng đinh lật ngược đầu; còn Paul bị trảm thủ. * Hành động bức hại tín đồ Cơ đốc của Nero khiến y có chỗ đứng trong Sách Khải Huyền Cơ đốc, bộ cuối cùng trong kinh sau này trở thành Tân Ước.

* Trong năm 2009, các nhà khảo cổ thuộc giáo triều phát hiện một ngôi mộ được ẩn giấu bên dưới Nhà Thờ Thánh Paul bên ngoài tường thành La Mã, từ lâu nổi tiếng là địa điểm an táng Paul. Hài cốt được xác định niên đại bằng các-bon là vào khoảng thế kỷ 1 đến thế kỷ 3 – đó có thể thực sự là di cốt của Paul.

‘Những lối tra khảo tinh tế’ do y nghĩ ra cho người Cơ đốc không cứu được y. Ở cung, y đá hoàng hậu đang mang bầu Poppaea ngay giữa bụng, vô tình giết chết bà. Khi hoàng đế giết kẻ thù thực sự ngoài đời thì y tưởng tượng là mình đang thăng hoa sự nghiệp diễn xuất, trong khi quan đại diện mới nhất của y ở Judaea, Gessius Florus, vênh váo diễu hành trút cơn giận dữ của mình lên khắp nước. Thảm họa bắt đầu ở Caesarea: người Hy Lạp gốc Syria hiến tế một con gà trống bên ngoài một nhà thờ Do Thái: người Do Thái phản kháng. Florus được hối lộ để hậu thuẫn người Hy Lạp và rồi hành quân xuống Jerusalem, yêu cầu Đền Thờ nộp 17 ta-lăng thuế. Khi y xuất hiện ở Praetorium (toà án binh) vào mùa xuân 66, bọn thiếu niên Do Thái gom các đồng xu ném vào y. Binh lính gốc Syria và Hy Lạp của Florus tấn công đám đông. Florus yêu cầu các chức sắc Đền Thờ hãy giao nộp bọn du đãng, nhưng họ từ chối. Bọn lính chạy tứ tán, lùng sục mọi nhà và tàn sát dân cư. Florus phạt roi và đóng đinh tù nhân, kể cả những ông lớn Do Thái vốn là công dân La Mã. Đây là giọt nước làm tràn ly: Các chức sắc lãnh đạo Đền Thờ không còn có thể nhờ cậy vào sự bảo vệ của người La Mã. Những hành vi tàn bạo của binh lính thuộc địa hỗ trợ của Florus làm bùng cháy tinh thần phản kháng của dân Do Thái. Khi đoàn kỵ binh La Mã nện vó ngựa trên đường phố một cách điên cuồng, họ thậm chí tấn công em gái Vua Agrippa, Hoàng hậu Berenice. Cận vệ của bà phải bọc bà lại mang vào Cung Maccabean, nhưng bà cương quyết giải cứu Jerusalem.

CHƯƠNG 13

 CÁC CUỘC CHIẾN DO THÁI: CÁI CHẾT CỦA JERUSALEM (66–70)

BERENICE HOÀNG HẬU CHÂN TRẦN: CÁCH MẠNG

Berenice đích thân đi chân trần đến Toà án binh (Praetorium) – cũng trên con đường mà Jesus hẳn đã đi qua từ dinh Herod Antipas đến Pilate 30 năm trước. Berenice  xinh đẹp – con gái và em gái của các vì vua, và hai lần làm hoàng hậu – đang trên chuyến hành hương đến Jerusalem, để cảm tạ Chúa Trời giúp bà vượt qua cơn bạo bệnh, nhịn ăn 30 ngày và cạo đầu (một sự kiện khá ngạc nhiên đối với một người dòng Herod đã La Mã hóa). Giờ thì bà quỳ mọp xuống trước Florus để khẩn khoản xin y dừng tay, nhưng y còn muốn trả thù và cướp bóc. Khi đoàn quân tiếp viện của y đến gần Jerusalem, người Do Thái chia rẽ giữa một bên tha thiết giảng hòa với quân La Mã và bên quá khích sẵn sàng đánh nhau, có lẽ với hi vọng tranh thủ được nền độc lập có giới hạn dưới sự thống trị của người La Mã. 

Các giáo sĩ trong Đền Thờ đem ra những bình thánh, rắc tro tang lên tóc mình, mong kềm chế hành động hung hăng của bọn trẻ nổi dậy. Người Do Thái  bước ra ngoài một cách hòa bình tiếp đón sư đoàn La Mã, nhưng theo chỉ thị của Florus kỵ binh xông tới đạp lên người họ. Đám đông giẫm đạp chạy vào cổng thành khiến nhiều người ngạt thở. Florus liền cho binh lính tấn công về hướng Núi Đền, hi vọng chiếm được Pháo đài Antonia chiến lược. Để đáp trả người Do Thái oanh kích người La Mã bằng giáo từ trên mái nhà, chiếm đóng Antonia và chặt đứt những chiếc cầu dẫn vào Đền Thờ, biến nó thành một pháo đài riêng biệt.

Ngay lúc Florus bỏ đi, Herod Agrippa cũng vừa từ Alexandria trở về. Nhà vua triệu tập một hội đồng người Jerusalem trong Thành Thượng bên dưới Cung điện của mình. Khi Berenice lắng nghe từ trên mái cung điện an toàn, Agrippa cầu xin người Do Thái hãy dừng ngay cuộc nổi dậy: ‘Đừng liều lĩnh chống đối đế chế La Mã. Chiến tranh, một khi đã nổi lên rồi, khó mà dẹp xuống.’ Quyền lực La Mã là vô địch khắp trên mọi miền đất có người ở trên mặt đất này. Hãy thương xót, nếu không vì vợ con các ngươi, thì hãy thương xót kinh thành này – hãy bảo tồn Đền Thờ!’ Agrippa và em gái mình khóc òa giữa hội đồng. Người Jerusalem hô to họ chỉ muốn đánh Florus. Agrippa bảo họ hãy nộp triều cống. Dân chúng đồng ý và Agrippa dẫn họ đến Đền Thờ để sắp xếp những động thái hòa bình. Nhưng khi ở Núi Đền, nghe Agrippa khăng khăng đòi người Do Thái phải vâng lời Florus cho đến khi một quan đại diện khác đến thay thế, đám đông liền phẫn nộ trở lại.

Các giáo sĩ, trong đó có Josephus, gặp nhau trong Đền để thảo luận về việc có nên ngưng hiến tế mỗi ngày cho hoàng đế La Mã, một hành động biểu thị lòng trung thành với La Mã. Hành động cương quyết này của cuộc nổi dậy được tán thành – ‘nền móng của chiến tranh với La Mã’, Josephus viết, chính ông cũng tham gia phe nổi dậy. Khi phe nổi dậy chiếm Đền Thờ và nhóm chức sắc ôn hòa chiếm Thành Thượng, các phe phái Do Thái oanh kích nhau bằng ná và giáo.

Agrippa và Berenice rời Jerusalem, phái 3,000 kỵ binh đến ủng hộ phe ôn hòa, nhưng chính phe quá khích đã chiến thắng. Zealot, một đảng được dân chúng ủng hộ, đặt căn cứ quanh Đền Thờ, và phe Sicarii, băng đảng dao găm, tràn vào Thành Thượng và đánh đuổi binh lính của Agrippa. Chúng phóng hỏa lâu đài của các giáo trưởng và người Maccabee cũng như những văn thư ghi nợ. Trong một thời gian ngắn, tên cầm đầu của họ, một chỉ huy ‘man rợ, tàn ác’ cai trị Jerusalem cho đến khi các giáo sĩ ám sát y và bọn Sicarii tẩu thoát đến Pháo đài Masada gần Biển Chết và không còn đóng vai trò gì nữa cho đến khi Jerusalem thất thủ.

Các giáo sĩ trở lại nắm quyền kiểm soát trên danh nghĩa từ giờ trở đi, các phe đảng ở Jerusalem và các chỉ huy của họ, thường là những tên cơ hội ở tỉnh lỵ và bọn phiêu lưu địa phương cũng như những người cuồng tín, lao vào nội chiến hỗn loạn và dã man. Ngày cả Josephus, nguồn tư liệu duy nhất của chúng ta, cũng không thể xác định rõ ràng ai cầm đầu những phe phái này và vì mục đích gì. Nhưng ông lần theo dấu vết cuồng tín chống La Mã vì lý do tôn giáo ngược thời gian đến tận những vụ nổi loạn của người Galilee sau cái chết của Herod Vĩ đại: ‘họ yêu tự do một cách nồng nàn, không thể khuất phục được vì họ tin rằng chỉ có Chúa Trời là người lãnh đạo họ’. Họ ‘gieo mầm từ đó nhảy ra cây đời’. Trong những năm tiếp theo, ông nói, người Do Thái ‘đang trong tình trạng nồi da xáo thịt’.

Đạo quân đồn trú La Mã 600 người, vẫn đang cố thủ Thành lũy Herod Vĩ đại, đồng ý nộp vũ khí để đổi lấy việc rút quân an toàn ra ngoài nhưng những tên lính gốc Syria và Hy Lạp này có nợ máu với nhân dân, nên bị ‘làm thịt một cách man rợ’. Vua Agrippa đành bỏ rơi dự định làm trung gian và tiếp tay cho người La Mã. Vào tháng 11 66, Thống đốc Syria người La Mã, được Agrippa và các vua đồng minh hậu thuẫn, hành quân từ Antioch và tiến đánh vào Jerusalem.  Nhưng rồi đột nhiên y rút lui, có lẽ đã nhận hối lộ, và việc rút quân của y dưới sức tấn công dữ dội của quân Do Thái cướp đi sinh mạng của hơn 5000 lính La Mã, và con đại bàng của quân đoàn.

Hột xúc xắc đã ném xuống. Lòng tự hào của người La Mã phải được báo thù. Quân nổi loạn chọn người cựu giáo trưởng Ananus làm lãnh đạo Israel độc lập. Ông củng cố tường thành, trong khi thành phố vang dội tiếng búa đập và đúc rèn áo giáp và vũ khí. Ông cũng cử ra các vị tướng, trong số đó có Josephus, sử gia tương lai. Ông rời thành phố để đến chỉ huy mặt trận Galilee, tại đó ông thấy mình phải chiến đấu với một chỉ huy khác, John xứ Gischala, một cách hiểm ác hơn khi họ chiến đấu với người La Mã.

Đồng tiền Do Thái mới tôn vinh ‘Tự Do cho Zion’ và ‘Jerusalem Thần Thánh’ – nhưng dường như đây là cuộc giải phóng không nhiều người ao ước và thành phố như là ‘một nơi đã bị lời nguyền hủy diệt’. Nero đang ở Hy Lạp để biểu diễn những bài hát của mình và dự tranh cuộc đua ngựa tại Vận hội Olympic  (ông thắng cuộc dù bị ngã ra khỏi chiến mã xa) thì nghe tin Israel nổi loạn.

TIÊN TRI CỦA JOSEPHUS: NGƯỜI CỞI LỪA LÀ HOÀNG ĐỂ

Nero rất sợ các vị tướng chiến thắng lẫy lừng, vì thế y chọn tư lệnh Trận đánh Do Thái là một cựu binh gan góc trong đám quần thần của mình. Titus Flavius Vespasianus đang trong tuổi cuối ngũ tuần và thường làm hoàng đế bực mình vì hay ngủ gục khi xem y diễn kịch. Nhưng ông có được tên tuổi trong trận chinh phục nước Anh và biệt danh của ông – Người Cởi Lừa – biểu lộ tính cách đáng tin cậy trần trụi của ông và của cải ông tạo dựng bằng việc bán lừa cho quân đội.

Phái con trai Titus đến Alexandria để tuyển quân tiếp viện, Vespasian gom góp được một đạo quân gồm 60,000 người, bốn quân đoàn thêm đội bắn ná người Syria, cung thủ người Ả Rập và kỵ binh của Vua Herod Agrippa. Sau đó ông tiến quân xuống bờ biển đến Ptolemais (Acre). Vào đầu năm 67, ông bắt đầu chinh phục lại Galilee một cách có phương pháp, trước sức kháng cự điên cuồng của Josephus và dân chúng Galilee. Cuối cùng, Vespasian vây hãm Josephus trong pháo đài Jotapata của mình. Vào ngày 29/7 năm đó, Titus trườn qua những tường thành đổ nát và chiếm lấy thành phố. Người Do Thái chiến đấu đến chết, nhiều người tự sát.

Josephus và một số người sống sót trốn trong một hang động. Khi quân La Mã giăng bẫy họ, họ quyết định tự sát và rút thăm xem ai sẽ giết ai. ‘Do ý Chúa’ (hoặc do gian lận), Josephus được rút lá thăm cuối cùng và ra khỏi hang còn sống. Vespasian quyết định giải ông về La Mã như một món quà dâng lên hoàng đế, và chắc chắn kéo theo một cái chết thảm khốc. Josephus xin được nói với tướng quân. Khi ông đứng trước Vespasian và Titus, ông nói: ‘Này Vepasian! Tôi đến với ngài như một người mang thông điệp về một tin tức trọng đại hơn. Ngài tính giải tôi cho Nero phải không? Tại sao? Chính là ngài, Vepasian, là và sẽ là Caesar và Hoàng đế, ngài và con trai ngài.’ Ngài Vepasian cứng cỏi cũng phải mềm lòng, giữ Josephus trong ngục nhưng đối đãi tử tế. Titus, gần như cùng tuổi với Josephus, làm bạn với ông.

Khi Vespasian và Titus tiến đánh Judaea, đối thủ của Josephus, John xứ Gischala, trốn thoát về Jerusalem – ‘một thành phố không có thống đốc’ tham gia vào một trận giết chóc tự hủy diệt điên cuồng.

 JERUSALEM NHÀ THỔ: NHỮNG TÊN ĐỘC TÀI JOHN VÀ SIMON

Cánh cổng Jerusalem vẫn mở cho khách hành hương, vì thế bọn cuồng tín, bọn giết người máu lạnh và hàng ngàn dân tị nạn tràn vào thành phố, nơi bọn nổi loạn thỏa sức đánh giết, tham gia hành lạc tập thể và săn lùng vô tội vạ những kẻ phản bội.

Những băng đảng du côn trẻ tuổi giờ thách thức luật lệ của giáo sĩ. Chúng chiếm đóng Đền Thờ, lật đổ chính giáo trưởng, cử ra một tên thô lỗ trong bọn làm thay. Ananus tập họp những cư dân Jerusalem và tấn công Đền, nhưng ông ngần ngại không dám tràn vào khu vực bên trong và Nơi Chí Thánh. John xứ Gischala và đồng bọn Galilee thấy đây là cơ hội để chiếm toàn thành phố. John gọi người Idumea vào tiếp tay. Đó là dân man rợ và không gớm máu nhất ở phía nam Jerusalem. Bọn Idumea xông vào thành phố, tràn vào Đền Thờ, máu loang khắp nơi, rồi sau đó lùng sục khắp đường phố, tàn sát 12,000 người. Chúng giết cả Ananus và các giáo sĩ, lột quần áo họ và giẫm đạp lên thi thể trần truồng của họ, trước khi ném qua tường thành cho chó ăn xác. ‘Cái chết của Ananus’, Josephus nói, ‘là khởi đầu sự hủy diệt của thành phố.’ Cuối cùng, trĩu nặng của cướp được và đã no nê vấy máu, bọn Idumea bỏ Jerusalem đi để lại cho John xứ Gischala hoàn toàn thống trị.

Cho dù quân La Mã không còn xa, John vẫn buông lỏng cho bộ hạ Galilee của mình và phe Zealot mặc tình hưởng thụ chiến lợi phẩm cướp được. Ngôi Nhà Thánh trở thành nơi trác táng; nhưng một số người hậu thuẫn John chẳng bao lâu mất lòng tin nơi tên độc tài này và bỏ đi đầu quân cho lực lượng bên ngoài thành phố mới nổi lên, một chỉ huy trẻ có tên Simon ben Giora, ‘không mưu mô như John nhưng cường tráng hơn và gan lì hơn’. Simon ‘là mối khiếp đảm đối với dân chúng còn hơn chính bọn La Mã’. Người Jerusalem, hi vọng tự cứu mình khỏi một tên độc tài lại đi mời một tên độc tài khác

– Simon ben Giora –  người chẳng mấy chốc đã chiếm gần hết thành phố. Nhưng John còn giữ vững Đền Thờ. Giờ thì bọn Zealot quay sang chống lại y, chiếm đóng Đền Thờ bên trong thành ra, theo lời của Tacitus, ‘có ba vị tướng, ba quân đội’ đánh nhau để chiếm một thành phố – cho dù quân La Mã đang tiến sát. Khi  Jericho gần đó rơi vào tay Vepasian, ba phe đảng Do Thái mới ngừng đánh nhau và hợp tác để phòng thủ Jerusalem, đào hào và củng cố Tường thành Thứ Ba của Herod Agrippa I ở phía bắc. Vespasian chuẩn bị vây hãm Jerusalem. Nhưng rồi đột nhiên ông dừng lại.

La Mã đã mất người cầm đầu. Vào ngày 9/6/68, Nero, bị hành hạ bởi những vụ nổi loạn, bèn tự sát với lời trăn trối: ‘Thế giới đã mất một nghệ sĩ như tôi!’ Trong loạt kế vị liên tiếp, La Mã tôn vinh rồi hủy diệt ba hoàng đế. Cuối cùng, các quân đoàn Judaea và Ai Cập tung hô Vepasian làm hoàng đế của mình. Người Cởi Lừa nhớ lại lời tiên tri của Josephus nên liền phóng thích ông, ban ông qui chế công dân La Mã, bổ nhiệm ông làm cố vấn, gần như là linh vật của ông, khi ông chinh phục đầu tiên là Judaea – và sau đó là thế giới. Hoàng đế mới hướng đến Alexandria để về La Mã và con trai ông Titus, chỉ huy 60,000 quân, tiến vào Thành phố Thánh, biết rằng triều đại của ông sẽ thành hay bại là tùy vào số phận của Jerusalem.

12

Sau bốn năm độc lập, Titus, con trai của Hoàng đế La Mã mới Vespasian, đến vây hãm Jerusalem. Thành phố và Đền Thờ của nó bị hủy diệt trong cuộc chiến đấu tàn khốc: các nhà khảo cổ đã phát hiện xương cánh tay của một bé gái bị kẹt trong một ngôi nhà bốc cháy và đống đá thời Herod đã bị lính La Mã đẩy khỏi Núi Đền khi họ đập nát Cổng Hoàng gia của Herod.

Phù điêu trên Vòm cổng Titus ở La Mã là đài tưởng niệm cuộc Khải Hoàn của ông, và đồng tiền này có khắc chữ  ‘Judaea Capta’ (chiếm được Judaea) chào mừng chiến thắng


Bình luận về bài viết này